fbpx
skip to Main Content
Vovinam Schools
Le Sang Library
Vovinam Home
Vovinam University International

Cô Gái Đồ Long 2

Hồi thứ 51

Ðứng Giữa Giảng Hòa

Nhưng lúc bây giờ, Không Văn, Không Trí, Không Tĩnh ba người đã bàn tán mấy ngày, nhưng họ nhận thấy phái Không Ðộng không có cao thủ nào có đủ khả năng đánh chết được Không Kiến. Hơn nữa Ðại sư đem đệ tử đi điều tra ngầm, biết lúc Không Kiến viên tịch ở Lạc Dương thì Không Ðộng Ngũ Lão đều ở miền Tây Nam. Vì thế phái Thiều Lâm mới không ngờ phái Không Ðộng nữa.

Sau, họ thấy trên vách núi chỗ Không Kiến viên tịch, Tạ Tốn có viết: “Thành Khôn giết Thần Tăng Không Kiến ở nơi đây “.

Sau phái Thiếu Lâm lại điều tra ra Tạ Tốn đã giết rất nhiều người và vụ án nào cũng đều viết lại mười chữ như trên, vu cho Thành Khôn đã hạ độc thủ, nên mấy đại sư của Thiếu Lâm mới không nghi ngờ nữa.

Bây giờ mọi người bỗng nghe thấy Vô Kỵ nói như vậy, ai nấy đều giật mình và ngạc nhiên thầm.

Duy Hiệp giận dữ hỏi:

– Không kiến Ðại sư bị ác tặc Tạ Tốn ám hại, người trên giang hồ ai cũng biết như vậy. Tại sao ngươi lại bảo phải Không Ðộng của chúng ta có dính lýu vào vụ đó? Có phải ngươi đã được mục đích Tạ tiền bối đánh chết Không Kiến Thần tăng không? Có phải lúc ấy ngươi đứng ở cạnh lược trận không?

Duy Hiệp nghĩ thầm:

– Thằng nhỏ áo rách nầy lại dám đôi co với ta, có lẽ phải Võ Ðang đã xui khiến nó khiêu khích cho phái Không Ðộng với phái Thiếu Lâm bất hòa. Ta phải cẩn thận đối phó mới được, bằng không sẽ bị mắc hởm ngay.

Vì thế tuy y vẫn khinh thường Vô Kỵ nhưng y phải nghiêm nét mắt đáp:

– Không Kiến thần tăng khuất núi ở Lạc Dương. Lúc ấy Ngũ lão Không Ðộng đang là khách ở nhà Liễu Ðại Hiệp của phái Ðiểm Thương tỉnh Vân Nam, thì chúng ta mục đích làm sao được?

Vô Kỵ lại lớn tiếng nói tiếp:

– Phải đấy, lúc ấy ngươi ở Vân Nam, thế tại sao ngươi trông thấy được Tạ tiền bối giết chết Không Kiến Ðại sư? Còn vị Thần Tăng bị thiệt mạng bởi Thất Thương Quyền của phái Không Ðộng thì đều nầy ai cũng biết hết. Tạ tiền bối không phải là người của phái Không Ðộng của cá ngươi, sao các ngươi lại vu oan giá họa cho ông ta như thế?

– Nói bậy! Nói bậy! Chỗ Không Kiến Thần Tăng viên tịch trên tường có viết mười chữ: Thành Khôn giết Thần Tăng Không Kiến ở nơi đây. Tạ Tốn vẫn mạo danh sư phụ của y, để gây nên án mạng ở đâu cũng viết những chữ như vậy ở đó, như vậy nếu không phải là y thì còn là ai nữa?

Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm:

– Nghĩa phụ không cho ta hay đã viết mười chữ đó ở trên tường, chỉ bảo: Sau khi đánh chết Không Kiến, trong lòng hối hận vô cùng. Chắc không khi nào nghĩa phụ lại viết những chữ vu oan giá họa như thế.

Nghĩ đoạn chả liền ngẩng mặt lên trời ha hả cả cười một hồi rồi đáp:

– Ai cũng có thể viết được những chữ đó, vậy có ai chính mắt trông thấy Tạ tiền bối viết những chữ ấy? Ta cứ bảo phái Không Ðộng đã viết mười chữ ấy, có được không? Ai cũng biết viết những chữ đó thì rất dễ mà luyện Thất Thương Quyền thì là rất khó…

Nói tới chàng quay lại nói với Không Trí rằng:

– Không Trí Ðại sư! Có phải lệnh sư huynh bị Thất Thương Quyền đả thương mà chết không? Thất Thương Quyền có phải là môn võ nghệ tuyệt kỹ của phái Không Ðộng, chẳng bao giờ dạy cho người ngoài phải không?

Không Trí chưa kịp trả lời, đã có một người cao lớn mình mắc áo cà sa Kim Tiền Ðại Hồng bước ra, tay cầm một cây thiên thượng vàng chóe, dộng xuống đất một cái thật mạnh lớn tiếng quát hỏi:

– Tiểu tử! Mi là môn hạ của môn phái nào? Mi là cái thá gì mà dám nói chuyện với sư phụ ta như thế?

Vô Kỵ dưa mắt nhìn sư đó thấy vai khòm, trong khi nói thở hổn hển, chàng nhận ngay ra đó là Viên Âm trong Thập Bát Hán của phái Thiếu Lâm. Năm xưa y đã lên núi Võ Ðang vấn tội, chính y đã chỉ Thúy Sơn đánh chết đệ tử của phái Thiếu Lâm. Hồi đó Vô Kỵ tức giận Viên Âm không thể tưởng tượng được nên chàng đã nhớ kỹ mặt mấy tăng nhân của phái Thiếu Lâm, lúc này chàng vừa thấy mặt kẻ thù, máu nóng trong người của chàng đã bốc lên sùng sục, mặt đỏ bừng, thân hình hơi run, trong lòng nghĩ thầm:

– Vô Kỵ! Vô Kỵ! Việc lớn nhất của mi ngày hôm nay là phải điều giải mối thù của sáu Ðại môn phái với Minh Giáo, mi chớ có nên vì tư thù riêng của mình mà làm hỏng hết đại sự! Mối thù của phái Thiếu Lâm để sau này sẽ trả cũng chưa muộn!

Tuy chàng biết nghĩ như vậy, nhưng cái chết thảm thương của cha mẹ lại xuất hiện theo hình bóng của Viên Âm hiện ra trước mặt chàng, khiến chàng không sao nhịn được, nước mắt cứ nhỏ ròng như mưa, suýt tí nữa chàng không sao tự kiềm chế được!

Viên Âm dộng cây thiền trượng xuống đất một cái thật nặng rồi quát hỏi tiếp:

– Tiểu tử! Nếu mi là yêu nghiệt của Ma Giáo thì mau mau giơ cổ chém đi! Bằng không chúng ta người đi tu lấy lòng từ bi làm đầu cũng không làm khó dễ mi đâu, như vậy mi mau xuống núi chạy đi!

Y thấy Vô Kỵ ăn mặc không giống người của Minh Giáo và thấy chàng cố hết sức nén lòng bi đát, lại hiểu lầm là chàng sợ hãi, nên y mới nói như thế!

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Bạn có phải là Viên Âm Ðại sư không? Quý phái có một vị tên là Viên Chân Ðại sư phải không? Làm ơn mời y ra đây, tại hạ có mấy câu chuyện muốn nói.

Viên Âm đáp:

– Viên Chân sư huynh không có ở đây, ngươi có việc gì cứ nói đi. chúng ta không có thì giờ nói chuyện phiếm với thiếu niên rừng rú này, chẳng hay người là môn hạ của ai thế?

Vô Kỵ đáp:

– Tại hạ không phải là người của Minh Giáo và cũng không phải là môn hạ của môn phái nào ở Trung Nguyên hết! Nhưng tại hạ với Minh Giáo và Võ Ðang, Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Luân, Hoa Sơn sáu đại môn phái đều có chút liên quan cả. Lần này sáu Ðại môn phái liên hợp lên Quang Minh Ðỉnh nầy đánh Minh Giáo là bị một kẻ gian đã khiêu khích và xúi bẩy, nên mới có sự hiểu lầm nhau lớn như thế! Tuy tại hạ còn ít tuổi thật, nhưng hạ rất rõ nguyên ủy đó, cho nên mới dám táo gan yêu cầu hai bên ngừng chiến trước, rồi điều tra ra sự thật, ai phải ai trái sẽ có công luận phán đoán.

Chàng vừa dứt lời thì người trong sáu Ðại môn phái cười nói chế diễu chàng là khùng.

Những lời nói nhạo báng của sáu Ðại môn phái từng câu một đâm sâu vào lỗ tai và trái tim của Chỉ Nhược.

Nàng liếc mắt nhìn trộm Vô Kỵ, thấy Vô Kỵ đứng giữa quãng trường nghêng ngang nhìn tứ phía không có vẻ gì sợ hãi cá, chàng ta lại lớn tiếng nói tiếp:

– Bây giờ chỉ cần Viên Chân Ðại sư của phái Thiếu Lâm ra đây đối chất với tại hạ vài lời thôi, thì gian mưu của y xếp đặt sẽ được phô bày cho người đời hay biết liền.

Mấy lời đó Vô Kỵ thốt ra từng câu từng chữ một tuy vẫn có mấy trăm năm người đang cười ồn ào mà ai nấy đều nghe rõ mồn một.

Các tay cao thủ của sáu Ðại môn phái thấy vậy đều giận mình kinh hãi và không dám khinh thường chàng như trước nữa, ai nấy đều nghĩ thầm:

– Thằng nhỏ nầy tuổi trẻ như thế mà nội công của nó lại thâm hậu như vậy hiếm có thật. Viên Âm đợi chờ mọi người dứt tiếng cười và tiếng nói xong, mới thở hổn hển nói tiếp:

– Tiểu tử hối thối kia, dù mi xảo quyệt đến đâu, cũng không lừa dối nổi chúng ta đâu. Mi đã biết rõ Viên Chân sư huynh không có mặt ở đây, mi mới anh ấy ra đối chất. Thế sao mi không gọi Trương Thúy Sơn của phái Võ Ðang ra đối chất đi.

Hòa Thượng vừa nói dứt lời, Không Trí đại sư quát lớn:

– Viên Âm con ăn nói phải cẩn thận đôi chút.

Nhưng đã có rất nhiều người của phái Hoa Sơn, Không Ðộng… đã lớn tiếng cười ồ rồi. Chỉ có người của phái Võ Ðang là tỏ vẻ hâm hực không nói năng gì cả. Thì ra, mắt bên phải của Viên Âm bị Tố Tố dùng ám khí ném mù ở trên bờ Tây hồ. Nhưng y tưởng lầm Trương Thúy Sơn đã ra tay ném mũi ám hại đó. Vì thế lúc nào y cũng nhớ tới mối thù nấy.

Vô Kỵ nghe thấy đối thủ nói nhục đến cha mình tức giận vô cùng liền quát lớn:

– Ngươi là cái thá gì mà dám nói danh húy của Ttương Ngũ hiệp loạn xạ như thế? Ngươi… ngươi…

Viên Âm cười nhạt, và đỡ lời:

– Trương Thúy Sơn tự cam tâm hạ mình làm kẻ hạ lưu mới bị yêu nữ của Ma Giáo mê hoặc, có hiếu sắc mới có quả báo…

Lúc này tuy Vô Kỵ đã tự nhủ lòng rằng:

– Mục đích của ta ra đây là giảng hòa cho hai bên để họ đừng đánh nhau nữa. ta chớn nên ra tay đả thương người.

Nhưng chàng nghe thấy Viên Âm nói tới câu cuối cùng không sao chịu nhịn được nữa, liền tung mình nhảy tới trước mặt tên ác tăng đó.

Chàng giơ tay trái túm lấy sau lưng của Viên Âm nhấc bổng lên, tay phải chàng cướp lấy cây thiên trượng của đối thủ, rồi giơ cây gậy đó lên nhằm đầu kẻ địch đánh xuống.

Viên Âm bị chàng túm lưng nhấc bổng lên như một con gà con vịt bị diều hâu bắt được vậy.

Y không còn hơi sức mà chống đỡ lại được, cứ để yên cho Vô Kỵ túm lên và đánh thôi.

Có hai nhà sư trong bọn Thiếu Lâm đã cùng nhảy ra, tay cầm thiền trượng vàng bóng nhoáng, chia làm tả hữu tấn công Vô Kỵ.

Thì ra, hai nhà sư đó ra cứu Viên Âm đã xử dụng một phương pháp rất cao siêu, gọi là Vây Ngụy, cứu Triệu bắt buộc Vô Kỵ phải buông Viên Âm ra, hai nhà sư đó là Viên Tâm và Viên nghiệp.

Vô Kỵ tay trái vẫn túm chặt lưng Viên Âm tay phải vẫn cầm thiền trượng, mọi người chỉ thấy chàng nhún chân một cái nhảy lên trên cao, hai chân nhằm hai cây thiền trượng của hai đối thủ đá luôn.

Chỉ nghe thấy kêu Bộp, bộp hai tiếng, Viên Tâm với Viên Nghiệp cùng bị té ngửa. Cũng may hai tăng nhân võ công cũng cao siêu trong khi bị đá té như thế, họ vẫn bình tĩnh dùng cây thiền trượng đập mạnh xuống đất một cái.

Hai cây thiền trượng dội trở lại nhắm người Vô Kỵ bắn tới.

Mọi người thấy vậy đều kinh hãi và thất thanh kêu la, nhưng họ thấy Vô Kỵ tay xách Viên Âm trong lớn như thế mà lúc hạ chân xuống đất lại nhẹ như bông vậy.

Ðã có sáu bảy người trong sáu đại môn phái đó la lớn:

– Ðây là khinh công Thế Vân Tung của phái Võ Ðang.

Thì ra Vô Kỵ hồi nhỏ theo cha, Thái sư phụ và các sư thúc, sư bá học võ, tuy chàng chưa chính thức lần lượt học hết võ công của phái Võ Ðang, nhưng chàng đã mắt thấy tai nghe rất nhiều, bây giờ lại luyện thành công môn thần công Càn Khôn Ðại Nã Di nên bất luận võ công môn phái nào chàng muốn xử dụng tức thì xử dụng được ngay.

Chàng được trông thấy võ công của phái Võ Ðang nhiều hơn hết.

Cho nên lúc này chàng không nghĩ ngợi gì hết chàng xử dụng ngay khinh công của phái Võ Ðang, Thế Vân Tung khinh công rất nổi tiếng của phái Võ Ðang, nên chàng vừa giơ khinh công đó ra đã có mấy người muốn nhảy lên như chàng và còn ở trên không lượn mấy vòng không khó chút nào.

Nhưng bảo họ một tay xách một tên Hòa Thượng trong béo thế kia, một tay cầm thiền ttrượng nặng như vậy, muốn bắt chước chàng nhảy lẹ như thế, thì cả mấy anh em Liên Châu cũng đều phải lắc đầu chịu phục.

Các tăng nhân của phái Thiếu Lâm thấy Viên Âm đã lọt vào tay Vô Kỵ mà đối thủ chỉ giơ thiền ttrượng lên khẽ gõ xuống một cái đầu óc của Viên Âm thì vỡ đầu óc ra ngay.

Chúng muốn nhảy xổ lên cứu Viên Âm nhưng vì chỗ chúng đứng cách Vô Kỵ chừng bảy tám trượng xa. Chờ tới khi chúng đến gần được chàng thì Viên Âm đã bị chàng giết rồi. Cho nên chúng chỉ còn một cách là dùng ám khí bắn vào người Vô Kỵ thôi. Nhưng chúng lại sợ Vô Kỵ dùng thân hình của Viên Âm ra chống đỡ như vậy có phải là chúng giết Viên Âm không?

Bên chúng tuy có Không Trí, Không Tính mấy tay cao thủ tuyệt mức đứng cạnh đó nhưng việc xảy ra đột ngột, không ai ngờ nhà sư trẻ đó có võ công cao siêu, mà bị Vô Kỵ tấn công đến nỗi cuống cả chân tay, rồi rốt cuộc vẫn chậm một bước.

Chỉ thấy Hòa Thượng đó nghiến răng mím môi, vẻ mặt hậm hực, mà Vô Kỵ thì giơ cây thiền ttrượng lên.

Các tăng nhân của phái Thiếu Lâm, có người không dám nhìn, nhắm nghiền đôi mắt lại. Có người định xông lên phục thù cho Viên Âm, ngờ đâu Vô Kỵ chỉ giơ cây thiền ttrượng lên chứ không đánh xuống. Hìmh như chàng có việc gì nghi nan, chưa quyết định hẳn, rồi thấy nét mặt của chàng hiền từ đầu, và tay chàng cũng từ từ đặt Viên Âm xuống.

Thì ra, chỉ thoáng cái, Vô Kỵ đã nén được lửa giận, chàng lại nghĩ thầm:

– Nếu ta đánh chết bất cứ một người nào trong sáu đại môn phái, ta sẽ trở nên kẻ địch của sáu đại môn phái ngay. Và ta sẽ không thể nào làm được gn trung gian để hòa giải đôi bên nữa.

Chàng nghĩ như vậy nên buông Viên Âm xuống và nói:

– Mắt của bạn không phải do Trương Ngũ Hiệp đánh mù đâu. Trương Ngũ Hiệp đã tự tử chết rồi, oán thù gì cũng nên hòa giải hết mới phải. Ðại sư là người tu hành tứ đại giả không, không còn luyến tiếc ham muốn gì cả, hà tất đại sư còn nhớ chuyện cũ lâu năm làm chi?

Viên Âm thoát chết, đứng ngẫn người ra nhìn Vô Kỵ, không biết nói năng gì cả.

Y lại thấy Vô Kỵ trả cây thiền ttrượng, liền giơ cây ra cầm lấy, cúi đầu rút lui, trong lòng bứt rứt vô cùng.

Tôn Duy Hiệp của phái Không Ðộng thấy Vô Kỵ giở thế võ cao siêu đó ra, trong lòng cũng kinh hãi thầm. Nhưng y thấy mình đứng giữa trận đấu rồi, không lẽ rút lui một cách hèn kém. Y liền lớn tiếng hỏi:

– Họ Tăng kia, ngươi ra đây đương đầu như vậy là do ai xúi bảo thế.

Vô Kỵ đáp:

– Không ai sai xúi cả, tại hạ chỉ theo sự công bằng mà nói thôi. Tại hạ chỉ mong sáu đại môn phái bắt tay xử hòa với Minh Giáo.

Hừ, muốn gì chứ, muốn chúng ta bắt tay xử hòa với Ma Giáo khó lắm. Lão tặc họ Hân còn thiếu ta ba quyền Thất Thương Quyền, hãy để ta đánh ba quyền đã, rồi hãy nói đến chuyện khác.

Nói xong, Duy Hiệp liền vén tay áo lên ngay. Vô Kỵ liền nói tiếp:

– Tôn tiền bối cứ mở miệng ra là nói Thất Thương Quyền đóng miệng lại là Thất Thương Quyề. Theo sự nhận xét của tiểu bối thì Tôn tiền bối luyện môn Thất Thương Quyền đó chưa đến nơi đên chốn. Tiền bối nên rõ, ngũ hành trong thân người thuộc hỏa, phế thuộc kim, thận thuộc thủy, tỳ thuộc thổ, can thuộc mộc, lại thêm âm dương nhị khí. Nếu người nào luyện Thất Thương Quyền thì bảy thứ đó đều bị thương cả. Luyện môn Thất Thương Quyền nầy quyền công càng cao cao siêu bao nhiêu, nội tạng càng bị thương nặn bấy nhiêu.

Sự thật, người nào luyện Thất Thương Quyền, trước hết phải luyện cho nội tạng của mình bị thương trước rồi mới đả thương nội tạng của người khác được. Cũng may môn Thất Thương Quyền của Tôn tiền bối chưa luyện tới mức cao siêu cho lắm còn có thể cứu được.

Duy Hiệp nghe thấy Vô Kỵ nói đến lý thuyết luyện Thất Thương Quyền đều đúng như ở trong sách mà mình đã được đọc vậy.

Quả thật, người nào không luyện tới mức, khí huyết có thể chạyđược vào các yếu huyệt, rồi muốn môn Thất Thương Quyền.

Nhưng Duy Hiệp không tự lượng sức lực của mình mới thấy nội công có chút thành tựu, liền luyện ngay môn Thất Thương Quyền này.

Y mới bắt đầu luyện, đã nhận thấy môn quyền pháp nầy oai lực vô cùng.

Y say mê ma luyện tập hoài, nhưng y chỉ mới thấy cái lợi của nó mà không cảm thấy cái hại, đã quên hết những lời dặn bảo trong sách.

Lúc nầy y thấy Vô Kỵ nhăc nhở tới như vậy, y rùng mình kinh hãi hỏi lại:

– Sao ngươi lại biết rõ như vậy?

Vô Kỵ không trả lời câu hỏi đó mà nói rằng:

– Tôn tiền bối không tin, thử lấy tay bóp vào Vân Môn huyệt ở trên đầu vai, xem có đau không? Vân Môn huyệt thuộc phế đó là mạch phế của tiền bối bị thương rồi. Tiền bối lại thử rờ vào Thanh Linh huyệt thuộc tâm, đó là tâm mạch đã bị thương, còn Ngũ Lý huyệt ở dưới đùi, mỗi khi trời âm u và mưa, có phải tiền bối thấy nơi đó tê tái và hơi ngứa không? Ngũ Lý huyệt thuộc can cận mạch đó, mạch đó bị thương rồi. Tiền bối càng luyện thêm bao nhiêu, càng thấy những nội thương đó hiện lên mạnh bấy nhiêu. Nếu luyện đến năm thứ sáu thứ bảy, thì mình mẩy bị tê liệt hết.

Duy Hiệp lắng tai nghe Vô Kỵ nói, mồ hôi trên trán toát ra như mưa.

Thì ra Vô Kỵ đã được Tạ Tốn truyền thụ cho quyền lý của Thất Thương Quyền này, vả lại, chàng lại giỏi về y thuật, chàng biết rõ những kinh mạch sau khi bị thương sẽ có triệu chứng như thế nào, nên chàng mới biết nói rành mạch như vậy.

Mấy năm trước đây, Duy Hiệp đã cảm thấy có những triệu chứng đó rồi, nhưng thấy bệnh không nặng lắm và hơn nữa y sợ thầm, nhưng lại không chịu chữa thay.

Bây giờ y nghe thấy Vô Kỵ chỉ rõ từng điểm như vậy, nên y kinh hãi đến biến sắc mặt, nghĩ ngợi giây lát rồi mới hỏi tiếp:

– Ngươi… ngươi… sao ngươi biết rõ thế?

Vô Kỵ cười nhạt một tiếng rồi đáp.

– Hậu bối hơi hiểu về y lý, nên mới biết rõ như vậy, nếu tiền bối tin lời nói của tiểu bối, thì chờ công việc nơi đây xong xuôi, tiểu bối sẽ nghĩ cách chữa những bệnh đó cho tiền bối. Nhưng luyện môn Thất Thương Quyền này thì chỉ có hại chứ không có lợi gì cả, mong tiền bối đừng nên luyện nữa.

Thất Thương Quyền là môn tuyệt kỹ của phái Không Ðộng chúng ta, sao ngươi lại bảo là có hại và vô ích như vậy? Năm xưa chưởng môn Sư tổ của chúng ta là mộc Linh Tử, đã lừng danh khắp thiên hạ bởi môn Thất Thương Quyền này, mà còn thọ đến chín mươi một tuổi. Vậy lời của ngươi vừa nói tổn thương tới bổn thân như thế, đủ thấy ngươi nói bậy nói bạ, không đúng chút nào.

Chắc nội công của Mộc Linh Tử tiền bối cao thâm lắm, nên luyện thành công Thất Thương Quyền không bị hại là thế, trái lại còn trường thọ là đằng khác. Nếu tiền bối thích thì cứ tiếp tục luyện đi. Theo ý kiến tiểu bối, nếu nội công của tiền bối chưa luyện tới mức thượng thặng thì dù có luyện môn Thất Thương Quyền cũng thế mà thôi.

Duy Hiệp là một tay cao thủ danh túc của phái Không Ðộng tuy biết lời nói của Vô Kỵ là có lý, nhưng thấy chàng ở trước mặt các cao thủ của các môn phái, mà chỉ trích võ công tuyệt kỹ của môn phái mình như vậy, y không tức giận sao được, nên y quát lớn và nói tiếp:

– Ngươi là cái thá gì mà bảo tuyệt kỹ của chúng ta hữu dụng với vô dụng. Người nói nhiều vô ích, hãy thử môn Thất Thương Quyền của ta trước đã.

Tất nhiên Thất Thương Quyền là một môn võ công thần diệu và kỹ ảo vô cùng, tiểu bối có dám nói Thất Thương Quyền vô dụng đâu. Tiểu bối chỉ nói, nếu nội công chưa tới mức thật xao siêu thì không nên luyện, mình có luyện cũng vô ích thôi.

Nhưng đệ tử trẻ tuổi của môn phái Không Ðộng, thấy Vô Kỵ vô lễ như vậy, không sao chịu nổi, định lên tiếng quát mắng. Nhưng chúng thấy mặt Duy Hiệp nghiêm nghị và còn lắng tai nghe đối thủ nói, nên chúng không dám khinh thường và cũng không dám mắng chửi nữa, sau chúng thấy Duy Hiệp nói tiếp:

– Theo lời nói của ngươi thì nội công của ta chưa luyện tới mức phải không?

Nội công của tiền bối đã luyện tới mức nào, điều này tiểu bối làm sao mà biết rõ được. Nhưng tiền bối lúc luyện môn Thất Thương Quyền này, đã thấy trong người bị thương, thì còn luyện tiếp chi nữa…

Chàng ta vừa nói tới đây, bỗng nghe thấy phía sau một người quát lớn:

– Nhị ca, nói lôi thôi với Tiểu tử này mãi làm chi? Y đã coi thường Thất Thương Quyền của chúng ta thì để y tiếp thử một thế võ của đệ xem sao?

Người đó vừa rồi dứt,đã múa quyền đánh tới, quyền phong của y kêu vù vù và trái đấm đã đánh tới sau lưng Vô Kỵ rồi.

Quyền của người đó đánh nhanh vô cùng, và nhắm Linh Ðài huyệt sau lưng Vô Kỵ mà đánh tới. Linh Ðại huyệt đó là một tử huyệt, chỉ bị người thường đánh trúng một quyền không chết cũng bị thương nặng liền.

Vô Kỵ định tâm dùng Cửu Dương thần công để làm cho người của các môn phái khiếp phục. Chàng biết rõ phía sau có người đánh lén nhưng không quay người lại, mà vẫn nói với Duy Hiệp rằng:

– Tôn tiền bối…

Chàng mới nói tới đó, đã nghe tiếng xích sắt kêu lẻng xẻng và có một người nhảy ra, với giọng thanh thoát quát lớn:

– Ngươi dám đánh trộm phải không?

Người đó giơ xích sắt lên, chụp vào đầu người đánh lén Vô Kỵ chính là Tiểu Siêu.

Người đánh lén kia, giơ tay trái lên gạt xích sắt của nàng sang bên và quyền bên phải của y đánh vào lưng Vô Kỵ kêu bùng một tiếng. Tuy quyền đó đã đánh trúng Linh Ðài huyệt rồi, mà mọi người thấy Vô Kỵ hình như không hay gì hết. Thân hình của chàng không rung động và cũng không thấy chàng dùng sức đẩy người đánh lén ra, nhưng người nọ đã bắn ra ngoài xa liền.

Chàng còn nhìn Tiểu Siêu mỉm cười và nói:

– Tiểu Siêu khỏi lo ngại cho tôi, môn Thất Thương Quyền nầy của họ không lợi hại gì đâu.

Tiểu Siêu thở nhẹ một cái, bỗng hai má đỏ bừng cúi đầu khẽ nói:

– Cháu đã quên công tử đã luyện…

Nói đến đây nàng bỗng im ngay.

Vô Kỵ quay đầu lại nhìn, mới hay người đánh mình là một ông già, người gầy gò, đầu trong hơn người. Thì ra, y là Thường Kính Chí người thứ tư trong nhóm Ngũ Lão của phái Không Ðộng. Y thấy đánh trúng Vô Kỵ một quyền eồi, mà đối thủ hình như không hay biết gì cả, y kinh ngạc và lẩm bầm tự nói. Nhưng y lại buột miệng nói lớn tiếng:

– Ngươi… ngươi đã luyện thành công môn Kim Cương Bất Hoại Thể chăng? (Môn nội công của phái Thiếu Lâm đao kiếm chém không vào) Vậy ngươi là người của phái Thiếu Lâm chăng?

Vô Kỵ đáp:

– Tại hạ có học chút ít võ công trong Thiếu Lâm thật, nhưng không phải là đệ tử của phái đó…

Kính Chi biết phàm người nào luyện những thần công hộ thân ấy, nín hơi lấy sức hễ mở mồn nói chuyện là chân khí tản mắc ngay.

Y không đợi Vô Kỵ nói xong, đã múa quyền đấm luôn vào ngực Vô Kỵ một cái nữa.

Chỉ thấy Vô Kỵ vừa cười vừa nói tiếp:

– Kim Cương Bất Hoại Thể của phái Thiếu Lâm rất đặc biệt khi người nào đã luyện thành công môn thần công đó rồi, dù y nói chuyện các thứ tà ma bên ngoài cũng không thể nào xâm nhập vào trong người được. Nếu bạn không tin đấm thêm một quyền nữa xem sao.

Kính Chi lại múa quyền đấm luôn hai cái một llúc. Thế là trước sau y đã đánh bốn quyền và rõ ràng đã đánh trúng ngực Vô Kỵ, mà chỉ thấy Vô Kỵ tít mắt lên cười chịu đựng mấy trái đấm đó một cáh thản nhiên. Hình như chàng ta không thấy đau ngứa gì cả.

Kính chi có một biệt hiệu là Nhất Quyền Ðoạn Ngục, (đánh quyền có thể gãy núi). Tuy người ta đặt cho y biệt hiệu đó, không đúng sự thật, nhưng quyền của y mạnh hơn người thì người ngoài mới đặt cho y cái biệt hệu ấy.

Mọi người thấy Kính Chi đánh Vô Kỵ luôn bốn quyền một lúc mà không ăn thua gì cả nên ai nấy đều kinh hãi vô cùng.

Xưa nay phái Côn Luân với Phái Không Ðộng vẫn bất hòa với nhau, lần này tuy họ liên hiệp vây đánh Minh Giáo, nhưng hai bên vẫn không hòa hảo. Nay phái Côn Luân thấy người của phái Không Ðộng đánh bốn quyền liền mà không làm gì nổi đối thủ, nên đã có một người trong phái đó với giọng lạnh lùng lên tiếng nói liền:

– Nhất Quyền Ðoạn Ngục lợi hại quá.

Lại có một người thứ hai trong phái đó đỡ lời nói ngay:

– Vậy bốn quyền thì đánh gãy cái gì nhỉ?

Cũng may mặt của Kính Chi đen sẳn, nên y có xấu hổ, đỏ mặt bùng mà cũng không ai thấy rõ cả.

Còn các người của phái Thiếu Lâm thấy vậy cũng hoài nghi và nghĩ thầm:

– Người này vừa nói y đã tới chùa chúng ta học võ công rồi? Chẳng hay y là ai thế?

Thần công Kim Cương Bất Hoại Thể của chúng ta không truyền thụ cho người ngoài bao giờ cả.

Huống hồ từ trước đến nay đã có người nào của bổn giáo phái học được môn thần công này đâu. Ngót một năm trăm nay, chỉ có một mình Không Kiến đại sư đã học được môn thần công này thôi. Còn thiếu niên ít tuổi như vậy không khi nào y lại luyện thành công môn thần công này, phải luyện bốn chục năm mới thành được?

Duy Hiệp chắp tay chào Vô Kỵ mà nói tiếp:

– Thần công của Tăng huynh cao siêu thật, lão thán phục lắm. Chẳng hay huynh có thể để cho lão lãnh giáo ba thế công võ không?

Y tự biết Thất Thương Quyền của y cao siêu hôn Kính Chi nhiều, tuy người sư đệ thứ tư của mình hạ không nổi đối thủ. Nhưng đắc đâu mình cũng hạ không nổi đối thủ như Kính Chi vậy.

Sau này tiền bối đã luyện thành công tuyệt kỹ Thất Thương Quyền của quý phái rồi. Lúc ấy, tiền bối vừa thấy mặt lão tiền bối đã tránh xa ngay. Nhưng bây giờ, thì tiểu bối cũng có thể miễn cưỡng tiếp được ba quyền của tiền bối.

Lời nói của Vô Kỵ có nghĩa là Thất Thương Quyền rất lợi hại nhưng võ công của ngươi bây giờ hãy còn kém xa.

Duy Hiệp thấy Vô Kỵ khinh miệt như vậy tức giận vô cùng, liền hít một hơi thật mạnh bước lên một bước.

Xương trong cánh tay của y kêu răng rắc rồi y đấm luôn một quyền vào ngực của Vô Kỵ tức thì. Duy Hiệp cảm thấy người của đối thủ hình như có mộr sức dính hút mạnh. Y không sao thâu tay lại được, kinh hãi vô cùng. Ðồng thời y lại thấy bên người của đối thủ có một hơi nóng êm dịu truyền qua tay mình chạy thẳng vào trong tâm mạch.

Nhưng y bỗng thấy tinh thần phấn chấn vô cùng, trong người dễ chịu khôn tả, y vội thâu tay trở lại.

Ðứng ngẫn người ra nhìn giây lát, rồi y lại đánh tiếp một quyền nữa, quyền này của y nhằm bụng Vô Kỵ đánh tới.

Lần này, y htấy hơi nóng trong người Vô Kỵ truyền sang mạnh hơn trước nhiều.

Nên kéo y chân tay lại, lần này y phải lui về phía sau một bước rồi mới đứng vững được.

Kính Chi đứng cạnh Vô Kỵ, thấy mặt của Duy Hiệp lúc đỏ lúc trắng, hình như đã bị nội thương rồi, nên y chờ sư huynh lúc đó ra tay đánhquyền thứ ba, y cũng đấm luôn Vô Kỵ một quyền nữa. thế là y cùng với Duy Hiệp, hai người kẻ đánh tước người đánh sau, cùng tấn công đối thủ một lúc.

Mọi người đều thấy quyền của Duy Hiệp và Kinh Chi đánh rất mạnh và còn lợi hại phi thường là khác.

Ngờ đâu, hai người thấy quyền của mình, đánh trúng người đối thủ tựa như đánhtrúng vào chỗ không có gì vậy, quyền lực của chúng ta bị Vô Kỵ hóa giải một cách vô hình, vô tích ngay.

Kính chi cũng tự biết địa vị và thân phận của mình cao cả như thế nào.

Y đánh trộm lần đầu đã không phải rồi, nhưng vẫn còn miễn cưỡng nói được là vì tức giận đối phương.

Còn lần đánh trộm thứ hai này, không còn có lý do gì mà chối cãi được nữa. hành vi nầy quả thật là đê tiện hạ lưu.

Sự thật y muốn hợp sức hai người giở oai lực Thất Thương Quyền ratấn công cùng một lúc, đối thủ thế nào cũng phải chết tốt. Quý hồ đánh chết được kẻ địch, dù hành vi của mình có bất chính đi chăng nữa nhưng cũng có thể nói được là đã diệt trừ một chướng ngại vật cho sáu đại môn pháivà đã lập được công lớn với tất cả mọi người. Ngờ đâu, quyền của chúng ta đánh trúng người của đối thủ, nhưng chúng cảm thấy kinh lực bỗng tiêu tan một cách vô hình, khiến chúng thắc mắc vô cùng.

Vô Kỵ hỏi Duy Hiệp tiếp:

– Tiền bối cảm thấy thế nào?

Duy Hiệp trầm ngâm giây lát rồi mới ung dung trả lời:

– Cám ơn Tăng huynh đã dùng nội công chữa vết thương cho tại hạ, thần công của huynh caosiêu hơn người, điều đó khỏi nói, những hành vi đại nhân đại nghĩa, lấy đức báo oán của huynh mới càng khiến tãi hạ cảm động thêm.

Mọi người thấy Duy Hiệp nói như vậy đều kinh ngạc vô cùng.

Thì ra lúc Duy Hiệp đánh Vô Kỵ ba quyền liền, chàng ta đã vận Cửu Dương chân khí dồn vào người đối thủ.

Tuy thời gian rất ngắn ngủi, nhưng Cửu Dương chân khí của chàng mạnh không thể tưởng tượng Ðược, nên Duy Hiệp đã được lợi ích rất nhiều.

Tới lúc này y mới biết nếu không bị Kính Chi đánh lén Vô Kỵ, thì lúc y đánh tới quyền thứ ba còn được hưởng nhiều lợi ích hơn.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tại hạ đâu dám nhận đại nhân đại nghĩa bốn chữ ấy. Lúc này Kỳ Kinh bát mạch của Tôn tiền bối bị chấn động rất mạnh. Tốt hơn hết, tiền bối phải vận khí chạy quanh khắp người thì những dư độc Thất Thương Quyền nói có thể dồn dần ra ngoài thân thể. Như vậy cũng phải hai, ba năm nữa hoàn toàn khỏi.

Duy Hiệp tự biết bệnh trong mình của y ra sao, nên y nghe thấy Vô Kỵ dặn bảo như vậy, trong lòng càng cảm động thêm, liền chắp tay chào và nói tiếp:

– Cám ơn Tăng huynh, cám ơn Tăng huynh.

Vô Kỵ cúi mình xuống nắn bóp những xương gãy cho Văn Lượng, mồm thì nói với Kính Chi rằng:

– Tiền bối làm ơn đưa cho tôi một chút Hồi dương ngũ long cao.

Kính Chi vội móc túi lấy thuốc cao đưa cho chàng, chàng lại dặn bảo tiếp:

– Tiền bối làm ơn đi xin phái Võ Ðang một liều Tam hoàng Bảo lập hoàn và xin phái Hoa Sơn một chút Ngọc Chấn Tán đem lại đây cho tại hạ.

Kính Chi liền nghe lời Vô Kỵ đi xin hai thứ đó xem lại cho chàng ngay.

Chàng lại nói tiếp:

– Trong Hồi dương ngũ long cao quý phải dùng vị thuốc Ô thảo rất hay. Trong Tam hoàng Bảo Lập hoàn của phái Võ Ðang có ba môn thuốc Thiên Trúc hoàng, Hồng hoàng và Ðằng hoàng cũng hay lắm. Lại thêm Ngọc Chân Tán nấy thì vết thương của Ðường tiền bối thì cần điều dưỡng trong hai tháng, tứ chi sẽ lành lặn ngay.

Nói xong, chàng tiếp tục rịt thuốc, bó cốt cho Văn Lượng, chỉ trong thoáng cái đã xong liền.

Những người đứng xem quanh đó, thấy cách băng bó và nối xương của Vô Kỵ rất khéo léo. Bất cứ một danh y nào cũng không thể thạo bằng chàng được. Tài ba như vậy đã là hiếm có rồi, mà môn phái nào có ngạc nhiên.

Phái Hoa Sơn không dám ra tay đấu với chàng nữa.

Kính Chi ẳm Văn Lượng lên, ngượng nghịu rút lui phái vị trí của phái mình mà đứng im.

Văn Lượng đột nhiên lớn tiếng nói:

– Họ Tăng kia, ngươi bó các xương gãy lại ta, Văn Lượng nầy cám ơn vô cùng, về sau thế nào cũng tìm cách để báo ơn. Nhưng phái Không Ðộng với Ma Giáo có mối thù sâu hơn biển cả. Không vì một chút ân huệ nhỏ nhen mà chúng ta chịu buông tay không đánh Ma Giáo nữa dẫu ngươi khuyên giải như vậy, vẫn biết ngươi có lòng tốt, nhưng chúng ta quyết không chịu nghe. Nếu bảo là ta vong ơn phụ nghĩa, thì ngươi cứ việc lại đây đánh gãy tay chân ta trở lại đi.

Vô Kỵ hỏi lại:

– Theo ý tiền bối thì phải làm thế nào, tiền bối mới nghe lời khuyên bảo tại hạ?

Văn Lượng nói tiếp:

– Người hãy biểu diễn một môn võ công, nếu phái Không Ðộng chúng ta không bằng được, lúc ấy ta sẽ không nói.

Trong phái Không Ðộng, số cao thủ đông như thế nào bảo hệu sinh phải làm sao hơn mọi người, thì hậu sinh khó làm rồi, đành phải thí cái thân thể này để thử thách một phen vậy.

Nói xong, chàng đưa mắt nhìn bốn chung quanh, thấy phía Ðông quảng trường có một cây thông cao hơn ba trượng, cành lá um tùm trông tựa như một cái lọng.

Chàng bèn từ từ đi tới cây thông đó và lớn tiếng nói:

– Hậu sinh có học môn Thất Thương Quyền của quý phái rồi, nhưng còn non nớt lắm, vậy xin các vị của phái Không Ðộng đừng có chê cười hậu sinh nhé.

Người của các phái khác nghe chàng nói như vậy càng ngạc nhiên thêm và nghĩ thầm:

– Thế ra thằng nhỏ này cũng biết cả Thất Thương Quyền của phái Không Ðộng đấy à? Nó học của ai thế.

Mọi người đang nghĩ tới đó đã nghe thấy Vô Kỵ lớn tiếng đọc:

– Chân khí ngũ hành điều độ âm dương, làm tổn thương, tim, phổi, còn làm nát gan và lòng. Tính khí trong ly tản nát mất, người sẽ thấy bàng hoàng ngay. Tâm tiêu cùng đảo lộn, hồn phách bay phất phới.

Các môn phái thấy chàng đọc như vậy, không biết chàng đọc để làm gì, nhưng Ngũ lão của phái Không Ðộng nghe chàng đọc bài quyền quyết đó đều giật mình kinh hãi.

Quý vị nên rõ, quyền quyết Thất Thương Quyền của phái Không Ðộng. Xưa nay vẫn giữ bí mật, không bao giờ truyền thụ ra ngoài. Nay bỗng thấy thiếu niên này thuộc lòng như vậy, tất nhiên chúng phải kinh hãi. Nhưng có biết đâu quyền quyết đó, tiến lên một bước đấm mạnh một quyền vào thân cây thông.

Nửa khúc trên của cây thông đó bắn ra ngoài xa kêu đến ùm một tiếng.

Cây thông lúc bấy giờ chỉ còn lại khúc dưới độ chừng bốn thước thôi. Chỗ thân cây bị đánh gãy phẳng như dao cắt.

Kính Chi lẩm bẩm nói:

– Quyền đó… không phải là Thất Thương Quyền.

Y nói xong, liền đến cành cây thông để xem, bỗng há hốc mồm lên, không sao ngậm lạ được. Vì y thấy khúc cây còn lại đó, những thân và thở ở giữa, đều bị chấn động nát hết. Như vậy Thất Thương Quyền của Vô Kỵ đã luyện tới mức cao siêu rồi.

Thì ra Vô Kỵ định tâm dương oai để cho tất cả mọi người đều kinh sợ.

Nếu chàng hoàn toàn dùng Thất Thương Quyền đánh cây thông này, thì ít nhất cũng năm bữa nửa tháng sau, cây thông mới không héo, lúc ấy mới biết công lực của mình cao siêu như thế nào. Cho nên trong khi chàng dùng Thất Thương Quyền đánh cây thông đó, còn dùng thêm sức Chí Dương công để đánh gãy thân cây nữa.

Mọi người vỗ tay khen ngợi không ngớt.

Văn Lượng liền lên tiếng:

– Giỏi lắm, thế quyền đó thật là Thất Thương Quyền pháp đã luyện tới mức tuyệt cao. Văn Lượng đây bái phục lắm, nhưng mỗ còn thỉnh giáo Tăng tiểu hiệp một điều nữa, chẳng hay vị nào đã dạy cho tiểu hiệp môn quyền pháp này thế?

Vô Kỵ chỉ mỉm cười chứ không trả lời, Văn Lượng liền quát hỏi tiếp:

– Hiện giờ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ở đâu, mong Tăng điêu hiệp cho lão hay?

Vô Kỵ nghe y hỏi như vậy, giật mình kinh hãi và nghĩ thầm:

– Nguy tai, ta biểu diễn Thất Thương Quyền công này, ngờ đâu lại bị y hỏi tới nghĩa phụ của ta. Nếu ta nói rõ ta là con nuôi của nghĩa phụ, như vậy có khác gì ta là kẻ thù chung của sáu đại môn phái không? Thì công việc giảng hòa của ta sẽ bị hỏng hết.

Nghĩ đoạn, chàng liền lớn tiếng đáp:

– Thế ra Thất Thương Quyền phổ của quý phái bị Kim Mao sư vương cướp đi đấy à? Hà ha… quý vị lầm trong rồi, người cướp quyền phổ đó chính là Hỗn Nguyên Phích Lích Thủ Thành Khôn chủ không phải Tạ Tốn đâu. Quý vị thử nghĩ lại xem, trong lúc quý vị kịch chiến cướp lại cuốn quyền quyết trong Thanh Dương Quang ở trên núi Không Ðộng. Trong các vị, có hai người bị Hỗn Nguyên Công đả thương chẳng hay có đúng thế không?

Thì ra Tạ Tốn khi cướp cuốn quyền quyết của phái Không Ðộng, Thành Khôn định tâm làm rối loạn võ lâm, nên y mới ngấm ngầm trợ giúp Tạ Tốn, dùng Hỗn Nguyên Công đả thương Văn Lượng với Kính Chi. Lúc ấy Tạ Tốn cũng không hay biết gì hết, sau Không Kiến thần tăng cho hay Kim Mao sư vương mới biết rõ chuyện. Bây giờ Vô Kỵ nghĩ tới Thành Khôn suốt đời gian trá, chỉ hay vu oan giá họa cho người, nên chàng dùng thủ đoạn đó để trả miếng Thành Khôn. Huống hồ lời nói của chàng không có câu nào là giả dối cả.

Việc của Văn Lượng với Kính Chi thắc mắc hơn hai mươi năm nay, nhưng họ vẫn giấu kín trong lòng. Bây giờ hai người nghe thấy Vô Kỵ nhắc nhở đến chuyện ấy, đều đưa mắt nhìn nhau, không biết nói sao cho phải.

Như vậy xin hỏi Tăng tiểu hiệp, hiện giờ Thành Khôn ở đâu?

Vô Kỵ đáp:

– Hỗn Nguyên Phích Lích Thủ Thành Khôn nhất tâm nhất trí khiêu khích cho sáu đại môn phái bất hòa với Minh Giáo, rồi y vào làm môn hạ cho phái Thiếu Lâm lấy pháp danh là Viên Chân. Chính tại hạ đây đã học võ của y ở trên núi Thiếu Lâm rồi, việc này trăm phần trăm là sự thật. Nếu tại hạ có nói sai nửa lời, tại hạ không bằng giống chó, giống heo và có chết xuống âm ty vạn kiếp không được tiêu sinh.

Mấy lời nói của chàng, khiến ai nghe thấy cũng cảm động vô cùng.

Chỉ có bọn phái Thiếu Lâm là xôn xao bàn tán thôi.

Quý vị nên rõ Viên Chân là đệ tử duy nhất của Không Kiến, Phật học rất tinh thông. Chỉ có lần này y mới theo mọi người đi viễn chinh Minh Giáo Thôi, chứ từ xưa tới nay, không hề ra khỏi cửa chùa một bước. Như vậy sao bảo y là Hỗn Nguyên Phích Lích Thủ Thành Khôn được.

Bỗng có một người, mồm niệm A Di Ðà Phật từ từ bước ra.

Mọi người thấy tăng nhân nầy mặc áo bào xám, mặt mũi trông rất oai nghiêm.

Tay trái cầm một chuỗi hột. Ai nấy định thần nhìn kỹ mới hay tăng nhân đó là Không Tín đại sư bước vào giữa vào quảng trường dõng dạc tiếng hỏi:

– Tăng thí chủ, sao thí chủ lại nói bậy bạ cứ liên tiếp mỉa mai môn hạ của phái Thiếu Lâm bần tăng như vậy? Chẳng hay thí chủ lên trên chùa Thiếu Lâm chúng tôi học hỏi hồi nào? Trước mặt các anh hùng thiên hạ, bần tăng không khi nào để cho thí chủ làm ô nhục đến thanh danh của phái Thiếu Lâm.

Vô Kỵ vỗ tay vái chào Không Trí, rồi nói:

– Ðại sư chớ nên nổi giận như vậy, xin đại sư cho mời Viên Chân tăng nhân ra đây để đối chất với tiểu bối, thì đại sư sẽ rõ hết thật sự.

Không Tín đại sư sầm nét mặt lại, hỏi tiếp:

– Cứ thấy Tăng thí chủ nhắc nhở đến sư điệt Viên Chân hoài, tuổi thí chủ chú trẻ như vậy mà thí chủ lại có tâm địa hiểm ác đến thế.

– Tại hạ chỉ muốn mời cho được Viên Chân ra đây, tại hạ sẽ cũng Hòa Thượng ấy tranh luận thị phi trắng đen ở trước mặt thiên hạ anh hùng. Chớ tiểu bối có định tâm hiễm ác gì đâu?

Viên Chân sư điệt đã đại diện bổn phái, khổ chiến bọn yêu ma, vì thế mà kiệt lực và đã viên tịch rồi. Khi nào bần tăng chịu để cho thí chủ làm ô nhục thanh danh của người đã khuất…

Vô Kỵ nghe thấy Không Tín nói đến Viên Chân vì kiệt lực mà viên tịch, tai chàng như bị sét đánh, sắc mặt nhợt nhạt, đứng đờ người ra.

Sau đó Không Tín còn nói tiếp, nhưng chàng không nghe thấy gì cả chỉ lẩm bẩm tự nói:

– Thật… y chết thật à? Không… không có lẽ.

Không Tín chỉ vào đống xác của các Hòa Thượng ở phía Tây lớn tiếng nói:

– Thí chủ không tin, thì ra đống xác kia mà xem.

Vô Kỵ đi tới trước đống xác, đưa mắt tìm tòi. Quả nhiên thấy trong đống xác có một cái xác lồi lỏm, hai mắt nhìn ngược. Xác đó chính là Hỗn Nguyên Phích Lích Thủ Thành Khôn và sau khi vào lâm môn hạ của phái Thiếu Lâm hóa danh là Viên Chân.

Chàng cúi người rờ tay vào mũi cái xác của Thành Khôn, thấy không có hơi thở nữa. chàng còn rờ thử vào người y, cũng không thấy giá lạnh nốt. Ðủ thấy ác tăng chết đã lâu rồi, chàng vừa đau lòng vừa mừng rỡ. chàng không ngờ kẻ thù lớn đã giết hại cả một cuộc đời nghĩa phụ mình, rốt cuộc phải đền tội ở nơi đây. Tuy kẻ thù không chết dưới tay mình, nhưng thù lớn của nghĩa phụ đã coi như trả được rồi. Máu trong ngực sôi sùng sực chàng ngửng mặt lên trời ha hả cười lớn:

– Gian tặc ơi là gian tặc, mi tác ác suốt đời, mi không ngờ lại có ngày hôm nay phải không?

Tiếng cười và tiếng nói làm rung động cả sơn cốc khiến ai nấy cũng rùng mình kinh hãi.

Cười xong, Vô Kỵ quay đầu lại hỏi:

– Ai đã đánh chết Viên Chân thế?

Không Tín chỉ sầm nét mặt lại chứ không trả lời.

Lúc ấy Thiên Chính đã lui sang một bên, thấy Vô Kỵ hỏi như vậy, liền lên tiếng đáp:

– Y đấu chưởng với Tiểu nhi Dã Vương, kết quả một chết một bị thương.

Vô Kỵ cúi mình vái chào Thiên Chính và nói:

– Dạ.

Chàng nghĩ thầm:

– Chắc Viên Chân bị Vy Nhất Tiếu dùng Hàn Băng Miên chưởng đả thương rồi, vết thương lại nặng. Hơn nữa chưởng lực của cậu ta cũng lợi bại lắm, nên y chịu không nổi mới chết như thế. cậu ta đã trả thù hộ ta, như vậy cũng hay lắm.

Nghĩ đoạn, chàng đi đến cạnh Hân Dã Vương bắt mạch người cậu đó thử xem. Biết không đến nỗi phải chết, nên mới được yên tâm và nói:

– Cám ơn tiền bối.

Không Tín đứng cạnh thấy vậy càng tữc thêm, liền lớn tiếng quát tháo:

– Tiểu tử lại đây nộp mạng đi.

Tiếng nói của không Tín kêu như sấm động, Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng, quay đầu lại hỏi:

– Ðại sư muốn gì?

Ngươi đã biết Viên Chân sư điệt viên tịch rồi, ngươi liền đổ hết tội lỗi vào người y. người ác độc như vậy, ta tha thứ sao được. Ngày hôm nay, lão Hòa Thượng này thế nào cũng phải sát giới. Ngươi muốn tự tử hay địnnh lão Hòa Thượng này ra tay mới chịu chết.

Hồi thứ 52

Lấy Ðức Phục Người

Vô Kỵ thấy Không Tín nói như vậy, vừa trù trừ vừa suy nghĩ:

– Viên chân đã bị giết chết, đáng lẽ là một việc đáng mừng, vì kẻ thủ lớn đó đã bị báo ứng rồi. Nhưng từ đây trở đi, không còn có người nào để đối chất với ta. Như vậy càng khó làm cho mọi người hay rõ thị phi phải trái. Bây giờ ta biết phải làm sao đây?

Chàng đang ngẫm nghĩ, thì Không Tín đã tiến lên một bước, giơ tay lên định chộp lấy đầu chàng.

Chàng thấy từ cổ tay cho tới ngón tay của đối thủ, duỗi ra rất thẳng, kình lực mạnh vô cùng.

Chàng đang nghĩ cách đối phó thì Thiên Chính đã quát lớn:

– Ðây là Long Chảo Thủ, bạn nhỏ chớ nên coi thường.

Vô Kỵ vội nhảy sang một bên tránh né.

Mọi người không biết chàng dùng thân pháp gì mà tránh sang bên một cách nhẹ nhàng như vậy. Nhưng Không Tín Ðại Sư là một trong đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, và môn Long Chảo Thủ của y lại là một võ công thượng thặng của phái Thiếu Lâm. Nếu bị y chộp trúng thì đầu và óc sẽ bị vỡ nát liền Ðại Sư thấy cái chộp của mình không trúng, lại chộp luôn cái thứ hai. Thế sau của y còn mạnh và lợi hại hơn thế trước nhiều.

Vô Kỵ lại né mình một cái, đã lướt sang được bên trái luôn. Ngờ đâu Không Tín liên tiếp chộp cái thứ ba, thứ tư, thứ năm và chỉ thoáng cái, thân hình của Không Tín như một con hạc xám bay lượn múa nanh múa vuốt , nhằm đầu Vô Kỵ chộp lia lịa, khiến Vô Kỵ không biết tránh né nơi nào cho phải.

Mọi người bỗng nghe có tiếng kêu “soẹt”, Vô Kỵ đã phi thân tà tà ra bên ngoài. Tay áo bên phải của chàng đã bị Không Tín chộp trúng cánh tay phải của chàng đã có năm vết thương thật dài, máu tươi rỉ ra không ngớt.

Các Tăng Nhân của Thiếu Lâm đều vỗ tay khen ngợi.

Trong những tiếng ồn ào đó có xen lẫn cả một tiếng thất thanh kêu la của một thiếu nữ.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn về phía có tiếng kêu ấy, mới hay người đó là Tiểu Siêu.

Nàng đang tỏ vẻ hoảng sợ, mồm thì la lớn:

– Trương công tử… công tử phải cẩn thận.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Cô bé này tử tế với ta thật.

Vừa rồi Long Chảo Thủ của Không Tín lợi hại phi thường, Vô Kỵ chưa hề thấy qua bao giờ, nên cứ cố hết sức tránh né. Không ngờ càng tránh, dối phương càng tấn công già thêm. Vì vậy chàng cuống quýt và để cho đối thủ chộp trúng cánh tay như vậy. Năm ngón tay của Không Tín còn sắc bén hơn dùi đục. Tuy Vô Kỵ bị cái chộp đó không bị thương gì đến gân cốt, nhưng da thịt cũng bị thương, chàng cảm thấy đau nhức vô cùng.

Không Tín vừa thắng thế đó, đã tung mình tới tấn công tiếp, Vô Kỵ không tránh được thế đó, nên đành lui về phía sau mấy bước.

Không Tín lại chộp hụt thế đó , vị thần tăng thấy chụp không trúng, lại nhảy tới chụp tiếp.

Vô Kỵ cứ lui về phía sau tránh né. Thế là một người tấn công tới, một người thụt lùi. Thoáng cái đã được bảy tám thế chộp liền, nhưng Không Tín vẫn không sao chộp trúng chàng được. Những thế công của y quá nhanh, khiến Vô Kỵ không có dịp nào để nghỉ.

Mọi người đứng xem đã phân biệt khinh công của ai hơn, ai kém rồi. Hơn nữa, cái lui nào của chàng cũng để cho đối thủ cách mình hai ba thước, như vậy mới thật là khó.

Thoáng cái Không Tín đã sử dụng đến thế ba mươi sáu rồi. Những thế sau của y lợi hại hơn những thế trước nhiều.

Lúc này Vô Kỵ đã nhận ra Long Chảo Thủ của Không Tín chỉ có ba mươi sáu thế chộp thôi. Nhưng, chàng tìm kiếm mãi vẫn chưa tìm ra được chỗ sơ hở của đối thủ.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Bây giờ ta muốn giết chết lão Hòa thượng này thật không khó chút nào, nhưng y là một trong ba vị thần tăng của phái Thiếu Lâm tiếng tăm lừng lẫy trên khắp giang hồ. Nếu ta làm y thua trước mặt các anh hùng thiên hạ này thì sĩ diện của phái Thiếu Lâm không còn nữa. Như vậy tất cả tăng nhân của phái đó thể nào cũng thù hằn ta. Chi bằng ta chỉ cho y biết lợi hại má rút lui nhưng võ công của y giỏi hơn những người của phái Không Ðộng nhiều. Ta nghĩ mãi mà vẫn chưa nghĩ được cách gì hoàn hảo để đối phó y.

Chàng đang phân vân khó xử, đã nghe Không Tín quát lớn:

– Tiểu tử, ngươi cứ đào tẩu hoài, như thế cũng gọi là tỷ võ ư?

Vô Kỵ đáp:

– Muốn tỷ võ…

Nhân lúc chàng lên tiếng nói, chân khí không được duy nhất Không Tín liền tấn công luôn hai thế.

Không ngờ Vô Kỵ vẫn tung mình thụt lui và mồm vẫn trả lời như thường:

– Cũng được, nếu tiểu bối thắng được đại sư thì sao?

Không Tín thấy vậy liền đáp:

– Khinh công của ngươi cao siêu thật, nhưng về võ công ngươi đừng hòng thắng nổi ta.

– Nếu là tỷ võ thì ai có thể đoán được sống chết thắng bại đâu. Tiểu bối ít tuổi hơn đại sư nhiều, võ nghệ của tiểu bối tuy kém hơn đại sư thật, nhưng hơi sức của tiểu bối lại thắng thế hơn.

– Nếu đấu võ với nhau mà ta thua ngươi thì tha hồ ngươi muốn chém giết, muốn mổ bụng cũng được.

– Tiểu bối đâu dám vô lễ như thế. Nếu tiểu bối thua, tha hồ đại sư muốn xử trí ra sao cũng được. Nhưng nhờ may mắn tiểu bối thắng được một thế nửa thức, thì yêu cầu phái Thiếu Lâm rút lui xuống Quang Minh đỉnh ngay.

– Việc của phái Thiếu Lâm, do sư huynh ta chỉ huy, ta chỉ biết lý đến việc của ta thôi. Ta không tin Long Chảo Thủ ta thua mi.

Vô Kỵ vừa nghe Không Tín nói vừa sực nghĩ ra một kế, liền đáp:

– Ba mươi thế Long Chảo Thủ của phái Thiếu Lâm không có một chỗ nào sơ hở cả. Quả thật là một tuyệt kỷ thiên hạ vô song, nhưng phải nỗi đại sư chưa luyện tới nơi tới chốn thôi.

Không Tín nổi giận quát lớn:

– Thôi được, nếu ngươi phá được Long Chảo Thủ của ta, ta sẽ về ngay chùa Thiếu Lâm, suốt đời không ra cửa chùa nửa bước.

– Ðại sư không nên nóng tính như thế.

Trong lúc hai người đối đáp, mọi người đứng chung quanh đều vỗ tay khen ngợi, kêu vang như sấm động.

Thì ra trong khi hai người đối đáp, vẫn kẻ tấn công người lùi bước như trước và càng lúc càng nhanh hơn.

Hai người nói có mấy câu chuyện như thế, Không Tín đã tấn công luôn bốn thế liền, và Vô kỵ đều tránh được cả, nên mọi người mới khen ngợi như vậy.

Ngay cả Thanh Dực Bức Vương xưa nay vẫn tự phụ khinh công của mình giỏi nhất thiên hạ, lúc này thấy khinh công của Vô Kỵ lẹ như vậy, cũng phải gật đầu khen ngợi.

Vô Kỵ vừa hạ chân xuống đất đã nhảy tới trước mặt Không Tín.

Nhân lúc đối thủ chưa kịp tấn công, chàng lớn tiếng hỏi:

– Chúng ta bắt đầu tỷ thí nhé?

Không Tín đáp:

– Ngươi muốn thế nào cũng được.

– Nếu vậy xin đại sư hãy tấn công đi.

– Ngươi còn nhảy lùi như trước không?

– Nếu tiểu bối còn nhảy lùi nửa bước thì coi như tiểu bối đã thua cuộc.

Dương Tiêu, Lãnh Khiêm, Chu Ðiên, Nói Không Ðược các người của Minh Giáo, chân tay mình mẩy không sao cử động được, nhưng mắt vẫn nhìn thấy, tai vẫn nghe được.

Mấy người đó nghe Vô Kỵ nói như vậy đều giật mình kinh hãi thầm. Vì họ biết oai lực Long Chảo Thủ của Không Tín lợi hại vô cùng. Muốn tiếp đỡ một thế của hòa thượng đó cũng không phải là chuyện dễ. Tuy họ biết võ công của Vô kỵ cao siêu thật, nhưng dù có thắng nổi Không Tín thì ít nhất cũng phải đấu hơn trăm hiệp và trong hơn trăm hiệp đó, hoặc tấn công hoặc bảo thu, hoặc tránh né không khó chút nào, riêng không lùi nửa bước mới thật là khó.

Mọi người nghe Vô Kỵ nói như thế, đều cho chàng quá tự phụ như vậy, ắt phải bại trận. Không Tín không muốn chàng làm như thế nên lên tiếng nói liền:

– Ngươi khỏi cần phải chịu bó buộc như vậy. Lão tăng muốn trận đấu này dù thắng hay bại cũng phải công bằng thì người thua mới khỏi tấm tức không phục.

Y vừa nói dứt, đã lớn tiếng quát bảo Vô Kỵ ngay:

– Hãy tiếp thế võ này của ta.

Y giơ tay đánh hờ một thế, và tay phải đã nhanh như gió chộp vai của Vô Kỵ ngay.

Vô Kỵ thấy đ6ói thủ giơ tay trái ra tấn công, biết ngay thế đó là thế hư, nhưng chàng cũng bắt chước giơ tay trái ra tấn công luôn một htế hờ như vậy, và tay phải cũng nhằm đầu vai của địch chộp luôn.

Thế võ của hai người y như nhau, không khác một ly một tý nào, nhưng Vô Kỵ ra tay tấn công sau mà lại đánh tới thân địch sớm hơn tay của Không Tín. Tay phải của Không Tín thiếu hai tấc nữa mới chộp trúng đầu vai của đối thủ, mà tay của Vô Kỵ đã chộp tới đầu vai của y rồi.

Không Tín thấy đầu vai của mình bị tê tái, tay phải mất hêt kình lực tức thì. Nhưng may cho y, Vô Kỵ chỉ khẽ chộp một cái đã rút tay lại ngay.

Không Tín đứng ngẩn người ra giây phút, rồi hai tay cùng đưa ra một lúc, nhằm hai huyệt thái dương của đối thủ tấn công luôn.

Ngờ đâu, Vô Kỵ cũng xử dụng một thế võ như của y mà tay chàng lại đụng vào hai yếu huyệt ở Thái Dương của y trước.

Thủ pháp Càn Khôn Ðại Nã Di của chàng quả thật thần diệu vô cùng, tùy theo ý thích của mình, muốn sao được vậy. Yếu huyệt trên Thái dương là yếu huyệt rất quan trọng, hễ bị địch đánh trúng là chết ngay tức thì, không còn phương pháp nào cứu chữa được.

Hai tay của Vô Kỵ vừa đụng tới hai huyệt ở hai bên thái dương, chàng đã vội co ngón tay lại khẽ phát một cái, và xoay ra phía sau ót của địch, biến ra thế võ khác, chộp hờ Phong Phủ huyệt ở sau ót Không Tín ngay. Lúc bị địch thủ khẽ phất hai huyệt ở Thái Dương của mình, Không Tín đã ngẩn người ra rồi. Sau y lại thấy đối thủ biến thế võ định chộp Phong Phủ huyệt của mình, lại càng hãi sợ thêm, y vội nhảy ra xa nửa trượng để tránh né, mồm thì quát lớn:

– Sao… ngươi lại học lỏm Long Chảo Thủ của phái Thiếu Lâm của chúng ta như thế?

Vô Kỵ mỉm cười đáp:

– Võ công của thiên hạ bất cứ của môn phái nào cũng đều xuất xứ bởi một nguồn gốc hết. Nhưng người ta cứ cố phân biệt ra phái này phái nọ đấy thôi., cũng như môn Long Chảo Thủ này chẳng hạn, chưa chắc đã là võ công độc hữu của quý phái.

Không Tín cúi đầu ngẫm nghĩ, nhưng lão hòa thượng cứ nghĩ mãi mà vẫn không nghĩ ra nguyên do ấy. Vì y biết môn Long Chảo Thủ này đến như sư huynh y là Không Tiến, Không Văn cũng không sao giỏi bằng y được. Sao thiếu niên này đấu với mình hai thế, đều ra tay sau mà lại tấn công được mình trước, vả lại, thế võ của y vừa nhanh vừa vũng chắc. Hình như y đã khổ luyện mấy chục năm môn võ này vậy ?

Y cứ ngẩn người ra, không nói năng gì cả, mấy trăm người đều nhìn thẳng vào mặt y. Vừa rồi, hai người đấu võ với nhau, chỉ đấu hai miếng rồi cùng lui ra liền. Trừ những tên cao thủ hạng nhất ra thì những người khác không sao thấy được ai thắng ai bại cả. Chúng chỉ thấy Vô Kỵ ung dung coi như không có chuyện gì xảy ra cả, còn Không Tín thì cau mày nghĩ ngợi, hiển nhiên là lép vế hơn đối thủ rồi.

Long Chảo Thủ của phái Thiếu Lâm trải qua mấy trăm năm mấy mươi đời hảo thủ nghiên cứu và điêu luyện đã trở nên một võ công không thể nào bại được. Nếu Vô Kỵ không dùng Long Chảo Thủ đối địch mà dùng võ công khác để đấu, thì khpông thắng được Không Tín. Ðột nhiên Không Tín quát lớn một tiếng, tung mình nhảy tới, hai tay như vũ, như bão tấn tấn công luôn tám thế liên hoàn một lúc. Thế công của y nhanh không thể tưởng tượng được, nhưng Vô Kỵ vẫn ung dsung như thường, cứ theo từng thế một của địch mà tấn công lại liên hoàn tám thế. Thế võ nào của chàng cũng trúng đối thủ.

Không Tín thần tăng ra tay nhanh nhẹn vô cùng và liên miên bất tuyệt, y như một thế võ mà có tám thế biến hóa vậy. Ngờ đâu, y càng đánh nhanh bao nhiêu, Vô Kỵ lại nhanh bấy n hiêu và thế võ nào của chàng cũng chiếm phần thắng cả. Không Tín bị đối thủ dồn ép cứ lui bước về phía sau. Khi y lui đến bước thứ bảy, liền đứng tấn vững như quả núi, hai thế cuối cùng này là thế ba mươi lăm và ba mươi sáu trong Long Chảo Thủ. Mới thoáng trông ai cũng tưởng người xử dụng hai thế võ đó đã hở rất nhiều chỗ trống, chân tay còn làm ra vẻ cuống quýt và hầu như kiệt lực chống đỡ không được vậy.

Nhưng sự thật hai thế võ này lợi hại vô cùng và sở dĩ y làm ra vẻ mệt nhọc như thế là để làm cạm bẫy để đón địch thủ vào tròng.

Mọi người bỗng thấy Vô Kỵ rú lên một tiếng thật thanh thót và tiến lên từ từ tấn công thẳng vào phía giữa mặt địch.

Không Tín thấy vậy cả mừng nghĩ thầm:

– Phen này thì mi đã lọt vào cạm bẫy của ta rồi.

Y nghĩ tới đó, đã thấy cánh tay phải của Vô Kỵ đã sa vào trong vòng vây không thể nào rút ra được nữa rồi, y liền múa tít song chưởng nhắm cánh tay của địch đánh luôn. Thì ra, Không Tín là một cao tăng hữu đạo, y thấy Vô Kỵ tinh thông võ công của Thiếu Lâm như vậy, y sợ đối thủ là người có liên can đến bổn môn chăng. Huống hồ mấy thế trước, y rõ ràng thấy những yếu huyệt của mình đã bị đôi thủ chộp trúng.

Nhưng đi thủ lại nương tay, không tấn công mạnh nữa, cũng vì thế mà thế võ này y cũng không hạ sát đối thủ thôi. Ngờ đâu, song chưởng của y vừa đụng tới cánh tay phải của Vô Kỵ, bỗng thấy một kình lực nhu hòa và mạnh vô cùng ở cánh tay đối thủ phát ra chống đỡ song chưởng của y đánh xuống. Ðồng thời năm ngón tay phải của Vô Kỵ đã ấn vào yếu huyệt trước ngực mình rồi.

Lúc ấy Không Tín nản chí vô cùng, vì y đã khổ luyện công này mấy chục năm định đem ra sử dụng trên giang hồ mong xưng hùng, xưng bá một phen, nhưng bây giờ giấc mộng đó đã tan vỡ nên y gật đầu mấy cái và thủng thẳng nói:

– Tăng thí chủ cao minh hơn bần tăng nhiều lắm.

Nói xong, y dùng tay trái nắm năm ngón tay phải của mình, định dùng sức bẻ gãy luôn. Y đột nhiên thấy cổ tay trái tê tái, không sao vận sức ra được. Thì ra yếu huyệt ở cổ tay của y đã bị mấy ngón tay của Vô Kỵ khẽ phớt qua. Y lại nghe thấy đối thủ lớn tiếng nói:

– Tiểu bối dùng Long Chảo Thủ của phái Thiếu Lâm đã thắng Ðại sư, như vậy phái Thiếu Lâm có mất tiếng tăm gì đâu. Nếu Tiểu bối không dùng tuyệt kỷ đối địch với Ðại sư thì trên thiên hạ này không còn môn võ công nào thắng được Ðại sư nửa thế.

Vì phẫn uất nhất thời, Không Tín định bẻ gãy năm ngón tay của mình và suốt đời không nói đến võ công nữa. Sau y nghe thấy Vô Kỵ nói như vậy, y cảm thấy lời nói và hành sự của đối phương đều bênh vực bổn môn bằng không oai danh của Thiếu Lâm đã gây được hàng gnhìn năm nay, vừa rồi đã do mình làm mất hết. Nghĩ tới đó, y cảm ơn Vô Kỵ, lòng cảm động đến ứa nước mắt và chắp tay nói rằng:

– Tăng thí chủ, nhân nghĩa hơn người, bần tăng vừa cám ơn vừa kính phục.

Vô Kỵ cũng vái chào và lễ phép đáp:

– Mong Ðại sư thứ lỗi cho Tiểu bối cái tội bất kính và phạm thượng.

Không Tín mĩm cười vội trả lời:

– Không ngờ môn Long Chảo Thủ do Tăng thí chủ sử dụng lại có oai lực như thế.Thật trước kia bần tăng nằm mơ cũng không tưởng tượng môn võ công này lại lợi hại như vậy. Sau này nếu có rảnh mong thí chủ giáng lâm tệ chùa để bần tăng được tiếp rước và mong thí chủ chỉ giáo cho nữa.

Trong võ lâm nói đến hai tiếng chỉ giáo là có ý khiêu chiến, nhưng khi Không Tín nói đến hai chữ đó với thái độ rất thành khẩn, quả thật y có vẻ kính phục đối phương chứ không có vẻ gì khiêu khích cả.

Vô Kỵ thấy Không Tín nói như vậy vội đáp:

– Tiểu bối không dám.

Không Tín ở trong phái Thiếu Lâm có một địa vị rất cao. Võ công và nhân phẩm của y xưa nay được tăng chúng kính phục. Phái Thiếu Lâm từ Không Tín Ðại sư trở xuống ai nấy thấy thái độ của Không Tín với Vô Kỵ đều biết ngay, ngày hôm nay bổn môn không tiện ra tay đấu với Vô Kỵ nữa. Lần này Không Tín Ðại sư là thủ lãnh của sáu đại môn phái vây đánh Minh Giáo. Nay vị Ðại sư lãnh tụ đó thấy vậy,trong lòng thật khó xử vô cùng, vì y thấy Ma Giáo sắp bị tiêu diệt tới nơi, bỗng có một thiếu niên vô danh ra tay cản trở. Nếu vì thế mà phải ngừng chiến để rút lui thì thế nào cũng bị hào kiệt trên thiên hạ mỉa mai chê cười.

Nên nhất thời, Không Trí không biết quyết định thế nào cho phải, y đưa mắt nhìn người chưởng môn của phái Hoa Sơn là Thần Toán Tử Tiên Vu Thông là người túc trí đa mưu và cũng là quân sư của sáu đại môn phái vây đánh Minh Giáo lần này. Y thấy Không Trí Ðại sư đưa mắt hỏi ý kiến mình.

Vô Kỵ thấy Vu Thông là một văn sĩ tuổi trạc trung niên, mày thanh mục tú trông rất tuấn nhã. Mới thấy mặt, chàng đã có thiện cảm với đối phương ngay, liền chắp tay chào và hỏi:

– Không hiểu vị tiền bối định chỉ giáo tiểu bối điều gì thế?

Vu Thông chưa kịp trả lời, Hân Thiên Chính đã xen lời vội nói:

– Người này là chưởng môn của phái Hoa Sơn họ Tiên tên là Vu Thông, võ công rất bình thường nhưng nhiều diệu kế lắm.

Vô Kỵ nghe Thiên Chính nói đến cái tên Tiên Vu Thông liền nghĩ thầm:

– Cái tên này quen lắm, không biết ta nghe thấy ai đã nói cho ta hay thế?

Chàng vừa nghĩ tới đó, đã thấy Vu Thông đi tới cách mình một trượng, ngừng chân lại chắp tay chào và trả lời liền:

– Xin chào Tăng thiếu hiệp.

Vô Kỵ đáp lễ:

– Tôi không dám. Chào Tiên Vu Thông chưởng môn.

– Võ công của Tăng thiếu hiệp quả thật cái thế. Vừa rồi thiếu hiệp đã đánh bại chủ lão của phái Không Ðộng, thậm chí thần tăng của phái Thiếu Lâm cũng phải chịu lép vế với thiếu hiệp. Tại hạ kính phục thiếu hiệp vô cùng. Không hiểu vị tiền bối cao nhân nào đã may mắn có một môn hạ như thiếu hiệp. Thiếu hiệp là một thiếu niên anh hiệp, võ công cái thế, quả thật hiếm có trên thế gian này.

Vô Kỵ vẫn còn nghĩ ngợi xem ai đã nói với mình cái tên Tiên Vu Thông này, nên chàng không kịp trả lời đối phương.

Vu Thông thấy vậy ngẩng mặt lên trời ha hả cả cười một hồi, rồi lại lớn tiếng hỏi tiếp:

– Không hiểu Tăng thiếu hiệp có điều gì mà cứ không cho chúng tôi biết sự thực và lai lịch như vậy.

Vô Kỵ nhớ lại, hồi năm trước, khi còn ở Hồ Ðiệp Cốc, Thanh Ngưu đã nói với chàng rằng: “Tên Tiên Vu Thông khả ố lắm, nếu sau này y không bị báo ứng thì thật ông trời không có mắt”. Chàng chỉ nghĩ ngợi giây phút đã nhớ hết lại những lời nói mấy năm về trước của Thanh Ngưu: “Một thiếu niên bị chém mười bảy lát dao, sắp chết đến nơi, ta đã ba ngày ba đêm quên ăn quên ngủ tốn bao nhiêu tâm huyết mới cứu được y thoát chết. Sau còn kết nghĩa anh em với y nữa. Ngờ đâu, sau đó y đã giết hại người em gái của ta… Hà, em gái ta tội nghiệp thật. Anh em chúng ta mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ nên rất thương nhau. Thanh Ngưu nói tới những lời đó, nước mắt đã ràn rụa, Vô Kỵ thấy vậy cũng mủi lòng. Sau vợ của Thanh Ngưu là Vương Nạn Cô đã nấm ngầm dùng thuốc độc giết Vu Thông để trả thù cho em chồng. Ngờ đâu Thanh Ngưu thấy Thông tội nghiệp như vậy lại ra aty cứu chữa cho. Cũng vì thế mà hai vợ chồng Y Tiên đã cãi lộn nhau rồi thầy lang quái dị đó còn chịu đựng rất nhiều đau khổ nữa. Sau cùng, cả hai vợ chồng đều chết một cách bất đắc kỳ tử, cũng do bởi tên gian tặc này gây nên.

Vô Kỵ nghĩ tới đó liền trợn trừng hai mắt nhìn thẳng vào mặt Vu Thông, chàng lại nghĩ tới Vu Thông đã có một đệ tử họ Tiết tên Công Viễn, bị Kim Hoa bà bà đả thương sau lại được mình cứu cho khỏi chết. Ngờ đâu, sau đó tên phản bội ấy còn định cắt tiết mình để nấu ăn. Hai thầy trò y đều là những kẻ lấy ơn báo oán và cũng là những kẻ đê tiện vô sỉ, nhưng Công Viễn đã chết rồi bây giờ chỉ còn thầy y là Tiên Vu Thông ở đây thôi, nên chàng quyết định thế nào cũng phải trừng phạt tên ác tặc này một phen cho hả dạ.

Chàng liền mỉm cười và đáp:

– Trên người tôi chưa hề bị chém mười bảy nhát dao và tôi cũng không giết hại người em gái của người anh kết nghĩa với tôi. Như vậy tôi có gì khó nói như ai đâu?

Tiên Vu Thông thấy Vô Kỵ nói như vậy, giật mình kinh hãi lưng toát mồ hôi lạnh.

Thì ra năm mà y bị người ta chém mười bảy nhát thoi thóp sắp chết, sau y được Thanh Ngưu cứu chữa cho khỏi chết. Y quyến rũ em gái của Thanh Ngưu là Thanh Dương. Thấy y đã nhận lời lấy mình làm vợ, Thanh Dương liền hiến thân cho Vu Thông đến nỗi mang bầu. Ngờ đâu, Thông tham muốn ngôi chưởng môn của phái Hoa Sơn đã bỏ rơi Thanh Dương mà kết hôn với đứa con gái duy nhất của người chưởng môn của phái đó. Vì thế mà Thanhh Dương đã hổ thẹn tử tự chết gây nên một tấm thảm kịch một xác hai mạng.

Việc đó là một việc rất xấu hổ cho nhà họ Hồ, nên Thanh Ngưu không hề nói cho ai biết cả. Tất nhiên Vu Thông càng giữ kín hơn ai hết. Không ngờ câu chuyện đó đã trải qua mười mấy năm rồi, nay thiếu niên này bỗng tiết lộ chuyện bí mật này ra trước mặt mọi người như thế. Như vậy làm sao mà y không kinh hãi?

Nhưng Tiên Vu Thông là một người đa mưu lắm kế, chỉ trong phút chốc y đã nghĩ ra một kế độc, liền nghĩ thầm:

– Không hiểu tại sao thiếu niên này lại biết chuyện bí mật này của ta như vậy. Ta phải dùng thủ đoạn ác độc để diệt trừ y mới được, bằng không y sẽ tiết lộ chuyện cũ của ta, thì đời ta sẽ tiêu tan mất.

Nghĩ đoạn, y liền làm ra vẻ trấn tĩnh và nói:

– Tăng thiếu hiệp không chịu cho chúng tôi biết lệnh sư là ai và thuộc môn phái nào, thì tại hạ đành phải giở hết võ nghệ hèn mọn của phái Hoa Sơn ra lãnh giáo mấy thế võ cao siêu của Tăng thiếu hiệp vậy. Thiết nghĩ, tài ba như Không Tín thần tăng còn không địch nổi thiếu hiệp thì võ nghệ thô sơ của tại hạ đây có nghĩa lý gì với thiếu hiệp đây? Tại hạ chỉ mong thiếu hiệp nương tay đấu đến mức được thua thôi.

Nói xong y múa chưởng tấn công vào Vô Kỵ liền, mồm thì lớn tiếng nói:

– Mời thiếu hiệp ra tay cho.

Nhưng y không để cho Vô Kỵ kịp trả lời đã tấn công tới tấp rồi, Vô Kỵ biết thâm ý của đối thủ, chỉ thuận tay giơ chưởng lên khẽ gạt một cái, mồm trả lời:

Võ nghệ của phái Hoa Sơn cao minh lắm. Có lãnh giáo hay không cũng thế thôi. Riêng có Vu chưởng môn mang ơn trả oán, cái tài vong ơn trả oán của ngài mới thật là cao siêu không ai bì kịp.

Tiên Vu Thông không để cho chàng nói hết, đã giở hết tài ba của y ra, tấn công tới tấp. Y sử dụng một thế tuyệt kỹ trong bảy mươi hai miếng Ưng Xà Công của phái Hoa Sơn. Y cụp quạt giấy lại nắm trong chưởng phải, chỉ lộ một khúc cán quạt ra dùng làm đầu xà, tay trái của y chĩa năm ngón ra làm như bàn chân con chim Ưng. Hai tay sử dụng hai thế võ khác nhau, tấn công rất lợi hại. Môn võ công Ưng Xà Sinh Tử Bất của Vu Thông sử dụng trên đây là một môn tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn đã truyền lại hơn trăm năm nay do Hoa Sơn Ðại hiệp Văn Bá Thiên sáng tạo. Một hôm, đại hiệp đang dạo chơi trên núi Phục Ngưu thấy một con chim Ưng với một con độc xà đang đấu chí tử, rồi đại hiệp mới sáng tạo nên pho võ công này.

Nhưng vì pho võ công này cả hai tay cùng tấn công cùng một lúc, tuy sức lực thế nào cũng phải yếu hơn, nhưng có thể khiến cho địch thủ không biết chống đỡ ra sao cho phải, đỡ được đông, không tránh được tây. Vô Kỵ chỉ tiếp được vài hiệp đã biết rõ hết pho võ công ấy rồi, chàng liền thủng thẳng nói:

– Tại hạ có một việc này muốn thỉnh giáo Tiên Vu chưởng môn. Năm xưa ngài đã bị chém mười bảy dao, đã thập tử nhất sinh rồi, người ta không quản mệt nhọc, cố hết sức chạy chữa cho ngài ba ngày ba đêm liền, sau người ta lại kết nghĩa kim lang với ngài và coi ngài như ruột thịt. Vậy tai sao ngài độc tâm nỡ giết chết em gái người ta vậy.

Tiên Vu Thông không biết trả lời ra sao, liền trợn mắt nhìn chàng quát mắng:

– Hồ…

Tuy y là người rất khôn ngoan và bẻm mép nhưng nhất thời y cũng không nghĩ ra lời nói để biện bạch lại. Nhưng y chỉ muốn trêu tức Vô Kỵ cho chàng phẫn nộ, rồi nhân lúc chàng phân trần thừa dịp hạ độc thủ ngầm để giết chàng. Nhưng không ngờ, y nói được một câu như vậy, y đã tức tối và phẫn nộ trước. Nên y cứ phải vận nội lực để chống đỡ. Tai y vẫn nghe rõ lời nói của Vô Kỵ.

– Phải… phải… thế ra là ngài vẫn còn nhớ là họ Hồ đấy à? Sao ngài không nói nốt Hồ tiểu thư bị ngài hãm hại chết một cách tang thương. Chẳng lẽ trong bấy nhiêu năm nay, ngài không thấy hổ thẹn với lương tâm hay sao?

Tuy Vô Kỵ vẫn biết đối thủ định bảo là mình ăn nói hồ đồ nhưng chàng cố ý bẻ quẹo để chọc cho đối thủ tức thêm.

Tiên Vu Thông tức tối đến ngạt thở, y vội tấn công liền ba thế.

Vô Kỵ thấy vậy phải nhảy lùi về phía sau để cho y có dịp được thở, bằng không sẽ ngạt thở mà chết giấc ra tại chỗ ngay.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Ðại trượng phu đã làm thì phải có can đảm tự chịu. Phải là phải, trái là trái, tại sao ngài ngập ngừng không trả lời được như thế. Năm xưa Hồ Thanh Ngưu tiên sinh ở Hồ Ðiệp Cốc đã cứu ngài khỏi chết phải không? Em gái của Hồ tiên sinh đã bị ngài hãm hại chết phải không?

Vô Kỵ không biết em gái Thanh Ngưu bị giết hại ra sao, mà chàng chỉ biết Tiên Vu Thông hãm hại nàng thôi. Còn Vu Thông lại tưởng lầm chàng đã biết hết cả chuyện xấu của mình, cho nên y cứ tái mét mặt ra.

Các người có mặt tại đó, xưa nay vẫn biết Tiên Vu Thông có tài hùng biện, ăn nói rất giỏi, lúc này chỉ thấy y có vẻ bẽn lẽn, nghe thấy đối phương chất vấn như vậy mà không sao trả lời được, nên ai nấy đều tin lời nói của Vô Kỵ là thật, thì ra Vô Kỵ đã dùng tuyệt đỉnh thần công dồn ép cho đối thủ thở không được, khiến y tựa như thằng câm không sao nói nên lời được. Người ngoài chỉ thấy Vô Kỵ múa động song chưởng cứ tưởng chàng đỡ thế công của đối thủ, chứ có biết đâu chàng đã dùng mẹo làm cho đối thủ không nói được. Các tay cao thủ của phái Hoa Sơn thấy người chưởng môn của mình bị một thiếu niên bêu xấu ở trước mặt đông người như vậy mà không biện bạch được nửa lời, nên những người đó càng hổ thẹn thêm. Ngoài ra còn có một số ít xưa nay vẫn biết Thông là người đa mưu kế, chúng tưởng lầm Thông nhẫn nhục như vậy chắc đang nghĩ một độc kế gì để trả thù đây.

Mọi người lại nghe thấy Vô Kỵ nghiêm nghị trách mắng tiếp:

– Chúng ta người trong võ lâm cần phải chú trọng có ơn báo ơn, có oán báo oán. Y Tiên là người trong Minh Giáo, ngài đã thụ đại ơn của Minh Giáo như vậy, trái lại ngày hôm nay ngài lại đem người trong môn phái đến đây vây đánh Minh Giáo. Người ta đã cứu ngài thoát chết trái lại, ngài lại giết chết thân nhân của ân nhân đó. Như vậy ngài không bằng cầm thú chút nào, mà mặt mũi nào ra làm chưởng môn của một đại môn phái.

Chàng mắng chửi Tiên Vu Thông một hồi như vậy và trong lòng nghĩ thầm:

– Nếu Hồ tiên sinh nghe thấy ta minh oan huết hận cho ông ta như vậy, chắc thế nào ông ta cũng hài lòng lắm. Nếu ngày hôm nay ta không đả thương hay giết chết tên cầm thú này, thì sau này khó tìm được y.

Nghĩ đoạn, chàng vội thâu chưởng lực lại và nói tiếp:

– Hôm nay ngươi đã tự biết hổ thẹn rồi, ta hãy gởi tạm cái đầu ở trên cổ ngươi.

Tiên Vu Thông thấy ngực không bị đè nén và dễ hô hấp rồi, liền quát mắng:

– Tiểu tặc, mi chỉ được cái ăn nói hồ đồ…

Y vừa nói vừa múa quạt song lại tấn công vào mặt Vô Kỵ một cái rồi lại nhảy sang bên luôn. Vô Kỵ đột nhiên ngửi thấy một mùi thơm ngào ngạt. Chàng liền cảm thấy đầu óc choáng váng bước đi loạng choạng, mắt nổ đom đóm…

Chàng bỗng nghe thấy Tiên Vu Thông quát lớn:

– Tiểu tặc, bây giờ để cho mi biết môn võ Ưng Xà Sinh Tử Bất của phái Hoa Sơn ta lợi hại như thế nào.

Nói xong, y tung mình nhảy đến giơ tay trái ra định chụp vào yếu huyệt ở hông bên trái của Vô Kỵ. Ngờ đâu, y thấy Vô Kỵ không phản kháng gì cả, mà chỗ yếu huyệt chàng trơn trượt như da cá vậy, không sao bóp vào được.

Lúc ấy y nghe thấy các đệ tử của phái Hoa Sơn đang vỗ tay đồng thanh khen ngợi:

– Ngày Hôm nay môn võ công Ưng Xà Sinh Tử Bất đã dương danh trên thiên hạ. Tiên Vu chưởng môn của phái Hoa Sơn tài ba thật kinh người…Ðể cho tên tiểu tặc nhận thức võ nghệ chân thật.

Vô Kỵ chỉ mỉm cười thổi một hơi thật mạnh vào mồm, mũi Tiên Vu Thông một cái, tên vô ơn phụ nghĩa đó liền ngửi thấy một mùi thơm đầu óc choáng váng ngay.

Lúc này, y hoảng sợ đến mất hết hồn vía, há mồm định kêu la cầu cứu.

Vô Kỵ dùng tay áo trái khẽ phất vào hai đầu gối của y một cái.

Thế là Tiên Vu Thông ngã quỵ xuống quỳ ngay ở trước mặt chàng tựa như vái lạy vậy.

Sự biến chuyển đột ngột ấy khiến ai ai cũng ngạc nhiên vì họ rõ ràng trông thấy Vô Kỵ bị thương nặng loạng choạng như sắp té, ngờ đâu chỉ thoáng cái đã biến ra Tiên Vu Thông quỳ ở trước mặt chàng nên ai cũng tưởng chàng có yêu thuật.

Mọi người lại thấy chàng cướp luôn cái quạt trong tay Vu Thông, rồi cả cười nói:

– Phái Hoa Sơn tự phụ là một danh môn chính phái, khôn ngờ lại có môn tuyệt kỹ thả trùng, phóng độc như thế này. Mời các vị thử xem đây.

Nói xong chàng khẽ phẩy một cái, cái quạt xoè ngay ra, trên quạt một mặt vẽ núi Hoa Sơn, một mặt viết sáu câu thơ, chữ viết rất đẹp. Chàng xếp cái quạt lại và nói tiếp:

– Có ngờ đâu cái quạt phong nhã như thế này, mà bên trong lại có máy móc đê tiện âm độc.

Chàng vừa nói vừa đi tới cây hoa, chỉ cán quạt vào cây hoa. Giây lát sau, những hoa trên cây đều héo hết và những lá cây cũng úa vàng luôn.

Mọi người thấy như vậy đều kinh hãi và nghĩ thầm:

– Không hiểu Tiên Vu Thông giấu thuốc độc gì ở trong cái quạt này mà lợi hại như thế.

Lúc ấy mọi người lại nghe thấy Tiên Vu Thông nằm dưới đất kêu la thảm khốc như heo kêu lúc bị chọc tiết, khiến ai nấy cũng phải hoảng sợ.

Mọi người càng thắc mắc:

– Với một tay cao thủ như Tiên Vu Thong dù có bị dao kề cổ cũng phải gượng chịu nhịn, chứ có bao giờ lại kêu đau để mất sĩ diện như thế.

Mỗi tiếng kêu của Tiên Vu Thông, các môn hạ của phái Hoa Sơn như bị người ta lột một lằn da trên mặt vậy.

Tiên Vu Thông kêu rú vài tiếng và gượng nói:

– Mau… Giết ta đi… Mau đánh chết ta đi…

Vô Kỵ liền trả lời:

– Ta có cách cho ngươi khỏi đau khổ, nhưng không biết thuốc độc ở trong quạt của ngươi là loại gì, thì ta biết dùng thuốc gì mà chữa cho ngươi chứ. Vậy ngươi phải cho ta biết thuốc độc đó là thứ thuốc gì đã.

Ðó là…là Kim Tầm…Kim Tầm trùng độc…mau đánh chết ta đi…ái! Ái!

Mọi người nghe thấy bốn chữ “Kim Tầm trùng độc” đều sợ hãi đến biến sắc. Còn những người chính trực hữu đức không sao chịu nhịn được đã lớn tiếng mắng nhiếc ngay! Thì ra, Kim Tầm trùng độc xuất xứ ở khu người Mèo tại tỉnh Quý Châu là một độc dược lợi hại nhất thiên hạ. Nó không có hình, cũng không có sắc. Kẻ bị trúng độc tựa như bị nghìn vạn con tằm cắn khắp người, đau đớn không sao chịu nổi!

Người trong Võ Lâm hễ nghe nói đến thứ trùng độc này là ai cũng ghét, vì nó` không có hình, không có sắc, biết đâu mà phòng bị tránh né. Dù mình võ công cao siêu đến đâu cũng không thể nào địch nổi thứ độc vật ấy, dù người bỏ độc vật là đàn bà hay trẻ con mình cũng cam đành chịu thất bại ngay!

Những thứ trùng độc này khó kiếm lắm nên người ta chỉ nghe độc danh của nó thôi, chứ ít ai đã được trông thấy.

Ngày hôm nay mọi người mới thấy Tiên Vu Thông trúng phải trùng độc đó, và đau đớn một cách khổ sở.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Ngươi dấu Kim Tầm trùng độc ở trong cái quạt sao ngươi lại bị trùng độc đó hại như vậy?

– Mau…giết tôi đi! Tôi không biết…Tôi không biết…

Nói đến đó, y đưa tay cào cấu khắp mình mẩy và cứ lăn lộn ở trên mặt đất hoài.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Ngươi bấm cơ quan ở cái quạt thả Kim Tầm trùng độc sang hại ta nhưng bị ta dùng nội lực dồn nó trở lại nên ngươi mới bị như vậy, chẳng hay ngươi còn nói gì nữa không?

Tiên Vu Thông lớn tiếng kêu la:

– Tự tôi làm nên tội ác… làm nên tội ác…

Y vừa nói vừa giơ hay tay lên bóp cổ định tự tử nhưng đã trúng phải Kim tầm trùng độc rồi thì chân tay không còn hơi sức gì nữa nên tha hồ y bóp và cấu xé, da y cũng không bị suy suyển chút nào. Thứ độc vật này lợi hại đến thế khiến người trúng phải độc của nó dù muốn sống cũng không được, mà muốn chết cũng không xong.

Ðầu óc rất tỉnh táo, trong mình mẩy nơi nào bị đau đớn cũng đều hay rõ hết. Vì vậy nó còn độc ác hơn những thứ độc dược khác hễ trúng phải là chết ngay tức thì.. Thì ra, năm xưa khi Tiên Vu Thông giết hại Hồ Thanh Dương em gái của Thanh Ngưu, cô bé ấy biết y là người bạc tình bạc nghĩa nhưng nàng vẫn không sao dứt được ân tình với y, lúc sắp chết nàng còn yêu cầu người anh che chở cho người yêu bạc bẽo ấy.

Vợ Thanh Ngưu là Nạn Cô thấy vậy bực mình không sao chịu được liền dùng Kim Tầm trùng độc giết hại Tiên Vu Thông.

Thanh Ngưu thấy vậy nhớ việc mình đã hứa với người em gái trong lúc nó đang hấp hối, nên y lại cứu sống kẻ bạc tình ấy. Tiên Vu Thông khôn ngoan vô cùng, nhân lúc dưỡng thương nằm ở nhà Thanh Ngưu, y đã lén lấy trộm một đôi Kim Tầm trùng độc của Nạn Cô rồi y theo phương pháp của Nạn Cô mà nuôi đôi trùng độc ấy. Sau y biến nó thành bột độc dấu ở cái quạt. Cái quạt của y có máy móc, chỉ khẽ bấm cáo chốt nhỏ, thuốc độc Kim Tầm đã bắn ngay vào người đối phương liền mà kẻ địch không hề hay biết gì cả. Vừa rồi, y đã thả trùng độc làm cho Vô Kỵ khó thở, nội lực hầu như mất hết, y yên chí thế nào cũng hại được đối thủ rồi.

Cũng may mà nội lực của Vô Kỵ thâm hậu vô cùng, trong lúc lâm nguy chàng còn nín hơi vận sức được dồn khí độc ra khỏi người và thổi luôn trùng độc đó bắn trở lại người Tiên Vu Thông.

Nhưng tên bạc tình phụ nghĩa ấy nội lực kém hơn nên bị trúng ngay Kim Tầm trùng độc đó. Thế là người kêu la rên xiết không phải là Vô Kỵ mà lại là Tiên Vu Thông, người đã thả Kim Tầm trùng độc ra hại Vô Kỵ.

Vô Kỵ đã học thuộc lòng cuốn độc kinh của Nạn Cô, biết rõ Kim Tầm trùng độc lợi hại như thế nào rồi nên chàng ngấm ngầm vận thử chân khí để đẩy dư độc ra ngoài. Chàng thấy trong người không có gì khác lạ cả, lúc ấy chàng mới thật yên tâm.

Sau chàng lại thấy Tiên Vu Thông chịu đau khổ thảm khốc như vậy liền động lòng thương và nghĩ:

– Ta có thể cứu y thoát nạn được, nhưng y phải xưng hết tội lỗi năm xưa thì ta mới ra tay giải cứu cho y.

Nghĩ đoạn chàng liền lớn tiếng nói tiếp:

– Ta có thể chữa cho ngươi khỏi được, nhưng ta hỏi điều gì ngươi cũng phải thật thà trả lời, nếu có nửa lời gian dối thì ta buông tay ngay, để mặc cho ngươi chịu khổ sở như thế này bảy đêm ngày liền rồi sau đó mới tắt thở, đau đớn như thế ngươi có đủ sức chịu đựng hay không?

Tuy mình mẩy chân tay bị đau đớn không thể chịu nổi được, Nhưng Tiên Vu Thông đầu óc vẫn sáng suốt, nghe thấy Vô Kỵ hỏi như vậy y liền nghĩ thầm:

– Năm xưa khi ta bị trúng phải thứ trùng độc này, lúc ấy Nạn Cô cũng bảo ta bảy ngày sau mới chết y hệt như lời thằng nhỏ này nói vậy!

Tuy y nghĩ như vậy, nhưng y vẫn không tin Vô Kỵ có thể trị khỏi cho y, nên y vội nói:

– Bạn…không cứu được tôi đâu!

Nghe y nói thế Vô Kỵ mỉm cười và dùng cái cán quạt khẽ điểm vào yếu huyệt ở ngang lưng của đối thủ một cái rồi nói:

– Rạch nơi đây ra một chút, đổ ít thuốc vào trong đó, lấy kim chỉ khâu lại, thế là xua đuổi trùng độc ngay!

Tiên Vu Thông thấy chàng nói như vậy vội xen lời:

– Phải…phải! Ðúng là chữa như thế đấy…Bạn làm ơn chữa ngay cho tôi đi!

– Nếu vậy ngươi phải nói thật ra đi! Trong đời người, ngươi đã làm những việc gì trái với lương tâm?

– Không!…không có…

– Nếu vậy tôi xin cáo lỗi và ngươi cứ việc nằm ở đây bảy ngày bảy đêm đi!

– Không nên… bạn không nên đi vội! Tôi…tôi xin nói…

Nhưng trước mặt đông người như vậy bảo y phải kể những chuyện đã làm trái với lương tâm của mình như vậy thì quả thật là một việc rất khó, cho nên y ngập ngừng một hồi vẫn không dám nói ra.

Ðang lúc ấy bỗng có hai tiếng rú lên rất lớn ở phía Hoa Sơn đang đứng vọng tới, đồng thời có hai người tay cầm đao, phi thân tới trước mặt Vô Kỵ.

Một người cao và một người lùn, tuổi chừng năm mươi.

Ông già lùn, lớn tiếng quát mắng:

– Họ Tăng kia! Người phái Hoa Sơn chúng ta đành chịu chết chứ không thể nào chịu nhục như vậy! Ngươi đối phó với chưởng môn chúng ta như vậy, hành vi của ngươi không phải là bậc anh hùng hảo hán.

Vô Kỵ chắp tay chào và hỏi:

– Chẳng hay hai vị quý tính đại danh là gì?

Ông gìa lùn vẫn tức giận đáp:

– Ngươi chưa xứng hỏi đến danh sư huynh của chúng ta!

Nói xong y cúi mình xuống giơ tay trái ra định ẳm Tiên Vu Thông lên, Vô Kỵ vội đánh một chưởng đẩy lui ông già đó và nói:

– Người y dính đầy những trùng độc, bạn chỉ khẽ va chạm vào người của y một cái thì cũng sẽ bị tai hại như y liền!

Ông già lùn ấy ngơ ngác nhìn chàng, y lại nghe thấy Tiên Vu Thông kêu la:

– Mau cứu tôi…mau cứu tôi…! Bạch Bồn, Bạch sư ca! Tôi…dùng Kim Tầm trùng độc này giết y chết đấy. Ngoài ra không còn có gì nữa và cũng không có việc gì trái lương tâm cả!

Thấy y nói như vậy, hai ông già cao lùn và các đệ tử của phái Hoa Sơn đều kinh ngạc.

Ông già lùn lại nói tiếp:

– Thế ra ngươi đã giết chết Bạch Bồn đấy à? Việc có thật không? Sao ngươi lại bảo Bạch Bồn chết trong tay Minh Giáo?

Tiên Vu Thông lại la lớn:

– Bạch…Bạch sư ca…tha thứ cho tôi…

Y vừa nói vừa vái lạy van lơn, mồm lại nói tiếp:

– Bạch sư ca…sư ca chết thảm thương lắm! Nhưng ai bảo lúc bấy giờ sư ca cứ dồn ép tôi hoài… Sư ca bảo se đem chuyện của Hồ tiểu thư công bố cho mọi người hay. Nếu sư phụ mà biết thì thế nào cũng không tha thứ cho tôi… bắt buộc tôi phải giết sư ca để diệt hậu hoạn. Bạch sư ca, tha thứ cho tôi…

Y hai tay vừa bóp cổ vừa tiếp tục nói:

– Tôi giết hại sư ca để giá họa Minh Giáo, nhưng… tôi đã đốt rất nhiều vàng mã và cũng rất nhiều lần giải oan cho sư ca rồi! Sao sư ca còn tới đây đòi mạng tôi làm chi? Vợ con và gia đình của sư ca cũng đã được tôi trông nom chu đáo.

Tuy lúc bấy giờ mặt trời đang chiếu sáng, trên quảng trường đâu đâu cũng có bóng người, nhưng mấy lời kêu van của Tiên Vu Thông tực như gío âm u, ảm đạm khiến ai nghe thấy cũng phải rùng rợn như oan hồn của Bạch bồn đã hiện ra trước mắt mọi người. Nhất là những người của phái Hoa Sơn quen biết Bạch bồn lại càng hoảng sợ thêm!

Vô Kỵ nghe thấy Tiên Vu Thông nói như vậy cũng phải ngạc nhiên vô cùng! Vì chàng chỉ muốn tên vô ân bội nghĩa này tố cáo việc giết hại em gái Thanh Ngưu ra thôi, ngờ đâu chàng lại nghe tên Vu Thông đã xưng tội là đã giết hại sư huynh của y. Thì ra, tuy Thanh Dương vì y mà chết, nhưng cái chết của nàng là tự tử, còn Bạch Bồn mới do tay y giết chết! Mà cái chết của Bạch Bồn cũng chết bởi Kim tầm trùng độc này, và cũng đã phải lăn lộn kêu gào thảm khốc như vậy. Ngày hôm nay chính bổn thân y cũng chịu đựng như thế nên trong đầu óc y mới tưởng ra Bạch Bồn! Và hình như y trông thấy có oan hồn của Bạch Bồn hiện ra trước mắt vậy.

Vô Kỵ không biết Bạch Bồn là ai cả, nhưng nghe thấy lời nói của Tiên Vu Thông chàng mới hay y ám hại Bạch Bồn rồi vu tội cho Minh Giáo. Vì vậy phái Hoa Sơn mới theo năm môn phái kia lên trên Quang Minh Ðỉnh này vây đánh Minh Giáo là thế!

Chàng suy nghĩ giây lát liền lớn tiếng nói:

– Các vị của phái Hoa Sơn đã nghe thấy chưa? Cái chết của Bạch Bồn không phải do Minh Giáo giết hại. Như vậy quý vị đừng có trách lầm ngườikhác nữa!

Ông già cao lớn lẹ tay múa đao chém luôn vào đầu Tiên Vu Thông một nhát.

Vô Kỵ thấy vậy vội chìa chiếc quạt ra điểm vào con dao của ông già đó một cái, con đao ấy liền bị hất bắn sang một bên và chém xuồng mặt đất kêu đến “bốp” một tiếng, lưỡi đao đã cắm sâu xuống đất hơn một thước!

Hồi thứ 53

Lưỡng Nghi Ðao Pháp

Ông già cao lớn đó nổi giận quát hỏi:

– Người này là phản đồ của bổn phái, ai cũng có quyền giết chết cả. Người hà tất phải ra tay can thiệp đến làm chi?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi đã nhận lời chữa khỏi trùng độc cho y. Lời của tôi đã nói ra là tôi phải làm cho kỳ được! Việc tranh chấp của quý phái mong lão tiền bối để về đến núi Hoa Sơn hãy thông thả thanh toán với nhau sau.

Ông già lùn liền xen lời nói:

– Sư đệ! Người này nói cũng có lý!

Nói xong y liền phi chân đá luôn vào yếu huyệt sau lưng của Tiên Vu Thông một cái. Người của Tiên Vu Thông bị đá bay tung lên, bắn ra đằng xa, rơi xuống đất kêu đến “bốp” một tiếng, rớt xuống ngay chỗ trước mặt của phái Hoa Sơn!

Vu Thông bị đá trúng yếu huyệt, tuy mình mẩy vẫn chưa hết đau đớn, nhưng đã câm miệng không kêu la như trước nữa! Chỉ ở dưới đất co dãn rung động thôi! Tuy y cũng có một vài đệ tử thân tín, nhưng sợ người y có chất độc rất lợi hại nên không ai dám tiến lên cứu giúp y cả.

Ông già lùn nói với Vô Kỵ rằng:

– Anh em chúng tôi là sư thúc của tên Tiên Vu Thông này, bạn đã giúp phái hoa sơn chúng tôi khám phá được một sự bí mật rất quan trọng, khiến Bạch Bồn sư điệt của chúng tôi được giải oan, chúng tôi rất cám ơn bạn!

Nói xong cả hai cùng vái chào Vô Kỵ.

Vô kỵ vội đáp lễ và trả lời:

– Có gì đâu mà quý vị cám ơn tôi như vậy?

Ông già lùn giơ đao lên chém luôn một thế hư, rồi mồm quát lớn:

– Nhưng danh dự của phái Hoa Sơn chúng ta đã bị tên tiểu tử này làm bại hoại hết, trước mặt đông đảo như vậy, nên dù sao anh em chúng ta cũng phải thí cái mạng già này với ngươi!

Ông già cao cũng tiếp lời nói luôn:

– Hôm nay anh em chúng ta thể nao cũng thí cái mạng già này đấu với người chí chết thì thôi!

Ông này tuy to lớn vạm vỡ nhưng việc gì cũng nghe theo ông già lùn, ông già lùn nói gì y cũng bắt chước nói theo ngay!

Vô Kỵ lại hỏi:

– Phái Hoa Sơn, người thanh vẫn là thanh, người tục vẫn là tục, ngẫu nhiên có một tên bại hoại như thế nhưng có ảnh hưởng gì đến quý phái đâu? Bất cứ đại môn phái nào ở trong võ lâm cũng đều có nhưng kẻ mất dạy như vậy nên hai vị hà tất phải áy náy trong lòng như thế làm chi?

Ông già cao liền hỏi lại chàng:

– Theo ý người nói thì không ảnh hưởng phải không?

Vô Kỵ đáp:

– Vâng!

Ông già cao quay lại nói với ông già lùn rằng:

– Sư ca! tiểu tử này bảo không ảnh hưởng gì cả, như vậy chúng ta bỏ qua cho y thôi!

Thì ra tính nết ông già cao rất thẳng thắn. Y có vẻ sợ hãi thầm Vô Kỵ, nên không dám ra tay đánh chàng ngay! ông già lùn lại quát lớn:

– Hãy diệt trừ kẻ địch bên ngoài trước rồi mới quét dọn trong nhà sau. Nếu ngày hôm nay phái Hoa Sơn chúng ta thắng không nổi tên Tiểu tử này thì phái Hoa Sơn chúng ta đứng làm sao ở trong võ lâm được?

Ông già cao thấy sư huynh mình nói như vậy, liền quay lại nói với Vô Kỵ rằng:

– Ðược lắm! Này tiểu tử kia! Chúng ta hai người đánh một mình ngươi! Nếu ngươi cho rằng không công bằng thì ngươi hãy chịu đầu hàng đi!

Ông già lùn cau mày lại quát mắng:

– Sư đệ!…

Vô Kỵ vội tiếp:

– Hai người đánh một mình tôi cũng được! Nếu hai vị thua thì từ giờ hai người đừng có gây thù hằn với Minh Giáo nữa nhé!

Ông già cao thấy chàng nói như vậy cả mừng liền lớn tiếng đáp:

– Hai anh em ta đánh một mình ngươi, thế nào ngươi cũng chết mất! Anh em chúng ta có một pho Luỡng Nghi Ðao Pháp biến hóa khôn lường. Hai người liên đao tấn công kẻ địch thì hàng vạn kẻ địch cũng không sao chống đỡ cho nổi! Ta chỉ lo ngươi đòi một đấu với một thôi, nhưng bây giờ ngươi đã đòi một đấu với hai anh em ta thì thế nào ngươi cũng thua đứt đi rồi! Nhưng ngươi đã nói ra rồi không được đòi đổi lại và cũng không được hối hận đấy nhé!

Vô Kỵ đáp:

– Tiền bối cứ yên chí, không bao giờ tôi đòi hỏi và hối hận đâu! Chỉ mong tiền bối nương tay cho một chút thôi!

Ông già cao lại nói tiếp:

– Ta đã ra tay đánh thì không bao giờ biết nương tay là gì cả! môn Lưỡng nghi đao pháp này càng đánh càng lợi hại chứ ta không có khách khứa gì đâu! Ta thấy ngươi cũng khá đấy! Nếu ta giết chết ngươi thì kể ra cũng đáng tiếc và tội nghiệp thật!…

Ông già lùn lại quát mắng tiếp:

– Câm mồm đi!

Mắng xong, y quay đầu lại nói với Vô Kỵ rằng:

– Mời chú em ra tay trước!

Nói xong, y liền múa đao xông lại chém luôn.

Vô Kỵ chỉ dùng cái quạt của Tiên Vu Thông khẽ đè lên ngang lưng đao và lôi ngang một cái, ông già cao liền lớn tiếng quát bảo:

– Này, này! Không được! Không được!… Ðấu như vậy thà không đấu còn hơn!

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Sao vậy?

Ông già cao trả lời:

– Cái quạt này có thuốc độc, lỡ tay một tí là nguy lắm đấy chứ không phải chơi đâu!

– Vâng! Thứ thuốc độc lợi hại này để lại trên đời chỉ có hại cho người thôi!

Vô Kỵ vừa nói vừa dùng hai ngón tay kẹp cán quạt ném xuống đất một cái. Cái quạt đó cắm phập vào trong đất, trên mặt đất chỉ còn lại có một cái lỗ nhỏ không thôi!

Chàng biểu diễn cái ném đó khiến tất cả những người có mặt tại đó đều phải vỗ tay khen ngợi! Vì ai cũng biết chưa chắc đã có người thứ hai có đủ công lực ném được như vậy!

Ông già cao kẹp thanh đao ở dưới nách vỗ tay khen ngợi và nói:

– Ngươi mau đi lấy khí giới khác lại đây đấu đi!

Vô Kỵ là một người rất thành thật không muốn khoe khoang trước mặt mọi người, nhưng cục diện lúc này nếu không biểu diễn một chút bản lĩnh để trấn áp mọi người thì khó mà bảo được sáu môn phái ngừng tay, và mình muốn trở về Trung Nguyên càng khó thêm, nên chàng hỏi lại ông già cao rằng:

Thưa tiền bối! Theo ý tiền bối thì tôi nên dùng khí giới gì?

Ông già cao, giơ tay lên vỗ vai chàng vài cái rồi vừa cười vừa nói:

– Thằng nhỏ này cũng lý thú đấy! Ngươi muốn dùng khí giới gì thì cứ việc dùng, sao lại đi hỏi ta như vậy?

Vô Kỵ thấy ông già vỗ vai mình như vậy, biết ông ta đã có thiện cảm với mình nên chàng vẫn cứ đứng yên cho ông già nọ vỗ vai. Cử chỉ của hai người khiến các người đứng quanh đó đều giật mình kinh hãi và cùng nghĩ thầm.

– Hai người đối địch với nhau, dù sao cũng không thể để cho kẻ địch tùy tiện vỗ vai mình như thế được! Mà Vô Kỵ lại không nghi ngờ gì cả, cứ để yên cho ông già kia vỗ vai. Nếu ông già kia dùng nội công vỗ mạnh xuống hay là thừa cơ vỗ lén vào yếu huyệt của chàng thì sao? Như vậy không cần tỷ võ mà hai người đã phân thắng bại rồi không?

Nhưng họ có biết đâu Vô Kỵ có thần công hộ thân, dù ông già có manh tâm ám hại chàng như thế nào cũng không làm gì chàng được!

Mọi người lại nghe thấy ông già cao vừa cười vừa nói tiếp:

– Ta bảo ngươi dùng khí giới gì ngươi cũng nghe theo mà dùng khí giới ấy hay sao?

Vô Kỵ mỉm cười và đáp:

– Cái đó không sao!

– Thằng nhỏ này cao cường lắm biết xử hết mười ban võ khí, nhưng bắt ngươi tay không đấu với chúng ta như vậy thì thật là bất công.

– Không sao, mời hai lão tiền bối cứ tấn công.

Ông già cao đưa mắt nhìn xung quanh định kiếm một thứ khí giới gì nặng và khó xử dụng để đưa chàng dùng. Ðột nhiên y thấy ở phía trái quảng trường có mấy tảng đá lờn, mỗi tảng đá nặng ước độ hai ba trăm cân, y liền chỉ tảng đá và nói:

– hôi được, lão phu cũng để ngươi được hơn một chút ngươi hãy xử dụng món khí giới này.

Nói xong, y ngẩng mặt lên trời cười tỏ ý muốn bông đùa Vô Kỵ.

Những tảng đá đó nặng như thế chỉ có thể dùng làm ghế ngồi chớ làm sao mà dùng làm khí giới được.

Không ngờ, Vô Kỵ mỉm cười đáp:

– Món khí giới này cũng lý thú đấy! Có phải lão tiền bối muốn thử võ công của tiểu bối không?

Nói xong, chàng từ từ tiến lại gần tảng đá.

Ông già cao vội xua tay gọi Vô Kỵ:

– Tôi nói đùa với chú em đấy chứ. Thôi, chú em mau mượn đao tới đây thử đao pháp với sư huynh đệ của lão.

Vô Kỵ vẫn đi tới đống đá dùng tay trái nắm lấy một tảng đá lớn nhất, nhẹ nhàng đưa lên trên cao, rồi quay trở lại nói với hai ông già rằng:

– Mời hai vị tấn công đi.

Chàng vừa dứt lời, thì cả người lẫn đá nhảy tới trước mặt hai ông già.

Mọi người thấy chàng sức mạnh như vậy đều há hốc mồm ra nhìn, quên cả khen ngợi.

Ông già cao giơ tay lên nắm lấy râu của mình kéo thẳng và la lớn:

– Thế này… thế này thì thật kỳ lạ quá.

Tới lúc này ông già lùn mới biết, ngày hôm nay đã gặp một đối thủ tài ba cao siêu. Y im lặng nhìn Vô Kỵ rồi nói:

– Lão xin thất lễ trước.

Nói xong, ông già ấy múa đao xông lại tấn công hông bên phải của Vô Kỵ. Ông già cao bỗng lên tiếng hỏi sư huynh:

– Sư ca đánh thật à!

Ông già lùn gật đầu đáp:

– Chẳng lẽ đánh nhau lại đánh giả hay sao?

Ông già lùn vừa nói vừa múa đao nhắm đầu vai Vô Kỵ chém xuống.

Vô Kỵ vội nhảy lùi sang bên để tránh. Ngờ đâu chàng đã thấy ông già cao múa đao chém tới. Chàng quát lớn:

– Hay lắm.

Chàng vừa quát vừa đưa tảng đá lên chống đỡ. Chỉ nghe thấy kêu “coong” một tiếng, lưỡi dao của ông già cao đã chém trúng tảng đá bể vụn và bụi bay mịt mù, Vô Kỵ thuận tay đẩy mạnh tảng đá sang phía bên địch.

Ông già cao lớn tiếng hỏi:

– Ối chà! Ðây là thế Thuận Thủy Thôi Châu (đẩy thuyền đi trên dòng nước xuôi). Thế ra cậu em xử dụng tảng đá lớn này mà cũng có thế võ đấy à?

Ông già lùn lại quát bảo ông già cao rằng:

– Sư đệ mau giở thế Hỗn Nguyên Nhất Phá ra.

Y vừa nói vừa múa đao vòng ngược trở lại nhằm người Vô Kỵ chém luôn.

Ông già cao cũng vội đỡ lời:

– Lưỡng Nghi Hợp Ðức…

Ông già lùn lại tiếp lời sư đệ:

– Nhựt Nguyệt Hối Minh.

Hai ông già mỗi người nói một câu là giở một thế đao ra, liên miên bất tuyệt tấn công đối thủ. Vô Kỵ giở Cửu Dương thần công vận chuyển tảng đá lớn dễ dàng theo ý chàng. Tha hồ hai ông già giở hết Lưỡng Nghi đao pháp ra, nhưng vì tảng đá trong tay quá lớn, Vô Kỵ chỉ khẽ chếch tảng đá sang bên là chống đỡ được thế công của hai ông già.

Hai bên đấu được một hồi lâu, Vô Kỵ bỗng ném tảng đá lên cao hai tay túm lấy cổ hai ông già, dí mặt hai người vào nhau rồi điểm huyệt cho hai người không sao cử động được. Chàng nhảy lùi về phía sau. Tảng đá lớn trên cao đang rơi xuống đầu hai ông già. Vì bị đối thủ điểm huyệt, hai ông già không sao tránh né được nữa. Tảng đá nặng hơn hai trăm cân ấy mà rớt xuống người thì hai ông già bị tan xương nát thịt. Mọi người thấy vậy đều thất thanh kêu la. Nhưng Vô Kỵ đã nhanh tay dùng tả chưởng đánh mạnh về phía trước. Tảng đá đang rơi chỉ còn mấy tấc nữa là trúng đầu hai ông già đã bị chưởng phong của Vô Kỵ đẩy tảng đá văng ra xa hơn trượng rớt xuống đất lún sâu quá nửa. Chàng mỉm cười, lại gần khẽ vỗ vai hai ông già và nói:

– Hai cụ chớ kinh hoàng! Tiểu bối đùa giỡn mà thôi.

Nói xong chàng vỗ mạnh vào người hai ông già một cái, hai ông già đã cử động được liền. Ông già lùn tái mặt thở dài nói:

– Hết rồi… hết rồi!!!

Ông già cao lắc đầu xen lời nói:

– Như thế không kể.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Sao lại không kể?

Ông già cao đáp:

– Vừa rồi cậu thị sức khoẻ mang tảng đá lớn lên, định đánh bẹp anh em lão chứ đâu phải thắng anh em lão bằng những thế võ cao siêu?

Vô Kỵ vừa cười vừa nói:

– Nếu lão tiền bối không kể thì xin tái đấu vậy.

Tái đấu cũng được nhưng phải nghĩ cách gì mới lạ để đấu bằng không, chú em cứ chiếm phần thắng, thì anh em lão có thua cũng không phục chút nào.

Lão tiền bối nói rất phải.

Ông già cao nói với Vô Kỵ rằng:

– Nếu chú em không phục thì khỏi cần đấu nữa, dù sao chú cũng không thua mà chúng tôi cũng không được. Hai bên huề nhau chờ mười năm sau, chúng ta lại tái đấu cũng không muộn…

Ông già lùn thấy sư đệ mình càng nói càng hồ đồ, vì y tự thấy dù sao em y cũng là tiền bối của phái Hoa Sơn, không thể nào đã đấu thua rồi mà lại bảo là chưa thua như thế được. Nên y vội xen lời nói với Vô Kỵ rằng:

– Anh em chúng ta đã nhận thua rồi. Câu bé họ Tăng kia muốn xử trí chúng ta như thế nào, cứ việc ra tay đi!

Vô Kỵ vội đáp:

– Xin lỗi hai vị tiền bối, sự thật tại hạ chỉ muốn giảng hòa quý phái với Minh Giáo thôi, chứ không có ý định gì khác cả.

Ông già cao lại vội tiếp lời:

– Không được! Chưa đấu qua một keo khác, chú bé đã vội đánh trống rút lui như vậy hay sao? Như vậy, chú chả chịu thua là gì?

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Chẳng hay lão tiền bối muốn sao?

Ông già cao đáp:

– Tuyệt nghệ Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn của chúng ta lợi hại như thế nào, vừa rồi chú em đã nếm mùi. Nhưng không biết chú em có biết Chính Lưỡng Nghi đao pháp của phái Côn Luân không? Kiếm pháp đó biến hóa tinh kỳ, ảo diệu lắm không kém đao pháp của phái Hoa Sơn. Nếu đao kiếm hợp bích thì lưỡng nghi hóa tứ tượng, tứ sinh bát quái, âm dương tương điều, thủy hỏa đồng chế… Hà…

Nói tới đó y cứ lắc đầu tắc lưỡi khen ngợi hoài rồi mới nói tiếp:

– Oai lực mạnh vô cùng, mạnh vô cùng, không biết chú em có dám chống đỡ hai pho đao kiếm cùng một lúc không?

Vô Kỵ quay đầu lại nhìn phái Côn Luân và lớn tiếng nói:

– Chẳng hay vị cao nhân nào của phái Côn Luân vui lòng ra chỉ giáo?

Ông già cao vọi cướp lời:

– Người trong phái Côn Luân, chỉ có hai vợ chồng Thiết Cầm tiên sinh mới xứng liên hiệp với anh em lão thôi. Chẳng hay Hà chưởng môn có can đảm không?

Mọi người thấy ông già cao nói như vậy đều mừng thầm và nghĩ:

– Không ngờ ông già này vớ vẫn như thế mà lại khôn ngoan. Chưa biết chừng ông ta lại nói khích vợ chồng chưởng môn của phái Côn Luân cùng ra nhập trận đấu cũng nên?

Hà Thái Sung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau. Tuy vợ chồng không biết hai ông già này là ngươi thế nào của phái Hoa Sơn, nhưng họ thấy hai ông ấy là sư thúc của người chưởng môn của phái Hoa Sơn vai vế cao như vậy, chắc võ nghệ phải cao cường lắm. Có lẽ vì hai anh em ông ta ít bôn tẩu trên giang hồ, nên ít người biết tới tên tuổi họ đấy thôi. Ðồng thời vợ chồng Thái Sung cũng tự cho mình là ít vào Trung Nguyên nên không biết tên tuổi của hai ông già ấy.

Vì vậy cả hai vợ chồng nghĩ:

– Hai ông già địch không nổi thiếu niên họ Tăng kia lại còn muốn lôi kéo vợ chồng ta cùng xuống nước nếu thắng được đối thủ anh em họ sẽ vẻ vang, nhỡ thua thì sao? Hừ, hừ với Lưỡng Nghi kiếm pháp của vợ chồng chúng ta chẳng lẽ lại thua thiếu niên này hay sao?

Ông già cao lại lên tiếng nói tiếp:

– Có lẽ vợ chồng họ Hà của phái Côn Luân không dám đấu với chú em đâu. Ðiều này cũng không thể trách được họ, vì Lưỡng Nghi kiếm pháp của họ tuy lợi hại thật, nhưng hiềm một nỗi là hơi chậm một chút, so sánh với pho Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn thì Lưỡng Nghi kiếm pháp của họ hơi kém một mức.

Thục Nhàn nghe nói cả giận, tung mình nhảy vào trong vòng đấu, chỉ tay vào mặt ông già cao và hỏi:

– Các hạ quý tính danh là gì?

Ông già cao đáp:

– Tôi họ Hà, xin chào Hà phu nhân.

Mọi người nghe thấy ông già nói như vậy không sao nhịn được, đều cười ồ lên vì thấy ông ta đã cầu lợi Thục Nhàn như vậy. Thục Nhàn là Thái Thượng chưởng môn (Tổ sư của người chưởng môn) của phái Côn Luân. Ngày thường chồng của nàng cũng phải sợ nàng ba phần, mấy chục năm nay nàng đã kiêu ngạo quen đi rồi. Xung quanh núi Côn Luân mấy trăm dặm, dân cư đều xem nàng như một nữ hoàng, nên khi nào nàng lại để cho ông già kia diễu cợt mình như vậy. Nàng đột nhiên rút kiếm ra đâm thẳng vào vai trái ông già một nhát. Nàng ra tay nhanh không thể tưởng tượng được, chỉ thoáng cái mũi kiếm của nàng đã sắp đâmtrúng đối thủ rồi. Ông già kinh hãi vô cùng vội giơ đao lên chống đỡ, chỉ nghe thấy kêu “coong” một tiếng, đao kiếm va chạm nhau rất mạnh.

Nhờ vậy, ông già cao mới khỏi bị kiếm của Thục Nhàn đâm phải. Hồi nãy ông già cao đấu với Vô Kỵ thì như bị bó tay bó cẳng, võ công của ông rất tầm thường, nhưng lúc này ông già cao đấu với Thục Nhàn thì khác hẳn, đao pháp của ông ta lợi hại vô cùng.

Hai người vừa đấu xong một thế đao kiếm, đều lùi về phía sau một bước nhìn nhau tỏ vẻ thán phục tài ba của nhau. Hai người môn phái khác nhau, võ công cũng khác lạ, bình sinh chưa gặp nhau bao giờ, nhưng hai người mới đấu với nhau một thế đã cảm thấy võ công của đôi bên nếu liên hiệp đấu với địch thì không còn một chút sơ hở nào cả.

Thục Nhàn liền nghĩ:

– Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn thật lợi hại. Nếu đao pháp của y liên hiệp với kiếm pháp của ta tấn công kẻ địch có thể nói bất cứ võ công của môn phái nào lợi hại đến đâu cũng không sao địch nổi chúng ta.

Nghĩ đoạn, nàng quay đầu lại bảo với chồng rằng:

– Này, anh Thái Xung lại đây.

Tuy không dám trái lệnh vợ, nhưng trước mặt mọi người đông đảo như vậy, Thái Xung vẫn làm ra vẻ của một chưởng môn. Y chỉ dùng giọng mũi trả lời “hừ” một tiếng rồi từ từ đứng dậy.

Lúc ấy bốn tên tiểu đồng dẫn đường đi trước, một bưng trường kiếm, một bưng Thiết Cầm, còn hai tên kia cầm hai phất trần.

Ði tới giữa quảng trường, bốn tên tiểu đồng vái chào một cái, lui về đứng sau lưng Thái Xung.

Thục Nhàn liền nói:

Phản lưỡng Nghi đao pháp phái Hoa Sơn cũng khá lợi hại đấy.

Ông già cao vừa cười vừa xen lời nới:

– Cám ơn Hà phu nhân đã tán thưởng như vậy.

Thục Nhàn liếc y một cái rồi nói tiếp:

– Chúng ta bốn người ra tay đấu với thằng nhãi này để thử xem sự hợp tác của phái Côn Luân với phái Hoa Sơn ra sao.

Nàng vừa nói tới đó, đột nhiên “ủa” một tiếng rồi trợn trừng mắt lên nhìn Vô Kỵ và hỏi:

– Ngươi… ngươi…

Tuy Vô Kỵ đã thay đổi rất nhiều, thân hình đã cao lớn hơn và trên mép đã có lún phún râu, nhưng hình ảnh của chàng vẫn còn in sâu trong đầu óc, nên vừa thoáng thấy nàng đã nhận ngay ra liền.

Vô Kỵ thấy Thục Nhàn hỏi như vậy vội đáp:

– Việc trước kia bà có cần tôi nói ra cho mọi người nghe không? Tôi đây là Tăng A Ngưu.

Thục Nhàn đã hiểu ý định của chàng, biết chàng không muốn cho mọi người biết tên họ chàng. Nếu bây giờ mình vạch rõ tên họ của chàng ra thì thế nào chàng ta cũng tuyên bố những việc thất đức của vợ chồng nàng cho mọi người biết ngay, nên nàng vội giơ trường kiếm lên nói rằng:

– Võ công của Tăng thiếu hiệp đã tiến bộ khá nhiều, thật đáng mừng. Bây giờ hãy xin thiếu hiệp chỉ giáo chúng tôi trước.

Lời nói của Thục Nhàn hiển nhiên là nàng chỉ muốn tỷ thí võ nghệ thôi chứ nhắc nhở đến chuyện cũ làm chi.

Vô Kỵ mỉm cười trả lời:

– Tại hạ vẫn ngưỡng mộ kiếm pháp thần công của Hà phu nhân đã lâu. Vậy bây giờ mong hai vị hãy nương tay cho.

Thái Xung vọi quay lại lấy thanh kiếm ở tay tiểu đồng rồi hỏi:

– Chẳng hay Tăng thiếu hiệp dùng khí giới gì thế?

Vô Kỵ trông thấy mặt Thái Xung, đã nghĩ ngay tới chuyện hai con rắn Kim Quang, Ngân Quang hút độc, mình bị đối thủ ném xuống vực thẳm. Ðôi rắn nhỏ đó không có thức ăn bị chết đói vân.. vân… Vì vậy, chàng càng nghĩ càng thương hai con rắn nhỏ ấy, đồng thời chàng lại nghĩ tới vợ chồng Thái Xung lên núi Võ Ðang bức tử cha mẹ mình, bắt mình uống rượu độc, Thái Xung còn đánh mình mặt mày sưng tím và ném mình xuống núi… Nếu không nhờ được Dương Tiêu đứng cạnh đó ra tay cứu thì lúc này mình đã tan xương nát thịt rồi. Bây giờ còn người đâu mà đứng ở đây làm kẻ giảng hòa nữa?

Vô Kỵ nghĩ tới đó, lửa giận bốc lên bừng bừng và nghĩ thầm:

– Hà Thái Xung mi giỏi lắm bữa nọ mi đánh ta lợi hại như thế nào, ngày hôm nay tuy ta không giết chết mi, nhưng ít ra ta cũng đánh mi một trận tơi bời cho hả tức.

Chàng nghĩ tới đó, đã thấy hai ông già với hai vợ chồng Thái Xung đứng ở bốn góc: hai người cầm đao, hai người cầm kiếm, ở dưới ánh sáng mặt trời phản chiếu lại thành tia sáng lấp loáng. Chàng đột nhiên giương hai cánh tay lên, người thẳng như cây gậy, nhảy lên trên cao, khi lướt qua cây mai gần đó, giơ tay trái bẻ luôn một cành rồi mới nhảy xuống.

Mọi người thấy chàng giở kinh công tuyệt diệu ra như vậy, đều thán phục vô cùng. Rồi lại thấy chàng tay cầm cành hoa mai từ từ đi tới giữa bốn người kia rồi nói:

– Tại hạ dùng cành hoa mai nầy làm khí giới để lãnh giáo võ nghệ cao siêu của hai phái Côn Luân và Hoa Sơn.

Cành hoa mai đó có chừng mười bông hoa, nửa số hãy còn là nụ chưa nở. Mọi người thấy chàng nói vậy kinh ngạc vô cùng và nghĩ thầm:

– Cành mai này khẽ va chạm là gãy liền, đem ra so sánh với kiếm và đao sắc bén như thế kia sao được.

Thục Nhàn cười nhạt đáp:

– Hay lắm, thiếu hiệp không coi võ công của hai phái Côn Luân và Hoa Sơn vào đâu cả.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tại hạ nghe tiên phụ nói, năm xưa Hà Túc Ðạo tiên sinh, một vị tiền bối phái Côn Luân với Cầm, Kỳ, kiếm tam hiệp đã lừng danh thiên hạ, mà được người trong võ lâm xưng là Côn Luân Tam Thánh. Chỉ tiếc rằng chúng tôi hậu sinh quá muộn, không được chiêm ngưỡng những tài ba của vị tiền bối đó, rất lấy làm ân hận.

Mấy lời nói của chàng khiến mọi người đều hiểu chàng có ý khen những tiền bối của phái Côn Luân như vậy là muốn bảo những nhân vật của phái Côn Luân bây giờ không chống đỡ nổi một cái đánh của chàng. Ðang lúc ấy, trong phái Côn Luân bỗng có một người lên tiếng quát lớn:

– Tên gà con kia, mi có tài ba gì mà dám vô lễ với sư phụ ta như thế?

Giọng của người đó khàn khàn như tiếng thanh la bị bể vậy. Y vừa quát xong, đã ở trong đám đông nhảy ra liền. Lúc đó, mọi người mới thấy rõ y là một đạo sĩ, ăn mặc áo đạo bào màu vàng, râu mọc rất rậm, trông thật hung tợn. Y vừa ra tới đã múa kiếm nhằm sau lưng Vô Kỵ đâm luôn. Thân pháp của y rất nhanh, tuy y có lên tiếng cảnh cáo trước rồi mới tấn công sau, nhưng sự thật không khác vào đánh lén vậy.

Vô Kỵ không thèm quay lại nhìn, chờ mũi kiếm của đạo sĩ sắp đụng vào lưng mình mới đưa chân trái về phía sau hất một cái, rồi lại dẫm luôn thanh kiếm ấy xuống đất. Ðạo sĩ ấy dùng hết sức bình sinh để rút kiếm về, nhưng không sao rút được, lúc này Vô Kỵ mới từ từ quay lại nhìn mặt Ðạo sĩ đó.

Chàng mới hay Ðạo sĩ này không phải ai xa lạ chính là Tây Hoa Tử, khi chàng ở bể về Trung Nguyên gặp y lần đầu ở trên thuyền. Tính y rất nóng nảy hễ lên tiếng là vô lễ với mẹ chàng ngay. Nên chàng vừa trông thấy mặt Tây Hoa Tử đã mủi lòng ngay và hỏi:

– Ðạo trưởng có phải là Tây Hoa Tử không?

Tây Hoa Tử mặt đỏ bừng không trả lời cố hết sức rút gươm, Vô Kỵ bỗng rụt chân lại, thuận thế dùng mũi giày điểm vào lưỡi kiếm một cái. Tây Hoa Tử không ngờ đối thủ lại buông chân ra như vậy, nên y bị bắn giựt lùi về phía sau. Cũng may, y không phải là tay tầm thường, đã vội dùng tấn Thiên Cân Trụy ra giữ thăng bằng để cho khỏi té ngã. Nhưng y đã thấy một luồng sức mạnh truyền qua đẩy người y một cái thật mạnh nên y vẫn phải ngồi ngã phịch xuống đất, tiếp theo đó, có mấy tiếng kêu “keng! keng!” vang lên. Thì ra thanh trường kiếm trong tay y đã bị gãy làm mấy khúc, trong bàn tay y lúc bấy giờ chỉ còn cầm cái cán kiếm không mà thôi!

Tây Hoa Tử hổ vừa kinh hãi vừa xấu hổ vô cùng. Y liếc nhìn thấy sư nương mặt đầy vẻ hờn giận, y biết phen này mình đã làm mất sĩ diện cho sư môn rất lớn, chắc sau khi về tới núi, thế nào cũng sẽ bị khiển trách nặng nề, nên y càng hoảng sợ thêm, vội tung mình nhảy lên và quát lớn:

– Ðồ tiểu tặc…!

Ðáng lẽ Vô Kỵ định tha cho y quay trở về chỗ cũ, nhưng chàng nghe thấy y mắng mình là “đồ tiểu tặc” là đã làm nhục đến cha mẹ mình, nên chàng cầm cành mai khẽ phất một cái, thế là ba nơi yếu huyệt ở ngực và bụng của y đã bị chàng điểm trúng!

Nhưng mặt chàng vẫn làm bộ như không hay biết gì hếtmà quay lại nói với hai ông già và vợ chồng họ Hà rằng:

– Mời quý vị hãy xông vào tấn công đi!

Thục Nhàn vội lên tiếng quát mắng Tây Hoa Tử rằng:

– Ði ngay! Mi làm như vậy không đủ làm mất sĩ diện cho các người lớn rồi hay sao?

Tây Hoa Tử đáp:

– Vâng!

Nhưng y không sao có thể lê bước đi được. Thấy vậy Thục Nhàn càng nổi giận thêm:

– Ta bảo ngươi đi ra ngay! Có nghe chưa?

– Vâng, vâng! Thưa sư nương, vâng!

Mồm y tuy nói như vậy nhưng chân y vẫn không sao cử động được, Thục Nhàn tức giận hết sức liền nghĩ thầm:

– Sao Tây Hoa Tử bữa nay lại bỗng nhiên đâm ra bướng bỉnh với ta như vậy?

Thì ra vì Vô Kỵ điểm huyệt Tây Hoa Tử rất nhanh, Thục Nhàn mắt nhanh như vậy mà cũng không trông thấy kịp, nên khi nàng nghĩ xong, liền giơ tay ra đẩy vào vai Tây Hoa Tử một cái thật mạnh và quát:

– Bảo đứng ra đằng kia! Ðừng có ở đây làm vướng tay người khác!

Tây Hoa Tử bị Thục Nhàn đẩy xô ra ngoài xa mấy bước, chân tay vẫn cứng đờ tựa như một khúc gỗ!

Lúc này vợ chồng Thái Xung mới biết đồ đệ mình đã bị Vô Kỵ điểm huyệt mà mình không hay gì cả, nên cả hai cùng kinh hãi thầm.

Thái Xung giơ tay ra định giải huyệt cho Tây Hoa Tử nhưng y xoa đi xoa lại hoài mà Tây Hoa Tử vẫn nằm cứng đờ như trước.

Vô Kỵ liền chỉ Bất Hối đứng tựa Dương Tiêu và nói:

– Năm xưa, cô bé kia bị hai vị phong bế huyệt đạo cưỡng ép uống thuốc độc. Tôi không có cách nào giải huyệt đạo cho nàng, thì ngày hôm nay lệnh môn đồ cũng vậy. Cách điểm huyệt của quý phái và bổn phái khác nhau, nên ngài giải không được, cái đó có gì là lạ.

Mọi người nghe thấy chàng nói như vậy liền quay lại nhìn Bất Hối, thấy nàng trạc mười lăm, mười sáu thôi.

Như vậy, năm xưa khi nàng bị vợ chồng Thái Xung điểm huyệt tất nhiên còn bé nhỏ hơn bây giờ nhiều. Vợ chồng Thái Xung là chưởng môn của một đại môn phái như vậy, mà lại hà hiếp một cô bé nhỏ thế kia thì quả thật mất hết giá trị một vị chưởng môn. Thục Nhàn thấy mọi người nhìn mình bằng cặp mắt khinh thị liền nghĩ thầm:

– Nói nhiều chuyện cũ làm chi có ích lợi gì đâu?

Nghĩ đoạn, nàng múa kiếm nhằm mặt Vô Kỵ đâm luôn, đồng thời kiếm của Thái Xung cũng đâm vào phía sau lưng đối thủ.

Còn hai ông già phái Hoa Sơn cũng ra tay tấn công một lúc.

Vô Kỵ chỉ nhún mình một cái đã xuyên qua được hai đao và hai kiếm, còn múa cành mai qua trước mặt Thái Xung một cái bắt buộc Thái Xung phải đưa tréo thanh kiếm ra đâm vào lưng chàng để chàng phải hạ cành mai mà gạt kiếm của mình.

Vô Kỵ dùng ngón tay trỏ bên tay trái búng con dao của ông già lùn và cành mai của chàng thì gạt trường kiếm của Thái Xung, Thái Xung định dùng lưỡi kiếm chém vào cành mai, bụng nghĩ thầm:

– Võ công của mi dù cao siêu đến đâu, cành mai của mi dù thế nào cũng không thể chống đỡ nổi thanh kiếm sắc bén của ta.

Ngờ đâu, cành mai của Vô Kỵ cứ theo lưỡi kiếm của y mà quay tít.

Thái Xung bỗng cảm thấy trên cành mai có một luồng sức dịu dàng đẩy lưỡi kiếm của mình bắn sang bên. Chỉ nghe thấy kêu “coong” một tiếng, kiếm của y vừa đụng lưỡi đao của ông già cao chém tới, ông già đó thấy vậy vội la lớn:

– Ối chà, Hà Thái Xung sao ngươi lại giúp địch chém đao của ta như vậy?

Thái Xung mặt đỏ bừng không dám tự nhận kiếm của mình bị nôi lực của địch bắn ra, nên y chỉ trả lời:

– Nói bậy!

Y lại múa kiếm đâm mạnh vào người Vô Kỵ một nhát, lúc ấy Thục Nhàn đang đợi chờ ở phía sau, hễ Vô Kỵ lùi bước là tấn công luôn.

Hai ông già cao, lùn cùng giở Lưỡng Nghi đao pháp ra tấn công, hai môn đao pháp và kiếm pháp của Lưỡng Nghi ấy, tuy chính phản Lưỡng Nghi khác nhau, nhưng đều thoát thai ở trong Bát quái, cho nên bốn người đó càng đấu càng thuận tay, đao kiếm phối hợp tương phùng.

Vô Kỵ cũng đoán biết bốn người này phối hợp ra tay, thế nào cũng lợi hại lắm nên có mấy lần chàng suýt bị nguy hiểm. nếu khí giới ở trong tay chàng là đao kiếm thì chàng còn vân dụng nội công mà chấn gãy khí giới của đối phương. Nhưng lúc đầu chàng quá tự phụ chỉ dùng một cành mai để đối phó với địch thôi, nên lúc này có hối hận thì đã muộn rồi. Ðột nhiên chàng thấy đao của ông già lùn ở dưới đất chém tới, chàng vội tung mình nhảy lên tránh né, Thục Nhàn lẹ tay đâm luôn một kiếm quát lớn:

– Trúng!

Quả nhiên kiếm đó đã đâm trúng đùi Vô Kỵ.

Vô Kỵ vội quay ngón tay lại điểm kiếm của Thục Nhàn thì trường kiếm của Thái Xung đã đâm tới một lúc. Nhất thời, không thể nào chống đỡ luôn bốn thế công của bốn đối thủ như vậy, chàng sực nghĩ ra một kế vội nhảy đến phía sau Tây Hoa Tử, Thục Nhàn đuổi theo đâm một kiếm, thế kiếm này của nàng độc và mạnh vô cùng. Nàng chỉ muốn giết chết Vô Kỵ ngay tại đây. Vô Kỵ ở phía sau Tây Hoa Tử thấy vậy vội co dúm người lại, nên kiếm của Thục Nhàn suýt chút nữa thì đâm trúng Tây Hoa Tử. Nàng vội gạt kiếm sang bên, Tây Hoa Tử hoảng sợ đến thất thanh kêu:

– Ối chà!

Khi Thái Xung ở trái tấn công tới, Vô Kỵ vội nhảy sang cạnh Tây Hoa Tử tránh né. Lúc này chàng vẫn chưa tìm ra yếu chỉ của hai môn chính phản Lưỡng Nghi võ công ấy. Chàng chưa nghĩ ra được cách phá giải nên chàng chỉ nhảy qua nhảy lại bên người Tây Hoa Tử tránh né. Chàng phải lấy tạm người Tây Hoa Tử làm cái mộc tạm chống đỡ và tránh né những đao kiếm kia. Tuy vậy chàng vẫn tự nhủ trách thầm.

Vết thương trên đùi của chàng tuy không nặng lắm nhưng máu tươi vẫn nhỏ giọt, trông tình thế của chàng lúc này rất tơi bời. những người đứng xem cạnh đó không sao nhịn được đều cất tiếng cười ồ. Thì ra lúc đó Tây Hoa Tử đứng cạnh đó cũng như tảng đá, còn Vô Kỵ cứ chạy đi, chạy lại quanh người y. Khi đao kiếm của bọn Thái Xung bốn người đâm chém tới chỉ còn một ly một tí là đâm trúng Vô Kỵ hay Tây Hoa Tử, thì Tây Hoa Tử đã thất thanh kêu la:

– Ủa!

– Ố!

– Ối chà!

Nhưng y chỉ kêu la như vậy thôi chứ không sao cử động được, quả thật là nguy hiểm và hoạt kê vô cùng.

Thục Nhàn càng tức giận thêm, thấy mấy lần sắp đâm được Vô Kỵ rồi, đều bị người của Tây Hoa Tử làm vướng chân vướng tay. Nàng chỉ muốn một kiếm chém người đồ đệ đó ra làm đôi cho bõ ghét. Nhưng vì tình thấy trò, nàng không thể nào hạ độc thủ được.

Ông già cao của phái Hoa Sơn thấy vậy liền cất tiếng nói:

– Hà phu nhân, nếu phu nhân không ra tay chém thì lão phải ra tay chém đây.

Thục Nhàn hậm hực đáp:

– Ngươi muốn làm gì thì làm ta không biết!

Ông già cao liền múa đao chém luôn vào ngang lưng Tây Hoa Tử.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Nguy tai! Nếu để cho y chém chết Tây Hoa Tử có phải ta mất cái mộc để chống đỡ đao kiếm không? Vả lại Tây Hoa Tử vì mình mà chết thì mối oán thù này lại càng rắc rối thêm.

Nghĩ đoạn, chàng dùng tay áo bên trái phất mạnh một cái, một luồng gió đã đẩy lưỡi đao của ông già sang một bên.

Ông già lùn lẳng lặng múa đao tấn công luôn Vô Kỵ.

Vô Kỵ vội nhảy sang bên phải tránh né, đao của ông già lùn vẫn không thay đổi phương hướng mà chw1m luôn vào vai của Tây Hoa Tử, còn là giả bộ như lỡ tay, mồm thì lớn tiếng nói:

– Tây Hoa Ðạo huynh cẩn thận!

Thì ra ông già lùn là người rất đa mưu trí, y biết nếu chém chết Tây Hoa Tử thế nào cũng kết thù oán với phái Côn Luân nên y mới phải giả bộ làm như lỡ tay như thế, thì dù y có chém chết Tây Hoa Tử phái Côn Luân cũng không thể trách cứ y được. Nhưng Vô Kỵ đã quay lại dùng chưởng đẩy mạnh vào ngực ông già lùn ấy.

Ông già lùn bỗng ngạt thở vội dùng chưởng trái đẩy tay của Vô Kỵ ra, còn tay kia vẫn nhắm người Tây Hoa Tử chém xuống. Nhưng khi chưởng của y va chạm vào chưởng của đối thủ thì người y bị đẩy bắn về phía sau, suýt tí nữa té liền.

Hồi thứ 54

Ðộc chiến cao thủ

Tây Hoa Tử thấy Vô Kỵ hai lần ra tay cứu mình thoát chết trong lòng có vẻ cảm động nghĩ thầm:

– Nếu ngày hôm nay ta thoát chết thì thế nào ta cũng không để yên cho hai lão tặc cao, lùn của phái Hoa Sơn kia.”

Lúc ấy vợ chồng Hà Thái Xung thấy Vô Kỵ nhất trí bảo vệ Tây Hoa Tử như vậy cả hai đều nghĩ thầm:

– Tiểu tử này thêm một sự lo lắng như vậy tất nhiên y càng bó tay bó chân hơn trước, và như thế chúng ta có thể dễ hạ được y hơn.”

Hai vợ chồng Hà Thái Xung không cám ơn Vô Kỵ đã ra tay cứu đồ đệ mình thì chớ, lại còn nhân dịp này mà tấn công mạnh mẽ và ác độc hơn trước.

Những tay cao thủ của các môn phái Thiếu Lâm, Võ Ðang, Nga Mi, v.v… thấy vợ chồng Hà Thái Xung đê hèn như vậy đều lắc đầu thở dài, và ai nấy cũng tỏ vẻ hổ thẹn nữa, và cảm thấy trong tình thế này bốn người kia có giết chết Vô Kỵ đi chăng nữa mình càng cảm thấy hổ thẹn với lương tâm.

Thế đao của hai ông già cao, lùn không chịu buông lỏng, lúc tấn công Vô Kỵ lúc chém Tây Hoa Tử. Tuy trong đó Vô Kỵ là vai chính thật nhưng hai ông già muốn đả thương chàng rất khó. Nên chúng mới tấn công Tây Hoa Tử để dụ chàng ra tay cứu, như vậy mới dễ thành công hơn. Vì vậy, hai con đao của hai ông già tấn công Tây Hoa Tử nhiều hơn là đâm chém Vô Kỵ.

Vô Kỵ thấy càng đấu tình thế càng bất lợi, liền nghĩ thầm:

– Ta địch không nổi dù có chết cũng không sao, nhưng hà tất ta phải bắt đạo sĩ này chết lây vì ta?

Nghĩ đoạn, chàng liền dùng chưởng đẩy hai ông già cao và dùng cây mai giải huyệt đạo cho Tây Hoa Tử.

Lúc ấy con dao của ông già lùn vừa chém tới bên dưới của Tây Hoa Tử, chàng vội phi thân đá vào cổ tay đối thủ, ông già lùn vội rút tay lại. Không ngờ, Tây Hoa Tử vừa thấy chân tay cử động được đã giở quyền đấm một cái vào mũi ông già đó liền, máu mũi chảy ra như suối. Sự thật, võ công của ông già ấy cao siêu hơn Tây Hoa Tử nhiều, nhưng vì y không ngờ Tây Hoa Tử cử động được, nên khi Tây Hoa Tử đấm, y không kịp chống đỡ nên mới bị thương như thế.

Mọi người thấy vậy đều ha hả cười.

Ban Thục Nhàn thấy vậy cũng không nhịn được cười vội lên tiếng bảo Tây Hoa Tử rằng:

– Tây Hoa Tử ngươi mau lui ngay!

Tây Hoa Tử đáp:

– Vâng! Nhưng ông già cao còn nợ đệ tử một quyền.

Nói xong, y giơ tay ra định đánh ông già cao, nhưng ông già lùn đã xông lại dùng khuỷu tay thích mạnh vào ngực y một cái. Y loạng choạng mấy bước suýt té ngã, mồm hộc máu tươi liền.

Hà Thái Xung dùng tả chưởng để vào sau lưng y đẩy mạnh một cái.

Người của y đã bị đẩy ra ngoài xa mấy trượng.

Hà Thái Xung đẩy Tây Hoa Tử ra ngoài xong, liền múa kiếm xông lại đâm Vô Kỵ luôn.

Hai ông già cao, lùn cũng xông lại tấn công Vô Kỵ. Chướng ngại vật là Tây Hoa Tử đi khỏi, đao, kiếm bốn người lại càng phối hợp chặt chẽ vô cùng, nội lực của Vô Kỵ rất sung túc, nên dù có đấu cả ngày đêm cũng không mệt nhọc, nhưng thế công của bốn người kia quá tinh diệu và biến hoá vô cùng. Cho nên càng đấu càng cảm thấy áp lực đối phương nặng. Mọi người đứng ngoài xem cũng nhận thấy đấu thêm vài trăm hiệp nữa thì thế nào chàng cũng bi đối phương giết chết.

Sự thật, đao kiếm Chính Phản Lưỡng nghi pháp của phái Hoa Sơn và phái Côn Luân đây đều dựa theo Bát quái mà phát minh ra nên nó còn tinh diệu hơn Càn Khôn Ðại Nã Di của Tây Vực nhiều. Nhưng vợ chồng Hà Thái Xung và hai ông già cao, lùn mới luyện tới mức hai ba thành thôi, bằng không Vô Kỵ đã bị chúng chém hay đâm chết từ lâu rồi. Mặc dầu Vô Kỵ có nội lực kinh người như thế mà cũng không sao thoát khỏi vòng vây của chúng được. Ðấu thêm hồi lâu nữa, Vô Kỵ đã thử mấy lần biết muốn xông ra khỏi vòng vây không khó chút nào, nhưng chàng bỏ chạy như thế thì làm sao mà giải được mối nguy cơ cho Minh giáo? Nên chàng mới quyết định cứ nghiêm mật mà bảo vệ, đấu cho đối phương mỏi mệt hết rồi mới tuỳ cơ phản công lại. Nhưng kẻ địch bốn người không phải là tay tầm thường đấu mãi chưa có vẻ gì tỏ ra mỏi mệt cả.

Mặc dầu đã đấu được trên bốn trăm hiệp rồi, dù bọn chúng thắng thế hơn, nhưng chúng vẫn không sao đâm chém Vô Kỵ được. Lúc ấy, các trưởng lão và cao thủ của các môn phái đứng xem quanh đó, đều giơ tay chỉ trỏ những thế võ đang đấu, thế nào lợi hại, thế nào kém linh động, để dạy các đệ tử của phái mình.

Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi nói với các đệ tử rằng:

– Võ công của thiếu niên này quái dị lắm, nhưng vẫn không hơn được bốn người của phái Côn Luân và Hoa Sơn. Hiện giờ y còn bị địch thủ tấn công đến nỗi bó chân bó tay, võ công của Trung Nguyên bác đại tinh thâm lắm. Võ công bàng môn tả đạo của Tây Vực so sánh sao bằng. Lưỡng nghi hoá tứ tượng, tứ tượng hoá bát quái, chính biến có tất cả sáu mươi tư thế, kỳ biến cũng vậy. Chính kỳ tương hợp, sáu mươi tư nhân với sáu mươi tư, hoá ra bốn nghìn lẻ chín mươi sáu thế biến hoá tất cả. Các thế võ công trên thiên hạ này biến hoá phức tạp đến đâu cũng không thể nào nhiều bằng Chính Phản Lưỡng nghi đao kiếm pháp này được.

Từ khi thấy Vô Kỵ ra đấu với mọi người đến giờ, Chỉ Nhược lúc nào cũng quan tâm đến thắng bại của chàng. Nàng là môn hạ của phái Nga Mi, đã được Diệt Tuyệt sư thái cưng nhất nên nàng đã được Sư Thái truyền thụ cho rất nhiều môn võ bí truyền.

Lúc này liền lớn tiếng hỏi:

– Thưa sư phụ! Thế võ của Chính Phản Lưỡng nghi này tuy nhiều thật, nhưng dù sao cũng không thoát khỏi nguyên lý thái cực hoá thành âm dương lưỡng nghi.

Dương chia làm thái dương và thiếu âm, còn âm thì chia làm thiếu dương và thái âm, bốn thứ đó hợp thành tứ tượng. Ðệ tử thấy thế võ của bốn vị tiền bối này quả thật tinh diệu, nhưng lợi hại nhất là những phương vị ở dưới chân.

Giọng nói của nàng rất thanh thoát, nên ai ai cũng đều nghe thấy rõ và đồng quay lại nhìn nàng.

Tuy đang kịch chiếu với bốn tay cao thủ, Vô Kỵ vừa nghe thấy những lời nói đó, chàng liếc nhìn mới hay người vừa nói đó chính là Chỉ Nhược.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Tại sao nàng lại nói lớn tiếng như vậy? Phải chăng nàng có ý chỉ điểm cho ta biết cũng nên!

Chàng còn nghe thấy Diệt Tuyệt Sư thái nói tiếp:

– Mắt con cũng tinh tường đấy. Ðã nhận xét ra được những điểm cốt yếu võ công của các vị tiền bối như vậy!

Chỉ Nhược lại lẩm bẩm nói tiếp:

– Càn nam, Khôn bắc, Ly đông, Khảm tây, Chấn đông bắc, Ðoài đông nam, Tốn tây nam, Cấn tây bắc, từ Chấn đến Càn là thuận, từ Tốn đến Khôn là nghịch.

Thưa sư phụ, đúng như sư phụ đã dạy, Chính Lưỡng nghi kiếm pháp của phái Côn Luân lúc nẫy đi từ Chấn vị tới Càn vị, như vậy là thuận, còn Phản Lưỡng nghi đao pháp của phái Hoa Sơn thì từ Tốn vị tới Khôn vị, như vậy là nghịch. Thưa sư phụ, chẳng hay ý kiến của con có đúng không?

Diệt Tuyệt Sư thái thấy đồ đệ của mình chỉ rõ được như vậy, trong lòng mừng thầm liền gật đầu đáp:

– Con thông minh lắm! Không uổng công sư phụ đã dạy bảo cho con bấy lâu nay!

Xưa nay Diệt Tuyệt Sư thái rất ít khen ngợi người, mà hôm nay phải lớn tiếng khen ngợi Chỉ Nhược như vậy, thấy Sư thái cưng người đồ đệ này biết bao!…

Diệt Tuyệt Sư thái quá mừng rỡ nên không để ý đến cái nguyên cớ gì sao Chỉ Nhược lại nói lớn tiếng như thế, nhưng những người đứng quanh đó đã có một số người biết được nàng lớn tiếng nói như vậy thì chắc thế nào cũng có một dụng ý gì ở bên trong? Chỉ Nhược thấy có nhiều người đang đưa mắt nhìn mình nàng liền giả bộ sung sướng một cách ngây thơ vừa vỗ tay vừa la lớn:

– Phải rồi! Phải!… Trong Tứ Tượng chưởng của phái Nga Mi chúng ta, trong cái tròn có cái vuông, âm dương tương thành, tròn ở bên ngoài là dương, vuông ở bên trong là âm. Tròn chuyển động nên là trời. Vuông nằm yên bên trong là đất. Thiên địa âm dương, vuông tròn động tịnh hình như còn hơn Chính Phản Lưỡng nghi này!

Xưa nay Duyệt Tuyệt Sư thái vẫn tự phụ Tứ Tượng chưởng của mình là tuyệt học của thiên hạ, nay bà ta nghe thấy Chỉ Nhược nói như vậy, gãi đúng lòng tự kiêu của mình nên rất hả lòng tự đắc, liền nói tiếp:

– Nguyên lý của nó là thế thật, nhưng cần phải xem người sử dụng công lực với kinh nghiệm ra sao trước?

Hồi còn nhỏ, Vô Kỵ có nghe thấy cha giảng giải Bát quái phương vị, nhưng vẫn chưa tin tưởng lắm, nay chàng nghe thấy Chỉ Nhược nói đến nguyên lý Tứ tượng thuận nghịch như thế nào, chàng liền rùng mình tỉnh ngộ vội để ý xem bước đi của bốn kẻ địch. Quả nhiên theo Tứ tượng bát quái mà biến ra, nên Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp của mình không thể nào thi thố được. Sự thật võ học của Tây Vực dù sao cũng không thể nào tinh thâm bằng võ học của Trung thổ được. Sở dĩ Vô Kỵ đấu lâu như thế mà không bại là vì chàng đã luyện được tới mức rất cao siêu, trái lại võ công của bốn người kia hãy còn non nớt. Bây giờ chàng đã biết nguyên lý võ công đối phương rồi, chỉ trong thoáng cái chàng đã nghĩ ra được bảy tám cách đối địch. Cách nào của chàng cũng có thể đánh cho bốn người kia té ngã, nhưng chàng lại nghĩ tiếp:

– Nếu lúc này ta giở những thế võ này hạ đối thủ, chỉ sợ Diệt Tuyệt sư thái trách cứ Chỉ Nhược. Bà già ấy độc ác lắm, việc gì bà ta cũng có thể làm được, như vậy có phải là ta đã làm liên luỵ đến nàng hay không?”

Thế rồi chàng vẫn giữ nguyên những thế võ cũ, không thay đổi tý nào, còn một mặt thì chàng chăm chú quan sát những thế của bốn kẻ địch, chàng đã biết rõ nguyên lý võ công của đối thủ rồi, nên chàng không còn bối rối như trước nữa. Chỉ thoáng cái chàng hiểu thấu được hết những bí quyết về võ công của Trung Thổ liền.

Chỉ Nhược thấy chàng vẫn chưa thay đổi thế võ để đối phó cùng kẻ địch, trong lòng nàng đã thấy nóng như lửa đốt, nàng liền nghĩ thầm rằng:

– Có lẽ chàng ta đang mải đối phó nên chưa nghĩ ra được thế võ tinh vi để phá thế võ của địch cũng nên!

Nàng thấy vợ chồng Hà Thái Xung càng bao vây càng chặt chẽ, còn Vô Kỵ thì hình như cầm cự không nổi, nàng bỗng đánh liều múa kiếm nhảy ra lớn tiếng nói:

– Bốn vị tiền bối của phái Côn Luân và Hoa Sơn đấu mãi vẫn không hạ nổi tiểu tử này, chi bằng hãy để cho phái Nga Mi chúng tôi đấu với y thử xem!

Hà Thái Xung cả giận quát mắng:

– Ngươi chớ có nói lôi thôi phá bĩnh! Mau bước ra đằng kia!

Ban Thục Nhàn cũng cau mày trợn mắt hỏi:

– Tiểu tử này là người thế nào của mi mà mi lại định ra đây bênh vực cho y? Mi muốn phản phải không? Phải biết phái Côn Luân chúng ta không phải dễ đối phó đâu!

Chỉ Nhược thấy vợ chồng Hà Thái Xung nói đúng tâm sự của mình, xấu hổ vô cùng, hai má đỏ bừng.

Diệt Tuyệt sư thái cũng lớn tiếng quát bảo:

– Chỉ Nhược! Mau quay trở lại! Phái Côn Luân của người ta không phải dễ đối phó đâu! Con có nghe thấy không?

Lời nói của sư thái vừa nhạo báng Ban Thục Nhàn vừa có vẻ bênh vực môn đồ của mình.

Vô Kỵ thấy vậy cảm động vô cùng, liền nghĩ tiếp:

– Nếu ta còn giả bộ địch không nổi đối thủ, chỉ e Chỉ Nhược thế nào cũng nghĩ cách khác ra tay trợ giúp ta. Nếu để Diệt Tuyệt sư thái biết rõ tâm sự của nàng thì nàng sẽ bị nguy hiểm lắm!

Nghĩ đoạn, chàng ha hả cười rồi lớn tiếng nói:

– Tôi là thủ hạ bại tướng của phái Nga Mi, đã bị Diệt Tuyệt sư thái bắt giữ, như vậy tất nhiên võ công của phái Nga Mi phải cao siêu hơn phái Côn Luân chứ!

Nói xong, chàng bước sang trái hai bước, dùng cành mai ở bên tay phải kéo mạnh một cái, đã có một luồng sức mạnh đánh phủ vào phía sau lưng ông già. Thế công này của chàng chỉ vừa đúng mức, nên đao của ông già bỗng xoay chiều nhằm vai của Ban Thục Nhàn chém xuống luôn. Thì ra, thế công này Vô Kỵ đã sử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di theo phương vị bát quái mà đẩy thế đao của ông già lùn sang phương khác. Ban Thục Nhàn kinh hãi vô cùng, vội xoay gươm lại chống đỡ. Ngờ đâu đao của ông già cao lại nhằm người nàng chém tới. Hà Thái Xung thấy bị nguy hiểm vội múa kiếm xông lại gạt đao của ông già cao sang bên. Vô Kỵ lại thuận tay đánh luôn một chưởng, đẩy mũi đao của ông già lùn đâm vào bụng Hà Thái Xung.

Ban Thục Nhàn cả giận, nhanh tay đâm luôn ba kiếm một lúc, dồn ông già lùn chân tay cuống quýt lên.

Ông ta vội la lớn:

– Chúng ta chớ có mắc hỡm thằng nhỏ này!

Lúc này Hà Thái Xung mới tỉnh ngộ, vội xoay kiếm lại đâm Vô Kỵ. Nhưng lưỡi kiếm của y mới đâm tới nửa đường đã bị Vô Kỵ dùng Càn Khôn Ðại Nã Di đẩy mũi kiếm của y sang bên trái. Mũi kiếm đâm trúng cánh tay trái của ông già cao kêu đánh “soẹt” một tiếng, ông già đau đớn chịu không nổi kêu la om sòm, vội giở đao lên nhằm đầu Hà Thái Xung chém mạnh xuống, ông già lùn vội gạt đao của sư đệ mình, quát:

– Sư đệ chớ có loạn óc như vậy, đó là tiểu tử kia dở trò ma quỷ để hại chúng ta đấy. Ôi chà!…

Thì ra trong lúc ông già lùn đang nói, Vô Kỵ đã đẩy thế kiếm của Ban Thục Nhàn đâm ngay vào sau vai ông ta một nhát. Chỉ trong thoáng cái, hai ông già của phái Hoa Sơn đã một trước một sau bị thương. Những người đứng xem quanh đó đều kêu lên.

Vô Kỵ lại dùng cành mai khẽ gạt một cái, đao của ông già cao liền nhằm hông bên trái Ban Thục Nhàn đâm luôn, và chàng lại khiến kiếm của Hà Thái Xung đâm vào bụng dưới của ông già lùn. Ðấu thêm vài hiệp nữa, vợ chồng Hà Thái Xung lại bỗng nhiên dùng kiếm đâm nhau. Và ông già cao với ông già lùn cũng chém lẫn nhau nốt.

Tới lúc này, mọt người đã thấy rõ, sở dĩ bốn người đó đâm chém nhau như vậy là do Vô Kỵ dùng tay và khí giới xui nên.

Nhưng không ai biết rõ chàng dùng phương pháp gì mà khiến đối thủ lại đâm chém lẫn nhau như vậy.

Chỉ có một mình Quang Minh tả sứ Dương Tiêu đã học qua môn Càn Khôn Ðại Nã Di mới biết chàng dùng võ thuật gì thôi. Nhưng y không dám tin trên thế gian này có người luyện võ công tới mức tinh xảo như vậy.

Lúc ấy, trong trận đấu, vợ chồng họ Hà với sư huynh đệ hai ông già cao lùn càng đâm chém lẫn nhau càng hăng, khiến những người đứng xem bên ngoài không sao nhịn được đều ôm bụng cười ồ.

Tha hồ Ban Thục Nhàn cứ luôn mồm chỉ bảo Hà Thái Xung rằng:

– Xoay sang vị trí Vô vọng, tiến lên vị trí Mông, cướp lại vị trí Quy muội…

Nhưng bốn người vẫn bị võ công Càn Khôn Ðại Nã Di của Vô Kỵ bao trùm bốn mặt, tám phương. Bất luận họ cố gắng xoay sở đến đâu, đao kiếm của họ vẫn không nghe theo lời sai bảo của họ mà cứ đâm vào nhau.

Ông già cao lại lớn tiếng kêu gọi:

– Sư ca chém nhẹ một tý có được không?

Ông già lùn đáp:

– Ta chém tên tiểu tặc chớ có phải chém ngươi đâu.

– Sư ca cẩn thận, con đao của đệ đã chuyển hướng, sắp chém phải sư ca đấy…

Quả nhiên, ông già đó chưa nói dứt lời, lưỡi đao của ông ta đã chéo vào lưng ông già lùn liền.

Hà Thái Xung cũng lên tiếng:

– Nương tử, tiểu tặc này…

Ban Thục Nhàn vội ném trường kiếm xuống đất, ông già lùn thấy vậy liền nghĩ thầm:

– Phải đấy, chúng ta không dùng khí giới, chỉ dùng quyền và chưởng tấn công y thì y không còn dùng tà pháp như trước được nữa.

Nghĩ đoạn, ông ta vứt ngay đao xuống, múa quyền nhắm ngực Vô Kỵ đấm luôn.

Ngờ đâu, trường kiếm của Hà Thái Xung vừa chém tới, ông ta không có khí giới chống đỡ đành phải thâu quyền lại, vội cúi đầu tránh né.

Ban Thục Nhàn vội la lớn:

– Chúng ta vứt hết khí giới đi!

Hà Thái Xung hất mạnh một cái, trường kiếm ném ngay ra đằng xa, ông già cao cũng vứt đao, tay trái dùng Cầm nã thủ nhắm cổ Vô Kỵ chộp luôn. Ông ta thấy năm ngón tay đã nắm trúng cổ của đối thủ, vội dùng sức bóp chặt, thấy cổ của đối thủ cứng như gỗ, ông ta định thần nhìn kỹ, mới hay tay mình đang nắm cán đao của mình thì ngạc nhiên vô cùng.

Thì ra trong khi ông ta vứt đao đi, Vô Kỵ đã nhanh tay nhặt lấy và nhét luôn vào bàn tay đối thủ. Vì chàng ra tay quá nhanh nên ông già cao mới tưởng lầm đã nắm trúng cổ của kẻ địch rồi. Ông già cao nói:

– Ta đã bảo không dùng khí giới mà.

Nói xong, ông ta lại vứt đao xuống dưới đất, ngờ đâu Vô Kỵ lại nhanh tay nhặt lên nhét luôn vào tay ông ta.

Kẻ ném người nhặt mấy lần như vậy, ông già cao không sao vứt được đao của mình đi.

Ông ta kinh ngạc vô cùng và cũng tự cho đó là chuyện rất quái lạ nên ông ta cười và nói:

– Lạ thật, thằng nhỏ hôi thối này có phép thuật chăng?

Lúc ấy, ông già lùn với vợ chồng họ Hà, người múa chưởng, kẻ dùng quyền cùng xông lại tấn công Vô Kỵ một lúc. Quyền chưởng của phái Hoa Sơn và phái Côn Luân không kém gì khí giới của họ nên cũng lợi hại vô cùng, nhưng thân hình của Vô Kỵ không khác gì một con cá cứ trơn tuột. Nhiều khi những người đứng xem bên ngoài trông thấy chàng bị ba bốn đối thủ đánh trúng đến nơi, mà không hiểu chàng dùng cách gì tránh thoát hết được. Ðồng thời, hễ chàng ra tay tấn công thì bốn kẻ địch không sao chống đỡ nổi. Ðấu tới đây bốn người biết khó bề thắng nổi chàng, nên người nào người nấy chỉ muốn rút lui một cách toàn vẹn mà thôi.

Ông già cao đột nhiên la lớn:

– Tiểu tử hôi thối kia, coi chừng ám khí của ta.

Y vừa nói vừa khạc một cái, một cục đờm nhằm Vô Kỵ nhổ tới, Vô Kỵ đành phải né mình để tránh, nhân dịp đó ông già cao liền vứt thanh đao về phía sau lưng, mồm thì vừa cười vừa nói:

– Thế nào! Mi còn bắt buộc ta… Ôi chà! Xin lỗi…

Thì ra Vô Kỵ vừa tránh né, vừa lôi tay kéo người Ban Thục Nhàn đến phía sau mình nên cục đờm của ông già cao trúng ngay vào giữa lông mày nàng.

Ban Thục Nhàn tức giận quá mức, quyết tâm cùng hi sinh tính mạng với kẻ địch một lúc, nàng vội giơ mười đầu ngón tay ra nhắm mặt Vô Kỵ chộp luôn. Phía sau chàng lại có ông già lùn đang giơ hai tay định chộp vai cản đường nên chàng không còn đường lui nữa. Ông già cao và Hà Thái Xung thấy từ khi đấu đến giờ mới có dịp may như vậy đều xông lại tấn công một lúc, bụng nghĩ thầm:

– Lần này mi bị chúng ta vây, tha hồ chúng ta cấu xé. Tuy không đẹp người xem, nhưng khi nào chúng ta chịu bỏ lỡ dịp may này. Phen này xem mi còn giở trò gì ra tránh né nữa không?

Mọi người chỉ nghe thấy Vô Kỵ rú lên một tiếng thánh thót, người thì nhảy lên trên cao, hai tay cùng giở thần công Càn Khôn Ðại Nã Di ra một lúc.

Mọi người chỉ thấy chàng ở trên không khẽ xoay mình một cái đã bắn ra ngoài xa và hạ chân xuống chỗ cách trận đấu chừng hơn trượng. Lúc ấy trong trận, mọi người trông thấy Hà Thái Xung đang ôm chặt lưng vợ, Ban Thục Nhàn túm đầu vai chồng, hai ông già ôm nhau vật lộn, cả bốn người đều lăn lộn trên mặt đất.

Vợ chồng họ Hà đã nhận ra đối thủ của mình không phải là kẻ địch mà là người nhà, vội buông tay đứng dậy liền, còn ông già cao thì lớn tiếng la:

– Bắt được rồi, lần này xem mi còn đào tẩu đi đâu? Ôi chà, không phải…

Ông già lùn nổi giận quát mắng:

– Chú có buông ta ra không?

– Sư huynh không buông tay trước, tôi buông làm sao được?

– Nói ít một câu có được không?

Lúc này ông già cao cũng nổi giận trả lời:

– Anh cũng hơn tôi là mấy mà cứ làm bộ mình là sư ca, hơi tí là lên tiếng mắng tôi liền.

Ông già lùn buông hai tay ra quát lớn:

– Ðứng dậy đi!

Dù sao ông già cao cũng tung mình đứng dậy.

Ông già cao quay người lại nói với Vô Kỵ:

– Này tiểu tử hôi thối kia, ngươi chỉ giở tà pháp ra chứ có phải là đấu võ đâu, như vậy không phải là anh hùng hảo hán.

Ông già lùn biết có đấu thêm nữa cũng chỉ bêu xấu với thiên hạ thôi nên y đường hoàng tiến lên chắp tay chào Vô Kỵ và nói:

– Võ công của các hạ quả thật cái thế, lão chưa hề được thấy ai có tài ba như các hạ! Phái Hoa Sơn chúng tôi xin chịu thua!…

Vô Kỵ vội đáp lễ:

– Hậu bối không dám! Cái thắng của hậu bối hôm nay cũng là do sự may mắn đấy thôi. Vừa rồi bốn vị không nương tay thì hậu bối đã bị mất mạng dưới Chính-Phản Lưỡng nghi đao kiếm pháp của quý vị rồi.

Mấy lời nói của chàng rất khiêm tốn và khôn khéo vô cùng.

Ông già cao lấy làm đắc chí, vội xen lời nói:

– Thực à? Ngươi cũng bảo là mình đã thắng một cách may mắn à?

Vô Kỵ lại hỏi:

– Chẳng hay hai lão tiền bối quý tính đại danh là gì? Xin cho tiểu bối được hay để sau này nếu có gặp mặt thì tiểu bối biết mà tiện bề xưng hô!

Ông già cao đáp:

– Sư ca lão là Oai trấn…

Ông già cao vừa nói đến đấy đã bị ông già lùn quát mắng:

– Câm mồm!

Y mắng xong, liền quay lại nói tiếp với Vô Kỵ rằng:

– Anh em lão đây là kẻ bại tướng hổ thẹn vô cùng, nên tiện danh không đáng nói ra làm bẩn tai các hạ.

Nói xong y liền quay người trở vào đám đông của phái Hoa Sơn.

Ông già cao thấy vậy vừa vỗ tay cười vừa nói:

– Thắng bại là sự thường của binh gia! Lão đây không hề bận tâm đến vấn đề đó!

Y vừa nói vừa cúi mình xuống nhặt lấy hai thanh đao đã cong queo rồi thủng thẳng đi về phía chỗ ông già lùn liền.

Vô Kỵ đi tới cạnh Tiên Vu Thông, cúi xuống điểm vào chỗ hai yếu huyệt của y và nói:

– Việc ở đây xong xuôi ta sẽ chữa độc cho ngươi! Lúc này ta điểm huyệt như vậy là để ngăn chặn không cho độc khí chạy vào trong trái tim của ngươi.

Chàng đang nói bỗng phía sau lưng có gió lạnh thổi tới và cảm thấy hơi đau nhức, chàng kinh hãi vô cùng, không kịp tránh né, vội nhún chân nhảy lên trên cao. Thân hình của chàng nhanh như điện chớp bay tà tà lên trên không. Chàng liền nghe thấy hai tiếng kêu “bộp… bộp…” rất khẽ và một tiếng kêu “Ôi chà!”, chàng vội quay đầu lại nhìn, liền thấy hai thanh trường kiếm của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đã song song cắm vào ngực Tiêu Vũ Thông rồi.

Thì ra vợ chồng họ Hà, nửa đời người tung hòanh thiên hạ chưa gặp địch thủ, nào ngờ ngày hôm nay lại bại dưới tay Vô Kỵ trước mặt mọi người nên cả hai người đều tức giận. Trong lúc vợ chồng họ cúi xuống nhặt kiếm, vừa thấy Vô Kỵ đang cúi mình điểm huyệt cho Tiên Vu Thông liền thuận tay dùng hai thanh kiếm, sử dụng một thế vô thanh vô sắc, nhằm ngay ngực Tiên Vu Thông ném luôn…

Thế kiếm vô thanh vô sắc là một tuyệt chiêu của phái Côn Luân, cần phải hai người cùng sử dụng một lúc mới được và công lực hai người phải ngang nhau và nội kình cũng phải ngang nhau mới có thể sử dụng được thế kiếm này. Thế kiếm ấy không hề phát ra tiếng động, nếu sử dụng trong bóng tối thì kẻ địch dù lợi hại đến đâu cũng bị hạ ngay. Nếu sử dụng thế kiếm này ban ngày mà đánh trộm sau lưng kẻ địch thì kẻ địch cũng không sao hay biết mà phòng bị cho được. Nhưng vợ chồng y có ngờ đâu Vô Kỵ có Cửu Dương thần công hộ thân nên đao kiếm của họ vừa đâm rách áo của chàng, thấy đau chàng đã vận thần công ra bảo vệ thân thể ngay. Vợ chồng y lúc ấy đã không sao thu thế kiếm ấy lại kịp mới lỡ tay giết chết người đồng môn của họ rồi.

Khi Vô Kỵ hạ chân xuống đất đã thấy những người đứng quanh đó xôn xao chê vợ chồng Hà Thái Xung là đê hèn.

Ðã trót thì phải trét, vợ chồng Hà Thái Xung không đếm xỉa gì đến lời chê trách của mọi người xôn xao lúc bấy giờ, cùng xông lại tiếp tục tấn công Vô Kỵ, trong bụng của cả hai đều nghĩ thầm rằng:

– Ở phía sau lưng đánh lén như vậy đã là đê hèn vô cùng rồi mà cũng không hạ được y, sau này chúng ta còn mặt mũi nào sống ở trên đời được nữa? Chi bằng bây giờ vợ chồng mình cố gắng giết chết y, rồi vợ chồng mình cũng tự tử chết đi cho rồi!”

Vô Kỵ tránh né luôn mấy thế, thấy thế kiếm nào của vợ chồng họ Hà cũng đều đấu một cách thí mạng, hình như muốn mình với địch cùng chết một lúc vậy. Chàng bỗng nghĩ ra một kế, liền ngồi xổm xuống, hốt lấy một nắm đất, dùng mồ hôi của bàn tay vo thành hai viên nho nhỏ, lúc ấy chàng thấy Hà Thái Xung ở bên trái, Ban Thục Nhàn ở bên phải cùng tấn công tới, chàng vội nhảy tới cạnh xác của Tiên Vu Thông, giả bộ thò tay vào túi của cái xác đó rồi mới quay mình lại dùng song chưởng tấn công hai người.

Vợ chồng họ Hà thấy ngực như bị đè nén, làm nghẹn hơi rất khó thở liền cùng há hốc mồm ra để phun hơi.

Vô Kỵ liền nhanh ném luôn hai viên bi đất đó vào mồm của hai người.

Hai vợ chồng Hà Thái Xung cùng ho lên mấy tiếng nhưng không làm sao mà nhổ hai viên đất ấy ra cho được. Cả hai đều kinh hãi thất sắc vì họ thấy hai viên thuốc đó Vô Kỵ lấy trong người của Tiên Vu Thông ra thì chắc thế nào cũng là một thứ thuốc độc gì đây? Nên hai người cùng nghĩ đến tình trạng thảm khốc của Tiên Vu Thông vừa rồi, lại càng kinh hãi thêm lên. Ban Thục Nhàn hoảng sợ đến suýt chết giấc.

Vô Kỵ chờ vợ chồng Hà Thái Xung thực hoảng sợ rồi mới thủng thẳng nói:

– Tiên Vu chưởng môn vẫn hay nuôi Kim Tầm, lúc nào cũng đem theo trong người, giấu ở trong một viên bao sáp. Vừa rồi hai vị đều nuốt phải, nếu vội nhổ ra trong lúc bao sáp chưa tan hết thì hoạ may còn có phương cứu chữa!

Vợ chồng Hà Thái Xung thấy Vô Kỵ nói như vậy càng hoảng sợ thêm, vội cố gắng vận nội lực để cố sức nhổ viên độc dược ấy ra, nhưng hai viên đất đó vào tới trong bụng họ đã tan hết rồi, thì làm sao mà còn có thể nhổ ra cho được!

Ông già cao của phái Hoa Sơn liền tới gần hai người, thấy hai người nôn oẹ những đất bùn ra liền chỉ vào đất bùn đó rồi vừa cười vừa nói:

– Ối chà! Ðây là phần của con Kim Tầm, Kim Tầm vừa vào đến bụng của hai người đã vội phóng uế ra ngoài rồi!…

Ban Thục Nhàn nghe nói liền kinh hãi và tức giận vô cùng, không biết lấy ai để tiết hờn, vừa gặp ông già cao bước tới và nói như vậy bao nhiêu sự tức giận đều đổ trút lên đầu của ông già đó, vội dùng tay trái đánh vào người ông già đó rất nặng.

Ông già cao cúi đầu tránh rồi vừa chạy vừa lớn tiếng nói:

– Ác phụ của phái Côn Luân kia! Mi đã giết chết đệ tử của bổn phái, phái Hoa Sơn của chúng ta nhất định không chịu để yên cho mi đâu!

Vợ chồng họ Hà nghe thấy ông già cao nói như vậy, trong lòng càng buồn bực thêm, nên cả hai cùng nghĩ thầm:

– Tuy Tiên Vu Thông là người gian ác thực, nhưng dù sao y cũng là chưởng môn của phái Hoa Sơn, vợ chồng chúng ta đã lỡ tay giết chết y gây nên một mối hoạ hiếm có trong võ lâm…”

Nhưng lúc này vợ chồng y thấy rằng mình đi nuốt phải Kim Tầm và cũng sắp phải chết đến nơi, nên vợ chồng y thấy cũng không cần bận nghĩ đến sự việc ấy nữa. Cả hai bây giờ chỉ có Vô Kỵ mới có thể cứu họ thoát chết mà thôi, nhưng họ cũng thừa biết từ trước đến nay mình toàn bạc đãi với Vô Kỵ như vậy thì có khi nào chàng ta lại chịu ra tay cứu chữa cho mình?

Vô Kỵ cười nhạt và nói:

– Hai vị khỏi phải kinh hoàng! Tuy Kim Tầm đã chui vào bụng của hai vị nhưng chất độc của nó phải sáu tiếng đồng hồ sau mới lan ra. Chờ hậu bối kết liễu việc lớn ở đây xong, thế nào cũng nghĩ cách mà cứu chữa giúp cho hai vị! Chỉ mong Hà phu nhân đừng có để rượu độc cho hậu bối uống như trước nữa thì hậu bối cám ơn vô cùng!

Vợ chồng họ Hà nghe chàng nói thế cả mừng vô cùng, tuy họ bị Vô Kỵ nói mỉa mai vài lời, nhưng họ vẫn can tâm chịu nhịn! Còn câu cám ơn thì vợ chồng họ ngượng mồm không dám lên tiếng nói, nên chỉ ầm ừ rồi trở về chỗ các đệ tử của mình mà đứng.

Vô Kỵ nói với theo họ rằng:

– Hai vị mau xin phái Không Ðộng bốn viên Ngọc Ðộng Hắc Thạch đơn uống trước đi! Như vậy chất độc mới không chạy vào trái tim.

Hà Thái Xung khẽ đáp:

– Cám ơn đã chỉ giáo cho!

Nói xong y liền phái đại đệ tử đi xin phái Không Ðộng mấy viên thuốc để uống.

Vô Kỵ cười thầm, vì chàng biết Hắc Thạch đơn đó là một thứ thuốc giải độc, nhưng uống xong, hai tiếng đồng hồ sau bụng sẽ đau như dao cắt! Một lát sau, quả nhiên vợ chồng họ Hà thấy bụng đau không sao chịu nổi, lại tưởng là Kim Tầm trúng độc ở trong bụng đang bắt đầu lâm nguy, chớ họ đâu có dè là mình đã bị mắc mưu Vô Kỵ!

Sở dĩ Vô Kỵ làm như thế, chỉ để cảnh cáo vợ chồng Hà Thái Xung và cũng để doạ nạt cho họ một phen thôi, chứ sự thật chàng không hề có ý định tâm trả thù. Nếu chàng định tâm báo thù thì khi nào lại đối xử với vợ chồng Hà Thái Xung nhẹ tay như vậy!

Phía bên kia Diệt Tuyệt sư thái nói với Tống Viễn Kiều rằng:

– Tống đại hiệp! Sáu đại môn phái chỉ còn quý phái với bổn phái hai phái thôi!

Lão ni là phái nữ lưu, vậy mong Tống đại hiệp đứng ra chủ trì toàn cục!

Tống Viễn Kiều đáp:

– Tiểu đạo đã bị Hân giáo chủ đánh thua một trận rồi, kiếm pháp của sư thái thần thông như vậy chắc thế nào cũng chế phục nổi tên tiểu bối này!

Diệt Tuyệt sư thái cười nhạt một tiếng, rút ỷ Thiên kiếm ở trên lưng xuống, từ từ đi ra đấu trường.

Nhị hiệp Dư Liên Châu của phái Võ Ðang từ đầu chí cuối cứ ngắm nhìn cử chỉ của Vô Kỵ hoài, chàng thấy võ công của Vô Kỵ tinh kỳ như thế cũng lấy làm ngạc nhiên và nghĩ thầm:

– Kiếm pháp của Diệt Tuyệt sư thái tuy mạnh thât, nhưng chưa chắc đã giỏi bằng bốn tay cao thủ của hai phái kia liên hiệp chiến đấu, nếu bà ta thất bại lần nữ, phái Võ Ðang lại chế phục không nổi thằng nhỏ này thì sáu đại môn phái chúng ta đều thua nó hết hay sao? Ðể ta hãy thử hư thật của nó ra sao trước mới được!

Nghĩ đoạn, chàng nhanh chân đi vào đấu trường trước, vừa nai nịt lại cho gọn gàng vừa nói:

– Thưa sư thái! Xin sư thái để cho năm sư huynh đệ chúng tôi thử tài cùng thiếu niên kia trước, rồi sư thái ra đấu với y, như vậy chỉ đấu một trận là thắng liền!

Mấy lời nói của chàng đã tỏ ra nội lực của phái Võ Ðang xưa nay vẫn được người ta khen ngợi là dẻo dai và lớn rộng. Từ Tống Viễn Kiều cho tới Mạc Thanh Cốc, năm người lần lượt đấu với Vô Kỵ, dù không thắng cũng có thể làm cho đối thủ mỏi mệt. Rồi khi ấy Diệt Tuyệt sư thái mới dùng kiếm thuật rất lợi hại ra đấu với đấu thủ, như vậy trận đấu của phái Nga Mi thế nào cũng chiến thắng.

Diệt Tuyệt sư thái hiểu dụng ý của Liên Châu liền nghĩ thầm.

– Phái Nga Mi của ta hà tất phải chịu mang ơn phái Võ Ðang như thế làm chi? Mà làm như vậy thì đã cho chúng ta có thắng đi nữa thì cũng chẳng vẻ vang chút nào! Ðối với một hậu sinh tiền bối, chưởng môn của phái Nga Mi hà tất phải cầu lợi như thế làm chi?

Tuy nhận thấy võ công của Vô Kỵ lợi hại, nhưng bà ta đoán chắc người của các môn phái sở dĩ bị chàng đánh bại là vì chính họ võ công rất tầm thường.

Bà ta nghĩ tới ngày nọ ở trên mặt tuyết, mình chỉ cần giơ tay ra là bắt được thằng nhỏ này liền… Càng nghĩ bà ta càng yên trí rằng thế nào cũng thắng Vô Kỵ dễ như chơi, nên bà ta liền phất tay áo một cái và nói với Dư Liên Châu rằng:

– Xin Dư nhị hiệp hãy trở về chỗ , ỷ Thiên Kiếm của lão ni một khi đã rút ra khỏi bao rồi, không thể nào tự tiện cắm lại vào bao lại một cách suông sẻ được!

Liên Châu nghe thấy Diệt Tuyệt sư thái nói như vậy liền chắp tay chào và rút lui liền.

Diệt Tuyệt sư thái cầm kiếm ỷ Thiên từ từ đi tới trước mặt Vô Kỵ.

Có rất nhiều giáo chúng của Minh Giáo đã bị hy sinh dưới mũi kiếm ỷ Thiên nên khi thấy và ta ra khiêu chiến, ai nấy đều tức giận.

Diệt Tuyệt sư thái quay về phái những người cười nói, bàn tán đó rồi cười nhạt một tiếng, nói:

– Kêu la cái gì? Ðể lão sư thái này giải quyết thằng nhỏ kia xong sẽ kết liễu các ngươi sau. Các ngươi hiềm vì chưa được chết đó ư?

Thiên Chính biết thanh kiếm ỷ Thiên của bà rất lợi, đã có nhiều tay cao thủ của Minh giáo bị giết hay bại trận bởi thanh kiếm ác độc ấy rồi, nên lão anh hùng liền khẽ hỏi:

– Tăng thiếu hiệp định dùng khí giới gì để đối phó với kẻ địch thế?

Vô Kỵ đáp:

– Cháu không có khí giới, vậy cụ bảo cháu nên dùng thứ gì để đối phó với thanh kiếm trong tay bà ta bây giờ?

Chàng đã từng được mục kích thanh ỷ Thiên Kiếm của Diệt Tuyệt sư thái và biết nó sắc bén vô cùng. Trong lòng chàng lúc ấy quả thực chưa biết nghĩ rằng mình sẽ dùng gì để đối phó với bà ta cả.

Thiên Chính thấy vậy, liền từ từ rút thanh kiếm của mình ra và đáp:

– Lão tặng cho chú em thanh kiếm Bạch Hồng này! Kiếm này tuy không nổi tiếng bằng thanh ỷ Thiên của tặc ni thực, nhưng nó cũng là một thanh kiếm hữu hạng trong giang hồ!

Nói xong, lão anh hùng dùng ngón tay búng vào thanh kiếm một cái, thanh kiếm đó cong queo như làn sóng ngay và có tiếng kêu rất thanh thoát!

Vô Kỵ cung kính đỡ lấy thanh kiếm ấy:

– Xin cám ơn cụ đã cho cháu thanh kiếm báu!

– Thanh kiếm này theo lão đã mấy chục năm và đã giết chết khá nhiều tiểu nhân gian trá. Ngày hôm nay lão lại muốn trông thấy nó được uống máu nơi cổ họng của lão ni kia thôi! Như vậy dù lão có chết cũng không còn thấy thiếu thốn cái gì nữa cả!

– Hậu bối thế nào cũng xin tận lực làm hài lòng lão tiền bối!

Nói xong, chàng cầm thanh kiếm Bạch Hồng, quay người lại, hai tay nắm cán kiếm chào sư thái và nói:

– Kiếm pháp của hậu bối không sao địch nổi kiếm pháp của sư thái và cũng không dám đối địch tay đôi với tiền bối như vậy. Tiền bối đã ngừng tay không giết giáo chúng của Nhuệ Kim Kỳ của Minh giáo rồi. Vậy lúc này cũng mong sư thái nương tay cho!

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:

– Bọn giặc của Nhuệ Kim Kỳ là do mi cứu giúp chứ Diệt Tuyệt sư thái này không hề tha thứ cho ai hết! Bây giờ nếu người thắng nổi trường kiếm của ta thì lúc ấy người muốn gì cũng được cả.

Giáo chúng của Ngũ Hành Kỳ thấy Diệt Tuyệt sư thái nói như vậy càng tức giận thêm, đều đồng thanh la lớn:

– Lão tặc ni kia! Có dám đấu tay không với Tăng thiếu hiệp không?

Diệt Tuyệt sư thái mặt trở nên lầm lì. Bà ta làm ra vẻ như không để ý đến những lời nói khích bác đó mà chỉ lớn tiếng quát bảo Vô Kỵ rằng:

– Tấn công đi!

Vô Kỵ chưa chính thức luyện kiếm pháp bao giờ. Lúc này đột nhiên bảo chàng sử dụng kiếm thì bảo sao chàng không cuống quít? Sau chàng bỗng sực nghĩ đến Lưỡng Nghi kiếm pháp của Hà Thái Xung vừa rồi, thế kiếm nào cũng rất tinh kỳ, chàng liền bắt chước một thế kiếm Lưỡng Nghi, đưa thanh kiếm tà tà ra đâm đối thủ.

Diệt Tuyệt sư thái thấy vậy liền ngạc nhiên và thất thanh nói:

– ủa! Ðây là thế kiếm Tiêu Bích Ðoạn Vân của phái Côn Luân đây mà!

Bà ta vừa nói, vừa múa kiếm nhằm yếu huyệt của Vô Kỵ mà đâm tới chớ không thèm đỡ thế kiếm của chàng vừa đâm mình! Bà ta ra tay vừa mạnh vừa nhanh, lợi hại vô cùng!

Vô Kỵ rất kinh hãi, vội lướt sang bên để tránh né, nhưng mũi kiếm của Diệt Tuyệt sư thái đã đâm đến yết hầu của chàng rồi.

Chàng thất kinh vội ngã người về phía sau, lộn mấy vòng để tránh né. Ðang định đứng dậy, chàng lại nghe thấy ở phía sau cổ lại có một luồng gió mạnh ùa tới, biết nguy tai đến nơi, chàng vội đạp mạnh chân một cái, người bắn lên cao và ngoài xa luôn.

Thế tránh này của chàng rất tuyệt diệu, các người đứng xem quanh đó đang định lên tiếng khen ngợi nhưng họ đã thấy Diệt Tuyệt sư thái phi thân nhảy tới, không đợi chờ người của Vô Kỵ hạ chân xuống đất, đã múa kiếm bao vây lấy người chàng rồi.

Vô Kỵ đang lơ lửng trên không, chàng thấy mình không còn cách nào tránh né được nữa, chàng biết lúc này nếu hạ thân xuống nửa thước là hai chân sẽ bị đối phương chém gãy ngay, mà nếu mình hạ thân xuống ba thước thì lưng của mình thể nào cũng bị chém đứt làm đôi tức thì.

Ðang lúc kinh hiểm vô cùng, chàng lại bỗng sực nhớ đến một điều. Chàng liền vội giở Càn Khôn Ðại Nã Di ra, không cần nghĩ ngợi, chàng vội giơ trường kiếm ra điểm luôn. Mũi kiếm Bạch Hồng của chàng đụng vào mũi kiếm ỷ Thiên, thanh kiếm của chàng cong như cái cung rồi kêu “coong” lên một tiếng, thanh kiếm đó đã bắn ngược trở lên, chàng liền mượn sức ấy mà tung mình nhảy lên trên cao!

Diệt Tuyệt sư thái vẫn không nương tay, đuổi theo tấn công luôn ba kiếm liền. Khi bà ta sắp tấn công đến thế kiếm thứ ba thì người của Vô Kỵ cũng vừa trầm xuống, chàng đành phải dùng kiếm Bạch Hồng ra chống đỡ. Lại nghe thấy tiếng “coong” một tiếng nữa, thanh kiếm của chàng giờ đây chỉ còn lại một khúc thôi!

Nhân cơ hội, chàng liền thuận tay giơ chưởng lên đánh luôn một cái vào đầu Diệt Tuyệt sư thái. Bà ta thấy vậy định khoa kiếm chặt cổ tay chàng.

Vô Kỵ chờ ỷ Thiên kiếm sắp chém tới nơi liền dùng ngón tay búng mạnh một cái, người chàng đã bay ngược trở lại tức thì.

Riêng về Diệt Tuyệt sư thái thì bà ta cũng thấy cánh tay tê tái, hồ khẩu tay rung động rất mạnh, bảo kiếm suýt rời khỏi tay bởi cái búng rất lợi hại vừa rồi của đối phương. Bà ta kinh hãi vô cùng, nhưng đã thấy Vô Kỵ đứng ở ngoài xa hơn hai trượng tay cầm thanh kiếm gãy, đứng ngẩn người ra nhìn. Trận đấu này vừa bắt đầu, Diệt Tuyệt sư thái ra tay đã tấn công luôn tám thế, thế kiếm nào cũng độc ác vô cùng, thế mà Vô Kỵ đều hoá giải được hết, mặc dầu chàng đứng ở địa vị lép vế hơn. Nhưng rõ ràng mọi người trông thấy chàng sắp sửa bị đối thủ đâm chết đến nơi, mà chàng lại tránh né được một cách hết sức tài tình. Hai người, kẻ thì tấn công vô cùng tinh xảo, mà người tránh cũng lại hết sức kỳ ảo.

Mọi người đứng xem, tới lúc này mới hòan hồn và mới cùng vỗ tay khen ngợi.

Vừa rồi trong lúc Vô Kỵ búng thanh kiếm khiến đối thủ bán thân tê tái nếu chàng biết nhân dịp may ấy phản công lại thì thế nào cũng thắng lợi. Nhưng khốn nỗi, chàng thiếu kinh nghiệm đối địch, nên mới không biết nắm lấy dịp may hi hữu đó.

Diệt Tuyệt sư thái thấy võ công của Vô Kỵ tiến bộ một cách nhanh chóng và kỳ lạ như vậy, trong lòng cũng ngạc nhiên vô cùng. Nhưng bà ta đã định thần ngay được và bảo Vô Kỵ rằng:

– Ngươi hãy đổi thanh kiếm khác rồi hãy tái đấu với ta!

Vô Kỵ nhìn thanh kiếm gãy và nghĩ thầm:

– Thanh bảo kiếm này là của ông ngoại cho ta, vừa ra đấu, ta đã để cho kẻ địch làm huỷ thanh kiếm liền, như vậy ta thật có lỗi với ông của ta lắm. Bây giờ làm gì có bảo đao kiếm sắc bén nào chống đỡ nổi ỷ Thiên Kiếm kia chớ?

Chàng đang ngẫm nghĩ, Chu Ðiên bỗng lớn tiếng nói:

– Lão có một thanh bảo đao đây, chú em hãy sử dụng thanh bảo đao này của lão mà đối địch với lão tặc ni!

Vô Kỵ đáp:

– Ỷ Thiên Kiếm sắc bén lắm, chỉ sợ làm hư bảo đao của lão tiền bối thôi.

– Hư hỏng cũng không sao, chú em cứ lấy mà sử dụng đi. Nếu chú em địch không nổi lão tặc ni, thì chúng ta đây đều chết hết còn tính mạng đâu nữa mà bảo vệ thanh bảo đao này?

Vô Kỵ thấy Chu Ðiên nói nghe cũng phải, liền đến đỡ lấy thanh bảo đao của ông ta.

Dương Tiêu thấy chàng tới gần, vội khẽ dặn:

– Trương công tử, đừng có nhường nhịn cứ việc ra tay mà tấn công đi.

Vô Kỵ thấy Dương Tiêu gọi mình là Trương công tử, có vẻ ngạc nhiên, nhưng khi nghĩ lợi, chàng liền hiểu ngay. Chàng biết Bất Hối đã nhận ra mình, tất nhiên nàng phải nói cho cha nàng hay.

Nghĩ đoạn, chàng vội trả lời:

– Ða tạ lão tiền bối đã chỉ dạy!

Nên rõ, Quang Minh sứ giả Dương Tiêu với Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu võ công thâm hậu, có thể đấu ngang tài với Diệt Tuyệt sư thái, nhưng bây giờ hai người đã bị Viên Chân ám hại rồi. Sau khi bị thương nặng, hai người đều mất sức lực, nhưng mắt của hai người vẫn sắc bén, đầu óc tỉnh táo vô cùng, hai người liền chỉ điểm mánh lới cho Vô Kỵ để đối phó Diệt Tuyệt sư thái.

Vô Kỵ cầm đao lên, thấy thanh đao đó nặng chừng bốn mươi cân, từ cán đao cho tới mũi đao đều đen nhánh, trông rất cổ kính, dù thấy thanh đao này là một vật báu lâu năm.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Hồi nãy ta để đối thủ chém gãy Bạch Hồng Kiếm, tuy đáng tiếc thật, nhưng dù sao thanh kiếm đó ông ngoại đã cho ta rồi, còn bảo đao này là báu vật của Chu Ðiên, ta không thể nào để cho đối thủ chém gãy được!

Nghĩ đoạn, chàng liền thở nhẹ một tiếng rồi lẳng lặng tiến tới trước mặt Diệt Tuyệt sư thái và lên tiếng nói:

– Sư thái cẩn thận! Tiểu bối xin tấn công đây!

Nói xong, chàng giở khinh công tột bực ra, thân hình của chàng tựa như một làn khói, lướt ra phái sau lưng Diệt Tuyệt sư thái, không đợi đối thủ quay người trở lại, chàng đã múa đao chém luôn rồi lại quay về bên phải chém một đao, quay sang phái trái chém một nhát. Diệt Tuyệt sư thái thấy Vô Kỵ giơ đao lên chém mình, vừa định đón đỡ thì địch thủ bỗng biến mất, nhưng bà ta lại thấy đối thủ ở phía bên phải giơ đao chém mình rồi.

Bà ta chưa kịp chống đỡ đối thủ đã vòng ra phía trái ngay. Thân hình đối thủ nhanh như gió, thế đao cũng lẹ như chớp nhoáng, khiến bà ta không biết đối thủ tấn công mình ở phái nào để giơ đao lên chống đỡ nữa! Vi Nhất Tiếu là người tự phụ khinh công của mình nhanh nhất thiên hạ, bây giờ thấy khinh công Vô Kỵ nhanh như vậy cũng phải nhìn nhận chàng ta nhanh hơn mình nhiều.

Lúc này vì khinh công của Vô Kỵ quá nhanh, Diệt Tuyệt sư thái không sao phản công lại được. Nhưng cũng may, thế đao của Vô Kỵ chỉ chém hờ hết và chàng cũng không dám đến gần sư thái. Sở dĩ, Vô Kỵ không dám tới gần đối thủ là vì chàng sợ thanh ỷ Thiên kiếm quá sức bén. Nhờ có nội công thâm hậu, chàng chạy mấy chục vòng như vậy mà cũng không thấy mệt nhọc chút nào. Các đệ tử của phái Nga Mi thấy sư phụ mình đã bị lép vế, để đấu thêm thì thế nào cũng bị thua đối thủ ngay.

Ðinh Mẫn Quân vội la lớn:

– Cục diện ngày hôm nay là tiêu diệt Ma giáo chứ không phải là đấu võ so tài, quý vị tỷ muội, chúng ta cùng xông lên vây đánh tiểu tử kia đi. Ðừng để cho y giở mánh lới tiểu xảo ra và bắt y phải ngoan ngoãn giở thật tài ra mà đấu với sư phụ ta.

Nói xong, nàng múa kiếm xông lên, các nam nữ đệ tử của phái Nga Mi cũng giở khí giới ra theo sau nàng tiến lên và đứng thành tám mặt bao vây lấy Vô Kỵ.

Chỉ Nhược đứng ở gần phía tây nam, Mẫn Quân thấy vậy liền cười nhạt nói:

– Chu sư muội muốn cản trở kẻ địch hay không là tuỳ ở sư muội, ta không muốn bắt buộc!

Chỉ Nhược vừa tức giận, vừa xấu hổ đáp:

– Sư tỷ cứ nhắc nhở đến tôi mãi như thế làm chi?

Lúc ấy Vô Kỵ đã tiến tới trước mặt, Mẫn Quân vội giơ kiếm lên đâm luôn.

Vô Kỵ giơ tay ra cướp lấy thanh trường kiếm của nàng và thuận tay ném luôn vào mặt Diệt Tuyệt sư thái. Sư thái vội giơ kiếm lên chém gãy thanh kiếm đó ra làm hai đoạn.

Nhưng sức ném của Vô Kỵ quá mạnh, tuy sư thái đã chém gãy được thanh trường kiếm của chàng vừa ném tới, nhưng cổ tay của bà ta cũng đã bị sức mạnh của đối thủ chấn động đến tê tái. Vô Kỵ vẫn không ngừng chân lại chạy tới trước mặt của người khác cướp luôn khí giới của người đó và thuận tay ném ngay vào mặt của sư thái. Những đệ tử của Nga Mi tới Tây Vực phen này đều là tay cao thủ có hạng của môn phái đó. Nhưng những người đó thấy Vô Kỵ giơ tay ra cướp khí giới của mình mà không sao tránh né được, cứ để cho chàng cướp lấy khí giới. Chỉ trong thoáng cái, mấy chục thanh kiếm đã bị chàng cướp và ném lên trên không, ánh sáng lập loè, cứ nhằm người Diệt Tuyệt sư thái mà phi xuống. Lúc này mặt của sư thái lạnh lùng như sương tuyết, cứ thấy kiếm bay tới là chém gãy luôn, nhưng sức của bà ta có hạn, chém một hồi lâu bà ta đã thấy cánh tay phải tê tái đau nhức, không còn hơi sức đâu mà chém tiếp nữa, bà ta vội đưa kiếm sang bên tay trái…

Chỉ trong thoáng cái, các đệ tử của phái Nga Mi đều bị cướp hết khí giới, người nào cũng chỉ còn trơ lại có hai bàn tay không mà thôi, chỉ có một mình Chỉ Nhược là không bị chàng cướp nên kiếm của nàng vẫn còn cầm ở tay. Sở dĩ chàng không cướp kiếm của nàng là muốn thầm đền ơn vì hồi nãy nàng gián tiếp chỉ điểm cho mình.

Ngờ đâu chàng làm như vậy khiến ai cũng phải để ý đến Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược là người rất thông minh, biết Vô Kỵ làm như vậy mình sẽ bị sư phụ trách mắng nên nàng cũng định tiến về phía chàng, tấn công mấy cái, nhưng thân pháp của Vô Kỵ nhanh vô cùng, huống hồ chàng lại cố ý tránh xa nàng, hễ nàng còn gần năm thước, chàng đã vội tránh né ngay.

Chỉ Nhược hai má đỏ hồng, chân tay cuống quýt, không biết phải làm thế nào cho phải.

Mẫn Quân thấy vậy lại cười nhạt nói tiếp:

– Chu sư muội! Ta nói có sai đâu! Y đối xử với sư muội vẫn khác hẳn mọi người!

Lúc ấy tuy Vô Kỵ bị các đệ tử của phái Nga Mi ngăn cản, nhưng chàng vẫn chạy đi chạy lại, coi những người đó hình như không có vậy và thế đao của chàng cũng cứ nhắm yếu điểm của sư thái mà chém tới nên sư thái đã biến thành người chịu đòn, không sao phản công lại được, trong lòng rất bực tức và hậm hực.

Mẫn Quân lại lên tiếng trách mắng Chỉ Nhược:

– Sư muội xem! Sư phụ đang bị tiểu tử kia tấn công lia lịa như vậy, sao sư muội không tiến lên trợ giúp sư phụ mà sư muội cứ cầm khí giới đứng ngẩn người ra như thế làm chi? Hay là sư muội mong tiểu tử đánh bại sư phụ chăng?

Diệt Tuyệt sư thái thấy Mẫn Quân nói Chỉ Nhược như vậy liền nghĩ thầm:

– ừ, tại sao tiểu tử để yên cho Chỉ Nhược mà không cướp kiếm của nó đi như thế? Chẳng lẽ hai đứa nó đã ngấm ngầm thông đồng với nhau rồi chăng? Ta cứ thử qua sẽ biết ngay.

Nghĩ đoạn, bà ta liền lớn tiếng quát hỏi:

– Chỉ Nhược! Sao con dám lừa dối sư phụ như thế?

Nói đoạn, bà ta liền múa kiếm, xông lại đâm vào hông Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược thấy vậy kinh hãi vô cùng nhưng không dám giơ kiếm chống đỡ, chỉ la lớn:

– Thưa sư phụ, con…

Thời gian cấp bách này làm gì có thì giờ để cho nàng biện bạch. Nhưng vừa nói tới chữ con thì trường kiếm của Diệt Tuyệt sư thái đã đâm tới trước ngực.

Vô Kỵ không biết kiếm đó là sư thái định thử tình thực hư của hai người, mà bà ta chỉ đâm kiếm tới trước ngực của nàng ta là rụt tay lại ngay.

Nhưng chính mắt chàng đã trông thấy Diệt Tuyệt sư thái nhẫn tâm đánh chết Kỷ Hiểu Phù. Chàng biết bà ta là người rất độc ác nên không kịp nghĩ ngợi đã tung mình nhảy tới ôm lấy Chỉ Nhược nhảy ra ngoài xa mấy thước.

Diệt Tuyệt sư thái chờ mãi mới có dịp may phản công lại được.

Hồi thứ 55

Ỷ Thiên Bảo Kiếm

Bà ta liền múa trường kiếm đâm luôn vào phía sau lưng Vô Kỵ. Mục đích cứu người, Vô Kỵ quên sự tấn công của đối thủ. Vì vậy đi hơi chậm một chút, chàng biết không còn tránh né kịp nữa nên liền giơ đao lên quay lại chống đỡ.

Chỉ nghe thấy kêu “Coong” một tiếng, thanh bảo đao của chàng đã bị chém gảy ra làm hai đoạn, trường kiếm của Sư thái lại tiếp tục đâm tới, Vô Kỵ đành phải trái tay ném luôn thanh bảo đao gãy đó vào người đối thủ.

Diệt Tuyệt Sư thái bỗng thấy có một luồng sức mạnh đẩy tới làm nghẹt thở không dám giơ kiếm lên gạt thanh đao gãy của Vô Kỵ mà phải nằm phục xuống đất để tránh né.

Thanh bảo đao gãy đó bay lướt qua đầu bà ta, luồng gió bay theo làm cho mặt bà ta đau nhức.

Vô Kỵ thấy có dịp may không kịp để Chỉ Nhược xuống đã nhanh nhẹn nhảy tới giơ tay phải đánh xuống một chưởng thật mạnh!

Sư Thái vội xoay lưỡi kiếm lên để chặt gãy cổ tay của chàng.

Nhưng Vô Kỵ đã biến thế đánh thành ra thế bắt, cướp ngay thanh kiếm của đối phương. Vì lúc này chàng đã giở lớp thứ bảy của môn Càn khôn Ðại Nã Di thần công ra, nên dù Diệt Tuyệt Sư thái võ công cao siêu đến đâu cũng không chống lại được! Và bà ta cũng không ngờ chàng ta lợi hại đến thế!

Tuy Vô Kỵ đã thắng thế đó nhưng chàng cũng không dám khinh địch, vì chàng biết Diệt Tuyệt Sư thái rất lợi hại, nên chàng đã vội dí mũi kiếm vào yết hầu của đối thủ, vì sợ bà ta lại giở những thế võ kỳ lạ khác. Chàng từ từ lùi ra phía sau hai bước nữa, Chỉ Nhược vừa dãy dụa vừa nói:

– Anh mau buông tôi ra!

Vô Kỵ giật mình vội đáp:

– Ủa!… Vâng! Vâng!…

Mặt chàng đỏ bừng vội đặt Chỉ Nhược xuống, mũi chàng còn nghe thoảng mùi thơm da thịt nàng. Chàng cảm thấy mớ tóc mềm mại của nàng phất qua má trái của chàng một cái rất êm dịu. Không hẹn mà nên cả hai cùng đưa mắt liếc nhìn nhau!…

Chỉ Nhược thẹn vô cùng, hai má nàng đỏ hồng lên một cách thật đáng yêu.

Diệt Tuyệt Sư thái từ từ đứng dậy không nói nửa lời, đưa mắt lạnh lùng liếc nhìn Chỉ Nhược rồi lại liếc sang Vô Kỵ, sắc mặt của bà ta cứ thâm tím dần lên!

Vô Kỵ xoay đầu kiếm lại, đưa chuôi kiếm vào tay của Chỉ Nhược rồi nói:

– Chu cô nương! Bảo kiếm này của quý phái nhờ cô nương trao trả lại cho quý phái hộ!

Chỉ Nhược đưa mắt nhìn sư phụ, thấy mặt Sư thái lầm lì không tỏ vẻ cho phép mà không tỏ vẻ cấm đoán, vì vậy nàng hoang mang, không biết nên xử trí sao cho phải?

Bỗng Chỉ Nhược nghe Diệt Tuyệt Sư thái quát lớn:

– Chu Chỉ Nhược! Hãy dùng kiếm mà đâm chết đi! Năm xưa, Chỉ Nhược theo Trương Tam Phong lên núi Võ Ðang, vì thấy trên núi Võ Ðang không có phụ nữ nên Tam Phong viết thơ giới thiệu nàng sang phái Nga Mi để vái Diệt Tuyệt sư thái làm sư phụ. Nàng là người rất thông minh, lại đang ôm ấp mối thâm thù của cha mẹ, nên nàng rất chịu khó học tập. Vì vậy nàng được lòng Diệt Tuyệt Sư thái. Trong tám năm qua, nàng không hề rời xa sư phụ một bước. Nàng coi lời nói và cử chỉ của Diệt Tuyệt Sư thái là khuôn vàng, thước ngọc. Nàng không bao giờ dám làm trái ý của sư phụ. Bởi vậy, khi nghe thấy sư phụ quát bảo như vậy trong lúc hoảng hốt, không kịp suy nghĩ Chỉ Nhược vội giơ kiếm lên đâm luôn vào ngực Vô Kỵ.

Vô Kỵ không tin nàng dám ra tay đâm mình, nên không tránh né, nhưng chỉ thoáng cái mũi kiếm đã đâm tới trước ngực. Chàng kinh hãi muốn tránh né cũng không kịp, Chỉ Nhược tay run run trong lòng nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ ta lại đâm chết anh ấy chăng?

Ðầu óc của nàng vẫn mơ mơ hồ hồ, nhưng mũi kiếm đã hơi chệch sang bên.

Mọi người chỉ nghe “Soẹt” một tiếng rất khẽ, thanh Ỷ Thiên Kiếm đã đâm sâu vào ngực bên phải của Vô Kỵ máu tươi chảy ra như suối.

Tất cả mọi người có mặt tại đó đều thất kinh.

Vô Kỵ đưa tay lên ôm lấy vết thương, loạng choạng bước vẻ mặt chàng ngơ ngác…

Chỉ Nhược cũng hốt hoảng muốn chạy lại xem vết thương của Vô Kỵ, nhưng lại không dám. Nàng ôm mặt quay đầu chạy luôn.

Tiểu Siêu biến sắc mặt, vội chạy ngay lại đỡ Vô Kỵ và hỏi:

– Trương công tử sao… sao…

Cũng may Chỉ Nhược chếch tay sang bên một chút, nên mũi kiếm không đâm trúng trái tim. Nhưng lá phổi bên phải của chàng đã bị thương rất nặng.

Vô Kỵ nhìn Tiểu Siêu hỏi:

– Tại sao cô lại muốn giết tôi…

Chàng mới nói được mấy tiếng đó, vết thương đã bị gió thổi vào, nên chàng cúi khòm lưng xuống ho rũ rượi. Vì bị thương quá nặng, Vô Kỵ không phân biệt được Chỉ Nhược và Tiểu Siêu nên chàng mới hỏi như thế. Máu tươi chảy ra đã nhuộm đỏ nửa người Tiểu Siêu rồi.

Những người đứng quanh đó, bất cứ là người của sáu đại môn phái, hoặc Minh Giáo hoặc người của Bạch Mi Giáo, ai nấy đều đứng nghiêm nghị không nói nửa lời.

Vừa rồi, Vô Kỵ đánh bại luôn mấy tay cao thủ của các đại môn phái võ công cao cường, lòng quảng đại bác ái nên bất cứ là bạn hay thù, ai cũng phải kính nể chàng.

Lúc này thấy chàng bỗng dưng bị Chỉ Nhược đâm một kiếm ai nấy đều tỏ vẻ phẫn hận. Vết thương của chàng rất nặng nên mọi người đều lo chàng sẽ chết.

Tiểu Siêu đỡ chàng từ từ ngồi xuống rồi ngẩng đầu lên, lớn tiếng hỏi:

– Vị nào có thuốc cứu thương tốt nhất.

Thần tăng Không Tín của phái Thiếu Lâm vội bước ra, móc túi lấy một gói thuốc bột đưa cho Tiểu Siêu và nói:

– Ðây là Ngọc Linh đơn của tệ phái là một môn thánh dược cứu thương.

Nói xong Thần tăng xé áo của Vô Kỵ ra xem, thấy vết thương sâu mấy tấc. Lão Hòa Thượng vội rịt Ngọc Linh đơn vào chỗ vết thương, nhưng vì máu chảy quá nhiều, nên thuốc bột cũng bị trôi đi.

Không Tín thấy vậy cuống cả chân tay lên, mồm thì nói:

– Biết làm sao đây… Biết làm sao đây?

Vợ chồng Thái Xung của phái Côn Luân lại càng lo âu thêm, vì vợ chồng họ đã uống phải Kim Tẩm trùng độc, nếu Vô Kỵ bị thương nặng mà chết sẽ không có người giải độc cho họ nữa, như vậy họ sẽ bị chết theo.

Thái Xung chạy đến trước mặt Vô Kỵ, vội hỏi:

– Dùng thuốc gì mới cứu chữa được Kim Tầm trùng độc, nói mau, nói mau.

Tiểu Siêu vừa khóc vừa quát tháo:

– Ði ra! Ông vội hỏi những cái ấy làm chi. Nếu Trương công tử không sống được, thì ai nấy cũng đều phải chết cả.

Nếu lúc thường, khi nào Thái Xung chịu lại chịu để cho một đứa nhỏ mắng như vậy. Nhưng lúc này y không đếm xỉa đến vấn đề ấy mà vẫn luôn mồm hỏi:

– Kim Tầm trùng độc chữa bằng cách nào?

Không Tín cũng nổi giận quát bảo:

– Thiết Cầm tiên sinh có tránh ra không? Nếu tiên sinh còn đứng ở đây làm vướng chân vướng tay thì bần tăng sẽ không nể tiên sinh đâu.

Lúc này Vô Kỵ đã mở mắt ra nhìn, giơ tay trái lên dùng ngón tay trỏ điểm vào bảy yếu huyệt chung quanh vết thương của mình, máu tươi liền chảy chậm lại.

Không Tín thấy vậy cả mừng vội rịt Ngọc Linh đơn vào vết thương.

Tiểu Siêu xé ngay một mảnh áo băng bó vết thương cho chàng.

Thấy mặt của chàng nhợt nhạt, như không có sắc máu, trong lòng nàng lại càng sợ hãi và lo ngại thêm.

Lúc này thần trí của Vô Kỷ đã tỉnh dần. Chàng liền ngầm ngầm vận thần công sang ngực bên phải để cứu chữa vết thương. Ðồng thời chàng lại nghĩ thầm:

– Quý hồ ta còn thở, ta cũng không thể để cho sáu đại môn phải giết chết những người của Minh Giáo.

Nghĩ đoạn, chàng lại vận chân khí chuyển từ ngực bên trái xuống bụng mấy lần, rồi mới từ từ đứng dậy mà nói:

– Nếu phái Nga Mi và phái Võ Ðang còn có vị nào không phục sự điều đình của tại hạ xin mời vị đó ra đây so tài.

Thấy chàng nói như vậy, ai nấy đều kinh hãi hết sức, vì họ thấy chàng bị Chỉ Nhược đâm một nhát kiếm chàng bị thương nặng như vậy mà còn dám khiêu chiến như thế.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:

– Ngày hôm nay phái Nga My đã thua trận rồi. Nếu ngươi chưa chết sau này chúng ta sẽ thanh toán sau. Bây giờ chúng ta chỉ còn phái Võ Ðang thôi. Sự thành bại của sáu đại môn phái hoàn toàn trông mong vào sự quyết định của phái Võ Ðang.

Lời nói của Sư Thái rất trắng trợn…

Sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh thì các cao thủ của năm phái kia đều thua Vô Kỵ hết, chỉ còn lại phái Võ Ðang là chưa đấu với chàng thôi. Lúc này chàng đang bị thương nặng, khỏi cần cao thủ mà chỉ mấy tên thường cũng đánh bại được chàng, vì chàng chịu đựng được chốc lát là cùng. Dù không có người đối địch, vết thương chảy hết máu chàng cũng tự té xuống chết. Bây giờ Ngũ hiệp của phái Võ Ðang bất cứ một người nào tiến lên cũng có thể đánh chết chàng được, rồi các người của mấy môn phái theo kế hoạch đã định mà tiêu diệt Minh Giáo. Nhưng phái Võ Ðang xưa nay vẫn trọng hai tiếng hiệp nghĩa., khi nào họ lại chịu mất thanh danh, ra tay đánh chết một thiếu niên bị thương nặng. Nhưng nếu phái Võ Ðang không ra tay thì công cuộc sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh làm náo động võ lâm như vậy, lại chịu để người nào người nấy bị đánh bại tơi bời mà trở về hay sao? Mấy lời của Diệt Tuyệt Su Thái đã ám chỉ: Sự vinh nhục sau này của sáu đại môn phái võ do Võ Ðang. Hãy coi phái Võ Ðang có ai chịu hy sinh tiếng tăm của cá nhân mà ra gánh vác đại cục không?

Năm sư huynh đệ của Tống Viễn Kiều đều ngơ ngác nhìn nhau không ai dám quyết định cả. Con trai của Viễn Kiều là Thanh Thư đột nhiên lên tiếng:

– Thưa cha và quý vị sư thúc, cho phép con ra giải quyết y!

Ngũ hiệp của phái Võ Ðang hiểu ý Thanh Thư liền, vì chàng chỉ là hậu bối của phái Võ Ðang cho chàng ra tay còn hơn là lụy tới thanh danh của Nhũ hiệp, Liên Châu vội đáp:

– Không được! Chúng ta để cho cháu ra tay chẳng khác gì chúng ta ra tay cả.

Tòng Khê cũng xen lời nói:

– Theo hiểu ý thì tiếng tăm của năm anh em chúng ta không quan trọng bằng đại cục.

Thanh Cốc cũng lên tiếng:

– Tiếng tăm là vật ngoại thân, nhưng đối phó với một thiếu niên bị thương nặng như vậy lương tâm mình yên sao được.

Mọi người bàn tán mãi không sao quyết định, rốt cuộc đưa mắt nhìn Viễn Kiều đợi chờ sự quyết định của người đại ca đó.

Viễn Kiều thấy Lợi Hanh trước sau không nói năng gì cả, vẻ mặt hậm hực vô cùng biết ngay người em đó, vì sợ chưa cưới là Hiểu Phù bị thất tiết với Dương Tiêu của Minh Giáo, rồi vì thế mà chết nên chàng ta muốn rửa mối hận này. Chàng chỉ muốn giết sạch Minh Giáo, quét sạch hết bọn gian ác dâm đồ, mới hả dạ. Vì vậy, chàng vừa thấy đại sư ca đưa mắt hỏi ý kiến mình, liền trả lời ngay:

– Ma Giáo rất tàn ác, chúng ta trừ ác, phải giết cho hết. tất nhiên lúc này chúng ta không thể nào giữ tròn được cả thanh danh lẫn đại nghĩa. Vậy ta pảhi xem thứ nào quan trọng hơn mà làm trước Thanh Thư cháu cứ cẩn thận mà hành sự.

Thanh Thư vái chào tuân lời. Chàng đi tới trước mặt Vô Kỵ, lớn tiếng nói:

– Tăng thiếu hiệp! Nếu thiếu hiệp không phải là người của Minh Giáo thì cứ việc rời khỏi nơi đây xuống núi mà tự dưỡng thương. Sáu đại môn phái chúng tôi chỉ diệt trừ giáo chúng của Ma Giáo thôi, chứ không liên can gì đến thiếu hiệp.

Vô Kỵ lấy tay bịt vết thương, khẽ đáp:

– Ðại trượng phu đã ra tay giúp người, có bao giờ sợ chết đâu. Cám ơn Tống huynh đã có lòng tốt. Nhưng tại hạ đã quyết chí với sự tồn vong với Minh Giáo rồi.

Giáo chúng của MInh Giáo và Bạch Mi Giáo đều lớn tiếng nói:

– Tăng thiếu hiệp đối đãi với chúng tôi như vậy, đã là chí tình, tận nghĩa rồi. Tới lúc này thiếu hiệp khỏi cần tái đấu nữa.

Thiên Chính đi thất tha thất thểu tới cạnh Vô Kỵ rồi lên tiếng nói với Thanh Thư rằng:

– Bạn trẻ họ Tống kia, lão phu vui lòng tiếp vài thế võ cao siêu của bạn.

Ngờ đâu lão anh hùng vừa nói dứt lời, sức đã đuối, chân mềm nhũn, ngã lăn ra đất liền.

Thanh Thư đưa mắt nhìn Vô Kỵ rồi nói tiếp:

– Vì đại cục bắt buộc tiểu đệ phải ra tay, vậy tiểu đệ xin thất lễ tăng huynh.

Tiểu Siêu tiến lên trước mặt Vô Kỵ, ngăn cản Thanh Thư và la lớn:

– Có giỏi ngươi hãy giết ta đi đã, rồi nói chuyện sau.

Vô Kỵ khẽ nói với nàng rằng:

– Tiểu Siêu, cô khỏi lo ngại bản lãnh của thiếu niên này rất tầm thường, tôi đủ sức đối phó với y.

Tiểu Siêu vội đáp:

– Không được, Trương công tử đã quên công tử đang mang thương nặng hay sao?

Vô Kỵ mỉm cười, nói tiếp:

– Cô khỏi lo.

Thanh Thư nghe Vô Kỵ bảo mình bản lãnh tầm thường, dư sức đối phó, trong lòng tức giận vô cùng, liền quát lớn:

– Ðược lắm, tại hạ bản lãnh tầm thường thật, nhưng vẫn muốn lãnh giáo người dư sức xem sao.

Vô Kỵ khẽ an ủi Tiểu Siêu và hỏi rằng:

– Tiểu Siêu, sao cô tử tế với tôi như thế?

Thanh Thư vội quát bảo với Tiểu Siêu:

– Cô bé này có tránh ra đằng khác không?

Vô Kỵ khẽ mắng lại Thanh Thư:

– Sao bạn lại nhẫn tâm quát mắng một cô bé như vậy?

Thanh Thư giơ tay đẩy vai Tiểu Siêu gạt sang bên vào nói tiếp:

– Yêu nam, tà nữ cá mè một lứa cả , mau đứng dậy chống đỡ thế công của ta.

Thấy Thanh Thư nói như vậy, Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Cha bạn là một quân tử khiêm khiêm, không ngờ bạn là một thiếu niên nóng nảy thô lỗ như vậy. Ðấu với bạn, ta chả cần đứng dậy.

Tuy chàng nói như thế, nhưng sự thật chàng không đủ sức vận nội công và tự biết mình không đủ sức đứng dậy.

Vô Kỵ bị thương nặng, người đã yếu ớt, không còn hơi sức gì nữa. Ai ai cũng đều trông thấy rõ mà cả Thanh Thư cũng vậy.

Ðang lúc ấy, Liên Châu bỗng lớn tiếng nói:

– Cháu Thanh Thư, mau điểm huyệt y, khiến y không cử động được chỉ nên làm như thế thôi, chứ không nên đả thương hay giết chết y.

Thanh Thư tuân lời, giơ tay trái lên đánh một thế, rồi dùng tay phải đểm luôn vào yếu huyệt ở trên đầu vai Vô Kỵ.

Vô Kỵ vẫn ngồi yên chờ ngón tay của đối thủ sắp điểm tới yếu huyệt ở trên vai mình, mới buông thõng kình lực.

Thanh Thư thấy ngón tay của mình như nhúng vào nước, không sao dùng sức được. Vì xuất kỳ bắt ý, nên người chàng bị đâm bổ về phía trước, suýt nữa thì té vào người Vô kỵ.

Chàng vội lấy tấn đứng yên, mặt ngượng nghịu.

Thanh Thư định thần xong, giơ chân nhằm Vô Kỵ đá luôn. Cái đá này chàng đã xử dụng đến bảy thành công lực. Tuy Liên Châu đã dặn chàng không nên đả thương, hay giết chết Vô Kỵ, nhưng không hiểu tại sao trong lòng chàng vô cùng ghét hận Vô Kỵ. Sở dĩ chàng ghét hận đối thủ, không phải vì đối thủ khinh mình tầm thường mà hồi nãy chàng thấy Chỉ Nhược với đối thủ hình như rất có tình tứ với nhau. Từ khi thấy mặt Chỉ Nhược, Thanh Thư lúc nào cũng chăm chú nhìn vào người nàng. Tuy chàng tự nhủ, không nên nhìn nàng ta luôn, để khỏi bị người khác chê mình là kẻ vô loại. Nhưng nhất cử nhất động, một tiếng cười, một lời nói của Chỉ Nhược đều in sâu vào đầu óc của chàng. Nên khi chàng thấy Chỉ Nhược đâm Vô Kỵ xong, tỏ vẻ ăn năn và đau đớn khôn tả. Chàng biết trong lòng nàng ta không sao xoá nhòa được hình bóng của Vô Kỵ. Lửa ghen đã làm cho chàng mất hết lý trí. Chàng không chịu bỏ qua dịp may này để hạ độc cước giết Vô Kỵ.

Vô Kỵ chờ chân Thanh Thư đá tới trước ngực, mới khẽ giơ tay trái lên, hất sang bên.

Thanh Thư liền xoay hướng, lướt qua cạnh chàng, cách xa chừng ba tấc, hụt ra ngoài. Tình thế bắt buộc, Thanh Thư phải tâu lại, bước một bước và dùng gót chân trái tấn công luôn sau lưng Vpô Kỵ. Thế công ấy vừa nhanh, vừa độc, không ai có thể ngờ chàng lại đá như thế được! Nhưng Vô Kỵ chỉ khẻ phất mấy ngón tay, Thanh Thư đã bị hất sang bên. Sau ba thế công của Thanh Thư, những người đứng xem đều kinh ngạc.

Viễn Kiều liền lớn tiếng gọi:

– Thanh Thư, họ Tăng không còn một chút kình lực nào, nhưng y đã dùng phương pháo bốn lạng chống nghìn cân để chống lại con.

Viễn Kiều đáng bậc cao thủ nên đã thấy Vô Kỵ không còn hơi sức nữa, chàng xử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di, tương tự thủ pháp bốn lạng ngàn cân của võ học Trung nguyên để mượn sức đánh sức.

Thanh Thư thấy cha mình nhắc như vậy, vội đổi ngay thế võ, xử dụng miên chưởng của Võ Ðang cũng như thủ pháp bốn lạng chống nghìn cân của môn phái khác , nên lúc này Vô Kỵ muốn mượn sức, cũng không sao mượn được nữa. Không ngờ Thanh Thư vẫn không sao đánh trúng được người Vô Kỵ.

Vô Kỵ đã luyện tới lớp thứ bảy của thần công Càn Khôn Ðại Nã Di rồi, nên võ công của chàng rất cao siêu. Miên Chưởng tuy nhẹ, nhưng dù sao nó cũng có hình, và cả độc khí hay tiếng kêu quái dị có thể giết một cách vô hình cũng không làm gì nổi chàng.

Chàng có thể hòa giải tùy theo ý muốn. Mọi người chỉ thấy chàng nhắm mắt mỉm cười., năm ngón tay trái như đang gãi đàn, phất đi phất lại, quét lên quét xuống, người vẫn ngồi yên. Trong chốc lát, chàng hòa giải được hết ba mươi sáu thế Miên chưởng của Thanh Thư.

Thanh Thư kinh hãi vô cùng. Ngẫu nhiên quay đầu lại nhìn, Thanh Thư thấy Chỉ Nhược đang nhìn Vô Kỵ tỏ vẻ vô cùng quan tâm. Chàng ghen tức thêm, liền hít mạnh một hơi, giơ tả chưởng tát mạnh vào má Vô Kỵ, đồng thời hữu chưởng của chàng điểm luôn vào yếu huyệt sau vai đối thủ. Thế võ này hai tay tấn công một lúc, lợi hại vô cùng. nếu tấn công không trúng, hai tay có thể đổi ngược để tấn công lại, tay trái điểm huyệt, tay phải tát mặt đối thủ..

Bốn thế liên hoàn của Thanh Thư đánh như vũ, như bão.

Mọi người thấy Thanh Thư giở thế võ lợi hại ấy ra đều thất thanh hãi kêu “ủa” một tiếng. Và không hẹn mà nên cùng tiến cả lên một bước…

Chỉ nghe thấy hai tiếng kêu “bộp bộp” rất dòn, mọi người định thần nhìn kỹ, mới hay Thanh Thư dùng tay trài tát má phải, dùng tay phải tát má trái của mình, đồng thời hai tay của chàng lại tự điểm hai yếu huyệt trên hai vai. Thế là bốn thế võ đó đều đánh trúng cả, nhưng chàng đánh trúng vào người chàng chứ không phải đánh trúng vào người Vô kỵ.

Vô Kỵ đã sử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di, khiến Thanh Thư tự đánh mình như vậy. Thế là Thanh Thư tay chân đều mềm nhũn, ngã ngửa người về phía sau kêu đến “bộp” một tiếng. Chàng cố gượng dậy nhưng không sao đứng dậy nổi.

Viễn Kiều vội tiến lên giơ tay trái xoa bóp mấy cái đã giải được huyệt cho con mình.

Mọi người thấy hai má của Thanh Thư sưng vù và còn in rõ dấu năm ngón tay.

Viễn Kiều biết con mình chỉ bị thương xoàng thôi, nhưng tính Viễn Kiều rất kiêu ngạo và nóng nảy. Hôm nay Viễn Kiều bị nhục trước mặt mọi người như vậy còn khổ sở hơn là bị người chém giết.

Tống đại hiệp khôn g nói năng gì cả, dắt con trở về chỗ phái Võ Ðang đứng.

Tiếng khen ngợi bốn phía vang lên. Giữa lúc mọi người đang ồn ào khen ngợi thì Vô kỵ đã hộc ra mấy cục máu tươi. Chàng vội bịt tay vào vết thương và ho rũ rượi.

Mọi người đều lo lằng cho chàng…

Nhiều người nhìn Vô Kỵ rồi lại nhìn sang phía phái Võ Ðang. Họ không biết phái Võ Ðang đã chịu thua chưa, hay là còn định phái người khác ra đấu tiếp nữa.

Tống Viễn Kiều thấy vậy liền lên tiếng:

– Việc hôm nay, phái Võ Ðang chúng tôi đã tận lực rồi. Có lẽ khí số của Ma Giáo chưa tận, nên trời mới cho thiếu niên kỳ lạ này tới cứu viện , nếu còn cho người ta đấu hoài thì danh môn chính phái chúng ta chẳng khác gì Ma Giáo.

Liên Châu cũng nói:

– Ðại ca nói rất phải! Chúng ta phải trở về núi ngay, để xin sư phụ dẫn thêm võ công, sau chúng ta sẽ quay lại chờ thiếu niên này lành mạnh lúc ấy sẽ quyết thắng bại với y.

Liên Châu nói rất quang minh lỗi lạc, hào khí hơn người.

Tòng Khê và Thanh Cốc cũng đồng thanh nói:

– Nhị ca nói rất phải.

Hai người vừa nói xong bỗng có tiếng “soẹt”, Lợi Hanh đã rút trường kiếm ra khỏi bao, hai mắt ứa lệ, bước tới trước mặt Vô Kỵ, giơ kiếm lên chỉ vào mặt Vô Kỵ và nói:

– Họ Tăng kia! Ta với ngươi không thù không oán. Lúc nãy ta còn ra tay đả thương ngươi thì Lợi Hanh này không đáng là người hiệp nghĩa. Nhưng Dương Tiêu với ta có mối thù rất lớn, ta phải giết y mới được. Vậy ngươi hãy tránh sang bên.

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Tôi còn sống một giờ phút nào, không bao giờ tôi để các người giết một người Minh Giáo nào cả.

Lợi Hanh lại nói:

– Nếu vậy ta phải giết ngươi trước.

Vô Kỵ lại hộc thêm một bụm máu tươi nữa.

Lúc này, chàng đã choáng váng, tâm thần mơ màng, nên chàng khẽ trả lời:

– Vâng, Hân Lục thúc cứ ra tay giết cháu đi.

Lợi Hanh nghe tiếng Hân Lục thúc thì ra giọng nói đó rất quen, liền nghĩ thầm:

– Hồi còn nhỏ Vô Kỵ vẫn thường gọi ta như vậy. Chẳng lã thiếu niên này…

Nghĩ đoạn, chàng ngắm nhìn Vô Kỵ. Càng trông càng giống. Tuy cách biệt tám năm trời Vô Kỵ đã thành một thiếu niên vạm vỡ lại thêm không cạo râu, tóc không sửa, mặt mũi khác trước kia rất nhiều. Nhưng Lợi Hanh đã nghĩ chàng là Vô Kỵ rồi, nên càng nhìn lại càng ân hận thấy rõ bộ mặt của Vô Kỵ.

Lục hiệp run run khẽ hỏi:

– Cháu là Vô Kỵ à!

Vô Kỵ không còn một chút hơi sức nào nữa, tự biết sắp chết đến nơi, nên chàng cũng không muốn đấu kiếm, liền gọi lại Lợi Hanh:

– Hân Lục thúc, cháu…lúc nào cháu cũng nhớ Lục thúc.

Lợi Hanh là người giàu tình cảm, nên vừa nghe Vô Kỵ nói như vậy, nước mắt đã tuôn trào, vứt ngay thanh kiếm xuống và cúi người xuống ẳm Vô Kỵ lên.

Hân Lợi hanh nói:

– Cháu là Vô Kỵ, cháu là con trai của Ngũ ca ta.

Viễn Kiều, Liên Châu, Tòng Khê, Thanh Cốc đều quay lại.

Ai nấy vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ. Thấy Lợi Hanh gọi tên Vô Kỵ tất cả mọi người đều kinh ngạc không ai ngờ thiếu niên xả thân cứu Minh Giáo lại là con trai của Trương Thúy Sơn, Ngũ hiệp phái Võ Ðang.

Lợi Hanh thấy Vô Kỵ thiếp đi, vội lấy viên thuốc Thiên Ðơn Hộ Thân Vương ra nhét vào mồm Vô Kỵ, rồi đưa chàng cho Liên Châu ẳm và cúi xuống nhặt thanh trường kiếm, xông tới trước mặt Dương Tiêu mắng:

– Họ Dương kia, quân dâm đồ tồi bại hơn cả heo chó, ta… ta…

Nói tới đó Lục hiệp không sao mắng được nữa, liền nhắm ngực Dương Tiêu đâm luôn một kiếm.

Dương Tiêu không cử động được, vẫn mỉm cười, nhắm hai mắt kại, đợi chờ cái chết. Ðột nhiên có một hiếu nữ ở gần chạy lại, lấy người che chở cho Dương Tiêu và lớn tiếng nói:

– Chớ có đâm cha tôi!

Lợi Hanh định thần ngừng liếm nhìn kỹ, bỗng kêu “ủa” một tiếng, rồi Hân Lục hiệp ngẩn ngơ. Chàng thấy thiếu nữ đó giống Hiểu Phù năm xưa. Từ khi chàng đính hôn với Hiểu Phù, lúc nào nhàn rỗi, cũng nghĩ đến hình bóng của người vợ chưa cưới ấy. Sau chàng biết nàng đã thất thân với Dương Tiêu , Quang Minh Sứ giả của Minh Gáio, rồi vì thế mà chết, nên chàng vừa thấy mặt Dương Tiêu đã phẫn uất không sao nhịn được.

Nay bỗng thấy thiếu nữ kia chàng tưởng Hiểu Phù tái thế, đầu óc choáng váng, thất thanh lớn tiếng gọi:

– Em Hiểu Phù, em… em…

Nhưng, thiếu nữ ấy là Bất Hối. Nàng thấy Lục hiệp gọi như vậy, liền trả lời:

– Tôi họ Dương, mẹ tôi là Hiểu Phù, chêt từ lâu rồi.

Lợi hanh đứng ngẩn người ra một lúc, mới hiểu ra người đứng trước mặt không phải là người yêu của mình, liền lẩm bẩm nói:

– Ủa, phải rồi, tôi hồ đồ thật. Cô tránh ra để tôi trả thù cho má cô.

Bất Hối chỉ Diệt Tuyệt Sư thái và nói:

– Thế thì còn gì bằng nữa! hân thúc thúc mau mau iết chết lão tặc ni kia đi.

Lợi Hanh ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao…tại…sao thế?

– Má tôi bị lão tặc ni này dùng chưởng đánh chết đấy.

– Cô chớ có nói bậy, cô còn bé biết gì?

– Trong Hồ Ðiệp Cốc, lão tặc ni bắt mẹ tôi phải đâm chết cha tôi. Mẹ tôi không chịu. Lão tặc ni liền dùng chưởng đánh chết mẹ tôi ngay. Chính mắt tôi đã trông thấy, mà cả anh Vô Kỵ cũng thấy. Nếu thúc thúc không tin thì thử hỏi lão tặc ni mà xem?

Lợi Hanh quay đầu lại nhìn Diệt Tuyệt sư thái, đôi mắt lộ vẻ nghi ngờ rồi hỏi:

– Thua Sư Thái… Cô bé nói… Kỷ cô nương bị…

Diệt Tuyệt Sư thái, với giọng khàn khàn đáp:

– Phải, nghiệt đồ vô liêm sỉ ấy, để nó sống cũng vô dụng. Nó với Dương Tiêu tình nguyện lấy nhau. Nó phản bội sư môn, không chịu tuân lệnh sư phụ, giết chết tên dâm ô gian tặc, nên lão ni đã đánh chết nó. Vì giữ sĩ diện cho Lục hiệp, từ trước đến nay, lão không nói ra cho ai hay hết. Hừ, lục hiệp còn nhớ còn nhớ con vô sĩ làm chi.

Lợi Hanh sầm nét mặt lại, lớn tiếng nói:

– Tôi không tin! Tôi không tin!

Sư thái lại nói tiếp:

– Lục hiệp thử hỏi xem, con bé kia tên là gì.

Lợi Hanh quay lại nhìn Bất Hối, trong lúc đôi mắt của chàng bị nước mắt che lấp, nên chàng thấy Bất Hối không khác gì Kỷ Hiểu Phù tái sinh. bên tai chàng lại văng vẳng nghe rõ tiếng trả lời rằng:

– Tên tôi là Dương Bất Hối. Mẹ tôi nói, không bao giờ mẹ tôi hối việc này cả.

Mọi người nghe “coong” một tiếng, Lợi Hanh đã vứt trường kiếm, hai tay ôm mặt chạy thẳng xuống núi.

Viễn Kiều và Liên Châu gọi với theo:

– Lục đệ… Lục đệ…

Lợi Hanh không tra lời cứ cắm đầu chạy. Bỗng chàng vướng một hòn đá, té lăn ra đất, nhưng lại bò dậy ngay. Một lát sau, chẳng thấy hình bóng chàng đâu. Chuyện của chàng với Hiểu Phù, người trên giang hồ đều hay biết. Nhưng họ không ngờ câu chuyện đã qua mười năm rồi, mà chàng vẫn còn đau lòng., nay thấy chàng chung thủy như vậy ai cũng thương.

Lúc ấy Viễn Kiều, Liên Châu, Tòng Khê, Thanh Cốc ngồi bốn góc cùng giơ một chưởng ra ấn vào bốn yếu huyệt để cứu thương Vô Kỵ.

Bốn vị anh hùng vừa dí tay vao người Vô Kỵ, đã thấy trong người Vô Kỵ có một sức hút rất mạnh, hút hết nội lực của mình đi làm làm tứ hiệp kinh hãi nghĩ thầm:

– Nếu nội lực của chúng ta bị hút như thế này, chỉ một hai tiếng đồng hồ là cùng, sẽ bị kiệt sức hết.

Nhưng thấy Vô Kỵ chưa biết sống chết ra sao không ai rụt tay lại.

Ðang lúc bốn người hoang mang thì Vô Kỵ từ từ mở mắt ra kêu “ủa” một tiếng.

Bốn anh em Viễn Kiều liền rùng mình, thấy gan bàn tay mỗi người đều có một luồng sức nóng ở người Vô Kỵ truyền sang.

Viễn Kiều vội nói:

– Cháu không nên giúp chú, bác. Cháu hãy tự tịnh dưỡng đã.

Bốn người vội rụt tay, và cảm thấy chân tay minh mẩy dễ chịu vô cùng. Hiển nhiên Vô Kỵ không những trả lại nội lực của bốn người mà còn truyền thêm cửu dương chân khí để tăng cường thêm nội công cho mọi người nữa.

Bọn Viễn Kiều ngơ ngác nhìn nhau trong lòng kinh hãi, vì họ thấy Vô Kỵ bị thương nặng sắp chết mà nội lực của chàng còn dồi dào đến thế.

Lúc ấy, tuy ngoại thương của Vô Kỵ hãy còn nặng nhưng nội thương của chàng đã vận chuyển như thường rồi., chàng từ từ đứng dậy nói:

– Tống đại bá, Dư nhị bá, Trương tứ bá, Mạc thất thúc xin thứ lỗi cháu. Chẳng hay Thái sư phụ có mạnh giỏi không?

Viễn Kiều đáp:

– Sư phụ vẫn mạnh giỏi. Vô Kỵ cháu… Cháu đã lớn như vậy rồi…

Tống Ðại Hiệp cảm động không nói nên lời.

Bạch Mi Ưng Vương Hân Thiên Chánh thấy thiếu niên cứu mình thoát chết lại là cháu ngoại mình, nên mừng rỡ, lớn tiếng cười ha hả. Nhưng lão giáo chủ vẫn không sao đứng dậy được.

Diệt Tuyệt Sư thái mặt tái mét, giơ tay lên phẩy một cái ra lệnh cho các đệ tử phái Nga Mi theo bà xuống núi, Chỉ Nhược cúi đầu mà đi.

Nhưng đi vài bước bỗng dưng nàng quay đầu lại ngó Vô Kỵ.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn theo, nên bốn mắt nhìn nhau chăm chú, Chỉ Nhược mặt đang tái nhợt bỗng đỏ bừng.

Ðôi mắt của nàng hìnhnhư muốn nói: “Tôi đâm anh bị thương nặng như vậy, tôi cũng lấy làm đau lòng lắm. Mong anh cẩn thận mà gìn giữ lấy cơ thể”.

Hình như Vô Kỵ cũng đã hiểu ý nàng, nên khẽ gật đầu.

Chỉ Nhược thấy vậy, mừng thầm quay đầu rảo bước đi luôn. Cử chỉ của hai người đều không qua đôi mắt của Thanh Thư. Chàng ghen giận, nhưng không dám lộ cho mọi người biết.

Phái Võ Ðang với Vô Kỵ là chỗ thân tình, nay phái Nga Mi bỏ đi, thế là vụ này đánh Minh Giáo tan rã.

Phái Không Ðộng với phái Hoa Sơn cũng lần lượt cáo lui.

Hà Thái Xung tới gần Vô Kỵ khẽ nói:

– Chú! Chúc chú với thân nhân đã… đã nhận được nhau.

Vô Kỵ không đợi chờ y nói tiếp bèn móc túi lấy hai viên thuốc trừ độc thương đưa cho y và nói:

– Hai vị mỗi người uống một viên. Kim Tầm trùng độc trong người se tiêu giải liền.

Thái Xung cầm lấy hai viên thuốc đó thấy đen nhánh, không tin là linh dược có thế giải được Kim Tầm trùng độc, Vô Kỵ thấy vậy vội nói tiếp:

– Tại hạ đã bảo thuốc này có thể giải được trùng độc thì hai vị cứ tin.

Thấy chàng oai nghiêm đáng kính, Hà Thái Xung không thể nào không dám tin nữa.

Thái Xung gượng cười nói tiếp:

– Cám ơn chú em!

Nói xong, y cùng Thục Nhàn uống luôn hai viên thuốc đó, rồi vợ chồng Thái Xung cáo từ xuống núi.

Liên Châu lại nói:

– Vô Kỵ, cháu bị thương nặng như vậy không thể xuống núi ngay đượcc, hãy ở lại đây điều dưỡng. Chúng ta ohải trở về núi Võ Ðang. Mong cháu sớm bình phục, trở về núi Võ Ðang để Thái sư phụ cháu được gặp mặt.

Vô Kỵ ngậm lệ gật đầu.

Bỗng có một người trong phái Thiếu Lâm lớn tiếng kêu la:

– Ủa, sao không thấy xác của Viên Chân sư huynh?

Người thứ hai cũng tiếp:

– Vâng, sao không thấy nhục thể của Viên Chân sư bá đâu cả?

Thanh Cốc liền tới gần xem thấy bảy tám hòathương của phái Thiếu Lâm đang nhặt những xác chết của người torn gphái nên họ đã phát giác thiếu xác của Viên Chân.

Viên Âm chỉ vào bọn Minh Giáo lớn tiếng quát hỏi:

– Có mau trao trả nhục Viên Chân sư huynh ta ngay không? Các ngươi chớ làm cho hòa thượng này nổi giận. Ta chỉ một bó đuốc sẽ đốt các người chảy ra tro ngay.

Chu Ðiện vừa cười vừa đáp:

– Hà, hà buồn cười thật. đến ngươi, tên giặc sống mà chúng ta không thèm lấy thì hòa thượng chết chúng ta lấy làm gì? Chẳng lẽ chúng ta lấy cái xác đó đem ra làm thịt như làm heo, làm dê để ăn hay sao?

Mọi người của phái Thiếu Lâm nghe Chu Ðiện nói như vậy rất có lý, nên họ phái mười mấy người đi kiếm ở mọi nơi, nhưng chúng tìm mãi không thấy xác Viên Chân đâu cả. Sao họ đoán hoặc phái Hoa Sơn hay Không Ðộng, lúc nhặt xác của người bổn môn, đã lượm lầm cả xác của Viên Chân đi luôncũng nên? Thế rồi, người của Thiếu Lâm , Võ Ðang hai phái, cùng xuống núi một lúc.

Vô Kỵ gượng tiến lên mấy bước, cúi đầu vái chào tiễn biệt.

Viễn Kiều bảo chàng rằng:

– Cháu Vô Kỵ, trận đấu ngày hôm nay tên cháu đã lừng khắp thiên hạ và cháu đã gây ơn rất lớn với Minh Giáo. Mong cháu vì đạo nghĩa nên khuyên bảo họ cải tà qui chánh, ít làm việc ác.

Vô Kỵ đáp:

– Cháu xin vâng lời sư bá.

Hồi thứ 56

Tỵ Họa Dưới Hầm Mật

Dương Tiêu với Thiên Chính chờ người của sáu đại môn phái đi khỏi, đưa mắt nhìn nhau, rồi đồng thanh nói:

– Toàn thể giáo chúng của Minh giáo với Bạch Mi giáo xin cảm tạ Trương đại hiệp đã hộ giá cứu mạng.

Hai người vừa nói xong đã thấy mọi người đều quỳ xuống lạy Vô Kỵ.

Thấy mọi người lạy như vậy Vô Kỵ cuống cả chân tay, không biết xử trí ra sao. Huống hồ trong những người đó còn có ông ngoại và cậu mình nên Vô Kỵ cũng vội quỳ xuống đáp lễ. Ngờ đâu khi chàng vừa quì xuống vết thương ở trước ngực lại rách lớn ra.

Chàng hộc luôn mấy búng máu tươi và chết giấc tức thì.

Tiểu Siêu vội chạy lại đỡ chàng.

Hai giáo chúng của Minh giáo chưa bị thương đã vội khiêng một cái giường vải tới và đặt chàng năm lên.

Dương Tiêu thấy vậy cau mày lại và nói:

– Mau đỡ Trương đại hiệp vào trong phòng ta để tịnh dưỡng. Phải để cho đại hiệp tịnh dưỡng mấy ngày, trong những ngày đó không ai được vào kinh động đại hiệp cả.

Hai tên giáo chúng vâng lời, khiêng Vô Kỵ vào phòng Dương Tiêu ngay.

Tiểu Siêu liền theo sau. Khi Bất Hối đi qua mặt, nàng đã lạnh lùng nói:

– Tiểu Siêu, mi làm bộ khéo thật, ta đã nghi ngờ lâu rôi nhưng có ngờ đâu một con nhỏ xấu xí như ma lem lại là một mỹ nhân xinh đẹp thế này.

Tiểu Siêu vẫn cúi đầu đi. Nàng đi tới đâu, tiếng xích vang lên tới đó.

Trong mấy ngày đó, Giáo chúng của Minh giáo bận cứu chữa cho những người bị thương, nên Quang Minh Ðỉnh nhộn nhịp vô cùng.

Mọi người đều quan tâm đến vết thương của Vô Kỵ.

Vô Kỵ đã luyện thành Cửu Dương Thần Công, tuy nhát kiếm của Chu Chỉ Nhược đâm vào rất sâu, khiến chàng bị thương rất nặng. Nhưng chàng chỉ cần tịnh dưỡng trong bảy tám ngày, vết thương đó đã lành lặn liền.

Thiên Chính, Dương Tiêu, Nhất Tiếu và Nói Không Ðược, các người đều bị thương và cũng phải nằm trên giường vải, nhưng ngày nào cũng bắt người khiêng họ vào thăm nom Vô Kỵ. Họ thấy Vô Kỵ lành mạnh chóng như vậy, ai nấy đều tỏ vẻ hân hoan vô cùng.

Sáng hôm thứ sáu, Vô Kỵ đã ngồi dậy được.

Tối hôm đó Dương Tiêu với Nhất Tiếu lại vào trong phòng Vô Kỵ để hỏi thăm.

Vừa thấy mặt hai người, Vô Kỵ đã lên tiếng hỏi:

– Sau khi bị đánh trúng Nhất âm chỉ tới giờ, mấy ngày hôm nay hai vị có thấy gì khác không?. Thì ra Dương Tiêu và Nhất Tiếu thấy vết thương của mình càng trầm trọng thêm, nhưng sợ Vô Kỵ bận tâm đến, nên cả hai đều giấu chàng và đồng thanh đáp:

– Thưa đại hiệp, anh em chúng tôi đã đỡ nhiều.

Vô Kỵ thấy mặt hai người phủ đầy hắc khí, lời nói rất yếu, nên chàng vội nói tiếp:

– Tôi đã khỏi được sáu bảy phần rồi, bây giờ tôi có thể chữa cho hai vị được.

Dương Tiêu vội đỡ lời:

– Không, không! Trương đại hiệp cứ để mặc anh em chúng tôi, chờ khi nào quý thể lành mạnh hẳn, đại hiệp hãy cứu chữa cho anh em chúng tôi cũng chưa muộn. Lúc này đại hiệp dùng sức quá sớm, nhỡ vết thương đau lại thì anh em chúng tôi yên lòng sao được.

Nhất Tiếu xen lời nói:

– Chữa sớm và chữa muộn cũng vậy, chậm vài ngày cũng không sao, cần nhất Trương đại hiệp phải tịnh dưỡng cho quý thể được an khang đã.

Vô Kỵ đáp:

– Năm xưa, nghĩa phụ của tôi đồng vai vế với hai vị, như vậy hai vị là bề trên của tôi. Nếu hai vị còn gọi cháu là đại hiệp như thế nữa, cháu nhất định không chịu nhận lời đâu.

Dương Tiêu mỉm cười nói tiếp:

– Sau này chúng tôi đều là thuộc hạ của ngài, trước mặt ngài chúng tôi cũng không dám ngồi như thế này. Vậy đâu dám nói bề trên với bề dưới.

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Dương bá bá nói gì thế?

Nhất Tiếu đáp:

– Thưa Trương đại hiệp, trách nhiệm của Giáo chủ của Minh giáo nặng nề lắm, ngoài đại hiệp ra không ai có thể đảm đương nổi chức vị ấy.

Vô Kỵ vội xua tay, lắc đầu và nói:

– Quý vị chớ nên làm như vậy.

Ðang lúc ấy, bỗng nghe thấy đằng phía Ðông có những tiếng còi vọng tới.

Trên Quang Minh Ðỉnh hễ có việc gì khẩn cấp là thổi còi báo động như vậy.

Dương Tiêu với Nhất Tiếu ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ sáu đại môn phái không phục thua lại quay trở lại chăng? Hai người đều là cao thủ hạng nhất, tuy nghe thấy có tiếng báo động như vậy, cả hai đều thản nhiên, mặt không biến sắc chút nào.

Dương Tiêu lại nói tiếp:

– Hôm qua đại hiệp uống nhâm sâm có thấy dễ chịu hơn không?

Tiểu Siêu, mi vào trong phòng thuốc, lấy thêm nhân sâm để ta sắc cho đại hiệp uống.

Lúc ấy phía Tây và phía Ðông cũng có tiếng còi báo động nổi lên.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Có phải ngoại địch đến tấn công không?

Nhất Tiếu đáp:

– Bổn giáo với Bạch Mi giáo còn có nhiều hảo thủ canh phòng, Trương đại hiệp khỏi ngại, chắc có mấy tên giặc đến quấy nhiễu đây.

Một lát sau tiếng còi lại nổi lên ở giữa lưng chừng núi, Kẻ địch đến nhanh như vậy, hiển nhiên không phải là giặc cỏ rồi.

Dương Tiêu vừa cười vừa nói:

– Ðể tôi ra xem sao, Nhất Tiếu huynh cứ ở đây tiếp đại hiệp, chẳng lẽ Minh giáo đê hèn đến nỗi ai ai cũng có thể đến hà hiếp hay sao?

Tuy y bị thương đến cử động cũng thấy khó, mà lời nói vẫn đầy hào khí.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Phái Thiếu Lâm và phái Võ Ðang là danh môn chính phái không khi nào lại không nghĩ đến tín nghĩa, mà quay trở lại báo thù như vậy có lẽ những kẻ tới đây đa số là những quân gian ác tàn nhẫn. Hiện giờ những tay cao thủ trên Quang Minh Ðỉnh đều bị thương nặng cả. Bảy tám ngày qua chưa ai lành mạnh hết. Như vậy bất cứ kẻ địch mạnh hay yếu, chúng ta đều không có cách nào chống đỡ lại được. Nếu miễn cưỡng ra chiến đấu, sẽ bị địch giết hết mà thôi. Chàng vừa nghĩ tới đó, đã thấy bên ngoài có tiếng chân nhộn nhịp.

Một người liền chạy vào, mặt dính đầy máu, trên ngực còn có một thanh đao cắm vào. Người nọ vừa chạy vào vừa lớn tiếng nói:

– Kẻ địch ở mặt tấn công tới, tất cả anh em chống đỡ không lại.

Nhất Tiếu vội hỏi:

– Kẻ địch nào thế? Người nọ chỉ ra cửa phòng, đang định nói, những y đã ngã gục xuống chết liền.

Mọi người lại thấy bên ngoài tiếng còi báo động kêu vang khắp nơi. Chắc tình thế cấp bách lăm. Ðột nhiên có hai người chạy vào trong phòng.

Dương Tiêu nhận ra người đi trước là Chưởng kỳ phó sứ của Hồng Thủy Kỳ tay phải của y đã bị chém gãy, sắc mặt nhợt nhạt như xác chết.

Người đi sau cũng mình mẩy đẫm những máu, người Chưởng kỳ phó sứ ấy, tuy bị thương nặng, nhưng vẫn cố trấn tĩnh, khẽ cúi chào và bẩm rằng:

– Thưa Trương đại hiệp, Dương tả sứ, Dư Pháp Vương, kẻ địch tấn công lên núi là các nhân vật của Cự Kình bang, Hải Sa phái và Thần Quyền môn.

Dương Tiêu trợn ngược đôi lông mày lên, dùng giọng mũi kêu “hừ” một tiếng rồi nói tiếp:

– Những yêu ma tiểu xú ấy cũng dám bắt nạt tới tận cửa như vậy à?

Chưởng kỳ phó sứ nói tiếp:

– Lãnh tụ của chúng là những Phiên tăng Tây Vực, tên nào tên nấy võ nghệ cao cường lắm, Tên Phiên tăng lãnh đầu, tay cầm ỷ Thiên bảo kiếm.

Bọn Vô Kỵ ba người, nghe thấy bốn chữ ỷ Thiên bảo kiếm, đồng thanh kêu “ủa” một tiếng. Dương Tiêu lại hỏi:

– Có phải Ỷ Thiên bảo kiếm thật không? Ngươi đã trông thấy rõ chưa?

Người phó sứ đáp:

– Thưa ba vị, có chú em họ Vương đứng cạnh tiểu nhân cầm bó đuốc, tiểu nhân đã thấy rõ phiên tăng ấy đã chém gãy con đáo quỷ đầu với cánh tay phải của tiểu nhân. Tiểu nhân còn trông thấy trên lười kiếm của y có khắc hai chữ ỷ Thiên rõ ràng, như vậy chắc là kiếm thực chứ không phải là kiếm giả đâu.

Y nói tới đây, Lãnh Thiêm, Thiết Qua đạo nhân, Trương Xung, Bành Doanh Ngọc, Nói Không Ðược và Chu Ðiên, Ngũ Tảng Nhân đều lần lượt được người khiêng vào, Chu Ðiên hơi thở hồng hộc la lớn:

– Bọn Cái Bang đã liên kết với Tam Môn bang, Mao Sơn bang, thừa cơ đến đây tấn công chúng ta. Ta, Chu Ðiên còn một hơi thở cũng phải thí mạng với chúng…

Y chưa nói dứt, Thiên Chính và Dã Vương, hai cha con tay chống gậy đi vào trong phòng. Thiên Chính vừa vào tới nơi đã vội nói:

– Cháu Vô Kỵ, hãy nằm yên. Khốn nạn thật, Ngũ Phụng Ðao với Ðoạn Hỗn Thương, hai tiểu môn phái ấy cũng đòi lên vây đánh chúng ta, thực chúng không biết lượng sức chút nào. Dương Tiêu nghe nói nghĩ thầm:

– Lần này những môn phái to nhỏ tới vây đánh Quang Minh Ðỉnh không phải số ít. Bực mình là chúng ta đều bị thương cả. Trong các người của Minh giáo, Dương Tiêu là người địa vị lớn nhất, Thiên Chính là Giáo chủ của Bạch Minh giáo. Bành Doanh Ngọc là người mưu trí nhất, cả ba người ấy bình sinh gặp không biết bao nhiêu trận phong ba bão táp, nhưng phen nào họ cũng nghĩ ra được cách đối phó mà chuyển nguy thành bình yên ngay. Nhưng cục thế bây giờ đã đi tới chỗ không sao giải quyết rôi. Vì ai cũng đều bị thương nặng mà kẻ địch vây đánh lại đông đảo như vậy. Bây giờ chỉ còn cách là thúc thủ chờ chết thôi.

Lúc ấy, người nào cũng mặc nhiên coi Vô Kỵ như giáo chủ chính thức vậy. Không hẹn mà nên, ai nấy đều nhìn vào mặt Vô Kỵ, mong chàng nghĩ ra được kế gì để giải mối nguy này. Vô Kỵ suy nghĩ một hồi, chàng tự biết võ công của mình tuy cao siêu hơn Dương Tiêu, Nhất Tiếu các người thất, những nói đến kiến thức và mưu kế thì những cao thủ kia giỏi hơn mình nhiều. Họ đã không có cách gì thì mình nghĩ ra được cách nào hoàn hảo để cứu các người thoát nguy nữa?

Chàng đang suy tính, bỗng sực nghĩ ra một kế, liền buột miệng nói:

– Chi bằng chúng ta hãy tạm vào trong đường hầm bí mật ẩn núp, chưa chắc kẻ địch đã phát giác được đường hầm đó. Mà dù chúng có phát giác được đi chăng nữa, chưa chắc chúng đã vào được.Chàng nhận thấy chỉ có phương pháp ấy là hoàn hảo hơn hết, nên chàng nói xong, vẻ mặt phấn khởi vô cùng. Không ngờ những người kia nghe chàng nói như vậy, chỉ ngẩn người ra nhìn nhau, hình như họ cho phương pháp đó không thể nào thi hành được vậy. Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Ðại trượng phu chớ nên câu nệ những chuyện nhỏ nhặt, chúng ta hãy tạm gác vào trong đó trốn tránh, chờ vết thương lành mạnh xong, rồi hãy ra quyết chiến một phen sống chết với kẻ địch. Như vậy vẫn chưa phải là mất hết oai phong mà.

Dương Tiêu đáp:

– Kế của Trương đại hiệp tuyệt diệu.

Nói xong, y quay đầu lại bảo Tiểu Siêu rằng:

– Mi hãy đỡ đại hiệp vào trong đường hầm trước.

Vô Kỵ lại nói:

– Tất cả cùng vào một thể.

Dương Tiêu lại tiếp:

– Ðại hiệp vào trước, chúng tôi sẽ vào sau.

Vô Kỵ thấy Dương Tiêu nói như vậy, biết họ không chịu vào đường hầm.

Sở dĩ y nói như thế, chỉ muốn một mình mình vào núp trong đó thôi, nên chàng lại lớn tiếng nói tiếp:

– Các vị tiền bối, Vô Kỵ tôi tuy không phải là người trong quý giáo, nhưng đã cùng quý giáo chịu qua một trận hoạn nạn, như vậy có thể nói chúng ta là sinh tử chi giao, chẳng lẽ riêng mình tôi tham sống sợ chết, bỏ quý vị ở đây mà một mình đ i trốn tránh hay sao?

Dương Tiêu lại nói:

– Trương đại hiệp chưa hiểu rõ điều này, theo luật lệ của Minh giáo chúng tôi, thì con đường hầm trên Quang Minh Ðỉnh này, chỉ có một mình giáo chủ được ra vào, nếu ai trái lệnh phải mang tội chết. Ðại hiệp với Tiểu Siêu không phải là người trong bổn giáo nên không bị hạn chế và phải giữ đúng quy luật ấy. Lúc ấy tiếng hò reo chém giết đã ở bốn mặt tám phương văng vẳng vọng tới, nhưng vì đường lên Quang Minh Ðỉnh rất khó đi, địa thế lại hiểm trở, nơi nào cũng có rào sắt để chống giữ, tuy Minh giáo địch không nổi thế công mãnh liệt ấy, những những kẻ tấn công muốn lên được ngay Quang Minh Ðỉnh cũng không phải là chuyện dễ. Vì vậy chúng cứ tiến một bước và đi đến đâu, kêu la hò reo tới đó. Thấy kẻ địch sắp tấn công tới nơi, Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Nếu không vào ngay trong đường hầm ẩn tránh, chỉ một tiếng đồng hồ nữa là cùng, người của Minh giáo sẽ bị hy sinh hết.

Nghĩ đoạn, chàng liền nói:

– Chẳng lẽ luật cấm vào đường hầm ấy không sao thay đổi được ư?

Dương Tiêu mặt rầu rĩ, lắc đầu mấy cái, Bành Doanh Ngọc bỗng lên tiếng:

– Quý vị hãy nghe tôi nói một lời: Trương đại hiệp là người võ công cái thế, nghĩa bạc vân thiên có ơn rất lớn với bổn giáo nên tôi đề nghị chúng ta bầu Trương đại hiệp làm giáo chủ đời thứ ba mươi tư của bổn giáo. Nếu giáo chủ ra lệnh bảo tất cả mọi người vào trong đường hầm trốn tránh, khi đó thì không còn vấn đề vi phạm luật lệ của bổn giáo nữa.

Dương Tiêu, Thiên Chính, Nhất Tiếu đều có ý định này, nên khi nghe Bành hòa thượng đề nghị, ai nấy đều vỗ tay tán thành.

Vô Kỵ vội xua tay đáp:

– Tiểu tử tuổi trẻ, học thức ít, không có tài gì hết thì đảm nhiệm trọng trách ấy sao đặng? Hơn nữa năm xưa Thái sư phụ tôi là Trương chân nhân luôn luôn dạy bảo đừng có gia nhập Minh giáo, tôi đã nhận lời rồi, nên nay tôi đành phải phụ lòng tốt của quý vị, mong quý vị hiểu cho!

Thiên Chính vội đỡ lời:

– Ông ngoại bảo cháu gia nhập Minh giáo, dù ông ngoại không bằng Thái sư phụ của cháu đi nữa, nhưng cũng có thể nói người tám lạng kẻ nửa cân. Vở cháu nên coi lời nói của Thái sư phụ cháu với ta như chưa ai nói gì với cháu cả. Như thế quyền gia nhập Minh giáo hay không là tuỳ cháu quyết định lấy!

Hân Dã Vương xen lời nói:

– Bây giờ lại thêm một người cậu đây, như vậy cân lạng của bên này vẫn nặng hơn bên Thái sư phụ của cháu. Cổ nhân thường nói: “Thấy cậu như thấy mẹ”. Mẹ cháu đã mất, bây giờ cháu nên coi lời nói của cậu như là lời nói của mẹ cháu.

Vô Kỵ nghe thấy ông ngoại và cậu nói như thế, không biết trả lời ra sao, chàng suy nghĩ giây lát rồi lại nói tiếp:

– Năm xưa, Dương giáo chủ có để lại một tờ di thư, tôi đã kiếm ra được ở trong đường hầm, định chờ quý vị lành mạnh mới đưa quý vị xem. Theo di mệnh của Dương giáo chủ thì nghĩa phụ tôi là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn tạm quyền giáo chủ trước.

Nói xong, chàng móc túi lấy lá thư ra đưa cho Dương Tiêu. Bành hoà thượng coi rồi nói tiếp:

– Thưa Trương đại hiệp! Gặp lúc đại biến, là một trượng phu không nên câu nệ tiểu tiết quá. Tạ Sư Vương không có mặt ở đây, mời đại hiệp theo lời trối trăng của Dương giáo chủ mà tạm quyền ngôi giáo chủ trước.

Mọi người đều đồng thanh:

– Lời nói của hoà thượng rất phải.

Vô Kỵ thấy mọi người đều tán thành liền nghĩ thầm:

– Lúc này, việc cứu người quan trọng nhất. Những việc khác xếp sang bên, hoặc chờ tới khi thoát khỏi tai nạn này rồi hẳn bàn tán lại sau.

Nghĩ đoạn chàng liền lớn tiếng nói:

– Quý vị đã có lòng như vậy, nếu tiểu tử không nhận, người có tội lớn của Minh giáo. Tiểu tử xin tạm nhiếp chánh vai giáo chủ của Minh giáo để tránh khỏi tai ách ngày hôm nay trước. Thoát nạn rồi mong quý vị bầu một người tài đức khác!

Thấy chàng nhận lời, mọi người đều hoan hô. Tuy họ thấy kẻ địch đã đánh tới nơi, tai hoạ ở ngay trước mắt, ai nấy đều vui vẻ và sung sướng vô cùng.

Từ khi Dương Phá Thiên bị chết một cách đột ngột, Minh giáo không có ai trông nom thống lĩnh, vì vậy các bộ hạ tàn sát lẫn nhau, chia năm xẻ bảy, không ai chịu phục tòng ai hết. Cũng có một số nhỏ tác oai tác quái nữa, vì vậy tôn giáo lớn nhất giang hồ này ngày càng suy đồi. Ngày hôm nay, mọi người nhận thấy đã có giáo chủ mới, giáo phái của mình sẽ được phục hưng nên hầu hết mọi người đều phấn khởi.

Tất cả giáo chúng của Minh giáo đều quỳ xuống vái lạy Vô Kỵ, Thiên Chính với Dã Vương tuy là người chí thân của chàng cũng phải quỳ xuống vái lạy như mọi người hết.

Vô Kỵ vội nói:

– Mời quý vị hãy đứng dậy. Dương tả sứ hãy truyền lệnh hộ tôi, bảo tất cả người của Minh giáo đều rút lui vào trong đường hầm hết. Chỉ sai Liệt Hỏa Kỳ phóng hoả để cản trở địch thôi. Ðốt hết cả nhà cửa trwn Quang Minh Ðỉnh này.

Dương Tiêu vội đáp:

– Xin tuân lệnh giáo chủ.

Nói xong, y liền ra bảo Hồng Thủy , Liệt Hỏa hai kỳ đoạn hậu. Còn các người khác đều rút lui vào trong hầm bí mật hết. Minh giáo là chủ, Bạch Mi giáo là khách, nên chàng ra lệnh cho Bạch Mi giáo rút lui trước. Tiếp theo đó đến Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hậu thổ ba kỳ rồi mới đến các thành viên trên Quang Minh Ðỉnh và Ngũ tảng nhân lần lượt chui vào trong hầm. Sau cùng Vô Kỵ với Dương Tiêu mới chui nốt vào, rồi đến các người của Hồng Thủy Kỳ cũng theo vào nốt.

Lúc ấy hai phía Ðông, Tây ngọn lửa bốc lên chọc trời.

Trận lửa càng cháy càng mạnh. Các bộ hạ của Liệt Hỏa Kỳ tay cầm ống phun thụt những dầu đã vào các nơi chưa cháy. Lửa gặp dầu đá là bén ngay nên ngọn lửa càng cháy càng lớn rộng dần ra.

Người đến tấn công của các môn phái tuy nhiều thật, nhưng chúng sợ lửa nên không dám tới gần. Tuy vậy, chúng vẫn vây chặt bốn bên, không để cho người của Minh giáo chạy thoát. Các bộ hạ của Liệt Hỏa Kỳ ung dung lui vào trong hầm bí mật rồi mới đóng kín cửa hầm lại. Không bao lâu các nhà cửa ở trên mặt hầm sập đổ hết, vì vậy cửa hầm đã bị lấp kín, nên người của các môn phái không biết các người của Minh giáo đã rút lui bằng đường nào cả.

Trận cháy đó, cháy trọn hai ngày hai đêm mà vẫn chưa tắt.

Quang Minh Ðỉnh là Tổng Ðàn của Minh giáo. Giáo chúng của Minh giáo đã cây dựng lên cách đây đã hơn một trăm năm. Trên đó có tất cả mấy trăm căn nhà và sảnh đường, vừa đồ sộvừa lịch sự mà nay đã tiêu thổ hết.

Những kẻ địch chờ cho lửa gần tắt mời vào trong đống lửa tìm kiếm, nhưng chúng tìm mãi cũng không thấy một xác chết nào của người trong Minh giáo cả, chỉ có thấy một số người đã bị chết trận bị cháy đen thui thôi.

Bọn chúng lại tưởng giáo chúng của Minh giáo thà chết chớ không chịu đầu hàng đành bị thiêu mà chết hết cả, chúng cũng tưởng bọn Dương Tiêu và Nhất Tiếu cũng đều chung số phận mà bị chết cháy hết cả rồi.

Tiểu Siêu tay cầm bản đồ, dẫn mọi người vào trong các thạch thất, mỗi nhóm người ở một phòng. Lúc đó mọi người đã ở dưới đất rất sâu nên không thấy nóng.

Ðem đủ lương thực và nước uống, các giáo chúng của Minh giáo, dù có ẩn núp trong hầm đôi ba thang cũng không hề lo sợ bị chết đói hoặc chết khát. Tuy ở dưới hầm, giáo chúng của Minh giáo và Bạch Min giáo đều biết giữ trật tự nên không có một tiếng động nào phát ra hết.

Mọi người đều biết đường hầm này là nời Thánh Ðịa, xưa nay không hề cho một người nào vào hết. Nay nhờ ơn đức của Tân Giáo chủ mới được vào ẩn núp trong đó. Vì thế ai nấy đều ngồi yên, không dám chạy đi chạy lại. Các nhân vật thủ lãnh như bọn Dương Tiêu đều tụ tập ở bên cạnh di hài của Dương Phá Thiên và nghe Vô Kỵ kể lại câu chuyện đã qua, Vô Kỵ kể xong, liền đưa tấm da dê có ghi võ công tâm pháp cho Dương Tiêu, nhưng Dương Tiêu không dám nhận, vái chào và nói:

– Di thư của Dương tiền giáo chủ viết rõ: “Càn Khôn Ðại Nã Di Tâm Pháp hãy tạm giao cho Tạ Tốn giữ, sau này bầu được giáo chủ mới, mới được giáo cho giáo chủ ấy”. Vậy bài Tâm Pháp này phải do tân giáo chủ giữ mới đúng.

Sau đó mọi người cũng xem di thư của Dương Phá Thiên, ai nấy đều thở dài và nói:

– Không ngờ Dương giáo chủ thần dũng đa trí như thế mà chỉ vì tình vợ chồng để cho đến nỗi tẩu hoả nhập ma mà chết. Nếu chúng ta sớm đọc được thư thì ngày nay đ âu đến nỗi bị thất bại như thế này.

Mọi người nghĩ tới mấy người bạn bị chết một cách thảm thương như vậy và mình phải chui xuống dưới hầm mà ẩn núp một cách nhục nhã như thế này, ai nấy đều nghiến răng mím môi và lớn tiếng mắng chửi Thành Khôn hoài.

Dương Tiêu lại nói:

– Tuy Thành Khôn là sư đệ của Dương giáo chủ và sư phụ của Kim Mao Sư Vương thực, nhưng chúng ta chưa được gặp mặt y bao giờ, đủ thấy y là người đa mưu lắm kế như thế nào, chưa có ai ngờ trong mấy chục năm nay, y đã định tâm lật đổ Minh giáo.

Chu Ðiên xen lời nói:

– Dương tả sứ, Vi Bức Vương hai vị đều bị Thành Khôn lừa dối mà không hay biết gì hết. Như vậy cũng có thể bảo hai vị bất tài.Ðáng lẽ y còn định nhiếc móc cả Hân Thiên Chính, nhưng vì nể mặt vị giáo chủ mới nên y vừa định nói nữa lại thôi.

Dương Tiêu mặt đỏ bừng vội đỡ lời:

– Cũng may lưới trời lồng lộng nên ác tặc Thành Không mới bị Dã Vương huynh đánh chết.

Tân Nhiên, Chưởng Kỳ Sứ của Liệt Hỏa Kỳ hậm hực nói:

– Nhưng ác tặc Thành Khôn chết như vậy là số của y vẫn còn hên, đáng lẽ với tội ác của y phải đem ra mà tùng xẻo mới xứng đáng.

Mọi người bàn tán một hồi rồi mới ngồi yên luyện nội công để cứu thương.

Mọi người ở trong đường hầm được bảy tám ngày, vết thương của Vô Kỵ đã khỏi được chín phần, trên ngực của chàng đã kết thành một vết sẹo dài chừng hơn tấc.

Chàng đã lành mạnh liền cứu chữa cho mọi người.

Tuy trong hầm thiếu thuốc men, nhưng môn châm cứu và thần công của chàng cũng có thể cứu khỏi được mọi người.

Thoạt tiên mọi người chỉ biết vị giáo chủ thiếu niên này rất giỏi về võ thuật thôi, chứ có ngờ đâu chàng lại còn biết rõ về y lý nữa.

Lại qua vài ngày nữa, Vô Kỵ đã hoàn toàn lành mạnh, chàng liền vận Cửu Dương Thần Công để xua đuổi hàn độc của Nhất âm chỉ ở trong người của Dương Tiêu, Nhất Tiếu, Bất Hối và Ngũ tảng nhân ra.

Trong ba ngày liền, nội thương của các người đó đều đã khỏi hết.

Ai nấy đều hăng hái muốn ra khỏi đường hầm để phản công lại kẻ địch.

Vô Kỵ khuyên bảo:

– Tuy nội thương của các vị đã lành mạnh rồi, nhưng nội công chưa khôi phục, vậy xin quý vị hãy nhẫn nại vài ngày nữa, chờ cho nội lực thật dồi dào rồi hãy trở ra đối địch với kẻ thù cũng chưa muộn.

Ai nấy đều nghe theo lời của Vô Kỵ, luyện tập nội công và võ công luôn mấy ngày liền.

Còn những bộ hạ thì lo mài dao mài kiếm cho thật sắc bén.

Từ khi sáu Ðại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh cho tới giờ, các giáo phái của Minh giáo đều bị đánh một cách hết sức nhục nhã, nên ai nấy đều hết sức phẫn uất.

Ðêm đó, Dương Tiêu ngồi cạnh Vô Kỵ, đem hết quy củ của Minh giáo, thế lực của các nơi chi đàn, tài ba và tính nết của các nhân vật quan trọng trong Minh giáo ra nhất nhất bẩm rõ hết cho Vô Kỵ hay.

Ðúng lúc ấy, hai người nghe thấy tiếng xiềng xích kêu loong koong.

Thì ra Tiểu Siêu đã bưng hai chén nước vào cho hai người uống.

Vô Kỵ sực nghĩ ra một việc, liền nói:

– Dương tả sứ, gần đây cô gái này không có một lỗi lầm gì hết, vậy tôi muốn Tả sứ mở khoá xiềng xích cho nàng ngay.

Dương Tiêu đáp:

– Giáo chủ có lệnh, chúng tôi đâu dám không tuân theo.

Nói xong, y liền gọi Bất Hối và bảo rằng:

– Bất Hối! Giáo chủ đã xin phép cho Tiểu Siêu. Con mau mở khoá cho nó đi.

Bất Hối đáp:

– Con để chìa khoá ở hộc tủ trong phòng của con, lúc xuống đây vì quá hấp tấp nên con không có đem theo.

Vô Kỵ lại nói:

– Ðiều đó không sao, vì chìa khoá bằng sắt, chắc không bị lửa thiêu rụi đâu.

Dương Tiêu chờ con gái mình với Tiểu Siêu đi ra khỏi phòng mới khẽ nói tiếp với Vô Kỵ:

– Thưa giáo chủ! Con nhỏ Tiểu Siêu tuy nhỏ tuổi thật, nhưng tính nết nó kỳ dị lắm. Vậy xin giáo chủ hãy đề phòng nó cho cẩn thận.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Lai lịch của cô bé ấy ra sao?. Nửa năm trước, tôi với Bất Hối xuống núi du ngoạn thấy nó đang ngồi vuốt ve hai cái xác mà khóc giữa bãi sa mạc. Cha con tôi tiến lên hỏi, nó bảo hai cái xác chết đó là cha mẹ nó. Gia đình nó bị quan phủ ở Trung Nguyên khép tội và đày ải tới Tây Vực. Mấy hôm trước đây, cha mẹ nó và nó chịu không nổi quân Mông Cổ hà hiếp mới đào tẩu tới đây. Cha mẹ nó bị thương nặng nên đã cùng chết hết. Tôi thấy nó còn nhỏ như thế mà tội nghiệp. Tuy nó rất xấu xí, nhưng lời ăn lẽ nói của nó cũng không đến nỗi ngu xuẩn lắm. Thế rồi tôi chôn hộ cha mẹ nó, rồi giữ nó ở lại để hầu hạ Bất Hối.

Vô Kỵ gật đầu mấy cái và nghĩ thầm:

– Thế ra cha mẹ Tiểu Siêu đã chết hết, số kiếp của nàng cũng tội nghiệp thật, không khác gì ta cả.

Dương Tiêu lại nói tiếp:

– Chúng tôi đem Tiểu Siêu về trên Quang Minh Ðỉnh. Một hôm tôi dạy võ Bất Hối, nó đứng cạnh xem. Ngờ đâu lúc tôi giải thích các phương vị của sáu mươi bốn quẻ, Bất Hối chưa hiểu thấu mà mắt của Tiểu Siêu đã ngó vào chỗ phương vị đó liền.

Vô Kỵ xen lời nói:

– Có lẽ nàng thông minh hơn em Bất Hối nên nàng mới hiểu thấu trước cũng nên. Thoạt tiên tôi cũng nghĩ như vậy, trong lòng có vẻ mừng thầm, nhưng tôi nghĩ lại liền nghi ngờ ngay. Tôi liền cố ý nói mấy câu khẩu quyết thật khó mà xưa nay chưa hề dạy qua Bất Hối bao giờ, và tôi còn nói sai phương vị nữa, tôi liền thấy nó cau mày lại, hình như nó đã phát giác ra được sự lầm lỗi của tôi. Từ đó trở đi tôi liền để ý biết con bé này thế nào cũng đã được cao nhân truyền thụ võ công của nó rất cao siêu. Nó có võ công tột bực như thế mà chịu lên trên Quang Minh Ðỉnh này làm con sen, con đòi như vậy, chắc là nó phải có mục đích gì ám muội cũng nên. Hoặc giả cha mẹ của nàng tinh thông dịch lý, nàng đã được học hỏi của gia truyền cũng chưa biết chừng? Xong giáo chủ nên rõ, dịch kinh của nhà văn khác hẳn dịch kinh trong võ công. Nếu tài học nó do cha mẹ nó truyền thụ cho thì cha mẹ nó phải là tay cao thủ bậc nhất trong võ lâm.

Lúc ấy tôi lẳng lặng không nói gì hết. Vài ngày sau tôi mới hỏi lai lịch và thân thế của cha mẹ nó. Nó chối cãi luôn mồm và không chịu để lộ qua một chút lai lịch gì hết. Lúc ấy tôi cũng không nổi giận, chỉ dặn bảo Bất Hối hãy ngấm ngầm để ý đến nó thôi. Lại một hôm tôi kể một câu chuyện rất buồn cười, Bất Hối ha hả cất tiếng cười, nó đứng cạnh đó cũng không sao nhịn được, liền há mồm cười theo. Lúc ấy nó đứng ở phía sau tôi và Bất Hối, nó tưởng cha con tôi không nhìn thấy nụ cười của nó, ngờ đâu Bất Hối đang cầm một thanh kiếm mà thành kiếm đó bóng nhoáng như gương vậy nên đã trông thấy rõ nụ cười của nó không phải là một con bé xấu xí như tôi đã từng lầm tưởng, mặt nó còn xinh đẹp hơn Bất Hối là khác, tới khi tôi quay đầu lại nhìn thì lại thấy nó bỗng dưng méo mó và xấu xí y như lúc trước vậy. Vô Kỵ mỉm cười và nói:

– Suốt ngày giả bộ xấu xí như thế, quả thật không phải là một chuyện dễ.

Nói đoạn chàng liền nghĩ:

Dương Tiêu là một người đa mưu lắm kế như thế, Tiểu Siêu ít tuổi như vậy thì làm sao mà qua mặt được y? Tất nhiên là nàng không thể giấu diếm mãi được.

Dương Tiêu lại nói tiếp:

– Nhưng tôi vẫn không nói ra vội, chờ đến tối hôm đó đêm khuya canh vắng, tôi lẳng lặng vào trong phòng của Bất Hối để xem động tịnh ra sao. Tôi thấy nó vừa ở trong phòng của Bất Hối đi ra, đi thẳng về những căn phòng ở phía Ðông để tìm kiếm một cái gì đó mà tôi không được rõ. Cứ thấy nó đi vào từng phòng một và đến từng chỗ hẻo lánh để tìm kiếm, sau tôi không nhịn được liền tiến lên hỏi nó tìm cái gì và tra hỏi nó xem ai đã sai nó lên Quang Minh Ðỉnh này để dò xét như vậy? Không ngờ nó rất bình tĩnh trả lời tôi rằng:

– Không ai phái tôi cả chỉ vì lòng hiếu kỳ nên tôi cứ muốn đi đây đi đó như thế mà thôi.

Tha hồ tôi dọa nạt hay dụ dỗ thế nào nó cũng không chịu tiết lộ nửa câu, tôi lại giam nó vào một nơi để cho nó nhịn đối bảy ngày bảy đêm. Sắp chết đối đến nơi mà nó cũng không chịu nói gì cả. Sau cùng tôi mới phải làm ra một bộ xiềng xích để xích nó lại để nó đi tới đâu cũng có tiếng kêu tới đó. Như vậy nó không còn có thể ngấm ngầm giết hại Bất Hối được!

Thưa giáo chủ! Tôi dám chắc con nhỏ này là do kẻ địch phái đến dò xét. Tôi căn cứ vào nó tinh thông các môn vị của Bát Quái, tôi e rằng nếu không phải là người phía Võ Ðang thì nó cũng là người của phái Nga Mi. Nhưng với một con bé nho nhỏ như thế cũng chả làm nên được cái trò trống gì. Thấy nó hầu hạ giáo chủ tận tâm như vậy và giáo chủ đã cư xử với nó một cách từ bi như thế, đó cũng là do số nó may mắn lắm!

Vô Kỵ đứng dậy vừa cười vừa nói:

– Chúng ta bị giam trong hầm này bấy nhiêu ngày, bây giờ cũng nên đi ra ngoài cho nó dãn chân dãn tay!

Dương Tiêu nghe nói cả mừng vội hỏi:

– Ra ngay bây giờ hay sao, thưa giáo chủ?

– Những người nào chưa lành mạnh hẳn, không nên ra tay đấu với kẻ địch vội! Hồng Mộc và Cự Mộc, hai vị Chưởng kỳ sứ chưa khỏi hẳn không nên tham chiến vội! Còn các người có thể theo tôi đối địch được.

Dương Tiêu vội ra truyền lệnh, trong hầm ai nấy nghe tin đều mừng rỡ làm ồn cả dưới đường hầm.

Vô Kỵ vận thần công đẩy cánh cửa lớn ra, một mình ra ngoài trước, chàng chờ mọi người ra hết lại đóng cánh cửa đá lại như trước.

Nhan Bồn Trưởng kỳ sứ của Hậu Thổ Kỳ là đại lực sĩ số một của Minh giáo. Y thấy Vô Kỵ đẩy cánh cửa nhẹ nhàng như vậy, cũng đẩy thử xem, nhưng đã ra hết dức đẩy mà cánh cửa vẫn đứng yên, y liền thè lưỡi lắc đầu không dám đẩy nữa nên càng phục vị giáo chủ trẻ tuổi này thêm.

Mọi người ra khỏi đường hầm sợ kẻ địch hay biết, ai ai cũng yên lặng đến tiếng ho cũng không nghe thấy nốt.

Vô Kỵ đứng trên một tảng đá lớn, bên dưới là người của Bạch Mi giáo, Minh giáo.

Người của Bạch Mi giáo đứng ở phía Tây, người của Minh giáo đứng ở phía Ðông.

Họ đứng xếp thành hàng rất trật tự, dưới ánh sáng trăng trông rất hùng dũng. Tuy trận đấu vừa rồi họ bị thương và chết rất nhiều, những người nào người nấy tinh thần đều phấn chấn. Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu với Ngũ tảng nhân đứng sau lưng Vô Kỵ để bảo vệ giáo chủ.

Ai nấy đều nghiêm nghị đợi chờ Vô Kỵ ra lệnh.

Vô Kỵ từ từ nói:

– Kẻ địch đến tấn công trong địa của bổn giáo, tuy chúng ra muốn ngừng tay mà không được. Nhưng tôi không muốn tàn sát nhiều nếu bất đắc dĩ lắm, các vị mới nên ra tay giết địch thôi. Hân giáo chủ của Bạch Mi giáo, đem giáo chúng tấn công từ phía Tây, Ngũ Hành Kỳ do Chưởng kỳ của Cự Mộc Kỳ thống lãnh, tấn công từ phía Ðông, Dương tả sứ thống lãnh người của bốn cửa Thiên, Ðịa, Phong, Lôi tấn công từ phía Bắc. Ngũ tảng nhân tấn công từ phía Nam, Bức Vướng với bổn nhân ở giữa điều động và tiếp ứng.

Mọi người đều vái chào tuân lệnh nhưng không có một tiếng động và tiếng nói nào hết.

Vô Kỵ giơ tay lên phẩy một cái và khẽ nói:

– Chúng ta đi thôi. Mọi người chia thành bốn đội, từ bốn phía bao vây Quang Minh Ðỉnh.

Vô Kỵ nói với Nhất Tiếu rằng:

– Tôi với Bức Vương đi phía đường hầm lên đánh một trận bất ngờ, cho chúng hết đường chống đỡ.

Nhất Tiếu cả mừng đáp:

– Kế này hay lắm. Hai người quay lại lối cửa hầm ở phòng nàng Bất Hối.

Hai người ra khỏi hầm thấy trên mặt đất đầy những gạch và ngói vụn, mùi hôi khét xông lên mũi.

Trong kẻ địch cũng có rất nhiều tay hảo thủ, lúc ấy người của Minh giáo cách chúng còn xa nhưng chúng đã phát giác rồi kêu la om sòm, cảnh cáo lẫn nhau.

Vô Kỵ với Nhất Tiếu nhìn nhau cười và nghĩ thầm:

– Bọn này kêu la om sòm như vậy, không cần phải ra tay đấu cũng biết mình thắng rồi. Hai người ẩn sau một bức tường đổ.

Dưới ánh sáng trăng, Vô Kỵ và Nhất Tiếu chỉ thấy những bóng đen chạy đi chạy lại.

Thoáng lát hai người đã thấy Nói Không Ðược với Chu Ðiên sát cánh nhau ở phía Nam tấn công tới, xông vào trong đám đ ông của địch chém giết như chẻ tre.

Còn Hân Thiên Chính, Dướng Tiêu, Ngũ Hành Kỳ mỗi người cũng đã tới cả, xông vào chém giết địch như hổ vào đàn dê vậy. Những kẻ chiếm cứ Quang Minh Ðỉnh là Cái Bang, Mao Sơn bang, Hải Sa phái Tất cả mười mấy bang phái to nhỏ. Thoạt tiên chúng thấy Quang Minh Ðỉnh đã cháy thành bình địa, người của Minh giáo không một tên nào thoát chết, chúng đã tưởng toàn thắng rồi nên đã có nửa số người của Cái Bang và Cự Kình bang xuống núi. Trên Quang Minh Ðỉnh còn Thần Quyền bang, Tam Giang bang, Mao Sơn bang và Ngũ Phụng đao, bốn bang hội môn phái thôi. Nay chúng bỗng thấy người của Minh giáo ở bốn mặt vây đánh tới, tuy trong bọn chúng cũng có nhiều tay hảo thủ nhưng địch sao nổi Dương Tiêu và Thiên Chính. Ðấu không đầy một tiếng đồng hồ, bọn chúng đã bị chết quá nửa.

Vô Kỵ vội xuất hiện, lớn tiếng nói:

– Hiện giờ cao thủ của Minh giáo đã tụ họp đầy đủ trên Quang Minh Ðỉnh, xin các bang hội, môn phái hãy nghe tôi khuyên bảo, có đấu nữa cũng vô ích, tốt hơn nên bỏ khí giới mà đầu hàng đi. Chúng ra sẽ tha cho các người khỏi chết và tiễn các người xuống núi. Bỗng có một phiên tăng vừa lùn, vừa nhỏ nhảy ra nói giọng Trung Nguyên rất sõi, quát lớn:

– Tiểu tặc là ai? Dương Tiêu quát mắng:

Phiên tăng kia không được vô lễ, đây là Trương giáo chủ, tân giáo chủ của bổn giáo.

Phiên tăng nọ lại quát lớn:

– Trương giáo chủ, Lý giáo chủ, ta đều không biết, hãy đỡ ta một kiếm này đã. Nói xong, y nhanh như điện chớp múa kiếm xông tới đâm Vô Kỵ.

Dưới ánh trăng ai cũng thấy rõ thanh kiếm đó chính là ỷ Thiên kiếm của phái Nga Mi.

Vô Kỵ né mình tránh thế công đó và quát hỏi:

– Kiếm này là thần vật của phái Nga Mi, tại sao lại lọt vào tay đại sư được.

Phiên tăng không nói gì cả, cứ xông lên tấn công luôn ba kiếm. Thế kiếm nào cũng lợi hại vô cùng.

Vô Kỵ biết thanh bảo kiêm đó rất bén.

Chàng tránh né mấy cái rồi đột nhiên giơ tay trái bắt luôn vào cổ tay phải của phiên tăng. Phiên tăng thấy cánh tay tê dần liền vứt ngat thanh Ỷ Thiên kiếm xuống đất kêu “keeng” một tiếng.

Ngờ đâu võ công của tên phiên tăng cũng lợi hại lắm. Tuy tay phải của y đã bị Vô Kỵ nắm chặt, mà y còn múa tay trái nhằm ngực Vô Kỵ đấm tới liền. Nhờ có thần công hộ thể, quyền của phiên tăng đánh trúng ngực chàng, bắn trở lại ngay.

Phiên tăng đó loạng choạng mấy bứoc ngã lăn ra đất liền. Y lăn lộn mấy vòng lại nhảy ngay lên được và đã nhặt được thanh bảo kiếm ngay.

Bành Doanh Ngọc múa kiếm lên cản trở. Nhưng kiếm của y vừa đụng vào bảo kiếm của phiên tăng, thanh kiếm của y đã gãy làm đôi liền.

Tuy vậy phiên tăng không dám chiến đ ấu nữa chạy thẳng xuống núi đào tẩu.

Vô Kỵ lo ngại cho Chỉ Nhược, không hiểu tại sao thanh ỷ Thiên kiếm ở trong tay nàng lại bị tên phiên tăng ấy cướp mất? Chàng quyết đuổi theo bắt cho được tên phiên tăng, để hỏi rõ căn nguyên. Chàng vừa tung mình nhảy xuống núi, bỗng nghe eo núi bên trái có tiếng kêu la như tiếng của Bất Hối.

Tiếp theo, chàng lại thấy một thường kiếm bị bay tung lên.

Hiển nhiên Bất Hối đã bị kẻ địch đánh rơi khí giới. Chàng vội nhảy qua eo núi, đến một bụi cây nhỏ. Vì bụi cây quá rậm, Vô Kỵ không sao thấy rõ bên trong. Không sợ nguy hiểm, chàng nhảy luôn vào bụi.

Bỗng một luồng gió mạnh thổi tạt vào mặt Vô Kỵ và một lưỡi đao nhằm mặt chàng chém tới. Chàng vội né sang bên chộp luôn cánh tay người đó và hất văng người đó xa mấy trượng. Trong bụi cây có tiếng mắng chửi.

Tiến vào, Vô Kỵ thấy một người to lớn hai tay múa hai cái búa nhằm Bất Hối chém lia lịa. Bất Hối tay không nên nàng chỉ nhảy tránh.

Vô Kỵ nhảy đến trước mặt người đó lớn tiếng quát bảo:

– Ngừng tay lại. Tiếng quát của Vô Kỵ oai nghiêm làm người nọ phải ngẩn người trong giây lát rồi thuận tay giơ búa lên chém vào người Vô Kỵ.

Chàng giơ tay trái giở Càn Không Ðại Nã Di, hất búa của địch thủ sang bên, chỉ nghe thấy “coong” một tiếng thật lớn, hai búa của địch thủ chém vào núi đá vụn bay tứ tung và mép hai lưỡi búa bị uốn cong.

Hai cánh tay của người nọ tê tái không còn đủ sức cầm búa nữa.

Bất Hối giơ quyền đấm luôn vào thái dương kẻ địch.

Tên đó lòi mắt ra và chết luôn, không kịp la một tiếng.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Bất Hối, cô có bị thương không?

Bất Hối đáp:

– Không! Cám ơn anh đã đến cứu tôi. Thôi chúng ta quay trở lại đi.

Vì cứu Bất Hối, Vô Kỵ biết tên phiên tăng đã chạy khá xa rồi, có đuổi cũng không sao đuổi kịp.

Chàng cùng Bất Hối quay trở lên đỉnh núi.

Những người của Mao Sơn bang đã đại bại, đang định đào tẩu, bỗng nghe thấy tiếng kêu gọi như tiếng ma khóc, đột nhiên tinh thần phấn chấn, quay trở lại đấu chí chết mới thôi, nhưng dù người của Mao Sơn bang hăng hái đến đâu cũng chỉ như ngọn lửa nến sắp tàn, đánh được một lúc đã bị giết chết hết.

Vô Kỵ lớn tiếng nói:

– Ðấu làm gì nữa? Các người hãy mau đầu hàng đi! Kẻ địch mắt đã đỏ ngầu mà vẫn chưa chịu ngừng tay, nhờ có ánh sáng trăng nên Vô Kỵ đã trông thấy rõ mặt chúng, tên nào tên nấy đều có vẻ hoảng sợ, hình như chúng tưởng tượng đằng sau có một tên ác quỉ đang thúc giục cho chúng phải đấu cho đến chết mới thôi. Chàng động lòng thương liền nhảy lại gần chúng giơ tay ra điểm lung tung, chỉ thoáng cái chàng đã điểm hết yếu huyệt của tất cả kẻ địch nên tên nào tên nấy cũng đều vứt hết khí giới mà ngã lăn ra tức thì. Chỉ có ba tên cao thủ tránh kịp, không bị chàng điểm trúng, nhưng cũng không bao lâu chúng đã bị Dương Tiêu, Nhất Tiếu và Dã Vương giết chết. Trận đấu đó Minh giáo toàn thắng, bên địch chỉ có một số ít người là chạy thoát thân thôi. Hơn ba trăm kẻ địch không bị giết chết cũng đều bị bắt giữ. Trên Quang Minh Ðỉnh đen đuốc sáng choang, mọi người đều cảm tạ Minh tôn đã bảo vệ cho. Trong mười mấy ngày đó, bang chúng của Mao Sơn bang đã xây dựng mấy chục căn nhà lá ở trên núi để ở tạm, nên Minh giáo mới có nhà ở ngay. Giáo chúng của Ngũ Hành Kỳ cũng chặt cây đan trúc xây dựng thêm nhà của. Nữ giáo chúng của Ðịa Tự Môn thì phụ trách việc nấu nướng các món ăn. Sau khi đắc thắng, tuy cả đ êm không ngủ, mọi người cũng không ai thấy mỏi mệt gì cả.

Bạch Mi Ưng Vương Hân Thiên Chính đồng đứng dậy lớn tiếng nói:

– Các giáo chúng của Bạch Mi giáo hãy nghe ta nói: Bổn giáo với Minh giáo tuy là hai nhưng sự thất chỉ có một mà thôi. Hơn mai mươi năm trước đây, ta với mấy người bạn trong Minh giáo mâu thuẫn nhau, ta mới tự lập môn phái. Hiện giờ Minh giáo đã do Trương đại hiệp đứng ra làm giáo chủ ai ai cũng đều bỏ hết oán hận cũ, hợp tâm hợp sức để phò Trương giáo chủ. Từ nay trở đi cái tên Bạch Mi giáo không còn nữa. Tất cả mọi người ở đây đều là giáo chúng của Minh giáo hết. Ai ai cũng phải tuân hiệu lệnh của Trương giáo chủ. Nếu người nào không chịu phục tùng thì phải bước xuống núi tức thì.

Giáo chúng của Bạch Mi giáo nghe Hân Thiên Chính nói xong đều hoan hô ầm ĩ, tiếng kêu la của họ lớn như sấm động.

Hoan hô xong, mọi người đều cùng nói:

– Chúng tôi đều vào Minh giáo, thực là hân hạnh biết bao. Hân giáo chủ với Trương giáo chủ đều là người nhà chí thân. Như vậy, chúng tôi nghe hiệu lệnh của vị giáo chủ nào cũng thế thôi.

Thiên Chính lại lớn tiếng nói tiếp:

– Từ nay trở đi chỉ có Trương giáo chủ chớ không có Hân giáo chủ nữa, mọi người chớ phạm trượng như thế.

Vô Kỵ chắp tay chào và nói:

– Bạch Mi giáo với Minh giáo đã hợp nhất, thật là một việc rất đáng mừng. Nhưng tại hạ vì tình thế bắt buộc nên tạm quyền giáo chủ đấy thôi. Lúc này chúng ta đã diệt xong kẻ địch nên bầu lại một vị giáo chủ chính thức mới phải. Trong Minh giáo với Bạch Mi giáo có rất nhiều anh hùng hào kiệt, tiểu tử trẻ tuổi sức học hãy còn non kém, đâu dám đảm nhiệm chức vụ nặng nề đó.

Chu Ðiên là người nhanh mồn nhanh miệng, thấy Vô Kỵ nói như vậy vội đỡ lời ngay:

– Trương giáo chủ làm ơn nghĩ hộ chúng tôi, vì ngôi giáo chủ mà chúng tôi đã phải chia năm xẻ bảy mãi mới kiếm ra được một người như giáo chủ mà ai ai cũng phải phục tòng. Nếu bây giờ giáo chủ từ chối mà bầu một giáo chủ khác hừ hừ bất cứ là ai thì Chu Ðiên này sẽ là người đầu tiên không thèm chịu phục. Nếu bầu Chu Ðiên tôi ra làm giáo chủ thì tất nhiên cũng sẽ có người khác không phục rồi.

Bành Doanh Ngọc cũng đứng dậy nói:

– Nếu Trương giáo chủ không chịu đảm nhận trọng trách này thì Minh giáo chúng tôi sẽ lại tàn sát lẫn nhau như trước liền. Chẳng lẽ lúc ấy lại mời giáo chủ đến cứu chúng tôi hay sao? Vô Kỵ thấy mọi người nói như vậy liền nghĩ thầm:

– Những người này nói cũng có lý. Trong lúc này ta không thể nào khoanh tay đứng yên cho được.

Nghĩ đoạn chàng lớn tiếng đáp:

– Quý vị đã có lòng như vậy, tiểu tử không dám từ chối nữa. Tiểu tử xin nhận lãnh trọng trách này. Nhưng có ba việc này xon quý vị hãy nhận lời tôi trước, còn bằng không thì nhất định không chịu nhận lời đâu.

Mọi người vội đáp:

– Giáo chủ ra lệnh dù ba mươi việc chúng tôi cũng xin tuân theo. Không hiểu ba việc đó là ba việc gì, xin giáo chủ cho chúng tôi hay.

Vô Kỵ liền nói:

– Xưa nay bổn giáo vẫn bị người ta gọi là tà ma ngoại đạo, tuy bảo những người đó vì hẹp lượng hay không hiểu chân tướng của bổn giáo nên mới gọi bổn giáo như thế. Nhưng người của bổn giáo rất nhiều, bên trong thế nào chả có kẻ bất lương, có những hành vi khả ố hay tàn sát những người vô tội. Ðó là thứ nhất. Từ nay trở đi bất cứ người nào cũng phải tuân theo luật lệ của bổn giáo, hành hiệp trượng nghĩa, làm việc thiện chứ không được tàn ác, tác quái, và cũng từ nay trở đi tôi xin nhờ Lãnh Thiêm tiên sinh đảm nhận hộ Hình Ðường Chấp Pháp Hương Chủ. Bất cứ ai vi phạm luật lệ của bổn giáo và gây thù gây oán với anh em khác đều phải chịu phạt trọng hình. Dù là các tôn trưởng của tôi như ông ngoại hay cả cậu tôi cũng vậy.

Mọi người nghe xong đều vái chào và đồng thanh nói:

– Ðiều đó nên lắm, nên lắm!

Bành Doanh Ngọc cũng xen lời nói:

– Năm xưa lúc Dương giáo chủ còn sống, luật lệ của bổn giáo rất nghiêm. Từ khi Dương giáo chủ mất, người của bổn giáo mới không còn tuân theo luật lệ, khiến bổn giáo suýt bị diệt vong. Bây giờ mong Trương giáo chủ với Lãnh huynh nên chỉnh đốn lại. Ðây là một việc rất quan trọng của bổn giáo.

Lãnh Thiêm tiến lên một bước và nói:

– Xin tuân lệnh giáo chủ!

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Việc thứ hai nói ra thì khó khăn hơn việc trước nhiều. Bổn giáo với sáu đại môn phái ở Trung Nguyên kết thù kết oán đã lâu, môn hạ đệ tử của hai bên chém giết hoặc đả thương lẫn nhau đã khá nhiều. Bây giờ chúng ta xoá bỏ chuyện cũ đi. Không gây thù gây oán với sáu đại môn phái ấy nữa.

Mọi người nghe thấy điều ấy, trong lòng có vẻ không phục nên vẫn không thấy có ai lên tiếng trả lời cả.

Chu Ðiên lại lên tiếng:

– Nếu sáu đại môn phái tự ý đến gây hấn với chúng ta thì sao?

Vô Kỵ đáp:

– Lúc ấy chúng ta sẽ tuỳ cơ ứng biến. Nếu đối phương cứ nhất định dồn ép, tất nhiên chúng ta không thể nào chịu thúc thủ mà chờ chết được.

Thiết Quan Ðạo nhân cũng xen lời nói:

– Thôi được! Ðằng nào tính mạng của chúng tôi đều do giáo chủ cứu sống. Giáo chủ muốn thế nào chúng tôi cũng xin tuân theo.

Bành Doanh Ngọc bỗng lớn tiếng nói:

– Thưa các anh em! Sáu đại môn phái giết người của chúng ta khá nhiều mà ta đã giết người của họ cũng không ít. Nếu hai bên cứ dây dưa mối oán thù như thế thì càng chết nhiều mà thôi. Giáo chủ đã ra lệnh bảo chúng ta đừng có tầm thù nữa. Ðó là người muốn ban phúc cho chúng ta chứ có phải là muốn cho chúng ta chết đâu.

Mọi người thấy Doanh Ngọc nói rất phải, nên ai nấy đều nhận lời hết.

Vô Kỵ chắp tay chào và nói:

– Quý vị khoan hồng đại lượng như vậy thật là phước cho vỗ lâm và cũng rất may mắn cho chúng sinh. Còn việc thứ ba là theo di lệnh của Dương tiền giáo chủ nói: Bất cứ ai kiếm lại được Thánh Hỏa Lệnh rồi đi Cái Bang thỉnh di vật của giáo chủ thứ ba mươi mốt. Người đó sẽ được làm giáo chủ đời thứ ba mươi tư này. Và trong di thư còn nói: “Sau khi Dương giáo chủ tạ thế, địa vị giáo chủ do Kim Mao Sư Vương tạm quyền”. Vậy chúng ta phải đi ra hải ngoại đón Tạ Sư Vương về để ông ta tạm quyền giáo chủ, rồi chúng ta nghĩ cách tìm kiếm lại Thánh Hoả Lệnh và di vật của giáo chủ đời trước. Lúc ấy tiểu tử sẽ thoái ngôi nhượng quyền, không còn ai dị nghị nữa.

Mọi người nghe thấy Vô Kỵ nói như vậy đều ngẩn người ra nhìn nhau và nghĩ thầm:

– Chúng ta không có thủ lãnh đã mấy chục năm , mãi mới kiếm ra được một người trí dũng song toàn. Nếu sau này một kẻ nào bất tài mà kiếm ra được Thánh Hỏa Lệnh chẳng lẽ để cho tên bất tài đó ra làm giáo chủ hay sao?

Tới lúc này Dương Tiêu mới lên tiếng:

– Di chúc của Dương tiền giáo chủ đã viết vào hai mươi năm trước đây. Lúc ấy thế cuộc khác hẳn bây giờ nhiều. Việc đi đón Kim Mao Sư Vương và việc tìm kiếm Thánh Hỏa Lệnh chúng ta vẫn tiếp tục thi hành. Nhưng để cho người khác làm giáo chủ, tôi e mọi người không phục tòng.

Vô Kỵ cương quyết phải tuân theo di lệnh của Dương tiền giáo chủ mà hành sự.

Mọi người thấy chàng cương quyết như vậy đành phải nghe theo, nhưng ai nấy đều nghĩ:

– Có lẽ Kim Moa Sư Vương đã chết lâu rồi và Thành Hỏa Lệnh đã mất gần trăm năm , làm sao mà tìm ra được vật ấy? Bây giờ ta hãy cứ y theo lời giáo chủ. Sau này nếu có việc gì biến đổi thì sẽ định liệu sau vậy.

Thế rồi Vô Kỵ sai người đốt cháy Thánh Hỏa lên, giết bò, giết dê uống máu ăn thề với nhau, và bắt mọi người không được trái với ba lời ấy.

Thề xong trời vừa sáng tỏ, bỗng nghe trong rừng có tiếng kêu la kinh khủng.

Thiết Quan đạo nhân thét hỏi:

– Ai kêu la dữ dội như thế? Trong rừng có hai người chạy ra. Ðó là bộ hạ của Hồng Thủy Kỳ. Chúng chạy đến trước mặt Chưởng kỳ sứ của Hồng Thủy Kỳ là Ðương Dương bảo:

– Thưa ngài, số tù binh của Mao Sơn bang và Ngũ Phụng Ðao đã tự tử hết.

Ðường Dương ngạc nhiên hỏi:

– Có việc ấy thật ư?

Hỏi xong, Ðường Dương ra lệnh cho ba mươi mấy thủ hạ đi bốn mặt tám phương ồng thời lại ra lệnh cho những người khác bố trí trận thế. Ðường Dương đem theo mấy người vào rừng quan sát. Hồng Thủy Kỳ khổ chiến mấy trận nên người của Kỳ đó chỉ còn mấy chục người thôi, nhưng Ðường Dương chỉ huy rất khéo, trông vẫn oai nghi và chỉnh tề.

Một lát sau, Ðường Dương từ trong rừng vắng đi ra, tiến đến trước mặt Vô Kỵ thưa rằng:

– Bẩm giáo chủ, thuộc hạ Ðường Dương xin lãnh tội.

Vô Kỵ hỏi:

– Việc gì, Ðường ký sứ?. Thuộc hạ phái người trông nom bọn tù binh, không ngờ bọn chúng đột nhiên cướp khí giới của người canh gác, rồi tự tử hết. Người canh gác không sao cản trở kịp nên đã thất chức. Thật kỳ lạ. Vô Kỵ cùng mọi người đi vào trong rừng, chỉ thấy bọn tù binh của Mao Sơn bang và Ngũ Phụng Ðao nằm chết ngổn ngang. Tám giáo chúng của Hồng Thủy Kỳ thừa lệnh canh gác có sáu người bị thương. Tất cả tám người đó đều quỳ dưới đất để chịu tội.

Vô Kỵ hỏi:

– Những người này tự tử hay bị các ngươi giết?

Người lãnh đầu canh gác thưa:

– Thưa giáo chủ, bọn tù binh này bỗng lẳng lặng nhảy tới tấn công thuộc hạ rồi cướp đao kiếm tự tử, từ đầu tới cuối chúng không nói nửa lời.

Vô Kỵ nghe nói gật đầu và nói tiếp:

– Việc xảy ra đột ngột như vậy, lỗi không phải của các ngươi. Thôi các ngươi đứng dậy.

Vô Kỵ cúi nhìn bọn tù binh thấy vết thương của chúng quả thật do tự tử mà chết.

Chàng thấy trong đống xác có một cánh tay hãy còn khuấy động, biết người đó chưa chết hẳn, vội cúi xuống giơ chưởng điểm luôn ở Linh Ðài yếu huyệt của người đó, và dồn Cửu Dương chân khí sang để cứu chữa.

Người nọ trợn mắt lên ngơ ngác nhìn chàng.

Chàng vội hỏi:

– Tại sao lại tự sát?

Người nọ, thở hổn hển đáp:

– Có ai tham sống sợ chết ra tay giết ta đừng có nương tay Vô Kỵ ngẩn người ra, nghĩ ngợi. Chàng sực nhớ lúc kịch chiến hồi nãy giữa lưng núi bỗng có người quát bảo, đối phương liều đối chí mạng. Chàng đoán chắc trong đó thế nào cũng có sự bí mật gì đây nên chàng lại hỏi tiếp:

– Ai đã hạ thủ quyết không nương tay?

Người nọ đáp:

– Cả nhà tôi Già trẻ lớn bé vợ, con cái đều nằm ở trong tay người ta.

– Ở trong tay ai? Chúng tôi sẽ cứu gia đình bạn ra khỏi chốn nguy hiểm.

Người nọ lắc đầu, gượng cười, rồi gục đầu xuống tắt thở.

Dương Tiêu và mọi người nghe người đó nói như vậy liền ngơ ngác nhìn nhau thắc mắc.

Vô Kỵ cùng Thiên Chính, Dương Tiêu, Nhất Tiếu quay về lều tranh.

Bành Doanh Ngọc nói:

– Gia quyến của những người này đã lọt vào tay kẻ khác nên mới bị kềm chế. Không cảm tử thì vợ con cũng không thể nào sống được. Không hiểu trên giang hồ này, người nào lại có quyền lực chỉ huy được hào kiệt của các bang phái thế này?

Chu Ðiên cũng lên tiếng nói:

– Tên phiên tăng cầm ỷ Thiên bảo kiếm hồi nãy chắc có thông đồng với phái Nga Mi. Theo ý tôi thì sáu đại môn phái thế nào cũng đứng sau lưng bọn này để điều khiển. Diệt Tuyệt lão tặc ni âm độc lắm. Mụ ta địch không nổi giáo chủ mới xúi bọn này đến gây hấn.

Lãnh Thiêm vội đáp:

– Không phải!

Chu Ðiên lại hỏi:

– Tại sao bạn lại bảo là không phải?

Lãnh Thiêm vẫn không trả lời.

Nói Không Ðược cũng xen lời nói:

– Tôi thiết nghĩ bắt giữ gia đình của những người ở các bang phái chỉ là chuyện nhỏ. Sự thật, những bang phái ở Trung Nguyên đã có dự mưu sẵn. Sáu đại môn phái vây đánh bổn giáo, yên trí thế nào cũng toàn thắng. Bọn Diệt Tuyệt lão ni tự phụ lắm. Chúng quyết không nghĩ đến chữ thất bại đâu. Vì vậy chúng không mai phục sẵn bọn này.

Mọi người gật đầu khen phải.

Chu Ðiên lại nói tiếp:

– Vậy những người gây thù với ta là ai?

Mọi người bàn tán nửa ngày vẫn không tìm được lý do.

Vô Kỵ nói:

– Việc này chúng ta tạm gác lại. Bây giờ hãy tiếp tục làm những việc đại sự. Ai đi hải ngoại nghênh đón Kim Mao Sư Vương Tạ Pháp Vương. Bổn nhân phải đi mới được. Chẳng hay có vị nào bằng lòng đi với bổn nhân?

Mọi người đều đứng dậy nói:

– Chúng tôi nguyện theo giáo chủ cùng đi hải ngoại.

Vô Kỵ lại đáp:

– Ði hải ngoại không cần nhiều người. Huống hồ, Quang Minh Ðỉnh còn cần nhiều người xử lý. Vở y, Dương tả sứ thống lãnh Thiên, Ðịa, Phong, Lôi, Mộc, Thủy , Hỏa, Thổ, năm kỳ chia nhau đi các nơi chiêu tập những giáo chúng tán lạc, truyền dụ ba việc của bổn nhân đã hẹn ước với mọi người. Còn ông ngoại với cậu đem quân đi do thám xem kẻ địch nào ngấm ngầm gây thù với chúng ta, nhất là tìm coi Tía Sam Long Vương và Quang Minh Hữu Sứ hiện ở đâu. Vi Bức Vương đi gặp người trưởng môn của sáu đại môn phái nói rõ với họ, bổn giáo chỉ muốn làm bạn với các môn phái chứ không muốn gây thù, gây hấn như trước nữa. Việc này rất khó giải quyết, nhưng với tài của Bức Vương, tôi tin thế nào cũng thành công. Việc đi hải ngoại nghênh đón Tạ Pháp Vương, do bổn nhân với Ngũ vị tảng nhân cùng đi.

Mọi người đều tuân lệnh Vô Kỵ.

Bất Hối nói với cha rằng:

– Thưa cha, con muốn đi hải ngoại để được xem cảnh núi non, bể cả.

Dương Tiêu mỉm cười đáp:

– Việc này con hãy hỏi giáo chủ chứ cha không có quyền.

Bất Hối phùng mồm, bĩu môi không nói gì nữa.

Vô Kỵ thấy vậy mỉm cười, hồi tưởng lại mấy năm trước đưa Bất Hối lên Tây Vực. Lúc đi đường Vô Kỵ có kể chuyện Băng Hoa đảo cho nàng nghe. Lúc ấy, nàng đã muốn được đi xem rồi.

Nghĩ vậy chàng liền nói:

– Cô Bất Hối! Ði đường biển nguy hiểm lắm. Nếu cô không sợ hãi và Dương tả sứ muốn được cho yên tâm cho cô đi thì Tả sứ với cô cùng đi hải ngoại cũng được.

Bất Hối thấy Vô Kỵ nói như vậy vội đáp:

– Tôi chả sợ gì hết. Cha, chúng ta hãy theo anh Vô Kỵ à theo giáo chủ đi đi.

Dương Tiêu đưa mắt nhìn Vô Kỵ để chờ giáo chủ ra lệnh chứ không trả lời Bất Hối.

Vô Kỵ liền nói:

– Nếu vậy, phiền Lãnh tiên sinh ở lại trấn thủ Quang Minh Ðỉnh và cai quản Thiên, Ðịa, Phong, Lôi bốn môn.

Lãnh Thiêm vâng lời, Chu Ðiên vỗ tay dậm chân la lớn:

– Hay lắm! Hay lắm! Hôm đó mọi người ăn uống no say, rồi người nào người nấy về chỗ ở của mình mà nghỉ ngơi.

Vô Kỵ muốn Bất Hối cởi xiềng xích cho Tiểu Siêu, nhưng chìa khoá bị mất trong đống gạch vụn, không sao tìm thấy được.

Tiểu Siêu lại thấy Vô Kỵ đã hết sức tìm chìa khoá cho mình mà không thấy, liền lạnh lùng nói:

– Không sao! Tôi cứ mang theo cái xiềng xích này đi đường kêu “loong coong” càng thêm vui tai.

Vô Kỵ liền an ủi nàng ta rằng:

– Tiểu Siêu! Cô cứ yên tâm ở trên Quang Minh Ðỉnh này chờ tôi đón Tạ Pháp Vương về rồi sẽ mượn con đao Ðồ Long mà chém đứt sợi xiềng xích ấy cho cô.

Tiểu Siêu lắc đầu không nhận lời.

Sáng sớm ngày hôm sau, Vô Kỵ lại dẫn mọi người đến chia tay Lãnh Thiêm để xuống núi. Lãnh Thiêm liền nói:

– Thưa giáo chủ! Giáo chủ là người liên can đến sự an nguy tồn vong của bổn giáo. Vậy xin giáo chủ nên bảo trọng thân thể.

Vô Kỵ đáp:

– Lãnh Thiêm tiên sinh tọa trấn Tổng Ðàn, công việc mệt nhọc lắm đấy. Lãnh Thiêm với các thủ lãnh của Thiên, Ðịa, Phong, Lôi bốn môn tiễn đưa mọi người xuống Quang Minh Ðỉnh rồi mới chia tay.Ði được hơn trăm dặm, Vô Kỵ ra lệnh căng lều trên bãi sa mạc nghỉ ngơi.

Ngủ đến nửa đêm, chàng bỗng nghe thấy từ phía Tây có tiếng kim khí va chạm vọng tới. Sau khi luyện thành Cửu Dương Thần Công, tai mắt của chàng thính hơn tai mắt của người thường gấp bội.

Chàng lắng tai nghe giây phút rồi lẳng lặng đi ngay về phía đó.

Ði được vài dặm, chàng đã trông thấy một bóng người đang đi tới.

Chàng nhận ra là Tiểu Siêu, liền tiến lên hỏi:

– Tiểu Siêu!

Tiểu Siêu vừa trông thấy Vô Kỵ đã oà lên khóc. Nàng gục ngay vào lòng chàng mà nức nở.

Vô Kỵ an ủi nàng rằng:

– Ðừng khóc nữa.

Tiểu Siêu càng lớn tiếng khóc thêm, giây phút sau mới trả lời Vô Kỵ rằng:

– Công tử đi đâu tôi cũng đi đó.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Cô bé này mồ côi cha mẹ, lại bị cha con Dương tả sứ nghi ngờ, thật tội nghiệp vô cùng. Nàng thấy ta tử tế với nàng như vậy nên nàng mới quyến luyến. Nghĩ đoạn chàng liền an ủi tiếp:

– Thôi! Cô đừng khóc nữa. Tôi nhận đưa cô đi hải ngoại.

Tiểu Siêu cả mừng, ngửng đầu nhìn Vô Kỵ, chàng thấy bộ mặt của nàng quả thật đẹp tuyệt vời.

Bỗng có tiếng vó ngựa từ phía Ðông Bắc nhộn nhịp vọng tới, hình như có một đội ngựa rất đông đang chạy từ phía Tây sang Ðông. Càng tiếng vó ngựa càng xa dần. Chàng cũng đoán ra được là đội người đó ít ra cũng đến hàng trăm.

Một lát sau, Nhất Tiếu và Dương Tiêu đã lần lượt chạy tới nói:

– Thưa giáo chủ, đêm khuya có đại đội người ngựa phi chạy như thế, chưa biết chừng là kẻ địch của chúng ta cũng nên! Vô Kỵ liền bảo Tiểu Siêu hợp bọn với Bành Doanh Ngọc. Còn mình cùng Dương Tiêu và Nhất Tiếu tiến thẳng về phía có tiếng vó ngựa.

Khi mấy người đi tới gần, quả nhiên thấy trên bãi sa mạc còn để lại nhiều dấu vó ngựa, Nhất Tiếu cúi mình xuống xem, bỗng y nhặt lên một nắm cát và nói:

– Có vết máu. Ba người theo những vết chân ngựa in trên cát mà đi luôn mấy dặm.

Dương Tiêu bỗng thấy trên mặt cát phía bên trái có nửa thanh đao gãy, vội chạy lại nhặt lên xem, thấy lưỡi dao có khắc ba chữ “Phùng Nhân Hào”.

Y liền nói:

– Nhân Hào là người của phái Không Ðộng, thưa giáo chủ. Có lẽ phái Không Ð ộng để sẵn ngựa xe ở đây để chuẩn bị trở về Trung Nguyên cũng nên.

Ba người đã điều tra ra những người đó của phái Không Ðộng rồi mới yên tâm trở về chỗ cũ.

Mọi người đi tới ngày thứ năm bỗng thấy trên cánh đồng cỏ ở phía trước, có đám đông người.

Vô Kỵ đã nhận ra những người đó đều ăn mặc áo ni cô, trong bọn lại có bảy tám người là đàn ông. Khi mọi người đi tới cách bọn ni cô chừng mười mấy trượng, đã nghe ni cô la lớn:

– Kìa, ác tặc Ma giáo kìa! Mọi người vừa định rút khí giới ra bao vây bọn Vô Kỵ.

Vô Kỵ biết rõ đối phương là người của phái Nga Mi rồi. Nhưng không hiểu tại sao họ đã đi rồi mà còn ở lại. Và những người của phái Nga Mi này rất lạ mặt, chàng chưa hề thấy bao giờ. Chàng liền lớn tiếng hỏi:

– Các vị có phải là môn hạ của phái Nga Mi không? Một ni cô người bé nhỏ, đã vượt mọi người chạy tới trước mặt Vô Kỵ quát hỏi lại rằng:

– Ác tặc của Ma giáo kia hỏi nhiều làm chi? Có giỏi thì mau ra đây lãnh chết đi.

Vô Kỵ đáp:

– Chẳng hay sư thái quý danh là gì? Tại sao lại nổi giận như thế?

Ni cô kia lại quát hỏi tiếp:

– Tà ác gian tặc. Mi là cái thứ gì lại dám hỏi danh hiệu của ta? Chẳng hay mi là ai thế?

Nhất Tiếu thấy ni cô vô lễ với giáo chủ của mình như vậy liền dở khinh công ra, thân hình nhanh như điện chớp, xuyên vào trong đám quân, điểm huyệt luôn hai tên nam đệ tử rồi túm cổ chúng chạy luôn ra đằng xa mới vứt chúng xuống đất rồi quay về chỗ cũ, lại ra tay như trước, điểm luôn yếu huyệt hai tên nam đệ tử nữa.

Bọn người phái Nga Mi thấy Nhất Tiếu có khinh công lợi hại như vậy, chỉ thoáng cái, hai tên nam đệ tử của họ đã bị Nhất Tiếu xách cổ đi như đằng vân, giá vũ và đem ra ngoài xa mấy chục trượng rồi bị vứt xuống đất, nằm im một chỗ không sao cử động được nữa nên người nào người nấy đều ngơ ngác nhìn nhau.

Họ lại nghe Nhất Tiếu cười nhạt và nói:

– Vị này là một kỳ nam tử, võ công giỏi nhất thế gian và can đảm nhất thiên hạ, và cũng là giáo chủ cả Minh giáo chúng ta. Trương giáo chủ đã thống lãnh tả hữu Quang Minh Sứ, Tứ Ðại Hộ Giáo Pháp Vương, Ngũ tảng nhân, Ngũ Hành Kỳ, Thiên, Ðịa, Phong, Lôi tứ môn. Giáo chủ chúng tôi đã đuổi được phái Nga Mi xuống núi, đã cướp được thanh ỷ Thiên kiếm trong tay của Diệt Tuyệt sư thái, một nhân vật như thế mà không xứng hỏi pháp danh của sư thái hay sao?

Các đệ tử của phái Nga Mi nghe thấy Nhất Tiếu nói như vậy rất kinh hãi vì vừa rồi chúng đã trông thấy khinh công và thủ đoạn của Nhất Tiếu huyền ảo như thế, chúng không thể nào dám không tin lời nói của Nhất Tiếu nữa.

Ni cô trạc tuổi trung niên kia định thần giây lát rồi mới lên tiếng hỏi tiếp:

– Các hạ là ai thế?

Nhất Tiếu vừa cười vừa đáp:

– Tại hạ họ Vi, biệt hiệu là Thanh Dực Bức Vương!

Những người trong phái Nga Mi đã có mấy người vừa nghe Nhất Tiếu xưng danh xong liền thất thanh la lên.

Tiếp theo đó, bốn người vội chạy đến chỗ bốn đồng môn bị Nhất Tiếu túm đi vứt hồi nãy xem sao.

Nhất Tiếu thấy vậy, vừa cười vừa nói tiếp:

– Ta thừa lệnh Trương giáo chủ, Minh giáo chúng ta không gây hấn sáu đại môn phái nữa, nên Bức Vương đây không có hút máu chúng đâu.

Thì ra từ khi Nhất Tiếu được Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công cứu chữa cho, không những đã xua đuổi hết những hàn độc của Nhất âm chỉ mà còn chữa khỏi già nửa hơi âm độc ở trong người y nữa, cho nên từ đó đến giờ, y khỏi cần phải hút máu người để kháng cự lại với hơi hàn độc như trước kia nữa.

Bốn người nọ đỡ bốn tên bị điểm huyệt trở về chỗ đồng bọn rồi mọi người đang nghĩ cách giải huyệt cho bốn tên đó.

Ngờ đâu chúng chỉ nghe thấy có tiếng “Xoẹt! Xoẹt!” đã thấy bốn viên đất nhỏ bay tới bắn trúng vào yếu huyệt của bốn người kia, tức thì bốn người đó đã đứng dậy.

Dương Tiêu đã dùng Ðàn Chỉ Thần Công, ném đá điểm huyệt, giải huyệt cho bốn tên đệ tử của phái Nga Mi.

Người ni cô trung niên thấy số người của đối phương tuy ít nhưng võ công đều kỳ lạ, huống hồ còn có giáo chủ của họ nữa, nếu ra tay đấu, bên mình thế nào cũng thua to, nên ni cô liền nói:

– Bần ni pháp danh là Tĩnh Không. Dám hỏi vị thí chủ vừa ném đá giải huyệt kia là ai thế? Dương Tiêu chưa kịp trả lời, Chu Ðiên đã ha hả cười và đáp:

– Y là Quang Minh sứ giả của bổn giáo, cũng có thể nói là người nhà của quý phái đấy.

Tĩnh Không lui lại một bước trợn ngược đôi lông mày quát lớn:

– Thế ra mi là ác tặc Dương Tiêu đã giết chết Kỷ sư muội ta đấy?

Vô Kỵ vội lên tiếng nói:

– Câu chuyện của Kỷ cô nương đầu đuôi như thế nào, Tĩnh Không sư thái cứ hỏi tôn sư sẽ rõ, khỏi cần ở đây sinh sự lôi thôi làm chi.

Tĩnh Không lại hỏi:

– Sư phụ của ta đâu?

Vô Kỵ đáp:

– Tôn sư ở trên Quang Minh Ðỉnh xuống núi tới giờ đã được hơn nửa tháng trời. Có lẽ lúc này tôn sư đã tới Ngọc Môn Quang rồi cũng nên. Chẳng lẽ các vị không có gặp tôn sư ở góc đường hay sao?

Một thiếu nữ tuổi trạc ba mươi ở phía sau Tĩnh Không xen lời nói:

– Sư tỷ chớ có nên nghe lời nói của chúng. Chúng ta đã chia làm ba đường tiếp ứng, hễ có tin gì là dùng hoả pháo liên lạc, tại sao chúng ta lại không gặp tôn sư?

Tĩnh Không mặt đầy vẻ hoài nghi, vội hỏi lại:

– Gia sư với các sư tỷ muội chả bị Minh giáo bắt cóc rồi là gì. Ðại trượng phu phải nên quang minh chính trực, các người hà tất phải giấu diếm chúng ta làm chi?

Chu Ðiên xen lời nói:

– Nói thật cho các người biết, phái Nga Mi không tự lượng sức mình, lên tấn công Quang Minh Ðỉnh, từ Diệt Tuyệt sư thái trở xuống, người nào người nấy đều bị bắt giữ hết, hiện đang bị giam cầm ở thuỷ lao để cho mấy thầy trò bà ta chịu tội và hối cải, ít nhất cũng phải giam giữ trong tám năm hay mười năm. Tới lúc đó có thả hay không còn tính lại. Bành Doanh Ngọc vội lớn tiếng nói át lời của Chu Ðiên và bảo với các môn hạ của phái Nga Mi rằng:

Quý vị chớ có nghe Chu huynh nói đùa, Diệt Tuyệt sư thái thần công cái thế như vậy và các môn hạ người nào võ nghệ cũng cao cường, có khi nào lại bị Minh giáo bắt giữ được. Lúc này quý phái với Minh giáo chúng tôi, hai bên đã ngừng chiến, các vị hãy về núi Nga Mi sẽ gặp tôn sư và các đồng môn kia ngay.

Tĩnh Không bán tín bán nghi, vẫn còn do dự, không biết phải quyết định ra sao.

Nhất Tiếu lại lên tiếng nói tiếp:

– Xin quý vị nên tin lời giáo chủ chúng tôi, chẳng lẽ Trương giáo chủ đường đường là một giáo chủ, lại nói dối các vị hay sao?

Ni cô tuổi trung niên lại hỏi tiếp:

– Xưa nay Ma giáo vẫn có tiếng xảo trá và lắm kế, chúng ta tin sao được?

Ðường Dương chưởng kỳ sứ của Hồng Thủy Kỳ giơ tay trái lên phất một cái, ra hiệu cho Ngũ Hành Kỳ.

Chỉ trong thoáng cái, các đệ tử của phái Nga Mi đã thấy giáo chúng của Cự Mộc Kỳ ở phía Ðông, Liệt Hỏa Kỳ ở phía Nam, Nhuệ Kim Kỳ ở phía Tây, Hồng Thủy Kỳ ở phía Bắc và Hậu Thổ Kỳ ở giữa, người nào ngưòi nấy đ ều rút khí giới ra xông lại bao vây chặt sư huynh đệ nọ.

Bạch Mi Ưng Vương Hân Thiên Chính lớn tiếng nói:

– Lão phu là Bạch Mi Ưng Vương chỉ cần một mình lão ra tay cũng đủ bắt bọn tiểu bối các ngươi rồi. Nhưng ngày hôm nay Minh giáo chúng ta nương tay tha thứ cho các ngươi là những người ít tuổi, ăn nói phải cẩn thận.

Mấy lời nói của Thiên Chính, khiến các đệ tử của phái Nga Mi đều ù tai nhức óc, tâm thần hoang mang chịu không nổi.

Chúng thấy Hân Thiên Vương râu và lông mày trắng xoá, thần oai lẫm liệt thì kinh hoảng vô cùng.

Vô Kỵ chắp tay chào và nói tiếp:

– Xin chào quý vị và mong quý vị đệ lời Trương Vô Kỵ của Minh giáo hỏi tăm tôn sư nhé. Nói xong, chàng liền quay người đi về phía Ðông luôn.

Ðường Dương chờ Nhất Tiếu, Thiên Chính, mọi người đi khỏi mới phẩy tay ra hiệu triệu hồi Ngũ Hành Kỳ.

Các đệ tử của phái Nga Mi thấy vậy kinh hãi thầm.

Bành Doanh Ngọc thưa với Vô Kỵ rằng:

– Thưa giáo chủ, tôi chắc việc nầy bên trong thế nào cũng có bí mật gì đây. Diệt Tuyệt sư thái với môn hạ đi về phía Ðông sao không gặp bọn đệ tử này. Vả lại, các môn phái, đi đến đâu cũng đều có để lại dâu hiệu riêng để liên lạc, không có lý do nào bọn họ lại mất tích như thế được. Mọi người vừa đi vừa bàn vấn đề đó, không ai hiểu vì sao người của phái Nga Mi lại đột nhiên mất tích trong bãi sa mạc. Hơn nữa, lại thấy thanh bảo kiếm Ỷ Thiên lọt vào tay tên phiên tăng nên mọi người nhận thấy đó là một triệu chứng chẳng lành. Vì mãi nhớ đến sự an nguy của Chỉ Nhược, Vô Kỵ vừa đi vừa nghĩ nên không chuyện trò với mọi người.

Ngày hôm đó, mọi người đi cho tới chiều tối mà vẫn chưa dừng chân nghỉ ngơi.

Nói Không Ðược bỗng lên tiếng nói:

– Nơi đây có vẻ lạ lùng lắm. Nói xong, y liền chạy đến giữa bụi cây để xem xét. Y lấy chiếc xẻng sắt trong tay một giáo chúng để đào đất. Một lát y đã đào thấy một cái xác người. Xác đó đã thối nát, không sao nhận rõ mặt được. Nhưng căn cứ quần áo của cái xác đó, y đã nhận ra người đó là đệ tử của Côn Luân. Y liền bảo mấy tên giáo chúng lấy xẻng đào thêm. Không bao lâu đã đào thấy một cái hố thật rộng. Trong hố có mười lăm, mười sáu xác đều là môn hạ của phái Côn Luân. Nếu phải của họ chôn lấp, không khi nào lại chôn một cách cảu thả như thế đủ thấy bọn họ bị địch giết chết, rồi đào hố chôn như vậy.

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu kẻ địch của phái Côn Luân là ai?

Trong khi mọi người đang hồ nghi, Doanh Ngọc bỗng lên tiếng nói:

– Nếu việc này chúng ta không tìm cho ra manh mối thế nào các môn phái khác cũng nghi cho Minh giáo chúng ta đã giết đệ tử của họ.

Mọi người đều công nhận lời nói của Doanh Ngọc là phải.

Nói Không Ðược nói:

– Tất cả mọi người hãy nghe tôi nói đây. Nếu dùng đao dùng thương giao chiến với kẻ địch chúng ta quyết không khi nào chịu thua. Riêng có ám khí của kẻ địch thì rất khó đề phòng. Vở y từ giờ phải đề phòng kẻ địch đầu độc và ám hại. Các giáo chúng đều vâng lời. Mọi người lại đi thêm một quãng nữa, thì mặt trời đã lặn, liền kiếm chỗ để nghỉ ngơi. Bỗng thấy phía Ðông Bắc có ba bốn con chim ưng đang bay, đột nhiên đâm bổ xuống dưới đất, kêu la không ngớt, hiển nhiên bên dưới đã có vật gì ném trúng con chim ấy, nên nó mới bị rớt và kêu là như thế. Trang Tranh chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ, bị Diệt Tuyệt sư thái dùng Ỷ Thiên kiếm giết chết. Vô Kỵ đã truyền lệnh Ngô Kình Thảo phó ký sứ lên đảm nhiệm chức chính kỳ sứ.

Lúc ấy Kình Thảo thấy mấy con chim ưng kỳ lạ như vậy, liền nói với Vô Kỵ rằng:

– Ðể tôi tới đó xem sao. Nói đoạn, y liền đem theo hai giáo chúng chạy về phía đó xem xét. Một lát sau, một tên giáo chúng quay trở lại thưa với Vô Kỵ rằng:

– Thưa giáo chủ, Hân lục hiệp của phái Võ Ðang bị ngã ở thung lũng.

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi, vội hỏi:

– Có đúng là Hân lục hiệp không? Ông ta bị thương ư? Thưa giáo chủ, hình như Hân lục hiệp bị thương rất nặng. Ngô kỳ sứ thấy là Lục hiệp nên mới sai thuộc hạ cấp báo giáo chủ hay. Hiện giờ, Ngô kỳ sứ đã xuống dưới thung lũng để liệu bề cứu chữa.

Vô Kỵ nóng lòng như đốt không đợi chờ tên giáo chúng nói hết lời, đã vội chạy thẳng xuống thung lũng.

Dương Tiêu, Thiên Chính mọi người cũng chạy theo sau.

Khi Vô Kỵ chạy tới thung lũng đã thấy Kình Thảo, tay trái ẵm Lợi Hanh, tay phải vịn những cành cây leo lên sườn núi.

Vô Kỵ lo âu vô cùng, vội chạy xuống nắm cánh tay của Kình Thảo kéo lên và một tay rờ vào mũi Lợi Hanh để xem sư thúc còn sống hay chết?

Chàng thấy Lợi Hanh hãy còn thở thoi thóp, trong lòng mới được yên tâm.

Chàng đỡ tay, ẵm Lợi Hanh, nhảy nhót mấy cái đã lên tới đỉnh núi liền.

Chàng đặt Lục hiệp nằm xuống đất, định thần nhìn kỹ, vừa kinh hãi vừa tức giận và trong lòng còn thấy lo âu nữa. Vì chàng thấy đầu gối, khuỷu tay, cổ tay, cổ chân, ngón tay và chân của Lợi Hanh đều bị kẻ thù bẻ gãy hết, nên người của Lục hiệp mềm nhũn và hơi thở rất yếu hầu như sắp chết đến nơi rồi.

Kẻ địch hạ thủ một cách độc ác vô cùng, ai trông thấy cũng phải rùng mình kinh hãi. Tuy Lợi Hanh chưa kịp tỉnh táo hẳn, nhưng chàng vừa trông thấy Vô Kỵ đã tỏ vẻ mừng, đồng thời thả ra hai hòn đá. Thì ra sau khi chàng bị thương, còn bị đẩy xuống thung lũng, nhờ có nội công tinh thâm, nên chưa chết ngay.

Mấy con chim ưng muốn đáp xuống ăn thịt chàng, nhờ có những viên đá nhỏ ở chung quanh, chàng đã dùng chúng mà thổi bắn bọn chim ưng. Chàng cầm cự với lũ chim đó suốt mấy ngày liền.

Dương Tiêu thấy bốn con chim ưng còn đang bay lượn trên không, hình như chúng còn đợi chờ các người vứt xác của Lợi Hanh đi rồi chúng sẽ bay xuống xé thịt ra để ăn. Y tức giận vô cùng, liền nhặt bốn viên đá nhỏ lên, nhắm bốn con chim ưng đó bắn luôn.

Bốn con chim ấy đều bị vỡ sọ rớt xuống dưới đất liền.

Lợi Hanh thấy vậy gật đầu tỏ vẻ cám ơn Dương Tiêu đã trả thù hộ mình.

Trước hết Vô Kỵ cho Lục hiệp uống viên thuốc Chỉ thống hộ tâm để cho chàng khỏi đau đớn đã. Rồi Vô Kỵ mới tiếp xương nối cốt cho chàng, nhưng khi xem đến khớp xương, thì thấy hai mươi chỗ bị gãy hết, không thể nào nối lại được.

Lợi Hanh thấy Vô Kỵ có vẻ rầu rĩ, liền nói:

– Lục thúc cũng bị kim cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm đả thương như Dư tam ca vậy Vô Kỵ sực nghĩ đến năm xưa lời nói của cha mình, Tam sư bá Dư Ðại Nham cũng bị Kim cương chỉ của phái Thiếu Lâm bẻ gãy, nên phải nằm liệt giường hơn hai mươi năm , lúc ấy cha mẹ chàng chưa biết rõ Ðại Nham bị môn phái náo đả thương như vậy. Không ngờ câu chuyện đã qua bấy nhiêu năm rồi, bây giờ lại thêm một người sư thúc nữa bị thương như vậy, nhưng lần này chàng đã biết Kim cương chỉ của phái Thiếu Lâm đả thương.

Vô Kỵ định thần giây lát rồi an ủi Lợi Hanh rằng:

– Lục thúc khỏi phải lo âu, việc này cứ giao cho cháu, thế nào cháu cũng phải tìm cho ra kẻ thù, chẳng hay Lục thúc có biết kẻ thù đó là ai trong phải Thiếu Lâm không?

Lợi Hanh lắc đầu chết giấc.

Chàng cầm cự với con chim ưng trong mấy ngày liến, đã mỏi mệt hết sức.

Nay gặp Vô Kỵ, chàng mới yên trí nhưng chàng không thể nào chịu đựng được nữa, mới chết giấc ngay như vậy.

Vô Kỵ nghĩ đến thân thể của mình và sở dĩ cha mẹ mình tự tử chết là thấy có lỗi với Tam sư bá. Chàng không ngờ mấy hôm nay, Lục sư thúc lại ngộ nạn như vậy, nếu chàng không bắt ép phái Thiếu Lâm trao tên hung thủ đó ra, thì chàng không những có tội với Dư sư bá và Hân sư thúc hai vị mà còn có lỗi với cha mẹ đã khuất núi nữa. Thấy Lợi Hanh tuy chết giấc, Vô Kỵ biết người sư thúc này không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng, nhưng sẽ bị tàn tật suốt đời, cùng chung một số phận như Dư Ðại Nham vậy.

Chàng khoanh tay về phía sau, thủng thẳng đi ra đằng sau, vừa đi vừa suy tính.

Ði đến một cái đồi con, chàng ngồi xuống, suy nghĩ.

Có nên đi chùa Thiếu Lâm tìm kiếm hung thủ để trả thù cho cha mẹ và chú sáu không? Nếu phái Thiếu Lâm thẳng thắn nhận lỗi trao hung thủ ra, thì câu chuyện không đến nỗi lôi thôi cho lắm, bằng không Minh giáo với Võ Ðang phải liên hiệp cũng đối phó phái Thiêu Lâm chăng? Ta với các anh em đã uống máu ăn thề, quyết không tầm thù với sáu đại môn phái nữa. Nay việc xảy ra như vậy lại là việc riêng của mình mà ta xoá bỏ lời thề đó đi thì các anh em trong Minh giáo không phục. Vả lại, vụ tai hoạ này đã khơi mào thì sau này oan oan kết mãi đời đời máu chảy và sẽ có nhiều anh hùng hảo hán bị mạng vong Lúc ấy trời đã tối hẳn, giáo chúng của Minh giáo, kẻ thắp đèn đuốc người nhóm bếp thổi nấu.

Vô Kỵ vẫn ngồi trên đồi nhỏ, thấy mặt trăng đã mọc cao rồi mà vẫn chưa nghĩ ra được một kế hoàn hảo.

Ðến nửa đêm, chàng mới quyết định:

– Chúng ta hãy tới chùa Thiếu Lâm, yêu cầu yết kiến chưởng môn là Không Văn thần tăng, nói rõ tiền nhân hậu quả để xem ông ta xử trí ra sao. Nếu giải quyết không xong, thế nào cũng phải dùng tới võ lực. Vở y lúc đó ta xử trí ra sao?

Nghĩ đoạn, chàng thở dài một tiếng rồi đứng dậy.

Chàng đến cạnh Lợi Hanh, thấy Bất Hối đang cho Lợi Hanh ăn.

Lúc ấy Lợi Hanh chưa tỉnh hẳn.

Chàng vừa mở mắt ra nhìn, thấy Bất Hối bỗng lớn tiếng kêu gọi:

– Hiểu Phù, lúc nào anh cũng nhớ đến em có biết không?

Bất Hối mặt đỏ bừng, có vẻ xấu hổ nhưng tay phải nàng vẫn cầm thìa cháo và khẽ nói:

– Lục đại hiệp hãy ráng ăn thêm mấy thìa cháo nữa. Em hãy nhận lời cùng anh là từ nay đừng rời khỏi anh nhé? Vâng, vâng, Lục hiệp hãy cố ăn hết bát cháo này đã Lợi Hanh có vẻ mừng rỡ, há mồm ra uống luôn thìa cháo đó.

Ngày hôm sau, Vô Kỵ ra lệnh bảo mọi người đừng phân tán vội, hãy cùng nhau lên chùa Thiếu Lâm, hỏi ai đã ám hại Lục hiệp, rồi sẽ tiếp tục cuộc hành trình sau.

Nhất Tiếu, Chu Ðiên mọi người đều là những tay hiệp nghĩa, thấy Lợi Hanh bị thương nặng như vậy, ai nấy cũng đều phẫn uất. Nay nghe giáo chủ bảo đi Thiếu Lâm vấn tội, ai nấy đều tán thành.

Suốt dọc đương không có chuyện gì xảy ra. Ngày hôm đó mọi người đã đi tới Ngọ Môn Quan, mua thêm ít lừa ngựa để cưỡi.

Còn Lợi Hanh lúc mê sảng, lúc tỉnh, hễ Vô Kỵ hỏi tới chàng tại sao bị thương như thế, thì chàng lại ngớ ngẩn như khó nói lắm và chỉ cho Vô Kỵ hay rằng:

– Năm người sư phái Thiếu Lâm chứ không phải người của phái khác. Mọi người sợ người của các môn phái khác để ý tới, nên mua những quần áo của nhà buôn và phu khiêng để cải trang.

Sáng sớm ngày hôm đó, mọi người đang đi trên đường cái Cam Lương, mặt trời chiếu rọi xuống, nóng như thiêu. Ði được hai tiếng đồng hồ, trông thấy phía đằng trước co dãy liễu, chừng hai mươi cây.

Ai nấy đều mừng rỡ, thúc ngựa đi tới dưới gốc liễu để nghỉ ngơi.

Khi mọi người tới gần, thấy dưới những gốc liễu đó đã có tám chín người ngồi trước ở đây rồi. Trong đó có tám người ăn mặc lối đi săn, lưng đeo đơn đao và cung tên. Họ còn đem theo năm sáu con chim ưng săn, con nào con nấy lông đen nhánh, móng vuốt sắc bén, trông rất dữ tợn. Còn người kia là một công tử trẻ tuổi, mặc áo nhiều màu, tay cầm quạt, đang phe phẩy, trông rất ung dung, quí phái.

Vô Kỵ vội xuống ngựa, đột nhiên mắt của chàng chạm tầm mắt của công tử kia.

Chàng thấy đôi mắt của chàng công tử kia rất có thần, ánh mắt thấp thoáng như điện chớp. Nhưng chỉ thoáng cái đôi mắt của chàng ta đã hiền lành và thái độ cũng nho nhã hết sức. Chàng thấy công tử đó đẹp kỳ lạ, chiếc tay trắng cầm cái cán quạt bằng ngà, khiến người ta khó phân biệt được tay chàng trắng hơn hay là cán quạt.

Thấy Vô Kỵ đã xuống ngựa, bọn người theo sau cũng xuống ngựa hết, nhưng người nào người nấy vừa xuống tới mặt đất, đều trố mắt nhìn vào thanh kiếm đeo ở lưng của chàng công tử nọ. Vì thanh kiếm đó là ỷ Thiên kiếm.

Sở dĩ người của Minh giáo rất quen thuộc với thanh kiếm này là vì Diệt Tuyệt sư thái đã sử dụngthanh kiếm này giết nhiều người trong Minh giáo. Sau đó Chỉ Nhược dùng thanh kiếm này đâm Vô Kỵ bị thương nặng. Giáo chúng của Minh giáo đang ngạc nhiên, Chu Ðiên nhịn không nổi, đang định lên tiếng hỏi thì lúc ấy ở phí Ðông trên đường cái đã có vó ngựa nhộn nhịp vọng tới.

Tiếp theo đó có một đám đông đang phong ngựa phi tới.

Mọi người quay mặt nhìn về phía đó, thấy đám đông là đội quân binh của triều đình Nguyên. Bọn người có độ chừng năm sáu mươi đàn ông và hơn một trăm phụ nữ. Những người phụ nữ đang bị lính Nguyên dùng dây trói tay và lôi kéo đi. Ða số phụ nữ phần thì chân nhỏ, phần thì yếu ớt, làm sao mà đuổi kịp được ngựa của lính Nguyên, cho nên có người té ngã ra đất, nhưng lính Nguyên cứ thế mà lôi đi, chứ không chờ cho người đó đứng lên. Tất cả những người phụ nữ đó đều là người Hán, không cần nói rõ, ai cũng biết những phụ nữ đó là lương dân bị lính Nguyên bắt cóc. Số phụ nữ bị lôi kéo, quần áo rách tả tơi, thân hình loã lồ nên người nào người nấy khóc lóc thê thảm. Còn bọn lính Nguyên có tên tay cầm bình rượu, vừa uống vừa cười cợt với đám phụ nữ. Cũng có tên cầm roi da quất họ nữa.

Những người Mông Cổ rất giỏi cưỡi ngựa và tài ba quất roi cũng đặt biệt giỏi hơn người, nên chúng chỉ quất một roi, đã xé được một mảnh áo trên người một thiếu nữ rồi. Những tên khác thấy tên nọ biểu diễn như vậy, không thương hại thiếu nữ kia thì chớ, chúng còn hoan hô giễu cợt, lấy làm thích thú là khác.

Người Mông Cổ xâm nhập Trung Quốc đã gần trăm năm , xưa nay vẫn coi người Hán như thú vật vậy. Nhưng chưa bao giờ thấy chúng hà hiếp và đánh đập người giữa ban ngày ban mặt thế này.

Giáo chúng của Minh giáo thấy chúng ngông cuồng như vậy, người nào người nấy tức giận vô cùng, nhưng họ còn phải chờ Vô Kỵ ra lệnh mới dám xông lên.

Hồi thứ 57

Nữ Cải Trang Nam

– Lục Phá, ngươi đi bảo chúng thả những đàn bà kia ra, ban ngày ban mặt mà chúng quấy nhiễu như vậy thì còn ra cái thể thống gì nữa.

Giọng nói của chàng đó vừa thanh thoát vừa trong trẻo, không khác gì giọng của một thiếu nữ vậy. Một tên đại hán đã vội vâng lời:

– Vâng.

Y liền mở con ngựa buộc dưới gốc cây liễu rồi tung mình nhảy lên trên lưng ngựa và lớn tiếng quát bảo bọn lính Nguyên kia:

– Này, sao lúc ban ngày ban mặt mà các ngươi lại quấy nhiễu như vậy, bộ các ngươi coi không có quan trên hay sao? Các ngươi có mau thả bọn phụ nữ này ra không?

Một tên ăn mặc lối quan quân trong đám lính Nguyên, phi ngựa tiến tới, tay y vẫn còn ôm một thiếu nữ, có vẻ say sưa, mồm cười ha hả và đáp:

– Tên tử tù này không muốn sống nữa chắc? Mi táo gan thực, dám can thiệp đến việc của quan lớn này sao?

Ðại hán lạnh lùng nói tiếp:

– Ðạo tặc nổi lên khắp thiên hạ đều do tụi chúng bây không thương xót dân chúng mà gây nên cả. Ngươi khôn hồn mau nghe lệnh ta, thả ngay những phụ nữ này đi.

Tên quan quân ấy thấy đại hán nọ nói cứng rắn như vậy, y liền đưa mắt ngắm nhìn những người ngồi hóng mát dưới bóng cây, trong long hơi ngạc nhiên và nghĩ thầm:

– Dân chúng thường, hễ thấy quan binh làđã trốn tránh rồi, sao bọn người này lại dám táo gan can thiệp của quan quân như thế.

Nghĩ tới đó y vừa đưa mắt nhìn tới chàng thiếu niên công tử kia, thấy hai hạt minh châu to bằng hai trái long nhãn khâu trên khăn cột trên đầu. Y liền nổi lòng tham, cả cười một hồi rồi nói tiếp:

– Tướng công đĩ đực kia, hãy theo quan lớn đi, thể nào nhà ngươi cũng được hưởng phúc muôn đời.

Nói xong y thúc ngựa tới trước mặt chàng công tử nọ.

Chàng công tử đang tươi cười, bỗng thấy tên quan quân vô lễ như vậy, liền xếch ngược đôi lông mày thanh tú lên và lớn tiếng nói:

– Ðừng để một tên nào sống sót.

Chàng ta vừa nói dứt lời, đã có một mũi tên bắn xuyên qua ngực tên quan quân nọ liền.

Lúc ấy Vô Kỵ với giáo chúng Minh Giáo mới hay người bắn tên đó là người mặc đồ đi săn, đứng cạnh công tử nọ.

Cứ xem cách bắn tên nhanh và mạnh như vậy, y phải là một tay cao thủ hạng nhất trong võ lâm chứ không phải là một tay tầm thường.

Tên quan quân nọ không kêu được nửa tiếng đã té xuống chân ngựa, tay y vẫn còn ôm thiếu nữ. Tiếp theo đó tám tên mặc đồ săn kia giương cung lên bắn. Phát tên nào cũng trúng một tên lính Nguyên.

Bọn lính Nguyên kia thấy vậy, giật mình kinh hãi, vội ra lệnh giương cung bắn trả lại.

Tám người mặc đồ săn đều phi thân lên ngựa, vừa phóng tới vừa giương cung bắn. Chỉ trong giây lát, chúng đã bắn chết hơn ba mươi tên lính Nguyên rồi, còn những tên lính khác, thấy tình thế nguy cấp như vậy, vội rủ nhau, bỏ lại bọn phụ nữ đó mà quay ngựa chạy luôn.

Tám người mặc đồ săn cũng phóng ngựa đuổi theo. Ngựa của họ đều là thần mã, nên không bao lâu họ đã đuổi kịp bọn lính Nguyên và giương cung lên bắn lạot nào là có tám tên lính Nguyên chết ngay loạt đó.

Vì vậy họ đuổi không tới một dặm đã giết sạch bọn lính Mông Cổ.

Chàng thiếu niên công tử cũng tung mình lên ngựa đi ngay, chứ không hề quay đầu lại nhìn bọn Vô Kỵ.

Hơn nữa mọi người thấy bọn chúng chỉ trong nháy mắt đã giết chết hơn năm mươi tên lính Mông Cổ và vẻ mặt người nào người nấy không có gì nghiêm trọng và gay cấn hết.

Thấy bọn họ đi vội như vậy, Chu Ðiên liền vội gọi với theo:

– Này, này! Hãy khoan đã tôi có vài lời muốn hỏi.

Chàng công tử nọ không thèm trả lời, cứ thúc ngựa chạy thẳng, tám người kia cũng phi ngựa theo sau. Chỉ thoáng cái bọn họ đã mất dạng liền.

Vô Kỵ, Nhất Tiếu, các người muốn đuổi theo, vẫn có thể đuổi kịp, nhưng vì mọi người thấy tám người mặc đồ săn bắn giết chết bọn lính Mông Cổ một cách hăng hái như vậy, ai nấy cũng đều kính ngưỡng, nên không tiện đột nhiên xâm phạm bọn họ.

Mọi người đang bàn tán xôn xao, không ai đoán nổi lai lịch của chín người ấy.

Dương Tiêu lên tiếng nói trước:

– Chàng công tử nọ rõ ràng là nữ cải nam trang. Còn tám tay cao thủ ăn mặc đồ săn kia đối với nàng rất cung kính, tiên pháp của tám người đó thần diệu như vậy, họ không giống một nhân vật nào ở Trung Nguyên cả.

Lúc ấy Bất Hối với các người đàn bà thủ hạ của Hậu thổ Kỳ đã chạy tới cạnh bọn thiếu nữ bị bắt để an ủi, và hỏi nguyên nhân ra sao.

Mọi người mới hay những thiếu nữ đó đều là dân cư của các làng lân cận đấy.

Thế rồi mọi người liền lấy hết vàng bạc tiền ở trong người lính Nguyên đem chia cho những thiếu nữ đó và bảo họ đi đường tắt mà về nhà.

Từ hôm đó trở đi, suốt mấy ngày liền, các hào kiệt đều đàm luận đến chín người giết bọn lính Nguyên ấy. Thấy họ anh hùng như vậy, ai nấy cũng tiếc là không được kết bạn với họ.

Chu Ðiên liền nói với Dương Tiêu rằng:

– Dương huynh, kể ra lệnh ái cũng có thể gọi là một mỹ nữ tuyệt sắc rồi, nhưng đem so sánh với người nữ cải nữ nam trang kia thì nàng nọ đẹp hơn lệnh ái nhiều.

Dương Tiêu đáp:

– Chu huynh nói rất đúng, nếu bọn người đó chịu tham gia bổn giáo, với tài ba của tám người mặc đồ săn như vậy vai vế của họ có thể được đặt trên cả Ngũ Tảng nhân cũng nên.

Chu Ðiên nổi giận đáp:

– Nói bậy, tài cỡi ngựa và bắn cung của họ đã giỏi hơn ai mà Dương huynh lại khen như thế? Huynh thử bảo chúng thử so tài với Chu Ðiên, xem ai thắng ai bại nào?

Dương Tiêu lẩm bẩm nói tiếp:

– Kể ra tài của họ so sánh với Chu Huynh thì tất nhiên họ còn kém đôi chút, nhưng võ công của họ, có lẽ còn hơn Lãnh Thiêm huynh một mức.

Nên rõ, trong năm người của Ngũ Tảng nhân thì võ công của Lãnh Thiêm cao siêu hơn hết, điều này ai cũng phải công nhận rồi. Xưa nay Dương Tiêu với Chu Ðiên vẫn thường hay gây gổ nhau, tuy không ra mặt tranh giành nhau, nhưng hễ có cơ hội nào là Dương Tiêu đã đấu khẩu với Chu Ðiên liền.

Lúc này Chu Ðiên thấy Dương Tiêu bảo võ công của tám người còn cao siêu hơn Lãnh Thiêm như vậy có khác gì bảo tám người đó có thể thắng được cả ngũ tảng nhân. Cho nên Chu Ðiên càng tức giận thêm đang định cãi lại, Bành Doanh Ngọc liền xen lời nói:

Chu huynh lại bị mắc hởm của dương Tả Sứ rồi, Dương huynh nói như thế là có ý muốn chọc tức huynh đấy.

Chu huynh ha hả cả cười, nói tiếp:

– Thật à? Như vậy đệ tử không tức thì y làm gì được đệ nào?

Nhưng chỉ trong giây phút sau, Chu Ðiên lại chỉ trích tài cỡi ngựa của Dương Tiêu không được tinh xảo.

Mọi người thấy vậy đều tủm tỉm cười, vì ai nấy đều biết Chu điên xưa nay vẫn điên điên rồ rồ, nhưng y lại hay gây gổ với Dương Tiêu, mà lần nào đấu khẩu cũng bại cả.

Lúc ấy Lợi Hanh được Vô Kỵ chữa cho không ngừng một ngày nào, nên thần trí của chàng đã tỉnh lại rất nhiều.

Thì ra từ hôm ở Quang Minh Ðỉnh chạy xuống, như người mất hết hồn vía, cứ thế mà chạy thẳng vào sa mạc, lạc lối cũng không hay. Chàng càng chạy càng xa, chạy trong bãi cát chừng bảy tám ngày, chàng mới tỉnh ngộ là mình đã lạc lối, muốn quay trở lại cũng không được, vì vậy chàng mới mất liên lạc với anh em trong phái Võ Ðang là thế.

Hôm ấy ngẫu nhiên gặp một bọn sư Thiếu Lâm, bọn hòa Thượng đó không nói nửa lời tiến lên khiêu chiến liền.

Lợi Hanh đánh bại được bốn người, nhưng qua bất địch chúng, rốt cuộc chàng bị thương nặng. Chàng thấy bọn tăng nhân đó đều xử dụng võ công của phái Thiếu lâm, nhưng chúng rất lạ mặt, chàng chưa hề thấy mặt chúng trên Quang Minh Ðỉnh bao giờ. Chàng đoán bọn tăng nhân này là bọn viện binh của phái Thiếu lâm vừa tới. Nhưng chàng không hiểu tại sao bọn hòa thương đó lại hạ độc thủ định giết mình như vậy.

Suốt dọc đường, Bất Hối hầu hạ chàng rất chu đáo. Nàng biết mẹ mình xưa kia đã phụ Lợi Hanh và lại thấy chàng bị thương nặng và tình cảnh bi đát như vậy, lại càng động lòng thương thêm.

Chiều tối ngày hôm đó, các vị hào kiệt đã đi qua Vĩnh Ðằng rồi còn định thúc ngựa để tới Giang Thành Tử nghỉ ngơi.

Mọi người đang đi bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa ở đằng xa vọng tới.

Giây phút sau đã thấy có hai người sát cánh nhau chạy tới.

Họ chạy được mấy chục trượng liền nhảy xuống đất, dắt ngựa đứng sang bên đường chờ đợi, thái độ của họ rất cung kính.

Các vị hào kiệt định thần nhìn kỹ, thấy hai người đó ăn mặc lối đi săn và nhận ra họ chính là người trong bọn đã giết quân Mông Cổ bữa nọ.

Ai nấy mừng rỡ vô cùng, đều xuống ngựa và tiến lên chào hai người kia.

Hai người nọ đi tới trước mặt Vô Kỵ, rồi một trong hai người đó lớn tiếng nói:

– Bề trên chúng tôi ngưỡng mộ Trương giáo chủ của Minh Giáo là người nhân hậu và trọng nghĩa và quý vị hào hiệp lại rất anh hùng, nên mới sai tiểu nhân tới đây mời hai vị đến sơn trang nghỉ ngơi, để tỏ lòng kính ngưỡng.

Vô Kỵ đáp lễ:

– Chúng tôi không dám! Xin cho biết cao tính, quý danh của quý bề trên.

Người nọ đáp lại:

– Bề trên chúng tôi họ Triệu, còn khuê danh thì chúng tôikhông dám thưa cùng.

Mọi người thấy y nhận ngay thiếu niên công tử kia là nữ lang, thì mọi người đều mừng rỡ.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Từ khi chúng tôi được thấy kỹ thuật thần tiển của quý vị dến giờ, ngày nào chúng tôi cũng khen ngợi. Nay lại được quý vị cho kết giao thì may mắn cho chúng tôi biết bao. Nhưng chỉ sợ chúng tôi nhiều người, đến quấy nhiễu như vậy rất bất tiện.

Quý vị đều là anh hùng cái thế, bề trên chúng tôi muốn mời quý vị đến xơi chén rượu nhạt để tỏ tình hữu nghị.

Phần vì muốn làm quen với mấy nhân vật anh hùng này, phần nữa là muốn dò biết chuyện Ý thiên kiếm tại sao lại sang tay đám này, Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Nếu được như vậy còn gì bằng nữa, thế nào chúng tôi cũng đến quý trang thăm viếng.

Hai người nọ cả mừng, liền lên ngựa đi trước. đi được hơn một dặm đường, mọi người lại thấy có hai người nữa đến nghênh đón.

Hai người đó cũng ở đàng xa, xuống ngựa đợi chờ.

Vô Kỵ và quần hào tới gần mới hay hai người này cũng là nhân vật trong bát hùng kia.

Mọi người lại đi được hơn một dặm đường nữa, bốn người cuối cùng của bát hùng cũng xuất hiện nghênh đón.

Quần hào của Minh Giáo thấy họ lễ phép như vậy, ai nấy cũng mừng.

Mọi người lại đi theo một con đường lót đá xanh, tiến thẳng tới một trang viện lớn.

Chung quanh trang viện có con sông nhỏ bao quanh.

Trên bờ sông có trồng nghiều dương liễu.

Ở đất Cam lương mà thấy một trang viện có cảnh sắc như Giang Nam, quần hào đều mừng rỡ vô cùng.

Cửa sơn trang mở rộng, cầu treo vừa thả xuống, tiểu thư vẫn mặc nam trang đứng trước cửa nghênh đón.

Tiểu thư vừa thấy quần hào tới, đã vội tiến lên, cúi mình vái chào và lớn tiếng nói:

– Quý vị hào hiệp của Minh Giáo, ngày hôm nay giáng lâm Lục liễu sơn trang, khiến trang chúng tôi vô cùng vẻ vang. Xin mời Trương giáo chủ, Dương sứ giả, Hân lão tiền bối, Vi Bức Vương.

Không cần phải giới thiệu mà nàng ta đã quen biết hết cả tên tuổi của các vị anh hùng của Minh Giáo, không những thế, địa vị của ai cao ai thấp, nàng cũng biết rõ hết. Nàng không hề lầm lẫn thứ tự, người trên thì mời trước, người dưới thì mời sau, nên ai nấy cũng ngạc nhiên vô cùng.

Chu Ðiên không sao chịu được, liền lên tiếng hỏi:

– Ðại tiểu thư lại biết rõ kiến danh chúng tôi như vậy chẳng lẽ tiểu thư tiên tri chăng?

Triệu tiểu thư mỉm cười đáp:

– Quần hiệp của Minh Giáodanh tiếng lừng lẫy khắp giang hồ ai mà chả biết. Nhất là trận giao tranh trên Quang Minh Ðỉnh gần đây. Trương Giáo chủ dùng thần công tuyệt thế, khiến sáu đại môn khiếp sợ. Tiếng tăm ấy đã truyền khắp võ lâm. Các vị định vào Trung nguyên, suốt dọc đường có rất nhiều bạn võ lâm ngưỡng mộ muốn được tiếp đón, có riêng gì tiểu nữ muốn tiếp rước quý vị đâu.

Hỏi tới tên họ và sư phụ cùng môn phái của thần tiển bát hùng nọ, một người thân hình cao lớn đứng dậy nói lớn:

– Tại hạ là Triệu nhất thương, còn những chú em đây là Tiền nhị Bái, Tôn tam Hủy, Lý tứ Thôi.

Tiếp theo đó người nọ chỉ bốn người khác và nói thêm:

– Mấy chú đây là Chu ngũ Thủ, Ngô lục Phá, Trịnh thất Diệt, Vương bát Suy.

Quần hùng của Minh Giáo vừa nghe người đó giới thiệu tên của tám người kia xong, thì buồn cười và nghĩ thầm:

– Tên họ của tám người này đều lấy theo Bát gia Tính Triệu, Tiền, Tôn, Lý, Chu, Trịnh, Vương, như vậy đã là hiếm có rồi. Còn những tên của họ lại dùng toàn những chữ không hên chút nào. Thật là không thể tưởng tượng được?

Quần hùng cũng biết những tên họ đó không phải là tên họ thật, nhưng người trong giang hồ, tránh kẻ thù, lấy tên họ như vậy là một sự rất thường, nên không ai hỏi rõ làm gì.

Tiệu tiểu thư thân mời các người vào đại sảnh.

Quần hào vừa vào tới trong sảnh, ở giữa treo một bức tranh vẽ tám con ngựa.

Hình dáng tám con ngựa đó đều khác nhau. Vách bên trái có treo một bức đại tự, chữ trên bức đại tự viết rất đẹp, nhưng Vô Kỵ là người có học, nên nhận ngay ra nét chữ đó là do một thiếu nữ viết. Và chàng cũng đoán ra bức đại tự đó là do Triệu tiểu thư đã lấy được Ỷ thiên Kiếm, nên mới viết ra những câu rất tự hào như thế.

Chàng vừa ngắm bức đại tự vừa tự nghĩ:

– Triệu cô nương là người văn võ toàn tài, đáng hken đáng phục thật, thế ra cô ta là con cháu của một thế gia tại kinh đô cũ là Kinh châu.

Triệu tiểu thư thấy Vô Kỵ ngẩn người ra nghĩ ngợi, liền mỉm cười và nói:

– Trương giáo chủ, tôn đại nhân có tiếng là Ngân câu thiết hoạch, ai cũng biết Trương lão anh hùng là một người viết chữ rất đẹp. Trương Giáo chủ có gia truyền về thư nghệ như vậy, lát nữa tiểu nữ còn yêu cầu Giáo chủ ban cho vài chữ.

Vô Kỵ nghe Triệu tiểu thư nói như vậy, mặt đỏ bừng. Vì chàng đã mồ côi cha mẹ từ năm lên mười, chưa được cha mẹ dạy tập viết bao giờ. Sau đó chàng chỉ được học y lý và võ học thôi, còn về văn học thì chàng kém lắm, nên chàng vội đáp:

– Cô nương muốn tôi viết chữ, có khác gì giết tôi, vì tiên phụ mất quá sớm, nên tôi chưa hề được thừa kế tài học của tiên phụ nói ra tôi rất xấu hổ.

Trong lúc mọi người đang nói chuyện, tráng đinh bưng chè lên mời. Nước chè xanh biếc, thơm.

Quần hào thấy vậy kinh ngạc và nghĩ thầm:

– Nơi đây cách Giang Nam hàng mấy nghìn dặm, sao Triệu tiểu thư lại cố chế Long Tĩnh cho chúng ta uống như thế? Tiểu thư này lạ lùng thật, việc gì của cô ta cũng kỳ lạ hơn người?

Mọi người đang nghĩ, Triệu Minh tên của tiểu thư đã cầm chén lên uống một ngụm trước, để chứng tỏ chè đó không độc. Chờ quần hào uống nước xong, Triệu tiểu thư lại nói tiếp:

– Các vị ở đường xa tới, tệ trang thiếu thốn đủ mọi thứ, không tiếp đãi quý vị được chu đáo, mong quý vị tha thứ cho. Chắc bây giờ quý vị đã đói rồi, xin mời quý vị đi sang phòng bên kiađể dùng cơm và rượu.

Nói xong, nàng đứng dậy dẫn quần hào đi qua một hành lang một cái sân rộng, rồi tới một cái vườn hoa thật lớn, trong có cả núi đá ao suối và đủ các thứ cây cỏ trông rất tao nhã.

Vô Kỵ chưa nhận thấy những cái hay cái lạ của vườn hoa này, nhưng Dương Tiêu đã nhận ra rồi, gật đầu lia lịa và khen thầm:

– Chủ của vườn hoa này không phải là tay phàm phu tục từ mà phải là một người có đại chí.

Mọi người đã thấy trong Thủy cát đã bày sẳn hai mâm rượu.

Triệu Minh liền mời Vô Kỵ ngồi, còn Triệu nhất Thương, Tiền nhị Bại và sáu người kia thì ở khách sảnh bên cạnh, tiếp giáo chúng của Minh Giáo ăn uống ở bên đó.

Lợi Hanh không thể đi lại được, nên Bất Hối mớm cơm cho chàng ở phòng bên.

Triệu Minh rót một ly rượu lớn, một hơi uống cạn rồi nói:

– Rượu này là nữ trinh thần tửu ở Diệu Hương, đã để được mười tám năm mời quý vị thử uống xem rượu này có ngon không?

Dương Tiêu, Nhất Tiếu, Thiên Chính, tuy đã tin tưởng Triệu tiểu thư là người hiệp nghĩa rồi, nhưng ai nấy vẫn phải cẩn thận đề phòng xem kỹ ấm rượu và ly, thấy không có gì lạ và Triệu tiểu thư đã uống cạn ly rượu, nên họ mới hết nghi và bắt đầu ăn uống. Theo quý giáo của Minh Giáo là ai nấy đều phải ăn chay cử rượu, nhưng đến Thạch Giáo chủ thì bãi bỏ quy luật ấy rồi, vì lúc ấy Minh Giáo dọn vào dãy núi Côn Luân, quanh năm giá lạnh, nên không ăn dầu mỡ thịt dê bò thì chịu sao nổi tiết trời giá lạnh như thế.

Hồ bao chung quanh thủy cát, cón trồng bảy tám cây hoa như thủy tiên vậy. Hoa nào cũng trắng tinh, mùi hương thơm ngào ngạt. Trong khi ăn uống, quần hào nghe có gió mát đưa mùi thơm tới, lại càng thấy khoan khoái thêm. triệu tiểu thư ăn nói rất lưu loát, khi nói đến chuyện võ công của các môn phái ở Trung Nguyên, có nhiều chuyện cả Thiên Chính lẫn Dã Vương chưa hề hay biết qua. Ðối với võ công của Thiếu Lâm, Nga Mi và Côn Luân, nàng chỉ khen qua loa thôi, nhưng nàng rất tán dương Trương Tam Phong và Võ Ðang thất hiệp.

Quần hào nghe nàng nói, thấy nàng biết rộng như vậy, ai nấy cũng phục thầm. Nhưng khi hỏi tới võ công của nàng thì nàng chỉ cười chứ không trả lời, nói lảng sang chuyện khác ngay.

Uống qua mấy tuần rượu, Triệu Minh chén nào cũng uống cạn đủ thấy tửu lượng nàng rất mạnh, hễ món ăn nào đưa ra, nàng cũng gắp ăn trước. Sau khi uống vài chén rượu, hai má nàng ửng đỏ lên trông lại càng đẹp thêm. Nàng không những đẹp mà còn có thêm anh khí, thái độ lại cao quý. Vì vậy ai trông thấy nàng cũng đều tỏ ra kính mến.

Vô Kỵ lên tiếng nói:

– Thưa Triệu cô nương, tệ giáo từ trên chí dưới, được cô nương hậu đãi như vậy, thật cảm tạ vô cùng. Tại hạ có một lời muốn hỏi cô nương, nhưng không tiện lên tiếng.

Triệu Minh liền hỏi:

– Trương Giáo chủ không nên khách sáo như vậy, chúng ta cùng là người trong giang hồ, tục ngữ có câu: “Tứ hải chi nội giai huynh đệ”. Nếu quý vị vui lòng cho phép tiểu muội được cùng kết bạn, thì tiểu muội rất lấy làm hân hạnh. Chẳng hay Trương Giáo chủ có việc gì hỏi, nếu tiểu muội hay biết thì tiểu muội xin thành thật trả lời ngay.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Nếu được như vậy, tại hạ xin hỏi cô nương về chuyện Thanh Ý thiên kiếm, chẳng hay cô nương được thanh bảo kiếm đó ở đâu thế?

Triệu Minh mỉm cười, cởi thanh kiếm ở trên lưng ra để trên mặt bàn và nói:

– Từ khi gặp quý vị tới giờ, tiểu muội rất lấy làm thắc mắc, chẳng hay quý vị có thể cho tiểu muội biết trước nguyên nhân tại sao không?

Vô Kỵ đáp:

– Không dám dấu kiếm cô nương, kiếm này nguyên là vật sở hữu của Diệt Tuyệt Sư thái phái Nga Mi. Anh em của tệ giáo có rất nhiều đã chết dưới lưỡi kiếm này. Chính tại hạ đây cũng bị nó đâm thủng ngực, suýt mất mạng, nên vừa thấy nó, ai cũng chăm chú nhìn vào là thế.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Trương giáo chủ thần công vô địch, nghe nói Giáo chủ đã dùng Càn Khôn Ðại Nã Di thủ pháp, cướp được thanh kiếm này đâm thủng ngực như vậy. Tiểu muội còn nghe người ta nói người dùng kiếm này đâm Giáo chủ là một đệ tử trẻ tuổi của phái Nga Mi, võ nghệ cũng tầm thường thôi. Tiểu muội hay tin đó rất lấy làm thắc mắc…

Nói xong, nàng nhìn thẳng vào mặt Vô Kỵ, hai mắt không chớp, mồm hình như cười mà thực ra không phải cười.

Vô Kỵ mặt đỏ bừng và nghĩ thầm:

– Tại sao nàng biết rõ như vậy?

Nghĩ đoạn, chàng liền đáp:

– Ðối phương tấn công một cách đột ngột, tại hạ không để ý tới, nên mới bị như vậy.

Triệu Minh mỉm cười hỏi tiếp:

– Chị Chu Chỉ Nhược xinh đẹp lắm không?

Vô Kỵ càng xấu hổ thêm, ngượng ngùng đáp:

– Cô nương cứ nói bông hoài.

Nói xong, chàng nâng chén rượu uống một ngụm để che dấu sự xấu hổ. Ngờ đâu tay trái của chàng hơi run, nên có mấy giọt rượu bắn xuống vạt áo.

Triệu Minh thấy vậy mỉm cười nói tiếp:

– Tiểu muội quá chén, nên ăn nói hơi thất lễ đôi chút, xin phép Giáo chủ cùng quý vị cho tiểu muội vào trong thay áo nhé? Một lát sau tiểu muội sẽ ra ngay, mời quý vị cứ tự tiện dùng, đừng nên khách sáo làm chi.

Nói xong, nàng đứng dậy vái chào mọi người, rồi đi ra thủy cát, xuyên vào những cây liễu mà đi.

Thanh Ỷ Thiên kiếm vẫn còn để trên bàn, chứ nàng không đem theo. các gia đình cứ tiếp tục mang thức ăn lên đại khách như thường…

Quần hào đưa mắt nhìn nhau và không ai dám tiếp tục ăn những thức vừa mang lên nữa. Chờ một lát lâu vẫn chưa thấy Triệu Minh trở ra Chu Ðiên nhịn không được, liền lên tiếng nói:

– Nàng để bảo kiếm ở đây mà nàng yên tâm không sợ chúng ta lấy mất.

Nói xong, y liền cầm thanh kiếm đó lên, đột nhiên kêu “ủa” một tiếng và nói tiếp:

Sao nhẹ thế này?

Y vừa nắm cán kiếm vừa rút thử ra xem, lưỡi kiếm vừa được rút ra khỏi bao, quần hào đứng dậy ngơ ngác nhìn hau. Thì ra thanh kiếm đó làm bằng gỗ và có một mùi thơm xông lên mũi. Mọi người nhìn kỷ mới hay thanh kiếm đó chế bằng gỗ đàn hương.

Chu Ðiên cuống cả tay chân, vội vã cắm tra thanh kiếm vào trong bao, mồm lẩm bẩm nói:

– Dương…Dương… Tả sứ…thế…là cái trò gì vậy?

Tuy y suốt ngày đấu khẩu với Dương Tiêu, nhưng sự thật y vẫn chịu phục Dương Tiêu là người biết rộng. Lúc này bỗng gặp vấn đề nan giải, nên y mới buột miệng hỏi Dương Tiêu như vậy.

Dương Tiêu vẻ mặt nghiêm trang, khẽ đáp:

– Thưa Giáo chủ, tôi thấy Triệu tiểu thư này hình như có vẻ định giở thủ đoạn gì bất lợi với chúng ta. Lúc này chúng ta đang ở chốn nguy hiểm, chúng ta mau rời khỏi nơi đây thì hơn.

Chu Ðiên vội xen lời:

– Việc gì phải sợ nàng ta định giở thủ đoạn gì bất lợi gì cho chúng ta, chúng ta có nhiều người như thế này, sợ gì mà không đánh cho nàng mê tơi?

Dương Tiêu lại nói tiếp:

– Từ khi bước chân vào trong Lục liễu trang này tới giờ, tôi thấy bất cứ cái gì ở trong này đều bí mật và kỳ lạ lắm. Có nhiều cái trông như thực mà đều là giả, trôn gnhư tà mà không phải là tà ma khó mà biết rõ được. Ðồng hthời chúng ta chưa biết Lục liễu trang này thuộc chốn nào. Chúng ta hà tất ở lại nơi đây làm chi, để việc gì cũng bị người ta kềm chế.

Vô Kỵ gật đầu đáp:

– Lời nói của Dương ta sứ rất phải, chúng ta đã dùng cơm rượu no say rồi, chi bằng cáo lui là hơn.

Nói xong, chàng bèn đứng dậy, Thiết Quan đạo nhân liền lên tiếng:

– Chẳng lẽ Giáo Chủ không muốn tìm Ý Thiên kiếm thật hay sao?

Bành Văn Ngọc cũng xen lời nói:

– Theo ý của thuộc hạ thì Triệu tiểu thư này có ý bày nghi trận, tất cô ta phải có mưu mô gì, mới định tâm làm ra như thế, dù chúng ta không đi tìm nàng thì nàng cũng đi tìm chúng ta.

Vô Kỵ đáp:

– Ðúng thế, chúng ta nên bình tĩnh chờ họ ra tay trước, rồi liệu mà ra tay sau.

Mọi người cùng đi ra khỏi Thủy các , rồi sai gia đinh báo cho Triệu Minh hay, là người của Minh Giáo rất cám ơn Triệu cô nương đã tiếp đãi như vậy, nhưng vì có việc bận, nên người của Minh Giáo phải cáo biệt ngay.

Triệu Minh ở trong nhà, vội vàng bước ra, nàng đã thay một cái áo lụa màu vàng nhạt, trông lại càng xinh đẹp hơn.

Vừa ra tới nơi nàng đã lên tiếng:

– Vừa mới gặp gỡ sao lại đi ngay như vậy! Chẳng lẽ Giáo Chủ ghét tiểu nữ thù tiếp kém lịch sự hay sao?

Vô Kỵ đáp:

– Ða tạ cô nương đã tiếp đãi hậu hĩ, hiềm vì chúng tôi còn đang bận nhiều việc, nên không thể nào ở lại đây lâu được! Sau này xin tái ngộ, thế nào tôi cũng xin lãnh giáo tiểu thơ rất nhiều!

Triệu Minh tủm tỉm cười không nói gì hết, tiễn mọi người ra khỏi trang. Thần Tiến Bát Hiền đã đứng chực sẳn ngoài cửa, thái độ rất cung kính, đợi tiễn khách.

Quần hào chắp tay chào bái biệt rồi lẳng lặng tung mình nhảy lên ngựa đi luôn.

Không bao lâu mọi người đã đi tới một cánh đồng bằng, không một bóng người, Chu Ðiên liền lớn tiếng nói:

– Triệu Ðại tiểu thơ này chưa chắc đã có lòng định ám hại gì chúng ta. Cứ lấy chuyện nàng dùng thanh kiếm gỗ đùa giỡn giáo chủ, mà nói thì con gái chưa trưởng thành nào chả hay đùa giỡn như thế. Chúng ta không nên vì thế mà giận nàng làm chi, Dương Tiêu! Lần này bạn đã nhận xét sai rồi!

Dương Tiêu ngẫm nghĩ giây lát rồi mới đáp:

– Cho tới phút này tôi vẫn chưa hiểu nàng ta có ý gì với chúng ta?

Chu Ðiên xen lời nói tiếp:

– Sau trận đại chiến ở trên Quang Minh Ðỉnh, Dương ta hiệp, một người có tiếng tăm lừng lẫy của chúng ta đã biến thành “kinh cung chi…” ối chà!

Vừa nói tới đó, người y đã loạng choạng và té xuống dưới ngựa liền!

Nói Không Ðược đi gần nhất vội nhảy xuống ngựa đỡ y dậy và hỏi:

– Chu huynh! Làm sao thế?

Chu Ðiên vừa cười vừa đáp:

– Không! Không sao cả! Có lẽ vì tôi uống quá chén nên mới thấy hơi hcoáng váng đó thôi!

Y vừa nói đến hai chữ “choáng váng” thì quần hào đều nhìn nhau thất sắc, vì từ khi rời khỏi Lục liễu trang đến giờ, ai nấy đều cảm thấy đầu óc mình hơi choáng váng! Thoạt tiên họ đều tưởng vì mình uống quá chén như thế nên không ai để ý. Bây giờ, thấy Chu Ðiên võ công cao cường, tửu lượng lại rất lớn mà uống có mấy chén rượu, sao lại có thể choáng váng đến ngã ngựa như vậy? Chắc là bên trong thế nào cũng có cái gì đây!

Vô Kỵ ngẩng đầu lên nghĩ ngợi và tìm tòi những môn thuốc độc ở trong Ðộc Kinh của Nạn Cô, để xem có thứ thuốc độc nào không sắc, không màu, không mùi không? Nhưng chàng nhớ lại từ đầu đến cuối không có một vị thuốc độc nào tương tự như thế cả. Vả lại rượu và thức ăn của chàng với quần hào không khác gì nhau, tại sao chàng không thấy bị choáng váng?

Ðột nhiên chàng sực nghĩ ra một việc, giật mình kinh hãi, lớn tiếng nói:

– Những vị nào uống rượu ở trong Thủy Các , phải xuống ngựa hết, ngồi xếp bằng tròn, nhưng chớ có vận khí lấy sức, cứ để mặc cho nó tự nhiên!

Rồi chàng lại ra lệnh tiếp:

– Các anh em của Ngũ Hành Kỳ và Bạch Mi Kỳ bố trận các mặt, bảo vệ các thủ lãnh, hễ có người nào tới gần, cứ việc chém giết không tha!

Từ khi Bạch Mi Giáo trở về với Minh Giáo, được đổi thành Bạch Mi Kỳ. Giáo chúng của Ngũ hành Kỳ với Bạch Mi Kỳ thấy Giáo Chủ ra kệnh nghiêm mặt như vậy đều răm rắp vâng lời. Ai nấy đều vội rút khí giới ra, bố trận bảo vệ các thủ lãnh.

Vô kỵ lại la lớn:

– Ai nấy cứ ở yên tại chỗ, khi nào tôi về tới nơi mới được giải tán?

Quần hào không hiểu Vô Kỵ bỗng dưng lại ra lệnh như thế làm chi?

Ðồng thời họ chỉ thấy đầu hơi choáng váng chứ không có gì khác lạ cả, mà tại sao Giáo chủ lại làm ra vẻ quan trọng như thế làm gì? Họ đang hoài nghi thắc mắc như thế thì Vô Kỵ lại dặn bảo thêm một câu nữa:

– Quý vị dù thấy trong người khó chịu đến đâu cũng đừng có vận khí lấy sức, bằng không chất độc sẽ lan tràn khắp mình mẩy, không còn cách nào cứu chữa được nữa!

Quần hào nghe nói đều giật mình kinh hãi và nghĩ thầm rằng:

– “Ta bị trúng độc lúc nào nhỉ?

Vô Kỵ sợ đi ngựa quá chậm nên đã giở khinh công tuyệt kỹ của mình ra quay trở lại Lục liễu trang. Chàng vô cùng nóng lòng sốt ruột, biết Dương Tiêu và Thiên Chính, các người đã bị trúng độc rất mạnh. Nếu không cứu chữa ngay, chỉ một giờ, nửa khắc là chết liền chứ không phải như Nhất Âm Chỉ điểm trúng mà có thể kéo dài từ ngày này qua ngày khác được! Từ chỗ mọi người nghỉ ngơi tới Lục liễu trang cách xa chừng hơn hai mươi dặm. Chỉ giây lát Vô Kỵ đã đi tới trước gia trang rồi.

Thân hình của chàng tựa như một mũi tên bắn thẳng vào trong trang. Hai tên tráng đinh đứng canh gác trước cửa chỉ thấy mắt hoa một cái vì một cái bóng đen lướt qua thôi, chứ không hề trông thấy rõ thân hình của chàng. Vô Kỵ vào thẳng trong vườn chạy tới Thủy Các , thấy một thiếu nữ tay phải cầm chén, tay trái cầm sách, vừa uống nước vừa xem sách.

Nàng đó chính là Triệu Minh.

Nghe thấy tiếng động nàng quay đầu trở lại, trông thấy Vô Kỵ, nàng liền mỉm cười.

Vô Kỵ liền hỏi:

– Triệu cô nương! Tôi muốn xin cô nương vài cây hoa cỏ!

Chàng không đợi chờ Triệu Minh trả lời đã tung mình nhảy vào Thủy Các. Trong khi người chàng lướt qua những cây hoa cỏ giống như Thủy Tiên trồng ở trong nước, chàng đã nhanh tay nhổ luôn sáu bảy cây hoa ở đó liền!

Chàng đang hạ chân xuống Thủy Cát đã nghe thấy mấy tiếng kêu “xoẹt!”. Thì ra, phía trước mặt đã có mấy mũi ám khí nho nhỏ nhằm ngay mặt chàng bắn tới.

Chàng vội giơ tay phải lên phất tay áo mấy cái, mấy mũi ám khí đó đều chui vào trong tay áo của chàng. Chàng lại phất tay áo bên trái một cái, tấn công vào mặt Triệu Minh luôn! Vội né mình sang bên tránh, Triệu Minh nghe thấy tiếng gió kêu “vù vù” và thấy ấm chén, đĩa trái cây ở trên mặt bàn đều bị gió ở tay áo của Vô Kỵ hất rơi xuống dưới ao hết!

Vô Kỵ vừa hạ chân xuống đất, liền đưa mắt nhìn mấy cây hoa cỏ ở trong tay, thấy gốc cây nào cũng có một cái rễ tròn và to như hột gà, nhưng màu đỏ như màu máu vậy! Chàng mừng rỡ vô cùng, vì thấy mình đã lấy được thuốc giải độc, chàng vội bỏ mấy cây hoa cỏ đó vào trong túi và nói:

– Ða tạ cô nương đã cho thuốc giải, xin cáo từ nơi đây, Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

Giáo chủ tới thì dễ mà đi thì khó lắm đấy!

Nói xong nàng vứt quyển sàch xuống, hai tay thuận thế, rút hai đoản kiếm mỏng như giấy ở trong cuốn sách ra và xông lên ngăn cản chàng liền!

Vô Kỵ lo ngại vết thương của Thiên Chính và các người nên chàng không muốn ở lại đấu với Triệu Minh, vội dùng tay áo bên phải phất luôn một cái, mười mấy mũi kim ở bên trong liền nhằm mặt Triệu Minh bắn tới.

Triệu Minh vội né mình tránh, thân hình nàng lướt ra ngoài Thủy Cát, rồi lại dùng chân phải dẫm vào bục đá để quay trở vào Thủy Cát, vừa lui ra vừa nhảy vào như vậy nàng đã tránh khỏi những mũi kim châm kia. Những ám khí đó đều rơi cả xuống ao.

Vô Kỵ thấy vậy vội lên tiếng khen ngợi:

– Thân pháp của cô nương đẹp tuyệt!

Chàng thấy nàng múa kiếm tấn công tới liền nghĩ thầm:

– Con nhỏ này tâm địa ác độc như vậy, nếu ta không luyện qua Cửu Dương và đọc qua cuốn Ðộc Kinh của Vương nạn Cô, thì các vị anh hào của Minh Giáo, ngày hôm nay đều bị tiêu hủy trong tay nàng ta một cách bất minh, bất bạch.

Chàng vừa nghĩ, vừa giơ hai tay ra cướp võ khí của đối phương.

Triệu Minh võ công cũng lợi hại lắm, vội xoay tay múa song kiếm nhằm tay của Vô Kỵ chém luôn.

Thấy mình ra tay cướp không được khí giới của đối thủ, Vô Kỵ cũng kinh ngạc thầm, nhưng thần công của chàng biến ảo kỳ diệu khôn tả, tuy chàng cướp không được song kiếm của Triệu Minh, nhưng ngón tay của chàng đã phất trúng hai yếu huyệt ở hai cổ tay nàng.

Triệu Minh không sao cầm vững song kiếm, thuận thế vứt luôn đôi khí giới vào mặt Vô Kỵ. Vô Kỵ vội né đầu tránh hai thanh đoản kiếm bắn luôn vào cột trụ ở giữa Thủy Cát, sức ném hai thanh kiếm đó vẫn còn sung động không ngớt.

Vô Kỵ kinh hãi thầm, chàng không phải kinh hãi vì võ công của đối thủ bởi võ công của Triệu Minh còn kém hơn Dương Tiêu,Nhất Tiếu và Thiên Chính các người rất xa. Nhưng chàng kinh hãi bởi trí khôn của nàng. Thấy phải vứt khí giới mà nàng còn thuận thế ném vào mặt mình được, đủ thấy nàng thông minh và khôn ngoan biết bao! Nếu chàng tránh né chậm một chút đã bị song kiếm đó giết chết liền!

Thấy song kiếm của mình đã mất, Triệu Minh vội cầm lấy thanh Ỷ Thiên kiếm bằng gỗ, nhằm yếu huyệt ở ngang lưng của Vô Kỵ điểm tới.

Vô Kỵ dùng hai ngón tay trái điểm luôn vào yếu huyệt ở trên vai nàng, chờ nàng né mình để tránh, chàng vội giở thủ pháp Càn Khôn Ðại Nã Di, giơ tay phải ra chộp luôn thanh kiếm gỗ trong tay của Triệu Minh.

Thấy kiếm của mình đã bị cướp mất, Triệu Minh liền ngừng chân lại tủm tỉm cười và hỏi:

– Trương công tử dùng môn võ công gì thế? Có phải môn võ công đó là Càn Khôn Nã Di Thần công không? Theo sự nhận xét của tôi, võ công đó rất tầm thường chứ không có gì là kỳ lạ cả.

Vô Kỵ giở bàn tay trái ra, giữa bàn tay trái có một bông hoa kết bằng hạt châu đang rung động. Bông hoa trân châu này vốn dĩ cắm ở trên mái tóc của Triệu Minh.

Thấy thế nàng bỗng kinh hãi và nghĩ thầm:

– Y lấy bông hoa hạt châu của ta mà ta không hay biết gì cả, nếu y định tâm giết chết ta, có phải dễ như trở bàn tay không? Và có lẽ lúc này hồn ta đã du âm phủ rồi cũng nên!

Nàng nghĩ như vậy nhưng vẻ mặt làm ra như thản nhiên, chỉ cười nhạt một tiếng và nói tiếp:

– Nếu công tử thích bông hoa hạt châu này thì tôi xin biếu công tử ngay, hà tất công tử phải ra tay cướp giật như vậy?

Vô Kỵ thấy nàng nói như vậy có vẻ ngượng, liền giơ tay trái lên, ném bông hoa hạt châu đó trả lại cho Triệu Minh và nói:

– Trả cô đấy!

Nói xong chàng liền quay người đi ra khỏi Thủy Các.

Triệu Minh giơ tay ra đỡ lấy bông hoa hạt châu đó và gọi:

– Hãy khoan đã!

Vô Kỵ vội quay người lại.

Triệu Minh vừa cười vừa nói tiếp:

– Sao công tử lại lấy trộm hai hạt châu to nhất trên bông hoa hạt châu của tôi như vậy?

Vô Kỵ đáp:

– Cô chớ có nói bậy! Tôi không có thì giờ ở đây nói bông đùa với cô nữa!

Triệu Minh giơ cao bông hoa hạt châu lên, vẻ mặt nghiêm nghị nói tiếp:

– Công tử xem! Bông hoa này chả thiếu hai hạt châu là gì?

Vô Kỵ đưa mắt nhìn, quả thấy trên bông hoa đó đã bị mất hai hạt châu thật. Chàng biết nàng đã cố ý ngắt đi rồi dụ mình đến gần để giở quỷ kế gì ra đùa giỡn hay ám hại mình, nên chàng chỉ dùng giọng mũi “hừ” một tiếng rồi quay mình định đi luôn.

Triệu Minh vội nắm mép bàn lớn tiếng quát hỏi:

– Trương Vô Kỵ! Có giỏi thì hãy đến trước mặt tôi ba bước!

Ngờ đâu Vô Kỵ vẫn chịu đựng được, tha hồ cho nàng ta thích sát, vẫn không thèm theo lời nàng tiến lên.

Chàng trả lời rằng:

– Dù cô có bảo tôi là kẻ nhát gan sợ chết đi nữa thì tôi cũng mặc!

Nói xong chàng lại bước đi hai bước.

Triệu Minh thấy kế thách thức của mình vô công hiệu, mặt nàng liền biến sắc, với giọng rầu rĩ nàng nói tiếp:

– Thôi, thôi! Ngày hôm nay tôi đã hoàn toàn thất bại rồi! Vậy tôi còn mặt mũi nào nhìn mặt người khác nữa!

Nói xong nàng rút thanh kiếm đang cắm ở trên cột ra, mồm thì lớn tiếng nói:

– Trương Vô Kỵ! Cám ơn công tử đã cho tôi được mãn nguyện!

Vô Kỵ quay đầu lại nhìn, thấy Triệu Minh đã giơ kiếm tự đâm vào ngực, chàng cười nhạt và nói:

– Không khi nào tôi lại mắc…

Chàng chưa kịp nói nốt câu đó, đã thấy đoạn kiếm đâm sâu vào ngực nàng và nàng ta rú lên một tiếng và ngã gục ngay xuống mặt bàn. Chàng thấy vậy kinh ngạc vô cùng, khôn ngờ nàng lại nóng nảy như thế! Vừa mới thua có một trận mà nàng đã tự vận như vậy, nên chàng nghĩ thầm:

– Nếu thanh kiếm này không đâm trúng giữa tim thì may ra còn có thể cứu chữa được!

Nghĩ đoạn, chàng vội vã chạy lại xem nàng bị thương ra sao. Chàng đã đi tới còn cách chỗ bàn đá ba thước, đang định giơ tay ra nắm lấy tay nàng, chàng đột nhiên thấy dưới chân mềm nhũn và cả người chàng bị rơi ngay xuống bên dưới.

Chàng vội kêu thầm:

– Nguy tai!

Chàng phất hai cánh tay áo một cái, thân hình mới hơi ngừng lại và đồng thời dùng chưởng đánh luôn vào mép bàn một cái. Chàng chỉ cần đánh trúng chưởng là có thể mượn sức đó nhảy lên và khỏi bị rớt xuống hố.

Ngờ đâu Triệu Minh tự sát giả và nàng cũng đoán trước thế nào Vô Kỵ cũng đánh chưởng vào bàn để mượn sức, nên nàng không để cho tay của chàng va chạm vào mép bàn, lúc ấy thân hình của Vô Kỵ đã rớt xuống dưới hố một nửa, nhưng chàng đã nhanh tay nắm lấy được bốn ngón tay của Triệu Minh. Nhưng tay của nàng ta mềm nhũn và trơn tuột, chàng vừa nắm trúng đã bị tuột ra ngay! Tuy vậy, chàng vẫn còn đưa tay ra chộp lấy cánh tay của Triệu Minh được. Vì người chàng nặng mà thân hình của Triệu Minh thì nhẹ, nên cả hai người đều cùng rớt xuống dưới hồ một lúc. Chàng thấy bốn chung quanh tối như mực, đồng thời chàng nghe thấy trên đầu có tiếng kêu “bộp”. Thì ra tấm nắp phía trên đã đậy kín miệng hố lại rồi!

Hố đó sâu hơn mười trượng, khi rớt xuống mặt đất, Vô Kỵ liền đứng ngay dậy và giở khinh công Bích Hổ Du Tường ra leo lên trên miệng hố.

Chàng vội giơ tay ra lật vội nắp hố, nhưn gkhi tay chàng đụng vào thì thấy tấm ván đó là một tấm sắt và có máy móc giữ chặt. Tuy chàng đã dùng Càn Khôn Ðại Nã Di ra rồi, nhưng vì người chàng lơ lửng ở trên, không có điểm tựa cho chàng mượn sức nên chàng không sao mở cái nắp hầm đó ra được, chàng đành phải nhảy xuống bên dưới.

Triệu Minh thấy vậy liền khúc khích cười và nói:

– Bên trên có tám thanh sắt to bằng cánh tay giữ chặt, công tử ở bên dưới làm sao mà mở ra cho được?

Vô Kỵ thấy nàng giảo hoạt như vậy thì tức giận vô cùng, chàng không thèm trả lời nàng mà cứ việc đi khắp chung quanh, đưa tay rờ mó khắp nơi để tìm lối thoát thân, nhưng xung quanh cái hố này đều xây bằng gang thếp cứng rắn vô cùng!

Triệu Minh lại nói:

– Trương Công tử! Bích Hổ Du Tường công của công tử lợi hại thật. Cái hố này toàn bằng gang không có một khe hở nào hết, trơn tuột như vậy mà công tử vẫn leo lên trên tới đỉnh được thì… Hì… hì… Hà… Hà…!!

Vô Kỵ nổi giận hỏi:

– Cô cũng bị rớt xuống hầm với tôi, cô còn cười gì nữa!

Chàng đột nhiên nghĩ tới:

– Con nhãi này giảo hoạt lắm! Cái hố này chắc thế nào cũng có lối ra! Ta chớ nên để cho nó tẩu thoát một mình.

Nghĩ đoạn chàng tiến lên hai bước nắm chặt lấy hai tay của Triệu Minh.

Triệu Minh thấy chàng làm như thế, kinh hãi vội hỏi:

– Công tử nắm tay tôi làm gì thế?

Vô Kỵ đáp:

– Cô đừng có hòng một mình ra khỏi nơi đây! Muốn sống thì cô mau mở ngay nắp hầm lên cho tôi.

Triệu Minh vừa cười, vừa đáp:

– Công tử hoảng sợ làm chi? Dù sao chúng ta cũng không bị chết đói ở đây đâu. Chờ lát nữa nếu chúng tìm không thấy tôi chúng sẽ thả chúng ta ra ngay. Tôi chỉ lo thủ hạ của tôi tưởng lầm tôi đã đi vắng, như vậy mới thật tai hại.

– Trong đường hầm này, không có cửa nào khác hay sao?

Trông mặt công tử thông minh như vậy, không ngờ lại thốt lên những câu hỏi ngu ngốc đến thế. Hầm này xây ra để bắt kẻ địch chứ có phải xây để ở chơi đâu? Nếu dưới này có cửa ngõ khác thoát thân được, có khác gì đánh bẫy kẻ địch rồi lại để cho chúng thoát thân không?

Vô Kỵ nghe Triệu Minh nói rất phải, lại hỏi tiếp:

– Chúng ta rơi xuống hầm này, cửa hầm sập mạnh như thế mà các bộ hạ của cô nương không hay biết gì ư?

– Bộ hạ của tôi đã được phái đi công tác hết. Ngày mai chúng mới trở về. Công tử khỏi lo, cứ yên chí ở đây nghỉ một lát, vừa rồi đã ăn uống chắc chưa đói đâu.

Vô Kỵ cả giận nghĩ thầm:

– Ta ở đây một ngày nửa buổi cũng không sao. Nhưng lấy ai ra cứu ông ngoại và các người.

Hồi thứ 58

Khởi Binh Vấn Tội

Nghĩ đoạn, chàng nắm chặt tay lại và đã dùng đến hai thành sức lực, mồm thì quát lớn:

– Cô nương không thả tôi ra, tôi phải giết cô nương trước.

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Nếu công tử giết tôi, công tử sẽ bị ở dưới này suốt đời. Này, nam nữ thụ thụ bất thân. Công tử cứ nắm chặt tay tôi làm chi?

Vô Kỵ thấy nàng trách mắng, xấu hổ vô cùng, vội buông tay nàng và lùi lại hai bước ngồi phịch xuống đất. Nhưng hầm đó hình vuông có mấy thước thôi.

Vô Kỵ vừa lo âu vừa tức giận, mũi lại ngửi thấy mùi thơm da thịt ở người Triệu Minh tỏa ra xen lẫn mùi thơm ở trong túi, khiến tâm thần của chàng hầu như bị phiêu bạt.

Chàng vội đứng dậy, giận dữ hỏi:

– Tôi và Minh Giáo chúng tôi với cô không quen biết bao giờ và cũng không có thù oán gì cả. Tại sao cô nương lại định tâm giết hại tôi như vậy?

– Có nhiều việc công tử không hay biết gì tới, bây giờ công tử đã hỏi đến, để tôi kể rõ cho công tử nghe. Chẳng hay có biết tôi là ai không?

Tuy Vô Kỵ rất muốn biết lai lịch và dụng ý của thiếu nữ đó, nhưng chờ nàng thủng thẳng kể xong thì bọn Thiên Chính các người đã bị độc phá chết hết. Huống hồ không biết lời nói của nàng thật hay giả. Nếu câu chuyện nàng sắp kể là chuyện bịa đặt, có phải hao tốn thì giờ của mình một cách vô ích không?

Chàng biết, lúc này không còn cách gì hơn là bắt buộc nàng ta phải mở nắp hầm cho mình ra nên chàng vội đáp:

– Tôi không biết cô là ai hết và lúc này tôi cũng không có thì giờ nghe cô nương kể chuyện. Chẳng hay cô nương có chịu mở nắp hầm cho tôi ra không?

Bây giờ tôi có gọi cũng không có ai thưa cả. Hơn nữa đứng dưới này gọi to đến đâu bên trên cũng không nghe.

Vô Kỵ càng tức giận thêm, liền nhảy xổ lại.

Triệu Minh thấy vậy thất kinh la lớn vội giơ tay lên chống đỡ. Nhưng nàng đã bị chàng điểm trúng yếu huyệt ở hông, không sao cử động được nữa.

Vô Kỵ dùng tay trái bóp chặt lấy yết hầu của nàng và khẽ nói:

– Tôi chỉ bóp mạnh một cái, cô nương sẽ chết liền.

Lúc đó hai người cách nhau rất gần.

Chàng ngửi thấy hơi thở của nàng thơm như hoa lan. Chàng kinh hoảng, vội ngẩng đầu lên để xa lánh.

Triệu Minh đột nhiên khóc hu hu và nói:

– Công tử hà hiếp tôi! Công tử hà hiếp tôi!

Thấy nàng khóc và nói như vậy, Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng, vội buông tay ra, không bóp cổ nàng nữa và nói:

– Tôi có muốn hà hiếp cô nương đâu, tôi chỉ muốn cô nương tha cho tôi khỏi nơi đây thôi.

Triệu Minh vẫn còn nức nở:

– Tôi rất muốn tha công tử ra khỏi nơi đây lắm. Nhưng… thôi được, để tôi lên tiếng gọi người vậy…

Nàng liền ngẩng mặt lên và cất tiếng kêu gọi:

– Này bên trên có ai không? Mau mở nắp hầm ra, ta đã rơi xuống hầm này đây…

Tha hồ cho nàng kêu gào lớn tiếng đến đâu, bên ngoài cũng không có động tịnh gì hết.

Nàng vừa cười vừa nói với Vô Kỵ rằng:

– Ðấy, công tử xem, tôi nói có sai đâu.

Vô Kỵ càng tức giận thêm, vội trả lời:

– Không biết xấu hổ, vừa khóc vừa cười. Trông mặt cô nương đẹp nhỉ?

– Công tử mới không biết xấu hổ. Một thanh niên như vậy còn lợi hại hơn mười người đàn ông nữa.

Cám ơn Trương Giáo chủ đã khen ngợi như vậy, tiểu nữ đây rất lấy làm hổ thẹn, không dám nhận lời ban khen đó.

Vô Kỵ nghiến răng mím môi, nghĩ thầm:

– Sự thể khẩn cấp như thế này, nếu ta không giở thủ đoạn độc ác thì các tay cao thủ của Minh Giáo sẽ chết hết.

Nghĩ đoạn, chàng giơ tay ra, xé váy của Triệu Minh rách một mảnh lớn.

Triệu Minh tưởng định hãm hiếp mình, kinh hoảng vô cùng, liền nói:

– Là…công tử định làm gì thế?

– Nếu cô bằng lòng tha tôi ra thì gật đầu đi.

– Công tử muốn làm gì?

Vô Kỵ không trả lời, nhổ ít nước bọt, làm ướt miếng vải rách đó, rồi đáp:

– Bất đắc dĩ tôi đành phải thất lễ với cô vậy.

Nói xong, chàng dùng miếng vải ướt đó bịt mồm mũi Triệu Minh, khiến nàng ta không sao thở được.Giây lát sau nàng đã nghẹt thở và khó chịu vô cùng, nhưng nàng vẫn bướng bỉnh, không chịu gật đầu và gắng chịu đựng cho đến cùng.

Một lát sau, nàng đã thấy mắt nổ đom đóm và chết giấc tức thì.

Vô Kỵ nắm cổ tay Triệu Minh, thấy mạch máu của nàng rất yếu ớt, vội bỏ miếng vải ướt ra.

Một lát sau, Triệu Minh từ từ tỉnh lại, mở mắt nhìn hậm hực liếc Vô Kỵ một cái.

Vô Kỵ liền hỏi:

– Thế nào? Có dễ chịu không? Bây giờ cô nương có bằng lòng thả tôi ra khỏi đây không?

Triệu Minh hậm hực đáp:

– Dù tôi có bị chết giấc một trăm lần, tôi cũng buông tha công tử. Có giỏi thì công tử cứ giết chết tôi đi.

Vô Kỵ thấy nàng bướng bỉnh như vậy, nghiến răng, nói tiếp:

– Vì cứu các thuộc hạ của tôi khỏi chết, tôi đành phải lỗ mãng một phen, dù có vô lễ chăng nữa, cô nương cũng không thể nào trách tôi được.

Nói xong, chàng nắm chặt chân trái cởi giày vớ của nàng ra.

Triệu Minh vừa kinh hoàng vừa kinh hoảng và hỏi:

– Tiểu tử hôi thối này! Ngươi định làm gì ta thế?

Vô Kỵ không trả lời, tiếp tục tháo giày vớ bên chân phải của nàng, rồi dùng hai ngón tay trỏ điểm vào yếu huyệt ở dưới bàn chân nàng. Chàng còn vận Cửu Dương thần công truyền sang chân của đối phương.

Triệu Minh cảm thấy yếu huyệt ở hai bàn chân có một luồng hơi ấm chạy đi chạy lại. Nơi yếu huyệt đó là chỗ dễ nhột nhất, lấy ngón tay gãi vào chỗ đó cũng đủ làm đối phương tê tái khó chịu rồi. Huống hồ lúc này Vô Kỵ lại dùng Cửu Dương thần công xát động vào hai nơi yếu huyệt ấy, lại còn nhột hơn dùng tóc hay lông quét đi quét lại.

Quả nhiên, Triệu Minh không sao chịu nổi, cười khúc khích ngay. Nàng muốn rụt chân lại, nhưng khốn nỗi yếu huyệt đã bị điểm, không sao cử động được. Càng nhột bao nhiêu nàng càng cảm thấy khó chịu bấy nhiêu, tựa như có mấy trăm nghìn con chí rúc vào ngũ tạng, lục phủ. Sự khó chịu này còn đau khổ hơn đao chém hay đòn vọt, nên nàng cười được vài tiếng đã khóc liền.

Vô Kỵ không thèm để ý, cứ tiếp tục dồn thần công sang hai bên chân của đối phương.

Triệu Minh thấy như trái tim của mình hầu như đang phá lồng ngực để nhảy ra ngoài.

Nàng thấy khắp mình mẩy nhột đến nỗi như những lông ở tron gngười sắp rụng hết vậy. Nàng liền cất tiếng mắng chửi:

– Tiểu tử hôi thối… Quân giặc…. thế nào cũng có một ngàyta sẽ dùng muôn nghìn thanh đao… băm vằm ngươi ra làm muôn mảnh. Thôi htôi tha…cho ta đi… Trương…công tử… Trương Giáo chủ… hu…hu…

– Cô nương đã bằng lòng tha tôi khỏi nơi đây chưa?

– Tôi… tha… mau…. ngừng tay lại…

Thấy Triệu Minh đã bằng lòng tha mình rồi, Vô Kỵ mới yên tâm và nói:

– Xin lỗi cô nương…

Nói xong, chàng xoa chân Triệu Minh mấy cái, rồi giải huyệt cho nàng.

Triệu Minh htở dài một tiếng rồi lại mắng tiếp:

– Quân giặc, có mau mang giày vớ vào cho ta không?

Vô Kỵ tay cầm chiếc vớ, tay nắm chân nàng. Vừa rồi chàng mải hành tội nàng, nên không để ý tới, bây giờ chàng đã yên chí sắp được thoát thân, nên tay vừa đụng tới chân nhỏ mềm mại của nàng, chàng đã cảm thấy ngây ngất.

Triệu Minh vội rụt chân lại, xấu hổ đỏ mặt bừng lên.

Cũng may ở trong bóng tối, Vô Kỵ không trông thấy rõ. Nàng lẳng lặng đi mang giày vớ vào. Nhưng không hiểu tại sao, nàng bỗng có ý nghĩ lạ. Hình như chỉ muốn Vô Kỵ mó chân mình lần nữa.

Thấy nàng mang giày vớ vào xong, Vô Kỵ liền quát bảo:

– Mau lên, mau lên, hãy tha cho tôi gấp.

Triệu Minh không nói năng gì, giơ tay lên rờ cái khuyên tròn thắt ở trên vách gang, rồi nàng lại dùng cán kiếm gõ vào giữa cái vòng đó bảy tám tiếng. Quả nhiên trên đỉnh đầu hai người có tiếng kêu “lách cách”, liền đó ánh sáng rọi xuống. Thì ra cái nắp hầm đã mở rồi.

Vô Kỵ không ngờ Triệu Minh bảo mở là mở liền, nên ngạc nhiên vô cùng, nói tiếp:

– Chúng ta đi thôi.

Triệu Minh cúi đầu xuống đứng sang một bên, không nói năng gì hết. Nghĩ đến chuyện vừa rồi. Vô Kỵ nhận thấy mình hơi quá đáng, vội vái chào nàng và nói:

– Triệu cô nướng! Vừa rồi vì bất đắc dĩ mà tại hạ phải thất lễ với cô nương.

Triệu Minh làm ra vẻ giận hờn, quay mặt vào vách, hai vai xúc động như đang khóc vậy.

Vô Kỵ thấy tội nghiệp động lòng thương, liền an ủi:

– Triệu cô nương! Tôi đi đây. Trương mõ đã thất lễ với cô nương rất nhiều, xin cô nương tha lỗi cho.

Triệu Minh không chịu quay đầu lại.

Không dám trì hoãn, Vô Kỵ giở khinh công Bích Hồ Du Tường leo trên miệng hầm. Khi chàng leo tới chỗ cách miệng hầm còn hơn một trượng, liền nhún chân một cái, tung mình nhảy ra bên ngoài. Chàng dùng hai tay che mặt và đầu, vì sợ trên miệng hầm có người phục kích. Lúc lên tới bên trên, hai chân còn chưa hạ xuống đất, chàng đưa mắt nhìn bốn phía chung quanh thấy không có một bóng người nào ở trong Thủy Các hết. Chàng không muốn gây sự, vội vượt qua bờ tường, nhảy ra bên ngoài, cắm đầu chạy thẳng về quần hào của Minh Giáo nghỉ ngơi.

Vừa đi chàng vừa lo âu, không biết tánh mạng của quần hào ra sao, nên chàng giở khinh công tột bực chạy thẳng về chỗ cũ. Chỉ thoáng lát chàng đã chạy về tới nơi. Nhưng chàng kinh hãi vô cùng, vì thấy quân Mông Cổ cưỡi ngựa chạy vòng quanh, quần hào của Minh Giáo bị vây ở giữa. Các lính Nguyên vây ở vòng ngoài, đang giương cung bắn tên vào giáo chúng.

Chàng thấy vậy nghĩ thầm:

– Những nhân vật thủ lãnh của bổn giáo đều bị trúng độc, nên không có người dẫn đầu thì giáo chúng làm sao mà chống cự được với đại đội quân Nguyên đó?

Chàng vừa nghĩ, vừa nhanh chân chạy tới, khi chàng chạy tới gần, đã nghe thấy trong đám đông có một thiếu nữ với giọng thanh thoát la lớn:

– Nghệ Kinh Kỳ, tấn công phía Ðông Bắc, Hồng Thủy Kỳ tấn công bọc phía Tây Nam.

Chàng đã nhận ra nàng đó chính là Tiểu Siêu. Nàng ta ra lệnh xong, trong Minh Giáo đã có một đội giáo chúng cầm cờ tấn công về phía Ðông Bắc để phá vòng vây. Mỗi đội giáo chúng cờ đen để chống đỡ. Ðột nhiên Hậu Thổ Kỳ cờ vàng, Kỳ Mộc Kỳ cờ xanh, hai đội giáo chúng đó ở giữa sát cánh xông ra chém giết hai đội quân đó tựa như một con rồng vàng và rồng xanh, dũng mãnh vô cùng, đánh quân Nguyên loạn xạ, nên chúng vội rút lui ngay.

Vô Kỵ nhảy mấy cái đã tới trước mặt giáo chúng.

Mọi người thấy Giáo chủ đã quay trở về, tinh thần càng phấn khởi thêm, ai nấy hò reo ầm ĩ. Vô Kỵ thấy Thiên Chính và Dương Tiêu các người đang ngồi vòng tròn dưới đất, còn Tiểu Siêu tay cầm một cờ nhỏ, đứng trên một ngọn đồi chỉ huy giáo chúng chống địch. Trận Kỳ môn Bát quát của Tiểu Siêu làm quân Nguyên tấn công mãi không sao vào được.

Tiểu Siêu thấy Vô kỵ về tới, liền lớn tiếng nói:

– Mời Trương công tử lên đây chỉ huy cho.

Vô Kỵ đáp:

– Cô nương cứ tiếp tục đi, để tôi ra bắt giữ tên tướng lãnh binh, uy hiếp kẻ địch phải rút lui.

Chàng đang nói, bỗng nghe mấy toiếng kêu “soẹt soẹt”. Thì ra có mấy mũi tên của địch, nhắm chàng bắn tới.

Chàng vội giựt lấy một cái xà mâu của một tên giáo chúng , múa quanh một vòng, những mũi tên bắn tới đều bị rớt xuống đất hết, rồi chàng lao chiếc xà mâu đó, nhanh như một mủi tên, phi thẳng tới trước mặt quân địch.

Một tên Bách phu trường của quân Nguyên bị chiếc xà mâu đó ném xuyên qua ngực. Chiếc xà mâu vẫn chưa hết đà còn bay thẳng ra ngoài xa mấy trượng mới cắm xuống đất.

Quân Nguyên thấy vậy, thất kinh kêu lên, rút lui ra xa mấy chục trượng.

Bỗng có tiếng tù và vang động và mười mấy người cưỡi ngựa đằng xa chạy tới.

Vô Kỵ nhanh mắt, trông thấy rõ những người đó chính là Thần tiễn bát hùng, bộ hạ của Triệu Minh. Chàng cau mày, nghĩ thầm:

– Tiễn pháp của tám người này lợi hại lắm. Nếu ta để cho chúng có cơ hội bắn tên thì anh em chúng ta thế nào cũng bị thương. Ta cần phải hạ thủ trước mới được.

Chàng đang nghĩ, đã thấy người dẫn đầu của Thần tiễn bát hùng là Triệu Nhất Thương múa một cây đoàn trượng đầu đồng màu vàng, mồm thì la lớn:

– Chủ nhân có lệnh lập tức thâu binh.

Tên Thiên Phu trưởng, chỉ đội lính Nguyên đó, liền lớn tiếng nói mấy câu tiếng Mông Cổ. Lính Nguyên liền quay đầu rút lui ngay. Tiền Nhị Bái, người thứ hai của Bát hùng, tay bưng một khay, vội xuống ngựa đến trước mặt Vô kỵ, cúi chào và nói:

– Chủ nhân chúng tôi xin Giáo chủ giữ lấy vật này để làm kỷ niệm.

Vô Kỵ thấy cái khay đó phủ bằng cầm đoạn màu vàng, trên có để một cái hộp vàng. Hộp đó khắc hoa rất đẹp. Chàng không sợ đối phương giở quỷ kế ám hại mình, cứ giơ tay ra cầm lấy cái hộp đó luôn.

Tiền Nhị Bái cúi đầu vái chào, lui ba bước, rồi mới quay mình lên ngựa đi luôn.

Vô Kỵ đưa luôn hộp vàng đó cho Tiểu Siêu. Vì chàng đang mải mê xem bịnh tình của quần hào, nên không có thì giờ xem trong hộp đó đựng vật gì. Chàng vội sai người lấy một chậu nước, móc túi lấy mấy cây hoa cỏ hình thủy tiên ra. Chàng bóp nát những củ tròn đỏ như máu hòa vào chậu nước trong kia, rồi cho mọi người uống. Những người dự tiệc ở trên Thủy Cát, chỉ có một mình Vô Kỵ nhờ có Cửu Dương thần công hộ thế, nên các chất độc không hành nổi chàng. Còn những người khác, ai nấy đều trúng độc hết.

Bất hối trông nom Lợi Hanh ở bên ngoài Tiểu Siêu cũng ăn uống với giáo chúng ở khách sảnh nên không việc gì.

Nửa tiếng đồng hồ sau, quần hào đã khỏi. Riêng chân tay hãy còn yếu ớt, sức lực chưa khôi phục. Quần hào liền hỏi Vô Kỵ về thuốc độc và phép giải.

Vô Kỵ thở dài đáp:

– Chúng ta đã đề phòng cẩn thận ngờ đâu thứ thuốc độc của thiếu nữ, chúng ta lại không hay biết gì hết. Thứ hoa giống Thủy Tiên này là Túy Tiên Linh Phù, không có độc tính. Còn thanh Ỷ Kiếm giả kia làm bằng một thứ gỗ thơm dưới đáy bể, gọi là Kỷ Lăng hương mộc. Gỗ ấy cũng không có độc tính, nhưng mùi thơm của hai thứ đó, hòa hợp lại liền thành một thứ thuốc độc lợi hại khôn tả.

Chu Ðiên vỗ đùi la lớn:

– Tất cả mọi việc đều do Chu lỗ ngứa tay rút thanh Ỷ Thiên kiếm giả đó ra.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Nàng ta đã định tâm giết hại chúng ta, dù Chu huynh không rút thanh kiếm đó ra, nàng ấy cũng sai người đến rút kiếm để đầu độc. Như vậy chúng ta làm sao biết mà đề phòng.

Chúng ta đi đến nhà con nhỏ đốt cháy Lục liễu trang cho bỏ tức đi.

Y vừa nói dứt, đã thấy phía đằng xa, khói bốc lên cao. Tiếp theo đó ngọn lửa bốc lên rực trời. Thì ra ngọn lửa đó là của Lục liễu trang đang bốc cháy.

Quần hào thấy vậy đều ngẩn người ra ngạc nhiên vô cùng.

Quần hào đang nghi ngờ, bỗng sực nghĩ:

– Cô bé họ Triệu đó khôn ngoan thật, việc gì cũng biết trước ý của địch thủ. Nàng biết chúng ta giải độc xong, thế nào cũng tức giận và sẽ đi đốt sơn trang, nên nàng đã phóng lửa đốt cháy Lục liễu trang trước. Tuy nàng còn trẻ và lại phái yếu, nhưng nàng quả thật là một kình địch của bọn mình.

Nghĩ đoạn, Chu Ðiên vỗ đùi lớn tiếng hỏi:

– Nàng đốt cháy Liễu gia trang, tưởng chúng ta sẽ không trả thù nữa, nhưng, chúng ta cứ đến đó đánh cho nàng một trận.

Dương Tiêu trả lời:

– Nàng đốt cháy sơn trang đủ thấy nàng đã phòng bị trước. Chúng ta có đuổi theo cũng mất công thôi! Thế nào cũng đã chạy xa rồi.

Mọi người lên đường, quần hào hỏi Vô Kỵ tại sao lại biết mọi người trúng độc như vậy?

Vô Kỵ liền giảng giả cho họ nghe:

– Tôi sực nhớ trong Ðộc Kinh có ghi rằng: “Kỳ lăng hương mộc gặp phải một thứ hoa gì có mùi thơm như hoa phù dung, có thể làm cho người ta say sưa mấy ngày, như say rượu vậy. Ðộc khí đó chạy vào thân thể người ta, có thể làm cho tâm phế bị tổn hại. Cho nên tôi mới bảo qúy vị đừng có vận hơi lấy sức. Vì vận hơi lấy sức như thế mùi thơm của hoa đó sẽ lan vào các kinh mạch, càng khó chữa thêm.

Nhất Tiếu vừa cười vừa nói:

– Không ngờ lần này không ngờ Tiểu Siêu, một cô nhỏ lại lập được kỳ công. Nếu trong lúc nguy nan nó không đứng ra chỉ huy, có lẽ chúng ta bị thương và chết không kể xiết.

Thoạt tiên, Dương Tiêu ngờ Tiểu Siêu là kẻ địch. Nhưng trải qua trận đấu ngày hôm ấy, y mới nhận ra cô bé là công thần của Minh Giáo.

Tối hôm đó, mọi người vào khách điếm nghỉ trọ.

Tiểu Siêu lấy nước rửa mặt đem vào phòng Vô Kỵ.

– Thấy vậy, Vô Kỵ vội nói:

– Tiểu Siêu, cô đã lập kỳ công thì từ nay cô khỏi phải làm việc này nữa.

Tiểu Siêu tủm tỉm cười đáp:

– Ðược phục dịch Giáo chủ, tôi lấy làm sung sướng lắm rồi. Tôi không coi công việc này là công việc của tôi đòi đâu.

Chờ cho Vô Kỵ rửa mặt xong, nàng lấy hộp vàng của Triệu Minh tặng đưa ra, nói tiếp:

– Không biết trong hộp có thuốc độc, tên độc hay ám khi độc gì không?

Vô Kỵ đáp:

– Phải đấy, nên cẩn thận thì hơn.

Nói xong chàng bảo Tiểu Siêu để hộp đó trên mặt bàn, rồi cùng Tiểu Siêu đứng ra xa. Chàng móc túi lấy một đồng tiền, nhắm kẽ hộp ném luôn. Nắp hộp đó bật ra. Thấy bên trong không có gì lạ. Chàng tiến gần lại xem, thấy trong hộp có một cái hoa kết bằng hạt châu đang rung động, mới hay chính cái hoa này mình đã lấy từ trên tóc của Triệu Minh. Chàng ngẩn người ra, không hiểu Triệu Minh tặng mình cái hoa này là có dụng ý gì?

Tiểu Siêu thấy vậy vừa cười vừa nói:

– Trương công tử, Triệu cô nương quý Trương công tử lắm nên cô ta mới phái người đem hoa hạt châu đến biếu như vậy.

– Tôi là đàn ông, dùng nữ trang làm chi? Tiểu Siêu, cô lấy mà đeo.

Tiểu Siêu vội xua tay, cười đáp:

– Không được, người ta có lòng thành biếu công tử như vậy tôi đâu dám nhận.

Vô Kỵ cầm chiếc hoa hạt châu đó nhắm đầu tóc Tiểu Siêu ném luôn. Chiếc hoa cắm vào tóc nàng tựa như có bàn tay rất khéo léo cài lên vậy.

Tiểu Siêu định gỡ chiếc hoa đó xuống, Vô Kỵ xua tay và nói tiếp:

– Chẳng lẽ tôi biếu cô một vật mọn mà cô lại từ chối hay sao?

Tiểu Siêu hai má đỏ bừng, đáp:

– Nếu vậy xin cám ơn công tử, nhưng chỉ sợ tiểu thơ thấy được sẽ nổi giận.

– Hôm nay cô đã lập công lớn như vậy, cha con Tả sử không dám ngờ vực cô nữa đâu.

Tiểu Siêu mừng rỡ vô cùng, liền nói tiếp:

– Tôi thấy công tử đi rất lâu, trong lòng tôi lo âu vô cùng. Sau tôi thấy quân Mông Cổ đến tấn công, không biết làm thế nào chống đỡ, nên đành can đảm đứng lên chỉ huy. Bây giờ nghĩ lại tôi hãy còn sợ. Trương công tử làm ơn nói hộ Ngũ Hành kỳ và Bạch Mi kỳ hay. Mong các vị ấy đừng có trách Tiểu Siêu đã bạo gan như vậy.

– Cô cứ yên trí, họ cảm ơn cô còn chưa đủ chứ nào dám trách cứ?

Suốt dọc đường không có chuyện gì xảy ra.

Mọi người đem chuyện Triệu Minh ra bàn tán. Không ai biết lai lịch của nàng hết.

Ði tới tỉnh Hà Nam, thiên hạ đang ở vào tình cảnh đại loạn, các vị anh hùng bốn phương nổi lên, vì vậy sự kiểm soát của quân Mông Cổ lại càng nghiêm nhặt hơn nhiều. Quần hào thấy bọn mình đông người như vậy tất nhiên thế nào cũng khó mà qua được những trạm kiểm soát. Nên quyết định chia ra từng bọn, Vô Kỵ mới sai người đem danh thiếp của mình lên chùa Thiếu Lâm.

Vô Kỵ biết lần này đến chùa Thiếu lâm vấn tội, tuy không muốn gây thù, nhưng nếu hòa thượng của phái Thiếu Lâm nhất định đòi giải quyết bằng võ lực thì Minh Giáo phải ứng chiến. Chàng bèn truyền lệnh cho giáo chúng của Ngũ hành kỳ và Bạch Mi kỳ giả làm du khách lên núi xem phong cảnhđể bao vây ngầm chùa Thiếu Lâm.

Vô Kỵ dặn mọi người hễ khi nào nghe chàng hú lên ba tiếng thì xông vào tấn công chùa Thiếu lâm. Giáo chúng nhận lệnh của chàng, chia làm mấy ngả tiến vào chùa Thiếu Lâm.

Lát sau, một lão hòa thượng theo Ngô Kinh Thảo, người của Vô Kỵ, cùng xuống núi.

Lão Chi khách tăng vừa đi tới trước Vô Kỵ, liền lên tiếng nói luôn:

– Phương trượng và các trưởng lão của bổn chùa đang bế quan tịnh tọa nên không tiếp. Xin quý vị thứ lỗi cho.

Quần hào nghe lão hòa thượng nói như vậy đều biến sắc mặt.

Chu Ðiên lên tiếng trước:

– Vị này là Giáo Chủ của Minh Giáo, thân hành đến Thiếu Lâm bái sơn. sao các lão hòa thượng trên đó lại khôn gtiếp kiến. Như vậy thật quá đáng.

Chi khách tăng nọ cúi đầu xuống, vẻ mặt rầu rĩ, trả lời:

– Không tiếp kiến.

Chu Ðiên càng tức giận thêm, giơ tay lên định chộp ngực Chi khách tăng kia.

Nói Không Ðược vội giơ tay cản và khuyên rằng:

– Chu huynh không nên lỗ mãng như vậy.

Bành Doanh Doanh cũng lên tiếng;

– Nếu phương trượng của quý chùa đang tọa quan, thì lão hòa thượng cho chúng tôi gặp hai vị Không Trí và Không Tín vậy. Chi khách tăng chắp hai tay vái chào Doanh ngọc, với giọng lạnh lùng đáp:

– Không tiếp kiến.

Doanh Ngọc lại nói tiếp:

– Thế còn Thủ tọa của Ðạt Ma Vương và La Hán Ðường đâu?

Chi khách tăng vẫn trả lời như trước:

– Không tiếp kiến.

Thiên Chính cũng quát lớn:

– Thế nào? Có tiếp kiến hay không?

Lão anh hùng vừa giơ tay ra chém cây thông cạnh đó gãy làm đôi.

Chi khách tăng thấy Thiên Chính lớn tuỗi như vậy mà vẫn còn sức mạnh như thế, có vẻ hoảng sợ đáp:

– Quý vị ở xa đến đây, đáng lẽ bổn phái của chư tăng phải theo đúng lễ nghênh đón, nhưng vì các tướng lão đều tọa quan hết. Vậy xin đợi lần sau.

Nói xong, y chắp tay vái chào định đi.

Nhất Tiêu đã lướt mình một cái tới trước mặt Chi Khách tăng và nói:

– Chẳng hay Ðại sư xưng hô thế nào?

Chi Khách tăng đáp:

– Không dám, tiểu tăng pháp danh là Tuệ Hiền.

Quần hào nghe thấy lão Hòa thượng đó xưng danh xong, ai nấy cũng tức giận và nghĩ thầm:

– Hòa thượng này thuộc vai vế chữ Tuệ là đệ tử đời thứ ba của phái Thiếu Lâm hiện thời. Ðáng lẽ phái Thiếu Lâm ít nhất phải phái đệ tử đời thứ hai, vai vế chữ Viên xuống núi để tiếp khách mới phải. Nay chúng lại phái đệ tử đời thứ ba xuống như vậy, đủ thấy chúng khinh thường Minh Giáo. Như thế này thì nhịn sao được?

Nhất Tiếu khẽ vỗ vào vai vị hòa thượng đó rồi vừa cười vừa hỏi tiếp:

– Hay lắm hay lắm, đại sư chỉ giỏi nói có câu “không tiếp kiến” không biết vua Diêm Vương sai người đến Phật giá, chẳng hay đại sư có tiếp kiến hay không?

Tuệ Hiền bị Nhất Tiếu vỗ một cái, đã thấy một luồng hơi lạnh ở trên đầu vai chuyển xuống dưới tim, mình mẩy run lẩy bẩy, hai hàm răng đánh cồm cộp. Nhưng y vẫn cố nhịn, cắm đầu chạy thẳng lên núi. Tuy bước đi của y loạng choạng suýt ngã nhưng y không dám dừng chân.

Vô Kỵ liền nói:

– Vi Bức Vương đánh y hai chưởng như vậy, sư phụ và sư thúc bá của y thế nào cũng không để yên. Chi bằng chúng ta cứ lên thẳng trên núi xem có phải họ không muốn tiếp kiến ta thực không?

Mọi người đoán chắc trận ác chiến này không sao tránh khỏi. Vì xưa nay phái Thiếu Lâm đứng đầu các môn phái khác, và tự hào là Thái Sơn Bắc Ðẩu trong võ lâm. Hơn nghìn năm nay, phái ấy vẫn tự cho mình là một môn phái trường thắng bất bại. Nên quần hào yên trí ngày hôm nay thế nào cũng có trận đại chiến và xem Minh Giáo với phái Thiếu Lâm ai mạnh ai yếu. Vì vậy, người nào người nấy tinh thần phấn chấn, lẹ bước lên núi.

Không bao lâu mọi người đã đi tới cái đỉnh bằng đá đặt trước cửa chùa.

Vô Kỵ nghĩ tới năm xưa theo Thái sư phụ lên núi Tung sơn này, được ba thần tăng của phái Thiếu Lâm tiếp ở Thạch Ðỉnh này. Ngày hôm nay chàng lại lên núi Thiếu Lâm lần nữa, trước sau cách nhau có mấy năm thôi. Năm xưa, chàng là một thằng nhỏ đau yếu gầy gò. Ngày hôm nay chàng là Giáo chủ của Minh Giáo, oai nghi và cao quý.

Quần hào ở trong Thạch Ðỉnh nghỉ ngơi đợi chờ, đoán chắc trong chùa thế nào cũng có một số lớn cao thủ ra nghênh chiến. Ai nấy đều quyết định tiên lễ hậu binh và trách hỏi các hòa thượng tại sao lại hạ độc thủ giết Lợi Hanh? Nếu các hòa thượng của phái Thiếu Lâm bướng bỉnh không chịu nhận lỗi, lúc ấy ra tay động võ cũng chưa muộn. Ngờ đâu quần hào đợi chờ hằng nửa ngày, không thấy trong chùa có một bóng người nào ra cả!

Thấy vậy Vô Kỵ liền ra lệnh:

– Chúng ta tiến vào chùa.

Dương Tiêu, Nhất Tiếu đi bên trái, Thiên Chính, Dã Vương đi bên phải, Thiết Quan Ðạo nhân, Bành Doanh Ngọc, Chu Ðiên, Nói Không Ðược, Tứ Tảng nhân đi sau. Tất cả những người đó tiền hô, hậu ứng phò Vô Kỵ vào chùa. Mọi người đi đến Ðại Hồng bảo điện cũng không thấy một bóng người nào cả.

Vô Kỵ liền lớn tiếng hỏi:

– Minh Giáo Trương Vô Kỵ cùng tọa hạ Dương Tiêu, Thiên Chính các ngươi lên đây bái sơn, cầu kiến Phương trượng sư.

Tuy lời nói của chàng không ngon lắm, nhưng chàng dùng nội công, đưa tiếng nói đó đi, những người cách đó hai ba dặm cũng đều nghe rõ hết.

Dương Tiêu, Nhất Tiếu đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghĩ thầm:

– Nội lực của Giáo chủ tinh thâm như vậy, thực là hiếm có. Dương tiền giáo chủ còn sống, chưa chắc bằng Trương Giáo chủ bây giờ. Xem như vậy trận đấu hôm nay Minh Giáo thế nào cũng thắng trận.

Vô Kỵ nói xong mấy câu đó, đợi chờ một lát nữa vẫn không thấy một nhà sư nào ra hết. Chu Ðiên không sao chịu được, liền lớn tiếng quát hỏi:

– Thiếu Lâm là một môn phái lớn như thế chẳng lẽ cứ rụt đầu rụt cổ chui rúc vào một xó ẩn nấp mãi hay sao?

Tiếng nói của y lớn hơn Vô Kỵ, nhưng không thể nào đi xa được.

Quần hào lại đợi chờ một hồi lâu, nhưng vẫn không thấy có ai ra.

Thiên Chính liền lên tiếng:

– Khỏi cần biết chúng xếp đặt quỷ kế gì, chúng ta cứ xông vào bên trong.

Quần hào đều tán thành. Thiên Chính một mình lớn bước đi trước, tiến thẳng vào trong hậu viện. Nhưng lão anh hùng chỉ thấy bên trong vắng ngắt như tờ, không có một bóng người nào cả. Quần hào thấy vậy càng kinh ngạc thêm, nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ phái Thiếu Lâm định bày trận chùa không chăng?

Vì vậy quần hào đi một bước là đề phòng một bước, khi đi tới Ca Lâm điện vẫn không thấy một người nào hết.

Nhất Tiếu liền nói với Nói Không Ðược rằng:

– Nói Không Ðược, tôi với bạn lên trên cao lược trân.

Nói Không Ðược gật đầu, rồi cả hai nhún mình nhảy lên mái nhà liền.

Nói Không Ðược thấy khinh công của Nhất Tiếu lợi hại hơn mình nhiều, trong lòng khen thầm và lớn tiếng nói:

– Vi Bức Vương, khinh công của bạn quả thật tinh xảo, hòa thượng túi vải tôi không thể nào so tài với bạn được.

Chu Ðiên ở bên dưới la lớn:

– Này các hòa thượng chùa Thiếu Lâm, sao ẩn núp làm chi? Có mau ra đây tiếp chúng tôi không?

Vô Kỵ với quần hào khám xét hết điện này tới điện nọ, vẫn không thấy tung tích của một hòa thượng nào cả và cũng không thấy điểm gì khác lạ hết. Khi đi tới La Hán Ðường, nơi đây là chỗ luyện võ của các cao thủ của phái võ lâm. Thấy giá khí giới đều bỏ trống, không còn lại một thanh đao mũi kiếm nào hết. Quần hào khôn gnói năng gì đi thẳng váo Ðạt Ma Ðường. Trong Ðạt Ma Ðường chỉ còn lại chín cái thảm đã rách vỉ đã mấy trăm năm rồi! Ngoài những bồ đoàn không còn một vật gì nữa.

Dương Tiêu liền lên tiếng hỏi:

– Nghe nói những hòa thượng trong Ðạt Ma Ðường này đều là ký túc tiền bối của phái Thiếu Lâm, tu luyện ở đây bằng mười năm không hề bước ra ngoài. Vậy tại sao những lão hòa thượng trong đường này chưa đấu với Minh Giáo chúng ta nửa trận, mà đã bỏ chạy?

Bành Doanh Ngọc đỡ lời:

– Tôi cũng cảm thấy hình như chùa này đã xảy ra một việc gì rồi rất xui xẻo thì phải!

Vô Kỵ nghĩ tới năm xưa mình tới đây theo Viên Chân học Cửu Dương thần công của phái Thiếu Lâm liền nói với mọi người rằng:

– Chúng ta hãy đi sang phía bên kia thử xem!

Nói xong, chàng dẫn quần hào đi tới chỗ Viên Chân tịnh tu năm xưa, thấy trên tường vẫn còn hai cái lỗ hổng, vết hai bàn tay của Viên Chân để lại, riêng người thì mất, chỉ còn lại bốn vách trơ vơ!

Chu Diên lại vừa cười vừa lên tiếng:

– Sư chùa này chạy đâu hết? Có lẽ sau trận đại chiến ở trên Quang Minh Ðỉnh, tiếng tăm của Giáo chủ lừng lẫy khắp nơi, nên phái Thiếu Lâm mới phải treo bằng “Miễn Chiến”?

Dương Tiêu nói:

– Chúng ta đi tới Tàng Minh Các xem sao?

Tàng Kinh Các ở phía sau núi. Khi quần hào tới nơi, chỉ thấy còn lại những giá gỗ không thôi, còn mấy nghìn, mấy vạn cuốn Phật kinh đã mất hết, không sót lại lấy một cuốn! Thấy vậy, quần hào lại càng thắc mắc thêm, không ai hiểu nguyên nhân? Nếu bảo sư của phái Thiếu Lâm tị họa chạy trốn thì chẳng lẽ họ cam tâm bỏ lại cơ nghiệp đã gây dựng hơn nghì năm nay sao? Hơn nữa, dù mấy thủ lĩnh có chạy trốn thì cũng phải để lại mấy người quét tước và trông nom bếp nước ở lại mới phải chứ? hay họ sợ để lại những người đó sẽ bị Minh Giáo tra hỏi mà bí mật của họ sẽ bị lộ chăng?

Mọi người quay trở lại Ðại Hồng Bảo Ðiện, Nhất Tiếu và Nói Không Ðược đã lên trên nóc hcùa để tìm kiếm đều không thấy gì hết.

Lão hòa thượng ra tay tiếp kiến hồi nãy cũng mất dạng nốt! Dương Tiêu quay ra ngoài gọi Chưởng kỳ sứ của Hận Thổ Kỳ là Nhân Bồn vào. Rồi y bảo Chưởng Kỳ Sứ đó đem giáo chúng, bộ hạ đi mọi nơi khám xét xem có hầm bí mật không.

Nhân Bổn vâng lệnh đi được hai tiếng đồng hồ lại quay trở lại thưa rằng:

– Thưa Giáo chủ cùng Dương Tả sứ, tiểu nhân đã phái các anh em đi tìm khắp mọi nơi mà không thấy có hầm hố gì hết! Những mật thất để toạ quan tĩnh tu cũng không có một người nào cả!

Lúc này quần hào mới h iểu rõ chùa Thiếu Lâm này quả thật không còn lại một người sư nào cả. Dương Tiêu, Thiên Chính, Doanh Ngọc các ngươi đều là những nhân vật đa mưu túc trí.

Nay gặp tình hình này, ai nấy đều hoang mang, khôn ghiểu các nhà sư Thiếu Lâm định quỷ kế gì?

Mọi người đang ngơ ngác nghi ngờ nhìn nhau, bỗng nghe thấy bên phía Tây có tiếng kêu lách cách ở chỗ cách xa mọi người đứng chừng mấy chục trượng, một cây thông đổ xuống.

Mọi người kinh ngạc chạy tới thấy cây đó mọc giữa sân, xung quanh không có một bóng người, không hiểu vì sao lại đổ? Tường cạnh đó cũng bị sụp.

Mọi người tới xem chỗ cây bị chặt gãy, thấy già nửa cây đã bị khô héo. Rõ ràng cây đã bị người dùng Trọng thủ pháp chấn gãy từ lâu chớ không phải mới chặt gãy. Mọi người còn thấy chung quanh đó có những vết đao, nhát kiếm và những dấu vết bàn tay. Hiển nhiên nơi đây đã có một trận đấu rất kịch liệt và đối thủ đều là những tay cao thủ hạng nhất hết, nên mới để lại đây những vết in sâu như vậy!

Nhất Tiếu nằm phục xuống ngửi hơi đất, lại phát hiện thêm nhiều nơi có nhiều máu tanh nhưng vì hôm trước trời mưa to đã rửa sạch hết những vết máu nên không ai trông thấy dấu vết nên phải ngửi như Nhất Tiếu mới hay được.

Doanh Ngọc hỏi Dương Tiêu rằng:

– Dương Tả sứ nói sao?

Dương Tiêu đáp:

– Ba bốn ngày trước đây trong chùa thế nào cũng có một trận đấu rất kịch liệt, chẳng lẽ người của phái Thiếu Lâm bị tiêu diệt hết sao mà trong chùa không còn thấy một bóng người nào?

Doanh Ngọc lại nói tiếp:

– Ý kiến của tôi cũng giống như ý kiến của Dương Tả sứ, dựa vào tình thế này mà ước đoán thì kẻ thù của phái Thiếu Lâm phải là một Bang phái rất lợi hại! Chẳng lẽ là Cái Bang?

Chu Diên cũng xen lời nói:

– Thế lực của Cái bang tuy lớn, cao thủ của họ tuy nhiều nhưng họ vẫn không thể nào đánh và giết sạch được phái Thiếu Lâm, trừ phi Minh Giáo chúng ta mới có bản lĩnh ấy! Nhưng Minh Giáo chúng t akhông bao giờ có thủ đoạn độc ác như vậy!

Thiết Quan Ðạo nhân cũng lên tiếng:

– Chu Ðiên! Bạn n ói ít thế có được không? Bổn giáo có bao giờ làm những trò ác độc ấy mà bạn lại lấy bổn giáo mà ví như vậy. Không ngờ những lời nói của….

Chu điên nghe thoáng thì tựa như là thừa, nhưng đã khiến Dương Tiêu nhớ lại một chuyện, y liền kêu “ủa” một tiếng rồi thưa với Vô Kỵ rằng:

– Thưa Giáo chủ! Chúng ta hãy quay trở lại Ðạt Ma Vương xem xét lại một lần nữa.

Thấy Dương Tiêu nói như vậy, tất nhiên bên trong phải có nguyên do gì?

Vô Kỵ gật đầu nhận lời. Chàng dẫn quần hào đi tới Ðạt Ma Viện.

Mọi người vẫn thấy dưới đất có sáu cái khảm rách trên bàn thờ có pho tượng bằng đá của Ðạt Ma Tổ Sư, tượng này mặt hướng vào trong, lưng chìa ra ngoài.

Sở dĩ pho tượng này để trái ngược như vậy là để kỷ niệm năm xưa Ðạt Ma Tổ Sư diện bích chín năm nhờ có sự tu luyện cần cù đó mà Ðạt Ma Tổ Sư đã nghĩ ra được nhiều pho võ truyền thụ cho các đời sao. Ðiều này ai cũng biết hết nên không ai lấy làm lạ cả.

Chu Ðiên lại lên tiếng hỏi:

– Vừa rồi chúng ta vào đây xem tình hình trong này cũng chỉ có thế này mà thôi, có gì là khác lạ đâu?

Dương Tiêu liền nói với Dã Vương rằng:

– Hân thế huynh giúp cho tôi một tay xoay pho tượng Ðạt Ma này quay trở lại xem sao?

Thiên Chính vội khuyên bảo:

– Chúng ta không nên làm gì thế! Vì Ðạt Ma Tổ sư là vị Tổ Sư sáng lập phái Thiếu Lâm, không những páhi này coi tổ sư như Thần thánh mà tất cả nhân vật trong võ lâm ở khắp trong thiên hạ cũng không dám xúc phạm tới.

Dương Tiêu đáp:

– Ưng Vương cứ yên chí! Việc gì cũng đã có tiểu đệ chịu hết trách nhiệm!

Nói xong, y tung mình nhảy lên trên bàn thờ nắm lấy vai tượng đá, định quay mặt pho tượng đó ra, nhưng tượng này quá nặng nên y không sao lay chuyển nổi.

Thấy vậy, Thiên Chính liền bảo dã Vương rằng:

– Dã Vương! Con lên giúp Dương Tả sứ một tay đi!

Dã Vương vâng lời, nhày ngay lên trên bàn thờ rồi hai người cùng giở hết sức lực ra mới xoay pho tượng đá ấy quay trở lại.

Quần hào đều biến sắc vì thấy bộ mặt của pho tượng đá đã bị người dùng đao đẽo phẳng lì không còn trông thấy mặt mũi gì nữa.

Trên mặt có khắc bốn hàng chữ lớn:

– Quét sạch Thiếu Lâm trước, Tiêu diệt võ lâm sau, Duy có Minh Giáo ta, Xưng hùng bá võ lâm.

Mọi người nhìn kỹ mới hay bốn hàng chữ đó viết bằng đầu ngón tay chứ không phải dùng đao hay đục mà khắc đẽo.

Thiên Chính, Thiết Quan đạo nhân các ngươi không hên mà nên đều đồng thanh kêu lên:

– Ðây là độc kế Di họa Giang đông, chúng định đổ tội cho chúng ta đấy!

Dương Tiêu với dã Vương cùng nhảy xuống đất.

Chu Ðiên có vẻ tự đắc nói với Thiết Quan đạo nhân rằng:

– Thiết Quan đạo sư xem đấy! Nếu vừa rồi tôi không nói thì Dương Tả sứ làm sao biết được kẻ địch định di họa chúng ta như vậy?

Thiết quan buồn rầu lên tiếng hỏi Dương Tiêu rằng:

– Dương Tả sứ! Sao tả Sứ lại nghĩ ra được đằng sau pho tượng có những hàng chữ này?

Dương Tiêu đáp:

– Lần đầu tiên vào trong ma Viện này, tôi đã thấy pho tượng này có dấu vết di dịch rồi. Nhưng tôi cũng không ngờ kẻ địch lại có âm mưu như vậy.

Doanh Ngọc cũng xen lời hỏi:

– Tiểu tăng còn một việc này rõ, muốn Tả Sứ chỉ giáo cho! Người viết bốn hàng chữ này nếu định tâm di họa bổn giáo khiến bổn giáo mang tội lớn là tiêu diệt các phái võ lâm để các môn phái nổi lên vây đánh chúng ta. Nhưng tại sao người đó lại xoay pho tượng quay mặt vào trong tường như vậy? Nếu Dương Tả sứ không tinh tế thì chúng ta làm sao mà biết được có những hàng chữ như vậy?

Dương Tiêu nghiêm nét mặt lại đáp:

– Tôi chắc pho tượng này là do một người khác quay đi ngấm ngầm còn co một vị võ công rất cao cường khác đã tương trợ. Bổn giáo đã chịu một ơn rất lớn của người đó mà mãi cho đến bây giờ chúng ta mới biết.

Quần hào đồng thanh hỏi:

– Người đó là ai? Tại sao Tả Sứ lại biết như vậy?

Dương Tiêu thở dài đáp:

– Nguyên ủy này khúc chiếc lắm, tôi vẫn chưa nghĩ ra được tại sao mà nên…

Y chưa nói dứt, Vô Kỵ đã đột nhiên kêu “ủa” một tiếng, rồi lớn tiếng nói:

– Theo ý nghĩa của bốn câu nói đó có lẽ phái Võ Ðang cũng sắp mang họa đến nơi!

Nhất Tiếu vừa cười đỡ lời:

– Việc này tất nhiên chúng ta không còn từ chối gì mà phải đi ngay cứu viện, chúng ta tìm cho ra bọn khốn nạn nào đã cố ý muốn hại ngầm bổn giáo như vậy?

Thiên Chính cũng xen lời nói:

– Việc này cũng không thể trì hoãn được! Chúng ta phải đi ngay! Có lẽ bọn gian tặc ấy đã đi trước chúng ta mấy ngày rồi!

Vô Kỵ nghĩ đến phái Võ Ðang từ Thái sư phụ trở xuống, ai ai đối với mình đều có ơn nặng cả. Chàng không biết mấy người sư thúc, sư bá về tới núi Võ Ðang chưa? Vì suốt dọc đường chàng không hề nghe thấy tin của mấy người đó. Nếu dọc đường có xảy ra việc gì mà mấy người đó chưa thể về tới núi Võ Ðang được thì trên núi chỉ còn một mình Thái sư phụ với các đệ tử đời thứ ba thôi. Còn Tam sư bá Dư Ðại Nham đang tàn phế nằm liệt giường liệt chiếu. Nhỡ cường địch đột nhiên đến tấn công, số người ít ỏi như thế thì làm sao mà địch cho nổi?

Nghĩ tới đó chàng càng nóng lòng sốt ruột thêm.

Chàng vội lớn tiếng nói:

– Các vị tiền bối, huynh trưởng! Phái Võ Ðang là nơi xuất thân của Tiên phụ, nay đang đại nạn, nếu có sự gì thất thố sau này bổn tọa khó mà làm người được! Cổ nhân đã dạy: “Cứu binh như cứu hỏa” tới sớm giờ nào hay giờ ấy. Bây giờ hãy mời Vi Bức Vương đi cùng bổn tọa tới đó cứu viện trước, còn qúy vị chia làm mấy nhóm, lần lượt tới sau. Tất cả mọi việc xon lời dương Tả sứ và ông ngoại tôi chỉ huy cho!

Nói xong, chàng chắp tay chào mọi người rồi lẻn mình đi ra cửa.

Nhất Tiếu cũng giở khinh công ra đi theo sau ngay!

Quần hào vâng lời, đã thấy hai người đi ra tới ngoài thạch đỉnh rồi, khinh công của hai người nhanh không thể tưởng tượng được! Có lẽ lúc bấy giờ khó mà có người thú ba nhanh được như thế!

Hồi thứ 59

Võ Ðang Cứu Viện

Hai người xuống tới dưới chân núi trời đã tối dần, không dám trì hoãn chút nào, vẫn tiếp tục đi luôn.

Trong đêm đầu, hai người đã đi được mấy trăm dặm.

Thoạt tiên Nhất Tiếu vẫn đi với Vô Kỵ nhưng càng đi lâu bao nhiêu, y càng cảm thấy kém hơi đuối sức bấy nhiêu!

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Từ đây đi tới núi Võ Ðang, đi nhanh như vậy cũng mất trọn một người một đêm mới tới nơi, với xương thịt của một người không thể nào chạy liên tiếp như thế mà không nghỉ ngơi.

Huống hồ cường địch ở trước mặt ta phải giữ lại sinh lực để đại chiến chứ!

Nghĩ đoạn chàng vừa cười vừa nói với Nhất Tiếu rằng:

– Ði tới thị trấn đằng kia, chúng ta hãy mua hai con ngựa để cỡi, như vậy chúng ta mới có thời giờ nghỉ ngơi và dưỡng sức.

Nhất Tiếu cũng muốn như vậy nhưng không tiện nói ra thôi, nay y thấy Vô Kỵ nói như vậy liền đáp:

– Thưa Giáo chủ! Ði bằng ngựa như vậy sợ mất nhiều thì giờ lắm!

Hai người đi được một hồi lâu, thấy phía đằng trước có năm sáu người cỡi ngựa đi tới, Nhất Tiêu tung mình nhảy nhanh lên tay chộp được hai người đang cỡi ngựa và khẽ đề xướng dưới đất. Rồi y quay đầu lại nói với Vô Kỵ rằng:

– Mời Giáo chủ hãy lên ngựa đi thôi!

Vô Kỵ có vẻ chần chừ, chàng nhận thấy giưa đường cướp ngựa như vậy thì khác gì bọn cường đạo.

Nhất Tiêu lại nói tiếp:

– Việc lớn khỏi cần để ý tới tiểu tiết.

Nói xong, y lại hét thêm một tiếng, xách luôn hai tên cỡi ngựa nữa đặt xuống đất.

Mấy người này cũng biết đôi chút võ nghệ, nên khi bị đặt xuống đất bèn rút khí giới ra, lớn tiếng mắng chửi, xông lại tấn công Nhất Tiếu.

Nhưng, Nhất Tiêu hai tay dắt bốn con ngựa, chỉ dùng chân đá ngược trở lại, khí giới của bọn người kia cũng bị đá tung đi rồi!

Mọi người trong bọn đó liền quát lớn:

– Hảo hán nào đã cướp ngựa lại còn hành hung như thế? Có mau xưng danh cho ta hay không?

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Nếu còn dây dưa thì thế nào cũng mang tội với rất nhiều người.

Ngựa đoạn chàng tung mình nhảy lên trên lưng ngựa tay dắt theo một con. Thế là hai người bốn ngựa phóng đi luôn.

Những người nọ chỉ lớn tiếng chửi theo không dám đuổi theo hai người.

Vô Kỵ nói với Nhất Tiếu rằng:

– Tuy vì sự bất đắc dĩ mà chúng ta phải cướp ngựa của họ như vậy, nhưng biết đâu người ta chả có việc cần vội đi như mình. Làm như vậy, trong lòng tôi không yên chút nào!

Nhất Tiếu vừa cười vừa đáp:

– Giáo chủ hà tất phải quan tâm đến những việc nhỏ mọn ấy làm chi? Năm xưa người của bổn giáo hành sự mới thật là bừa bãi không còn kiêng nể gì Vương pháp hết.

Nói xong, y ha hả cả cười.

Vô Kỵ chỉ mong sớm ngày đón Tạ Tốn về để mình trút gánh nặng.

Ðang lúc ấy, chàng bỗng thấy có một bóng người thấp thoáng liền thấy hai người đứng ra ngăn cản lối đi.

Nhất Tiếu với Vô Kỵ gọi gò cương ngựa lại liền thấy hai tên ăn mày đứng ngăn cản ở trước ngựa, mỗi tên tay cầm chiếc gậy, lưng vác túi vải, hai người nhận ngay ra hai tên ăn mày đó là người của Cái Bang.

Nhất Tiếu quát lớn:

– Tránh ra!

Ðồng thời y múa roi ngựa nhắm địch thủ quất luôn. Tên ăn mày ấy vội giơ trượng lên chống đỡ roi ngựa, còn tên thứ hai bỗng huýt sáo một tiếng, tay trái giơ lên ném một cái. Ngựa của Nhất Tiếu liền kinh hoảng chồm hai chân lên. Ðang lúc ấy, trong hai bụi cây có thêm bốn tên ăn mày nữa nhảy ra. Xem thân pháp của họ nhanh nhẹn như vậy đủ thấy chúng là những tay cao thủ hữu hạng của Cái Bang.

Nhất Tiếu nói với Vô Kỵ rằng:

– Giáo chủ cứ tiếp tục lên đường đi! Ðể thuộc hạ đối phó mấy tên chuột nhắt này cho!

Vô Kỵ đoán chắc bọn người của Cái Bang này định cản trở viện binh của phái Võ Ðang. Tâm địa của chúng thật ác độc vô cùng. Chàng lại cảm thấy tình thế của phái Võ Ðang càngnguy hiểm thêm. Chàng biết võ công và khinh công của Dương Tiêu và Nhất Tiếu cao tột bậc, đấu với bọn Cái Bang này, tuy không nắm chắc phần thắng, nhưng không đến nỗi thua chúng được. Chàng yên chí thúc ngựa phi thẳng về phía trước. Hai tên Cái Bang phi ngực tới ngăn chận lối đi. Chàng cúi người xuống, nhanh tay cướp luôn hai chiếc gậy gân của địch và thuận tay ném luôn một cái. Chàng liền nghe thấy hai tiếng kêu la thảm khốc, thì ra hai tên đệ tử của Cái Bang đó đã bị chàng ném gậy đập gãy đùi ngã lăn ra đất rồi. Chàng không cố ý giết hại người. Nhưng thấy bốn tên đệ tử của Cái Bang quây quần Nhất Tiếu đều có võ công cao siêu, chỉ sợ mình đi khỏi, Nhất Tiếu địch không nổi bốn người đó, nên chàng mới thuận tay đánh què hai đứa đó.

Tung Sơn và núi Võ Ðang tuy ở hai tỉnh khác nhau, nhưng cách nhau không xa lắm. Ði tới Nội Hương, Vô Kỵ thấy đói bụng liền vào chợ mua ít bánh để ăn cho đỡ đói. Chàng bỗng thấy con ngựa kêu rú, vội quay đầu lại nhìn, đã thấy bụng con ngựa bị một con dao cắm phập vào. Ðồng thời chàng thấy một bóng người chạy tới đầu phố rồi biến mất. Chàng biết đó là kẻ địch, và y ra tay giết ngầm con ngựa của chàng. Chàng vội nhảy khỏi mình ngựa, giở hết tốc lực khinh công ra đuổi theo người nọ. Chỉ thoáng cái chàng đã chộp được tên đó.

Chàng mới hay người đó là một đệ tử của Cái Bang. Trước ngực y còn dính đầy máu ngựa. Chàng tức giận vô cùng, giơ tay ra điểm vào yếu huyệt của tên Cái Bang. Tên đó cảm thấy khắp cơ thể đau buốt. Ít nhất y cũng phải chịu đau như vậy suốt ba ngày ba đêm mới khỏi.

Lúc ấy, chàng thấy con ngựa đã chết mà trong túi đã hết sạch tiền. Chàng liền khám túi tên ăn mày kia, không ngờ thấy trong túi tên nọ có hơn trăm lạng bạc.

Chàng liền nói:

– Ngươi giết chết ngựa của ta, ta phải lấy số tiền của ngươi để thường con ngựa của ta.

Nói xong, chàng vừa quay người lại đã thấy một người đi lại dắt một con ngựa to lớn đi tới. Chàng phi thân nhảy lên trên lưng ngựa, vứt số bạc cho người nọ và phóng ngựa đi luôn, khỏi cần biết người đó có bằng lòng hay không. Chàng phóng tới bờ sông Hán Thủy. May mắn thay, có một con đò lớn đang đậu ở đây, chàng liền nhảy xuống đất dắt ngựa lên đó và bảo người lái đò chở mình sang bờ sông bên kia. Ðò đi ra tới giữa sông, chàng thấy nước sông chảy rất mạnh liền hồi tưởng đến chuyện năm xưa.

Ngày ấy, Thái sư phụ dắt mình lên chùa Thiếu Lâm nhờ ở trên đó cứu chữa. Cũng ở trên sông Hán Thủy này gặp gỡ Thường Ngộ Xuân và cứu được một người con gái họ Châu. Chàng đang ngẩn người ra suy nghĩ bổng thấy chiếc đò lung lay, nước chảy cuồn cuộn vào trong khoang. Chàng sinh đẻ ở Băng hỏa đảo, nên rất thạo về bơi lội nên không sợ đắm đò, chỉ sợ chậm trễ công việc. Chàng quay đầu lại nhìn, thấy người lái đò nhìn mình cười nhạt, đang định nhảy xuống sông.

Nhanh như cắt, người lái đò tung mình lên, chàng đã tới nơi phương cánh tay ra chộp luôn cánh tay của y và giơ một ngón tay ra điểm vào yếu huyệt dưới hông của kẻ gian.

Tên lái đò bị đau nhức kêu la om sòm.

Chàng liền quát bảo:

– Mau chèo đò cho ta sang bên kia sông, bằng không ta sẽ giết chết mi ngay.

Tên lái đò đành phải tuân lệnh, chèo đò đưa chàng qua sông.

Trong khi người lái đò chèo, thì chàng đã lột quần áo của y ra để bịt những lỗ hổng cho nước khỏi tràn vào. Nhờ vậy chàng mới được bình yên sang bên kia sông.

Sang tới nơi, chàng liền túm ngực tên lái đò và hỏi:

– Ai sai mi giở độc kế? Khai mau.

– Tiểu nhân là Cái Bang…

Vô Kỵ không chờ y nói dứt câu đã phi mình lên trên ngựa tiến về phía nam tức thì. Lúc ấy trời đã tối, không có trăng sao mà ngựa đã mỏi mệt, hai chân quỵ xuống đất không sao tiếp tục chạy được nữa.

Chàng vỗ lưng ngựa và nói:

– Thôi mi cứ nằm ở đây nghỉ ngơi, lúc nào khoẻ mạnh sẽ đi.

Nói xong, chàng giở khinh công chạy về phía Nam.

Chàng đi tới canh tư, bỗng nghe thấy phía trước có tiếng vó ngựa nhộn nhịp vọng tới… Chàng đoán chắc phía đằng trước thế nào cũng có một bọn người khá đông. Chàng rảo cẳng lướt qua những người đó, phần vì đêm tối, phần vì khinh công của chàng quá nhanh nên không một người nào hay biết.

Chàng thấy bọn người đó đang đi về phía núi Võ Ðang. Bọn đó có tất cả hơn hai mươi người, chỉ lẳng lặng mà đi chớ không nói năng gì với nhau cả. Vì vậy chàng không biết lai lịch của bọn chúng.

Chàng chỉ mang máng trông thấy tên nào tên nấy đều có mang theo khí giới. Chàng đoán chắc bọn người này thế nào cũng là kẻ địch của phái Võ Ðang.

Tuy vậy chàng rất khoan tâm nghĩ thầm rằng:

– Dù sao ta cũng đuổi kịp chúng. Như vậy phái Võ Ðang vẫn chưa ngộ nạn được!

Chàng đi được nửa tiếng đồng hồ nữa lại thấy có thêm một bọn người cũng đang tiến thẳng đến núi Võ Ðang. Trước sau chàng gặp tất cả có đến năm bọn người như vậy!

Chờ tới khi chàng trông thấy bọn người thứ năm trong lòng chàng mới lo âu và nghĩ tiếp:

– Không biết có tất cả bao nhiêu bọn người định lên trên núi Võ Ðang như vậy? Không hiểu đã có bọn người nào đấu với Võ Ðang chưa?

Vô Kỵ càng đi càng nhanh hơn trước nhiều. Khi chàng lên tới lưng chừng núi võ Ðang bỗng nghe thấy phía đằng trước có mấy người kêu la hò hét và xua đuỗi nhau. Chàng vội đi vòng lên trên đó xem sao.

Chàng thấy phía đằng trước có bốn cái bóng đen đang đuổi theo một bóng người đi trước mặc áo trắng. Một trong bốn người ở phía sau đuổi theo, bỗng lên tiếng quát bảo:

– Tên hòa thượng kia! Ngươi lên trên núi Võ Ðang này làm chi?

Người thứ hai đỡ lời:

– Dù ngươi có lên đây báo tin cho phái Võ Ðang cũng vô ích mà!

Tiếp theo đó chàng lại nghe mấy tiếng kêu \”xoẹt xoẹt\”. Chàng biết nhữngngười đuổi theo đã dùng ám khí bắn vào người đang chạy ở phía trước. Nghe tiếng động của ám khi đó chàng biết ngay người ám khí đó sức lực cũng khá mạnh, chàng liền nghĩ thầm:

– Thì ra người chạy ở đằng trước là bạn đến báo tin cho Võ Ðang. Còn ba người đang đuổi ở phía sau mới là kẻ địch! Mấy kẻ địch này ngăn cản không cho người kia lên trên núi báo tin.

Nghĩ đoạn, chàng vượt qua đâu bọn người đó ẩn núp trong một bụi cây. Giây phút sau mấy người đó đã chạy tới cạnh, chàng đã nhận ra người đi đầu quả là một nhà sư, tay cầm một thanh giới đao đen nhánh, vừa múa vừa gạt những ám khí ở phía sau ném tới. Hình như bên chân trái Hòa thượng đó đang bị thương nên bước đi của ông ta tập tễnh. Tiếp theo đó ba người ở phía sau đã đuổi tới. Chàng đã nhận ra ba người đuổi theo đó là những nhân vật của Cái Bang. Nhưng chúng lại mặc áo bào trắng của Minh Giáo thấy vậy chàng tức giận thêm và nghĩ thầm:

– Cha ta vẫn thường nói: \”Năm xưa Cái Bang chuyên môn hành hiệp trượngnghĩa, lão Bang chủ Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công đã cho là Cái Bang lừng tiếng giang hồ khiến Cái Bang đã trở nên một Bang Hội lớn nhất ở Trung Nguyên. Ngờ đâu ngày nay các đệ tử của Cái Bang hèn mạt đến thế, làm cho Cái Bang đã mất hết tên tuổi! Thật là đáng tiếc…

Chàng suy nghĩ thấy người sư chạy tru7óc bước đi chậm dần.

Một đệ tử của Cái Bang bỗng quát lớn:

– Phái Thiếu Lâm của các người đã hoàn toàn bị tiêu diệt hết chỉ có một mình người được sống sót thôi, một mình ngươi thì làm nổi cái trò trống gì? Có mau mau thúc thủ mà đầu hàng đi không? Nếu ngươi biết điều thì Minh Giáo chúng ta tha chết cho ngươi.

Vô Kỵ nghe tên Cái Bang đó mạo nhận là người Minh Giáo của mình lại càng nổi giận thêm:

– Hình như Tăng nhân đã tự biết không sao chạy thoát cho được nên y quay người đứng trở lại cầm dao để đợi chờ kẻ địch, và quát hỏi:

– Những quân Minh Giáo tà mà, tội ác tày trời kia! Xem các ngươi hoành hành tới bao giờ. Ngày hôm nay Phật gia quyết thí mạng với các ngươi rồi.

Ba tên Cái bang liền múa gậy xông lên bao vây nhà sư kia vào giữa. Chúng nhằm những nơi yếu hiểm của địch thủ mà tấn công lia lịa.

Vô Kỵ thấy nhà sư đó võ công rất lợi hại, một đấu với ba mà vẫn không kém vế chút nào!

Bốn người đấu được một lúc, nhà sư đó đã quát lớn:

– Trúng!

Y đã dùng chân đá gãy cánh tay phải của một tên đệ tử của Cái Bang liền.

Nhân lúc hai tên kia đang kinh ngạc hoảng sợ, y lại chém trúng vai một tên, còn một tên nữa thấy vậy hoảng sợ vô cùng, cắm đầu ù té chạy luôn.

Vô Kỵ thấy vị hòa thượng đó có đao pháp cao siêu như vậy cũng phải buột miệng khen \”hay\” một tiếng.

Nhà sư của phái Thiếu Lâm đó thấy có người khen ngợi liền quay người lại nhìn. Nhưng y không thấy có ai cả, vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, nhưng y đã rảo cẳng chạy thẳng lên trên núi tức thì!

Chờ tăng nhân đó đi khỏi, Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Mối hiềm thù ủa Minh Giáo với Thiếu Lâm và Võ Ðang các phái chưa hòa giải xong. Huống hồ lại có người mạo danh mà tác ác, tác quái, nếu ta đường đột xuất đầu lộ diện như thế này càng làm cho cục diện rắc rối thêm. Lúc này rất khẩn bách ta không thể để mất thời giờ quý báu được! ta hãy ngấm ngầm theo sau bốn hòa thượng này, rồi tùy cơ ứng biến mà cứu viện Thái sư phụ của ta sau.

Chàng đang nghĩ đã thấy tăng nhân của phái Thiếu Lâm đã sắp lên tới đỉnh núi rồi.

Chàng lại nghe thấy trên đỉnh núi có một người lớn tiếng quát hỏi:

– Bạn ở đâu giáng núi Võ Ðang chúng tôi thế?

Tiếng quát đó vừa dứt đã thấy có bốn người ở sau lưng tảng đá lẻn ra.

Hai người ăn mặc đạo sĩ, hai ngươi ăn mặc quần áo thường đều là đệ tử đời thứ ba, thứ tư của phái Võ Ðang cả.

Nhà sư chấp tay vái chào và đáp:

– Thiếu Lâm Tăng nhân Không Tướng có việc cần muốn xin yết kiến Võ Ðang Trương Chân Nhân!

Vô Kỵ nghe thấy người đó tự báo danh là Không Tướng liền giật mình nghĩ thầm:

– Thế ra Tăng nhân này thuộc phái chữ Không. Sư huynh đệ với Không Văn, Phương trượng của chùa Thiếu Lâm, thảo nào võ công của y lại chẳng lợi hại đến thế! Tuy hơi kém Không Tín Thần tăng một chút nhưng y cũng là một tay cao thủ hiếm có rồi!

Nghĩ tới đó chàng lại nghĩ tiếp:

– Nếu y không phải là hảo thủ hạng nhất của phái Thiếu Lâm thì y làm sao mà thoát được tai nạn nguy hiểm như thế cho được? Sau khi thoát nạn y còn không quản ngại mệt nhọc mà lên trên núi Võ Ðang báo tin như vậy quả thật là một tay hiệp sĩ trượng nghĩa rất hiếm có!

Một đạo sĩ của phái Võ Ðang lại lên tiếng nói:

– Ðại sư ở xa đến mệt nhọc như vậy, xin mời đại sư quá bộ vào trong quán xơi chén nước cho khoẻ đã.

Nói xong, bốn người đó dẫn đường đi trước.

Không Tướng liền đưa thanh giới đao của mình cho một đạo sĩ khác cầm hộ để chứng tỏ mình không đem khí giới vào trong quán.

Vô Kỵ ở trên núi Võ Ðang đã được vài năm nên đường lối trên núi đó chàng đều đã quen thuộc hết! Chàng thấy Ðạo nhân đó dẫn Không Tướng vào trong điện Tam Thanh, chàng liền núp ở trong cửa sổ và nghe thấy Không Tướng nói trước:

– Ðạo trưởng, mau rời trương Chân nhân ra ngay, vì việc này khẩn cấp lắm! Không thể trì hoãn được!

Ðạo nhân nọ đáp:

– Ðại sư thật không may chút nào! Tệ sư Tổ toạ quan từ hồi năm ngoái, tới nay cũng đã hơn một năm rồi! Các đệ tử của bổn phái đã lâu lắm không được yết kiến dung nhan của tệ Sư tổ rồi!

Không Tướng chau mày nói tiếp:

– Nói vậy xin mời Tứ Ðại hiệp hộ bần tăng!

Ðại sư bá cùng gia sư và các vị sư thúc, liên minh với quý phái viễn chinh Minh Giáo từ đó tới giờ vẫn chưa hề tới nơi!

Vô Kỵ nghe thấy đạo sĩ nói như vậy giật mình kinh hãi thầm. Vì chàng biết nhóm Tống Viễn Kiều đã về từ lâu, giữa đường chàng không hề có gặp các người ấy. Như vậy thì thế nào các người ấy cũng đã ngộ nạn rồi! Chàng lại nghe thấy Không Tướng thở dài và nói tiếp:

– Nếu vậy phái Võ Ðang cũng như phái Thiếu Lâm của chúng tôi ngày hôm nay không sao thoát được tai nạn này!

Ðạo nhân nọ không hiểu hòa thượng ấy nói như vậy là có ý nghĩa gì, chỉ trả lời rằng:

– Hiện giờ tất cả công việc của tệ giáo đều do tệ sư huynh Ðồng Huyền Tử chủ trì để tiểu đạo vào thông báo vời tệ sư huynh cho!

– Ðồng Huyền Ðạo Trưởng là đệ tử của vị nào thế?

– Là môn hạ của Dư Tam sư thúc của chúng tôi!

– Vâng! Xin tuân lời đại sư dạy bảo!

Ðạo sĩ đó nói xong, liền quay mình vào bên trong.

Không Tướng ở trong khách sảnh, đi đi lại lại có vẻ nóng lòng sốt ruột vô cùng! Thỉnh thoảng y còn lắng tai nghe xem kẻ địch đã tấn công lên trên núi chưa?

Một lát sau, đạo nhân nọ đã rảo bước đi ra, cúi mình vái chào Không Tướng và nói:

– Dư Tam sư thúc chúng tôi thỉnh mời Ðại sư vào bên trong và xin đại sư thứ lỗi cho, vì sư thúc chúng tôi không tiện đi lại nên không thể ra tận đây nghinh đón được!

Lúc này cử chỉ và lời ăn lẽ nói của Ðạo nhân đó càng cung kính hơn trước nhiều, chắc Dư Ðại Nham thấy nói tăng nhân của phái Thiếu Lâm thuộc vai vế chữ Không tới nên mới dặn bảo y phải lễ phép như thế!

Không Tướng gật đầu theo đạo sĩ đó vào trong đạo phòng ngủ của Ðại Nham, Vô Kỵ theo tới phòng của người sư bá đó, nhưng chàng chỉ đứng núp ở ngoài cửa sổ thôi chứ không vào.

Chàng nghĩ thầm:

– Tam sư bá chân tay tàn phế, tai mắt tất phải linh mẫn hơn, nếu ta đứng ở ngoài cửa sổ nghe lỏm như thế này, chắc sư bá thế nào cũng hay biết.

Nghĩ đoạn, chàng phải lùi ra nơi cách xa phòng ngủ của Ðại Nham mấy trượng mới ngừng chân lại lắng tai nghe.

Một lát sau, đạo sĩ nọ ở trong phòng Ðại Nham hấp tấp đi ra và lên tiếng khẽ gọi:

– Thanh Phong! Minh Nguyệt! Lại đây!

Hai tên đạo đồng nghe thấy y gọi liền tới trước mặt y và cũng chào rằng:

– Sư thúc!

Ðạo nhân nọ liền căn dặn hai tiểu đồng rằng:

– Hai người sửa soạn võng để khiêng Tam sư thúc ra.

Hai tên đạo đồng vâng lời đi ngay.

Vô Kỵ ở trên núi Võ Ðang mấy năm nên chàng biết có hai đạo đồng Thanh Phong và Minh Nguyệt thôi.

Ðồng thời chàng biết hễ mỗi lần Ðại Nham rời khỏi phòng thì phải ngồi võng và do hai tên đại đồng khiêng đi.

Chàng thấy hai tiểu đồng bước chân vào trong phòng mới đột nhiên lên tiếng kêu gọi:

– Thanh Phong, Minh Nguyệt! Có nhận ra tôi không?

Hai tiểu đồng giật mình đánh thót một cái, cùng đưa mắt ngắm nhìn Vô Kỵ, thấy mặt chàng hơi quen quen, nhưng không nhận ra chàng là ai cả.

Chàng vừa cười vừa nói tiếp:

– Tôi là Vô Kỵ, tiểu sư thúc đây! Hai em quên rồi hay sao?

Hai đạo đồng sực nghĩ tới chuyện cũ, trong lòng mừng rỡ vô cùng!

Cả hai đồng thanh gọi:

– Ồ! Tiểu sư thúc đã về đấy à? bệnh của sư thúc đã khỏi chưa?

Ba người tuổi ngang nhau, năm xưa cả ba thường đùa giỡn với nhau.

Vô Kỵ liền đề nghị:

– Thanh Phong! Ðể tôi thế anh vào khiêng sư bá, để xem sư bá có nhận ra tôi không?

Thanh Phong trù trừ đáp:

– Sư điệt thiết thưởng… việc này không nên.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tam sư bá thấy tôi khỏi bệnh trở về thì thế nào cũng mừng rỡ. Không quở trách anh đâu.

Hai đạo đồng đã biết Trương Tam Phong tổ sư với Võ Ðang Lục hiệp đều cưng tiểu sư thúc này lắm. Nay tiểu sư thúc lành mạnh trở về, tất nhiên là một việc rất mừng rỡ, bây giờ tiểu sư thúc đó có đùa giỡn đôi chút cũng không tổn hại gì nên Minh Nguyệt liền trả lời:

– Tiểu sư thúc muốn làm thế nào thì cứ việc mà làm đi! Chúng tôi đâu dám trái y tiểu sư thúc!

Thế rồi Thanh Phong vừa cười vừa cởi áo đạo bào và giày vớ ra đưa cho Vô Kỵ mặc.

Minh Nguyệt thắt một cái búi tóc đạo sĩ cho chàng.

Minh Nguyệt nói:

– Tiểu sư thúc mạo tên Thanh Phong không được! Vì mặt sư thúc không giống Thanh Phong. Chi bằng bảo Thanh Phong té quà chân nên tiểu sư thúc là đạo đồng mới tới tu hành thay. vậy gọi tiểu sư thúc là gì?

Vô Kỵ nghĩ ngợi giây lát rồi vừa cười, vừa đáp:

– Thanh Phong thổi qua, lá cây liền rụng, chi bằng gọi tôi là Tảo Diệp vậy!

Thanh Phong vỗ tay khen ngợi:

– Tên này hay lắm…

Ba người đang trò chuyện vui vẻ.

Ðạo nhân nọ ở ngoài phòng đã lên tiếng quát mắng:

– Hai thằng nhỏ kia núp trong phòng hì hì hà hà cười đùa cái chi mà mãi không thấy ra thế?

Vô Kỵ cùng Minh Nguyệt liền khiêng cái võng đi ra khỏi phòng tiến thẳng tới phòng ngủ của Ðại Nham.

Vô Kỵ cùng Minh Nguyệt khiêng Ðại Nham đặt lên trên võng.

Mặt của Ðại Nham rất nghiêm trọng nên không để ý đến đạo đồng khiêng võng là ai cả, chỉ ra lệnh:

– Khiêng ta vào Tiểu viện ở hậu sơn để yết kiến Ðại sư gia!

Minh Nguyệt vâng lời.

Thế rồi Minh Nguyệt và Vô Kỵ khiêng Nham đi.

Minh Nguyệt đi trước, Vô Kỵ đi ở phái sau nên Ðại Nham chỉ trông thấy sai lưng của Minh Nguyệt chứ không trông thấy Vô Kỵ.

Không Tướng định đi cạnh võng cùng tiến về phía hậu sơn nhưng vì Ðại Nham không cho phép nên đạo sĩ nọ không dám đi theo.

Tiểu viện của Trương Tam Phong bế quan tĩnh tu ở giữa rừng trúc tại phía sau núi. Nơi đây rất vắng vẻ, ngoài tiếng chim kêu hót ra, không còn có một tiếng động nào khác nữa hết.

Minh Nguyệt với Vô kỵ khiêng Ðại Nham đến trước tiểu viện rồi đặt võng xuống, Ðại Nham đang định lên tiếng cầu yết kiến thì Trương Tam Phong đã nói vọng ra rồi:

– Chẳng hay vị thần tăng nào của phái Thiếu lâm đã giáng lâm tệ xá? lão đạo không kịp ra nghinh đón. Mong thần tăng hãy xá tội cho!

Trương Chân nhân vừa dứt lời, cánh cửa trúc đã mở toang.

Mọi người thấy Trương Tam Phong từ từ bước ra. Không Tướng trong lòng hơi kinh hãi nghĩ thầm:

– Sao y lại biết tăng nhân của phái Thiếu Lâm đến thăm viếng như vậy?

Nghĩ đoạn, y lại cho rằng:

– Có lẽ đạo sĩ tri khách kia đã sai người đến bâm trước. lão đạo sĩ trương Tam Phong giả bộ để nạt ta cũng nên!

Ðại Nham biết võ công của sư phụ mình gần đây càng bát đạt tinh thông hơn trước nhiều, chỉ nghe bước chân đi của Không Tưởng là sư phụ mình cũng đủ biết người ấy thuộc phái nào và võ công cao siêu tới mức nào rồi. Sư phụ mình đoán chắc người khách đó thế nào cũng là một trong ba Ðại Thần tăng: Không Văn, Không Trí và Không Tín của phái Thiếu Lâm. Nhưng sư phụ mình đã đoán lầm, có lẽ vì Không Tướng ít ra ngoài cửa chùa nên người ngoài không biết torng phái Thiếu lâm lại còn có thêm một vị võ học cao cường này nữa?

Không Tướng chấp tay vái chào và nói:

– Tiểu tăng Thiếu Lâm Không Tướng tới đây tham kiến Võ Ðang tiền bối Trương Chân nhân:

Trương Tam Phong cũng đáp lễ:

– Không dám! Ðại sư khỏi cần phải dùng đại lễ như thế. Xin mời vào trong nhà nói chuyện!

5 người cùng đi vào trong tiểu viện. trong nhà nhỏ chỉ có một cái bàn, trên bàn để một ấm chè và một cái chén, dưới đất có một cái thảm bằng rơm, trên vách treo một thanh kiếm gỗ.

Không Tướng nói tiếp:

– Thưa Trương Chân nhâ! Thiếu Lâm chúng tôi đã bị một tai ách ngàn thuở có một, vì bị Ma Giáo đột nhiên đến đánh lén bổn phái từ Phương trượng Không Văn sư huynh trở xuống, hoặc tự tử để tuẫn chùa hoặc tử vì chiến đấu, hoặc bị bắt sống. Chỉ có một mình tiểu tăng là thoát chết và đào tẩu ra khỏi vòng vây mà thôi! Ðại đội nhân chúng của ma giáo đang tiến thẳng về núi Võ Ðang này. Ngày nay sự tồn vong vinh nhục của Võ Lâm đều trông mong vào một mình Trương Chân nhân.

Nói xong y lớn tiếng khóc lóc.

Trương Tam Phong hay tin đó cũng phải giật mình kinh hãi đứng ngây người ra không nói được nửa lời.

Một lát sau, Trương Chân nhân định thần xong, mới lên tiếng hỏi:

– Ma giáo ngông cuồng đến thế ư? Chùa Thiếu Lâm có nhiều cao thủ như vậy, không hiểu tại sao lại thua Ma Giáo như thế được?

Không Tướng đáp:

– Không Trí, Không Tín hai vị sư huynh dẫn các môn hạ đệ từ liên minh với năm đại phái của Trung Nguyên, viễn chinh miền tây đánh Quang Minh Ðỉnh, không hiểu tại sao thất thủ, đều bị bắt giam hết…

Vô Kỵ kinh hãi thầm nghĩ:

– Kẻ địch đó là ai thế? Sao mà lợi hại như vậy?

Chàng lại nghe thấy Không Tướng nói tiếp:

– Bữa nọ ở dưới chân núi có người báo tin lên trên chùa rằng, những người viễn chinh đã đại thắng trở về chùa! Không Văn sư huynh chúng tôi khi hay tin đó cả mừng, liền dẫn tất cả đệ tử trở về rồi cùng vào trong chùa. Hai vị sư huynh đó còn áp giải theo mấy trăm tên tù binh nữa mọi người vào tới sân. sư huynh Phương trượng liền hỏi hai vị sư huynh kia đắc thắng ra sao?

Không Trí sư huynh chỉ vâng dạ chứ không nói năng gì hết. Sau Không Tín sư huynh bỗng lớn tiếng nói:

– Sư huynh nên cẩn thận! Chúng tôi đã bị kẻ địch bắt giữ! Những tù binh kia đều là kẻ địch…

Phương trượng sư huynh chúng tôi đang kinh ngạc thì những tù binh kia đã rút khí giới ra xông lại tấn công luôn. Vì sự thể xảy ra quá đột ngột nên không ai kịp trở tay chống đỡ, hơn nữa vì xuống nghênh đón mọi người đắc thắng trở về nên không có ai mang theo khí giới. Cửa trước cửa sau đều bị kẻ địch chia nhau bịt kín, tên nào cũng có khí giới mà bên chúng tôi thì tay không, nên đấu không bao lâu, chúng tôi đều đại bại! Không Tín sư huynh tử nạn tại chỗ…

Y nói tới đó, khóc sướt mướt không sao nói tiếp được!

Tam Phong thấy vậy cũng tỏ vẻ rầu rĩ và hỏi tiếp:

– Ma giáo ác độc vô cùng! chúng giở ác kế như thế thì còn ai có thể đề phòng được nữa!

Không Tướng vội cởi bọc áo vải vàng ở trên lưng xuống từ từ mở bọc áo đó ra, bên trong lại có một lớp vải dầu. Mở hết lớp vải dầu đó, trong có một thủ cấp, hai mắt vẫn còn trợn trừng vẻ mặt tức giận. Thủ cấp đó chính là đầu của Không Tín Ðại sư, một trong Tam Ðại thần tăng phái Thiếu Lâm!

Tam Phong, Ðại Nham, Vô Kỵ đều quen biết với Không Tín nên ai nấy vừa trông thấy đều thất thanh cùng kêu \”ủa\” một tiếng.

Không Tướng vừa khóc vừa nói tiếp:

– Tôi thí mạng mới cướp được pháp thể của Không Tín sư huynh. Trương Chân nhân thử nghĩ hộ chúng tôi xem, mối thù lớn như thế này mà không trả làm sao đặng?

Nói xong, y cung kính đặt thủ cấp của Không Tín lên trên mặt bàn rồi phục xuống đất vái lạy.

Tam Phong cũng ứa nước mắt ra chấp tay vái hành lễ.

Vô Kỵ nghĩ đến trận đấu giữa chàng với Không Tín ở trên Quang Minh Ðỉnh, chàng thấy Không Tín Thần tăng khẳng khái lỗi lạc hào khí hơn người, quả thật là một tôn sư của phái Thiếu Lâm không ngờ lại bị kẻ gian giết hại như vậy!

Chàng càng nghĩ càng đau lòng vô cùng, liền ngẩng đầu nhìn đi chỗ khác, không dám nhìn thủ cấp của Không Tín nữa.

Tam Phong thấy Không Tướng phục mãi ở dưới đất không chịu đứng dậy, khóc lóc thảm thiết nên Trương Chân nhân giơ tay ra đỡ hòa thượng đó và an ủi rằng:

– Không Tướng sư huynh! Thiếu Lâm và Võ đang vốn là một nhà, thù này thế nào cũng phải trả!…

Chân Nhân vừa nói tới đó, mọi người đều nghe thấy tiếng \”bùng\” một tiếng, thì ra Không Tướng hòa Thượng đã dùng chưởng đánh mạnh vào bụng của Chân Nhân!

Biến cố xảy ra đột ngột , Trương Tam Phong võ công rất cao siêu tuy đã luyện tới mức tòng tâm xứ dụng, nhưng có ngờ đâu Thiếu Lâm cao tăng đang mang mối huyết cừu rất lớn ở xa đến báo tin mà lại bỗng dưng đánh lén minh như vậy. Thoạt tiên Chân nhân còn hiểu lầm Không Tướng vì quá đau khổ, tâm trí mê mẩn nên mới tưởng lầm mình là kẻ địch, nhưng Chân nhân nghĩ lại biết sự ước đoán của mình là sai lầm vì Không Tướng đã giở hết toàn lực ra tấn công và vẻ mặt của y còn có vẻ gian xảo nữa!

Vô Kỵ, Ðại Nham, Thanh Phong ba người thấy sự biến cố đột ngột như vậy ai nấy đều kinh hãi, đứng ngẩn người ra.

Ðại Nham vì tàn tật không thể nào tiến lên giúp đỡ sư phụ mình một tay được.

Vô Kỵ tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm nên nhất thời chàng không lãnh hội nổi âm mưu của Không Tướng, hai bàn tay vẫn dí vào bụng của Thái sư mình, định dồn sức mạnh sang để giết chết Chân Nhân. Trong lúc chàng với Ðại Nham thất kinh kêu la thì Trương Chân nhân đã dùng tả chưởng khẽ đánh vào đầu Không Tướng một cái \”bộp\”. Chưởng đó của Chân nhân tuy trông thì mềm nhưng thật ra thì còn lại cứng hơn sắt, đầu óc của kẻ địch vỡ tan, ác tăng đã mềm nhũn như bún, ngã ngay ra đất, không hạ được một tiếng, ngã ngất ra chết.

Nên rõ, Trương Tam Phong tu luyện hơn trăm năm công lực đã thông thần, Không Tướng tuy là cao thủ hạngn hất trong võ lâm thật, nhưng y làm sao mà chịu cho nổi chưởng đó của Chân nhân?

Ðại Nham vội hỏi:

– Sư phụ…

Tam hiệp vừa nói tới đó đã thấy Tam Phong nhắm mắt ngồi xuống, giây phút sau, trên đỉnh đầu của Chân nhân có khói trắng bốc lên.

Ðại Nham và Vô Kỵ biết Tam Phong dùng nội công để chữa thương.

Tiếp theo đó Trương Chân nhân hộc luôn mấy bún máu tươi.

Vô Kỵ đứng cạnh thấy vậy kinh hãi vô cùng, biết Thái sư phụ mình bị thương rất nặng. nếu ông ta thổ ra huyết đen thì hãy tin nội công của ông ta thâm hậu, chỉ năm ba ngày là bình phục liền, nhưng bây giờ Chân nhân lại thổ ra huyết tươi và thổ ra liên tiếp như vậy đủ thấy tạng phủ bên trong bị thương rất nặng.

Trong lúc đó Vô Kỵ đã nghĩ:

– Có nên tỏ rõ thân phận của mình ra cho mọi người hay để rồi cứu Thái sư phụ không?

Vì lúc ấy, chàng nghe thấy ngoài cửa có tiếng chân của đạo sĩ đó rất cấp bách, đủ thấy tâm thần của y hỗn loạn vô cùng!

Nhưng đạo sĩ đó cũng không dám đương nhiên đương nhiên bước vào và cũng không dám lên tiếng hỏi.

Ðại Nham vội cất tiếng hỏi vọng ra:

– Có phải là Tang Huyền đấy không à? Việc gì thế!

Tạng Huyền đáp:

– Thưa Tam sư thúc! một số kẻ địch khá đông đã tới ngoài quan, tên nào tên đều ăn mặc theo. Ma giáo chúng đòi yết kiến Võ sư gia! Ðồng thời, chúng còn nói phải đạp bằng phái Võ Ðang của chúng ta…

Ðại Nham quát lớn:

– Câm mồm!

Tam Hiệp sợ Trương Tam Phong nghe được tin đó thì thế nào cũng lo ngại mà khích động đến vết thương.

Tam Phong từ từ mở mắt ra nói:

– Kim Cương Ban Nhược chưởng của phái Thiếu Lâm quả thật lợi hại vô cùng! Vết thương này của ta phải tịnh dưỡng ba tháng mới mong lành mạnh được!

Vô Kỵ thầm nghĩ:

– Không ngờ vết thương của Thái sư phụ còn trầm trọng hơn là ta tưởng tượng!

Tam Phong lại nói tiếp:

– Minh Giáo đem đại đội binh mã lên núi, đủ thấy chúng đã có chuẩn bị trước mới tới! Há!… Không biết Viễn Kiều, Liên Châu các người có được bình yên không? Ðại Nham! Con nghĩ xem nên đối phó như thế nào cho phải?

Ðại Nham im lặng không nói năng gì cả, vì y biết trên núi Võ Ðang này hiện giờ chỉ có một mình sư phụ với mình là có võ công cao siêu thôi! Còn những đệ tử khác đều thuộc đời thứ ba thứ tư võ công rất tầm thường, nếu để chúng đối phó với kẻ địch thì không khác gì xúi giục chúng dấn thân vào chỗ chết. Câu chuyện ngày hôm nay mình đành phải xả thân thí mạng mà đối phó với kẻ địch để sư phụ của mình lánh ra ngoài xa mà dưỡng thương.

Như vậy, sau này mới mong trả được mối thù lớn này.

Tam hiệp suy tính xong, liền lớn tiếng ra lệnh:

– Tạng Huyền! Con mau ra trả lời cho bọn người đó hay rằng ta sẽ ra ngay để gặp chúng! mời chúng hãy vào trong Tam Thanh Ðiện ngồi chờ trong chốc lát.

Tạng Huyền vâng lời đi ngay.

Tam Phong với Ðại Nham ở với nhau lâu năm tâm ý của hai thầy trò rất tương thông nên Chân nhân nghe thấy Ðại Nham nói như vậy đã biết học trò mình định như thế nào rồi, nên Chân nhân liền lên tiếng dặn bảo người đồ đệ đó rằng:

– Ðại Nham! Sinh tử, vinh nhục không nên coi trọng cho lắm. Ðừng có vì thế mà làm tiêu diệt võ công tuyệt học của phái Võ Ðang chúng ta. Ta toạ quan mười tám tháng trời đã nghĩ ra một pho Thái Cực Kiếm! Bây giờ để ta truyền thụ hai món võ công đó cho con!

Ðại Nham ngẩn người ra nghĩ thầm:

– Ta tàn phế đã lâu, học làm sao được quyền pháp, kiếm pháp gì nữa, huống hồ bây giờ kẻ địch đã vào đến cửa thì làm gì còn có đủ thời giờ mà học hỏi hai môn võ công ấy nữa?

Nghĩ đoạn, Tam Hiệp chỉ nói được mấy tiếng:

– Thưa sư phụ…

Tam Phong thấy vậy tủm tỉm cười và nói:

– Bí quyết của pho quyềt thuật này tối kỵ dùng sức, phải hình thành hợp nhất, như vậy mới đạt mức tối cao của quyền thuật.

Chân Nhân giải thích thêm lần nữa cho Ðại Nham nghe.

Ðại Nham đứng cạnh chỉ lắng ghe chứ không dám nói nửa lời vì Ðại Nham biết thời gian rất cấp bách, không còn thời giờ hỏi han nên có nhiều chỗ Tam hiệp chưa hiểu thấu vẫn cố gắ`ng ghi nhớ những khẩu khuyết, vì y sợ nếu sau này sư phụ có mệnh hệ nào thì y có thể đọc lại những khẩu khuyết đó cho những người thông minh tài ba hơn mình để họ tự lãnh hội lấy.

Vô Kỵ hiểu biết hơn Ðại Nham nhiều vì y chính Càn Khôn Ðại Nã Di cũng giống Thái cực Quyền đều là mượn sức đánh sức, tuy pháp môn khác nhau nhưng cùng chung một ý chí nên mỗi khi Tam Phong nói tới một vài thế võ chàng còn nghĩ ra trước được.

Tam Phong thấy Ðại Nham có vẻ ngơ ngác vội hỏi:

– Con hiểu được mấy thành?

Ðại Nham đáp:

– Ðệ tử ngu dốt chỉ hiểu được ba bốn thành mà thôi! Nhưng khẩu khuyết và các thế võ con đều nhớ hết!

Tam Phong nói tiếp:

– Con nhớ được như thế và hiểu được như vậy cũng là đã gắng công lắm rồi! Nếu Viễn Kiều có ở đây thì rhế nào y cũng hiểu được năm thành. Hà!… Ngũ sư đệ của con thông minh nhất, nhưng tiếc thay y lại chết sớm. Ta chỉ dạy y thì y có thể truyền thụ được hết tuyệt học của ta.

Vô Kỵ nghe thấy Thái sư phụ nhắc đến cha mình thì đau lòng ứa lệ.

Chân Nhân định giải thích tiếp, đã nghe tiếng nói già dặn từ Tam Thanh Ðiện vọng tới:

– Trương Tam Phong lão đạo rụt đầu rụt cổ, không chịu ra mặt. Ta sẽ giết chết đồ tôn đồ tử của y trước.

Lại giọng người khác rất thô lỗ xen lời nói:

– Phải đấy! Chúng ta hãy dùng lửa thiêu rụi Ðạo quan này đi rồi hãy nói chuyện sau.

Lại có một người thứ ba với giọng như thế cũng lên tiếng:

– Ðốt chết lão đạo sĩ như vậy thì thật là hên cho y quá! Chúng ta phải bắt sống, trói chân y lại đem đi các môn phái để du hành thị chúng.

Tiểu viện ở phía sau núi cách đại viện ở phía trước núi chừng hơn dặm.

Những lời nói của mấy người đó vọng vào phía sau núi rất rõ ràng.

Ðại Nham nghe kẻ địch nhục mạ tôn sư thì tức giận, hai mắt đỏ ngầu như đổ lửa.

Tam Phong thấy vậy, liền hỏi:

– Ðại Nham ta dặn con những gì. Chẳng lẽ con quên rồi hay sao? Việc nhỏ mọn như thế mà con không nhịn được thì con gánh trọng trách việc lớn sao nổi?

Ðại Nham đáp:

– Vâng, con xin tuân lời tôn sư dạy.

Tam Phong lại tiếp:

– Con đã tàn phế rồi, kẻ địch không đề phòng con đâu. Con chớ nóng nảy làm chi. nên môn tuyệt kỷ mà ta đã khổ tâm sáng tạo, không truyền được lại cho hậu thế, thì con sẽ là người có tội lớn.

Ðại Nham nghe sư phụ nói như vậy, toát mồ hôi. y biết sư phụ dạy y phải nhẫn nhục chịu đựng, để truyền được môn tuyệt kỹ cho đời sau.

Tam Phong lấy đôi tượng La Hán bằng sắt đưa cho Ðại Nham và tiếp:

– Không Tướng vừa nói phái Thiếu Lâm đã bị tuyệt diệt không biết tin đó có thật hay không? Y là cao thủ của phái Thiếu Lâm mà còn đầu hàng kẻ địch, tới đây ám hại ta. Như vậy phái Thiếu Lâm tất cả ngộ đại nạn rồi , đôi thiết La Hán này là của Quách Tường, Quách Thiếu hiệp tặng ta hồi trăm năm trước đây. Sau này con trao trả cho người truyền thụ của phái Thiếu Lâm và cũng mong phái đó nhờ đôi thiết La Hán này mà còn được một học nghệ của phái Thiếu Lâm chính tông.

Hồi thứ 60

Dọc Ðường Gặp Gỡ

Nói xong, Chân Nhân phất tay áo một cái rồi đi ra ngoài.

Ðại Nham vội bảo Vô Kỵ với Minh Nguyệt rằng:

– Khiêng ta theo sư tôn.

Minh Nguyệt và Vô Kỵ vội khiêng Ðại Nham theo Tam Phong.

Bốn người đi tới Tam Thanh Ðiện đã thấy trong điện có ba bốn trăm người hoặc ngồi hoặc đứng.

Tam Phong đi vào giữa bọn người đó, chắp tay vái chào, rồi đứng yên, không nói năng gì hết. Ðại Nham liền lớn tiếng nói:

– Vị này là sư tôn Trương Chân Nhân của chúng tôi. Các vị lên núi Võ Ðang đông đảo như vậy, chẳng hay có việc gì thế?

Ðại danh của Tam Phong oai trấn võ lâm, mọi người đều trố mắt lên nhìn thấy cụ già mặc áo vải xám râu tóc bạc phơ thân hình cao lớn, không có vẻ gì khác lạ cả.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn những người đó, thấy nửa số những gười đó mặc quần áo của Minh Giáo. Chỉ mười mấy người đi đầu là mặc áo riêng của họ thôi. Có lẽ những người đó vì có địa vị khá cao, nên không muốn giả dạng người của phái khác.

Mấy trăm người đó, có cao có lùn, có tăng và cả tục.

Bỗng ngoài cửa có người truyền bảo rằng:

– Giáo chủ tới.

Mọi người trong điện nghe tiếng truyền báo đều yên lặng.

Mười mấy người lãng đầu vội chạy ra ngoài điện nghinh đón.

Các người khác cũng rảo bước theo ra.

Chỉ trong thoàng cái mấy trăm người đã ra hết ngoài điện.

Một lát sau, Vô Kỵ lại nghe bước chân của mười mấy người đi tới điện thì ngừng. Chàng nhìn ra bên ngoài thấy tám người khiêng một kiệu bọc đoạn vàng đi tới. Ngoài ra còn có bảy tám người tiền hô hậu ủng, khi những phu kiện đặt kiệu xuống. Vô kỵ nhận rõ tám người phu đó không phải là ai xa lạ, chính là Thần Tiển Bát hùng của Lục liễu trang. Chàng kinh ngạc vô cùng, nhưng đã nghĩ ngay ra một kế, vội xoa tay xuống đất rồi bôi lên mặt.

Minh Nguyệt thấy chàng làm bộ mặt xấu xí thì bật cười, kinh hoảng. Y tưởng chàng thấy đại địch đã tới, mới phải làm như thế.

Y cũng bắt chước Vô Kỵ bôi đất cát lên mặt.

Hai đạo đồng đang xinh đẹp bỗng hòa ra hai thằng lọ lem và không ai có thể nhận ra bộ mặt thật của hai người nữa.

Mọi người thấy tấm màn ở trước kiệu vén lên. Bên trong, một thiếu niên công tử mình mặc áo bào trắng có thêu bó đuốc đang cháy của Minh Giáo, bước ra. Chàng ta chính là Triệu Minh, nữ cải nam trang.

Triệu Minh đi thẳng vào trong điện, Thần Tiển Bát Hùng đứng ở bên ngoài chờ đợi. Chỉ có mười mấy nhân vật thủ lãnh đi theo nàng vào trong điện thôi.

Một người co lớn vạm vỡ bước tới cung kính vái chào nàng và nói:

– Thưa Giáo chủ, lão đạo sĩ này là Trương Tam Phong của phái Võ Ðang. Người tàn phế kia là Dư Ðại Nham, đệ tử thứ ba của y.

Triệu Minh gật đầu, cụp cái quạt giấy đang phe phẩy lại, rồi tiến lên mấy bước, cung kính vái chào rồi nói:

– Hậu sinh là Trương Vô Kỵ, người chấp chưởng Minh Giáo. Ngày hôm nay hậu sinh rất may mắn được chiêm ngưỡng một vị Thái Sơn Bắc Ðẩu trong võ lâm.

Vô Kỵ vừa kinh hãi vừa tức giận, liền chửi thầm:

– Con nhãi này dám mạo nhận giáo chủ của Minh Giáo, táo bạo thật. Tội này ta còn tha thứ cho được chứ tội mạo nhận ta lên đây lừa dối Thái sư phụ thì ta không thể tha thứ cho nó được?

Tam Phong thấy thiếu niên nọ tự nhận là Trương Vô Kỵ cũng ngạc nhiên vô cùng, liền nghĩ thầm:

– Sao Giáo chủ của Minh Giáo lại là một thiếu nữ xinh đẹp như thế? Và tên họ của nàng sao lại y như tên họ của cháu Vô Kỵ ta?

Chân Nhân nghĩ đoạn, liền chắp tay đáp lễ và trả lời:

– Không biết đại gia của Giáo chủ giáng lâm, nên không kịp ra nghênh đón, mong Giáo chủ thứ lỗi cho lão.

Triệu Minh vội đáp:

– Tôi không dám.

Tạng Huyền, đạo sĩ tri khách, dẫn các đạo đồng bưng nước ra mời khách uống.

Một mình Triệu Minh ngồi ở ghế giữa. các thủ hạ buông xuôi tay đứng ở phía sau nàng, nơi thật xa.

Trương Tam Phong là người tu luyện hàng trăm năm nên rất khiêm tốn và không bao giờ bị những việc bên ngoài làm rối trí cả, nhưng tình thầy trò vẫn không sao dứt được, Chân Nhân rất lo ngại đến sự an nguy, và sống còn của bọn Viễn Kiều.

Vì vậy Chân Nhân mới lên tiếng hỏi:

– Mấy tiểu đồ không tự lượng sức của mình, đã đi theo các giáo phái khác lên quý giáo để lãnh những thế võ cao siêu, nhưng tới giờ vẫn chưa thấy chúng trở về. Không hiểu hiện giờ chúng ở đâu, mong Trương giáo chủ cho bần đạo được hay rõ tin tức của chúng.

Triệu Minh cười khúc khích đáp:

– Tống Ðại hiệp, Dư Nhị hiệp, Trương Tứ hiệp và Mạc Thất hiệp bốn vị đang ở trong bổn giáo. Bốn vị ấy chỉ bị thương xoàng thôi, chớ không nguy hiểm tới tánh mạng.

-Bị thương xoàng ư? Có phải chúng đã ngộ phải một chất độc không?

– Trương Chân Nhân có vẻ tự phụ võ học của phái Võ Ðang lắm. Nếu Chân Nhân bảo mấy vị đó trúng độc thì mấy vị ấy coi như bị trúng độc rồi.

Trương Tam Phong biết rõ võ công của mấy người đệ tử là bảo thủ hạng nhất đương thời thì dù họ có quả bắt địch chúng đi nữa, trong bọn họ thế nào cũng có người thòat thân báo tin. Nay bốn người đều bị bắt giữ, tất nhiên họ phải trúng độc vì không phòng được.

Triệu Minh thấy Chân Nhân đã đoán trúng, nàng không giấu giếm nữa, liền nói trắng ra cho Chân Nhân hay.

Tam Phong lại hỏi:

– Thế còn tiểu đồ họ Hân của bần đạo đâu?

Triệu Minh thở dài đáp:

– Hân lục hiệp bị trúng mai phục của phái Thiếu Lâm, nên cũng bị như Dư Nham hiệp vậy. Chân tay của Lục hiệp bị môn đồ của Thiếu Lâm dùng đại lực kim cương chỉ đánh gãy. Tuy không thể chết được, nhưng từ giờ trở đi không sao cử động được nữa..

Tam Phong thấy sắc mặt của Triệu Minh rất đúng đắn biết ngay lời nói đó không ngoa.

Chân Nhân đau lòng khạc ngay một đống máu tươi.

Những người đứng phía sau Triệu Minh nhìn nhau tỏ vẻ mừng rỡ. Chúng biết Không Tướng đã đánh lén được, nên vị cao nhân của phái Võ Ðang này đã bị trọng thương. Bây giờ chúng thấy cường địch đã bị thương nặng, không còn sợ hãi gì nữa.

Triệu Minh lại lên tiếng:

– Tôi còn một lời xin thưa, không biết Trương Chân Nhân có chịu nghe không?

Mời Giáo chủ cứ việc nói.

– Khắp thiên hạ này đều là đất của nhà vua, người sống trong lãnh thổ này đều là vương thần của nhà vua nốt. hoàng đế Mông Cổ chúng tôi oai trấn bốn bể, nếu Trương Chân Nhân chịu giúp sức cho hoàng Thất, nhà vua sẽ ban phong và thưởng châu báu rất hậu. Như vậy phái Võ đang cũng được rạng rỡ thêm, mà Tống đại hiệp các người sẽ được bình yên vô sự trở về núi Võ Ðang này ngay.

Tam Phong ngẩng đầu nhìn lên sà nhà và đáp:

– Tuy xưa nay Minh Giáo vẫn có nhiều hành động bất nghĩa nhưng vẫn là của nhà Nguyên. Không hiểu quý giáo quy hằng người Mông Cổ từ hồi nào thế? Lão đạo sĩ này ẩn núp trên núi hoang nên không hay biết gì cả.

-Cổ nhân đã dạy, kẻ thức thời mới là tuấn kiệt, phái Thiếu Lâm từ Không Văn, Không Trí cùng các thần tăng trở xuống, người nào người nấy đều tập trung giúp sức cho triều đình. Bổn giáo thấy đại thể xu hướng như vậy, cũng phải theo đòi hiền sĩ hào kiệt của thiên hạ đấy thôi.

Tam Phong hai mắt sáng như điện, nhìn thẳng vào mặt Triệu Minh nói tiếp:

– Người Nguyên tàn bạo, giết hại không biết bao nhiêu dân chúng, hiện giờ quần hùng trong thiên hạ đang nổi dậy định xua đuổi quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi, để cướp lại giang sơn gấm vóc của ta. Chúng đều là con cháu hoàng đế, ai mà chả có lòng muốn đuổi quân Hồ ra khỏi bờ cõi. Ðó mới là xu hướng của đại thể. Bần đạo tuy là người đi tu thật, nhưng cũng hiểu thế nào là đại nghĩa.

Không Văn, Không Trí là những thần tăng đương thời, có khi nào họ chịu khuất phục dưới bạo lực như vậy. So lời nói của cô nương lại điên rồ như thế?

Một người thân hình vạm vỡ đang ở phía sau lưng Triệu Minh đột nhiên bước ra lớn tiếng quát hỏi:

– Bớ lão đạo sĩ kia, ăn nói không biết cân nhắc chút nào. Phái Võ Ðang sắp bị tiêu diệt trong nháy mắt mà ngươi không biết sợ sao? Chẳng lẽ hơn trăm đạo sĩ và đệ tử ở trên núi này cũng không sợ chết hay sao?

Lời nói của người đó rất lớn, thân hình vạm vỡ dáng điệu lại oai vệ.

Tam Phong cũng lớn tiếng đáp:

– Người nào cũng ở trên đời rốt cuộc cũng phải chết, chết mà được lưu danh thiên cổ chẳng hơn là di sú vạn niên hay sao?

Nói xong, Chân Nhân đưa mắt liếc Ðại Nham và nghĩ thầm:

– Ta chỉ mong cho phái cực quyền có thể lưu truyền hậu thế. Nhưng há vì thế mà chịu khuất phục bọn Thát Ðát hay sao?

Triệu Minh giơ bàn tay trắng như ngọc lên khẽ phất một cái, người nọ cúi đầu vái chào, lui ngay về phía nàng. Nàng lại vừa cười vừa nói tiếp:

– Nếu Trương Chân Nhân cố chấp như vậy chúng ta tạm ngừng và không nói đến vấn đề đó nữa. Xin mời quý vị hãy theo tôi.

Nói xong, nàng đứng dậy, bốn người ở phía sau nàng chạy đến quây quần lấy Trương Tam Phong, bốn người đó một là đại hán vạm vỡ cao lớn, một người ăn mặc rách rưới là cao thủ của Cái bang, một người tuy gầy, nhưng rất cao là một hòa thượng, còn người thứ tư là một thiếu phụ trung niên.

Vô Kỵ vừa thoàng trông đã nhận ra bốn người đó có võ công rất cao siêu, nên chàng kinh hãi vô cùng và nghĩ thầm:

– Sao con bé này có lắm thủ hạ cao cường như thế?

Chàng thấy, Trương Tam Phong không chịu theo Triệu Minh thì bốn người kia thế nào cũng ra tay bắt đi, chàng liền nghĩ tiếp:

– Cao thủ của kẻ địch nhiều quá như vậy, đồng thời bọn chúng lại gian trá vô sỉ, chứ không như sáu đại môn phái lên vây đánh Quang Minh Ðỉnh đâu. Dù ta có đánh bại mấy người trong bọn chúng cũng không chịu thua hẳn và thế nào chúng cũng xông cả lên vây đánh một lúc. Nói tóm lại, ta khó mà bảo vệ được cả Thái sư phụ và Tam sư bá một lúc nhưng việc đã xảy ra như vậy, ta chỉ còn một cách là giở hết tài bara thi với chúng một phen, chứ không còn cách gì hoàn toàn hơn nữa.

Nghĩ đoạn, chàng đang định xông ra ngăn cản bốn người kia.

Bỗng nghe thấy ngoài cửa có tiếng cười rất dài, và rất rùng rợn. Rồi chàng thấy một bóng người xám xanh lẻn vào, nhanh như bóng ma. Chỉ thoáng cái, người đó đã lướt tới phía sau người vạm vỡ kia và giở chưởng đánh luôn. Người đó võ công cũng lợi hại lắm, biết có kẻ địch đánh lén, liền trái tay định đỡ luôn chưởng của kẻ địch. Ngờ đâu bóng xanh đã xoay tay nhằm vai thiếu nữ nọ đánh luôn. Thiếu phụ đó vội nhảy sang bên tránh né và giở chân lên đá vào bụng địch thủ. Người kia lại tấn công nhà sư. Chỉ trong thoàng cái, người ấy đã liên tiếp đánh luôn bốn chưởng và tấn công luôn bốn đại cao thủ.

Tuy chưởng của người đó không đánh trúng một ai cả, nhưng cũng đủ thấy thủ pháp của hắn cao siêu không thể tưởng tượng được. Bốn người nọ biết người áo xanh kia là kình địch, liền nhảy lui mấy bước, đứng lấy thế để tiếp chiến.

Người áo xanh đứng cạnh Tam Phong, không thèm đếm xỉa đến địch thủ, mà y chỉ cúi mình khẽ chào Trương Chân Nhân và nói:

– Hậu bối Vi Nhất Tiếu là toạ hạ của Trương Giáo chỉ Minh Giáo đến đây tham kiến Trương Chân Nhân.

Thì ra người đó chính là Vi Nhất Tiếu, y thoát được vòng vây của kẻ địch, liền rảo bước chạy tới núi Võ Ðang này.

Tam Phong nghe thấy người đó tự xưng là bộ hạ của Trương Giáo chủ Minh Giáo lại tưởng y là người cùng đàng với Triệu Minh.

Sở dĩ người ấy ra tay đánh lui bọn cường địch như vậy chắc thế nào cũng có âm mưu gì khác đây, nên Chân Nhân lạnh lùng đáp:

– Vi Tiên sinh khỏi phải đa lễ như vậy. Lão đạo vẫn mộ danh khinh công tuyệt đỉnh của Thanh Vực Bức Vương đã lâu. Ngày hôm nay bần đạo mới được mục kích, quả thật danh hu bất truyền.

Nhất Tiếu mừng rỡ vô cùng, vì y ít khi vào đến Trung Nguyên xưa nay tiếng tăm không được lừng lẫy như người khác. Y không ngờ Trương Tam Phong lại biết khinh công của mình lợi hại như vậy, nên y sung sướng vô cùng, liền cúi đầu chào và nói tiếp:

– Trương Chân Nhân là Thái Sơn Bắc Ðẩu của Võ lâm, hậu bối được khen một lời như vậy, quả thật vinh hạnh vô cùng.

Nói xong, y quay lại chỉ vào mặt Triệu Minh và quát hỏi:

– Triệu cô nương, sao cô nương lén lút mạo nhận Minh Giáo chúng tôi, để làm mất tiếng tăm của bổn giáo đi. Chẳng hiểu cô nương làm như thế có dụng ý gì? Là đại trượng phu hà tất phải nham hiểm độc ác như thế làm chi?

Nhất Tiếu vừa nói xong, Triệu Minh đã khúc khích cười và đáp:

– Ta có phải là đàn ông đâu mà ngươi bảo ta nam nhi đại trượng phu? Còn ta nham hiểm ác độc thì đã sao nào? Ngươi có làm gì ta được không?

Vì nói sai câu đó Nhất Tiếu bị Triệu Minh bắt bẻ, không biết trả lời ra sao cho phải. Y ngẩn người ra giây lát rồi mới nói tiếp:

– Chẳng hay các vị là người thế nào? Sao tấn công hết Thiếu Lâm rồi lại quấy nhiễu Võ Ðang như thế? Nếu quý vị có oán thù gì với Thiếu Lâm và Võ Ðang, quý vị cứ việc thẳng tay đối phó với hai môn phái đó. Minh Giáo chúng tôi không bao giờ can thiệp tới.

Nhưng bây giờ quý vị đã mạo danh Minh Giáo chúng tôi và còn giả dạng giáo chúng của bổn giáo. Như vậy, Nhất Tiếu này không thể nào không lý đến được.

Triệu Minh nói với người to lớn vạm vỡ kia rằng:

– Ngươi đã nghe thấy y nói khòac chưa. Ngươi thử đấu với y vài hiệp xem y có thực tài thực học không?

Người đó vâng lời, liền tiến tới giữa đại diện lên tiếng nói với Nhất Tiếu rằng:

– Vi Bức Vương, tại hạ muốn lãnh giáo môn Hàn Băng Miên chưởng của bạn.

Nhất Tiếu kinh ngạc và nghĩ thầm:

– Tại sao người này biết môn Hàn Băng Miên chưởng của ta? Y đã biết ta có môn tuyệt kỹ đó mà còn dám khiêu chiến, đủ thấy y là một tay kình địch, ta không nên xem thường.

Nghĩ đoạn, y vỗ song chưởng một cái rồi hỏi lại:

– Các hạ làm ơn cho biết quý danh.

Người nọ đáp:

– Chúng tôi đã mạo nhận Minh Giáo tới đây, chẳng lẽ còn mang tên thật ra nói cho mọi người biết hay sao? Bức Vương hỏi tôi như vậy kể cũng hơi ngu.

Mười mấy người đứng sau Triệu Minh nghe người nọ nói như vậy liền cười rộ lên.

Nhất Tiếu lạnh lùng nói tiếp:

– Phải, tôi hỏi như vậy đúng là ngu xuẩn. Các hạ cam làm chó săn cho Mông Cổ, làm nô bộc cho người ngoài, nên các hạ mới dấu danh tánh như vậy. Vì cho người ta biết tên họ sẽ làm nhục cả tổ tiên đấy.

Người nọ tức giận múa chưởng xông lại, nhằm ngực Nhất Tiếu đánh luôn.

Bức Vương tránh sang bên và vòng ra phía sau kẻ địch, giơ ngón tay lên, điểm luôn vào yếu huyệt của đối thủ. Y không giở Hàn Băng Miên chưởng ra trước để coi tài ba của địch ra sao đã.

Người đó vội nhảy về phía trước tránh né rồi quay trở lại phản công.

Bức Vương nhìn bàn tay của đối thủ, thấy hai gan bàn tay đỏ như lửa liền nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ võ công của y là Châu sa thất sát chưởng mà ta nghe nói thất truyền từ lâu rồi chăng? Người này là ai thế? Sao y lại biết sử dụng quyền pháp kỳ lạ này?

Thấy chưởng lực của đối phương càng đánh càng lợi hại.

Nhất Tiếu biết nội công của mình tuy được Vô Kỵ chữa cho khỏi rồi, nhưng vì vết thương mới khỏi, liền gặp cường địch ngay, nên y không dám khinh thường địch thủ.

Ðồng thời y cũng giở Hàn Băng Miên chưởng ra đối phó. Chưởng thế của hai người chậm dần và dần dần đi tới mức đấu nội lực với nhau.

Ðột nhiên có tiếng kêu “hừ”, ở cửa giữa có một vật đen thui ném vào, nhằm người tên vạm vỡ kia phi tới.

Vật đó to hơn túi đựng gạo, mọi người đều ngạc nhiên, sao lại có thứ ám khí to lớn và kỳ dị đến thế? Người to lớn vạm vỡ, vận sức dùng chưởng đánh vật đó bắn ra ngoài xa hơn trượng. Nhưng y thấy vật đó mềm nhũn, không hiểu là vật gì hết, chỉ nghe có tiếng kêu “ối chà” rất thảm khốc thôi.

Lúc ấy mọi người mới hay trong túi có người bị nhốt, nay người đó bị đánh trúng Chu Sa Thất sát chưởng lợi hại như vậy, thế nào cũng bị đứt gân và gãy xương mất.

Người nọ ngạc nhiên vô cùng va bỗng thấy thân hình rung động một cái. Thì ra lúc y đang ngạc nhiên, Nhất Tiếu đã lẳng lặng lén tới phía sau lưng đánh một thế Hàn Băng Miên Chưởng vào chỗ khớp xương rồi.

Y vừa kinh hãi vừa tức giận, quay người trở lại, vận hết sức lực vào bàn tay, nhắm Nhất Tiếu đánh luôn một chưởng.

Ngờ đâu Nhất Tiếu chỉ ha hả cười chớ không thèm tránh né. Người nọ vừa đánh tới lưng chừng đã thấy cánh tay mềm nhũn, khôn có sức.

Dù chưởng của y đã đánh trúng đầu óc của Nhất Tiếu rồi, nhưng vì tay đã mất sức, nên tựa như y gãi ngứa cho Nhất Tiếu thôi.

Thì ra Hàn Băng Miên Chưởng của Nhất Tiếu đã xâm nhập vào trong thân thể của đối thủ, nên đối phương bị mất hết sức liền.

Mọi người đứng quanh đó thấy vậy đều kinh hãi vô cùng, vì nếu người vạm vỡ kia còn đũ sức chống lại được Hàn Băng Miên chưởng nhất thời chưa bị mất hết hơi sức, thì cái đánh của y đã đập vỡ tan sọ Nhất Tiếu rồi.

Nhưng Nhất Tiếu suốt đời hành sự, đểu luôn luôn kỳ lạ như vậy, y dám làm tất cả những gì mà khác không ai dám làm như thế cả.

Lúc ấy cao thủ của Cái Bang đã xé cái túi vải và kéo một người ra.

Người đó đạ bị Chu Sa Thất Sát chưởng đánh chết rồi.

Người ấy quần áo cũng rách rưới, chính là đệ tử của Cái Bang.

Tên cao thủ Cái Bang nọ nổi giận quát lớn:

– Ai lại lén lút…

Y chưa nói dứt đã có một cái túi trắng úp chụp ngay vào đầu liền. Y định nhảy về phía sau tránh né, nhưng y đã thấy một hòa thượng to béo cười ha hả và nhảy ra đứng trước mặt y. Người đó chính là hòa thượng túi vải Nói Không Ðược. Cái túi Càn Khôn của y đã bị Vô Kỵ phá rách ở trên Quang Minh Ðỉnh bây giờ y phải làm tạm cái túi này để sử dụng. Nhưng túi này bằng sao được cái túi trước, vì túi trước của y đao kiếm chém không thủng. Khinh công của Nói Không Ðược tuy kém Nhất Tiếu một chút, nhưng cũng luyện tới mức rất cao siêu rồi. Chỉ vì giữa đường bị cản trở đôi chút, nên y mới đến muộn như vậy.

Nói Không Ðược cúi mình vái chào Tam Phong và nói:

– Thuộc hạ của Trương Giáo chủ của Minh Giáo Du Hành Tản Nhân hòa thượng Túi vải Nói Không Ðược tham kiến Võ Ðang chưởng giáo tổ sư Trương Chân Nhân.

Tam Phong đáp lễ và trả lời:

– Ðại sư ở xa tới chắc mệt nhọc lắm?

Nói Không Ðược nói tiếp:

– Quang Minh sứ giả, Bạch Mi Ưng Vương của Bạch Mi kỳ, bốn vị Tảng nhân, năm vị Kỳ sứ và các đoàn binh mã của tệ giáo đều tới núi Võ Ðang cả, mời Trương Chân Nhân cứ khoanh tay đứng cạnh đó xem Minh Giáo chúng tôi so tài với những quân vô sỉ tác oai tác quái và mạo danh tệ giáo.

Sự thật binh mã của Minh Giáo chưa tới kịp, y nói như vậy là cốt để dọa nạt đối phương đấy thôi. Nhưng Triệu Minh đã cau mày lo âu và nghĩ thầm:

– Sao bọn họ tới nhanh như thế? Ai đã tiết lộ tin bí mật này ra cho họ hay như vậy?

Nghĩ đoạn, nàng vội hỏi:

– Trương Giáo chủ của các người đâu? Hãy gọi ông ấy đến đây cho tôi gặp.

Nói xong, nàng đưa mắt nhìn Nhất Tiếu, vẻ mặt nghi ngờ. Hiển nhiên là nàng muốn hỏi Giáo chủ hiện giờ ở đâu?

Vô Kỵ vẫn đứng núp ở đằng sau Minh Nguyệt biết Nhất Tiếu và Nói Không Ðược vẫn chưa nhận ra mình, nên trong lòng mừng rỡ vô cùng.

Thấy Nhất Tiếu không trả lời, Triệu Minh nói tiếp:

– Một con dơi độc, một hòa thượng hôi thối thì làm trò trống gì được?

Nàng vừa dứt lời, thì ở góc sảnh phía Ðông đã có một người cười một tiếng thật dài và hỏi:

– Nói Không Ðược, Dương Tả Sứ đã tới chưa?

Tiếng nói của người đó vừa già dặn vừa hùng tráng, mọi người quay lại nhìn thì người đó chính là Ưng Vương Hân Thiên Chính.

Nói Không Ðược chưa kịp trả lời, ở góc sảnh bên phía Tây đã có tiếng cười của Dương Tiêu vọng lên.

Vừa vào tới khách sảnh Dương Tiêu đã cười và nói:

– Ưng Vương tuy lớn tuổi như vậy mà còn tráng kiện lắm, lão huynh đã tới trước đệ một bước.

Thiên Chính vừa cười vừa đáp:

– Dương Tả Sứ khiêm tốn quá, chúng ta cùng tới một lúc chớ có lẽ vì Tả Sứ nể mặt Trương Giáo chủ mà nhường nhịn lão đấy thôi.

-Sự thật là thế, hậu bối đã giở toàn lực ra mà vẫn chậm hơn một bước.

Thì ra hai người ở dọc đường đã so tài khinh công với nhau. Nội công của Thiên Chính thâm hậu hơn, còn khinh công của Dương Tiêu lại nhanh hơn, nên hai người mới tới một lúc như vậy.

Tam Phong nghe danh của Thiên Chính đã lâu, huống hồ Ưng Vương là bố vợ của Thúy Sơn, nên Chân Nhân tiến lên ba bước, chắp tay vái chào và nói:

– Trương Tam Phong cung kính nghênh đón đại giá của Hân huynh và Dương huynh.

Chân Nhân thắc mắc:

– Hân Thiên Chính là giáo chủ của Bạch Mi Giáo. Tại sao y lại bảo Dương Tiêu nể mặt Trương giáo chủ.

Hân, Dương hai người vội chắp tay vái chào đáp lễ Trương Tam Phong.

Chúng tôi ngưỡng mộ đại danh của Trương Chân Nhân đã lâu, nhưng chưa có duyên bái kiến. Hôm nay được yết kiến Chân Nhân, thật hân hạnh cho chúng tôi vô cùng.

Tam Phong đáp:

– Hai vị là tôn sư nhất thời và giáng lâm một lúc, thật vô cùng vinh hạnh cho Võ Ðang chúng tôi.

Triệu Minh thấy vậy càng tức giận vô cùng. Nhưng nàng thấy các tay cao thủ của Minh Giáo càng lúc càng tới đông. Tuy nàng chưa thấy Vô Kỵ nhưng nàng không dám ngờ lời nói của Nói Không Ðược là láo nữa. Nàng vừa đứng yên vừa suy nghĩ thầm:

– Ta bố trí trận thế và mưu kế chu đáo như thế, ngờ đâu bọn chúng lại tới kịp. Có lẽ kế hoạch của ta hôm nay khó mà thành công được. Mưu mô mãi mới đánh được Trương Tam Phong bị thương nặng, cơ hội hiếm có này quyết không có lần thứ hai đâu. Nếu ngày hôm nay ta không nhân dịp này mà quét sạch phái Võ Ðang thì Tam Phong lành mạnh lại càng khó khăn hơn nữa.

Nàng cười nhạt và nói:

– Trên giang hồ vẫn còn đồn đãi Võ Ðang là môn phái chính đại. Ngờ đâu tai nghe không bằng mắt thấy. Thì ra phái Võ Ðang đã ngấm ngầm liên kết với Ma Giáo và phải nhờ Ma Giáo chống chế cho. Như vậy đủ thấy võ công của phái Võ Ðang rất tầm thường.

Nói Không Ðược liền đỡ lời:

– Triệu cô nương thật là đàn bà trẻ con có khác. Khi Trương Chân Nhân nổi tiếng oai trấn võ lâm, có lẽ lúc ấy tổ phụ của cô còn chưa ra đời, huống hồ cô là một đứa con nít thì làm sao biết được?

Mười mấy người đứng sau Triệu Minh giận dứ tiến lên, lườm lườm nhìn Nói Không Ðược.

Y không tỏ vẻ gì sợ hãi cả, vừa cười, vừa nói:

– Các ngươi bảo ta không được nói những lời đó phải không. Nhưng các người có biết rằng tên ta là Nói Không Ðược không? Xưa nay lời nói của ta nói không được mà ta vẫn nói được. Như vậy, các người làm gì nào?

Tăng nhân gầy gò, thủ hạ Triệu Minh nổi giận nói với nàng rằng :

– Chủ nhân cho phép thuộc hạ cho tên lắm mồm lắm mép kia một bài học?

Nói Không Ðược liền la lớn:

– Hay Lắm! hay lắm! Sư hổ mang, chúng ta so tài với nhau một phen và mời Võ Ðang tôn sư Trương Chân Nhân chỉ dạy cho. Như vậy còn hơn là khổ luyện mười năm

Nói xong, y móc túi lấy túi lấy túi vải ra. Mọi người thấy y rút hết túi này đến túi khác và tự hỏi y có bao nhiêu túi nữa?

Triệu Minh khẽ lắc đầu đáp:

– Ngày hôm nay chúng ta đến lãnh giáo tuyệt học của phái Võ Ðang. Quý hồ người nào của phái Võ Ðang ta cũng sẳn sàng lãnh giáo. Nhưng không biết phái Võ Ðang có thực tài, thực học, hay chỉ hư danh thôi. Muốn biết rõ sự đó, cứ xem trận đấu ngày hôm nay là hiểu ngay. Còn Minh Giáo với chúng ta thì như tên Tiểu quỷ Trương Vô Kỵ, gian trá xảo quyệt, ta chỉ muốn lóc da lột xương y ra ta mới hả giận, nhưng thiếu gì thì giờ để xử trí với y.

Tam Phong nghe thấy Triệu Minh nói tiểu quỷ Trương Vô Kỵ, trong lòng ngạc nhiên vô cùng và tự hỏi:

– Chả lẽ Vô Kỵ là Giáo chủ của Minh Giáo hay sao mà nàng ta lại bảo y là tiểu quỷ?

Nói Không Ðược cười ha hả và đỡ lời:

– Trương Giáo chủ của bổn giáo là một thiếu niên anh hùng. Có lẽ Triệu cô nương còn nhỏ hơn Giáo chủ chúng tôi mấy tuổi, chi bằng cô nương lấy Giáo chủ chúng tôi thì lão hòa thượng này cho là rất xứng đấy…

Y chưa nói dứt lời, mười mấy người đứng phía sau Triệu Minh đã lớn tiếng quát mắng:

– Không được nói bậy.

Triệu Minh xấu hổ vô cùng, hai má đỏ bừng. Mặt nàng lúc này đẹp hơn trước nhiều. Sự thực nàng chỉ có ba phần tức giận và đến bảy phần bẽn lẽn. Nhưng chỉ trong thoàng cái mặt nàng đã biến thánh lạnh lùng và quay lại nói với Trương Tam Phong rằng:

– Trương Chân Nhân, nếu Chân Nhân không chịu ra tay đấu thì xin Chân Nhân chỉ nói một câu là phái Võ Ðang chỉ là môn phái hữu danh vô tài, xưa nay chỉ mang hư danh thôi. Như vậy chúng tôi chỉ vỗ tay một cái bỏ đi luôn, tha hết bọn chuột nhắt, như Viễn Kiều, Liên Châu cho Trương Chân Nhân.

Lúc ấy Thiết Quan Ðạo nhân, Hân Dã Vương, Chu Ðiện và Bành Doanh Ngọc cũng vừa vặn đến nơi. Thế là bên Minh Giáo lại tăng thêm bốn tay hảo thủ.

Triệu Minh suy tính biết hai bên có quyết chiến, bên mình cũng chưa chắc thắng. Ngoài ra, nàng còn lo ngại Trương Vô kỵ ra tay ám hại.

Triệu Minh đưa mắt nhìn các người của Minh Giáo một lượt và nghĩ thầm:

– Sở dĩ Tam Phong là một mối hoạ của Triều đình là do tiếng tăm lừng lẫy của y trót trăm năm nay. Y còn được võ lâm công nhận là Thái Sơn Bắc Ðẩu nũa. Tuy vậy y đã già nua như thế, chả sống được bao lâu nữa. Tuy vậy y chả cần phải giết chết y làm chi. Phen này chỉ cần làm cho phái Võ Ðang nhục nhã thì trong chuyến đi này kể như đã thánh công rực rỡ rồi.

Nghĩ đoạn, nàng lại nói tiếp:

– Chúng tôi đến viếng thăm Võ Ðang là muốn lãnh giáo võ công của Trương Chân Nhân thật hay giả. Nếu chúng tôi muốn đấu với Minh Giáo, chúng tôi tự biết đường lên Quang Minh Ðỉnh chứ cần gì đấu ở đây? Bây giờ muốn biết thực hư ra sao cũng không khó, tôi có ba người hầu theo tôi đã lâu, một tên học được mấy miếng quyền mềm xèo, một tên học được một chút nội công, một tên học được vài kiếm pháp giết heo chọc tiết chó.

Nói tới đó nàng quay lại phía sau gọi:

– Thằng Ðại, thằng Hai, thằng Ba mau ra đây. Quý hồ Trương Chân Nhân đánh té được ba người nhà vô dụng của tôi thì chúng tôi phục võ công của phái Võ Ðang đến sát đất. Và chúng tôi cũng công nhận oai danh của Võ Ðang quả thật danh bất hư truyền. Bằng không giang hồ sẽ có công luận, lúc ấy khỏi cần phải nói nhiều nữa.

Nói xong, nàng vỗ tay một cái, ba tên người nhà ở phía sau từ từ bước ra..

– Thằng Ðại là một ông già gầy gò, hai tay ôm một thanh trường kiếm, thanh kiếm đó đúng là Ỷ thiên kiếm. Người đó vừa lùn vừa bé nhỏ, mặt đầy nếp nhăn, cau mặt cau mày, hình như vừa bị đánh một trận thật đau. Thằng Hai cũng gầy gò như thế, nhưng cao hơn, đầu trọc lóc, hai bên thái dương lõm vào nửa tấc. Còn thằng Ba khoẻ mạnh vạm vỡ, trông rất oai vệ. Tam Phong, Thiên Chính, Dương Tiêu các người ngắm nhìn chúng môt hồi liền kinh hãi thầm.

Chu Ðiện vội lên tiếng hỏi:

– Triệu cô nương, ba người này đều nà những tay cao thủ thượng thặng trong võ lâm. Ngay như Chu Ðiên tôi còn địch không nổi bất cứ người nào trong bọn đó. Không hiểu vì sao chúng không biết xấu hổ, giả dạng người nhà, định ra đây đùa giỡn vối Trương Chân Nhân.

Triệu Minh liền hỏi lại:

– Chúng nó là những tay cao thủ thượng trong võ lâm ấy à? Sao tôi không hay biết chút nào, vậy tên chúng là gì thế?

Nghe nàng hỏi như vậy, Chu Ðiên không biết trả lời ra sao cho phải, nhưng y vẫn cười và đáp:

Vị này là nhất kiếm chấn thiên hạ. Ai thần quân. Vị này là Ðơn khí bá bát phương, sói đầu Thiên Vương, còn vị này thì thiên hạ ai ai cũng biết tên tuỗi là… là… Thần Quyền vô địch Mạnh Tôn Già.

Thấy Chu Ðiên khôi hài quá, Triệu Minh không sao nhịn được phì cười nói tiếp:

– Ba người này là người nhà thổi cơm, nấu nước, quét dọn cho tôi, chứ có phải là Thần Quân thiên vương, vì đâu. Trương Chân Nhân hãy đấu quyền với thằng Ba của tôi trước.

Người mà nàng gọi là thằng Ba tiến lên một bước, chắp tay vái chào và nói:

– Mời Trương Chân Nhân ra tay trước.

Khi y bước chân rtiến lên, mọi người nghe thấy dưới đất có một tiếng kêu “lách cách” ai nấy đều cúi đầu nhìn xuống dưới đất, mới hay y đã dẫm vỡ luôn ba viên gạch.

Dương Tiêu, Nhất Tiếu đưa mắt nhìn nhau và cùng nghĩ thầm:

– Tên này lợi hại thật.

Còn hai người tên Ðại và Hai đều từ từ lui về phía sau đầu vẫn cúi gầm, không ngó nhìn gì cả. Từ khi ba người này bước vào trong đại điện và đứng ở phía sau lưng Triệu Minh đến giờ, lúc nào cũng cúi gầm đầu xuống, nên không ai để ý tới chúng cả. Nay thấy chúng tiến lên mới hay chúng đều là tay cao thủ thuộc hạng tôn sư của một môn phái. Nhưng khi hai tên kia rút kui lại e dè sợ sệt, không khác gì hai tên đầy tớ vậy.

Thấy chúng như thế, Thiên Chính liền nghĩ thầm:

– Trương Chân Nhân đang bị thương nặng, dù Chân Nhân không bị thương đi chăng nữa, với tuổi già như vậy thì đấu quyền với những người này sao được? Xem bước đi của người này, đủ thấy y thuộc về về phái cương. Chi bằng ta ra đỡ cho Trương Chân Nhân một trận vậy.

Nghĩ đoạn, lão Giáo chủ liền lớn tiếng nói:

– Danh của Trương Chân Nhân cao quý biết bao, có khi nào Chân Nhân lại ra tay đấu với những kẻ tôi tớ như thế. Nếu Trương Chân Nhân hạ cố với những kẻ tôi tớ, thiên hạ sẽ chê cười ngay. Còn tên nô tỳ này có tài ba gì mà cũng đòi đấu với Trương Chân Nhân, ngay y đấu với lão phu đây, chưa chắc y đã chịu nổi một quyền hay một cái đá.

Không phải Thiên Chính không biết ba tên này là ba tên lợi hại. Sở dĩ lão anh hùng nói như vậy là muốn gánh vác việc so tài này.

Triệu Minh lại hỏi:

– Thằng Ba, trước kia tên là chi? Ngươi còn nhớ không? Ngươi hãy nói ra cho họ nghe, để xem có xứng đáng đấu với cao nhân phái Võ Ðang không?

Tên Ba đáp:

– Từ khi tiểu nhân được hầu hạ chủ nhân đến giờ đã không xử dụng tên tuổi cũ rồi, bây giờ nhờ chủ nhân có lệnh như vậy tiểu nhân không dám không nói. Tiểu nhân họ Vũ Văn, tên Sách.

Mọi người nghe cái tên Vũ Văn sách đều giật mình kinh hãi.

Thiên Chính lớn tiếng quát hỏi:

– Vũ Văn sách, có phải hai mươi năm trước kia ngươi đã giết chết Tiết Thị Ngũ hùng ở trong thành Trường An không? Ðêm hôm đó người mặc áo đỏ, lấy khăn bịt mặt, tự xưng là bát Tý thần ma Vũ Văn Sách ở trong bữa itệc chúc thọ. Người đã giết mười ba tay cao thủ trong một lúc phải không?

Vũ Văn sách đáp:

– Cụ già này nhớ dai thật, chính tôi đã quên hẳn chuyện đó rồi.

Mọi người nghe y đã tự nhận việc chém giết đó, ai nấy cũng đều cả giận. Vì Tiết Thị ngũ hùng ở Trường An võ công đã cao siêu đột nhiên bị một người áo đỏ bịt mặt đến giết chết, và quái khách đó tự nhận là Vũ Văn Sách. Ðêm hôm đó ngoài Tiết Thị ngũ hùng ra có mấy tay cao thủ của phái Hoa sơn và Nga Mi nữa. Nhưng không sao điều tra lai lịch của Vũ Văn sách, nên có người đã nghi cho là người của Bạch Mi Giáo. Tuy Thiên Chính không quen biết Tiết Thị ngũ hùng, nhưng đã bị hàm oan về việc này, trong lòng bực mình vô cùng, không ngờ câu chuyện đã hai mươi năm rồi mà bây giờ lại thấy hung thủ xuất hiện ở nơi đây.

Sau vụ giết chết mười ba người ở Trường An đến giờ, Vũ Văn Sách chưa hề xuất hiện lần thứ hai. Nhưng chỉ riêng một việc đó cũng làm cho người trong giang hồ khiếp đảm rồi. Riêng cái tên của y không những đủ so tài với người của phái Võ Ðang.

Trương Tam Phong biết y hiện thân tất phải đứng ra chủ trì công đạo của võ lâm. Nay y đã nói tên tuổi ra như vậy, bắt buộc Tam Phong không thể nào khoanh tay đứng yên được.

Thiên Chính lại lớn tiếng nói tiếp:

– Ðược lắm, nếu ngươi là Bát Tý thần ma thì họ Hân này phải đấu với mi một phen mới được.

Nói xong lão anh hùng tiến lên một bước, sửa soạn tấn công.

Văn Sách thấy vậy, lớn tiếng nói:

– Hân Thiên Chính ngươi là tà ma ngoại đạo, Vũ Văn Sách đây là ngoại đạo tà ma, chúng ta cùng một dòng một tông với nahu, không khi nào người nhà đánh người nhà như vậy. Nếu người muốn đấu với ta, sẽ lựa một ngày khác để đấu. Ngày hôm nay chủ nhân ta đã ra lệnh chỉ bảo ta thử xem võ công của phái Võ Ðang ra sao?

Nói tới đó, y quay đầu lại hỏi Trương Tam Phong rằng:

– Thế nào? Trương Chân Nhân có muốnđấu hay không? Nếu không ông cứ việc lên tiếng chúng tôi không bao giờ bắt ép đâu.

Tam Phong mỉm cười nghĩ thầm:

– Tuy ta bị thương nặng, nhưng ta dùng Thái cực quyền mới sáng tác ra chưa chắc đã bị thua y, nhưng có một điều khó xử nhất là đánh bại thằng ba này xong, thế nào thằng Hai cũng đòi thi đua nội lực, thi thố nội lực không thể nào dùng mưu kế được, ta đang bị htương, vận sao nội lực, như vậy làm sao mà vượt qua được quan ải ấy? Nhưng dù sao ta cũng phải hạ tên Vũ Văn Sách này trước đã.

Nghĩ đoạn, Chân Nhân từ từ đi tới giữa điện, nói với Thiên Chính rằng:

– Bần đạo rất cám ơn lòng tốt của Hân huynh, gần đây bần đạo mới phát minh được một pho quyền thuật khác. Vũ văn thí chủ đây cứ đòi thử thách võ công của phái Võ đang. Dù huynh có đánh bại được Vũ văn thí chủ, chắc thí chủ cũng không cam tâm chút nào. Bần đạo muốn dùng vài thế Thái Cực quyền để đấu với Vũ Văn thí chủ một phen, Hân huynh hãy đứng đó xem pho võ công mới của bần đạo có đến nỗi bị chê cười không.

Thiên Chính nghe nói vừa mừng vừa lo, tron glòng nghĩ thầm:

– Theo lời Tam Phong vừa nói, lão đạo sĩ có thể tin cậy pho Thái Cực Quyền ấy lắm, Chân Nhân là tôn sư của một môn phái, không khi nào dối người và dối mình để làm mất oai danh cả một đời của mình đi, nhưng Chân Nhân bị thương nặng, hộc máu tươi ra, điều này ai ai cũng thấy hết, chỉ e võ công của Chân Nhân tuy tinh xảo thật, nhưng nội lực yếu ớt thì chống cự sao noổi với cường địch?

Tuy Ưng Vương suy nghĩ như vậy, nhưng không dám nói nhiều bèn chắp tay chào và đáp:

– Hậu bối xin tuân lệnh và cũng mong được chứng kiến võ nghệ thần tuyệt của lão tiền bối.

Vũ Văn Sách thấy Trương Tam Phong nhận lời ra đấu với mình, trong lòng có vẻ sợ hãi, nhưng y nghĩ lại:

– Hôm nay dù ta có đấu ngang tay hay thua lão đạo sĩ đi chăng nữa, ta cũng được nổi danh ở torng võ lâm chứ không sai?

Nghĩ đoạn, y liền đứng lấy thế hai mắt nhìn thẳng vào mặt Trương Chân Nhân, ngấm ngầm truyền nội công tức thì. Mọi người nghe thấy gương cốt của y kêu “cộp cộp”, đều kinh ngạc, đưa mắt nhìn nhau.

Không ai ngờ y lại luyện ngoại công tới mức cao siêu như thế? Vì torng võ lâm chí có ba vị thần tăng của phái Thiếu Lâm mới luyện được tới mức ấy thôi.

Tam Phong thấy thủ định xử dụng Kim Cương Phục ma thần công đấu với mình, mà công lực của địch lại cao siêu như vậy, cũng phải kinh hãi và thầm nghĩ:

– Người này không phải là kẻ tầm thường. Không biết Thái cực quyền của ta có thể cầm cự nổi không?

Tuy vậy, Chân Nhân vẫn từ từ giơ tay lên để đợi địch thủ xông lại tấn công.

Lúc ấy, bỗng có một lục tiểu đồng đầu bù tóc rối ở phía sau Ðại Nham chạy ra nói:

– Thưa Thái sư phụ, nếu vị thí chủ này muốn lkiến thức quyền thuật của phái Võ Ðang ta, xin thái sư phụ cho phép đệ tử biểu diễn vài thế võ cho y coi. Hà tất sư phụ phải ra tay?

Tiểu đồng dơ bẩn ấy chính là Trương Vô Kỵ cải trang nhưng khi chàng lên tiếng, Thiên Chính và Dương Tiêu đã nhận ra liền.

Giáo chúng của Minh Giáo thấy Giáo chủ đã có mặt ở đây, ai nấy đều thầm mừng rỡ.

Tam Phong và Ðại nham có ngờ đâu tiểu đồng dơ bẩn ấy lại là Trương Vô Kỵ chỉ tưởng chàng là Thanh Phong, nên vội bảo:

– Vũ Văn thí chủ giỏi về môn thần công Kim cương Phục ma, ắt là một cao thủ của phái Thiếu Lâm đi ngoài Tây vực. Con còn nhỏ như vậy mà cũng đòi ra đấu với thí chủ ấy. Ta chắc con đấu không đầy một hiệp đã tan xương nát thịt ngay.

Vô Kỵ dùng tay trái nắm lấy vạt áo, và tay phải nắm lấy tay của Tam Phong, khẽ phẩy mấy cái rồi đáp:

– Thái sư phụ dạy cho con quyền pháp Thái cực, con chưa hề sử dụng tới bao giờ, không biết võ công của con có hiệu quả gì không. Nay nhân dịp có Vũ Văn thí chủ ở đây, ông ta lại là ngoại gia cao thủ, xin phe`p sư phụ cho đệ tử thử đấu với ông ta vài hiệp, để xem như có chế nổi cang không?

Trong lúc chàng nói chuyện, ngấm ngầm vận Cửu dương thần công dồn sang người của Tam Phong một luồng sức rất nhu hòa như vậy, Tam Phong kinh ngạc vô cùng, vội định thần nhìn kỹ mặt của Vô Kỵ, Chân Nhân thấy hai mắt của chàng như người thường mà nội lực lại luyện tới mức tuyệt đỉnh như thế, liền nghĩ thầm:

– Trong đời ta, chỉ có Bổn Sư Giác Viễn đại sư và đại hiệp Quách Tỉnh hai người mới có nội công thâm hậu như thế này thôi. Còn bây giờ ngoài ta ra, trong thiên hạ này chưa chắc có người thứ hai có nội công cao siêu như thế?

Chỉ trong thoàng cái, Chân Nhân đã nghĩ ngợi rất nhiều chuyện. Ðồng thời Chân Nhân còn thấy nội lực của Vô Kỵ vẫn tiếp tục dồn sang bên người mình như thường. Chân Nhân đoán chắc tiểu đồng muốn dùng nội công nội thương cho mình, chứ không có ác ý gì hết, nên Chân Nhân mỉm cười đáp:

– Ta già nua sức yếu như thế này thì truyền thụ làm sao được những môn võ công cao siêu như con? Bây giờ nhất định đòi lãnh giáo võ công ngoại gia tuyệt đỉnh của Vũ văn thí chủ cũng được, nhưng con phải cẩn thận lắm mới được, nghe chưa?

Chân Nhân vẫn chưa biết tiểu đồng ấy là Vô Kỵ mà tưởng lầm một cao thủ thiếu niên của môn phái nào tới tiếp viện. Vì vậy lời nói của Chân Nhân mới hơi khiêm tốn như thế.

Vô Kỵ đáp:

– Thái sư phụ có ơn nghĩa với con rất lớn. Bây giờ con có tan xương nát thịt cũng chưa đền đáp được đại ơn của Thái sư phụ với các vị sư thúc và sư bá. Tuy võ công của võ đang ta không dám tự nhận là cao siêu nhất thiên hạ, nhưng con dám chắc không thể thua thủ hạ của phái Tây vực Thiếu Lâm đâu. Thái sư phụ cứ yên chí.

Mấy lời nói của chàng rất thành khẩn và mỗi khi nói tới câu “thái sư phụ” rất tự nhiên chứ không ngượng miệng chút nào nên Tam Phong ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ tiểu đồng này là đệ tử của bổn môn thật chăng? Y ngấm ngầm tu luyện thành tài cũng như năm xưa sư phụ của mình Giác Viễn đại sư vậy cũng nên.

Hồi thứ 61

Ân Cừu Hai Mươi Năm

Còn triệu Minh và Vũ Văn Sách các người không hoài nghi gì hết.

Tam Phong buông tay Vô Kỵ ra lui trở về chỗ ghế ngồi xuống, Chân Nhân liếc nhìn Ðại Nham thấy cũng ngơ ngác nghi ngờ như mình vậy.

Thấy Tam Phong bằng lòng sinh cho tiểu đồng địch với mình, Vũ Văn Sách cho Chân Nhân khinh miệt mình quá đỗi, nhưng y là người âm thầm xảo trá nên vẻ mặt vẫn thản nhiên và thầm nghĩ:

– Ta dùng một quyền đánh chết một tiểu đồng này tức thì để cho lão đạo sĩ mất sĩ diện và tức tối rồi ta mới chính thức đấu với y. Như vậy ta thế nào cũng đắc thắng.

Nghĩ đoạn y liền nói với Vô kỵ rằng:

– Cậu bé ra tay trước đi!

Vô Kỵ đáp:

– Pho quyền thuật của tôi mới học hỏi được là Thái Cực quyền do Thái sư phụ tôi đã tốn nhiều năm tâm huyết mới sáng tạo ra. Nhưng tôi mới học hỏi chưa lãnh hội được hết tinh yếu của pho quyền ấy. Nên tôi e ba mươi hiệp đầu chưa chắc đã đánh bại được thí chủ. Ðó là tại tôi chưa thành nghề chứ không phải tại pho quyền đó kém lợi hại. Mong thí chủ nên hiểu rõ cho!

Vũ Văn Sách không giận mà cười, quay đầu lại nói với thằng Cả, thằng Hai rằng:

– Ðại ca và nhị ca xem trong thiên hạ lại có những thằng nhãi ngông cuồng đến như thế!

Thằng Hai lớn tiếng cả cười, nhưng thằng Cả sành hơn đã nhận thấy Vô Kỵ không phải một tay tầm thường nên y liền đáp:

– Tam đệ chớ có khinh địch!

Vũ Văn Sách tiến lên một bước múa quyền nhằm ngực Vô Kỵ đánh luôn, nhưng quyền của y đánh ra mới tới nửa quyền, y đã nhanh tay đổi thế đâm luôn vào mặt Vô Kỵ, thế võ của y quái dị vô cùng!

Từ khi nghe Tam Phong giảng giải Thái Cực quyền cho Ðại Nham xong, Vô Kỵ cứ đứng ở phía sau Tam Phong, suy nghĩ quyền lý.

Nay thấy đồi thủ dùng tả quyền đánh tới, vội sử dụng thế “Lam tước vỹ” giơ tay phải ra nắm lấy cổ tay trái của địch và hất ngang sang bên một cái.

Vũ Văn Sách không sao đứng vững được, đành phải bước hai bước mới giữ nổi thăng bằng mà lấy tấn mới đứng yên được.

Mọi người đứng quanh đó xem đều kinh ngạc vô cùng.

Thế “Lam tước vỹ” là một thế của Thái Cực quyền đem ra đối địch với đối thủ lần đầu tiên.

Vô Kỵ trong người có cả Cửu Dương Thần Công lẫn thuật Càn Khôn Ðại Nã Di, nay chàng độc nhiên sử dụng thế võ của Thái Cực quyền đối địch, tuy chàng mới học pho quyền pháp này, nhưng tinh xảo không kém gì người đã luyện tập hai mươi năm nên Vũ Văn Sách mới bị thất bại như thế. Y cảm thấy quyền nặng hàng nghìn cân của mình đã rớt vào trong bể cả, trái lại thân mình còn bị quyền lực của mìnhh lôi kéo suýt té ngã.

Y vừa kinh hãi vừa tức giận, liền múa quyền thật nhanh tấn công Vô Kỵ.

Quyền pháp của y nhanh đến nỗi hai tay hầu như biến thành mấy chục cái tay vậy.

Vô Kỵ thấy đối thủ như có mấy chục trái đấm đang nhằm mặt mình đánh tới tấp vậy. Những người có mặt trong đại điện, trừ Minh Nguyệt đạo đồng ra, đều là cao thủ thượng thặng.

Họ thấy Vũ Văn Sách tấn công nhanh như vũ bão như vậy phải kinh hãi và thầm nghĩ:

– Bát Tý thần ma có khác, quả thật danh bất hư truyền. Thảo nào năm xưa mười ba tay cao thủ của Trường An đều bị y giết chết hết.

Có ý muốn dương oai võ công của phái Võ Ðang.

Vô kỵ chỉ dùng quyền thuật của Tam Phong vừa truyền thụ cho thôi, chứ chàng không dùng tới võ công của chàng chút nào. Chàng càng đấu càng lãnh hội được tinh yếu của pho Thái Cực Quyền ấy, nên chỉ đấu mười hiệp chàng đã thuần thục pho quyền đó liền.

Vũ Văn Sách thấy các mặt của thượng lộ đều bị quyền của đối thủ bao vây hết, tới khi y thấy không còn cách nào chống đỡ và tránh né nữa, đành phải vận sức vào lưng để chịu đựng một chưởng của địch. Ðồng thời y cũng giơ hữu quyền lên đánh mạnh vào người của đối thủ một cái. Y mong cả hai cùng bị đòn và cùng bị thương một lúc, nhưng Vô Kỵ hai tay ôm vòng như ôm Thái Cực vậy, liền có một luồng sức rất mạnh và quay tít khiến Văn Sách bị quay chong chóng bảy tám vòng tức thì. Phải hết sức lấy tấn Thiên Cân trụy, Văn Sách mới đứng yên lại được, nhưng y đã xấu hổ mặt đỏ bừng liền.

Quần hào của Minh Giáo đều vỗ tay khen ngợi.

Dương Tiêu la lớn:

– Thái Cực quyền của phái Võ Ðang thần diệu thật. Bây giờ tôi mới được mục kích một pho quyền tuyệt diệu như vậy!

Chu Ðiên vừa cười vừa xen lời nói:

– Vũ Văn lão huynh nên đổi ngay biệt hiệu là Bát Ty Cỏ Quay thì hơn.

Hân Dã Vương cũng lên tiếng:

– Quay thêm mấy vòng nữa cũng chưa phải là mất sĩ diện mà?

Nói Không Ðược cũng xen lời nói:

– Năm xưa trong hảo hán của Lương Sơn Bạc có một vị biệt hiệu là Hắc Toàn Phong, vậy Toàn Phong thì phải quay tít chứ?…

Thế rồi mỗi một người nói một lời.

Văn Sách vừa xấu hổ vừa tức giận, nên sắc mặt của y lúc xanh lúc đỏ.

Y nổi giận rống lên một tiếng, nhảy xổ lại, giở những thế võ rất kỳ ảo và rất lợi hại ra tấn công Vô Kỵ tới tấp.

Vì chưa thuần thục Thái Cực quyền, Vô Kỵ cuống cả chân tay, không biết đối phó ra sao cho phải, nên tay áo của chàng mới bị đối thủ xé rách một mảnh. Chàng đành phải giở khinh công ra chạy quanh để tránh né, đồng thời chàng cũng muốn nhận xét xem Ngũ chỉ Công của Văn Sách huyền ảo như thế nào.

Chàng ghĩ thầm:

– Nếu ta cứ chạy mà không đấu, có khác gì chịu thua đối thủ không? Ta chưa biết sử dụng Thái Cực Quyền thì ta hãy đem môn Càn Khôn Ðại Nã Di ra đấu với y một phen xem sao?

Nghĩ đoạn, chàng liền dùng một thế võ của Thái Cực quyền để chống đỡ, nhưng sự thật tay trái của chàng đã sử dụng thủ pháp Càn Khôn Ðại Nã Di nên tay phải của Văn Sách vừa điểm trúng vai của chàng, liền có tiếng kêu “bộp” không hiểu tại sao tay của y lại bỗng tự điểm vào vai trái, nên y đau đến nổ đom đóm mắt, cánh tay trái hầu như bị đánh gảy vậy.

Dương Tiêu biết thế võ đó của Vô Kỵ không phải là thế võ của Thái Cực Quyền, nhưng y vẫn la lớn:

– Thái Cực Quyền lợi hại thật!

Văn Sách vừa đau vừa giận, liền quát hỏi:

– Ðó là yêu pháp tà thuật, chứ có phải là Thái Cực quyền gì đâu?

Nói xong y tấn côn gluôn ba chỉ, Vô kỵ tung mình nhảy sang bên tránh. Thấy tay của Văn Sách vừa đưa tới, chàng lại sử dụng Càn Khôn Nã Di Tâm Pháp nắm tay đối thủ và kéo luôn một cái. Chỉ nghe kêu “cộp” một tiếng, hai ngón tay của địch thủ đã cắm ngập vào trong trụ liền.

Mọi người vừa kinh hãi vừa tức cười.

Trong lúc mọi người đang cười, Ðại Nham bỗng quát bảo:

– Hãy khoan! Vũ Văn Sách, ngươi đã sử dụng Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm phải không?

Vừa nhảy ra ngoài vòng đấu, Vô Kỵ nghe thấy tám chữ “Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm” liền nghĩ tới Ðại Nham và Lợi Hanh đều bị Kim Cương Chỉ lực của phái Thiếu Lâm đả thương.

Hai mươi năm nay, tất cả người của phái Võ đang đều oán hận phái Thiếu Lâm về vấn đề này, nay mọi người mới hay hung thủ chính lại là người đứng ở trước mặt đây.

Văn Sách lạnh lùng đáp:

– Kim Cương chỉ thì đã sao nào? Ai bảo ngươi cứng đầu cứng cổ, không chịu nói chỗ giấu bảo đao Ðồ Long? Nếm mùi tàn phế trong hai mươi năm qua, ngươi đã thích thú chưa?

Ðại Nham lại quát tiếp:

– Vũ Văn Sách, cám ơn ngươi ngày hôm nay đã nói rõ chân tướng ra. Thì ra ta bị tàn phế là do phái Thiếu Lâm Tây Vực của các ngươi hạ độc thủ. Chỉ tiếc thay… tiếc thay em Năm ta…

Chắc quý vị còn nhớ, năm xưa Thúy Sơn tự vẫn chết là vì Ðại Nham bị thương bởi kim châm của Tố Tố, nên vì xấu hổ với sư huynh nên Ngũ hiệp mới tự sát như vậy. Sự thật sau khi Ðại Nham bị kim châm bắn phải, Tố Tố nhờ Long Môn tiêu cục chở về núi Võ Ðang chữa vài tháng sẽ khỏi liền. Còn Tam Hiệp sở dĩ bị người ta đánh gãy chân tay, sự thật là do Kim Cương chỉ đánh gãy. Nếu lúc bấy giờ tìm ra được hung thủ thì vợ chồng Thúy Sơn không đến nỗi bị chết một cách thảm khốc như vậy.

Phần vì thương sư đệ chết oan, phần vì đau lòng mình bị tàn phế, Ðại Nham tức giận đến mắt như nổ lửa.

Nghe hai người đối đáp với nhau, Vô Kỵ đã hiểu rõ tiền nhân hậu quả ra sao rồi. Hồi còn nhỏ, chàng nghe cha nói trong chùa Thiếu Lâm có một người đàn bà phụ trách bếp nước, học lóm được võ nghệ, đánh chết Khổ Trí thiền sư, vị hòa thượng thủ tọa của Ðạt Ma Ðường, các tay cao thủ trong phái Thiếu Lâm liền đánh lộn nhau, nên Khổ Tuệ Thiền sư chạy đi Tây Vực sáng lập một môn phái gọi là Tây Vực Thiếu Lâm.

Tam Phong liền lên tiếng:

– Vũ Văn thí chủ ác độc thật, trong tôi không ngờ trong các môn hạ đệ tử của Khổ Tuệ thiền sư năm xưa lại có một nhân vật độc ác như thí chủ.

Văn Sách cười giọng đểu cán đáp:

– Khổ Tuệ ư? Hừ, Khổ Tuệ là cái quái gì?

Tam Phong thấy y trả lời như vậy mới vỡ lẽ.

Thì ra năm xưa sau khi Ðại Nham bị Ðại Lực Kim Cương chỉ đả thương rồi, phái Võ Ðang liền sai người lên núi Tung Sơn chất vấn phái Thiếu lâm. Người trưởng môn của phái Thiếu Lâm cương quyết không chịu nhận nên phái Võ Ðang mới nghi ngờ hung thủ là người Tây Vực Thiếu Lâm, nhưng dò hỏi lâu năm phái Võ Ðang mới hay đệ tử của Tây Vực Thiếu Lâm rất ít mà họ chỉ nghiên cứu Phật học chứ không hiểu võ công, bây giờ Trương Chân Nhân nghe thấy Văn Sách nói Khổ Tuệ là cái quái gì, mới hiểu hung thủ không phải là môn hạ của Tây Vực phái Thiếu Lâm. Vì nếu y là đệ tử của môn phái đó, không khi nào y dám nhục mạ người tổ sư sáng lập môn phái như vậy.

Chân Nhân suy nghĩ như vậy liền lớn tiếng nói tiếp:

– Thảo nào, thảo nào, thế ra thí chủ là môn hạ của Hỏa công đầu đà đấy? Thí chủ không những học được hết võ công của y mà còn học được cả tính nết ác độc nóng nảy như y nữa. Thảo nào phái Thiếu Lâm bị tiêu hủy trong tay thí chủ. Vậy tên Không Tướng gì đó có phải là sư huynh đệ của thí chủ không?

Văn Sách đáp:

– Phải, y là sư huynh của ta, nhưng tên y không phải là Không Tướng mà pháp danh là Cương Tướng. Trương Chân Nhân cho Ban Nhược Kim Cương chưởng của Kim Cương môn có hơn được Thái Cực quyền chưởng của phái Võ Ðang không?

Ðại Nham lớn tiếng xen lời nói:

– Kim Cương chưởng của các ngươi kém Thái Cực chưởng của chúng ta xa, nên đầu của sư huynh ngươi bị sư phụ ta đánh một chưởng đã vỡ sọ phọt óc ra liền. Võ nghệ của y tầm thường như thế mà dám múa rìu qua mắt thợ như vậy, thật là đáng chết lắm.

Văn Sách thét lớn một tiếng, nhảy xổ lại định tấn công Ðại Nham, nhưng Vô kỵ đã dùng một thế Thái Cực Quyền ra ngăn cản và nói:

– Vũ Văn Sách, ngươi mau lấy Hắc Ngọc Ðoạn Tục Cao thuốc cứu thương ra cho ta.

Nói xong chàng chìa tay ra.

Văn Sách kinh hãi thầm và nghĩ:

– Tục Cốt diệu dược của bổn môn rất bí mật, đến đệ tử thường của bổn môn cũng không hay biết tên thuốc ấy, tại sao tiểu đồng này lại biết rõ như thế được?

Nhưng y có biết đâu, bất cứ thuốc gì của thiên hạ đều có ghi ở trong cuốn y kinh của Hồ Thanh Ngưu hết. Theo trong y kinh ghi rõ, Tây vực có một môn võ công ngoại gia, người ta nghi môn phái này là Hắc Ngọc Ðoạn Tục Cao mới có thể chữa khỏi thôi, nhưng thuốc ấy chế như thế nào môn phái đó bí truyền lắm, nên trong y kinh không có ghi. Vô Kỵ nghe tới môn thuốc ấy mới lên tiếng hỏi thử, ngờ đâu Văn Sách lại biến sắc. Chàng biết kẻ địch chính là môn phái ấy rồi. Chàng đang định hỏi tiếp.

Văn Sách đã hỏi trước:

– Ngươi là một tiểu đạo đồng nhỏ như vậy, sao ngươi lại biết được tên thuốc bí truyền của bổn môn?

Vô Kỵ không trả lời, hỏi tiếp:

– Mau đưa đây cho ta.

Chàng càng nghĩ đến mối thù của cha mẹ, chỉ muốn giết chết ngay kẻ thù, nên chàng không muốn nói nhiều.

Tuy vừa rồi bị thiệt thì nhỏ, Văn Sách thấy Ðại Lực Kim cương chỉ của mình đã làm đối thủ chỉ có tránh né chứ không trả miếng được, nên y cho cứ tránh khỏi những thủ pháp quái dị của địch, y thế nào cũng nắm chắc phần thắng, nên y tiến lên một bước và quát lớn:

– Thằng nhỏ kia, mi chịu quỳ xuống vái ta ba lạy, ta sẽ tha chết cho liền. Bằng không, mi có sợ bị tàn tật như tên họ Dư kia không?

Vô Kỵ đã quyết chí phải lấy cho được thuốc chữa thương của đối thủ , nhưng nhất thời chàng chưa nghĩ ra cách đối phó Kim Cương chỉ. Chàng biết sử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp chỉ có thể đả thương được kẻ địch thôi, chứ không thể bắt ép kẻ địch phải đưa thuốc cao đó ra cho mình.

Chàng đang suy nghĩ, Tam Phong đã lên tiếng gọi:

– Bé con, lại đây.

Vô Kỵ vội chạy lại trước mặt Chân Nhân.

Tam Phong liền xoa đầu chàng và nói tiếp:

– Con phải hiểu sử dụng Thái Cực quyền chỉ nên dùng ý chứ không nên dùng sức và cũng đừng để cho nó đứt quãng. Khi đã đắc thế, căn bản của đối thủ sẽ tự tuyệt liền. Một thế công một thế đỡ đều phải liên tục với nhau, như nước sóng chảy cuồn cuộn không bao giờ dứt.

Vô Kỵ là người rất thông minh, về võ công tới mức cao siêu, nay chàng nghe Chân Nhân nói nguyên lý của Thái Cực, tuy chỉ vỏn vẹn có vài lời mà chàng đã hiểu rõ chân lý và sự huyền bí của nó rồi.

Văn Sách thấy vậy, cười nhạt và nói:

– Lâm trận mới học võ như vậy, làm sao mà giỏi được.

Vô Kỵ trợn ngược đôi lông mày đáp:

– Tuy lâm trận mới học, ta vẫn học kịp, nếu các hạ không tin, cứ việc xông vào tấn công thử xem.

Nói xong, chàng quay mình lại, tay phải vừa quay tròn vừa đưa về phía trước, định chộp mặt đối thủ.

Ðây là một thế Cao Thám Mã trong pho Thái Cực Quyền.

Văn Sách giơ ngón tay giữa ở tay phải lên làm như một con dao chém xuống.

Vô Kỵ lại giở thế Song Phong quán nhĩ cả đỡ lẫn đánh, hai tay làm như một cái vòng tròn đánh ra.

Chàng thay đổi thế võ vừa khéo léo vừa nhanh chóng, đúng như lời dạy của Trương Chân Nhân. Chỉ thấy hai tay của chàng quay tròn thành vòng to, vòng nhỏ, vòng ngang vòng dọc, trông như hình thái cực, Văn Sách bị chàng làm cho quay tít chân đứng không vững, y như say rượu, tâm thần mê man, đầu óc choáng váng.

Y tức giận vô cùng vội chĩa năm ngón tay ra đâm thẳng vào người của đối phương một cái thật mạnh.

Vô Kỵ vội xử dụng thế Vân Thủ túm lấy cánh tay của địch, đồng thời chàng giở công lực Cửu Dương thần công ra để bẻ tay của đối thủ.

Mọi người nghe thấy kêu “lách cách” mấy tiếng.

Cánh tay phải của Văn sách đã bị chàng bẻ gãy làm sáu bảy khúc liền.

Vô Kỵ giận đối thủ quá ác độc, nên chàng bẻ xong tay phải lại thuận tay bẻ luôn tay trái của kẻ thù nữa.

Nhưng chàng vẫn chưa nguôi cơn giận tiếp tục bẻ thêm hai chân của địch thủ.

Bình sinh Vô Kỵ chưa hề chưa hề hạ độc thủ như thế này bao giờ. Nay vì kẻ địch đã giết hại cha mẹ và cũng là hung thủ đã đánh Tam Sư bá và Lục sư thúc của chàng tàn tật, nên chàng mới hạ độc thù. Nhưng chàng còn muốn hỏi kẻ thù thuốc cao để chữa cho Tam sư bá và Lục sư thúc, nên không giết chết ngay kẻ thù vội.

Trong khi Văn Sách kêu hự một tiếng và té ngã xuống phía sau Triệu Minh đã có một người phi thẳng ra ẳm y và lui ngay về chỗ cũ liền.

Thằng Hai, tên sói đầu đã nhảy ra, múa chưởng nhằm ngực Vô Kỵ đánh lén luôn. Chưởng của địch chưa đánh tới nơi, Vô Kỵ đã cảm thấy nghẹt thở, chàng vội nhảy sang bên tránh né.

Ông già sói đầu ấy không nói năng gì hết, cứ tiếp tục tấn công hết chưởng này tới chưởng khác, như vũ như bão.

Vô Kỵ thấy thế võ của tên này giống hệt những thế võ của Văn Sách, nhưng y lớn tuổi hơn, lão luyện hơn, nên chàng đã đoán tên này là sư huynh của tên kia.

Vô Kỵ lại sử dụng Thái Cực quyền nắm tay địch thủ kéo sang bên.

Ngờ đâu tên này khoẻ và vững chắc hơn tên trước nhiều, nên trái lại chàng còn bị đối thủ lôi kéo mình về phía trước một bước, suýt tí nữa thì té ngã luôn.

Chàng không dám khinh địch nữa và nghĩ thầm:

– Ðược lắm, ngươi muốn thi thố nội lực với ta ư? Ta xem nội công của phái Thiếu Lâm của người lợi hại hay Cửu Dương Thần Công của ta lợi hại?

Vừa nghĩ tới đó, chàng thấy đối thủ đánh tới một chưởng, bèn giơ chưởng lên đánh mạnh vào bàn tay của địch. Chưởng của hai người va chạm nhau, phát ra tiếng kêu “bộp” thật lớn. Cả hai đều loạng choạng.

Tam Phong kêu “ủa” một tiếng, liền nghĩ thầm:

– Nguy tai. Ðấu sức với nahu như thế này, kẻ nào mạnh sẽ thắng. Mà trái hẳn nguyên lý của Thái Cực Quyền. Ông già đầu sói này vội lực hùng hậu lắm. Trong võ lâm hiếm có người hùng mạnh như y. Chỉ sợ chưởng này thằng nhỏ thế nào cũng bị y đánh y trọng thương?

Chân Nhân vừa nghĩ tới đó, Vô Kỵ và địch thủ lại đấu tiếp chưởng thứ hai, cũng có tiếng kêu “bộp” như trước, nhưng lần này Chân Nhân chỉ thấy thằng Hai loạng choạng và phải lùi về phía sau một bước, còn Vô Kỵ vẫn đứng yên chỗ cũ, thái độ rất ung dung.

Cửu Dương thần công với nội công của phái Thiếu lâm đều xuất xứ ở Ðạt Ma Thiền Sư. Hai môn tuy khác nhau, nhưng sự thật thì cùng một gốc. Nếu cả hai cùng luyện tới mức cao độ nhất thì chỉ đấu hòa với nhau thôi, chứ không ai có thể thắng được ai cả. Nhưng tổ sư của phái Thiếu Lâm, nên ngoại công của Kim Cương môn rất mạnh, không kém gì Thiếu Lâm chính tông, còn nội công của chúng thì kém Thiếu Lâm chính tông rất xa. Thằng Hai là một dị nhân trong phái Kim Cương Môn, nên y mới có nội ngoại công lợi hại như vậy.

Tài ba của y hiện thời còn cao siêu hơn Hỏa Công Ðầu sư phụ của y nữa. Từ khi hạ sơn tới giờ, y đã bắt gặp rất nhiều cao thủ, nhưng không ai chống đỡ nổi ba chưởng của y. Ngờ đâu, ngày hôm nay y mới đầu tới chưởng một lúc, tấn công Vô Kỵ tiếp.

Vô Kỵ bỗng lớn tiếng nói:

– Hân Lục thúc xem cháu trả thù cho chú này.

Thì ra lúc ấy Lợi Hanh được Bất Hối và Tiểu Siêu trong nom và do hai tên giáo chúng của Minh Giáo dùng võng khiêng tới. Khi chàng tới núi Võ Ðang, các hảo thủ của Ngũ Hành Kỳ đã lần lượt tới trước rồi.Vô Kỵ quát lớn một tiếng, múa quyền phải đánh mạnh một cái đấm.

Thằng Hai, tên sói đầu, vội lui về phía sau ba bước, hai mắt lòi ra, máu ở ngực đảo lộn chỉ muốn ộc ra bên ngoài.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Lục thúc nhận kỹ xem, trong bọn người vây đánh Lục thúc có tên đầu sói này không?

Lợi Hanh đáp:

– Ðúng rồi, chính y là tên đầu sỏ đấy.

Biết đối thủ chính là hung thủ đã đánh Lợi Hanh tàn tật.

Vô Kỵ không nương tay như trước nữa.

Mọi người nghe thấy tiếng kêu “lách tách” liền chăm chú nhìn vào người thằng Hai, mới hay y đang vận sức, nên khớp xương của y mới kêu như vậy.

Ðại Nham lớn tiếng bảo:

– Qua sông không được, nên đánh ngay vào giữa dòng sông.

Ý nghĩa lời nói của Tam Hiệp là bảo Vô Kỵ nhân lúc kẻ địch chưa vận công xong, mà ra tay tấn công ngay. Tam hiệp là người có kiến thức rất cao, biết nội lực của thằng Hai rất mạnh, nếu để cho kẻ địch vận công xong, sợ Vô Kỵ chống đỡ không nổi nên mới bảo Vô Kỵ như thế.

Vô Kỵ vâng lời, tiến lên một bước, nhưng chàng không ra tay tấn công vội mà chờ thằng Hai vận công xong, giơ hai cánh tay lên đánh xuống, liền có một luồng sức mạnh như bài sơn đảo hải đẩy tới.

Lúc ấy chàng mới hít một hơi thật mạnh, khiến chân khí trong người lưu chuyển rất đều, mới giở chưởng lên chống đỡ. Thế là chưởng lực của đối phương bị đẩy lui trở lại.

Thằng Hai cảm thấy một luồng sức mạnh khôn lường đẩy mạnh vào thân thể của y. Y chỉ la lớn được một tiếng thì người của y đã bị bắn lui về phía sau, tựa như một tảng đá để trên mây bắn đi vậy. Sức mạnh đẩy người thằng Hai thủng vách tường bắn ra bên ngoài.

Mọi người thấy vậy kinh hãi đến thất sắc, chỉ trong thoáng cái, thấy một người béo lùn, mình tròn như cái trống trông rất buồn cười.

Tay người ấy xách thằng Hai chui qua lỗ tường bước vào, đặt tên đầu sói đó xuống đất. Mọi người nhìn kỹ, mới hay người béo lùn đó là Nhân Bổn, Trường Ky Sứ Hậu Thổ Kỳ của Minh Giáo.

Lúc ấy cánh tay, xương vai của thằng Hai đều bị sức mạnh của Vô Kỵ đánh gãy vụn. Nhân Bổn đặt thằng Hai xuống đất xong, vái chào Vô Kỵ một cái rồi chui qua lỗ tường đi ra bên ngoài tức thì.

Triệu Minh thấy tiểu đạo đồng đánh bại luôn hai tay cao thủ hạng nhất của mình, trong lòng đã hoài nghi, nay nàng lại thấy Nhất Bổn vái chào Vô Kỵ một cách rất lễ phép, liền đưa mắt nhìn kỹ, nàng nhận ra chàng ngay, trong lòng chửi thầm và nghĩ:

– Ðáng chết thật, ta tưởng ta tới trước còn tên tiểu quỷ này còn ở ngoài bố trí. Có ngờ đâu y lại giả dạng đạo đồng ở đây phá bỉnh, làm hỏng hết việc lớn của ta.

Nghĩ đoạn, nàng liền thỏ thẻ nói với Vô Kỵ rằng:

– Sao Trương giáo chủ lại mặt dày giả dạng tiểu đạo đồng như thế? Thật không biết xấu hổ chút nào, cứ luôn mồm gọi Thái Sư phụ như vậy.

Vô Kỵ thấy Triệu Minh đã nhận ra mình rồi liền lớn tiếng đáp:

– Tiên phụ Thúy Sơn công chính là đệ tử thứ năm của Thái sư phụ tôi. Như vậy tôi gọi Chân Nhân là Thái sư phụ có cái gì là xấu hổ đâu?

Nói xong, chàng quay lại vái lại Tam Phong và nói tiếp:

– Con, Trương Vô Kỵ vái lạy Thái sư phụ với Tam sư bá. Sự xảy ra đột ngột, chưa kịp bẩm cùng Thái sư phụ và Tam sư bá hay rõ. Mong Thái sư phụ và Tam sư bá thứ lỗi cho con.

Tam Phong và Ðại Nham vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Hai người không ngờ thiếu niên đánh bại hai tay cao thủ của Kim Cương môn lại là thằng nhỏ năm xưa đã đau ốm đến chết đi sống lại.

Tam Phong ha hả cười và đưa tay ra đỡ Vô Kỵ đứng lên và nói:

– Con ngoan lắm, con chưa chết, Thúy Sơn đã có hậu.

Nói xong, Chân Nhân quay đầu lại nói với bọn Thiên Chính rằng:

– Hân huynh, mừng huynh có được một người cháu ngoại tài ba như vậy.

Thiên Chính vừa cười vừa đáp:

– Trương Chân Nhân, mừng Chân Nhân đã dạy một tôn đồ võ nghệ rất cao siêu.

Triệu Minh thấy hai ông già nói với nhau như vậy, liền lên tiếng chửi:

– Cái gì cháu ngoại tài ba, cái gì tôn đồ võ nghệ cao siêu? Sự thật hai lão già chưa chết kia đã nuôi dưỡng dạy bảo một tiều quỷ gian trá, xảo quyệt tuyệt vời. Thằng Ðại, với bộ mặt ủ rũ, rút Ỷ thiên kiếm ra nhảy tới giữa điện.

Mọi người liền thấy có luồng ánh sáng xanh lè làm loé mắt và một làn hơi lạnh bao trùm khắp sảnh, ai nấy đều phải khen thanh bảo kiếm đó rất hiếm có.

Vô Kỵ thấy vậy liền hỏi:

– Thanh kiếm này là kiếm của phái Nga Mi, tại sao ngươi lại có được?

Triệu Minh đáp:

– Tiểu quỷ, ngươi biết cái chi. Kiếm này là kiếm của nhà ta. Diệt Tuyệt lão ni lấy trộm. Bây giờ vật đã trở về với nguyên chủ. Như vậy Ỷ Thiên kiếm có liên quan gì đến phái Nga Mi nữa đâu.

Vô Kỵ không biết lai lịch của Ỷ Thiên kiếm ra sao, nên nghe nàng nói vậy, làm thinh không biết trả lời ra sao cho phải.

Chàng vội nói sang chuyện khác và hỏi Triệu Minh:

– Triệu cô nương hãy cho tôi xin một ít Hắc Ngọc Ðoạn Tục Cao đi. Ðể tôi chữa cho Tam sư bá và Lục sư thúc thì việc gây oán của chúng ta coi như xóa bỏ.

Triệu Minh cười nhạt, đáp:

– Làm gì có chuyện dễ như thế. Ngươi có biết hiện giờ Không Văn, Không Trí của phái Thiếu Lâm và Tống Viễn Kiều, Liên Châu cùng các người ở đâu không?

Vô Kỵ lắc đầu:

– Tôi không biết, mong cô nương chỉ rõ cho.

– Nói dễ nghe thật? Tại sao ta phải nói rõ cho ngươi biết chứ? Bây giờ ta chỉ muốn xé ngươi ra làm muôn mảnh mới nguôi cơn giận. Ngươi đã làm nhục ta ở Lục Liễu trang ngày nọ.

Nói tới đó, Triệu Minh nghĩ đến tình cảnh bữa ấy, bỗng thấy xấu hổ vô cùng, hai má đỏ bừng lên không sao nói tiếp được nữa.

Vô Kỵ cũng ngượng vô cùng và nghĩ thầm:

– Hôm đó vì nóng lòng cứu các quần hào của Minh Giáo nên ta mới giở thủ đoạn hạ lưu ấy ra, chứ thật sự ta có lòng nào đùa giỡn với nàng đâu? Nhưng ta chưa nói rõ chuyện này cho ai hay biết, nếu mọi người tưởng thật ta đã giễu cợt với thiếu nữ này thì thật nguy cho ta quá!

Chàng muốn biện bạch, nhưng không biết nói như thế nào cho phải. Chàng lại nghĩ tới thuốc cao chữa cho Ðại Nham và Lợi Hanh, liền hỏi lại Triệu Minh rằng:

– Triệu cô nương, chẳng hay cô nương có chịu cho tôi thuốc Hắc Ngọc Ðoạn Tục Cao không?

Triệu Minh liếc tình chàng rồi tủm tỉm cười đáp:

– Ngươi muốn lấy Hắc Ngọc Ðoạn Tục Cao cũng không khó, nếu ngươi chịu theo ba điều này thì ta sẽ hai tay dâng cho ngươi ngay.

– Ba điều gì thế?

– Bây giờ cô nương vẫn chưa nghĩ ra. Sau này chờ khi nào cô nương nghĩ được một điều thì ngươi phải tuân theo lời nói của cô nương mà làm ngay.

– Như thế thì sao được? Chẳng lẽ cô nương bắt tôi tự tử, tôi cũng phải tự tử, hay bắt tôi làm heo làm chó tôi cũng phải làm hay sao?

– Ngươi cứ yên trí, không khi nào cô nương lại bắt người tự sát hay làm heo làm chó. Hì hì, dù cô nương có bảo ngươi làm những điều đó, có lẽ ngươi cũng không làm.

– Cô nương cứ nói trước đi, nếu những điều không trái đạo hiệp nghĩa của võ lâm thì thế nào tôi cũng tuân theo.

Triệu Minh đang định nói tiếp, bỗng trông thấy trên mái tóc của Tiểu Siêu có cắm một chiếc hoa bằng hạt châu. Hoa đó của nàng tặng Vô Kỵ, nên tức giận vô cùng, đồng thời nàng thấy Tiểu Siêu vừa đẹp, vừa dễ thương trong lòng càng hậm hực thêm.

Nàng liền nghiến răng mím môi bảo thằng Ðại rằng:

– Ngươi phải chém gãy hai cánh tay của thằng tiểu quỷ kia cho ta.

Thằng Ðại vâng lời, múa Ỷ Thiên Kiếm, tiến lên một bước và nói với Vô Kỵ rằng:

– Trương Giáo chủ, chủ nhân tôi ra lệnh, bảo tôi chém hai cánh tay của Giáo chủ đấy.

Chu Ðiên bực mình vô cùng, không sao chịu được, liền lớn tiếng mắng chửi:

– Quân chó má kia không được nói bậy! Sao ngươi không chặt hai cánh tay ngươi trước đi.

Thằng Ðại vẻ mặt rầu rĩ đáp:

– Ngươi nói cũng có lý.

Chu Ðiên khoái chí vô cùng, lớn tiếng nói tiếp:

– Nếu vậy ngươi hãy chém ngay đi.

– Hà tất phải vội vã như thế?

Vô Kỵ đứng cạnh đó, trong lòng buồn rầu và nghĩ thầm:

– Thanh Ỷ Thiên kiếm này rất sắc bén, khí giới nào cũng địch không nổi, bây giờ chỉ có một cách nghênh địch duy nhất là ta phải sử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di cướp khí giới của y thôi. Nhưng trong khi đưa tay ra cướp phải cẩn thận lắm mới được, bằng không cánh tay của ta sẽ bị chém rơi ngay.

Chàng đang trù trừ suy nghĩ bỗng nghe tiếng Tam Phong bảo:

– Vô Kỵ, Thái Cực Quyền của ta sáng tạo, con đã học rồi, nay còn một pho Thái Cực Kiếm nữa, để Thái sư phụ truyền nốt cho con. Như vậy, con mới có thể đấu với thí chủ kia được.

Vô Kỵ mừng rỡ vô cùng:

– Cám ơn Thái sư phụ.

Nói xong, chàng quay lại nói với thằng Ðại:

– Vị tiền bối kia! Vì kiếm thuật của tôi không được tinh xảo, muốn nhờ Thái sư phụ dạy thêm đôi chút rồi mới xin đấu với lão tiền bối.

Tuy thằng Ðại có bảo kiếm trong tay nhưng y vẫn không nắm chắc phần thắng. Nay thấy Vô Kỵ học kiếm thuật thì mừng rỡ vô cùng, cho rằng dù kiếm thuật có tinh xảo đến đâu mà mới học cũnbg không thể nào thuần thuộc được.

Thằng Ðại gật đầu đáp:

– Ðược, Giáo chủ cứ học. Tôi ở đây đợi. Học hai tiếng đồng hồ đã đủ chưa?

Tam Phong vội đáp:

– Không phải đi đâu hết, tôi dạy ngay ở đây. Vô Kỵ chỉ học nửa giờ là xong.

Thằng Ðại bèn trả lời:

– Nếu vậy càng hay, tôi ra ngoài điện chờ vậy.

Y nói như vậy là không muốn dòm ngó Tam Phong dạy bảo Vô Kỵ. Thái độ của y làm ra vẻ một tên đầy tớ, nhưng hành động của y lại không khác một vị tôn sư của võ lâm.

Tam Phong nói tiếp:

– Các hạ không cần lánh mặt làm chi, vì pho kiếm này bần đạo vừa sáng tác, không biết có hiệu quả không? Các hạ là kiếm thuật danh gia, bần đạo muốn mời các hạ ở lại đây chứng kiến để xem pho kiếm của bần đạo có khuyết điểm gì không?

Dương Tiêu thấy Trương Chân Nhân nói như vậy, liền nghĩ ra một việc, vội lớn tiếng nói:

– Thế ra các hạ là Ngọc Diện Thần Kiếm Phương trưởng lão đấy à! Các hạ đường đường là một trưởng lão của Cái Bang, sao lại chịu làm tôi tớ cho kẻ khác như thế?

Quần hào của Minh Giáo nghe Dương Tiêu nói như vậy, giật mình kinh hãi, Chu Ðiên vội hỏi:

– Ngươi chẳng chết rồi là gì? Sao bây giờ lại sống nhăn… Sao lại có chuyện lạ thế này?

Thằng Ðại thở dài, cúi đầu khẽ đáp:

– Lão chết trăm lần mới đặng sống lại. Huống hồ chuyện quá khứ còn nhắc đến làm chi nữa? Lão không phài là Trưởng lão của Cái Bang đã lâu rồi.

Những người lớn tuổi đều biết Ngọc Diện Thần Kiếm Ðông Phương Bạch là một tứ đại trưởng lão của cái bang, kiếm thuật tinh xảo lừng danh giang hồ và mặt mũi rất anh tuấn, được tiếng là một chàng đẹp trai trong võ lâm. Mười mấy năm trước y bị bệnh nặng rồi chết, ai nấy đều thương tiếc. Không ngờ y vẫn còn sống, mà mặt mũi lại thay đổi.

Tam Phong nói:

– Thái cực kiếm pháp của bần đạo được Ngọc Diện Thần Kiếm chỉ điểm cho vài thế thì hân hạnh vô cùng. Vô Kỵ con có đem kiếm theo không?

Tiểu Siêu tiến lên mấy bước, đưa thanh kiếm Ỷ Thiên đã lấy được cho chàng.

Tam Phong giơ tay ra cầm lấy thanh kiếm gỗ vừa cười vừa hỏi:

– Có phải bần đạo vẽ bùa làm phép đâu mà lại đưa kiếm gỗ ra như thế?

Nói xong, Chân Nhân từ từ đứng dậy, múa luôn mấy đường kiếm. Một hơi múa luôn bốn năm thế.

Vô Kỵ không nhớ những thế kiếm mà chỉ để ý xem những thuần túy và sự thay đổi của những thế kiếm đó thôi.

Tam Phong múa sang pho kiếm đó không có tiếng vỗ tay khen ngỡi.

Ai nấy đều ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Pho kiếm chậm chạp và mềm như bún thế này thì làm sao địch nổi đối thủ có kiếm pháp lợi hại như thế… Hay là Trương Chân Nhân cố biểu diễn chậm chạp như vậy để Vô Kỵ lĩnh hội dễ dàng?

Trương Tam Phong hỏi Vô Kỵ:

– Con đã thấy rõ chưa?

Vô Kỵ đáp:

– Con đã thấy rõ rồi.

– Con đã nhớ hết chưa?

– Con chỉ nhớ được phân nửa.

– Thôi được, như vậy cũng là thông minh lắm rồi, con hãy nghĩ lại những thế kiếm ấy đi.

Vô Kỵ cúi đầu lẳng lặng nghĩ. Tam Phong lại nghĩ tiếp:

– Bây giờ thế nào?

– Con đã quên hơn phân nửa rồi?

Chu Ðiên không sao chịu được, liền lớn tiếng cười và nói:

– Nguy tai, càng nghĩ càng quên nhiều như vậy, pho kiếm pháp của Trương Chân Nhân kỳ ảo như vậy, xem một lần sao nhớ hết được? Trương Chân Nhân làm ơn dạy thêm cho Gáio chủ chúng tôi một lần nữa đi.

Tam Phong mỉm cười, đáp:

– Ðược, để bần đạo đi lại một lần nữa.

Trương Chân Nhân cầm thanh kiếm gỗ lên biểu diễn một lần nữa.

Mọi người ngạc nhiên vô cùng, vì thấy những thế kiếm của Chân Nhân biểu diễn lần thứ hai khác lần thứ nhất nhiều.

Chu Ðiên lại lớn tiếng xen lời nói:

– Chẳng có thế nào là giống bài trước, như vậy thì nhớ làm sao được?

Tam Phong cầm kiếm quay tròn và hỏi Vô Kỵ rằng:

– Thế nào? Con đã nhớ hết chưa?

Vô Kỵ đáp:

– Chỉ quên có ba thế thôi.

Tam Phong thâu kiếm về chỗ ngồi.

Vô Kỵ đi từ từ vòng quanh đại diện một vòng, rồi chàng ngẩng đầu lên tỏ vẻ mừng rỡ và la lớn:

– Bây giờ con lại quên hết rồi.

Tam Phong đỡ lời:

– Khá lắm, quên cũng chóng lắm. Thôi, con mời Ngọc Diện Thần Kiếm vào chỉ giáo đi.

Nói xong, Chân Nhân đưa kiếm gỗ cho Vô Kỵ.

Giơ hai tay ra đỡ thanh kiếm, Vô Kỵ lạy Thái sư phụ rồi quay sang nói với Ðông Phương Bạch rằng:

– Mời Ðông tiền bối chỉ giáo cho.

Chu Ðiên thấy vậy gãi đầu gãi tai lia lịa, trong lòng lo âu vô cùng.

Ðông Phương Bạch liền múa kiếm xông lại tấn công.

Kiếm của y đi tới đâu, có tiếng kêu vù vù đến đấy, đủ thây nội lực của y không kém gì thằng Hai.

Mọi người thấy vậy, rùng mình kinh hãi và nghĩ thầm:

– Tay y cầm Ỷ Thiên Kiếm mà y lại có nội lực như thế, Giáo chủ của chúng ta khó mà thắng nổi y.

Vô Kỵ cầm thanh kiếm gỗ, vòng một vòng, rồi để mình kiếm lên lưng Ỷ Thiên Kiếm, dồn nội công trong người ra.

Thanh bảo kiếm của đối thủ đều bị trầm xuống ngay.

Ðông Phương Bạch liền lên tiếng khen ngợi:

– Kiếm pháp cao siêu lắm.

Nói xong y trầm kiếm xuống và thúc mũi kiếm đâm thẳng vào hông bên trái của Vô Kỵ tức thì.

Vô Kỵ vội xoay kiếm lại chống đỡ, chỉ nghe thấy “bộp” một tiếng, hai kiếm va chạm nhau và hai người tung mình nhảy lên.

Thanh Ỷ Thiên Kiếm trong tay Ðông Phương Bạch bị kiếm gỗ của Vô Kỵ chạm phải, rung động như một cái lò xo và tiếng kêu vo vo nổi lên làm chấn động tai mọi người.

Lạ thật, hai thanh kiếm đó, một là bảo kiếm, một là kiếm gỗ, nhưng khi hai thanh kiếm va chạm nhau, thanh kiếm gỗ lại không việc gì, trái lại bảo kiếm bị rung động như lò xo vậy.

Lúc ấy mọi người mới biết Thái Cực Kiếm pháp quả thật ảo diệu vô cùng.

Trương Tam Phong truyền cho Vô Kỵ là truyền kiếm ý chứ không phải là thế kiếm, nên chàng càng quên những thế kiếm bao nhiêu càng lượm được thần túy của pho kiếm đó bấy nhiêu. Lúc lâm trận lấy ý kiếm sẽ thiên biến vạn hoá vô cùng, vô tận.

Nếu trong lòng còn nhớ một hai kiếm pháp không sao thuần được. Nguyên lý này chỉ có Dương Tiêu và Thiên Chính mấy tay cao thủ thượng thặng hay biết thôi. Chu Ðiên tài ba kém hơn những người đó nên mới lo âu như trên.

Lúc ấy Ðông Phương Bạch càng đấu càng giở những kiếm pháp lợi hại ra tấn công, khiến mọi người đứng xem nôi đó chỉ thấy hơi lạnh dồn dập vào người nên ai nấy đều run lẩy bẩy, còn Vô Kỵ múa thanh kiếm gỗ, chàng dùng ý vận dụng thanh kiếm, mỗi một thế kiếm của chàng đánh ra, tựa như một sợi dây quấn chặt lấy thanh bảo kiếm của đối thủ vậy! Nên hai người đấu được hai trăm hiệp thì thế kiếm của Ðông Phương Bạch đã chậm dần. Bảo kiếm trong tay y hình như càngn gày càng nặng trĩu. Vì vậy, mọi người thấy y đâm ra một kiếm là phải dùng rất nhiều hơi sức. Thế kiếm nào y không đủ hơi sức là bị kiếm gỗ của đối thủ quay quần mấy vòng liền.

Càng đấu, Ðông Phương Bạch càng sợ hãi.

Y thấy đã đấu được hơn ba trăm hiệp rồi mà không sao chặt gãy được thanh kiếm gỗ của Vô Kỵ.

Từ lúc ra đời đến giờ y chưa hề đấu với ai mà thấy đối thủ lợi hại như vậy. Trong ba trăm hiệp y không sao đụng được kiếm gỗ của địch, đồng thời y thấy thế kiếm của đối phương tựa như một cái lưỡi lớn cứ bao trùm lấy người và kiếm của y dần. Y đã thay đổi đến sáu bảy pho kiếm thuật rồi mà không sao thoát khỏi được lưỡi kiếm của Vô Kỵ, trừ Trương Tam Phong ra, không một ai trông thấy rõ được thế kiếm của Ðông Phương Bạch vừa đánh ra là công hay là thủ và cũng không biết Vô Kỵ đã sử dụng bao nhiêu thế kiếm chỉ thấy kiếm của chàng liên miên bất tuyệt, cũng có thể nói từ lúc bắt đầu với đối thủ đến giờ chàng chỉ sử dụng một thế kiếm cũng được!

Họ chỉ thấy thế kiếm của chàng biến hoá vô tuyệt, ứng phó bất cùng.

Trong lúc mọi người đang ngơ ngác thì Ðông Phương Bạch bỗng rú lên một tiếng thật dài, râu tóc của y đều dựng ngược.

Y nhanh tay đâm thẳng thanh bảo kiếm vào người đối thủ. Thế kiếm này y dồn hết sức lực vào tựa như thí mạng tấn công một thế chót vậy.

Thấy thế kiếm của đối phương vừa mạnh vừa ác độc, Vô Kỵ vội quay kiếm lại chống đỡ, Ðông Phương Bạch khẽ xoay tay một cái lưỡi kiếm của y đụng ngay vào kiếm gỗ của Vô Kỵ yêu đến “các” một tiếng rất khẽ.

Thanh kiếm của Vô Kỵ bị chặt gãy một khúc chừng sáu tấc, đồng thời mũi kiếm của Ỷ Thiên Kiếm đang nhắm ngực chàng mà đâm tới.

Vô Kỵ thất kinh xoay tay trái, chìa hai ngón tay ra kẹp luôn vào cánh tay phải của địch thủ. Tuy kiếm của chàng là kiếm gỗ nhưng chàng vận Cửu Dương Thần Công chém xuống lưỡi kiếm đó sắc bén không kém gì một thanh kiếm bằng gang.

Ðông Phương Bạch vội vận sức vào cánh tay phải để dằn lại bảo kiếm, nhưng bảo kiếm của y bị hai ngón tay của đối phương kẹp chặt không khác gì cắm chặt vào một tảng sắt nên y kéo mãi, cũng không sao lôi lại được!

Dưới tình cảnh này y chỉ còn có một cách là buông thanh kiếm ra và nhảy lùi ra phía xa tránh né thôi.

Y đang suy tính thì Vô Kỵ đã quát lớn:

– Mau buông tay ra!

Nhưng Ðông Phương Bạch cứ nghiến răng mím môi, nhất định không chịu buông tay ra. Trong lúc hai người đang dằn co bỗng có tiếng kêu “bộp”, cánh tay của Ðông Phương Bạch đã bị thanh kiếm gỗ của Vô Kỵ chém đứt y như đã bị một thanh kiếm thật sắc bén chém phải vậy! tuy vậy Ðông Phương Bạch vẫn không chịu buông tay ra.

Y định hy sinh cánh tay mà bảo vệ lấy thanh kiếm, Vô Kỵ thấy đối thủ can đảm như vậy cũng phải kinh hãi và ăn năn thầm, vì vậy chàng không đang tâm cướp thanh bảo kiếm của đối thủ nữa, liền buông ra cho đối thủ đi!

Ðông Phương Bạch cầm thanh bảo kiếm đi tới trước mặt Triệu Minh vái chào và nói:

– Thưa chủ nhân! Tiểu nhân bất tài không làm tròn được sứ mạng, xin chủ nhân cứ trị tội!

Triệu Minh lạnh lùng đáp:

– Ta bảo mi ra chém hai cánh tay của tiểu tử ấy mà!

Ðông Phương Bạch sắc mặt nhợt nhạt đáp:

– Vâng!

Y liền múa ngược kiếm tự chém đứt nốt cánh tay còn lại.

Mọi người thấy vậy lại càng kinh ngạc hơn lúc y bị Vô Kỵ dùng kiếm gỗ chém đứt cánh tay kia, nên mọi người không ai bảo ai mà kêu “Ủa” một tiếng.

Vô Kỵ cả giận chỉ tay vào mặt Triệu Minh mắng chửi:

– Triệu cô ngương độc ác thực! Phương tiên sinh đã tận lực đấu với tôi rồi tại sao cô nương lại còn bắt tội Phương tiên sinh như thế nữa?

Triệu Minh lạnh lùng đáp:

– Do người chém đứt tay y trước chứ có phải ta ra tay chém y đâu, như vậy người rất độc ác mà còn vu tội cho ta nữa!

Vô Kỵ thấy nàng cãi bướng như vậy càng tức giận thêm:

– Cô… cô…

Vì quá tức giận chàng không sao nói tiếp được, trái lại Triệu Minh tủm tỉm cười, nói tiếp:

– Y là đầy tớ của ta, việc gì đến ngươi mà ngươi quan tâm bênh vực cho y?

Nói tới đó, nàng liếc mắt nhìn Trương Tam Phong và nói tiếp:

– Ngày hôm nay mặt Trương Giáo chủ của Minh Giáo mà buông tha cho phái Võ Ðang.

Nói xong, nàng phẩy cánh tay một cái và bảo với bộ hạ rằng:

– Ði thôi!

Mấy tên thủ hạ liền bế Ðông Phương Bạch, thằng Hai và Vũ Văn Sách lên rồi đi ra ngoài điện.

Hồi thứ 62

Lời Hứa Ngàn Vàng

Vô Kỵ liền gọi với:

– Hãy khoan đã! Nếu không để thuốc cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục lại thì các người đừng mong rời khỏi núi Võ Ðang này!

Nói xong, chàng tung người đuổi theo, giơ tay ra định chộp lấy đầu vai của Triệu Minh. Tay của chàng còn cách hơn thước đã chộp tới đầu vai của Triệu Minh, chàng bỗng cảm thấy có hai luồng quyền phong ở tả hữu lẳng lặng tấn công tới.

Chàng kinh hãi vô cùng, vội thu chưởng lại để chống đỡ hai luồng quyền phong kia…

Vô Kỵ thu tay lại, đưa song chưởng ra, chưởng bên phải của chàng chống đỡ quyền phong ở bên phải đánh tới, chưởng trái của chàng đỡ thế công của địch ở bên trái, thế là bốn chưởng va chạm nhau. Chàng liền cảm thấy sức lực của đối phương rất mạnh và chưởng lực của hai kẻ địch đó lại còn xen lẫn một hơi lạnh giá buốt vô cùng!

Chàng nhận ra ngay đó là Huyền Minh Thần Chưởng, vì hơi lạnh này đã làm nguy chàng khá lâu năm rồi!

Chàng kinh hãi vô cùng, liền vận Cửu Dương Thần Công ra chống đỡ.

Chàng đột nhiên thấy hai bên hông bị kẻ địch đánh mỗi một bên chưởng.

Chàng kêu “hự” một tiếng, người bắn lui về phía sau.

Chàng đã nhìn thấy rõ hai kẻ địch đánh lén mình là hai ông già vừa gầy vừa cao.

Dương Tiêu, Nhất Tiếu thấy hai ông già nọ đánh lén Vô Kỵ như vậy liền cả giận xông lại.

Hai ông già nọ lại múa chưởng ra chống đỡ luôn chưởng của Dương Tiêu và Nhất Tiếu, chỉ nghe thấy kêu “bùng! bùng!” hai tiếng, Nhất Tiếu và Dương Tiêu cùng bị bắn lùi về phía sau mấy bước và cảm thấy máu trong người đảo ngược, hơi lạnh buốt xương nữa! Hai ông già kia cũng loạng choạng mấy bước mới đứng yên được!

Ông già bên phải liền cười nhạt nói:

– Tưởng Minh Giáo lợi hại như thế nào, không ngờ lại chỉ có thế thôi!

Nói xong y quay người trở lại bảo vệ Triệu Minh đi luôn.

Mọi người sợ Vô Kỵ bị thương, vội quây quần bên chàng xem sao nên không ai đuổi theo kẻ địch nữa.

Thiên Chính vội ẳm chàng lên, vẻ mặt lo âu nhưng chàng đã xua tay tỏ vẻ không việc gì, vì chàng đã phát động Cửu Dương Thần Công đầy hơi lạnh của Huyền Minh chưởng ra khỏi thân người rồi!

Vô Kỵ thấy mọi người vẫn tỏ vẻ lo âu liền lên tiếng nói:

– Ông ngoại với các vị tiên sanh khỏi lo âu, tôi không việc gì cả. Các vị hãy đứng lui ra, bằng không chịu không nổi những hơi lạnh mà tôi đang dồn ở trong người ra.

Mấy người đứng cạnh công lực hơi kém đang run lẩy bẩy.

Mọi người thấy chàng đã lên tiếng nói được mới yên chí và tuân lời đứng lùi ra phía xa. Giây phút sau mọi người thấy trên đỉnh đầu của chàng có hơi khói trắng bốc lên và thấy chàng cởi áo ngoài ra mới hay hai bên hông của chàng có hai dấu vết bàn tay đen sì, nhưng chỉ trong thoáng cái, hai dấu vết đó đã biến thành màu tía rồi màu tía biến thành màu xám và lu mờ dần cho chí hết.

Trước sau không đầy nửa tiếng đồng hồ mà chàng đã dồn được hết những hơi hàn độc đó ra mà trước kia chàng cũng bị hơi hàn độc này phải chịu khổ mấy năm mà trải qua rất nhiều danh sư, kể cả Trương Tam Phong cũng không sao chữa khỏi cho chàng được!

Vô Kỵ đứng dậy vừa cười vừa nói:

– Tuy phen này trải qua một cuộc rất nguy hiểm, nhưng chúng ta đã nhận ra được mặt mũi của đối thủ.

Lúc Dương Tiêu, Nhất Tiếu đối chưởng với hai ông già kia đã giở hết toàn lực ra đối địch, vì thế âm độc Huyền Minh chỉ xâm nhập đến cổ tay thôi chứ không thể xâm nhập vào thân thể của hai người được, nhưhg hai người vẫn phải ngồi xếp bằng tròn vận khí để dồn hơi độc đó ra. Hai người phải mất hêt hơn hai tiếng đồng hồ mới dồn hết hơi độc đó ra.

Lúc ấy Ngô Kình Thảo, Chưởng Kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ bước vào bẩm kẻ địch đã rút khỏi núi Võ Ðang rồi!

Ðại Nham liền bảo đạo sĩ tri khách sửa soạn cơm chay để khoản đãi các người của Minh Giáo.

Trong bữa tiệc, Vô Kỵ liền nói rõ hết nguyên nhân cho Ðại Nham nghe.

Tam Phong liền hỏi:

– Năm nọ cũng trên điện Tam Thanh này, ta đã đối một chưởng với một trong hai ông già đó, nói ra thật xấu hổ. Cho tới ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa biết rõ lai lịch của kẻ địch ra sao.

Dương Tiêu vội đỡ lời:

– Chúng tôi không hiểu lai lịch của thiếu nữ họ Triệu! Huyền Minh nhị lão có võ nghệ cao siêu như thế mà chịu để nàng sai bảo thật là lạ.

Vô Kỵ xen lời nói:

– Bây giờ có hai việc lớn cần phải làm ngay. Việc thứ nhất là chúng ta phải đi cướp cho được thuốc cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục để chữa cho Dư Tam Sư bá và Hân Lục thúc. Việc thứ hai là phải dò xét xem là hiện giờ Tống Ðại Sư bá ở đâu? Cả hai việc đó chỉ bắt được cô bé họ Triệu là xong hết!

Ðại Nham gượng cười lên tiếng:

– Ta tàn phế hai mươi năm rồi, bây giờ dù có thuốc tiên cũng không thể nào chữa khỏi được, chỉ có việc cứu Tống Ðại Ca với chữa cho Lục Sư đệ là cần hơn hết!

Vô Kỵ đáp:

– Vâng! Việc này không nên trì hoãn, mời Dương Tả sứ, Vi Bức Vương, Nói Không Ðược Ðại sư ba người cùng tôi xuống núi đuổi theo kẻ địch! Ngũ Hành Kỳ, mỗi kỳ phái một vị Chưởng kỳ phó sứ đi Nga Mi, Hoa Sơn, Côn Luân, Không Ðộng và Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến năm nơi, liên lạc với các môn phái đó để dò thăm tin tức. Xin mời ông ngoại với cậu đi Giang Nam chỉnh đốn lại giáo chúng của Bạch Mi Kỳ. Còn Thiết Quan Ðạo Chưởng, Chu tiên sinh, Bành Ðại Sư và Chưởng Kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ hãy tạm đồn trú ở trên Võ Ðang này. Nhưng việc gì cũng phải nghe Thái sư phụ của tôi là Trương Chân Nhân chỉ bảo.

Chàng dặn bảo xong, Thiên Chính, Dương Tiêu, Nhất Tiếu đứng dậy nhận lệnh.

Ban đầu Tam Phong còn hoài nghi chàng còn ít tuổi như vậy thì làm sao mà thống trị nổi quần hào.

Lúc này Chân Nhân thấy chàng đặt kế hoạch ra lệnh rất oai nghi, đồng thời lại thấy các đại hào kiệt trong võ lâm như Thiên Chính… đều nghe lệnh chàng răm rắp nên Chân Nhân mừng thầm và nghĩ:

– Lúc nãy ta thấy nó học được Thái Cực Quyền và kiếm của ta,ta chỉ cho nó nội công cao thâm và có bộ óc thông minh thôi, tuy học được nhanh chóng như nó cũng đã khá lắm rồi. Nhưng như vậy vẫn chưa phải là đáng quý. Bây giờ ta thấy nó có tài cai quản được Minh Giáo khiến các Ðại Ma đầu như cha con Thiên Chính mà cũng phải nghe theo lời y đi theo con đường chính đạo. Việc như vậy mới là đại sự mà ít người có thể làm nổi. Hi… Hi… Thúy Sơn đã có người kế hậu!… Thúy Sơn đã có người kế hậu!…

Nghĩ tới đó Chân Nhân vuốt râu mỉm cười.

– Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Nhất Tiếu và Nói Không Ðược ăn qua loa cho đỡ đói rồi từ biệt Trương Tam Phong xuống núi tìm tung tích của Triệu Minh. Bọn Thiên Chính tiễn chàng với ba người kia xuống tận chân núi rồi mới từ biệt.

Bất Hối vẫn quyến luyến theo cha.

Nàng tiễn chân hơn dặm đường nữa, Dương Tiêu liền nói:

– Thôi con hãy trở về trông nom Hân Lục thúc!

Bất Hối vâng lời đưa mắt nhìn Vô Kỵ rồi đột nhiên mắc cỡ mặt đỏ bừng khẽ nói:

– Vô Kỵ đại ca! Em có mấy lời muốn thưa cùng anh!

Dương Tiêu và Nói Không Ðược ba người thấy vừa cười thầm và nghĩ:

– Hai người chơi với nhau từ hồi còn nhỏ, nay phải chia tay với nhau thế nào lại không có chuyện tư riêng nói với nhau!

Nghĩ vậy ba người rảo bước đi trước để cho Vô Kỵ và Bất Hối hai người nói chuyện riêng với nhau.

Bất Hối thấy mọi người đi khỏi liền lên tiếng nói tiếp:

– Vô Kỵ đại ca lại đằng này để em thưa chuyện!

Nói xong nàng dắt tay chàng đi tới tảng đá ở dưới chân núi, ngồi xuống.

Vô Kỵ hoài nghi vô chuyện và nghĩ:

– Ta quen biết nàng từ hồi còn nhỏ, tình giao hảo giữa đôi ta rất mật thiết. Nhưng lần này, không hiểu tại sao nàng lại có vẻ lạnh lùng không thèm nói chuyện với ta như vậy? Vì lẽ gì nàng lại gọi ta ra ngoài này nói chuyện?

Bất Hối mặt đã đỏ hơn trước cúi đầu giây lát rồi mới nói được:

– Vô Kỵ đại ca! Lúc má em tạ thế có nhờ đại ca trông nom em phải không?

– Phải!

– Ðại ca không quản ngại xa xôi lên tận Tây Vực giao em cho cha em. Trong khi đi đườngphải vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu gian truân khổ sở, ơn đức ấy em không biết lấy gì báo đền cho đặng. Em chỉ in sâu trong đáy lòng chứ không dám thưa cùng đại ca lời nào cả!

– Tưởng cô nương nói gì chứ việc đó hà tất cô phải nói đến. Nếu tôi không đưa cô lên Tây Vực thì tôi gì có những sự gặp gỡ may mắn này? Và có lẽ lúc này hơi hàn độc ở trong người tôi làm nguy, tôi đã chết từ lâu rồi!…

– Không! Không! Ðại ca là người hiệp nghĩa như thế nên dù gặp nguy hiểm đến đâu, cũng thoát nạn! Ðại ca mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, vì thế em có nhiều chuyện không dám thưa với đại ca. Ðại ca là giáo chủ của tất cả mọi người nhưng trong thâm tâm em thì em vẫn coi đại ca như một người anh ruột vậy. Ngày nọ trên Quang Minh Ðỉnh, em thấy đại ca bình yên vô sự trở về, lòng em mừng khôn tả! Nhưng em không tiện nói chuyện thẳng với đại ca chẳng hay đại ca có trách em không?

– Không trách! Tất nhiên tôi không trách!

– Em đối đãi với Tiểu Siêu rất hung ác và rất tàn nhẫn, chắc đại ca thế nào cũng phật lòng? Nhưng đại ca nên hiểu cho, mẹ em chết thảm thương như vậy, nên đối với kẻ ác nào em cũng oán hận. Nhưng từ khi em thấy Tiểu Siêu hầu hạ đại ca chu đáo như vậy, em không còn oán Tiểu Siêu nữa!

– Con nhãi… con Tiểu Siêu lạ lùng lắm! Nhưng tôi thấy nàng không phải là một người xấu!

– Vô Kỵ đại ca! Có phải cha mẹ em đã không tốt với Hân… Lục thúc không?

– Chuyện quá khứ cô còn nhắc đến nữa mà làm chi?

– Không! Người khác cho câu chuyện trải qua đã lâu thật. Nhưng với Hân Lục thúc, em thấy Lục thúc vẫn còn nhớ má em. Lần này Lục thúc bị thương nặng, ngày đêm mê man bất tỉnh, và cứ luôn luôn nắm chặt lấy tay em kêu gọi: Hiểu Phù! Hiểu Phù…

Lục thúc lại còn nói: Hiểu Phù! Em đừng rời bỏ anh nữa! Chân tay anh đã què hết. Anh đã là một con người tàn phế, em đừng bỏ anh nữa…

Bất Hối nói đến đây nước mắt ràn rụa.

Vô Kỵ an ủi:

– Ðó là lời nói trong lúc mê sảng của Lục thúc, hà tất cô phải để ý làm gì?

– Không phải! Ðại ca không biết đâu! Em biết rõ lắm, khi Lục thúc tỉnh táo mở to mắt nhìn em cũng nói như vậy, đủ thấy lời nói của Lục thúc không giả dối chút nào!

Vô Kỵ thở dài một tiếng, chàng biết vị sư thúc đó võ công tuy rất cao cường nhưng người lại rất nặng tình. Hồi chàng còn nhỏ vẫn thường thấy Lợ Hanh chỉ vì một hai chuyện nhỏ mọn nào đó cũng có thể khóc dễ dàng. Chàng biết cái chết của Hiểu Phù đã kích thích Lợi Hanh rất nhiều, nhất là lúc này vị sư thúc đó lại đang bị tàn phế, nên trong lòng mới hoang mang.

Nghĩ vậy Vô Kỵ liền nói tiếp:

– Tôi sẽ cố gắng cướp được Hắc Ngọc Ðoan Tục Cao để chữa cho Tam Sư Bá và Lục sư thúc được lành mạnh!

Hân Lục thúc đối đãi với em như vậy, em càng nghĩ tới lỗi lớn của cha mẹ em đối với Lục thúc và em càng thương hại ông ta…Vô Kỵ đại ca! Em đã nhận lời Hân… Hân Lục thúc rồi!… Dù tay chân của Lục Thúc có khỏi hay không em cũng hầu hạ Lục thúc suốt đời, không bao giờ chịu rời khỏi Lục thúc nữa!…

Nói đến đây, nàng khóc rưng rức, mặt nàng có vẻ xấu hổ nhưng cũng ẩn sự mừng thầm.

Vô Kỵ thấy Bất Hối nói như vậy, giật mình kinh hãi, không ngờ nàng thương hại Lợi Hanh đến mức đó!

Vô Kỵ kinh ngạc đến nỗi chỉ gọi:

– Cô… cô…

– Em đã nói trắng ra với Lục sư thúc rồi! Em vui lòng theo ông ấy suốt đời, dù suốt đời ông ta vẫn tàn tật như thế này.

– Nhưng cô…

– Không phải nhất thời xúc động mà em nhận lời ông ta đâu, em đã nghĩ kỹ lắm rồi! Không những ông ta không thể xa được em mà em cũng không thể nào xa được ông ta! Nếu vết thương của ông ta chữa không khỏi và nếu vì thế mà ông ta có mệnh hệ nào thì em chả muốn sống nữa.

Bỗng Bất Hối nắm tay Vô Kỵ và nhìn thẳng vào mặt chàng. Nhưng rồi nàng bỗng xấu hổ, mặt đỏ bừng, quay đầu ù té chạy luôn…

Vô Kỵ chờ khuất bóng Bất Hối mới đuổi theo Nhất Tiếu các người.

Nói Không Ðược và Nhất Tiếu thấy nơi khoé mắt của chàng hơi ướt, liền đưa mắt nhìn Dương Tiêu tủm tỉm cười.

Hai người tưởng lầm là Vô Kỵ đã yêu Bất Hối và hai người sắp lấy nhau.

Bốn người ra khỏi dãy núi Võ Ðang, Dương Tiêu liền lên tiếng hỏi:

– Triệu cô nương đi đến đâu cũng tiền hô hậu ủng. Như vậy, việc kiếm tìm nàng không khó chút nào. Bây giờ chúng ta hãy chia làm bốn ngả mà tìm kiếm. Trưa mai chúng ta sẽ gặp nhau ở Cốc Thành. Chẳng hay Giáo chủ nghĩ sao?

Vô Kỵ đáp:

– Hay lắm! Như vậy tôi đi về phía Tây!

Cốc thành ở về phía Ðông của dãy núi Võ Ðang.

Vô Kỵ đi về phía Tây sẽ phải mất nhiều đường hơn mọi người.

Trước khi đi chàng còn dặn bảo ba người kia rằng:

– Huyền Minh nhị lão võ công rất lợ hại, nếu ba vị gặp nọ có thể tránh được thì tránh, không nên mạo hiểm ra tay đấu với họ làm chi?

Ba người đều nhận lời, liền vái chào chàng đi mỗi người một phương.

Vô Kỵ đi về phía Tây, đường núi rất khó đi nên chàng phải giở khinh công ra đi.

Ði được hơn tiếng đồng hồ chàng đã tới thị trấn Thập Yết, chàng vào trong tiệm ăn gọi tô mì.

Trong khi ăn, chàng hỏi người phổ ky có thấy cái kiệu phủ đoạn vàng nào đi qua đây không?

Người phổ ky đáp:

– Thưa có! Còn có ba người bị bệnh nặng nằm trên ba cái cáng nữa. Họ đã đi cả về phía Tây, có lẽ đi về thị trấn Hoàng Long cũng nên? họ mới đi chừng một tiếng đồng hồ thôi!

Vô Kỵ thấy người phổ ky ấy nói như vậy, mừng rỡ vô cùng bèn nghĩ thầm:

– Bọn người này đi không nhanh đâu! Chi bằng ta chờ tới lúc trời tối hẳn rồi hảy đuổi theo cũng không muộn và khỏi lộ hành tung!

Nghĩ đoạn chàng đi tới một chỗ vắng vẻ, kiếm một tảng đá lớn ngủ tạm chờ đến canh một mới tiến thẳng tới Hoàng Long trấn.

Khi đi tới thị trấn đó, trời mới canh hai, Vô Kỵ núp sau góc tường, thấy trên đường phố vắng, không có một bóng người nào lại cả, chỉ có một khách điếm ở gần đó vẫn còn mở cửa, bên trong đèn đuốc sáng choang.

Chàng muốn điều tra rõ lai lịch của Triệu Minh nên đành phải liều lĩnh giở khinh công tuyệt kỹ ra, tung mình nhảy lên trên nóc nhà, chàng nhảy qua mấy nóc nhà đã tới nóc khách điếm.

Trong bóng tối, chàng đưa mắt nhìn về phía xa, thấy trên bờ sông ngoài thị trấn có dựng một lều vải.

Trước sau lều đều có thấp thoáng bóng người.

Chàng biết những người đó là những ke canh gác mới nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ Triệu cô nương lại trong cái lều vải kia? Diện mạo ngôn ngữ của nàng như người hán, nhưng việc ăn ở lại giống người Mông Cổ.

Chàng đang nghĩ ngợi bỗng nghe có tiếng người rên từ cửa sổ khách điếm vọng ra. Chàng bèn nghĩ ra một kế, rón rén lại gần cửa sổ, vén màn nhìn vào trong, thấy có ba người nằm trên ba cái giường.

Chàng trông thấy mặt người nằm gần bên cửa sổ chính là Vũ Văn Sách.

Y đang rên rỉ. Chắc vết thương đau đớn lắm! Hai cánh tay và hai đùi của y đều băng bó vải trắng, chàng sực nghĩ:

– Chân tay của y bị ta đánh gãy, chắc thế nào y cũng dùng thứ thuốc cao đó băng bó, lúc này mà ta không vào cướp m1on thuốc đó đi thì còn đợi chừng nào nữa?

Nghĩ đoạn, chàng đẩy cửa sổ rồi nhảy luôn vào phòng.

Người đứng ở trong phòng thốt nhiên giật mình kinh hãi, thất thanh kêu là một tiến rồi múa quyền nhằm chàng tấn công luôn.

Vô Kỵ chộp luôn quyền của đối thủ và điểm luôn yếu huyệt cho kẻ địch bị tê liệt ngay.

Lúc này chàng đã thấy rõ hai người nằm ở hai giường kia là thằng Hai với Ðông Phương Bạch, còn người vừa bị chàng điểm huyệt cho tê liệt, mình mặc áo vải xanh, tay cầm hai mũi kim vàng, chàng đoán chắc người này đang châm cứu cho ba người kia khỏi đau nhức.

Trên bàn chàng thấy có để một cái bình màu đen, cạnh bình mấy miếng vải nhung.

Chàng vội cướp luôn cái bình đen đó mở nút ra ngửi liền thấy có một mùi vừa cay vừa hăng xông lên mũi.

Văn Sách liền la lớn:

– Có người đến cướp thuốc…

Vô Kỵ vội ra tay điểm luôn cho ba người nằm ở trên giường câm khẩu hết. Ðồng thời chàng xé miếng vải băng bó trên cánh tay Văn Sách ra xem.

Quả nhiên chàng thấy miếng vải đó có bôi thuốc cao đen nhánh.

Chàng biết Triệu Minh đa mưu lắm kế cố ý để bình thuốc giả lại để cho mình bị mắc hởm, nên chàng lại bóc thuốc cao dán ở những vết thương của thằng Hai và Văn Sách, bọc vào trong miếng vải và nghĩ thầm:

– Dù trong bình này là giả đi chăng nữa, nhưng những thuốc trên vết thương của chúng tất nhiên không phải là thuốc giả rồi…

Lúc này người canh gác bên ngoài đó tung cửa phòng bước vào.

Vô Kỵ không thèm nhìn người đó, chỉ giở chân lên đá luôn.

Trong khách sạn có tiếng ồn ào và liên tiếp có rất nhiều người xông vào phòng.

Chàng liên tiếp đá luôn sáu người té ngã và tay chàng đã bóc hết thuốc cao ở các vết thương của thằng Hai và Văn Sách rồi.

Chàng nghĩ thầm:

– Nếu lúc này ta không đào tẩu ngay nhở Huyền Minh nhị lão tới nơi thì phiền phức lắm!

Nghĩ đoạn, chàng bèn bỏ bình thuốc và những thuốc cao bóc được vào trong túi rồi cắp luôn người y sĩ nằm dưới đất nhảy ra cửa sổ, đi liền!…

Chàng vừa ra khỏi cửa sổ thì y sĩ bị chàng cắp dưới nách đã bị đánh một chưởng rớt xuống đất.

Không ngờ, ngoài cửa sổ lại có cao thủ mai phục và đánh lén như vậy, chàng vừa nhảy ra cửa sổ đó đã có hai người cầm đao nhảy ra múa đánh.

Chàng vội giở Càn Khôn Ðại Nã Di Tâm Pháp ra lôi khí giới của hai tên đó để chúng nó tự đâm chém lẫn nhau.

Trong lúc hỗn loạn, chàng nhanh chân đào tẩu luôn.

Lúc này chàng không kịp đi tới Cốc Thành đợi chờ Dương Tiêu các người, mà phải trở ngay về núi Võ Ðang.

Chàng sai người của Hồng Thủy Kỳ đi Cốc Thành gọi bọn Dương Tiêu về ngay núi Võ Ðang.

Trương Tam Phong thấy Vô kỵ đã cướp được Hắc Ngọc Ðoạn Tục Cao, mừng rỡ vô cùng.

Vô Kỵ lấy thuốc cao bóc ở vết thương của Văn Sách ra so sánh với thuốc cao trong lọ. Quả thật là một thứ bình đựng thuốc cao đó chế bằng một viên ngọc lớn đen nhánh sờ tay vào thấy ấm ấm. Thật là thứ bình quý hiếm có.

Vô Kỵ không hoài nghi gì nữa, sai người khiêng Lợi Hanh vào trong phòng Ðại Nham để sát hai giường gần nhau.

Bất Hối theo vào, nhưng nàng không dám nhìn mặt Vô Kỵ.

Tuy mặt nàng vẫn tỏ vẻ cám ơn Vô Kỵ vô cùng.

Vô Kỵ nói với Ðại Nham:

– Tam sư bá, những vết thương cũ của sư bá đã liền da, bây giờ chữa lại, cháu phải đánh gãy những khớp xương đã nối liền, rồi nối lại. Như vậy thế nào cũng đau đớn lắm, mong sư bá chịu đựng đôi chút.

Ðại Nham không tin mình tàn tật đã hai mươi năm mà lúc này còn có thể chữa khỏi được, nhưng Tam Hiệp không dám nói ra, chỉ nghĩ thầm:

– Vô Kỵ muốn gỡ tội cho cha mẹ, y đã tận tâm đi lấy thuốc cao, nếu không để cho y chữa khỏi suốt đời y sẽ không yên. Ta chịu đau chốc lát đã sao đâu?

Nghĩ đoạn, Tam hiệp mỉm cười đáp:

– Cháu cứ yên trí chữa. Dù có đau đến đâu, ta cũng chịu được.

Vô Kỵ bảo Bất Hối đi ra ngoài, rồi đóng cửa lại, cởi hết quần áo Ðại Nham ra.

Chàng sờ mó, nhưng chỗ xương bị gãy đã liền lặn, nhiên hậu điểm huyệt cho Ðại Nham ngủ say, chàng mới vận sức vào đôi ngón tay, khẽ gõ vào những khớp xương đã gãy trên người đại Nham.

Tuy bị điểm huyệt ngủ, Ðại Nham vẫn thấy đau và tỉnh lại.

Vô Kỵ vội vàng lấy thuôc cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục dán vào những chỗ xương của Ðại Nham mà chàng vừa đánh gãy, và băng bó lại, rồi chàng chữa cho Lợi Hanh.

Khi băng bó cho người Lục sư thúc đã xong, Vô Kỵ thấy mồ hôi đã ướt đẫm.

Chàng liền phái chính phó chưởng kỳ sứ của Ngũ hành kỳ lần lượt canh gác cho hai người ngủ, đề phòng kẻ địch khỏi tới quấy nhiễu.

Chiều hôm đó, vì quá mỏi mệt, chàng vào trong phòng nghỉ ngơi.

Trong lúc mơ màng bỗng nghe tiếng chân người đi rất khẽ và có người đứng ở trước cửa phòng ngó vào nhưng chàng đã nghe thấy Tiểu Siêu hỏi:

– Có việc gì thế? Giáo Chủ đang ngủ.

Chưởng kỳ sứ của hậu thổ Kỳ khẽ trả lời:

– Hân Lục hiệp đau đến chết giấc ba lần, không biết Giáo chủ…

Vô Kỵ nghe Nhân Bổn chưa nói dứt câu, đã vội chạy ra ngoài phòng và chạy tới phòng Ðại Nham.

Chàng thấy Lợi Hanh trợn ngược hai mắt, lại chết giấc lần nữa.

Bất Hối lo âu, nước mắt nhỏ ròng.

Còn Ðại Nham thì nghiến răng chịu đựng.

Tam Hiệp rất can trường, dù đau dớn đến đâu cũng không rên nửa tiếng. Thấy tình hình như vậy Vô Kỵ kinh hãi vô cùng, vội xoa bóp mấy yếu huyệt cho Lợi Hanh để cứu sư thúc đó lại tỉnh lại.

Ðồng thời chàng hỏi Ðại Nham rằng:

– Tam sư bá, có phải chỗ xương gãy đau lắm phải không?

Ðại Nham đáp:

– Không những đau mà gan ruột tạng phủ ngứa ngáy khó chịu… hình như, hình như có nghìn vạn con kiến đang chui rúc trong ấy vậy.

Nghe Ðại Nham nói như vậy Vô Kỵ càng kinh hãi thêm, chàng biết đó là hiện tượng trúng độc rất nặng.

Chàng lại hỏi Lợi Hanh:

– Lục thúc thấy sao?

Lợi Hanh đáp:

– Ðỏ kìa, tía kìa, xanh kìa, vàng, lắm kìa… ô đẹp mắt quá, lại có những trái cầu nhỏ bay múa quay đi quay lại… đẹp quá đẹp tuyệt, xem kìa, xem kìa…

Vô Kỵ thết lớn một tiếng và cũng suýt nữa thì chết giấc ngay. Chàng liền nghĩ tới trong cuốn sách Ðộc Kinh của Vương Nạn Cô có nói rằng “Thất trùng thất hoa cao, dùng bảy thứ độc trùng và bảy thứ hoa độc giả nát làm thành thuốc cao, kẻ trúng độc thoạt tiên, thấy nội tạng ngứa ngáy khó chịu như bị bảy thứ trùng cắn phải, sau lại thấy mắt hoa, trông thấy những màu sắc chói lọi và đẹp vô cùng như là bảy thứ hoa đang bay múa vậy…”

Càng nghĩ chàng càng hoảng sợ toát mồ hôi. Chàng biết phen này lại mắc hởm Triệu Minh lần nữa.

Thì ra bình thuốc cao đó không phải là Hắc Ngọc Ðoạn Tục cao mà là Thất Hoa Cao mà Văn sách và thằng Hai cùng bôi thứ thuốc có độc này Triệu Minh đã không thương tiếc tính mạng của hai tay cao thủ để dụ Vô Kỵ vào trong, lòng ác độc của nàng không thể tưởng tượng được.

Chàng vừa suy nghĩ vừa nhanh tay gỡ hết thốc cao ở trên vết thương của Ðại Nham và Lợi Hanh đi, rồi chàng lại dùng rượu trắng rửa sạch những vết thương cho hai người. Thấy vẻ mặt của chàng rất trịnh trọng, Bất Hối biết việc chẳng lành, nên nàng cũn gkhông giữ lễ gì nữa, giúp sức chàng lấy rượu rửa các vết rhương cho Lợi Hanh.

Vô Kỵ không dám dùng thuốc khác cứu chữa cho hai người, chỉ cho hai người uống thuốc đỡ đau và an thần thôi.

Chàng ra phòng ngoài, trong lòng vừa kinh hãi, vừa xấu hổ.

Quá mệt mỏi, chàng bỗng ngã khuỵu hai chân xuống và nằm phục dưới đất khóc lóc. Bất Hối chạy đến cạnh, thấy vậy kinh hãi vô cùng, liền lớn tiếng kêu gọi:

– Vô Kỵ, Vô Kỵ đại ca.

Vô Kỵ vừa nức nở vừa đáp:

– Tôi đã giết hại Tam sư bá và Hân Lục thúc.

Nói xong, chàng nghĩ thầm:

– Thứ cao độc ấy chế bằng hơn trăm món độc dược và không biết Triệu Minh đã dùng bảy thứ độc trùng và bảy htứ độc hoa nào, muốn hòa giải thứ thuốc độc rất mạnh ấy phải dùng phương pháp dĩ độc công độc mới được. Không biết rõ thuốc của họ nhỡ chữa lầm Tam sư bá, Lục sư thúc sẽ mất ngay.

Nghĩ đoạn, chàng từ từ đứng dậy, Bất Hối vội hỏi:

– Có phải hết cách chữa rồi phải không? Ðại ca cứ miễn cưỡng thử xem, may ra cứu được cũng chưa biết chừng?

Vô Kỵ chỉ lắc đầu chứ không nói năng gì hết.

Lúc này Bất Hối rất tự nhiên chứ không có vẻ gì kinh hoảng hết.

Chàng bỗng nghĩ lại lời nói của nàng vừa rồi, liền suy nghĩ tiếp:

– Nếu ta giết Tam sư bá và Lục sư thúc thì Bất Hối cũng vhết theo, như vậy ta đã giết một lúc ba người…

Chàng đang hoang mang, Ngô Kinh Thảo vừa đi đến trước cửa và thưa rằng:

– Thưa Giáo chủ, Triệu cô nương đã tới đang đứng ở ngoài cửa quan xin vào yết kiến Giáo chủ.

Vô Kỵ nghe thấy Minh đã tới, phẫn uất vô cùng, liền la lớn:

– Nàng ta đâu? Ta đang tìm nàng ấy đây.

Bất hối vội rút trường kiếm ra cầm ở tay, lớn bước đi theo.

Tiểu Siêu cũng gỡ hoa hạt châu cắm ở trên mái tóc xuống đưa cho Vô Kỵ và nói:

– Công tử, đem chiếc hoa này trả cho Triệu cô nương đi.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn Tiểu Siêu và trong lòng nghĩ thầm:

– Cô bé này hiểu biết ý nghĩa của ta lắm! Ta đang thù hận cô bé họ Triệu.

Vô Kỵ, tay cầm kiếm, tay cầm chiếc hoa hạt châu rảo bước đi thẳng ra ngoài cửa quán. Chàng đã thấy Triệu Minh đứng một mình ở đó rồi.

Nàng ta đang cười, còn Huyền Minh nhị lão đang dắt ba con ngựa đứng ở chỗ cách xa nàng mười mấy trượng. Cả hai ông già đó đều quay mặt nhìn đi nơi khác.

Vừa trông Triệu Minh, Vô Kỵ đã nhảy ngay tới trước mặt nàng, một tay bắt lấy hai tay của nàng và một tay cầm kiếm, dí mũi kiếm vào ngực nàng quát hỏi:

– Mau đem thuốc giải tới đây cho ta.

Triệu Minh mỉm cười đáp:

– Giáo chủ đã uy hiếp tôi một lần, bây giờ lại muốn uy hiếp tôi lần nữa sao? Tôi tới thăm Giáo chủ thì tôi là khách, Giáo chủ đối đãi với khách như thế này à?

– Tôi muốn lấy thuốc giải, nếu cô không đưa thuốc giải cho tôi, cô đừng có hòng sống và tôi cũng vậy. cả hai ta cùng phải chết hết.

Mặt Triệu Minh hơi ửng đỏ, có vẻ hờn giận nói:

– Giáo chủ lạ thật. Giáo chủ muốn chết thì cứ việc chết, sao lại lôi cuốn tôi vào làm chi? Và còn bắt tôi chết theo để làm gì?

– Tôi không nói đùa với cô đâu, cô không đưa thuốc giải độc cho tôi thì cô phải chết theo tôi.

Triệu Minh thấy tay của Vô Kỵ đang nắm tay mình mà cứ run lẩy bẩy như người đang bị giá lạnh y, biết chàng quá khích động nên tay chân mới run như thế. Nàng lại cảm thấy gang bàn tay của chàng có một vật gì cứng rắn , vội hỏi:

– Tay Giáo chủ đang cầm vật gì thế?

– Hoa hạt châu, tôi định mang ra trả lại cho cô.

Nói xong, chàng giơ tay trái đã cắm chiếc hoa đó vào mái tóc của Triệu Minh liền, rồi chàng lại hạ tay xuống túm luôn chiếc tay đang buông xuôi của nàng.

Triệu Minh vội hỏi lại:

– Hoa này là của tôi đã tặng cho Giáo chủ, sao Giáo chủ lại không lấy?

– Cô đã làm cho tôi khốn khổ như vậy, tôi còn lấy đồ của cô làm chi nữa?

– Có thật Giáo chủ khôn g nhận đồ vật của tôi không? Vậy tại sao vừa gặp mặt Giáo chủ đã hỏi tôi lấy thuốc giải để làm gì?

Mỗi lần đấu khẩu, Vô Kỵ đều thua Triệu Minh , cả lần này cũng thế, chàng không sao trả lời được. Ðồng thời chàng nghĩ đến Tam sư bá và Lục sư thúc sắp chết đến nơi rồi, trong lòng đau đớn vô cùng, hai mắt đỏ ngầu suýt tí nữa nước mắt của chàng đã nhỏ giọt xuống. Chàng định lên tiếng van lơn, nhưng nghĩ đến thủ đoạn độc ác của Triệu Minh, chàng lại thôi, nhất định không chịu lép vế trước mặt nàng.

Lúc ấy, Thiên Chính các người đã hay tin, đều chạy ra ngoài cửa quan để xem, thấy Vô Kỵ đã Triệu Minh và Huyền Minh nhị lão thì đứng ở đằng xa, có vẻ dửng dưng, chứ không lo ngại chút nào. Mọi người liền đứng sang bên để xem.

Triệu Minh mỉm cười nói tiếp:

– Ðại ca là Giáo chủ của Minh Giáo, võ công cao cường nhất thiên hạ, nhưng hễ gặp việc gì nan giải, đại ca như một đứa trẻ thơ định khóc òa lên. Vừa rồi đại ca đã không phải không? Thật không biết xấu hổ. Ðại ca biết tôi đến đây để làm gì không? Vì tôi nghe thấy đại ca bị Huyền Minh nhị lão đánh trúng hai chưởng nên tôi phải tới đây để xem vết thương của đại ca ra sao, không ngờ vừa mới gặp mặt, đại ca cứ kêu sống kêu chết hoài, chẳng hay đại ca có chịu buông tay ra không?

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Dù ta có buông tay nàng cũng không thể nào tẩu thoát được.

Nghĩ đoạn, chàng liền buông tay Triệu Minh ra.

Triệu Minh đưa tay lên sờ vào chiếc hoa hạt châu rồi tủm tỉm cười và nói tiếp:

– Sao thế? Hình như đại ca không có bị thương gì cả?

– Huyền Minh thần chưởng có nghĩa lý gì đâu mà đả thương nổi tôi?

– Thế còn đại lực Kim Cương chỉ thì sao? Và thất trùng thất hoa cao…

Hai câu nói đó tựa như hai cái búa tạ giáng vào ngực Vô Kỵ, nên chàng hậm hực nói:

– Quả thật là thất trùng thất hoa cao không sai!

– Trương Giáo chủ, nếu Giáo chủ muốn lấy Hắc Ngọc đoạn tục cao, tôi cũng đưa ngay, mà muốn lấy thuốc giải của Thất trùng thất hoa cao, tôi cũng vui lòng đưa nó, nhưng cần nhất Giáo chủ phải nhận với tôi ba việc này thì tôi mới cam tâm giao tặng hai vật đó cho Giáo chủ. Nếu Giáo chủ định dùng võ lực cưỡng bách thì giết tôi rất dễ, chứ muốn lấy thuốc cao lại rất khó. Nếu Giáo chủ định dùng độc hình đối phó và bắt ép tôi, tôi sẽ đưa cho thuốc giả ngay.

Vô Kỵ cả mừng, vội hỏi:

– Ba việc gì thế? Hãy nói mau lên?

– Tôi chả nói cho Giáo chủ hay rồi là gì? Lúc này tôi chưa nghĩ ra, bao giờ tôi nghĩ đến, tôi sẽ thưa với Giáo chủ ngay. Quý hồ Giáo chủ đừng nuốt lời hứa là được rồi, tôi không bắt Giáo chủ lên trời lấy ông trăng xuống cho tôi. Tôi cũng không bảo Giáo chủ làm những việc trái với lương tâm, hay làm ngược đạo lý của võ lâm, tôi cũng không bảo Giáo chủ giết người hay nhảy vào chỗ chết.

Nghe nàng nói vậy, Vô Kỵ mới yên tâm và nghĩ thầm:

– Quý hồ ba việc yêu cầu của nàng không trái với lương tâm, không làm ngược đạo lý của võ lâm thì dù khó khăn đến đâu ta cũng phải ráng làm cho được.

Nghĩ đoạn chàng khẳng khái nhận lời:

– Nếu Triệu cô nưong vui lòng tặng thuốc để tôi chữa khỏi Tam sư bá và lục sư thúc thì cô nương có bảo tôi nhảy vào đống lửa tôi cũng tuân theo.

Triệu Minh giơ bàn tay ra nói tiếp:

– Ðược lắm, chúng ta thề bằng cách vỗ tay nhau, tôi đưa thuốc giải cho Giáo chủ để cứu chữa hai vị đại hiệp. Sau này tôi có yêu cầu Giáo chủ làm ba việc đó không trái với lương tâm, không đi ngược với đạo lý, với võ lâm thì Giáo chủ thế nào cũng phải nhận lời và tận lực làm cho tôi.

– Tôi xin tuân lời.

Triệu Minh khẽ vỗ vào bàn tay của Vô Kỵ ba cái, rồi nàng gỡ chiếc hoa ở trên mái tóc xuống trao cho Vô Kỵ và hỏi:

– Bây giờ Giáo chủ bằng lòng nhận vật của tôi tặng chưa? Vô Kỵ không giám trái ý nàng, vội nhận chiếc hoa đó liền.

Nàng lại dặn tiếp:

– Tôi cấm Giáo chủ không được chuyển tặng cho con a hoàn xinh đẹp ấy nhé!

Thấy Vô Kỵ gật đầu nhận lời, nàng liền lui về phái sau ba bước và nói tiếp:

– Thuốc giải sẽ đưa tới ngay, xin chào Giáo chủ.

Hồi thứ 63

Minh Giáo Nhóm Ðại Hội

Nói xong, nàng quay người đi tới chỗ Huyền Minh nhị lão.

Hai ông già đó, vội giữ ngựa để cho nàng leo lên.

Thế rồi cả ba cùng thủng thẳng xuống núi.

Nàng vừa đi khuất chỗ eo núi thì trên cây cổ thụ phía bên trái có một tráng sĩ nhảy xuống.

Người đó chính là Tiền Nhị Bái, trong nhóm thần tiễn bát trùng, tay cầm cung tên và nói:

– Chủ nhân chúng tôi có một lá thư gởi tới Giáo Chủ, xin Giáo chủ nhận cho.

Nói xong, y bắn một mũi tên tới.

Vô kỵ giơ tay ra bắt luôn mũi tên đó.

Chàng thấy mũi tên ấy đã bẻ cụt đầu. Phía đằng đuôi có buộc một lá thơ.

Chàng giở lá thư ra đọc:

– Hộp vàng có hai tầng, thuốc cao ở tầng dưới. Trong hoa hạt châu trống rỗng có giấu đơn thuốc bên trong. Hai vật đó đã sớm tặng chàng rồi, chàng hà tất phải lo âu như vậy làm chi? Vật tuy mọn thật, nhưng chàng chuyển tặng cho kẻ hầu người hạ, hay coi rẻ vứt xuống đất bùn thì tiện thiếp không vui chút nào.

Vô Kỵ đọc đi đọc lai ba lượt vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vì quá hổ thẹn nữa. Chàng vội xoay hai những hạt châu trên chiếc hoa thì quả nhiên, chỉ xoay hai ba vòng đã tháo được hạt châu to nhất ra. Cánh chiếc hoa trống rỗng và vật gì trắng xóa nhét bên trong. Chàng móc túi lấy kim châm vẫn dùng để châm cứu ra khều tờ giấy mỏng ở trong cành hoa. Tờ giấy đó rất nhỏ và rất mỏng, nhưng ghi chú rõ cách cứu chữa Thất trùng thất hoa độc như thế nào? Chàng biết y lý, nên xem qua toa thuốc, biết ngay là toa thật, trong lòng mừng rỡ vô cùng, liền vào nội điện, biên toa hốt thuốc, đem vào cứu chữa Ðại Nham và Lợi Hanh.

Mộ tiếng đồng hồ sau, hai người cảm thấy vô cùng dễ chịu.

Chàng lại lấy hộp vàng đựng hoa hạt châu của Triệu Minh tặng ra xem.

Quả nhiên chàng thấy bên dưới có một ngăn nữa và ngăn đó đựng đầy thuốc cao đen. Mùi thơm xông lên, sờ tay vào thấy mát rượi. Lần này chàng hết sức cẩn thận, bắt một con chó bẽ gãy chân và dùng thứ thuốc cao đó rịt thử. Chờ đến sáng ngày hôm sau, con chó ấy đã lành mạnh như thường.

Ba ngày sau, trong người Ðại Nham và Lợi Hanh cũng hết chất độc rồi.

Vô Kỵ liền lấy thuốc Cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục dán vào những vết thương cho hai người.

Lần này không còn sự gì bất ngờ xảy ra nữa. Thuốc cao đó công hiệu như thần.

Hai tháng sau, hai tay của Lợi Hanh đã hoạt động lại như thường.

Còn đại Nham vì tàn phế đã lâu, muốn được lành mạnh như trước, phải chữa liền trong sáu tháng, Tam hiệp mới bắt đầu chống nạng tập đi. Còn hai tay đã cử động được như thường, vì vậy Tam hiệp không bị nằm liệt giường, liệt chiếu như trước nữa.

Trong khi Vô Kỵ ở lại núi Võ Ðang chữa cho Tam sư bá và Lục sư thúc, chàng phái giáo chúng của Ngũ hành Kỳ hãy lần lượt về núi trước.

Chàng lại nhận được một tin rất kinh hoàng là các đệ tử của phái Nga Mi, Hoa sơn, Không động và Côn Luân đầu đánh Quang Minh Ðỉnh chưa một người nào trở về. Các môn phái khác trên giang hồ đều xôn xao bàn tán đều cho là Minh Giáo đã thừa thế thắng tiêu diệt hết các tay cao thủ của môn phái đó rồi, cả việc tăng chúng của phái Thiếu lâm đột nhiên mất tích cũng đổ diệt cho Minh Giáo đã diệt trừ. Các chưởng kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ nhờ có tín phù của phái Võ Ðang do Trương Tam Phong trao cho và mọi người đều cải trang làm thường dân, nên suốt dọc đường mới khỏi bị các môn phái vây đánh và làm khó dễ. Bây giờ các Chưỡng kỳ sứ quay trở lại núi Võ Ðang thưa lại mọi chuyện với Vô Kỵ. Họ còn nói hiện giờ các môn phái, bang hội và tiểu hội đều nghiêm giới và phòng bị cẩn mật. Họ chỉ sợ Minh Giáo đến tiêu diệt.

Mấy ngày sau, cha con Thiên Chính cùng quay về núi Võ Ðang cho Vô Kỵ hay rằng hiện giờ Bạch Mi Kỳ đã cải tổ xong, đều lệ thuộc Minh Giáo, nhưng quần hùng ở phía Ðông Nam đang quật khởi, nghĩa quân chống triều đình Nguyên mọc lên như nấm, thiên hạ đang lâm vào thời kỳ đại loạn.

Lúc ấy quân Nguyên vẫn còn mạnh lắm, nên không bao lâu, các đạo nghĩa quân đều bị tiêu diệt hết, không một nhóm nào làm nên đại sự cả.

Tại núi Võ Ðang, Trương Tam Phong bày một tiệc chay ở hậu điện khoản đãi cha con Thiên Chính.

Trong bữa tiệc, Thiên Chính nói rõ nguyên nhân sự thất bại của các đạo nghĩa quân. Mỗi một đạo nghĩa quân đều có đệ tử Minh Giáo và Bạch Mi Giáo tham dự. Vì vậy giáo chúng bị quân Nguyên bắt giết rất nhiều.

Quần hào nghe Thiên Chính nói xong, ai nấy cũng đều thương tiếc.

Dương Tiêu nói:

– Thiên hạ đau khổ, lòng người chỉ muốn thay đổi triều đình. Lúc này chính là dịp may cho chúng ta xua đuổi quân Thát Ðát, lấy lại giang sơn đất nước cho dân tộc ta. Năm xưa khi Dương giáo chủ chưa mất, ngày đêm lúc nào ngài cũng muốn lật đổ nhà Nguyên. Nhưng vì bổn giáo có gây thù oán với các môn phái trong võ lâm nên không sao liên lạc, đoàn kết được để đánh đổ kẻ địch. May thay, nay bổn giáo đã được trời ban cho Trương giáo chủ xuống xử lý giáo vụ, giảng hòa được với rất nhiều môn phái. Vậy lúc này, chúng ta nên đồng tâm hiệp sức để cùng đuổi kẻ thù chung ra khỏi bờ cõi.

Chu Ðiên liền nói tiếp:

– Lời của Tả sứ nghe rất hay, nhưng tiếc thay đều rỗng tuếch không có một câu nào thực tế cả.

Dương Tiêu nghe Chu điên nói như vậy, không tỏ vẻ gì là tức giận cả, nhưng liền hỏi lại:

– Xin Chu Huynh chỉ giáo cho.

Chu Ðiên đáp:

– Hiện giờ người trên giang hồ đều đồn là Minh Giáo chúng ta tiêu diệt hết cả tay cao thủ của sáu đại môn phái. Vậy hễ họ nghe đến hai chữ Minh Giáo là ghét hận rồi. Như vậy còn đồng tâm hiệp lực để đánh đổ quân thù sao? Cho nên tôi bảo lời nói của Tả Sứ nghe rất êm tai nhưng không thực tế chút nào là thế.

Bành Ngọc Doanh cùng xen lời nói:

– Lời nói của Chu huynh hoàn toàn khôn gphải vô lý đâu, theo ý tôi chúng ta nên nhóm một đại hội Minh Giáo, triệu tập các thủ lãnh của các đạo binh lại, ban bố chỉ thị làm lành với các môn phái trong võ lâm như Trương Giáo chủ vẫn chủ trương. May ra, những vị thủ lãnh đó có một vài vị hay biết tung tích của Tống Ðại hiệp, Diệt Tuyệt Sư thái các người cũng nên chăng?

Chu Ðiên thấy Doanh Ngọc đã bênh vực mình, khoái chí vô cùng vội lên tiếng nói tiếp:

– Muốn điều tra ra tung tích của Tống Ðại hiệp không khó chút nào.

Mọi người đều nhôn nhao hỏi:

– Bạn có cách gì có thể điều tra ra được dễ dàng như vậy? Sao mãi đến bây giờ bạn mới lên tiếng như thế?

Chu Ðiên càng khoái chí hơn, liền uống cạn chén rượu mới trả lời:

– Chỉ cần Trương giáo chủ hỏi Triệu cô nương một tiếng, ít ra cũng biết được chín phần. Theo ý tôi thì những vị đó không bị Triệu cô nương giết chết thì cũng bị cô ta bắt đi rồi.

Trong hai tháng liền, Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Bành Doanh Ngọc , Nói Không Ðược đi khắp nơi tìm tung tích Triệu cô nương, nhưng từ ngày Vô Kỵ vỗ tay thề thốt với nàng trước cửa quan đến giờ thì không biết nàng ở đâu nữa, cả đến bộ hạ của nàng cũng biệt vô âm tích.

Quần hào đoán chắc nàng thế nào cũng có liên quan đến triều đình Mông Cổ.

Lúc ấy mọi người thấy Chu Ðiên nói như vậy liền hỏi:

– Lời nói của bạn mới là vô ích, nếu tìm được thiếu nữ họ Triệu ấy thì chúng ta lại không biết hỏi nàng hay sao?

Chu Ðiên vừa cười vừa đáp:

– Tất nhiên các người không thể nào kiếm ra được Triệu cô nương, còn Giáo chủ thì khỏi cần đi tìm kiếm cũng sẽ gặp được nàng vì Giáo chủ còn nợ nàng ta ba việc chưa làm, có khi nào một tiểu thư lợi hại như thế nói xong lại bỏ hay sao? Hì…Hì… cô nương ấy đẹp như hoa nở.

Mọi người thấy y nói vậy đều phì cười nhưng cũng phải công nhận y nói rất đúng!

Vô Kỵ thở dài, lên tiếng nói:

– Tôi chỉ mong nàng nói ba điều đó ra ngay, rồi tôi sẽ tận lực làm cho xong. Bằng không suốt ngày cứ lo nghĩ tới chuyện ấy mà không biết nàng còn giở những trò quỷ quái gì ra nữa? Vừa rồi Bạch Ðại sư đưa ra ý kiến triệu tập thủ lãnh các nơi về tụ họp đại hội. Việc này có thể làm được lắm! Chẳng hay các vị nghĩ sao?

Quần hào đồng thanh đáp:

– Giáo chủ dạy rất phải, chúng ta cứ đợi chờ suông trên núi Võ Ðang này rất vô ích.

Dương Tiêu cũng lên tiếng hỏi:

– Giáo chủ định cho tụ họp ở đâu?

Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Hôm nay may mắn được làm đại diện giáo chủ, bổn nhân thường nghĩ tới ân tình của hai nhân vật của Minh Giáo. Một người là y Tiên Hồ Thanh Ngưu Tiên sinh ở Hồ Ðiệp Cốc đã chết bởi Kim Hoa Bà Bà. Còn người thứ hai là Thường Ngộ Xuân đại ca không biết bây giờ ở đâu? Tôi muốn lần đại hội này của bổn giáo chúng ta nên họp ở Hồ Ðiệp Cốc ở Hoài Bắc.

Chu Ðiên vỗ tay tán thành:

– Hay lắm! hay lắm! Anh chàng thấy chết không chịu cứu năm xưa vẫn hằng ngày đấu khẩu với tôi luôn. Y là người rất tốt, y thấy chết không cứu nên lúc chết y mới không có ai cứu y, thật là báo ứng! Chu Ðiên tôi cũng muốn đến mộ y lạy mấy lạy.

Quần hào cũng quyết định ba tháng sau vào ngày tết Trung thu, các thủ lãnh của Minh Giáo đều họp tại nhà của Hồ Thanh Ngưu trong Hồ Ðiệp Cốc ở Hoài Bắc.

Sáng hôm sau Ngũ Hành Kỳ và Bạch Mi Giáo đều lần lượt xuống núi Võ Ðang, chia nhau đi các ngã để triệu tập thủ lãnh các nơi.

Lúc ấy, cách tết Trung thu ba tháng, Vô Kỵ thấy Ðại Nham và Lợi Hanh chưa khỏi hẳn, chỉ sợ vết thương hai người đau lại thì công dã tràng xe cát nên chàng phải ở lại núi Võ Ðang.

Trong nhàn rỗi chàng vẫn thỉnh giáo Trương Tam Phong về Thái Cực quyền kiếm.

Nhất Tiếu, Doanh Ngọc, Nói Không Ðược vẫn tiếp tục đi khắp nơi để dò thăm tung tích của Triệu Minh, Dương Tiêu thừa lệnh của Giáo chủ, miễn cưỡng ở lại núi Võ đang, nhưng vì việc Hiểu Phù y rất ngượng với Lợi Hanh, nên ngày thường y chỉ đóng cửa đọc sách, không rời khỏi phòng.

Trưa nọ, Vô Kỵ đến phòng Dương Tiêu bàn về việc đại hội ở Ðiệp Cốc. Chàng tuổi trẻ, ít học, bỗng phải gánh vác trọng trách nên lúc nào cũng lo ngại. Dương Tiêu là người thấu hiểu công việc của Minh Giáo, nên chàng mới giữ y lại làm cố vấn.

Hai người trò chuyện một lát, Vô Kỵ thuận tay cầm cuốn sách để ở trên đầu bàn của Dương Tiêu, chàng thấy trên bìa cuốn sách đó đề: Minh Giáo lưu truyền Trung Thổ ký, Hạ khoảng đề là: “Ðệ tử Dương Tiêu Tả sử cùng soạn”.

Chàng thở dài và khen:

– Dương Tả sứ quả thật là người văn võ toàn tài và cũng là một cột trụ của Minh Giáo nữa.

Dương Tiêu vội cám ơn đáp:

– Ða tạ Giáo chủ đã quá khen như vậy!

Vô Kỵ giở cuốn sách đó ra đọc thấy trong sách gửi rằng:

Minh Giáo truyền nhập Trung thổ từ đời Võ hậu nhà Ðường. Hồi bấy giờ người ba Tư tên Hốt Ða Ðáng cầm cuốn Tam Tôn Kinh của Minh Giáo vào triều Võ Hậu. Lúc ấy người Trung Hoa mới bắt đầu được đọc cuốn kinh điển đó, nhằm ngày hôm hai mươi chín tháng sáu, Ðường đại lịch Tân Niên. Ngôi chùa đầu tiên của Minh Giáo được xây dựng tại Lạc Dương trường An là chùa Ðại Vân Quang Minh. Sau đó ở các trọng tran như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu và Việt Châu, v.v… đều có xây Ðại Vân Quang Minh tự. Nhưng đến năm Hội Xương Tam Niên, triều đình mới ra lệnh giết các giáo đồ của Minh Giáo. Vì vậy, thế lực của Minh Giáo mới suy đồi. Từ đó, Minh Giáo mới giáo hội bí mật thường bị ngăn cấm và bị các quan binh đàn áp.

Muốn được sinh tồn, giáo chúng của Minh Giáo hành sự rất bí mật. Minh Giáo còn tên là Na Ni Giáo chữ Na có nghĩa là cờ tay lên trên cao nhưng bị người đời hiểu lầm và ghét hận nên mới sửa chữ Na thành chữ Ma là những ma quỷ, do đó người đời cứ gọi Minh Giáo là Ma Giáo.

Vô Kỵ đọc tới đó, thở dài một tiếng và nói:

– Dương Tả Sứ, tôn chỉ bổn giáo vốn dĩ là khử ác, hành thiện, hòa hợp Thích, Ðạo hai giáo, không có gì khác lạ hết. Nhưng không hiểu vì sao từ đời nhà Ðường tới giờ, bổn giáo cứ bị giết hại như thế?

Dương Tiêu vội đỡ lời:

– Vì Thích giáo, tuy phổ độ chúng sanh, nhưng tăng chúng xuất gia, ai nấy chăm chú vào việc tu hành, không lý tới việc đời. Về Ðạo giáo cũng vậy, còn bổn giáo thì chủ trương tụ tập dân lành bất cứ ai có việc gì nguy nan đau khổ, các giáo chúng đều hết sức ra tay tương trợ. hễ gặp nhân dân bị quan quân hà hiếp oan ức, giáo chúng bổn giáo thế nào cũng chống cự ngay. Vì vậy triều đình mới ghét hận bổn giáo!

Chỉ có lúc nào quân binh của triều đình không hà hiếp lương dân và thổi hào ác bá không hoành hành, thì lúc bấy giờ bổn giáo mới hưng vượng thật sự!

Dương Tiêu thấy Vô kỵ nói như vậy liền vỗ bàn một cái thật lớn rồi nói tiếp:

– Lời nói của Giáo chủ thật đúng với tôn chỉ của bổn giáo.

– Dương Tả sứ xem, liệu trên thiên hạ này, có được một ngày thái bình như thế không?

– Không riêng gì tôi, ai ai cũng vậy, đều mong muốn có một ngày như thế. Ðời nhà Tống, Phương Liệp giáo chủ khởi cách mạng chỉ muốn các quan binh đừng đè nén lương dân thôi…

Ðọc xong đoạn đó, Vô Kỵ ngưỡng mộ vô cùng, liền gấp cuốn sách lại nói tiếp:

– Ðại trượng phu phải nên như vậy, tuy nhiên Phương giáo chủ đã tuẫn nạn nhưng dù sao cũng đã hành động oanh liệt!

Sau đó Dương Tiêu lại chỉ vài việc khác cho Vô Kỵ xem.

Vô Kỵ thở dài một tiếng, mà rằng:

– Tả Sứ cho tôi mượn cuốn sách này đọc để tôi biết những di huấn và sự nghiệp của các vị tiền hiền!

Dương Tiêu đáp:

– Chúng tôi đang mong được Giáo chủ chỉ giáo.

Vô Kỵ nhận quyển sách đó rồi nói tiếp:

– Dư Tam sư bá và Lục Thúc đã khỏi nhiều rồi! Ngày mai chúng ta lên đường đi Hồ Ðiệp Cốc. Tôi còn một việc này, muốn bàn với Tả Sứ. Ðó là việc của em Bất Hối.

Dương Tiêu tưởng chàng định nói với mình để cầu hôn, trong lòng mừng rỡ vô cùng, vội đáp:

– Bất Hối được sống còn tới ngày nay là nhờ Giáo chủ ban ân! Cha con chúng tôi muốn trả ơn Giáo chủ đã lâu, không hiểu Giáo chủ định sai bảo điều gì. Nhưng bất cứ việc gì, Giáo chủ sai bảo chúng tôi cũng tuân theo ngay.

Vô Kỵ liền đem chuyện Bất Hối nói rõ tâm sự cho mình hay kể lại cho Dương Tiêu nghe.

Dương Tiêu ngạc nhiên vô cùng, ngẩn người ra giây lát mới trả lời được:

– Tiểu nữ được Lục hiệp để ý tới, đó là một sự rất hân hạnh cho nhà họ Dương chúng tôi, nhưng tuổi của hai người chênh lệch nhau như vậy và vai vế lại…

Nói tới đó y không sao nói tiếp được nữa, Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Hân Lục thúc chưa đầy bốn mươi, em Bất Hối gọi ông ta là thúc thúc, nhưng hai người không phải là chú cháu thực, cũng không phải là thầy trò. Bây giờ hai người đã tình đầu ý hiệp, nếu để cho hai người lấy nhau thì mối thù xưa sẽ hóa giải hết. Như vậy chả hay sao?

Dương Tiêu vốn dĩ là một người rất khoáng đạt, thấy Vô Kỵ đề nghị như vậy y nghĩ thầm:

– Bất Hối đã yêu Lợi Hanh có thể chuộc lại lỗi xưa cho mình và làm cho Minh Giáo với phái Võ Ðang trở nên thân mật.

Nghĩ đoạn, y vái chào Vô Kỵ và đáp:

– Giáo chủ đứng ra ngọc thành việc này đủ thấy giáo chủ lúc nào giáo chủ cũng quan tâm đến cha con chúng tôi. Thuộc hạ rất cám ơn Giáo chủ!

Tối hôm đó, Vô Kỵ truyền tin mừng đó ra cho mọi người hay.

Quần hào đều lần lượt vào mừng Lợi Hanh.

Bất Hối thẹn thùng, núp trong phòng không dám ra ngoài.

Tam Phong và Ðại Nham hay biết việc này, thoạt tiên cũng kinh ngạc, nhưng hai thầy trò nghĩ lại và mừng cho Lợi Hanh.

Tam Phong hỏi Lục hiệp ngày cưới thì Lợi Hanh trả lời rằng:

– Ðợi các đại sư ca về núi, con mới xin cử hành hôn lễ!

Ngày hôm nay, Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Thiên Chính, Dã Vương, Thiết Quan Ðạo Nhân, Chu Ðiên và Tiểu Siêu các người từ biệt thầy trò Trương Tam Phong lên đường đi về phía hoài Bắc, còn Bất Hối ở lại Võ Ðang hầu hạ Lợi Hanh.

Vô Kỵ và các thuộc hạ, ngày đi đêm nghỉ, tiến thẳng về phía Ðông Bắc.

Suốt dọc đường, quần hào thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rách.

Xưa kia những khu vực ven bể đều là những nơi trù mật, sung túc, nhưng giờ đây đi tới đâu cũng thấy những kẻ đói chết đầy dẫy, la liệt!

Quần hào trông thấy thảm cảnh đó đều buồn lòng.

Quần hào đi tới giới Bài Tập, cách Hồ Ðiệp Cốc không xa, bỗng nghe phía trước có tiếng hò reo chém giết chấn động cả một góc trời.

Khi tới gần mấy người mới hay có hai đội binh mã đang kịch chiến.

Quần hào phóng ngựa xuyên qua khu rừng rãm, thấy hơn nghìn quân Mông Cổ, chia làm tả hữu hai bên đang tấn công sơn trại.

Trên sơn trại có một lá cờ, vẽ một ngọn lửa đỏ thật lớn đang bay phất phới. Cờ đó chính là cờ của Minh Giáo! Vì số người trong trại quá ít nên dần dấn càng tỏ ra cầm cự không nổi! Tuy vậy người trong sơn trại vẫn hăng hái chống cự chứ không chịu khuất phục!

Quân Mông Cổ bắn tên bay như mưa, thì hò reo quát bảo:

– Phản tặc Ma Giáo! Có mau ra đầu hàng không?

Chu Ðiên vội hỏi Vô Kỵ rằng:

– Thưa Giáo chủ! Chúng ta tiến lên tấn công chứ?

Vô Kỵ đáp:

– Cũng được! Chúng ta hãy giết chết tụi quan quân chỉ huy trước!

Dương Tiêu, Thiên Chính, dã Vương, Thiết Quan Ðạo Nhân , Chu Ðiên năm người vâng lệnh, xông đến tấn công thẳng vào mặt trận.

Hai tên Bách Phu trưởng bị chém rụng đầu trước, tiếp theo tên Liên Phu trưởng bị Dã Vương chém chết.

Quân Nguyên như rắn không đầu, hàng ngũ loạn xạ ngay!

Người trong sơn trại thấy có cứu viện tới giúp mình liền lớn tiếng hoan hô.

Tiếp theo đó, cửa trại mở rộng.

Một tráng sĩ áo đen, tay cầm xà mâu tiến ra trước lính Nguyên gặp phải người đó là bị giết chết ngay.

Trước sau bị tấn công, quân Nguyên hoảng sợ vô cùng, liền bỏ chạy tán loạn.

Quần hào thấy vị tráng sĩ đó oai phong lầm lẫm, trông như một vị thiên thần, đều tắc lưỡi khen ngợi:

– Thực là một vị anh hùng tướng quân!

Lúc ấy Vô Kỵ đã trông thấy rõ mặt tráng sĩ nọ mới hay người đó chính là Thường Ngộ Xuân đại ca mà chàng vẫn nhớ nhung.

Vị tráng sĩ đó đang mải giết giặc, nên chàng không tiện lên tiếng kiến vội. Người của Minh Giáo đánh quân Nguyên một hồi, đã giết chết năm sáu trăm tên giặc, còn một số ít cắm đầu ù té chạy hết!

Ngộ Xuân giơ ngang cây xà mâu, cả cười một hồi rồi lớn tiếng hỏi:

– Chẳng hay các huynh đệ lộ quân nào tơi tương trợ thế? Thường mỗ cám ơn vô cùng!

Vô Kỵ lớn tiếng đáp:

– Thường đại ca! Tiểu đệ nhớ đại ca lắm!

Nói xong, chàng nhảy xổ lại, nắm chặt lấy hai tay của tráng sĩ nọ.

Ngộ Xuân vội quỳ xuống vái lạy và nói:

– Giáo chủ huynh đệ! Tôi là đại ca nhưng là hy thuộc của Giáo chủ, thật tôi không biết phải nói sao nữa!

Thì ra Ngộ Xuân là bộ hạ của Cự Mộc Kỳ trong Ngũ hành Kỳ. Vô Kỵ được làm Giáo chủ như thế nào, Ngộ Xuân cũng đã nghe Chưởng Kỳ Sứ kể cho hay rồi nên mấy ngày qua, chàng ngày đêm đợi chờ Vô Kỵ tới nơi. Ngờ đâu quân Nguyên bỗng tới vây đánh, chẳng thấy bên mình người ít kẻ địch thì nhiều, chàng định làm ra vẻ bại để dụ quân Nguyên vào trong trại rồi mới đóng kín cửa trại lại mà tiêu diệt kẻ thù. Nhưng Vô Kỵ đột nhiên tới cứu viện. Chàng liền thừa thế mở cửa trại xông ra chém giết quân địch. Ðịa vị của chàng trong Minh Giáo không cao lắm, nên chàng phải vái chào Dương Tiêu, Thiên Chính các người.

Quần hào thấy chàng là anh em kết nghĩa của Giáo chủ nên ai cũng coi chàng ngang hàng với mình vậy!

Ngộ Xuân mời quần hào vào trong sơn trại, giết bò giết dê, thết tiệc khoản đãi.

Vô Kỵ hỏi Ngộ Xuân tại sao lại làm giặc ở nơi đây như vậy?

Chàng ta liền cho Vô Kỵ hay là vì mấy năm gần đây, Hoài Nam, Hoài Bắc hạn hán luôn luôn, dân chúng khổ sở khôn tả, chàng cũng không có gì để sinh sống mới tụ họp một bọn anh em, làm lục lâm hảo hán để đi ăn cướp. Nhờ vậy đỡ khổ hơn lúc làm thường dân! Chàng cùng các anh em cướp được vàng bạc châu báu liền đem đi chẩn tế cho dân nghèo. Quân Nguyên đã đến vây đánh mấy lần mà không làm gì nổi chàng.

Mọi người trong sơn trại nghỉ ngơi một đêm, ngày hôm sau liền cùng Ngộ Xuân tiến thẳng vể phía Bắc.

Mấy ngày hôm sau, mọi người đã tới Hồ Ðiệp Cốc, giáo chúng hay tin Giáo chủ đã đến, mọi người ai nấy đều xếp thành hàng dài ra tận ngoài cửa Cốc nghênh đón.

Lúc ấy Cự Mộc Kỳ đã xây rất nhiều nhà gỗ, nhà lá trong Hồ Ðiệp Cốc cho giáo chúng ở. Nhất Tiếu, Doanh Ngọc, Nói Không Ðược cũng lần lượt tới.

Vô Kỵ tiếp kiến giáo chúng xong, liền cho sửa soạn những lễ vật ra tế mộ vợ chồng Thanh Ngưu và Hiểu Phù.

Chỉ còn ba ngày nữa là tết Trung Thu, giữa Hồ Ðiệp Cốc xây một cái đài thật cao. Trước đài, lửa cháy rực trời!

Vô Kỵ bước lên đài, tuyên bố ý kiến phản Nguyên cho các giáo chúng hay.

Tiếp theo chàng còn ban bố giáo quy, ra lệnh cho giáo chúng từ nay trở đi phải tuân theo tôn chỉ hành thiện khử ác, trừ bạo an lương.

Các hương chủ đều hoan hô vang động một góc trời.

Mỗi người thắp một bó nhang, thể tuân theo lệnh chỉ của Giáo chủ.

Ngày hôm đó, lửa đuốc và ánh sáng của nến làm rạng rỡ Ðiệp Cốc, khói hương nghi ngút tựa như sương mù.

Cuộc tuyên thệ của Minh Giáo không hồi nào lừng lẫy bằng hồi này.

Các giáo chúng lớn tuổi, thấy cảnh tượng hưng vượng như vậy, ai nấy đều mừng rỡ.

Vô Kỵ lại tuyên thệ rằng:

– Bổn giáo từ ngày thành lập tới giờ, đời nào cũng cấm ăn thịt uống rượu nhưng nay đang lúc tai nạn này có quyền được gặp thứ gì ăn thứ nấy! Việc phải làm của chúng ta ngày nay là đuổi quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi. Nếu các anh em ăn chay thì hơi sức đâu mà chống chọi với kẻ địch.

Tối hôm đó trong Hồ Ðiệp Cốc trăng sáng như ban ngày, mấy nghìn giáo chúng vui vẻ nhậu nhẹt cho tới lúc mặt trời mọc mới tan bữa tiệc.

Ngày hôm sau mọi người ngủ cho tới giữa ngọ mới thức dậy.

Vô Kỵ đang rửa mặt bỗng thấy thuộc hạ giáo chúng vào bẩm rằng:

– Chu Nguyên Chương, Từ Ðạt các người thuộc hạ của Hồng Thủy Kỳ xin vào yết kiến!

Vô Kỵ cả mừng, thân hành ra tận ngoài cửa nghênh đón.

Nguyên Chương, Từ Ðạt dẫn Thanh Hòa, Ðặng Dư, Hoa Vân, Ngô Lương các người cung kính đứng chầu chực sẳn ngoài cửa.

Bọn họ vừa thấy Vô Kỵ ra liền cúi mình hành lễ và đồng thanh lên tiếng chào:

– Tham kiến Giáo chủ!

Vô Kỵ thường nhớ đến ơn của Từ Ðạt, nên vừa trông thấy đã mừng rỡ!

Chàng vội đáp lễ, tay trái dắt Nguyên Chương, tay phải dắt Từ Ðạt cùng đi thẳng vào nhà.

Chàng mời mọi người ngồi.

Trước khi ngồi mọi người đều phải cáo tội.

Lúc này Nguyên Chương đã hoàn tục, không mặc hòa thượng như trước nữa.

Nguyên Chương lên tiếng trước:

– Thuộc hạ chúng tôi thừa lệnh của Giáo chủ, tới Hồ Ðiệp Cốc này, đáng lẽ phải đến từ trước, nhưng giữa đường gặp một việc rất lạ lùng, chúng tôi liền theo dõi để tra cứu nên mới tới chậm! Xin Giáo chủ thứ tội cho!

Vô Kỵ đáp:

– Chẳng hay quý vị gặp sự chẳng hay gì thế?

Nguyên Chương đáp:

– Hồi thượng tuần tháng sáu, chúng tôi nhận được lệnh chỉ của Giáo chủ, tất cả anh em đều mừng rỡ vô cùng! Anh em chúng tôi bàn nên đem lễ vật đến để mừng Giáo chủ mới phải! Nhưng chỗ chúng tôi ở là Hoài Bắc bị hạn hán luôn luôn, không có vật gì khả dĩ gọi là xứng đáng làm lễ vật mừng Giáo chủ. May thay cách Hội kỳ còn xa, anh em chúng tôi mới quyết định đi Sơn Ðông một phen. Chúng tôi sợ sơn binh nơi đó nhận được mặt, mới giả làm phu khiêng và phu xe. Hạ thuộc làm đầu nậu của tất cả anh em.

Hôm đó đi tới Qui Ðức Phủ của tỉnh Hải Nam gặp mấy người khách miền Tây mướn chúng tôi khuân vác hành lý cho họ đi Hà Trạch tỉnh Sơn Ðông.

Trong lúc đi đường bỗng có một người đuổi theo cướp giựt đồ đạc của chúng tôi khuân vác. Bọn chúng có vẻ hung ác lắm! Ðuổi những người khách trên xe chúng tôi xuống đất hết và bảo chúng tôi chờ và khuân vác những khách khác. Lúc ấy chú em họ Hoa rất nóng tính, liền cãi vã với bọn người nọ. Chú Từ Ðạt đưa mắt ra hiệu bảo chú Hoa Vân hãy nhận xét kỹ đối phương đã rồi sẽ ra aty cũng chưa muộn!

Bọn người nọ dồn chín chiếc xe của chúng tôi vào trong một eo núi, nơi ấy có mười mấy cái xe khác đợi sẳn. Những người ngồi dưới đất cạnh những chiềc xe đò đều là hòa thượng.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Ðều là hòa thượng ư?

Nguyên Chương đáp:

– Vâng! Những hòa thượng đều rầu rĩ ngồi cúi gầm đầu xuống uể oải như không còn lấy một chút hơi sức nào cả. Nhưng trong bọn hòa thượng đó có vài người Thái Dương Huyệt ồ cao, thân hình vạm vỡ, trông oai hùng lắm, chứ không phải là người tầm thường!

Chú Từ Ðạt liền rỉ tai nói với tôi rằng:

– Những hòa thượng này đều là những người có võ công rất cao siêu!

Bọn người hung ác kia liền bảo những người hòa thượng đó leo cả lên xe ngồi, rồi chúng bắt chúng tôi đẩy xe và khuân hành lý cho chúng đi về phía Bắc. Chúng tôi đoán chắc bên trong thế nào cũng có chuyện gì rất kỳ lạ cho nên mới ngấm ngầm dặn nhau phải cẩn thận đề phòng, chớ có để cho chúng biết rõ tông tích của mình! Suốt dọc đường chúng tôi để ý lời nói của bọn người hung ác nhưng chùng thần bí lắm! Ở trước mặt chùng tôi, chúng không hề thốt ra nửa lời. Sau chú Ngô Lương nửa đêm lẻn tới trước cửa sổ nghe trộm, nhưng nghe liền bốn năm đêm mới hay biết được một chút xíu. Thì ra bọn hòa thượng đó đều là cao tăng của phái Thiếu Lâm ở Tung Sơn.

Vô Kỵ đã đoán ra được mấy phần trăm mà vẫn còn thất thanh kêu “ủa” một tiếng.

Nguyên Chương lại nói tiếp:

– Chú Ngô Lương lại nghe thấy một người nói: Chủ nhân chúng ta giỏi mưu cơ thật. Khiến ai cũng bái phục, hiện giờ cao thủ của sáu đại môn phái như Thiếu Lâm, Võ Ðang chẳng hạn… đều bị lọt vào tay của chủ nhân, thử hỏi từ xưa có ai làm được vậy không?

Lại có một người nữa xen lời nói: Như vậy vẫn chưa phải là kỳ lạ, còn mưu kế nhất tiễn song điểu mới thật là kỳ lạ. Chủ nhân xử dụng kế đó làm cho các ma đầu của Ma Giáo đều bị liên can vào trong vụ này!

Chúng tôi bảy người giả bộ đi đại tiện ở trong cầu tiêu để lén bàn tán với nhau. Chúng tôi thấy việc này có liên can đến bổn giáo nên ai nấy đồng lòng điều tra vụ này cho ra manh mối để về thưa cùng giáo chủ hay.

Vô Kỵ xen lời nói:

– Quý vị nói rất phải.

Nguyên Chương lại nói tiếp:

– Bọn chúng ra lệnh cho đi thẳng về phía Bắc. Chú Thang Hoa và chú Ðặng Dư giả bộ đánh nhau vì tranh cướp năm chỉ bạc. Cả hai làm như chẳng biết võ công gì hết, trông thật tức cười. Bọn hung ác kia cũng vỗ tay cả cười. Từ đó trở đi, chúng không nghi ngờ chúng tôi nữa. Anh em chúng tôi gọi chúng là quan lớn và đối với chúng rất cung kính, nên chúng rất khoái chí và thêm tin cậy chúng tôi. Giữa đường, chú Ngô Chinh định ra tay hạ chúng, để cứu bọn hòa thượng của phái Thiếu Lâm, nhưng sau chúng tôi nghĩ lại: “Trước khi chưa biết lai lịch của chúng ra sao và thấy bọn chúng tên nào cũng khôn ngoan. võ công lại cao siêu, nếu ra tay mà không hạ nổi chúng, có phải bứt dây động rừng, lỡ hết đại sự không? “. Cho nên, chúng tôi không dám ra tay vội.

Khi đi tới phủ Hà Giang, chúng tôi gặp sáu cái xe lớn, cũng có người áp giải. Người ngồi trong xe đều là những người tục. Lúc ăn cơm chúng tôi nghe thấy một nhà sư Thiếu Lâm gật đầu chào hỏi một người đứng tuổi trong bọn tân khách kia rằng:

– Tống đại hiệp cũng tới đây à?

Vô Kỵ vội đứng dậy hỏi:

– Người mà hòa thượng gọi là Tống Ðại hiệp hình dáng như thế nào?

Nguyên Chương đáp:

– Người đó vừa gầy vừa cao, tuổi trạc năm mươi, để râu ba chòm, mặt mũi trông thanh nhã lắm.

Thấy Nguyên Chương mô tả như vậy, Vô Kỵ đoán chắc là Viễn Kiều chứ không sai. Chàng mừng rỡ vô cùng.

Chàng lại hỏi và mặt mũi của những người khác.

Nguyên Chương liền tả hết hình dáng và mặt mũi những người kia cho chàng hay. Chàng biết chắc nhữn gngười đó là Dư Liên Châu, Trương Tòng Khê, Mạc Thanh Cốc rồi.

Chàng lại hỏi tiếp:

– Những vị ấy có thương không? Và có bị đeo xiềng xích không?

– Không thấy họ đeo xiềng xích và cũng không thấy bị thương gì cả. Họ ăn cơm nói chuyện như người thường vậy, chứ không có điều gì khác lạ hết. Riêng có một điều là người nào cũng vậy, chứ không chứ không điều là ngưới nào cũng vậy, tinh thần uể oải, bước đi yếu ớt, như người đau nặng mới khỏi vậy. Tống Ðại hiệp thấy hòa thường của phái Thiếu Lâm hỏi như vậy chỉ gượng cười chứ không trả lời. Nhà sư ấy định hỏi gì thêm nữa nhưng người áp giải đã chạy tới kéo nhà sư ra đằng xa. Từ đó trở đi, bọn chúng không cho hai nhóm người gần nhau, nên chúng tôi không được gặp lại bọn Tống đại hiệp. Mùng ba tháng bảy, chúng tôi đã chở các nhà sư tới Ðại Ðô.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Chở tới Ðại Ðô ư? Như vậy, chính triều đình đã hạ độc thử rồi. Sau rồi thế nào nữa?

– Thế rồi, bọn chúng lại bắt chúng tôi đem bọn hòa thượng kia tới một ngôi chùa lớn ở Tây Vực, và bắt chúng tôi ngủ luôn tại chùa tại…

– Chùa ấy là chùa gì?

– Chúng tôi thấy tấm bảng treo ở trên cửa chùa để Vạn Pháp Tự. Tôi chỉ ngẩng lên tấm bảng ấy một cái đã bị một tên hung thần quất ngay cho một roi liền. Ðêm hôm ấy, anh em chúng tôi bàn tán với nhau, đoán chắc bọn chúng thế nào cũng bị giết hết chúng tôi để khỏi tiết lộ bí mật ấy ra bên ngoài, chờ tới lúc đêm khuya canh vắng chúng tôi vội lẻn chạy ngay.

– Bọn chúng có biết không? va có đuổi theo rượt bắt quý vị không?

Thanh hòa mỉm cười, xen lời đáp:

– Chu Ðại ca đã đoán ra trước, chúng thế nào cũng đuổi theo rượt bắt, nên trước khi đào tẩu, Chu Ðại ca phải xếp đặt một kế hoạch để đối phó với bọn chúng. Chúng tôi đi tới tiệm cho thuê xe gần đó, bắt luôn bảy tên phu xe, đem vào trong chùa, lột hết quần áo của chúng để mặc vào người mình cho chúng mặc lại quần áo của chúng tôi, rồi chúng tôi giết cả bảy tên ấy một lúc bằm nát mặt bọn chúng để bọn hung thần khỏi nhận ra là ai. Lúc ấy chúng tôi mới yên tâm đào tẩu. Khi ra tới sân ngoài, chúng tôi lại hạ thủ nốt mấy tên phu xe của chúng tôi và rải rắc tiền bạc ra khắp sân, làm như hai bọn tranh giành tiền bạc mà tự chém giết nhau vậy, bọn hung thần có trở về chùa cũng không thể nào biết rõ sự thật được.

Thấy Thanh hòa kể lại câu chuyện quá tàn nhẫn như vậy.Vô Kỵ kinh hãi thầm và thấy chỉ có một mình Từ Ðạt là có vẻ ăn năn thôi. Còn Ðặng Dư tỏ vẻ sượng sùng, Thanh hòa ra vẻ khoái chí và tự đắc, Nguyên Chương thì thản nhiên như không vậy.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Thủ đoạn của người này ác độc lắm. Quả thật là một nhân vật lợi hại.

Nghĩ đoạn chàng liền bảo Nguyên Chương rằng:

– Kế ấy của Chu Ðại ca tuy thần diệu thật, nhưng từ giờ trở đi chúng ta không nên giết bừa bãi người lương thiện như thế.

Bọn Chu Nguyên Chương thấy Giáo chủ huấn thị như vậy đều đứng dậy vái chào và đáp:

– Chúng tôi xin tuân lịnh chỉ của giáo chủ.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Chu Ðại ca và sáu vị anh em tìm ra được tung tích các cao thủ của Thiếu Lâm và Thiếu Lâm, công này lớn lắm! Bây giờ chúng ta phải xếp đặt việc khởi nghĩa chống quân Nguyên trước. Xong rồi, mới cùng đi Ðại Ðô cứu viện các cao thủ của hai môn phái đó.

Tối hôm đó, Vô Kỵ đại hội giáo chúng đốt lửa thắp nhang cho tất cả anh em tuyên thệ về việc khởi nghĩa diệt quân Nguyên.

Vô Kỵ nói:

– Khởi sự đánh đuổi quân Nguyên, chúng ta phải ra tay đánh một lúc để quân Nguyên không biết phải cứu viện nơi nào. Như vậy đại sự của chúng ta mới có thể thành công được.

Phương sách diệt Nguyên của Minh Giáo như sau:

“Giáo chủ Trương Vô Kỵ thống lãnh Quang Minh Tả sứ Dương Tiêu và Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu trấn giữ Tổng đàn, làm thống soái cho toàn giáo, Bạch Mi Ma Vương Hân Thiên Chính thống lãnh giáo chúng của Bạch Mi Kỳ khởi sự ở vùng Giang Nam. Chu Nguyên Chương, Từ Ðạt, Thanh Hòa, Ðặng Dư, Hoa Vân Ngô Lương và Ngô Chinh hội cùng nhân mã trong trại của Thường Ngộ Xuân và Quách Tử Hưng, Tôn Ðức Nhai khởi sự tại hoài Bắc, hoài Châu, hòa thượng Túi vải Nói Không Ðược thống lãnh Hân Sơn Ðồng, Lưu Phúc Thông, Ðỗ Tuân Ðạo, La Văn Tố, Thịnh Văn Út, Vương Hiển Chung và Hàn Giao Nhi khởi sự ở Hà Nam, Vinh Xuyên, Bàng Doanh Ngọc thống lãnh Từ Chu Huy, Chu Phổ Phượng và Minh Ngũ khởi sự tại các châu phủ thuộc tỉnh Giang Tây, Thiết Quan Ðạo Nhân thống lãnh bộ Tam Vương và Mạnh Hải Mã khởi sự ở Kinh Tương, Chu Ðiên thống lãnh Chi Mã Lý và Triệu Quân Dụng khởi sự ở vùng Từ Châu, Lãnh Thiêm họp cùng giáo chúng Tây Vực, chặn đường cứu binh của Mông Cổ, Ngũ Hành Kỳ nghe lệnh điều khiển của Tổng đàn, hễ nơi nào nguy cấp thì tới cứu viện.”

Phương sách đó là do Dương Tiêu thảo hoạch trước, rồi đưa Vô Kỵ bàn tính và quyết định.

Sau cùng, Vô Kỵ mới đem ra đọc cho mọi người nghe.

Giáo chúng hoan nghênh như sấm động.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Với lực lượng của bổn giáo khó mà lay chuyển được cơ nghiệp gần trăm năm của nhà Nguyên. Vậy ta phải liên kết với các anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ mới mong thành công được.

Hiện giờ, các cao thủ trong võ lâm đa số bị triều đình Nguyên bắt giữ nên Tổng đàn chúng ta đang nghĩ cách cứu các cao thủ đó. Từ ngày mai trở đi, anh em chúng ta sẽ tản mác ra bốn phương, nhưng bất cứ ai gặp quân Mông Cổ là phải ra tay chém giết chúng liền. Các anh em cần phải coi trọng nghĩa khí, để đại sự lên trên, chớ vì quyền lợi mà giết hại lẫn nhau. Nếu ai bất nghĩa, Tổng đàn quyết không dung.

Mọi người đều đồng thanh:

– Chúng tôi xin tuân lệnh giáo chủ.

Sáng hôm sau, các lộ giáo chúng đều lần lượt đến cáo lộ Vô Kỵ. Ngọn lửa thánh bốc cao, một người cao lớn tiếng đọc mấy câu như sau:

– Ðốt cháy thân tàn của ta, ngọn lửa thánh đang cháy hồng. Ta sống chả thấy sung sướng nào chỉ biết hành thiện trừ ác, tiến thẳng lên con đường quanh mình, hỉ lạc. Bi sầu sẽ trở về với cát bụi. Có ai thương ta đậu trong lúc thiên hạ đầy dẫy sầu đau, hoạn nạn!

Người đó vừa dứt lời mọi người đều đồng thanh nói lại những câu đó.

Tất cả giáo chúng đều lần lượt tới trước Vô Kỵ vái chào rồi đi thẳng, không ai quay đầu lại nhìn cả.

Tất cả các người ở các nơi tới, bây giờ lại trở về chỗ cũ.

Hồ Ðiệp Cốc trở lại yên tĩnh như xưa.

Chỉ còn lại bọn Dương Tiêu, Nhất Tiếu và bọn Nguyên Chương ở lại với Vô Kỵ thôi.

Mọi người đều hỏi rõ chùa Vạn Pháp ở đâu và hình dáng của bọn người hung ác như thế nào.

Vô Kỵ liền nói:

– Chu Ðại ca! Hiện giờ gần nơi đây đang loạn lạc, đại ca không nên bỏ lỡ dịp may này, mau thống lãnh anh em khởi sự tức thì. Ðại ca khỏi phải đi với chúng tôi lên Ðại Ðô nữa. Chúng ta tạm biệt ở đây.

Nguyên Chương, Từ Ðạt, Thường Ngộ Xuân đều đáp:

– Phen này, mong Giáo chủ thành công. Thuộc hạ chúng tôi xin chúc phúc giáo chủ.

Mấy người tạm biệt Vô Kỵ rời Hồ Ðiệp Cốc.

Chờ bọn Nguyên Chương đi khỏi, Vô Kỵ nói với tả hữu:

– Chúng ta cũng phải lên đường ngay. Tiểu Siêu, cô bị đeo xiềng xích như vậy rất bất tiện trong lúc đi đường, cô nên nán lại đây chờ chúng thì hơn.

Tuy không bằng lòng, Tiểu Siêu vẫn phải nhận lời, nàng tiễn Vô Kỵ ra tận ngoài Hô Ðiệp Cốc mà lòng vẫn quyến luyến.

Vô Kỵ an ủi:

– Tiểu Siêu quay trở về đi.

Tiểu Siêu hỏi:

– Chẳng hay tướng công tới Ðại Ðô có định gặp Triệu cô nương không?

– Ðiều này tôi không dám nói trước.

– Nếu tướng công gặp cô ta, làm ơn yêu cầu cô ta giúp tôi một việc này nhé?

– Tiểu Siêu có việc gì yêu cầu cô ấy thế?

Tiểu Siêu giơ thẳng hai cánh tay rồi đáp:

– Tướng công hỏi Triệu cô nương mượn Thanh Ỷ Kiếm để chặt đứt xiềng xích này cho tôi. Bằng không tôi sẽ mất tự do suốt đời.

Thấy thái độ của nàng rất đáng thương.

Vô Kỵ không nỡ trái ý nàng vội đáp:

– Tôi chỉ e cô ta không cho mượn thanh bảo kiếm ấy đem về đây xa xôi như vậy.

– Nếu vậy… chi bằng tướng công đem tôi đi tới trước mặt nàng nhờ nàng dùng kiếm chém cho một nhát, như vậy có phải là hơn không?

Vô Kỵ vừa cười vừa tiếp:

– Nói đi nói lại chẳng qua Tiểu Siêu muốn theo chúng tôi đi lên Ðại Ðô. Dương Tả sứ thử tính xem chúng ta có thể đem nàng đi theo được không?

Dương Tiêu biết Vô Kỵ nói như vậy là đã có y đem theo Tiểu Siêu đi theo, nên vội đáp:

– Ðưa cô ta đi theo cũng không sao, đồng thời có người hầu hạ cơm nước cho Giáo chủ, như vậy cũng có ích lợi lắm. Nhưng phải nỗi xiềng xích kêu long koong, dễ làm cho người ta chú ý tới. Hay là bảo cô ta giả đau ốm, cứ ngồi yên trên xe, đừng có ló mặt ra và cũng đừng đi lại mới được.

Tiểu Siêu ca mừng:

– Cám ơn tướng công, cám ơn Dương Tả sứ.

Trưa ngày hôm đó, ba ngựa một xe tiến thẳng về phía Bắc.

Suốt dọc đường không có chuyện gì xảy ra hết.

Không bao lâu, mọi người đã lên tới Bắc Kinh đô thành của triều đình.

Vừa vào tới cổng thành, Vô Kỵ và những người đã thấy những người đi lại trong thành đa số là những kẻ mắt xanh tóc vàng.

Bọn Vô Kỵ bốn người đi đến Tây Thành, vào trọ một khách điếm.

Dương Tiêu giả vờ làm một đại phú thương tiêu xài rất rộng rãi.

Y bảo phổ ky phục địch chu đáo.

Dương Tiêu hỏi phổ ky về những phong cảnh cổ tích, những miễu hay chùa viện?

Tên phổ ky trả lời:

– Ở phía Tây thành này chỉ có chùa Vạn Pháp là lớn nhất. Trong chùa có ba tượng Phật bằng đồng cao lớn. Có lẽ khách quan đi khắp thiên hạ cũng không sao kiếm ra được pho tượng nào to lớn như vậy.

Mấy vị đến chùa chiêm ngưỡng. À quên, không may cho quý vị, mấy tháng trước đây bỗng có một vị Phật ở Tây Phiên tới ở, nên chùa đó cấm người ngoài đến thăm viếng.

Dương Tiêu lại hỏi tiếp:

– Trong chùa có Phiên tăng ở, chúng tôi đến thăm viếng, có việc gì đến họ đâu?

Tiểu nhị lắc đầu lè lưỡi, ngó nhìn chung quanh rồi mới khẽ đáp:

– Khách quan mới đến kinh thành nên chưa hiểu rõ đấy thôi. Không phải tiểu nhân lắm miệng và dọa nạt quý vị đâu, sự thật, những Phiên tăng đó hễ thấy có người lạ là đánh liền. Họ muốn giết người cũng không ai dám nói nửa lời, hễ thấy đàn bà đẹp đi qua là họ bắt luôn vào trong chùa. Tiểu nhân nghe nói đó là thánh chỉ, cho nên họ tự do hành động như vậy, và không ai dám bén mảng tới chùa đó nữa.

Phiên tăng ở Tây vực ỷ thế lực của người Mông Cổ, ngang tàng vô cùng, chuyên môn hà hiếp người Hán. Việc này Dương Tiêu biết đã lâu, nhưng mọi người không ngờ ở kinh thành này mà chúng cũng dám làm như thế.

Biết vậy, Dương Tiêu không hỏi thêm nữa.

Hồi thứ 64

Dụng Tâm Hiểm Ác

Cơm chiều xong, mọi người đóng cửa phòng nghỉ ngơi.

Chờ đến canh hai, Vô Kỵ, Dương Tiêu, Nhất Tiếu, xuyên qua cửa sổ ra bên ngoài và tiến thẳng về phía Tây.

Chùa Vạn Pháp cao chừng bốn từng, phía sau chùa có cái tháp chín từng.

Ðứng phía xa cũng có thể thấy được cái tháp đó.

Vô Kỵ, Dương Tiêu, Nhất Tiếu giở khinh công ra, chỉ thoáng cái đã tới chùa rồi.

Ba người dùng tay ra hiệu cùng chạy vòng sang phía trái định leo lên bảo tháp đứng trên cao nhìn xuống xem tình hình trong chùa.

Ngờ đâu ba người chưa tới gần đã thấy trên tháp có bóng người thấp thoáng.

Lúc này, ba người mới hay từng tháp nào cũng có người đi lại tuần tiễu.

Dưới chân tháp lại có hai chục người canh gác nữa.

Ba người thấy vậy vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Vì biết bảo tháp có người canh gác nghiêm mật như vậy, muốn cứu những tay cao thủ kia ra không phải là việc dễ!

Ba người lẳng lặng rút lui.

Ba người đi được vài chục bước, đột nhiên thấy từng thứ sáu của bảo tháp có ánh sáng ló ra và thấy thấy có tám chín người tay cầm đuốc chiếu soi khắp nơi rồi chúng lại xuống từng thứ năm thứ tư cho đến từng cuối cùng, chúng cũng chiếu rọi như thế. Chiếu xong bọn người đó liền đi thẳng ra ngoài chùa.

Dương Tiêu vội giơ tay ra hiệu, rồi ba người từ từ đi tới gần.

Phía sau chùa trồng rất nhiều cây cổ thụ cao chọc trời, ba người vội ẩn thân sau những cây to lớn, hễ nghe có tiếng động là ba người chạy lên mấy trượng ngay.

Ba người biết trong chùa Vạn Pháp này có rất nhiều tay cao thủ.

Tuy có khinh công cao siêu như thế, ba người vẫn sợ đối thủ hay biết nên cứ phải đợi có cành lá rơi mới dám tiến lên một vài chục bước!

Nhờ có ánh sáng của những bó đuốc, ba người đã trông thấy rõ bọn người kia đều ăn mặc áo bào màu vàng, tay cầm khí giới, đang áp tải một ông già mặc áo bào rộng. Người đó ngẫu nhiên quay đầu lại, Vô Kỵ nhận ngay ra là Thiết Cầm Tiên sinh Hà Thái Sung, trưởng môn phái Côn Luân.

Chàng giật mình kinh hãi, nghĩ thầm:

– Thế ra Hà Thái Sung cũng bị giam giữ ở đây ư?

Bọn người kia tiến thẳng vào phía sau chùa Vạn Pháp.

Ba người thấy chung quanh quả thật không còn có một bóng người nào nữa, mới dám lẻn theo cửa sau mà đi thẳng vào trong chùa.

Trong chùa rất rộng lớn, có nhiều phòng xá qui mô không khác gì chùa Thiếu Lâm! Phòng xá nào cũng tối om, riêng có toà đại diện ở giữa là có ánh sáng đèn mà thôi!

Ba người đoán chắc Thái Sung bị áp giải đến chỗ có ánh sáng đèn đó, liền rón rén tiến đến đại điện.

Vô Kỵ nằm phục xuống đất ngó qua khe cửa bên dưới nhìn vào trong điện.

Dương Tiêu và Nhất Tiếu đứng hai bên tả hữu canh gác cho chàng phòng người đánh lén.

Nhìn mãi, Vô Kỵ mới nhìn thấy được nửa người dưới của Thái Sung, còn trong điện có ai nữa thì chàng không sao trông thấy.

Chàng nghe tiếng Thái Sung hậm hực nói:

– Ta đã bị sa vào gian kế của các ngươi, bây giờ các ngươi muốn chém muốn giết thì cứ việc ra tay đi! Còn các ngươi muốn ta làm chó săn cho triều đình thì ta chịu chết chứ không chịu nhục đâu! Các ngươi đừng có mất công dụ dỗ ta nữa!

Thấy Thái Sung nói cứng như vậy, Vô Kỵ cũng gật đầu khen ngợi và nghĩ thầm:

– Hà tiên sinh đây tuy không thể gọi là chính nhân quân tử được nhưng đến lúc nguy nan này mà y vẫn còn giữ được thái độ như thế quả thật hiếm có! Y vẫn không làm mất tôn nghiêm một người trưởng môn của phái lớn!

Chàng lại nghe một người đàn ông lạnh lùng nói:

– Bạn cứ cố chấp như vậy, chủ nhân của tôi cũng không miễn cưỡng đâu! Luật lệ nơi đây như thế nào chắc bạn cũng đã dư biết.

Thái Sung đáp:

– Dù mười ngón tay của ta có bị chém gãy ta cũng không chịu đầu hàng!

– Cũng được, để tôi nói lại một lần nữa cho bạn nghe, nếu bạn thắng được ba chúng tôi thì chúng tôi sẽ tha cho bạn ngay. Nếu bạn thua thì chúng tôi chặt gãy một ngón tay của bạn, rồi giam giữ bạn trong một tháng. Lúc ấy sẽ hỏi bạn có chịu đầu hàng hay không?

– Ta đã bị chặt hai ngón tay rồi, bây giờ có bị chặt gãy một ngón nữa cũng không sao! Ðưa kiếm cho ta!

– Chờ đến khi mười ngón tay bị chặt hết bạn mới chịu đầu hàng thì chúng tôi cũng chẳng cần thu nhận đến một người tàn phế như thế làm chi! Ðưa kiếm cho y, Mã Kha Ba Tư! ra đấu với y đi!

Một người khác với giọng thô lỗ đáp:

– Vâng!

Vô Kỵ ngấm ngầm vận thần công, đẩy khe cửa lên một chút để nhìn cho rõ. Chàng thấy Thái Sung tay cầm một thanh kiếm gỗ, đầu kiếm có bọc vải mềm vừa cứng, không thể nào đả thương và đâm chết người được, còn kẻ đối địch với y là một tên Phiên Tăng cao lớn, tay camn một thanh giới đao sáng quắc, khí giới của hai người hơn kém nhau như vậy, không cần phải tỷ thí cũng biết ai thắng ai bại rồi!

Thái Sung không sợ hãi chút nào, giơ kiếm gỗ lên và nói:

– Cứ việc tấn công đi!

Nói xong y giở Côn Luân kiếm pháp ra tấn công đối thủ ngay.

Phiên tăng Mã Kha Ba Tư thân hình tuy vạm vỡ, nhưng hành động rất lẹ làng.

Y giở đao pháp nhằm các nơi yếu điểm của Thái Sung mà tấn công tới.

Chỉ xem hai người đấu, Vô Kỵ đã kinh hãi, thầm nghĩ:

– Sao chân của Hà Tiên sinh lại yếu ớt và hơi thở của y lại hồng hộc lên như vậy? Hình như nội lực của y đã mất gần hết vậy.

Từ khi học tập được Cửu Dương thầ công và Càn Khôn Nã Di Tâm pháp rồi, võ học của thiên hạ thay đổi như thế nào Vô Kỵ chỉ nhìn qua cũng đều biết hết.

Mấy tháng gần đây chàng ở trên núi Võ Ðang lại được Trương Tam Phong chỉ bảo cho võ học lại càng tiến bộ thêm.

Lúc này chàng thấy Thái Sung đấu với Phiên tăng kia càng xem càng nhận thấy bên trong thế nào cũng có sự bí mật gì đây? Kiếm pháp của Thái Sung tuy tinh thông thật, nhưng nội lực của y không khác gì người thường. Vì vậy thế kiếm của y rất lợi hại mà không sao xử dụng hết được!

Còn tên Phiên tăng kia võ công tuy kém y hai thành, nhưng nhờ có sức mạnh và khí giới sắc bén hơn, vì vậy càng đấu Phiên tăng càng thắng thế hơn.

Nhưng có nhiều lần Phiên tăng sắp sửa giết được Thái Sung đến nơi lại bị Thái Sung dùng những thế tinh diệu mà tránh thoát được.

Hai người đấu được năm mươi hiệp, Thái Sung bỗng quát lớn:

– Trúng!

Kiếm của y đã đâm trúng vao dưới mông của tên Phiên tăng nọ liền! Nếu kiếm của y là kiếm thường thôi, thế kiếm đó củng đủ giết tên phiên tăng nọ rồi, nhưng vì kiếm của y là kiếm gỗ lại bọc vải nên đối thủ chỉ đau đớn qua loa thôi!

Mã Kha Ba Tư hãy rút lui đi! Ôn Ngọa Nhi lên tiếp chiến!

Vô Kỵ ngó về phía có tiếng nói đó thấy người ấy mặt đen như ám khói, có râu hoa râm, chàng nhận ngay ra y là một tên trong nhóm Huyền Minh Nhị Lão, y đang khoanh tay đứng yên, hai mắt nhắm nghiền, hình như không để ý tới sự việc đang xảy ra trước mắt vậy!

Chàng lại nhìn về phía trước thấy trên một cái bục phủ gấm có một đôi chân đi giày màu vàng, mũi giày có gắn một hạt Minh châu, chàng nhận ngay ra chân này là chân của Triệu Minh. Không hiểu tại sao khi gặp nhau trên Võ Ðang, chàng coi nàng như kẻ địch nhưng lúc này chàng mới thấy đôi chân của nàng đã cảm thấy trống ngực đập rất mạnh.

Chàng lại thấy chân phải của Triệu Minh khẽ đánh nhịp, chàng đoán chắc nàng đang chăm chú xem trận đấu của Hà Thái Sung với Ôn Ngọa Nhi.

Một lát sau, chàng nghe thấy Thái Sung lớn tiếng kêu: “Trúng.”

Triệu Minh giơ chân phải lên dậm mạnh xuống đất một cái, thì ra nàng bực mình vì Ôn Ngọa Nhi đã bại trận.

Vô Kỵ lại nghe thấy ông già Huyền Minh nói:

– Ôn Ngọa Nhi rút lui, Hắc Lâm Bạc Phu vào tiếp chiến.

Vô Kỵ thấy Thái Sung thấm mệt. Bây giờ y lại tiếp chiến với người thứ ba.

Chàng thấy Hắc Lâm Bạc Phu xử dụng một cây côn sắt rất nặng, nên khi y múa động cây côn ấy trong điện liền có tiếng gió kêu vù vù khiến những ngọn nến thắp điện đều bị ảnh hưởng, lúc lu lúc sáng.

Ðang lúc ấy chàng bỗng nghe tiếng “cắc” một cái.

Thì ra thanh kiếm gỗ của Thái Sung bị đánh gãy.

Người chưởng môn của phái Côn Luân liền thở dài và vứt thanh kiếm gãy xuống đất. Rốt cuộc trận đấu ấy y bị thua.

Ông già Huyền Minh liền lên tiếng hỏi:

– Thiết Cầm tiên sinh đã chịu đầu hàng chưa?

Thái Sung ngang nhiên đáp:

– Tôi không hàng và cũng không phục, nếu tôi còn nội lực thì Phiên tăng kia địch tôi sao nổi.

Ông già Huyền Minh lạnh lùng bảo tả hữu rằng:

– Chém ngón tay vô danh ở bên trái của y rồi đem giam trong tháp.

Vô Kỵ vội quay đầu lại và giơ tay ra hiệu cho Dương Tiêu ý chàng muốn bảo:

– Nếu lúc này ta xông vào trong điện cứu người thế nào cũng làm hư hết việc lớn. Trong khi chàng ra hiệu cho Dương Tiêu, chàng nghe thấy trong điện có tiếng chặt ngón tay, tiếng người lo rịt thuốc và băng bó cho Thái Sung, nhưng chàng không nghe tiếng Thái Sung kêu đau và rên rỉ gì hết.

Chàng thấy bọn người áo vàng, tay ôm đuốc, tay kéo Thái Sung để đem về bảo tháp giam cầm.

Vô Kỵ vội đứng dậy và lẻn ra góc tường ẩn núp.

Dưới ánh sáng bó đuốc, chàng trông thấy Thái Sung mặt nhợt nhạt, nghiến răng mím môi lại chịu đau, thần sắc rất phẫn nộ.

Bọn người đó đi xa rồi.

Vô Kỵ bỗng nghe trong điện có tiếng Triệu Minh lanh lảnh nói:

– Lộc Trượng Khách nầy, kiếm pháp của phái Côn Luân lợi hại đấy nhỉ, y tấn công lia lịa khiến Mã Kha Ba Tư không biết đâu mà chống đỡ.

Nàng ta vừa nói vừa đi ra giữa điện tay cầm thanh kiếm gỗ và bắt chước Thái Sung mà múa theo.

Phiên tăng Mã Kha Ba Tư tay múa song đao tiến lên đối địch với nàng, Ông già Huyền Minh Lộc Trượng Khách kia liền khen ngợi:

– Chủ nhân quả thật thông minh vô cùng thế kiếm nầy chủ nhân múa đúng lắm.

Triệu Minh lại tiếp tục tấn công Mã Kha Ba Tư, thế kiếm nào nàng cũng đâm trúng dưới mông của đối thủ, tuy kiếm của nàng bằng gỗ nhưng đâm trúng cái nào cũng đau lắm. Tuy vậy tên Phiên tăng đó vẫn cố chịu đau để luyện tập với nàng.

Nàng đấu với Phiên tăng đó xong lại gọi Ôn Ngọa Nhi ra đấu với mình để thử xem người này đã dùng môn võ nào mà đánh bại được kiếm pháp của Thái Sung.

Tới lúc nầy Vô Kỵ mới biết rõ tại sao Triệu Minh lại làm như thế?

Thì ra nàng bắt các tay cao thủ của các môn phái đem về giam giữ nơi đây và cho họ uống thuốc để mất hết sức lực rồi mới bắt họ đầu hàng triều đình.

Tất nhiên không một ai chịu đầu hàng triều đình cả. Nàng liền sai người đấu võ với các tay cao thủ đó để nàng học lỏm những thế võ hay của các môn phái. Như vậy đủ thấy, dụng tâm của nàng độc biết bao và mưu kế ấy cũng ác khôn tả. Ai nghe thấy cũng phải tức giận vô cùng.

Lúc ấy Triệu Minh đang đối địch với Ôn Ngọa Nhi, đấu đến mấy thế cuối cùng nàng bỗng ngừng tay, mặt tỏ vẻ nghi ngờ, vội hỏi ông già Huyền Ming rằng:

– Lộc Trượng Khách! Thế kiếm ấy có phải đâm như thế này không?

Lộc Trượng Khách ngơ ngác một hồi, rồi quay đầu lại hỏi:

– Chú Hạc! Chú có trông thấy rõ không?

– Ðệ không nhớ rõ có lẽ Khổ Ðầu Ðà nhớ rõ hơn.

Triệu Minh vừa cười vừa quay đầu lại hỏi:

– Khổ Ðầu Ðà làm ơn ra đây chỉ điểm cho tôi một chút.

Phía bên phải có một Ðầu đà tóc bạc phủ xuống vai, lưng gù, chân thọt, mặt có rất nhiều vết sẹo. Không ai có thể biết được bộ mặt thật của y ra sao nữa. Tuy lưng gù, Ðầu đà ấy rất vạm vỡ, lưng tuy gù nhưng cao không kém gì Lộc Trượng Khách, không nói nửa lời, từ từ tiến ra đỡ lấy thanh kiếm gỗ của Triệu Minh xông lại tấn công Hắc Lâm Bạc Phu ngay. Y toàn xử dụng kiếm pháp của phái Côn Luân, hình như y luyện tập kiếm pháp của phái này từ hồi nhỏ, nên kiếm thế của y rất thuần thuộc.

Lúc ấy Vô Kỵ mới trông thấy Hắc Lâm Bạc Phu là võ sĩ Tây Vực xử dụng cây thiết trượng dài tám thước.

Khổ Ðầu Ðà bắt chước y hệt Hà Thái Sung vì vậy y cũng làm như không có chút nội lực nào còn đối thủ thì giở hết toàn lực ra chiến đấu mãi tới những ngọn nến đã tắt hơn phân nửa.

Hồi nãy Thái Sung đấu tới đây liền bị Hắc Lâm Bạc Phu đánh gãy kiếm và bại trận còn Khổ Ðầu Ðà nhẹ nhàng như con chim yến nhảy tới gần kẻ địch múa kiếm chém luôn vào tay đối thủ, nên tay y tê tái tức thì, không sao cầm vững cây thiết trượng liền đánh rớt xuống đất kêu đến “coong” một tiếng.

Mặt đỏ bừng xấu hổ vô cùng, y biết nếu kiếm của đối thủ không phải là kiếm gỗ thì tay của y bị chém gãy rồi nên vội vái chào và nói:

– Bái phục, bái phục.

Nói xong y cúi mình và nhặt cây thiết trượng lên.

Khổ Ðầu Ðà hai tay cầm kiếm gỗ trao cho Triệu Minh.

Triệu Minh, vừa cười vừa nói:

– Khổ Ðại sư tài ba thật, chẳng hay thế kiếm tinh diệu cuối cùng đó có phải là thế kiếm của phái Côn Luân không?

Khổ Ðầu Ðà trả lời bằng mấy cái gật.

Triệu Minh khẽ nói tiếp:

– Tại sao Hà Thái Sung lại không biết sử dụng thế kiếm ấy?

Khổ Ðầu Ðà chỉ gật đầu như trước.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Khổ sư phụ có dạy tôi thế kiếm ấy không?

Hồi thứ 65

Quang Minh Hữu Sứ

Nhất Tiếu bỗng giơ bàn tay ra và nhổ vào đấy mấy đống nước bọt, cùng nước bọt đó sát vào đáy giầy, mấy cái rồi ha hả cả cười.

Mọi người không hiểu y làm như thế để làm chi? đột nhiên có một cái bóng xanh thấp thoáng.

Triệu Minh đã thấy hai má của mình bị ai rờ mó một cái.

Nàng ngửng mặt nhìn, thấy Nhất Tiếu đã đứng về chỗ cũ và tay đã có hai thanh đoản đao. Không hiểu y đã lấy trộm hai thanh đoản đao đó của ai.

Triệu Minh hiểu biết là ai rồi, nhưng nàng không dám đưa tay lên sờ vào má. Chỉ lấy khăn tay ra lau chùi thồi. Nàng thấy khăn đó dính đầy những bùn bẩn và đen xì.

Hiển nhiên những bùn đó là nước bọt và cát bụi ở dưới đáy giày của Nhất Tiếu, nàng càng nghĩ càng buồn nôn buồn mửa.

Nàng lại nghe thấy Nhất Tiếu nói:

– Triệu cô nương muốn làm hư bộ mặt của Chu cô nương ư? Dễ lắm, đâu có ai cấm cản cô nương được. Trương giáo chủ chúng tôi tiếng tăm lừng lầy bốn bể và lại là người anh tuấn tao nhã. Giáo chủ chúng tôi muốn lấy mấy người vợ đẹp hay là tam thê, tứ thiếp cũng không khó. Sự thật giáo chủ chúng tôi có bao giờ để ý đến Chu cô nương này đâu. Vì thấy cô nương có thủ đoạn ác độc như vậy, nên Nhất Tiếu không thể buông tha được. Ngày hôm nay nếu mặt Chu cô nương bị rạch một vết thương nào, họ Vi này sẽ trả lại gấp đôi, nghĩa là một gấp hai nếu cô nương rạch cô ta hai rạch tôi sẽ rạch cô bốn rạch. Cô chặt cô ta một ngón tôi sẽ chặt cô ta hai ngón. Họ Vi nầy đã nói ra là phải làm được, trong đời tôi chưa hề nói ngoa bao giờ. Cô đề phòng tôi chỉ có thể đề phòng nửa năm hay một năm thôi chứ cô nương không thể đề phòng tám hay mười năm Cô muốn sai người giết tôi, nhưng chưa chắc đuổi kịp họ Vi này. Bây giờ tôi xin cáo từ đây.

Y vừa nói dứt lời người y đã mất dạng liền đủ thấy thân pháp của y nhanh như thế nào. Mọi người có mặt tại đó đều kinh hoảng.

Lời nói của Nhất Tiếu rất tầm thường nhưng mọi người đều biết y không phải nói ngoa để dọa nạt đâu?

Nếu vừa rồi họ Vi tay cầm đoản đao, muốn rạch thì mặt của Triệu cô nương đã bị rách nát rồi, thân pháp của y nhanh như điện và cũng tựa như bóng ma thì dù có tay cao thủ mạnh đến đâu cũng không đề phòng y nỗi.

Vô Kỵ chắp tay vái chào và nói:

– Triệu cô nương chúng tôi xin cáo từ.

Nói xong, chàng đắt tay Dương Tiêu quay người đi ra luôn.

Chàng biết lúc này Triệu Minh hãy còn nơm nớp hãy sợ về sự đe dọa của Nhất Tiếu nên chưa dám hại Chỉ Nhược.

Triệu Minh đưa mắt nhìn theo hai người vừa xấu hổ, vừa tức giận, nhưng nàng không ra lệnh chận hai người lại.

Vô Kỵ với Dương Tiêu vừa về tới khách điếm đã thấy Nhất Tiếu ngồi chờ trong phòng rồi.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Dương Tả sứ, về vần đề cứu người chẳng hay Tả sứ có điệu kế gì không?

Dương Tiêu trù trừ một lúc rồi đáp:

– Chúng ta chỉ có ba người, huống hồ hình tích của ta đã lộ liểu rồi. Việc này khó giải quyết thật.

Vô Kỵ có vẻ ăn năn lẩm bẩm nói:

– Vì thấy Chu cô nương nguy cấp tôi ra tay cứu mới làm hư đại sự.

Dương Tiêu lại nói:

– Sự thế như vậy ai cũng phải hành động. Nhưng Giáo chủ một mình đánh bại Huyền Minh nhị lão làm cho kẻ địch mất hết oai phong cũng đã hay lắm.

Ba người bàn tán mãi vẫn không tìm được một mưu kế hoàn hảo nào.

Cả ba đành chia tay về phòng ngủ.

Sáng sớm ngày hôm sau, Vô Kỵ thức dậy vừa mở mắt ra nhìn đã thấy cửa sổ mở toang.

Chàng giật mình kinh hãi vội mở màng ra xem, thấy một người mặt đầy sẹo, trông rất xấu.

Chàng nhìn kỹ mới hay người đó chính là Khổ Ðầu Ðà vẫn cứ ngẩn người ra nhìn chàng nhưng không có ý định hãm hại chàng.

Chàng vừa tung mình vừa nghĩ thầm:

– Sao ta ngủ say đến thế, kẻ địch đến trước cửa sổ như vậy mà ta không hay biết gì hết.

Nghĩ đoạn chàng lớn tiếng gọi:

– Dương Tả sứ! Vy Bức Vương!

Dương Tiêu và Nhất Tiếu nghe tiếng đáp lại, Vô Kỵ mới yên tâm và quay lại nhìn về phía cửa sổ không trông thấy bộ mặt của Khổ Ðầu Ðà nữa.

Chàng vội nhảy ra ngoài cửa sổ chỉ thấy bóng của Khổ Ðầu Ðà đang đi ra lối cửa giữa. Lúc ấy Dương Tiêu và Nhất Tiếu đã đuổi theo ra, ba người thấy ngoài Khổ Ðầu Ðà ra không còn có kẻ địch nào khác nên cả ba người liền giở khinh công ra đuổi theo.

Khổ Ðầu Ðà ở góc phố, thấy ba người đuổi theo tới liền quay mình đi thẳng về phía Bắc, y chỉ đi bước thôi chứ không chạy, ba người liền dùng tay hiệu bảo nhau theo dõi.

Tuy chân đi tập tễnh, Khổ Ðầu Ðà đi rất nhanh.

Lúc ấy, trời vừa mờ sáng, người đi rất ít.

Không bao lâu, cả bốn người đã ra khỏi cửa Bắc, Khổ Ðầu Ðà vẫn tiếp tục đi, rẽ vào con đường nhỏ.

Y đi thêm bảy tám dặm nữa tới một ải đồi có nhiều đá lởm chởm mới ngừng chân quay lại giơ tay ra hiệu bảo Dương Tiêu và Nhất Tiếu hãy rút lui rồi y chắp tay chào Vô Kỵ. Vô Kỵ đáp lễ và nghĩ thầm:

– Ðầu Ðà này đưa chúng ta tới đây làm chi thế? không hiểu y cố dụng ý gì. Nơi đây không có một bóng người nào. Nếu y động vô, chúng ta ba người đấu với một mình y thì chỉ có y thua thôi khi nào y lại dại như thế. Như vậy y dụ ta, tất phải có việc khác.

Chàng đang suy nghĩ Khổ Ðầu Ðà đã kêu “hù hù” một tiếng giơ tay mười ngón tay lên nhảy xổ tới, tay trái xử dụng thế Hổ Chảo, tay phải xử dụng thế Long Chảo, mười ngón tay như mười cái móc sắt, thế công của y rất độc ác.

Vô Kỵ giơ tay chưởng lên hắt ngang một cái giải luôn một thế võ của địch thủ và hỏi:

– Thượng nhân muốn gì? Xin cho biết trước rồi đấu sau cũng chưa muộn.

Khổ Ðầu Ðà không điếm xĩa đến lời nói của chàng mà cứ tấn công lia lịa. Thế công của y cũng lợi thế hết sức.

Vô Kỵ liền hỏi tiếp:

– Có thật Thượng nhân nhất định đấu không?

Khổ Ðầu Ðà vẫn tấn công như trước, Vô Kỵ liền giở Thái cực quyền pháp ra đối phó. Nhưng võ công của Khổ Ðầu Ðà phức tạp, chính có tà có uyên bác khôn lường, Vô Kỵ vẫn dùng Thái cực quyền chống đỡ.

Ðấu được bảy tám mươi hiệp Khổ Ðầu Ðà bỗng tấn công một quyền vào trước ngực đối thủ.

Vô Kỵ phong bế quyền lực của địch và dùng hữu chưởng đánh luôn vào lưng gù của đối phương nhưng chưởng của chàng không dùng một chút nội lực nào cả chỉ đụng tay vào người của địch thủ là thâu thế lại ngay.

Khổ Ðầu Ðà biết chàng nương tay không giết hại mình, y vội nhảy lui về phía sau, ngước mắt nhìn Vô Kỵ một hồi, rồi đột nhiên y giơ tay ra hiệu bảo Dương Tiêu cho mượn thành trường kiếm.

Dương Tiêu vội đưa thanh kiếm nguyên cả bao cho y.

Vô Kỵ thấy vậy ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Sao Dương Tả sứ lại cho kẻ địch mượn khí giới như thế?

Khổ Ðầu Ðà rút kiếm ra khỏi bao y còn giơ tay ra hiệu bảo Vô Kỵ hỏi Nhất Tiếu mượn kiếm.

Vô Kỵ lắc đầu chỉ cầm cái bao kiếm, nắm ở tay trái thôi, rồi chàng đỡ bao kiếm lên ngực, lấy thế đợi Khổ Ðầu Ðà tấn công.

Khổ Ðầu Ðà múa kiếm tấn công luôn.

Vô Kỵ thấy y dạy Triệu Minh học kiếm hồi nãy biết kiếm của đối thủ rất cao nên chàng không dám coi thường.

Chàng liền giở Thái cực kiếm pháp đã học ở núi Võ Ðang ra tiếp chiến nhưng chàng thấy kiếm pháp của đối thủ bỗng nhanh, bỗng chậm, thế nào cũng lợi hại nhưng không làm gì nỗi Vô Kỵ hết.

Tuy vậy, Vô Kỵ cũng phải khen ngợi thầm:

– Nửa năm trước đây, ta đối địch với người nầy kiếm pháp của ta chưa chắc địch nổi y. Kiếm pháp của y còn cao siêu hơn Ngọc Diện thần kiếm, Phương Ðông Bạch nhiều.

Lòng yêu tài khiến chàng muốn đánh bại đối thủ liền.

Hai người đang đấu rất kịch liệt, thế kiếm của Khổ Ðầu Ðà nhanh đến nỗi chỉ trông thấy một luồng ánh sáng chứ không thấy lưỡi kiếm của y.

Bỗng có tiếng kêu “soẹt”, Khổ Ðầu Ðà giật mình nhảy về phía sau, nhìn nhanh kiếm thấy bao kiếm đã úp chụp vào thanh kiếm rồi đồng thời khẩu tay của y đã bị Vô Kỵ nắm chặt lấy.

Y biết Vô Kỵ chỉ dùng sức một cái là thanh kiếm đó rời khỏi tay y ngay, y liền vứt kiếm xuống giơ tay đánh luôn Vô Kỵ mấy chưởng.

Vô Kỵ biết chưởng lực của địch rất lợi hại nhưng chàng vẫn giơ chưởng lên chống đỡ đồng thời chàng giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra nên chưởng lực của chàng càng đánh càng mạnh.

Ðột nhiên chàng bỗng quát lớn một tiếng.

Chưởng lực của chàng càng mạnh hơn trước mấy chục lần. Nếu Khổ Ðầu Ðà còn tiếp tục chống cực thì tay và xương hông của y sẽ bị gãy vụn. Y sẽ bị chết một cách thảm thương liền. Nhưng, tay của hai người đã dính chặt nhau.

Khổ Ðầu Ðà muốn tránh cũng không sao tránh được.

Vô Kỵ giơ tay trái túm ngực đối phương, tung lên một cái Khổ Ðầu Ðà bay lên cao rớt xuống đất kêu đánh “bùng” một tiếng đá bụi cây tứ tung.

Thì ra chưởng của Vô Kỵ đã đánh trúng một tảng đá ở phía trước mặt, tiếng đá vỡ thành muôn mảnh.

Dương Tiêu và Nhất Tiếu đứng gần đó điều kinh hãi cũng kêu một tiếng “úa”.

Hai người yên chí, Khổ Ðầu Ðà đấu chưởng với Giáo chủ ít ra một hồi lâu mới phân thắng bại được.

Ngờ đâu chỉ giây phút đã tới mức quyết sinh tử.

Hai người định lên tiếng nói, nhưng chưa kịp đã thấy việc xảy ra kinh khủng như trên. Khổ Ðầu Ðà bình yên nhảy xuống mặt đất hai người mới hết sợ.

Khổ Ðầu Ðà vừa hạ chân xuống tới mặt đất đã giơ tay lên trước làm kiểu như ngọn lửa đang bốc cháy vậy rồi y quỳ xuống vái lạy Vô Kỵ và nói:

– Tiểu nhân Quang Minh Hữu sứ Phạm Dao tham kiếm Giáo chủ cám ơn Giáo chủ thứ tội cho.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vì chàng ngỡ Khổ Ðầu Ðà vẫn câm điếc sao bây giờ không những nói được mà còn xưng là Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo.

Chàng vội đỡ Phạm Dao đứng dậy và đáp:

– Thế ra bạn là Phạm Hữu sứ của bổn giáo đấy à! Người nhà với nhau cả. Hà tất phải lễ phép như thế làm chi?

Khi Dương Tiêu với Nhất Tiếu mới tới đã đoán ra được ba thành rồi, nhưng vì mặt Phạm Dao thay đổi quá nhiều, nên hai người không dám nhận. Tới khi thấy Hữu sứ giở võ công ra đối địch với Vô Kỵ, hai người lại đoán biết thêm được bốn thành nữa. Bây giờ thấy Hữu sứ báo danh, hai người vội chạy lại nắm lấy tay của Phạm Dao.

Dương Tiêu ngắm Hữu sứ một hồi, nước mắt ràn rụa nói:

– Phạm hiền đệ, ngu huynh nhớ hiền đệ khôn tả…

Phạm Dao ôm lấy Dương Tiêu đáp:

– Ðại ca, cám ơn thần thánh phù hộ, ban cho bổn giáo một vị Giáo chủ tài ba như thế này. Nhờ vậy anh em chúng ta mới tái hợp.

Dương Tiêu vội hỏi:

– Sao mặt mũi chú lại thay đổi như thế?

– Nếu đệ không phá hủy bộ mặt vì tự làm thành người tàn tật như thế này thì giấu gian tặc Thành Khôn sao nổi.

Lúc này, Vô Kỵ, Dương Tiêu và Nhất Tiếu, ba người hay y tự hủy diện để nắm vùng, dò là xem Giáo chủ Dương Phá Thiên tại sao chết. Thấy Phạm Dao can đảm như thế, Dương Tiêu càng cảm động thêm liền nói tiếp:

– Chú chịu khó thật!

Năm xưa Dương Tiêu với Phạm Dao cùng được giang hồ gọi là Tiêu Dao nhị tiên, vì cả hai đều đẹp trai. Nhưng bây giờ Phạm Dao biến thành người xấu xí như vậy, nỗi khổ của y trên thế gian này có mấy người chịu đựng nổi? Tính nết của Nhất Tiếu rất kỳ dị xưa nay vẫn bất hòa với Phạm Dao, nhưng từ lúc nầy y thấy Hữu sứ hy sinh như vậy, cũng phải kính phục nên y vội quỳ xuống lạy và nói:

– Phạm Hữu Sứ! Từ nay Nhất Tiếu xin bái phục.

Phạm Dao cũng quỳ xuống đáp lễ:

– Bức Vương khinh công cao siêu nhất thiên hạ, càng tuổi già tài ba càng điêu luyện. Tối qua Khổ Ðầu Ðà sáng mắt ra.

Dương Tiêu đưa mắt nhìn quanh rồi nói:

– Nơi đây gần thành, nhĩ nhục của địch lại rất nhiều, chúng ta nên vào trong eo núi ở phía trước mặt nói chuyện thì hơn.

Bốn người liền giơ khinh công ra, chạy luôn mười mấy dặm đường, tới một cái đồi nhỏ, có thể trông thấy cảnh vật phía xa, không sợ kẻ địch ẩn núp nghe lỏm.

Bốn người liền ngồi xuống đất chuyện trò.

Khi Dương Phá Thiên đột nhiên mất tích, các cao thủ của Minh Giáo muốn tranh giành địa vị giáo chủ, không ai chịu phục ai cả nên mới chia thành bốn năm phe. Riêng có Phạm Dao vẫn tin Giáo chủ chưa chết, một mình đi tìm kiếm khắp nơi.

Ðã mấy năm Phạm Dao vẫn không sao tìm thấy tung tích của Giáo chủ. Y ngờ cho Cái Bang đã ám hại Giáo chủ, nên đã bí mật hất mấy yếu nhân của Cái Bang tra hỏi. Nhưng tra hỏi thế nào cũng không tìm ra tung tích của Giáo chủ. Tội nghiệp cho Cái Bang, có một số đệ tử đột nhiên bị chết oan vì y. Lúc ấy Phạm Dao hay tin các người trong Minh Giáo tranh chấp kịch liệt hơn trước và cho người đi khắp nơi tìm kiếm. Ðịa vị của y trong Minh Giáo rất cao nên y đứng lên hiệu triệu tất nhiên có rất nhiều giáo chúng theo y ngay. Nhưng y đã nản chí bỏ đi tu, làm một đầu đà nhưng vẫn để tóc như thường.

Một hôm, đang đi dưới chân núi Thái Hằng, bỗng trời mưa trong y liền chạy vào ngôi miếu cổ để trú mưa, vô tình y nghe lõm câu chuyện của hai người, mà hai người đó, một là Thành Khôn, còn người thứ hai kia là một vị Hòa Thượng.

Lúc ấy, y mới biết người Hòa Thượng kia là Không Kiến đại sư, người đứng đầu trong Tứ đại thần tăng của phái Không Kiến đại sư, người đứng đầu trong Tứ đại thần tăng của phái Thiếu Lâm. Y ở trên Quang Minh Ðỉnh đã được gặp Thành Khôn rồi và biết Thành Khôn là sư đệ của Dương Giáo chủ. Y định chờ hai người nói chuyện xong sẽ ra tương kiến.

Ngờ đâu y mới nghe được vài câu đã giật mình kinh hãi liền. Y thấy Thành Khôn quỳ dưới đất sám hối trước mặt Không Kiến thần tăng, Thành Khôn tự nhận là ví quá chén, nên mới định hãm hiếp vợ của Tạ Tốn, đệ tử của mình và còn giết chết cả gia đình đồ đệ đó nữa.vì vậy Tạ Tốn mới đi khắp nơi để tìm y trả thù, nhưng y cứ lánh mặt, không chịu gặp, nên Tạ Tốn mới giết các anh hùng hảo hán tên tuổi trong võ lâm và đề tên Thành Khôn.

Vô Kỵ đã biết rõ câu chuyện kết thù oán của Tạ Tốn với Thành Khôn rồi, nhưng lúc này chàng nghe Phạm Dao nhắc đến, lòng lại tức giận vô cùng.

Phạm Dao kể tiếp:

– Ngày hôm đó, tôi thấy Thành Khôn khóc lóc thảm thương và cứ van lơn Không Kiến đại sư thâu làm độ đệ. Muốn lấy lòng từ bi của nhà phật để hòa giải nghiệp chướng của Thành Khôn.

Không Kiến đại sư liền đáp:

– Thiên tai, thiên tai bể khổ không bờ bến, nhưng biết hối cãi quay đầu lại thì thấy bờ ngay. Ngày xưa đã có người đồ đệ bỏ nghề đi tu mà thành chính quả. Nếu con đã tự sám hối, không lẽ nào ta lại cự tuyệt không nhận con vào cửa phật.

Thần tăng nhận y làm đệ tử và còn nhận lời giúp y giải mối oan nghiệt Tạ Tốn.

Nói tới đó, Phạm Dao vừa ngưng lời thì Vô Kỵ đã kể qua loa câu chuyện Tạ Tốn đánh chết Không Kiến thần tăng cho ba người nghe chàng lại nói tiếp:

– Sỡ dĩ thần tăng có chịu đựng những trái quyền như búa bổ của Tạ đại hiệp là mong muốn hòa giải mối huyết cừu trong võ lâm. Ngờ đâu Thành Khôn lại lừa dối sư phụ y lúc thần tăng sắp chết, y ẩn thân không chịu ra, và cũng không chịu gặp Tạ Tốn…

Tiếp theo đó Dương Tiêu lại kể chuyện Thành Khôn tập kích lên Quang Minh Ðỉnh như thế nào, Minh Giáo ngộ nạn ra sao, rồi y đấu chưởng lực với cha con Hân Thiên Chính, sau cùng y kệt sức chết ngay tại chỗ.

Phạm Dao liền chắp tay vái trời và nói:

– A Di Ðà Phật, thiên tai, thiên tai.

Dương Tiêu thấy Phạm Dao là một nhân vật phong lưu năm xưa mà ngày nay trở nên con người xấu xí và tiều tụy như thế, trong lòng rầu rĩ vô cùng.

Phạm Dao lại nói tiếp:

– Kim Mao sư vương giao hảo với tôi rất thân. Việc gia đình của Tạ đại hiệp ngộ nạn, tôi cũng hay tin, không ngờ hung thủ lại là Thành Khôn.

Nói xong câu đó Khổ Ðầu Ðà lại tiếp:

– Lúc ấy mưa đã tạnh, Không Kiến thần tăng và Thành Khôn ra khỏi miếu đó và đi luôn. Tôi liền lẳng lặng theo sau, biết cả hai võ công rất cao siêu, nên tôi không dám đến gần. Tuy vậy Không Kiến vẫn biết có người theo dõi, nên vừa đi, ông ta vừa niệm phật hiệu và nói rằng: “Ðệ tử của Phật gia cần phải để lòng từ bi trên hết” Vì thế, tôi không dám theo nữa.

Một năm sau, tôi mới hay cái chết của Không Kiến thần tăng. Trong lòng nghi ngờ vô cùng, đoán chắc thế nào cái chết đó cũng có liên can đến Thành Khôn, nên tôi ngấm ngầm tới chùa Thiếu Lâm để điều tra. Tôi không dám đi sâu vào chùa, thì ở phía gần Tung Sơn mà dò xét thôi. Quả nhiên, trời xanh không phụ lòng người, tôi bắt gặp Thành Khôn nói chuyện với mật sứ của triều đình. Mật sứ đó không phải là ai xa lạ mà chính là Lộc Trượng Khách, người đã bị giáo chủ đánh bại đêm hôm qua. Vì thấy võ công của hai người quá cao, tôi đã tự biết địch không nỗi họ, nên tôi không dám lại gần, vì vậy tôi không sao nghe rõ được họ nói những gì? Tôi chỉ nghe bảy chữ như sau: “Cần phải tiêu hủy Quang Minh Ðỉnh”.

Thuộc hạ đã biết bổn giáo lâm nạn nên không dám khoanh tay đứng nhìn, liền theo Lộc Trượng Khách vào kinh sư. Trừ Lộc Trượng Khách ra, những tay cao thủ của triều đình không có một người nào có thể địch nỗi tôi. Rốt cuộc tôi dò là thấy Lộc Trượng Khách với bọn cao thủ kia, đều là thủ hạ Nhữ Dương Vương Sát Hãn Ðặc Mục Nhĩ. Nhữ Dương Vương là tôn thất của triều đình. Làm quan Thái úy, nắm đại quyền binh mã của khắp thiên hạ, y là một người tài ba số một của triều đình và cũng là người trí dũng song toàn nữa.nghĩa quân khởi sự ở Giang Hoài đều bị y tiêu diệt hết.

Vô Kỵ nghe tên Nhữ Dương Vương đã lâu nhưng tới lúc này mới biết Lộc Trượng Khách là thủ hạ của vị tướng quân đó. Chàng kinh ngạc vô cùng.

Dương Tiêu hỏi:

– Vậy cô bé họ Triệu kia là ai thế?

Phạm Dao hỏi lại:

– Ðại ca thử đoán xem.

– Có phải nàng là con gái của Sát Hãn Ðặc Mục Nhĩ không?

Phạm Dao vỗ tay đáp:

– Ðúng đấy, Nhữ Dương Vương có một trai gái, con trai tên là Khố Khố Ðặc Mục Nhĩ, còn con gái là Triệu cô nương đấy, tên Mông Cổ của cô ta là … Minh Minh Ðặc Mục Nhĩ.

Khố Khố Ðặc Mục Nhĩ là hiếu tử của Nhữ Dương Vương sau này sẽ là được thay thế cha làm vương tước, còn cô nương kia phong hiệu là Triệu Minh quận chúa. Hai anh em đều hiếu võ. Cả hai đều học võ từ hồi nhỏ, nên võ nghệ rất cao cường. Hai anh em lại thích mặc quần áo Hán. Thích nói tiếng Hán vì vậy có mỗi người có một tên Hán. Người anh ấy tên là Vương Bảo Bảo, người em gái lấy tên là Triệu Minh.

Phạm Dao nói tiếp:

– Sự thật họ của anh em nhà ấy là “Ðặc Mục Nhỉ” nhưng người Mông Cổ như người da trắng tên để ở đằng trước và họ đặt ở đằng sau.

Dương Tiêu hỏi:

– Triệu cô nương đúng là một mỹ nữ của người Hán, nhưng hành vi của nàng thì khác người Hán vì nàng rất dã man, hung ác như những thiếu nữ của Phiên Bang vậy.

Tới lúc này Vô Kỵ mới biết rõ lai lịch của Triệu Minh. Trước kia chàng đã biết Triệu Minh thế nào cũng là một quý nhân của triều đình nhưng chàng không ngờ nàng lại là quận chúa, con gái của Ðại Nguyên Soái Nhữ Dương Vương.

Phạm Dao lại nói tiếp:

– Thuộc hạ ngấm ngầm dò thăm được biết Nhữ Dương Vương đã quyết định tiêu diệt hết các giáo phái, Bang Hội của giang hồ. Hiển nhiên y đã thi hành mưu kế của Thành Khôn đã đặt ra. Kế đầu tiên của y là diệt trừ bổn giáo trước. Tôi thấy nội bộ của bổn giáo cứ tranh giành ngôi thứ, đánh nhau hoài mà ngoại địch mạnh như thế, đại họa diệt vong sẽ tới ngay. Muốn cứu nguy chỉ có một cách là trà trộm trong vương phủ để điều tra xem kế của Nhữ Dương Vương ra sao, rồi mới tùy cơ giải cứu. Tôi mới phải thay hình đổi dạng như thế này. Tôi đã gặp Thành Khôn nhiều lần, muốn việc làm của mình không bị bại lộ, tôi nghĩ chỉ có một cách là phải giết chết tên đó đi.

Nhất Tiếu vỗ tay khen ngợi:

– Phải làm như thế lắm!

Phạm Dao lại nói tiếp:

– Nhưng y giảo hoạt lắm, võ nghệ lại cao cường, tôi liên tiếp ám hại y ba lần đều bị thất bại. Lần thứ ba tôi đâm trúng y một kiếm, trái lại tôi cũng bị đánh trúng một chưởng, khó khăn lắm mới tẩu thoát được và không bị lộ hình tích. Vết thương ấy tôi phải chữa hơn một năm mới khỏi. Lúc ấy Nhữ Dương Vương đã bắt đầu thi hành kế tiêu diệt các giáo phái tôi đành đánh liều hủy luôn bộ mặt, đánh gãy chân giả bộ gù lưng và câm điếc rồi đi sang nước Hoa Trích Tử Mô bên Tây Vực.

Nhất Tiếu xen lời nói:

– Ði tới nước Hoa Trích Tử Mô ư? Hữu Sứ đi xa xôi hằng vạn dặm như thế để làm chi?

Phạm Dao cười đang định trả lời thì Dương Tiêu đã vỗ tay nói:

– Kế này của chú thật tuyệt diệu! Vi huynh nên biết chú Phạm Dao đi nước Hoa Trích Tử Mô để tìm dịp may biểu diễn tài ba của mình trước mặt vương công Mông Cổ ở đó. Như vậy những ngườivương công Mông Cổ, thế nào cũng mướn chú Phạm Dao bảo vệ cho mình liền. Lúc ấy Nhữ Dương Vương đang chiêu mộ võ sĩ của bốn phương, những vương công của nước Hoa Trích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương thế nào cũng đưa chú Phạm Dao đến Vương Phủ giúp việc. Như vậy, chú ấy là võ sĩ của nước Hoa Trích Tử Mô cống hiến, mặt chú ấy đã thấy đổi và giả bộ làm câm thì Thành Khôn tài ba đến đâu cũng không sao nhận ra được.

Nhất Tiếu thở dài một tiếng rồi nói tiếp:

– Dương giáo chủ rất sành nên mới đặt Tiểu Dao Nhị Tiên lên trên Tứ Ðại Pháp Vương. Mưu kế ấy trừ Tiểu Dao Nhị Tiên ra quả thật Ưng Vương chúng tôi không khi nào nghĩ ra được!

Phạm Dao lại nói:

– Vi huynh khen đệ quá đổi! Thưa Giáo chủ! Có một điều này thuộc hạ phải xin giáo chủ xá tội cho!

Vô Kỵ đáp:

Phạm Dao đứng dậy cung kính lạy rồi nói tiếp:

– Thuộc hạ đã phạm tội nặng, tàn sát anh em của bổn giáo, đúng như lời của Dương Tả Sư vừa đoán. Thuộc hạ ở nước Hoa Trích Tử Mô, giết sư tử, đánh chết hổ, gây nên oai danh rất lớn. Vương công nơi đó liền đưa hạ thuộc vào phủ Nhữ Dương Vương. Muốn lấy lòng tin của Nhữ Dương Vương, hạ thuộc đã giết chết ba tên hương chú của bổn giáo ở ngay trong đô thành. Sở dĩ thuộc hạ phải làm như thế là để tỏ cho Nhữ Dương Vương biết thuộc hạ là người có thâm thù với Minh Giáo.

Vô Kỵ liền đáp:

– Phạm Hữu sứ vì bảo vệ bổn giáo mà phải thi hành khổ nhục kế đó, chứ có phải Hữu sứ vì tư thù mà giết hại ba enh em ấy đâu! Tôi không trách cứ Hữu sứ đâu!

Phạm Dao vái lạy một cái:

– Ða tạ Giáo chủ đã thứ tội cho.

Phạm Dao thấy Vô Kỵ nói không khiển trách mình, nhưng mặt lại có vẻ không vui, liền nhanh tay rút luôn thanh trường kiếm đang giắt ở trên lưng Dương Tiêu ra chặt đứt ba ngón tay tức thì.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội cướp lấy thanh trường kiếm đó và hỏi:

– Phạm Hữu sứ làm… làm… gì thế?

Phạm Dao đáp:

– Tàn sát anh em vô tội của bổn giáo như vậy là mang trọng tội, vì việc lớn chưa xong, Phạm Dao tôi chưa thể tự vận ngay được, nên tôi phải chặt ba ngón tay này trước rồi sau này khi việc lớn đã xong, tôi sẽ chặt nốt cái đầu này của tôi!

Vô Kỵ nói:

– Bổn nhân đã tha tội cho Phạm Hữu sứ rồi, hà tất Hữu sứ phải làm như thế. Trong lúc chúng ta đang gánh vác việc lớn, ai cũng phải nên tòng quyền. Từ nay trở đi Phạm Hữu sứ đừng có nhắc nhở đến chuyện này nữa!

Nói xong, chàng lấy thuốc ra rịt và băng bó vết thương cho Phạm Dao. Chàng thấy Hữu sứ quyết liệt như vậy, trong lòng cảm động vô cùng đột nhiên, chàng quỳ lạy ngay xuống và nói:

– Phạm Hữu sứ có công lớn với bổn giáo, hãy nhận lạy này của tôi, nếu Hữu sứ còn tàn sát đến bổn thân thì cũng như bảo tôi là kẻ thiếu đức thiếu tài, không đáng là Giáo chủ! Nếu Hữu sứ còn tự đậm một kiếm, tôi sẽ tự đâm hai kiếm theo, tôi tuổi còn trẻ kém kiến thức không hiểu sứ lý và cũng không biết phải trái nữa!

Phạm Dao, Dương Tiêu, Nhất Tiếu thấy Giáo chủ quỳ xuống cả ba cũng vội bái phục xuống đất.

Dương Tiêu ứa nước mắt nói:

– Chú Phạm Dao! Chú chớ có làm như vậy thế nữa! Bổn giáo hưng suy đều trông mong và một mình Giáo chủ, lệnh chỉ của Giáo chủ, chú phải tuyệt đối tuân theo!

Phạm Dao vừa vái lạy vừa nói:

– Ngày hôm nay thuộc hạ tỷ thí quyền và chưởng hết sức bái phục Giáo chủ. Khổ Ðầu Ðà tôi tính nết rất quái dị. Xin Giáo chủ xá tội cho!

Vô Kỵ giơ tay ra đỡ Khổ Ðầu Ðà đứng dậy.

Trải qua việc này, chàng với Phạm Dao liền đem chuyện của mình sau khi vào Nhữ Dương Vương Phủ như thế nào, kể hết cho ba người nghe.

Thì ra Nhữ Dương Vương quả thật là một người đại tài, tuy y đã nắm binh quyền, nhưng triều chính vừa bị bọn gian thần nắm giữ, hơn nữa nhà vua hiện thời lại là một vị hôn quân bất tài, nên thiên hạ mới đại loạn, lòng dân mới sôi nỗi như thế, nếu không nhờ có Nhữ Dương Vương đánh Ðông dẹp Bắc, tiêu diệt Nghĩa quân thì làm gì có những ngày giờ thái bình như thế!

Mấy năm sau, hai người con của Nhữ Dương Vương đã trưởng thành, người con trai là Khố Khố Mạc Mục Nhĩ tức là Triệu Minh cũng bắt chước cha và anh em chỉ huy các võ sĩ người Mông, người Hán và Tây Vực cùng phiên tăng đi tấn công các bang phái giáo hội. Thành Khôn, trong bóng ngầm ngầm giúp nàng sách hoạch mưu kế. Nhân lúc các đại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh, y xúi giục Triệu Minh đem bọn cao thủ dùng kế mối lợi ngư ông, thừa diệt Minh Giáo và sáu đại môn phái. Việc đầu độc ở Lục Liễu Trang đều do đó mà ra.

Mấy năm gần đây Phạm Dao tôi đi hải ngại để tìm tung tích Tạ Tốn, nên không tham dự vù hành quân Tây Vực. Sau khi về tới nơi, tôi mới hay rõ sự thế. Triệu Minh dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, một thứ độc được rất lợi hại, bỏ thức ăn của các cao thủ của sáu đại môn phái vừa ở Quang Minh Ðỉnh trở về. Thứ thuốc độc đó mặn như muối, thơm mùi rau, nên bỏ vào trong thức ăn không ai phân biệt được.

Ai đã uống phải thứ thuốc độc đó thì gân cốt mềm nhũn và tê tái dần. Tuy hành động vẫn như thường nhưng không sao giở được nội lực ra nữa. vì vậy các cao thủ của sáu đại môn phái viễn chinh Minh Giáo về dọc đường lần lượt bị bắt hết. Riêng phái Hoa Sơn không việc gì vì người đầu độc vụng về, bị cao thủ của môn phái đó trông thấy. Thế rồi, hai bên giở khí giới ra đánh nhau liền. Các cao thủ của phái Hoa Sơn bị Huyền Minh nhị lão thần Tiến Bát Hùngv.v … giết chết mười mấy người, còn lại thì bị bắt hết.

Họ bắt các Hòa Thượng của phái Thiếu Lâm cũng dùng phương pháp đó, nhưng phái này phòng vệ nghiêm mặt lắm, muốn trà trộn vào trong đầu độc không phải là chuyện dễ. Thoạt tiên, tôi tưởng việc đầu độc đó do Thành Khôn phụ trách, vì y đã nhận Không Kiến thần tăng làm sư phụ, thì y có trà trộn vào, bọn tăng nhân cũng không hay biết hết, nhưng y lại tử chiến trên Quang Minh Ðỉnh, vì vậy tôi mới thắc mắc vô cùng!

Tôi vừa ở hải ngoại về, vừa gặp dịp Triệu cô nương đưa người đi vào bắt các nhà sư phái Thiếu Lâm, tôi giả bộ câm nên không tiện hỏi dò tình hình đầu độc ra sao, huồng hồ xưa nay phái Thiếu Lâm vẫn vô lễ với bổn giáo, cũng vì lẽ đó dù tất cả phái Thiếu Lâm bị giết sạch tôi cũng không cau mày chút nào! Có lẽ Giáo chủ cho sự mong muốn của tôi vô lý chăng?

Dương Tiêu xen lời hỏi:

– Có phải tượng Ðạy Ma do chú xoay ngược lại không?

Phạm Dao vừa cười vừa đáp:

– Tôi thấy Quận chúa cho gọi người khắc chữ vào tượng đá Phật Ðạt Ma, định vu oan giá họa cho bổn giáo, về sau tôi lẳng lặng trở lại xoay tượng Phật quay vào tường để tượng Phật diện bích tham thiền. Ðại ca với các vì khéo thật, việc như thế mà cũng được đại ca để ý đến, sao đại ca với các vị biết là đệ làm?

Dương Tiêu đáp:

– Chúng tôi đoán bên địch hình như có một vị cao thủ nào, bảo vệ bổn giáo, vì thế mới đoán chắc là chú còn sống và do chú làm nên việc ấy.

Thế rồi Dương Tiêu kể lại mọi chuyện xảy ra gần đây của Minh Giáo cho Phạm Dao hay và cho biết thêm Minh Giáo đã quyết giảng hòa với sáu đại môn phái để chống lại người Mông Cổ. Vì vậy mới quyết định phải cứu cho được các cao thủ của các môn phái đó ra.

Phạm Dao đỡ lời:

– Ðịch nhiều người, mà bên ta thì ít, với lực lượng của bốn chúng ta thì khó mà làm nỗi việc ấy. chúng ta cần phải tìm cho được thuốc giải Thập hương nhuyển cân tán trước để cho các Hòa Thượng ni cô đạo sĩ uống, để khôi phục nội lực rồi hợp sức nhau xông ra khỏi chùa, tấn công bọn Thát Ðát một cách bất ngờ, vậy mới mong cùng đạo tẩu ra khỏi thành phố được.

Mười năm nay y không nói nửa lời nên bây giờ y nói có vẻ ngượng ngập lắm. Xưa nay y vẫn thù hằn các danh môn chính phái, vì thế trong lời nói của y đối với các cao thủ của các môn phái không khách khứa chút nào.

Dương Tiêu sợ phật lòng Vô Kỵ, nên cứ đưa mắt ra hiệu, nhưng y không thèm điếm xỉa đến, Vô Kỵ không để ý đến tiểu tiết đó, nên chàng vỗ tay và lên tiếng hỏi:

– Lời nói của Phạm Hữu sứ rất đúng nhưng không biết làm thế nào mà lấy được thuốc giải của Thập hương nhuyển cân tán đó!

Phạm Dao đáp:

– Xưa nay tôi không khai khẩu bao giờ, vì thế Quận chúa rất kính trọng tôi, nhưng không bao giờ nàng thương lượng những chuyện quan trọng với ai cả vì mỗi lần bàn chuyện với nàng, chỉ có một mình nàng ta được nói thôi chứ người khác không được nói nửa câu. Như vậy ai mà chả bực mình, hơn nữa tôi là người của một tiểu quốc đưa tới, tất nhiên không bao giờ nàng coi tôi là kẻ tâm phúc hết. Vì thế tôi không biết thuốc giải nhuyễn cân tán là gì hết nhưng tôi biết việc nầy rất quan trọng nên tôi đã ngấm ngầm để ý nhau giữ, một người giữ thuốc độc, một người giữ thuốc giải và họ còn luân phiên nhau thay đổi giữ như vậy mới khó hiểu.

Dương Tiêu thở dài nói:

– Vị Quận chúa đó mưu kế lắm, có nhiều người đàn ông phải thua mưu nàng. Chẳng lẽ nàng còn chưa tin hẳn Huyền Minh Nhị lão hay sao?

Phạm Dao đáp:

– Không phải Quận chúa không tin Nhị Lão, nàng làm như thế chắc chắn và yên tâm hôn. Ví dụ như bây giờ chúng ta muốn cướp thuốc giải độc đó chẳng hạn chúng ta kiếm Lộc Trượng Khách hay là Hạt Bút Ông? Vả lại thuốc giải cùng một mùi thơm, cùng một màu sắc nếu không phải là người giữ thuốc, không sao phân biệt được.

Nên rõ thuốc Thập hương nhuyễn cân tán đó còn lợi hại thêm nữa, người nào uống phải thuốc độc rồi xương cốt mềm nhũn, mất hết hơi sức đó là lẽ dĩ nhiên rồi, nhưng lần thứ hai chỉ cho người đó uống một chút thôi cũng bị hộc máu ra chết liền không còn thuốc nào chữa nỗi.

Nhất Tiếu thè lưỡi ra nói:

– Theo lời Tả sứ vừa nói, thì ta phải cẩn thận lắm không thể lấy trộm nhầm thuốc được phải không?

Phạm Dao đáp:

– Tuy vậy chúng ra cứ việc lấy trộm thuốc của Nhị Lão rồi lấy thuốc của họ đem cho một đệ tử nhỏ của phái Hoa Sơn hay Không Ðộng gì đó uống thử xem nếu tên đó uống thứ thuốc bị chết tốt thì thuốc đo là thuốc độc và chúng ta biết ngay thuốc kia là thuốc giải liền.

Vô Kỵ biết tà khí của Hữu sứ chưa thoát hết nên y không coi tánh mạng của người khác vào đâu.

Nghĩ như vậy chàng vừa cười vừa lên tiếng nói:

– Như thế không nên, biết đâu chúng ta rất khó nhọc đến lấy trộm hai thứ thuốc đó mà cả hai thứ đều là thuốc độc cả thì sao?

Dương Tiêu vỗ đùi một cái và đáp:

– Giáo chủ nói như vậy rất vô lý, đêm qua chúng ta quấy rầy như vậy, có lẽ Quận chúa đã hoảng sợ và lấy thuốc giải mà giấu ở trong người cũng nên, theo ý tôi thích cần phải điều tra xem người nào giũ thuốc giải trước rồi đi lấy sau.

Nói tới đó y ngầm nghĩ giây lát rồi lại nói tiếp:

– Chú Phạm Dao, chú có biết Huyền Minh Nhị lão xưa nay vẫn ưa thích thứ gì không?

Phạm Dao đáp:

– Lộc thì hiếu sắc, mà Hạt thì ưa rượu, hai người đều không ra gì hết.

Dương Tiêu quay lại hỏi Vô Kỵ rằng :

– Thưa giáo chủ, có thứ thuốc nào có thể làm cho người ta xương cốt mềm nhũn như Thập Hương nhuyễn cân tán không?

Suy nghĩ giây lát Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

– Muốn làm cho người ta mệt mỏi, uể oải mơ mơ màng màng như buồn ngủ không khó chút nào, nhưng xử dụng vào những tay cao thủ chỉ có công hiệu nửa tiếng đồng hồ thôi, chứ không thể nào lâu bền như Thân hương nhuyễn cân tán.

Dương Tiêu vừa cười vừa nói:

– Làm uể oải được nửa tiếng cũng đủ rồi, hiện giờ thuộc hạ có một kế không biết thi hành được không, xin Giáo chủ xét lại xem. Tuy gọi là mưu kế nhưng nói ra không đáng một trận cười, trước hết chú Phạm Dao hãy nghĩ cách rủ Hạt Bút Ông đi uống rượu rồi bỏ thứ thuốc của Giáo chủ vào trong rượu cho y uống. Rồi chú Dao giả bộ làm như đã uống phải Thập hương nhuyễn cân tán của Bút Ông vậy, liền kêu la om sòm liền. Như vậy sẽ biết thuốc giải độc trong tay người ngay, rồi chúng ta thừa cơ đoạt thuốc cứu người.

Vô Kỵ vôi hỏi:

– Kế hoạch này có thể thi hành được hay không, phải xem tính nết của Hạt Bút Ông ra sao mới có thể định đoạt được, Phạm Hữu sứ cho lời nói của tôi có phải không?

Phạm Dao cau mày lại suy nghĩ hồi lâu, y nhận thấy kế ấy tuy rất giản dị nhưng không có một tí nào sơ hở, nên vội đáp:

– Theo ý tôi thì của Dương Ðại ca rất có thể thi hành lắm, tính nết của Hạt Bút Ông rất ác độc, nhưng nói đến kế ấy thì y lại thua Lộc Trượng Khách. Nếu thuốc giải để trong người Hạt Bút Ông thật, tuy võ nghệ của tôi không giỏi bằng y, nhưng tôi tự tin có thể đối phó nổi y.

Dương Tiêu vội hỏi:

– Nếu Lộc Trượng Khách giữ thuốc giải thì sao?

Phạm Dao cau mày lại đáp:

– Nếu thuốc giải ở trong tay Lộc Trượng Khách thì phiền lắm.

Nói xong y đứng dậy đi đi lại lại một hồi lâu rồi vỗ tay một cái và nói:

– Hay là thế này vậy, Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn, người muốn lừa y rất khó vì mình mưu kế cao siêu đến đâu y cũng biết hết, duy có một cách là lừa thế nào bắt được y đang làm việc phi nghĩa rồi bắt chẹt y phải theo mệnh lệnh của mình. Làm như thế may ra y mới khuất phục, còn cứ làm bừa đi, cũng được nhưng nguy hiểm lắm.

Dương Tiêu lại hỏi tiếp:

– Y đã làm việc gì phi nghĩa hay trái với lương tâm chưa? Hay chú đã bắt gặp y làm việc gì bất nghĩa rồi mà bổng dưng chú lại nói như thế.

Phạm Dao đáp:

– Mùa xuân năm nay, Nhữ Dương Vương lấy vợ bé có cho mời mấy anh em chúng tôi tới nhậu nhẹt ở trong hoa sảnh. Muốn khoe khoan vợ bé của mình xinh đẹp Nhữ Dương Vương liền bảo người vợ mới cưới đó ra mời rượu. Tôi thấy Lộc Trượng Khách cứ hai mắt hau háu nhìn vào mặt cô dâu hình như có vẻ thèm thuồng lắm.

Nhất Tiếu vừa cười vừa xen lời hỏi:

– Sau, rồi thế nào nữa?

Phạm Dao đáp:

– Sau rồi không có gì nữa vì đó là ái thiếp của Vương gia dù y có táo gan đến đâu cũng không dám làm bậy.

Nhất Tiếu vừa cười vừa hỏi tiếp:

– Y chỉ trố mắt lên nhìn như vậy không thể nói là y đã làm việc phi nghĩa rồi.

Phạm Dao đáp:

– Ðúng thế nhưng chúng ta vẫn có thể ép y làm bậy được, nhưng việc này phải phiền đến Vi huynh ra tay mới được. Huynh giở bản lảnh khinh công tột mức ra lẻn vào trong phủ của Nhữ Dương Vương cướp lấy ái thiếp của Vương gia đem tới phòng của Lộc Trượng Khách và đặt nàng nằm lên trên giường. Lão già ấy, trông thấy nàng ta xinh đẹp như vậy thế nào cũng không cầm lòng được mà nhắm mắt làm bậy ngay.

Dù y có là người biết đại thế, cầm lòng ngay được thì lúc ấy tôi xông bừa vào trong phòng vu tội cho y, thì có muốn chối cãi cũng không thể được và phải ngoan ngoãn lấy thuốc giải ra hai tay dâng lên đưa cho đệ ngay.

Dương Tiêu với Nhất Tiếu cùng vỗ tay vừa cười vừa nói:

– Mưu kế vu oan giá họa này cao thật, dù Lộc Trượng Khách có khôn ngoan đến đâu, cũng không sao tránh thoát được.

Vô Kỵ vừa bực mình vừa tức cười, nghĩ thầm:

– Những bộ hạ của ta đều là tà ma ngoại đạo, chúng hành sự gian ác âm độc không kém gì bọn thủ hạ của Triệu Minh, chỉ khác có một điểm là một đằng theo mục đích thiện, một bên theo tôn chỉ ác nhưng dùng phương pháp âm độc đối phó với những kẻ âm độc có thể nói là dĩ độc công độc.

Nghĩ tới đó chàng mới bớt băn khoăn, liền mỉm cười xen lời nói:

– Kế đó rất hay, nhưng chỉ thiệt thòi cho ái thiếp của Nhữ Dương Vương thôi.

Phạm Dao vội đỡ lời:

– Lúc ấy sẽ xông vào trong phòng không để cho Lộc Trượng Khách kịp chiếm mình ngọc, thì nàng ta cũng chẳng thiệt thòi gì hết.

Tiếp theo đó bốn người lại bàn tán đến việc sau khi cướp được thuốc giải sẽ do Phạm Dao đem lên trên tháp chia cho các tay cao thủ của các môn phái uống. Còn Vô Kỵ với Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng hễ thấy Phạm Dao ở trong chùa Vạn Pháp đốt cây pháo bông ra hiệu là hai người phóng hỏa đốt những nhà thường dân ở quanh đó để cho quần hào thừa cơ đào tẩu. Riêng Dương Tiêu, mua sẳn ngựa và thuê xe, rồi đợi chờ ở ngoài cửa Tây thành để cho các vị hào hiệp ra đó có ngựa cởi và có xe đi.

Ai nấy làm xong công việc sẽ họp nhau ở Xương Bình.

Vô Kỵ không tán thành cuộc đốt nhà thường dân vì chàng không muốn để những người dân đó bị lụy như vậy.

Dương Tiêu vội giải thích:

– Việc đời rất khó lưỡng toàn, chúng ta cứu được quần hiệp và sau này xua đuổi được bọn Thát Ðát ra khỏi bờ cõi là để tạo hạnh phúc cho muôn dân chứ có phải định gây lợi ích riêng cho nhóm chúng ta đâu. Như vậy Ngày hôm nay, chúng ta có đốt cháy một trăm hay vài chục nóc nhà cũng không phải là hy sinh quá đáng.

Tính toán xong, bốn người chia làm ba phe đi vào trong thành để hành sự.

Dương Tiêu đi mua ngựa và thuê xe, Vô Kỵ đến tiệm thuốc để chế liều thuốc mê, rồi đưa cho Nhất Tiếu để đem đi trao cho Phạm Dao xử dụng, vì muốn che lấp không cho Hạt Bút Ông nghi ngờ, Vô Kỵ phải cho thêm ba vị thuốc Hương liệu vào để cho thuốc mê đó thơm tho đôi chút, như vậy đối phương mới không nghi ngờ và sẽ bị mắc hởm. Nhất Tiếu mua một cái túi vải lớn đem theo để xử dụng.

Chờ tới trời tối hẳn y liền lẻn vào trong Vương phủ để cướp Vương phi.

Huyền Minh Nhị lão và Phạm Dao các người, vì sự canh gác các tay cao thủ của sáu đại môn phái đều phải ngủ ở trong chùa Vạn Pháp, riêng Triệu Minh vẫn ở trong vương phủ tối, nhưng tối nào nàng cũng đi tới chùa để học võ.

Phạm Dao về đến phòng mình nghĩ tới Minh Giáo đã chia rẻ thành năm phe bảy nhóm gót hai mươi năm nay, ngày hôm nay mới có hy vọng trung hưng. Như vậy cũng không uổng cho y đã phải chịu bao nhiêu đau khổ đắng cay bấy lâu nay nên y vừa mừng rỡ vừa an ủi thầm.

Phòng y ở tại Tây thiên, còn phòng ngủ của Huyền Minh Nhị lão thì ở phía sau chùa, ngày thường vì đố kỵ nhị lão quá tinh khôn sợ lộ chân tướng mình, nên y rất ít giao thiệp với hai ông già đó.

Vì thế phòng ngủ của y cách phòng ngũ của Nhị Lão rất xa, lúc này y muốn rủ Hạt Bút Ông đi nhậu nhẹt mà không lộ một hình tích gì để cho đối phương khỏi nghi ngờ quả là khó.

Y đưa mắt nhìn về phía sau chùa thấy mặt trời đang lặn xuống phía Tây, xung quanh đã tối dần mà y vẫn chưa hề nghĩ ra được kế gì, cứ khoanh tay ra phía sau đi đi lại lại hoài.

Ðột nhiên, y ngửi thấy có mùi thịt rất thơm ở trong mấy căn phòng gần đó bay ra.

Mấy căn phòng đó là của Tam Tôn Hủy với Lý Tứ Thôi bốn người trong nhóm Thần Tiễn Bát Hùng ở Phạm Dao sực nghĩ ra một kế, liền đi tới trước mấy căn phòng đó giơ tay ra đẩy cửa một cái.

Mùi thơm của thịt liền xông ngay lên mũi, y thấy Lý Tứ Thôi đang ngồi xỏm ở dưới đất cầm quạt, quạt cái lò lửa đang cháy, trên lò để một cái nồi, mùi thơm của thịt ở trong nồi đó, theo khói bốc lên. Còn Tam Tôn Hủy đang bày bàn và bát đũa. Hiển nhiên chúng sắp ăn nhậu với nhau đến nơi.

Tam Tôn Hủy và tứ thôi bỗng thấy Khổ Ðầu Ðà đẫy cửa bước vào, đều ngẫn người ra mặt tỏ vẻ sợ hãi. Thì ra hai người vừa đánh chết một chó lớn ở ngoài đường, chặt luôn bốn chân của con chó đó đem về chùa lén nấu và ăn nhậu với nhau. Nơi đó là một ngôi chùa, đem thịt chó về nấu và ăn như vậy là không hợp pháp rồi bất cứ bị ai trông thấy cũng không tiện. Ngờ đâu, lại bị Khổ Ðầu Ðà là người của cửa Phật, nếu Ðầu Ðà nổi giận đánh cho một trận thì nguy tai.

Chúng biết Khổ Ðầu Ðà đã võ nghệ cao siêu anh em chúng không sao địch nổi. Huống hồ bây giờ chúng đang có tội bị Khổ Ðầu Ðà đánh cho một trận cũng đáng kiếp lắm cho nên chúng hoảng sợ là thế. ngờ đâu chúng thấy Khổ Ðầu Ðà tới cạnh lò mở vung nồi lên hít một hơi thật manh, rồi lẩm bẩm nói:

– Thơm lắm, thơm lắm!

Nói xong, Ðầu Ðà vội cho tay vào trong nỗi, không sợ nước đang sôi sùn sụt, bốc luôn một tiếng thịt chó bỏ vào mồm ăn ngấu nghiến liền. Chỉ thoáng cái đã nuốt những miếng thịt chó đó liền, dùng đầu lưỡi, quét mồm mép một vòng hình như y cảm thấy thịt đó rất ngon lành vậy.

Tôn Lý hai người cả mừng vội mời:

– Mời Khổ đại sư ngồi, chúng cháu có biết đâu đại sư lại ưa ăn thịt có như vậy.

Khổ Ðầu Ðà đã vẫn đứng cạnh lò, thò tay vào nồi bốc thêm miếng nữa vừa nhai vừa ngồi xỗm xuống tại chỗ. Muốn lấy lòng, Tam Hủy vội rót một bát rượu đưa đến trước mặt cho y. không khách khứa gì cả, y đỡ luôn bát rượu và uống ngay. Nhưng y nhổ ra tức thì, rồi đưa tay trái lên mũi, hít ngửi, hình y chê rượu đó không ngon nên y đứng dậy đi ra khỏi phòng đó mà trở về phòng mình, xách luôn một hủ rượu thật lớn tới.

Thoạt tiên Tôn, Lý hai người thấy y tức giận dữ đi ra trong lòng lo ngại. Chờ tới khi thấy y đem hủ rượu lớn tới cả hai mới yên dạ và mừng rỡ, rồi nói:

– Vâng, vâng rượu của chúng cháu thường lắm, nếu Khổ đại sư có rượu ngon đem sang thì có gì bằng nữa.

Hai người kẻ bắt ghế người rót rượu cung kính mời Khổ Ðầu Ðà ngồi, múc thịt chó ra cùng ăn nhậu.

Nên rõ, Khổ Ðầu Ðà là người có võ công cao siêu, thuộc nhân vật hạng nhất của nhóm thủ hạ của Triệu Minh, ngày thường Bát Hùng muốn làm thân với y cũng không được, ngày hôm nay tình cờ lại mời được y nhậu nhẹt như vậy, nên chúng lấy lòng y để y truyền thụ cho một vài pho võ công thì sẽ được sung sướng nhất đời.

Tôn, Lý hai người thấy rượu của Khổ Ðầu Ðà vừa vàng vừa keo đặc như mật ong, hơi thơm xông lên tận óc.

Cả hai đồng thanh khen ngợi:

– Rượu ngon lắm! Ngon lắm!

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

– Không biết ngày hôm nay hai lão già Huyền Minh có nhà hay không? Nếu chúng đi vắng chưa về thì việc làm của ta sẽ mất công toi.

Y vừa nghĩ vừa cầm bát rượu, đổ vào trong một cái tô nhỏ, và đặt ngay vào trong nồi thịt để hâm nóng, mùi rượu lẫn mùi thịt bốc lên làm cho Tôn, Lý hai người đều thêm rõ dải. Chúng cầm bát rượu lên định uống, nhưng Khổ Ðầu Ðà đã giơ tay ra hiệu như có y bảo chúng rằng:

– Canh nóng đã rồi hãy uống thì ngon hơn.

Thế rồi ba người lần lượt, bỏ rượu vào trong nồi canh nóng. Hơi thơm bốc lên càng ngào ngạt hơn trước, nếu Hạt Bút Ông có nhà thế nào cũng ngửi thấy mùi thơm liền.

Quả nhiên một lát sau, Hạt Bút Ông ở đằng xa đi tới luôn mồm khen ngợi:

– Rượu thơm ngon thật!

Y đẩy cửa bước vào, thấy Khổ Ðầu Ðà với Tôn, Lý hai người đang ngồi ăn nhậu với nhau. Y ngạc nhiên giây phút, rồi vừa cười vừa nói:

– Không ngờ Khổ đại sư cũng thích cái trò này, cũng là người trong làng nhậu cả đấy!

Tôn, Lý vội đứng dậy mời:

– Mời cụ vào sơi mấy bát rượu với tôi. Rượu này là rượu của Khổ đại sư đấy, mấy khi được uống rượu ngon như vậy.

Hạt Bút Ông liền ngồi đối diện với Khổ Ðầu Ðà.

Rồi hai người nhậu hết bát rượu này đến bát rượu khác, hết tô nầy đến tô thịt nọ.

Bốn người ăn thịt nhậu ngà ngà say rồi, Phạm Dao liền nghĩ thầm:

– Bây giờ đã đến lúc ra tay được rồi.

Nghĩ đoạn y liền rót đầy một chén rượu, thuận tay để hủ rượu nằm ngang cái hồ lô xuống.

Thì ra thuốc mê của Vô Kỵ chế, Phạm Dao tán thuốc đó thành bột, nhét vào cái nút gỗ rỗng, bên ngoài bọc một lần vải hồ lô, thuốc bột vẫn nằm nguyên trong nút, rượu củabốn người vừa uống đều là thứ rượu ngon. Nhưng khi đặt cái hồ lô xuống bàn. Chỉ trong giây phút, rượu trong hồ lô biến thành rượu độc ngay.

Ðáy hồ lô tròn xoe, nên để ngang để dọc mà không ai để ý tới cả. Huống hồ đã ngà ngà say, nên họ có uống thêm thứ rượu có thuốc độc cũng chẳng hay biết gì hết.

Phạm Dao thấy Hạt Bút Ông uống cạn bát rượu bèn mở nút hồ lô ra rót cho y liền.

Hạt Bút Ông cũng cầm lấy cái hồ lô rót thêm vào hai bát của Tôn, Lý hai người võ công kém, vừa uống xong bát rượu đó, đã thấy chân tay mềm nhủn, mất hết sức.

Tôn Tam Hủy liền nói:

– Tứ đệ, không hiểu tại sao bụng sư huynh thấy khó chịu lắm.

Lý Tứ Thôi cũng lên tiếng:

– Tôi… hình như… bị trúng độc…

Lúc ấy, Hạt Bút Ông cũng cảm thấy chân tay rời rả, vội vận nội công thử xem.

Y thấy sức lực hầu như đã mất hết, liền biến sắc mặt.

Phạm Dao cũng đứng dậy tỏ vẻ tức giận dữ, túm lấy ngực y mồm kêu ú ớ chứ không thốt nên lời.

Tôn Tam Hủy kinh hãi hỏi:

– Khổ đại sư làm sao thế?

Phạm Dao dùng chấm rượu, viết lên, mặt bàn:

– Thập hương nhuyễn cân tán.

Tôn, Lý hai người đều biết Thập hương nhuyễn cân tán là do Huyền Minh Nhị lão phụ trách. Chúng xét tình hình, liền đoán chắc Khổ Ðầu Ðà với anh em chúng đã uống phải thứ thuốc độc đó rồi.

Thế rồi hai người đưa mắt ra hiệu đi tới trrước Hạt Bút Ông vừa cười vừa nói:

– Hạt công công, anh em chúng rôi không xúc phạm cụ bao giờ. Xin cụ tha thứ cứu giúp chúng tôi.

Hai tên đó đoán chắc Hạt Bút Ông định đối phó một mình Khổ Ðầu Ðà thôi, nhưng vì chàng có mặt tại đó mới vạ lây.

Hạt Bút Ông ngạc nhiên vô cùng, vì tháng này y giữ Thập hương nhuyễn cân tán để trong một cây bút mỏ hạt mà y vẫn xử dụng phía tay trái. Hai món khí giới của y lúc nào cũng mang theo trong người. Như vậy, làm sao mà lấy trộm được. Nhưng bây giờ vận hơi thử xem thì thấy không có một hơi sức nào hết. Như vậy đáng là uống phải Thập hương nhuyễn cân tán Chứ không sai. Sự thật, thuốc độc của Vô Kỵ chế ra, tuy mạnh thật nhưng còn kém Thập hương nhuyễn cân tán xa.

Sau khi uống xong, phản ứng cũng khác nhau nhiều. Nhưng Hạt Bút Ông chỉ cho người uống Thập hương nhuyễn cân tán chứ y chưa hề uống thứ thuốc này. Vì vậy sự phản ứng của hai thứ thuốc độc ấy tuy khác nhau, nhưng y không sao phân biệt được.

Lúc ấy y thấy Khổ Ðầu Ðà tức giận, Tôn, Lý hai người đang đứng cạnh miệng van lơn không ngớt, thì không còn nghi ngờ nữa, liền vội đáp:

– Khổ Ðầu Ðà chớ vội nóng, chúng ta là bạn thân với nhau, khi nào tại hạ có dã tâm như vậy. Chính tại hạ đây cũng uống nhằm thuốc đó. Không biết ai đã hại chúng ta, rồi cũng ngạc nhiên vô cùng.

Khổ Ðầu Ðà lại nhúng tay vào rượu viết lên mặt bàn bốn chữ: “Mau lấy thuốc giải.”

Hạt Bút Ông gật đầu đáp:

– Phải, chúng ta phải uống thuốc giải trước rồi tìm kiếm xem kẻ nào đã đầu độc chúng ta? Hiện giờ thuốc giải do Lộc Trượng Khách giữ, Khổ đại sư đi cùng với tôi sang bên kia kiếm anh ấy.

Khổ Ðầu Ðà mừng thầm và nghĩ:

– Không ngờ mưu kế của Dương Tiêu lại hay đến thế, chỉ sơ sơ thôi cũng dò được ai giữ thuốc giải rồi.

Nghĩ đoạn, y giơ tay trái nắm cổ tay phải của Hạt Bút Ông bước đi loạng choạng, nhưng không còn hơi sức gì nữa.hai người cùng đi về phía sau chùa, chỗ ở của Huyền Minh Nhị lão.

Hai người đi tới trước cữa tịnh xá, căn nhà bên phía nam là nhà của Hạt Bút Ông căn nhà bên phía Băc là chỗ ở cửa Lộc Trượng Khách.

Hai người thấy cửa lớn đóng kín, tưởng chủ không có ở nhà, Hạt Bút Ông liền lớn tiếng kêu gọi:

– Lộc huynh có ở nhà không?

Ngờ đâu, Lộc Trượng Khách có trong nhà, lên tiếng trả lời ngay, Hạt Bút Ông liền đẩy cửa nhưng cửa đã gài then, nên lại lên tiếng gọi:

– Lộc huynh mau mở cửa, có việc rất cần.

Lộc Trượng Khách nói vọng ra:

– Có việc gì mà khẩn cấp đến thế? Tôi đang bận luyện công, chú chớ có vào quấy nhiễu tôi.

Hạt Bút Ông và Lộc Trượng Khách là sư huynh đệ, võ công của hai người ngang nhau, nhưng vì Lộc Trượng Khách là sư huynh và mưu trí hơn người nên Hạt Bút Ông vẫn tôn kính. Nay Hạt Bút Ông nghe thấy giọng nói của y có vẻ không vui nên không dám gọi tiếp nữa.

Khổ Ðầu Ðà thấy vậy, nghĩ thầm:

– Lúc này không thể trì hoãn được vì trễ một chút, thuốc trong người y sẽ tiêu tán, mất hiệu lực thì mưu kế của mình bị lộ ngay.

Nghĩ đoạn y liền dùng vai phải thích mạnh một cái, cánh cửa mở toang ra.

Y và Hạt Bút Ông cùng nghe có tiếng đàn bà rú lên.

Lộc Trượng Khách vội quay đầu lại, có vẻ xấu hổ, sượng sùng, một thiếu nữ đang nằm ngang trên giường, quấn một cái chăn mỏng chì ló đầu ra ngoài cái khăn, lại có dây thừng cột chặt y như một bó chăn. Tóc nàng xỏa ngoài chăn, da trắng, mắt rất xinh đẹp. Thiếu nữ đó trông thấy Hạt Bút Ông và Khổ Ðầu Ðà bước vào thì trợn tròn đôi mắt, tỏ vẻ hãi sợ.

Khổ Ðầu Ðà nhận ra chính là Hàn thị, ái cơ của Nhữ Dương Vương liền nghĩ thầm:

– Vi Bức Vương tài ba thật! Một mình vào trong phủ bắt cóc được Hàn Cơ đây…

Khinh công của Nhất Tiếu rất mạnh, hắn lại đa mưu, túc kế ra tay bắt cóc Hàn thị rất nhanh không ai hay biết gì cả. Chỉ có điều khó nhất là, làm thế nào đặt Hàn thị vào phòng Lộc Trượng Khách. Vấn đề này làm y phải chờ gần nửa ngày, mới thấy Trượng Khách ra khỏi phòng. Y lẻn vào trong phòng đặt Hàn Cơ trên giường rồi bỏ đi.

Lộc Trượng Khách về phòng, thấy một thiếu nữ nằm trên giường mình y bèn quay ra, tung mình nhảy lên trên mái nhà đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy một bóng người nào hết.

Lộc Trượng Khách chỉ nghe tiếng cười của Tôn, Lý, trong phòng vang ra thôi. Tuy y biết không phải là việc tầm thường, nhưng y vẫn lẳng lặng nhảy xuống quay về phòng, tới trứơc giừơng nhìn thiếu nữ xinh đẹp, bỗng giật mình kinh hãi vì y đã nhận ra Thái Cơ, vợ mới cưới của Vương gia nhưng lòng hiếu sắc, thúc giục, y không cầm lòng được.

Lộc Trượng Khách rất hiếu sắc, trong đời y đã dày vò rất nhiều đàn bà thiếu nữ lương thiện. Bữa nọ khi thấy sắc đẹp của Thái cơ đâm nhớ nhung thương tiếc. Y ân hận tại sao không sớm gặp người đẹp ấy? Nếu gặp nàng thế nào y cũng cướp cho được. Từ hôm đó đến nay hắn vẫn mơ tưởng đến nàng luôn, nhưng vài ngày sau, y lại có người yêu khác nên mới quên nàng. Không ngờ, bây giờ, có Thái Cơ đem tới đây để lấy lòng hắn. Hắn thấy nàng trần truồng quấn trong cái chăn y cầm lònh không được liền hỏi nàng tại sao tới đây thế? nhưng y hỏi, Thái Cơ không trả lời. Y mới nghĩ ra chắc nàng bị người ta điểm trúng vào huyệt cầm nên giơ tay định giải huyệt cho nàng thì Hạt Bút Ông và Khổ Ðầu Ðà tới kêu cửa, rồi Khổ Ðầu Ðà phá cửa vào.

Sự thế xảy ra rất đột ngột nên Trượng Khách mới sượng sùng như vậy. Y đang định giấu nàng đi, nhưng không kịp, y đoán Vương gia phát giác Hàn Cơ bị bắt cóc nên mới sai Khổ Ðầu Ðà tới đây truy nã mình. Bây giờ sự thế đã xảy ra như vậy, nên y tính chỉ có một cách đào tẩu, nên y vội chộp lấy cây gậy sừng hưu, một cây ôm Hàn Cơ định phá cửa sổ bỏ chạy.

Hạt Bút Ông thấy vậy cả kinh gọi:

– Lộc sư ca mau cho đệ xin một ít thuốc giải.

Lộc Trượng Khách vội hỏi:

– Cái gì?

Hạt Bút Ông đáp:

– Tiểu đệ với Khổ đại sư không hiểu tại sao uống thuốc độc Thập hương nhuyễn cân tán.

Lộc Trượng Khách hỏi:

– Sư đệ nói gì?

Hạt Bút Ông nói lại lần nữa

Lộc Trượng Khách ngạc nhiên hỏi tiếp:

– Tháng này tới phiên chú giữ Thập hương nhuyễn cân tán mà.

– Tiểu đệ cũng không hiểu tại sao bốn anh em chúng tôi đang ăn nhậu vui vẻ thì ngộ độc. Lộc sư sa mau cho chúng tôi ít thuốc giải.

Tới lúc này Lộc Trượng Khách mới hoảng hốt bèn đặt Hàn Cơ xuống. Xưa nay Hạt Bút Ông vẫn biết vị sư huynh nầy có tính hiếu sắc y vốn thường thấy những thiếu nữ trong phòng của Trượng Khách nên y không lấy gì ngạc nhiên hết. Huống hồ sau khi trúng độc kinh hoảng ngạc nhiên nên không để ý người đó là ai cả.

Lộc Trượng Kháck đặt Hàn Cơ xuống giường xong liền nói:

– Khổ đại sư sang bên phòng chú Hạt Bút Ông nghĩ ngơi, tại hạ sẽ lấy thuốc giải ngay.

Y vừa nói vừa đẩy hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy khiến Hạt Bút Ông suýt té, Khổ Ðầu Ðà khôn ngoan vô cùng cũng bắt chước té ngã theo làm như mất hết nội lực vậy. Nhưng sự phản ứng tự nhiên không sao giả dối được nên Lộc Trượng Khách chỉ đẩy một cái đã biết nội lực của Hạt Bút Ông mất hết. Còn Khổ Ðầu Ðà chỉ giả bộ thôi, nhưng y vẫn sợ duy tính sai nên dùng sức đẩy thêm một cái nữa Hạt Bút Ông và Khổ Ðầu Ðà đều thì té giả, Lộc Trượng Khách không nói năng gì hết, chỉ cười vừa xin lỗi:

– Xin lỗi khổ đại sư nhé.

Y vừa nói đưa tay ra đỡ, nhưng mấy ngón tay của y đã vớ ngay vào hai yếu huyệt của Khổ Ðầu Ðà. Là người rất khôn ngoan Khổ Ðầu Ðà thấy Lộc Trượng Khách ra tay như biết mưu kế của mình đã bị bại lộ nên y vội dang tay trái điểm luôn vào yếu huyệt mê của Hạt Bút Ông để cho đối thủ không sao cử động được trong ba tiếng đồng hồ. Y thấy hai tay địch thủ bị mình diệt đi một rồi bây giờ chỉ còn lại một mình Lộc Trượng Khách thôi không sợ nữa, nên y liền cười nhạt và nói:

– Bạn muốn sống hay chết? Ái cơ của Vương gia bạn cũng dám bắt cả về hưởng thụ hay sao?

Y vừa nói, Huyền Minh Nhị lão bỗng ngẩn người ra vì thấy Khổ Ðầu Ðà Ðã mười lăm mười sáu năm rồi chưa hề nói nửa lời ai cũng tưởng y câm. Bây giờ tuy Lộc Trượng Khách đã biết y có mưu mô gì đây nhưng y không ngờ Khổ Ðầu Ðà lại biết nói như vậy cho nên y nghĩ thầm:

– Y đã mưu mô như vậy hoàn cảnh của ta bây giờ rất nguy hiểm.

Nghĩ đoạn y liền đáp:

– Thế là Khổ đại sư không câm. Chẳng hay Khổ đại sư chịu đựng mười mấy năm như thế để làm chi?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

– Vương gia biết hai vị không được trung thành lắm cho nên mới sai tôi giả bộ câm để bí mật giám thị.

Nghe Khổ Ðầu Ðà nói xong, Lộc Trượng Khách liền đáp:

– Vương gia sai bạn đến bắt tôi đấy à. Hà… hà võ công của đại sư tuy cao siêu thật, nhưng chưa chắc bắt nổi Lộc Trượng Khách này.

Nói xong y cầm lấy gậy định tấn công.

Khổ Ðầu Ðà vừa cười, vừa nói tiếp:

– Lộc tiên sinh, võ công của Khổ Ðầu Ðà này tuy không bằng bạn nhưng cũng chẳng kém mấy. Bạn muốn đánh bại tôi ít ra phải đấu một vài trăm hiệp mới được. Nhưng dù có thắng tôi chăng nữa, bạn làm sao mà đem được Hàn Cơ cùng cứu sư đệ đi. Thử hỏi Lộc Trượng Khách có tài ba như thế không?

Lộc Trượng Khách thấy Khổ Ðầu Ðà nói như vậy, liếc mắt nhìn sư đệ. Y biết lời nói của đối phương rất đúng, y với sư đệ hai người cùng theo một sư phụ từ hồi nhỏ chưa hề xa nhau nửa bước. Hai người không có vợ con nên coi nhau như anh em ruột. Y không thế nào đang tâm bỏ người sư đệ trốn một mình được. Khổ Ðầu Ðà thấy đối phương đứng ngẩn người ra suy nghĩ liền quát bảo Tôn, Lý hai người vào trong phòng đóng cửa lại rồi hỏi:

– Lộc tiên sinh! Việc này hãy còn trong bóng tối. Khổ Ðầu Ðà là tôi có thể giúp bạn giấu kín được.

Lộc Trượng Khách ngạc nhiên hỏi:

– Chẳng hay đại sư định dùng cách nào cứu tôi?

Khổ Ðầu Ðà không trả lời y vội mà nhanh tay điểm luôn yếu huyệt câm và tệ liệt của Tôn, Lý hai người.

Thấy thủ pháp điểm huyệt vừa nhanh vừa kỳ lạ, Lộc Trượng Khách thấy vậy cũng khen ngợi thầm.

Khổ Ðầu Ðà lại nói tiếp:

– Chắc bạn không bao giờ nói chuyện này cho ai hay đâu, lệnh sư đệ cũng không dám làm khó dễ bạn đâu, còn Khổ Ðầu Ðà tôi là người câm thì sau này vẫn phải câm. Còn hai chú này đã bị Khổ Ðầu Ðà nầy điểm huyệt rồi, bạn không sợ còn sợ sệt gì nữa.

Tôn, Lý hai người nghe nói cả kinh thất sắc và nghĩ thầm:

– Việc này không liên can tới chúng ta có ngờ đâu chỉ ăn vụng thịt chó mà lại bị tai họa như thế này?

Chúng định lên tiếng van lơn nhưng không sao nói nên lời.

Khổ Ðầu Ðà lại chỉ tay vào Hàn Cơ và nói tiếp:

– Còn Ái cơ của Vương gia đây lão tăng đã có hai phương pháp, một là đem nàng với Tôn, Lý tới một chỗ hẻo lánh chém cho mỗi người một đao, rồi báo cáo cho Vương gia hay bảo nàng cùng với Lý Tứ Thôi đào tẩu bị Khổ Ðầu Ðà trông thấy. Quá tức giận, Khổ Ðầu Ðà đã giết gian phu dâm phụ ngay tại chỗ. Và thấy Tôn Tam Hủy cũng có mặt tại đó nên Ðầu Ðà mới giết nốt. Kế thứ hai là bạn đem nàng chạy trốn ẩn núp ở một nơi thật kín đáo. Sau này có bị tiết lộ đó là tự bạn.

Lộc Trượng Khách quay đầu lại nhìn Hàn Cơ, thấy hai mắt nhìn mình có vẻ van lơn cầu cứu. Hiển nhiên nàng muốn mình thi hành kế hooạch thứ hai, đồng thời y thấy nàng xinh đẹp như vậy liền nghĩ thầm:

– Người đẹp như tiên thế kia nếu dùng đao chiếm chết thật là uổng.

Ý nghĩ như vậy, không nỡ để Hàn Cơ bị giết liền trả lời Khổ Ðầu Ðà rằng:

– Cám ơn đại sư đã suy tính hộ lão phu như vậy chẳng hay đại sư muốn lão phu giúp đại sư việc gì.

Y biết Khổ Ðầu Ðà như nào cũng định nhờ vả mình điều gì bằng không, không khi nào y lại tử tế với mình như thế.

Khổ Ðầu Ðà đáp:

– Việc tôi nhờ bạn rất dễ. Diệt Tuyệt sư thái trưỡng môn của phái Nga Mi quen biết tôi đã lâu. Cô bé họ Chu là con riêng của tôi với bà sư nữ ấy. Tôi chỉ muốn yêu cầu bạn cho một ít thuốc giải để cứu hai người đó ra khỏi nơi đây. Nếu Quận chúa có hỏi đã có bần tăng trả lời, cam đoan với bạn là không để bạn dính líu vào việc này đâu. Nếu tôi nói sai thì trời bắt chồng sẽ làm giặc, vợ sẽ làm đĩ và cũng chết đường chết chợ, đời sau không được đầu thai làm người.

Lộc Trượng Khách đã thấy Khổ Ðầu Ðà kể câu chuyện đó, liền ngẩn người trong giây lát, rồi mỉm cười và nghĩ thầm:

– Thế ra Khổ Ðầu Ðà muốn cứu người yêu cũ với con gái mà đặt mưu kế này ra uy hiếp ta đấy. Nhưng đó cũng là một thói thường của người đời. Việc nầy tuy nguy hiểm thật nhưng ta đổi được một giai nhân tuyệt sắc này cũng đáng lắm.

Nghĩ đoạn, y vừa cười vừa hỏi:

– Thế có phải Khổ đại sư, đã ra tay bắt cóc Ái cơ của Vương gia tới đây không?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

– Bạn cho tôi thuốc giải độc tôi đền bù lại Hàn Cơ, đó là sự rất thường.

Lộc Trượng Khách cả mừng, nhưng đột nhiên y lại hỏi Khổ Ðầu Ðà:

– Vậy tại sao sư đệ của tôi lại trúng phải Thập hương nhuyễn cân tán, bạn lấy thuốc độc đó ở đâu thế?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

– Khó khăn gì điều đó, thuốc độc đó do lệnh sư đệ giữ, y là người thích uống rượu, lúc uống say tôi liền ra tay lấy trộm luôn.

Lộc Trượng Khách không còn hoài nghi gì nữa, nói tiếp:

– Hay lắm! Tôi được giao kết với một người bạn như Khổ đại sư thật hân hạnh, nhưng tôi không xuất mại và mong cũng đừng lừa dối tôi.

Khổ Ðầu Ðà chỉ Hàn Cơ vừa cười vừa nói tiếp:

– Lần sau có những vụ thơm tho điễm lệ như thế này, tôi cũng mong tiên sinh xếp đặt một cái bẩy để Khổ Ðầu Ðà tôi chui vào, tôi bằng lòng ngay.

Hai người nhìn nhau rồi cười, nhưng mỗi người nghĩ một cách.

Lộc Trượng Khách suy tính thầm:

– Ta tìm một chỗ nào thật kín giấu Hàn Cơ xong, rồi ta sẽ xuất kỳ bắt y giết chết Khổ Ðầu Ðà.

Còn Khổ Ðầu Ðà thì nghĩ:

– Tuy bây giờ Lộc Trượng Khách bi ta áp bức thật, nhưng Huyền Minh Nhị lão đâu phải là tay tầm thường. chúng bị thiệt thòi không khi nào chúng chịu để ta yên tâm. Chắc y giấu diếm Hàn Cơ xong và giải được yếu huyệt cho Hạt Bút Ông rồi thế nào cũng kiếm ra để trả thù. Nhưng lúc ấy, ta đã cứu các cao thủ của các môn phái và ta cũng đi khỏi nơi đây rồi.

Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách mãi chưa chịu lấy thuốc giải ra, liền nghĩ thầm:

– Nếu ta thúc giục y thế nào cũng làm khó dễ liền.

Nên y thủng thẳng ngồi xuống rồi nói:

– Lộc huynh sao không giải huyệt cho Hàn Cơ đi! Ðể chúng ta cùng ngồi uống rượu với nhau dưới ánh đèn, được xem mỹ nhân như vậy thật là hạnh phúc vô cùng.

Lộc Trượng Khách biết trong chùa nầy có rất nhiều người ra vào. Nếu để Hàn Cơ ở lại lâu bao nhiêu thì nguy hiềm bấy nhiêu, y liền lấy cây gậy lộc giác, xoay cán đầu đổ một ít thuốc bột trong chén và nói:

– Khổ đại sư đa mưu túc trí thật, đệ xin bái phục đấy!

– Thuốc giải đây bạn đem đi cứu vị Sư thái với Chu cô nương mau.!

Khổ Ðầu Ðà lắc đầu đáp:

– Thuốc ít như vậy cứu sao nổi họ.

– Chỗ thuốc nầy đã cứu sáu bảy người, chứ cứu hai người thì dư nhiều lắm rồi.

– Sao bạn hà tiện thế? dù có thêm một chút đã sao nào? Nói thật cho bạn hay bạn là người túc trí đa mưu nên Khổ Ðầu Ðà tôi sợ mắc hởm bạn!

Lộc Trượng Khách thấy Phạm Dao xin thêm thuốc giải, sinh nghi và hỏi:

– Khổ đại sư định cứu người khác nữa chứ không riêng gì hai mẹ con Diệt Tuyệt Sư thái phải không?

Khổ Ðầu Ðà đang tìm lời lẽ để biện bạch, bỗng nghe ngoài sân có tiếng chân người dồn dập, ước chừng bảy tám người vậy.

Trong bọn người đó có một người lên tiếng hỏi:

– Vết chân đi tới đây, chẳng lẽ Hàn Cơ lại ở trong chùa Vạn Pháp này chăng?

Lộc Trượng Khách nghe nói hoảng sợ đến biến sắc mặt, liền cầm cái chén có thuốc giải bỏ vào túi, y tưởng Ðầu Ðà cho người mai phục bên ngoài lấy thuốc giải liền xuất mại mình. Nhưng Khổ Ðầu Ðà đã lắc đầu xua tay. Bảo y đừng kinh hoảng vội lấy cái chăn đỏ phủ lên mình Hàn Cơ và buông mùng xuống, Khổ Ðầu Ðà vừa làm xong thì ngoài sân có một người lên tiếng hỏi:

– Lộc tiên sinh có nhà không?

Khổ Ðầu Ðà lên tiếng trả lời.

Lộc Trượng Khách liền lớn tiếng nói vọng ra:

– Việc gì thế?

Người bên ngoài đáp:

– Thưa tiên sinh, trong vương phủ có một Ái Cơ bị kẻ gian bắt cóc, chúng tôi theo dõi vết chân của tên ấy đi tới Vạn Pháp chùa thì không thấy vết chân ấy nữa.

Lộc Trượng Khách giận dữ nhìn Khổ Ðầu Ðà ra vẻ nói:

– “Nếu không phải ngươi ám hại ra thì với tài ba của người cao siêu như thế khi nào lại có vết chân để lại như vậy được.

Khổ Ðầu Ðà nhếch mép dưới giơ tay ra hiệu bảo y đuổi bọn kia đi đã, đồng thời y nghĩ thầm:

– Vi Bức Vương vu oan giá họa giỏi thật, làm thế nào để cho vết chân từ vương phủ đến đây được.

Lộc Trượng Khách cười nhạt nói vọng ra ngoài:

– Các ngươi không biết chia nhau đi khắp nơi tìm kiếm hay sao mà cứ ở đây la lối om sòm vậy!

Với võ công và địa vị của y người trong vương phủ ai ai cũng kính nể. Nên y vừa nói xong bọn người kia vâng vâng, dạ dạ đi nơi khác tìm kiếm ngay.

Lộc Trượng Khách biết hiện giờ chung quanh chùa Vạn Pháp này đang có người canh giữ nghiêm mật. Tuy chúng không dám vào trong phòng mình xét, nhưng muốn đem Hàn Cơ đi nơi khác giấu thì không còn cách gì nữa, nên y cau mày lại hậm hực nhìn Khổ Ðầu Ðà.

Phạm Dao sực nghĩ ra một kế liền rỉ tai y khẽ nói:

– Lộc huynh, trong chùa này có một nới rất kín đáo, nơi ấy có thể tạm giam người yêu của bạn vào trong đó đôi ngày chắc không ai hay biết cả, chờ tới khi nào nên ngoài không còn người canh gác tuần tiểu lúc ấy bạn sẽ đem nàng ta đi nơi khác sau. Như vậy phải là tiện không!

Lộc Trượng Khách vẫn còn tức giận, nói:

– Có giấu vào trong phòng của đại sư đấy không?

– Giấu vào trong phòng tôi cũng được, nhưng người đẹp thế kia đâu biết tôi chẳng động lòng, như vậy Lộc huynh không ghen hay sao?

Lộc Trượng Khách vội hỏi:

– Vậy nơi đó là nơi nào thế?

Phạm Dao giơ tay chỉ ngọn tháp ở bên ngoài cửa sổ, mồm tủm tỉm cười.

Lộc Trượng Khách là người rất thông minh, liền gật đầu, giơ ngón tay cái lên tỏ vẻ khen ngợi:

– Ý kiến của đại sư hay lắm!

Nên biết rõ nơi giam cầm các tay cao thủ của sáu đại môn phái, người phụ trách canh gác tháp đó là Du Long Tử, đệ tử của Lộc Trượng Khách. Người ta có thể nghi ngờ kẻ giam giấu Ái Cơ của Vương gia ở khắp nơi, chớ không ai dám nghi tới kẻ gian giấu nàng Thu ở chỗ giam cầm kẻ địch và có người canh phòng rất nghiêm mật.

Khổ Ðầu Ðà khẽ nói tiếp:

– Nhân lúc này ngoài sân không có người, Lộc huynh nên đem người yêu lên trên đó ngay đi.

Nói xong, y liền lấy cái chăn đỏ cuộn Hàn Cơ vào giữa như một cái bọc áo vậy, đưa cho Lộc Trượng Khách.

Lộc Trượng Khách nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ mi chờ ta ôm nàng ra tới sân là tri hô lên vu cho ta là kẻ gian chăng. Lúc ấy có tang vật hẳn hoi thì ta muốnchối cãi cũng không sao chối được nữa…

Y vừa nghĩ mặt vừa biến sắc không dám đưa tay ra đỡ lấy Hàn Cơ.

Khổ Ðầu Ðà thấy vậy biết ngay ý nghĩ của y liền vội nói:

– Tôi đã nói giúp bạn tôi vui lòng giúp tới cùng! Khổ Ðầu Ðà tôi vui lòng đi cùng với bạn một phen…Ai bảo tôi đang có việc nhờ vả người ta chi?

Nói xong, y vác cái bọc đó lên vai đẩy cửa đi ra, nhưng trước khi ra khỏi phòng y còn khẽ nói dặn Lộc Trượng Khách rằng:

– Lộc huynh hãy đi trước, hễ thấy ai cản trở thì cứ việc ra tay giết luôn.

Lộc Trượng Khách liền tách mình ra trước, nhưng y đi ngang người chứ không dám để lưng hướng về phía Ðầu Ðà, vì y sợ đối phương tấn công lén.

Khổ Ðầu Ðà khép cửa lại ngồi khom lưng ôm Hàn Cơ đi thẳng về phía bảo pháp.

Lúc ấy, đã là cuối giờ tuất, ngoài bảo tháp có mấy võ sĩ canh gác, trừ mấy người đó ra không còn ai dám đi lại nữa.

Mấy người võ sĩ đó trông thấy Lộc Trượng Khách đứng dậy cúi đầu vái lạy rồi cung kính đứng sang bên.

Du Long Tử đã được thuộc hạ cho hay vội chạy xuống và nói:

– Thưa sư phụ, ngày hôm nay chắc sư phụ vui vẻ lắm nên mới tới viếng bảo tháp như vậy.

Lộc Trượng Khách gật đầu, rồi cùng Khổ Ðầu Ðà định vào trong tháp, ngờ đâu trong tháp có một người vừa bước ra.

Người đó chính là Triệu Minh.

Lộc Trượng Khách giật mình khinh công.

Y không ngờ Quận chúa lại tới tháp như vậy.

Ba người liền tiến lên vái chào, Triệu Minh vừa cười vừa nói Du Long Tử rằng:

– Sư phụ ngươi thâu được một đồ đệ ngoan ngoãn thật, ngươi chỉ biết nghênh đón sư phụ chứ không thèm rước ta nữa.

Du Long Tử lại vái chào nói:

– Tiểu nhân không biết Quận chúa giá lâm. Xin Quận chúa thứ lỗi cho.

Triệu Minh vừa cười đáp:

– Ngươi xếp đặt rất chu đáo, dù Minh Giáo có phái người đến đây để cứu những người bị giam chưa chắc họ dễ dàng làm được như ý muốn.

Thì ra đêm hôm trước Vô Kỵ biết tới quấy nhiều, Triệu Minh không biết bên Minh Giáo chỉ có ba người thôi mà tưởng lầm có nhiều người tới, nên ngày hôm nay nàng phải thân hành lên trên đảo tháp tuần tiễu. Nàng thấy trên tháp giới bị rất chu mật, từng tháp nào cũng có hai tay cao thủ canh giữ nên yên lòng vô cùng.

Nàng quay lại nói Khổ Ðầu Ðà rằng:

– Ðại sư đi cùng với tôi tới nơi này!

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

– Tốn bao nhiêu lời nói mới đánh lừa được Lộc Trượng Khách đi vào trong tháp này và thừa dịp cướp luôn thuốc giải của y, lúc ấy việc của ta sẽ hoàn thành liền? Ngờ đâu, con nhải này lại xuất hiện ở nơi đây, thế khổ cho ta không.

Y đang định kiếm cách không đi, trong lúc đột ngột này không sao nghĩ được mưu kế gì để thoái thoát. Huống hồ y lại giả bộ câm thì làm sao lên tiếng nói được. May thay y đã nhanh trí, nghĩ ra được một kế, liền giơ cái bọc áo lên, mắt nhìn Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giật mình kinh hãi trong bụng chửi thầm Khổ Ðầu Ðà.

Ðang lúc ấy Triệu Minh liền lên tiếng hỏi:

– Lộc tiên sinh, cái bọc kia của Khổ đại sư là bộc gì thế?

Lộc Trượng Khách vội đáp:

– Dạ, dạ đó là… là chăn gối của Khổ đại sư đấy.

Triệu Minh ngạc nhiên:

– Chăn gối… Khổ đại sư định đem chăn gối đi đâu thế?

Nàng không nhịn được, cười vài tiếng lại tiếp:

– Khổ đại sư hiềm tôi ngu xuẩn không chịu thâu tôi làm đồ đệ định cuốn gói bỏ đi không làm nữa phải không?

Khổ Ðầu Ðà lắc đầu giơ tay phải giả bộ ra hiệu bừa, nhưng trong lòng nghĩ thầm:

– Tất cả mọi lẽ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ cách nói dối. Lúc này mới biết giả bộ làm câm như vậy cũng có lợi đấy.

Triệu Minh không hiểu y nói gì, liền đưa mắt nhìn Lộc Trượng Khách. Suy nghĩ giây phút, Lộc Trượng Khách đã nghĩ ra được lời giải thích và đáp:

– Tối hôm qua mấy tên ma đầu của Ma Giáo đến đây quấy nhiễu, thuộc hạ còn sợ chúng quay trở lại đây một lần nữa nên… vì thế thuộc hạ mới cùng Khổ đại sư quyết định dọn lên trên tháp này canh gác. Như vậy mới khỏi lỡ việc lớn của quận chúa. Còn cái bọc kia là bọc chăn gối của Khổ đại sư đấy.

Triệu Minh nghe nói mừng rỡ vô cùng:

– Chính tôi cũng đang muốn mời Lộc tiên sinh và Hạt tiên sinh tới đây trấn thủ, nhưng tôi thấy phiền đến hai vị như vậy hơi quá đáng một chút, nên không tiện lên tiếng. Bây giờ hai vị lại chịu giúp tôi như vậy, thì quý hóa lắm. Khổ đại sư, nơi đây có Lộc tiên sinh canh rồi, vậy đại sư hãy theo tôi.

Nói xong, nàng nắm lấy tay Khổ Ðầu Ðà, bất đắc dĩ Khổ Ðầu Ðà đành phải tuân lệnh, nhưng trong lòng nghĩ thầm:

– Lúc này ta lột mặt nạ của Lộc Trượng Khách ra cũng không ích lợi gì cho ta. Hơn nữa, hiện giờ Hàn Cơ đang trong tay, dù ta có vu khống chưa chắc Triệu Minh đã tin. Chi bằng ta đưa cái bọc này cho Lộc Trượng Khách thì hơn.

Nghĩ đoạn y liền đưa cái bọc thì Lộc Trượng Khách vội giơ tay ra đỡ lấy bọc áo và Lộc Trượng Khách đáp:

– Khổ đại sư, tôi chờ đại sư trên tháp đấy nhé.

Du Long Tử xen lời nói:

– Thưa sư phụ, để đồ đệ đỡ tay hộ cái bọc chăn gối này cho.

Lộc Trượng Khách vừa cười vừa đáp:

– Khỏi cần, đây là đồ của đại sư, muốn lấy lòng ông ta sư phụ phải đích thân mới được.

Khổ Ðầu Ðà bụng chửi thầm, liền giơ tay vỗ mạnh vài cái bọc áo đánh trúng mông đít Hàn Cơ. Cũng may nàng đã điểm vào yếu huyệt tê liệt rồi, nên không kêu được, Lộc Trượng Khách hoảng sợ đến biến sắc mặt không dám đứng lại nữa, vái chào Triệu Minh vác Hàn Cơ vào tháp.

Vào tháp Lộc Trượng Khách vội đổi luôn cái chăn bông, đề phòng Khổ Ðầu Ðà có báo cáo Triệu Minh hay thì nhất định không chịu nhận.

Khổ Ðầu Ðà bị Triệu Minh kéo ra khỏi chùa Vạn Pháp, trong lòng vừa bực tức, vừa kinh ngạc, không hiều nàng định đem mình đi đâu.

Triệu Minh đầu đội mũ gió che lấp hai má, khẽ nói với Khổ Ðầu Ðà:

– Khổ đại sư, chúng ta đi thăm tiểu tử Vô Kỵ!

Khổ Ðầu Ðà vừa kinh ngạc vừa nhìn nàng, thấy hai má nàng đỏ hồng, lòng có vẻ vui mừng, Khổ Ðầu Ðà nghĩ lại chuyện giữa nàng với Vô Kỵ trong chùa Vạn Pháp đêm hôm qua, y biết hai người thế nào cũng có tình ý với nhau.

Nghĩ đoạn, y liền gật đầu nhìn nàng và cười một cách quái dị.

Triệu Minh hờn giận hỏi:

– Ðại sư cười gì thế?

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

– Ðùa với ai thì được nhưng chớ nên đùa với nàng ta.

Y liền giơ tay lên chỏ chỏ ra điều nói:

– Khổ Ðầu Ðà sẽ hết sức bảo vệ quận chúa, dù có vào đầm rồng hang hổ, tôi cũng đi.

Triệu Minh liền đi trước dẫn đường, không bao lâu đã tới trước cửa khách điếm, nơi Vô Kỵ trọ.

Khổ Ðầu Ðà thấy vậy hoảng sợ nghĩ thầm:

– Quận Châu Quân thông quan đại thúc, không đầy một buổi sáng, nàng đã tìm ra chỗ ở của Minh Giáo chủ ta rồi.

Nghĩ đoạn y theo Triệu Minh đi vào trong khách điềm, Triệu Minh hỏi người phổ ky rằng:

– Chúng tôi muốn kiếm người khách trọ Tăng.

Vô Kỵ vẫn dùng cái tên giả Tăng A Ngưu.

Ðiểm Tiểu nhị vào trong thông báo.

Vô Kỵ đang ngồi ở trên giường tịnh dưỡng, để đợi pháo bông ở chùa Vạn Pháp phát lên là đi tiếp ứng.

Bỗng nghe có người đến thăm, lòng rất kinh ngạc vội ra ngoài khách đường để nghinh đón.

Chàng thấy khách đến thăm là Triệu Minh với Khổ Ðầu Ðà thì lòng càng lo ngại nghĩ thầm:

– Nguy tai! Chắc Triệu cô nương đã biết tung tích Khổ đại phu đến đây đối chất với ta.

Nghĩ đoạn, chàng tiến lên vái chào và hỏi:

– Không biết Triệu cô nương tới thăm để ra nghinh đón, xin cô nương tha lỗi!

Triệu Minh trả lời:

– Nơi đây không phải là chỗ nói chuyện, chúng ta hãy đến một tiểu tửu gia bên kia nhậu ba chén, chẳng hay Giáo chủ nghĩ sao?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi rất vui lòng.

Triệu Minh đi trước dẫn đường, đến một tửu gia cách khách sạn của Vô Kỵ độ chừng năm sáu trượng, trong tửu điếm có bày mấy cái bàn.

Lúc ấy trời đã tối, trong tiệm không có người khách nào.

Triệu Minh, Vô Kỵ ngồi đối diện nhau, Khổ Ðầu Ðà giơ tay ra hiệu xin phép ra ngồi uống rượu, Triệu Minh gật đầu.

Rồi nàng lại bảo phổ ky lấy ba cân thịt, hai cân rượu, Vô Kỵ hồ nghi nghĩ thầm:

– Nàng là quận chúa cao quý, mà chịu cùng mình vào trong tiệm ăn nhỏ nầy, ăn uống chẳng hay nàng có bài quỷ kế chi đây?

Triệu Minh rót luôn hai ly rượu, đưa cho Vô Kỵ một chén rồi tự uống một chén cười nói:

– Rượu nầy không có thuốc độc đâu, Trương Giáo chủ cứ yên tâm mà uống.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Cô nương gọi tôi đến đây có điều chi dạy bảo?

Triệu Minh đáp:

– Mời Giáo chủ uống cạn ba chén rượu đã rồi nói chuyện sau.

– Tôi xin cạn chén trước.

Nói xong nàng nâng ly rượu lên uống cạn ngay, Vô Kỵ cũng cầm ly rượu lên uống.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Uống thêm hai ly nữa, tôi biết Giáo chủ cũng còn nghi ngờ tôi, nên ly nào tôi cũng phải hớp một hớp trước.

Vô Kỵ biết nàng đa mưu, túc kế, nên việc gì chàng cũng đề phòng.

Bây giờ, thấy nàng uống trước một hớp chàng mới yên lòng.

Nhưng uống xong ba ly rượu mà nàng đã hớp qua, chàng cảm thấy trong lòng hơi khó chịu.

Chàng ngửng đầu lên nhìn Triệu Minh đang tủm tỉm cười, trông rất xinh đẹp.

Chàng không dám nhìn thêm nữa nên vội quay đầu về chỗ khác.

Triệu Minh khẽ nói:

– Trương công tử có biết ta là ai không?

Vô Kỵ lắc đầu, Triệu Minh cười, nói:

– Hôm nay tôi xin công tử được rõ. Cha tôi là Nhữ Dương Vương, cầm binh quyền của triều đình. Tôi là con gái Mông Cổ, tên là Minh Minh Ðặc Mục Nhĩ. Triệu Minh là tên Hán mà tôi đặt. hoàng thượng cho tôi làm Triệu Minh quận chúa.

Thấy nàng ta dám đem lai lịch ra nói thật cho mình biết như vậy Vô Kỵ vô cùng ngạc nhiên.

Triệu Minh hỏi:

– Tại sao công tử lại biết rõ lai lịch của tôi trước rồi?

Vô Kỵ đáp:

– Không, tôi có biết đâu? Nhưng tôi thấy cô tuổi trẻ như vậy mà sai khiến được nhiều tay võ lâm cao thủ thì tất nhiên địa vị của cô nương phải cao rồi!

Triệu Minh vuốt ve cái ly, không nói năng gì hết.

Một hồi lâu, nàng mới cầm ấm lên rót rượu cho Vô Kỵ rồi nói tiếp:

– Trương công tử! Tôi hỏi công tử một lời này, mong công tử trả lời thành thật cho tôi hay. Nếu tôi giết Chu cô nương của công tử thì công tử sẽ đối phó với tôi như thế nào?

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi lại:

– Chu cô nương có lỗi gì với cô đâu mà bỗng dưng cô lại đòi giết nàng ta?

– Tính tôi rất lạ, tôi không ưa ai là giết người đó liền! Chứ không cần người đó tội với tôi hay không? Trái lại có những người thất lễ và làm mất lòng tôi mà tôi không giết, như công tử chẳng hạn. công tử nghĩ xem, công tử làm bực mình tôi như thế còn chưa đủ hay sao?

Nói tới đây, mặt nàng không có vẻ tức giận gì hết, miệng tủm tỉm cười.

Hồi thứ 66

Can Ðảm Cứu Các Phái

Vô Kỵ thở dài rồi đáp:

– Triệu cô nương, tôi thất lễ với cô là do hoàn cảnh bắt buộc, nhưng cô tặng thuốc để tôi cứu Tam sư bá với Lục sư thúc dù sao tôi cũng cám ơn cô nương.

– Lời Giáo chủ có thành ra ngớ ngẩn chăng? Dư Ðại Nham với Hân Lại Hanh đều bị thuộc hạ của tôi hạ độc thủ mà công tử không trách, lại còn cám ơn tôi?

– Tam sư bá tôi bị thương đã ngót hai mươi năm lúc ấy cô chưa ra đời.

– Nhưng những người đó đều là thuộc hạ của cha tôi. Công tử đừng nói lảng sang chuyện khác nữa, tôi hỏi công tử câu này: Nếu tôi giết Chu cô nương của công tử thì công tử đối phó với tôi như thế nào? Công tử có định giết chết tôi để báo thù cho nàng không?

Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Tôi không biết!

– Tại sao công tử lại không biết, có phải công tử không muốn nói phải không?

– Cha mẹ tôi bị người ta bức tử, hôm đó tôi có mặt ở tại đó. Tôi đã thề trước xác của cha mẹ là sau này trưởng thành thế nào tôi cũng phải phục thù cho kỳ được. Tôi nhớ kỹ mặt những người đã bức tử cha mẹ tôi. Những người đó là của phái Thiếu Lâm và Không Ðộng v. v… Lúc ấy, tôi còn nhỏ nên trong lòng chứa đầy thù hận, nhưng đến khi tôi lớn lên, hiểu biết sự đời thì lòng thù hận đó đã phai dần. Sự thật tôi vẫn chưa được rõ ai là kẻ thù và ai đã ra tay giết hại cha mẹ tôi.

Tôi không dám bảo là Không Trí Ðại Sư và Thiết Cầm Tiên Sinh, tôi cũng không dám nói là ông ngoại hay cậu tôi, thậm chí tôi cũng không dám vu cáo cho A Ðại, A Nhị, Huyền Minh Nhị lão những bộ hạ của cô nương. Triệu cô nương! Mấy ngày hôm nay tôi chỉ nghĩ chẳng giết ai, cùng hòa khí thân ái, làm bạn với nhau, như vậy phải hơn không?

Triệu Minh thấy Vô Kỵ thành khẩn như vậy im lặng giây lát nàng nói tiếp:

– Ðó là tâm địa nhân hậu của công tử mà nên. Tôi thì không thể nào bắt chước công tử được! Ai giết hại anh và cha tôi, không những tôi giết hại cả nhà tên đó mà tôi còn giết cả những họ hàng bạn bè và cả những mgười quen biết tên đó tôi cũng giết hết!

– Nếu cô nương làm như thế thì thế nào tôi cũng ra tay ngăn cản!

– Tại sao vậy! Công tử định giúp kẻ thù của tôi ư?

– Tôi thiết nghĩ cô giết chết một người đối với cô có hại thêm và mang thêm tội mà thôi. Triệu cô nương! Chẳng hay cô nương đã giết ai chưa?

– Bây giờ thì chưa, nhưng sau này tôi lớn lên tôi sẽ giết rất nhiều người. Ông tổ của tôi là Ðại đế Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt v.v… những vị ấy mới thật anh hùnh hảo hán. Tôi chỉ hận, mình phận gái. Nếu là đàn ông hừ… hừ… tôi sẽ tạo nên một sự nghiệp oanh liệt!

Nói tới đó, nàng rót đầy một ly rượu, rồi cầm lên uống cạn cười nói tiếp:

– Công tử vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi!

– Nếu cô nương giết chết Chu cô nương hay bất cứ một người thủ hạ của tôi thì tôi sẽ không coi cô nương là bạn và sẽ không khi nào trông mặt của cô nương nữa! Và dù thấy mặt nhau tôi cũng không khi nào nói chuyện với cô nương!

– Thế bây giờ công tử coi tôi là bạn không?

– Nếu tôi ghét hận cô thì không bao giờ tôi lại ngồi ở đây uống rượu với cô! Hà!… Tôi nhận thấy muốn ghét hận một người thật là khó. Trong đời tôi người mà tôi ghét hận nhất là Thành Khôn! Nhưng y đã chết rồi, bây giờ tôi lại nhận thấy y chết như thế rất tội nghiệp, tôi lại mong y đừng chết.

– Nếu ngày mai tôi chết thì công tử sẽ nghĩ thế nào? Chắc lúc ấy công tử thế nào cũng nói: Cám ơn trời đất! Con bé đối thủ và hung ác kia đã chết rồi. Từ nay trở đi ta đỡ bị phiền phức nữa!

Vô Kỵ vội lớn tiếng đính chính:

– Không! Không! Vi Bức Vương dọa sẽ dùng rao rạch mặt cô rách nát. Sao tôi càng nghĩ càng lo lắng hộ cho cô. Triệu cô nương! cô đừng gây thù hận với chúng tôi nữa, mau tha cho những tay cao thủ của sáu đại môn phái đó đi, để chúng ta vui vẻ làm bạn với nhau! Như vậy có tốt hơn không?

Triệu Minh mừng rỡ đáp:

– Hay lắm! Tôi cũng trông mong như vậy lắm! Công tử là Giáo chủ của Minh Giáo, lời nói của công tử nặng như chín cái đình. Công tử mau đi bảo các người đầu hành triều đình đi! Ðể cha tôi tâu với hoàng thượng phong cho họ.

Vô Kỵ lắc đầu và thủng thẳng đáp:

– Người Hán chúng tôi tâm nguyện muốn các người Mông Cổ mau rời đất đai của người Hán.

Triệu Minh đứng phắt dậy vội hỏi:

– Sao vậy, sao công tử lại dám thốt ra những lời phạm thượng và phản loạn như vậy? Như thế có khác gì công tử đã công nhiên định làm loạn không?

– Tôi vốn dĩ là người phản loạn, chẳng lẽ đến bây giờ cô mới biết hay sao?

Triệu Minh ngắm nhìn Vô Kỵ một hồi vẻ tức giận và kinh ngạc tiêu tan hết, và thay thế vào bằng vẻ nhu mì nhưng hơi thất vọng, rốt cuộc nàng lại ngồi xuống và nói tiếp:

– Tôi đã sớm biết lòng công tử như vậy, nhưng tôi muốn được nghe công tử nói ra. Bây giờ tôi đã hiểu hết rồi, việc này không thể nào vãn hồi được nữa.

Nói tới đó giọng nói của nàng chứa đầy đau thương.

Hai người lẳng lặng ngồi nhìn nhau một hồi Vô Kỵ liền lên tiếng:

– Triệu cô nương! Bây giờ trời đã khuya lắm rồi, để tôi đưa cô nương về.

– Công tử không chịu ngồi ở đây với tôi một tí nữa hay sao?

– Không! Nếu cô nương thích ngồi ở đây uống rượu nói chuyện thì tôi xin ở lại đây tiếp chuyện với cô nương!

– Tôi ngồi một mình vẫn thường nghĩ: Nếu tôi không phải là người Mông Cổ và cũng không là quận chúa gì hết mà chỉ muốn giống như Chu cô nương hay là một cô bé người Hán tầm thường nào đó thì có lẽ công tử sẽ tử tế với tôi hơn! Trương công tử bảo tôi đẹp hay Chu cô nương đẹp?

Vô Kỵ không ngờ nàng lại hỏi bạo như thế? Dưới ánh sáng đèn, chàng trông thấy nàng đẹp khôn tả, liền buột miệng trả lời rằng:

– Tất nhiên là cô đẹp hơn Chu cô nương rồi!

Triệu Minh giơ tay phải ra nắm lấy tay chàng và nàng lộ vẻ mừng rỡ:

– Trương công tử có muốn gặp tôi luôn không! Và có muốn tôi mời công tử tới đây uống rượu luôn luôn không?

– Tôi không thể ở đây lâu được! Vài ngày nữa tôi sẽ xuôi miền Nam ngay!

– Công tử đi xuống miền Nam làm chi?

– Tôi không nói chắc cô nương cũng đoán ra được và sợ nói ra cô nương bực mình…

Triệu Minh nhìn mặt trăng ở ngoài cửa sổ bỗng lên tiếng hỏi:

– Công tử còn nhớ nhận lời làm ba việc cho tôi không?

– Tất nhiên không bao giờ tôi quên được, xin cô nương cứ cho biết bất cứ việc gì tôi cũng sẽ vui lòng làm ngay!

Triệu Minh quay đầu lại nhìn mặt chàng một hồi rồi nói tiếp:

– Bây giờ tôi mới nghĩ ra được một việc là tôi muốn nhờ công tử cùng tôi đi lấy thanh đao Ðồ Long.

Vô Kỵ cũng biết trước những việc mà Triệu Minh nhờ mình làm thế nào cũng rất khó khăn. Chàng không ngờ việc mà nàng nhờ vả thứ nhất đây lại là một việc tày đình như thế! Chàng cau mày suy nghĩ Triệu Minh thấy vậy vội hỏi:

– Thế nào? Công tử không chịu ư? Việc nảy không trái đạo hiệp nghĩa mà!

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Hiện giờ đao Ðồ Long trong tay nghĩa phụ ta, việc nầy người trên giang hồ ai cũng biết hết. Như vậy ta cũng không cần phải giấu diếm nàng làm chi?

Nghĩ đoạn, chàng liền đáp:

– Ðồ Long đao là báu vật của nghĩa phụ tôi, Kim Mao Sư Vương Ðại Hiệp, khi nào tôi lại phản nghĩa phụ mà lấy đao cho cô được?

Triệu Minh lại nói:

– Tôi không nhờ vả công tử đi lấy trộm, ăn cướp hay lừa dối và tôi cũng không phải muốn lấy được con đao đó, tôi chỉ muốn công tử đi hỏi nghĩa phụ của công tử cho tôi mượn xem và múa chơi một tiếng đồng hồ thôi rồi tôi lại trả cho Tạ Ðại hiệp ngay! Công tử với Tạ Ðại hiệp là nghĩa phụ nghĩa tử như vậy, chẳng lẽ công tử hỏi mượn trong một tiếng đồng hồ cũng không được hay sao? Mượn con đao xem chốc lát chứ có phải là nuốt mất luôn con đao ấy của Tạ đại hiệp đâu? Và tôi cũng không phải mượn nó để giết ntgười cướp của, như thế thì có gì là trái với đạo nghĩa đâu:

Con đao ấy tuy nó lừng danh võ lâm thật, nhưng nó rất xấu xí, nặng nề và không sắc bén gì hết.

Thế sao người ta vẫn nói “Võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long, hiệu lệnh thiên hạ” ai cũng phải phục tùng, nếu Ỷ Thiên không ra mặt thì không ai dám tranh sắc bén với nó. Bây giờ Ỷ Thiên Kiếm ở trong tay tôi nên tôi thế nào cũng muốn xem thanh đao Ðồ Long ấy hình dáng như thế nào?

Nếu công tử không yên tâm thì lúc xem đao công tử cứ đứng ở cạnh tôi, với bản lãnh của công tử cao cường như thế thì tôi không thể nào làm bậy cho được!

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Sau khi cứu được những cao thủ của sáu đại môn phái thoát nạn ta đã định đi nghênh đón nghĩa phụ về ngay và mời nghĩa phụ nhận chức vụ Giáo chủ.Triệu cô nương đã nói rõ chỉ mượn đao xem một tiêng đồng hồ thôi tuy ta không dám bảo đảm nàng sẽ không giở quỷ kế ra cướp giựt, nhưng đã có ta đứng đó để đề phòng thì chắc nàng cũng không thể làm gì cho được, nhưng nghĩa phụ ta đã nói, trong đao Ðồ Long có giấu một môn võ công tuyệt học ở bên trong, với thông minh trí tuệ của nghĩa phụ lúc hai mắt chưa mù đã cướp được bảo đao mà bấy lâu nay vẫn chưa biết rõ bí mật ở bên trong thì Triệu cô nương này chỉ xem có một tiếng đồng hồ ngắn ngủi như thế thì nàng làm sao mà biết được sự bí mật của nó, huống hồ ta cách biệt nghĩa phụ đã mười năm biết đâu trong khi ông ta ở trên đảo đã tìm ra sự bí mật của con đao đó rồi?

Triệu Minh thấy chàng yên lặng như vậy, liền vừa cười vừa nói tiếp:

– Công tử không bằng lòng cũng được, nhưng tôi bảo công tử làm việc khác chắc còn khó hơn thế nữa!

Vô Kỵ biết đàn bà điêu ngoa vừa ác độc nếu để cho nàng ta nghĩ ra vấn đề khác, chưa chắc mình đã làm nổi nên chàng vội đáp:

– Thôi được! Tôi nhận lời đưa cô đi mượn con đao Ðồ Long đó, nhưng chúng ta phải nói trước, cô nương chỉ có thể mượn xem một tiếng đồng hồ thôi, nếu cô định tâm cướp đoạt, tôi nhất định không để yên cô đâu!

– Ðược rồi! Tôi có biết xử dụng đơn đao đâu, vả lại con đao nặng chình chịch như thế thì lấy để làm gì? Dù công tử có cung kình mời tôi lấy tôi cũng không thèm. Chẳng hay công tử định bao giờ lên đường thế?

– Vài ngày nữa chúng ta sẽ đi liền.

– Như vậy thì hay! Tôi về sửa soạn hành lý, bao giờ lên đường thì công tử đến rủ tôi đi nhé!

– Theo ý tôi thì cô nương không nên đi, vì đường sá xa xôi và khó đi lắm!

– Nghe nói nghĩa phụ của công tử, hiện đang sinh sống trên một cô đảo hải ngoại, nhất định không chịu trở về Trung Thổ. chẳng lẽ lại bắt công tử dđi hằng vạn dặm để mượn đao về cho tôi xem một tiếng đồng hồ hay sao? Xem xong công tử lại đem đi vạn dặm để trả. Rồi lại đi xa hàng vạn dặm trở về đây. Tôi thiết nghĩ trên thiên hạ này không bao giờ có chuyện kỳ lạ như thế được.

Vô Kỵ cũng thấy việc đi như thế rất viển vông, liền đáp:

– Cô nương nói rất phải, nghĩa phụ tôi ở trên Băng Hỏa đảo đã được hai mươi năm nay rồi, chưa chắc ông ta chịu trở về Trung Thổ. Vả lại trên bể cả sóng gió rất lớn đi lại rất nguy hiểm. Cô nương hà tất phải thân hành mạo hiểm như thế?

– Mặc dầu chỗ đó nguy hiểm đến đâu công tử đi được thì tôi cũng đi được.

– Nhưng cha cô có chịu để cô đi không?

– Cha tôi rất bận. Mấy năm nay tôi đi đâu cha tôi cũng không hỏi tới. Vả lại cha tôi cũng bảo tôi thống lãnh quần hào trên giang hồ, nên tôi muốn đi đâu cha tôi cũng không hỏi tới.

Vô Kỵ nghe nàng nói tới đó liền nghĩ thầm:

– Ta đi Băng Hỏa đảo nghênh đón nghĩa phụ không biết ngày nào mới trở về được. Nếu nàng dùng kế điệu hổ ly sơn nhân lúc ta vắng mặt đem binh đến đánh bổn giáo có phải là nguy không? Chi bằng ta để nàng đi cùng bộ hạ của nàng. Như vậy ta đỡ phải lo âu.

Nghĩ đoạn chàng liền gật đầu đáp:

– Ðược, lúc nào đi tôi sẽ đến đón cô…

Chàng chưa nói dứt đã thấy ngoài trời đỏ rực và tiếng kêu la ở đằng xa vọng tới.

Triệu Minh đi tới cửa sổ nhìn ra ngoài để xem.

Nàng bỗng kinh hãi và la lớn:

– Ối chà! Nguy tai, bảo tháp của chùa Vạn Pháp bị cháy. Khổ Ðại sư mau lại đây…

Nàng gọi liền mấy tiếng không thấy Khổ Ðầu Ðà hiện thân ra, nàng chạy ra ngoài cửa cũng không thấy tung tích Khổ Ðầu Ðà đâu cả.

Nàng hỏi chưởng quầy, thì người chưởng quầy trả lời rằng:

– Vị đại sư ấy vừa tới đã đi liền, cách đây chừng hai tiếng đồng hồ.

Triệu Minh ngạc nhiên vô cùng, nàng không ngờ Khổ Ðầu Ðà lại phản mình như vậy. Vô Kỵ trông thấy ngọn lửa cháy càng lúc càng cao, chỉ sợ công lực của Ðại sư bá, các người chưa khôi phục hẳn, sẽ bị chết cháy trong bảo tháp.

Nên chàng vội nói với Triệu Minh rằng:

– Xin lỗi cô nương tôi có việc bận phải về ngay…

Chàng vừa nói xong đã nhảy qua cửa sổ đi luôn.

Triệu Minh vừa đuổi theo vừa kêu gọi:

– Hãy khoan cho tôi cùng đi với!

Chờ tới khi nàng nhảy ra ngoài cửa sổ thì Vô Kỵ đã biệt tích rồi.

Hãy nói Lộc Trượng Khách thấy Khổ Ðầu Ðà bị quận chúa gọi đi, mới yên lòng liền cõng Hàn Cơ vào trong phòng Du Long Tử.

Long Tử là tổng quản của bảo tháp đó, phòng của y ở trên từng thứ bảy của bảo tháp. Y ở trên đó có thể nhìn xung quanh bốn phía và có thể kiềm chế được đại cục.

Lộc Trượng Khách cõng Hàn Cơ lên tới đó rồi, liền nói với Du Long Tử rằng:

– Mi ra ngoài cửa canh gác cấm không cho ai vào trong nầy.

Du Long Tử liền ra cửa phòng tức thì.

Lộc Trượng Khách gài then cửa lại cởi bọc áo ra và đặt Hàn Cơ nằm lên trên giường, y thấy mặt nàng nhợt nhạt, mắt tỏ vẻ van lơn, y liền khẽ nói:

– Cô nương đã lên tới đây không còn hãi sợ gì hết, tôi sẽ đối đãi tử tế với cô nương!

Tới lúc ấy y cũng chưa dám giải huyệt cho nàng ta, vì sợ nàng lớn tiếng kêu la thì hỏng hết đại sự. Cho nên y chỉ lấy cái chăn bông để vào trong miếng vải bọc lại và đặt sang một bên. Y là một người đa mưu túc kế, biết để Hàn Cơ ở đây sẽ bị tai tiếng nên y vội ra ngoài phòng dặn bảo Du Long Tử không nên vào trong ấy và cũng không cho người nào vào hết. Y biết người đại đệ tử đó xưa nay vẫn kính nể và hãi sợ mình, tất nhiên người đệ tử đó không dám trái lệnh mình.

Cho nên y vừa đi vừa suy nghĩ:

– Việc này chỉ cần Khổ Ðầu Ðà giữ bí mật cho ta thôi. Vậy ta phải hết sức lấy lòng y thì ta phải tha người yêu với con gái của y trước. Tối hôm qua Giáo chủ của Minh Giáo đến đây phá bĩnh và cũng do Chu cô nương mà nên hết. Bây giờ ta tha hai mẹ con nàng ra rồi đổ là Giáo chủ Ma Giáo đã cứu đi.

Nữ đệ tử của phái Nga Mi đều bị giam giữ ở từng thứ tư. Vì là chưởng môn Diệt Tuyệt Sư thái bị giam trong một tiểu thất.

Lộc Trượng Khách xuống tới từng thứ tư, liền bảo người mở cửa phòng để đi vào bên trong.

Y thấy Diệt Tuyệt Sư tháiđang ngồi xếp bằng tròn ở dưới đất để tịnh tu. Sư thái đã tuyệt thực mấy ngày, mặt tuy tiều tụy, nhưng trái lại càng tỏ vẻ kiêu ngạo cương hãnh thêm.

Y liền hỏi:

– Diệt Tuyệt Sư thái vẫn mạnh đấy chứ?

Sư thái từ từ mở mắt ra nhìn và trả lời:

– Không ăn uống thì mạnh sao được.

Thấy Sư thái bướng bỉnh như vậy, chủ nhân tôi bảo Sư thái ở lại cũng vô ích, cho nên chủ nhân tôi sai tới đây đưa Sư thái về chầu trời.

Diệt Tuyệt Sư thái đã quyết tâm chết từ lâu rồi, nên không có vẻ gì sợ hãi hết, liền ung dung đáp:

– Hay lắm, nhưng khỏi phiền đến ngài ra tay, ngài chỉ cần cho tôi mượn một thanh đoản kiếm, là tôi tự biết giải quyết lấy và còn phiền ngài kêu đồ đệ tôi là Chỉ Nhược tới đây để tôi dặn bảo nó vài lời.

Lộc Trượng Khách quay mình đi liền và sai người đem Chỉ Nhược tới và y nghĩ thầm:

– Tình mẹ con có khác, bằng không tại sao mụ ta không gọi đại đồ đệ tới dặn bảo mà chỉ gọi một mình Chỉ Nhược như thế?

Không bao lâu, Chỉ Nhược đã tới phòng giam của sư phụ.

Diệt Tuyệt Sư thái liền nói:

– Lộc tiên sinh, mời tiên sinh hãy ra ngoài đợi chờ giây lát, tôi chỉ dặn nó vài câu thôi.

Chỉ Nhược chờ Lộc Trượng Khách ra khỏi phòng liền khép cửa lại rồi ngã vào lòng sư phụ nức nở khóc. Sư thái là người rất cứng rắn, nhưng đến lúc sắp chết, cũng không thể nào cầm lòng được, liền giơ tay lên vuốt tóc Chỉ Nhược.

Biết không còn bao nhiêu thì giờ nói chuyện với sư phụ, Chỉ Nhược liền kể đêm hôm trước Vô Kỵ đấu kiếm như thế nào cho sư phụ hay.

Sư thái cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi lại:

– Tại sao y chỉ cứu một mình con mà lại không cứu người khác. Ngày nọ ở trên Quang Minh đỉnh con đâm y một kiếm tại sao y còn cứu con như vậy?

Chỉ Nhược xấu hổ, hai má đỏ bừng cúi mặt xuốn khẽ đáp:

– Con không biết.

– Hừ, thằng nhỏ ấy nham hiểm thật, nó là đại ma đầu của Ma Giáo thì làm gì có lòng tốt nữa. Nó xếp đặt sẳn bẫy để lừa con.

Chỉ Nhược nghe Sư thái nói, ngạc nhiên vô cùng liền hỏi lại:

– Y… y xếp đặt mưu kế để hãm hại con ư?

– Chính ta là kẻ thù của Ma Giáo và ta đã dùng Ỷ Thiên kiếm giết chết rất nhiều tên tà ác giáo đồ. Tất nhiên Ma giáo phải thù hận ta thì khi nào tên ma đầu đó lại ra tay cứu con. Theo sự nhận xét của ta thì nhất định tên ma đầu ấy đã có lòng thương con cho nên mới đặt cạm bẫy để con chui vào. Y sẽ bảo con bắt chúng ta cho y, rồi y lại cốt lấy lòng con, sẽ cứu con ra khỏi nơi đây.

– Thưa sư phụ, con thấy… y thật lòng cứu con chứ không phải là giả bộ đâu.

Sư thái cả giận quát mắng:

– Chắc con cũng như con Hiểu Phù mất dạy vậy, mới trông thấy dâm đồ của Ma giáo thì mê liền. Nếu ta không bị mất công lực, ta đã dùng chưởng chém chết con ngay.

Chỉ Nhược hoảng sợ đến tay chân mình run lẩy bẩy và khẽ đáp:

– Ðồ đệ không dám.

– Con nói thực hay nói dối, có phải con lừa dối sư phụ đấy không?

– Ðồ đệ đâu dám trái với sự giáo huấn của ân sư.

– Con phải quỳ ngay xuống đất thề thật nặng.

Chỉ Nhược nghe lời, liền quỳ ngay xuống đất, nhưng không biết nói thế nào cho phải.

Sư thái thấy vậy liền nói tiếp:

– Con phải nói như thế này: “Tiểu nữ Chu Chỉ Nhược xin thề trước trời, sau này nếu tiểu nữ có lòng ái mộ dâm đồ Trương Vô Kỵ giáo chủ của Ma giáo hay là kết thanh phu phụ với y thì cha mẹ con chết nằm dưới đất, hài cốt cũng không được yên ổn. Sư phụ tiểu nữ là Diệt Tuyệt Sư thái sẽ biến thành ác quỷ, ngày đêm sẽ làm cho tiểu nữ không yên. Nếu tiểu nữ sinh con đẻ cái với y con trai đời đời làm nô bộc, con gái sẽ đời đời làm đĩ.

Chỉ Nhược cả kinh, nàng không ngờ sư phụ lại bắt mình thề thốt độc ác như thế, không những đã làm nhục đến cha mẹ đã khuất núi mà còn lôi cả con cái chưa ra đời. Nàng không dám thề như vậy, nhưng thấy hai mắt của sư phụ đang hậm hực nhìn mình, bất đắc dĩ nàng phải theo lời dặn bảo của sư phụ mà thề độc qua một lần.

Diệt Tuyệt Sư thái thấy nàng đã chịu thề độc như vậy, mặt mới đỡ căm hờn và hạ giọng xuống để an ủi nàng:

– Như vậy mới phải là đồ đệ ngoan ngoãn của ta chứ. Thôi con đứng dậy.

Chỉ Nhược khóc sướt mướt rồi uể oải đứng dậy.

Sư thái lại sầm nét mặt lại nói tiếp:

– Chỉ Nhược, không phải sư phụ ép bức gì con đâu, chỉ muốn con có tương lai nên mới bắt con thề như vậy. Con còn ít tuổi, từ nay trở đi sư phụ không thể nào trông nom con được nữa. Nếu con còn đi trên vết bánh xe cũ của Hiểu Phù sư tỷ, sư phụ ở nơi chín suối cũng không yên dạ. Huống hồ sư phụ còn muốn con gánh vác trách nhiệm phục hưng bổn phái, cho nên con phải cẩn thận lắm mới được.

Nói xong, Sư thái tháo chiếc nhẫn sắt đeo ở nhón tay trỏ bên trái ra, từ từ đứng dậy và nói:

– Nữ đệ tử của phái Nga Mi hãy quỳ xuống nghe dạy.

Chỉ Nhược ngẩn người dây lát rồi quỳ xuống.

Sư thái giơ chiếc nhẫn sắt lên cao và nói tiếp:

– Ðệ tam đại trưởng môn nữ ni Diệt Tuyệt của phái Nga Mi cung kính truyền lại ngôi trưởng môn của bổn phái cho nữ đệ tử đời thứ tư là Chỉ Nhược.

Sau khi bị sư phụ bắt buộc phải thề độc, Chỉ Nhược thấy đầu óc mình hoang mang rối loạn. Nàng đột nhiên nghe sư thái nói truyền trao lại quyền trưởng môn cho mình phụ trách, nàng càng kinh hãi ngẩn người ra thêm.

Sư thái lại thủng thẳng nói tiếp:

– Chu Chỉ Nhược nhận lấy Thiết Chỉ hoàn trưởng môn của bổn môn. Con giơ tay trái ra.

Sư thái liền đeo chiếc nhẫn sắt vào tay nàng.

Với giọng run run Chỉ Nhược đáp:

– Thưa sư phụ, đệ tử còn ít tuổi lắm và nhập môn không được bao lâu thì làm sao gánh vác nổi trách nhiệm ấy? Còn sư phụ chắc thế nào cũng thoát khỏi nơi đây, sư phụ hà tất phải truyền ngôi trưởng môn cho đệ tử như thế làm chi. Quả thật đệ tử không đủ…

Nói tới đó, nàng khóc sướt mướt và ôm lấy hai đùi của sư phụ.

Lộc Trượng Khách ở bên ngoài chờ khá lâu, bỗng nghe tiếng khóc lóc, liền gõ cửa kêu gọi:

– Thế nào? Hai người đã nói xong chưa? Sau này ngày giờ còn dài lúc ấy sẽ nói tiếp.

– Nói cái gì lôi thôi thế?

Quát xong Sư thái lại nói với Chỉ Nhược tiếp:

– Con táo gan thật, dám trái lệnh của sư phụ hay sao?

Tiếp theo đó Sư thái đọc lại những giới quy của người trưởng môn của bổn phái cho nàng nghe, và bắt nàng phải thuộc lòng.

Chỉ Nhược thấy lời ăn lẽ nói và thái độ của sư phụ tựa như người hấp hối đang trối trăn. Nàng càng nghĩ càng kinh hãi liền đáp:

– Ðệ tử không làm nổi đâu và đệ tử cũng không thể…

Sư thái lại quát lớn:

– Con không nghe lời ta là con mang tội khi sư diệt tổ.

Nói tới đó, Sư thái thấy Chỉ Nhược khóc lóc thảm thương như vậy cũng phải động lòng và ôm ngay nàng vào lòng rồi khẽ an ủi rằng:

– Ta truyền ngôi trưởng môn cho con mà không truyền ngôi cho các sư tỷ kia, như vậy không phải là ta thiên vị đâu, vì người trưởng môn của Nga Mi phải có võ công tuyệt cao. Như vậy mới có thể ganh đua với các môn phái kia được.

– Võ công của đệ tử bằng sao được các vị sư tỷ.

– Con làm sao biết rõ bằng sư phụ, bây giờ trong các đệ tử của ta chỉ có con là có võ công cao siêu hơn hết… Ngoài ra con lại thông minh hơn chúng nhiều. Tương lai của con sau này rất rạng rỡ…

Hồi thứ 67

Thiên Long Ngũ Phương

Chỉ Nhược ngơ ngác nhìn sư phụ.

Sư thái khẽ rỉ tai nàng nói tiếp:

– Con đã là trưởng môn của bổn môn nên ta phải nói cho con biết chuyện bí mật nhất của bổn môn. Tổ sư sáng lập môn phía của chúng ta là Quách nữ hiệp và cũng là con gái thứ của đại hiệp Quách Tĩnh năm xưa. Quách đại hiệp ác chiến và tử nạn trong trận đấu bị quân Nguyên phá vỡ thành Tương Dương. Lúc đại hiệp sắp chết, có nói lại sự bí mật cho tổ sư của bổn phái hay. Năm xưa Quách đại hiệp đánh trấn thiên hạ, binh sinh có hai môn tuyệt nghệ là binh pháp, dùng để hành quân đánh trận. Tuyệt kỷ thứ hai là võ công, phu nhân của đại hiệp là hoàng Dung nữ hiệp rất thông minh và đang mưu trí.

Nàng trông thấy quân Nguyên quá mạnh, thành Tương Dương không sao cho chúng giữ nổi. Thế rồi hai vợ chồng của đại hiệp quyết tâm lấy cái chết để đền nợ nước. Nhưng để cho tuyệt nghệ của Quách đại hiệp thất truyền thì thật đáng tiếc, huống hồ hoàng nữ hiệp đã biết trước, dù người Mông Cổ có chiếm được đất đai của Trung Quốc, nhưng chúng không thể nào bắt người Hán làm nô lệ cho chúng mãi mãi. Sau này Trung Nguyên thế nào cũng có một trận quyết chiến lớn.

Nên nữ hiệp biết binh pháp và võ công của chồng mình sau nầy rất hữu dụng, nữ hiệp mướn những thợ cao thủ, đem thanh huyền Thiết trọng kiếm của Dương Qua đại hiệp vào thêm một ít tinh kiếm của Tây phương để chế thanh đao Ðồ Long và thanh Ỷ Thiên kiếm.

Tới lúc này Chỉ Nhược mới biết đao Ðồ Long và Ỷ Thiên kiếm là do mẫu thân của Quách Tường nữ hiệp tổ sư của môn phái làm ra.

Sư thái lại tiếp:

– Trước khi làm đao làm kiếm, Hoàng nữ hiệp và Quách đại hiệp tốn công hơn tháng trời mới viết ra được những tính yếu của binh pháp và võ công. Rồi giấu vào trong hai môn phái khí giới đó. Bí quyết giấu trong đao Ðồ Long là binh pháp, còn bí quyết của võ công thì giấu trong Ỷ Thiên kiếm. Sở dĩ con dao đó lấy tên là Ðồ Long là có nghĩa bảo sau này, nếu ai lấy được binh thư trong con đao đó sẽ đuổi được quân Thái Ðát ra khỏi bờ cõi và chém giết vua chúa của chúng. Bí quyết võ công trong Ỷ Thiên kiếm có hai bộ quý nhất là Cửu âm chân kinh và chưởng pháp của Giáng Long thập bát chưởng mong người sau học được võ công giấu trong Ỷ Thiên kiếm, để thay trời hành đạo, trừ hại cho dân.

Chỉ Nhược trố mắt lên nhìn và càng nghe thấy kỳ lạ, sư phụ nàng lại nói tiếp:

– Hoàng nữ hiệp chế xong đao kiếm đó, liền giao bảo đao cho người con trai là Quách Phá Lỗ và bảo kiếm thì giao cho tổ sư của bổn phái. Quách tổ sư được cha mẹ truyền thụ võ công và Quách Công được truyền thụ binh pháp, nhưng Quách Công cha mẹ cùng tuẩn nạn một lúc. Quách tổ sư tính không hợp với cha, nên võ công của bổn phái khác hẳn võ công của Quách đại hiệp năm xưa.

Chỉ Nhược đã nghe thấy sư tỷ nói qua trên giang hồ các bang phái tranh giành cướp đoạt thanh đao Ðồ Long như thế nào, rồi quần hiệp cùng lên núi Võ Ðang bức tử cha mẹ Vô Kỵ, nay nàng nghe sư phụ nói mới hay thanh đao với bảo kiếm có liên can với bổn phái như thế.

Sư thái lại nói tiếp:

– Một trăm năm nay trong võ lâm xảy ra rất nhiều chuyện lôi thôi, đao kiếm cũng bị thay đổi chủ nhân mấy lần. Người đời chỉ biết đao Ðồ Long là võ lâm chí tôn, duy có Ỷ Thiên kiếm là địch nổi thôi, nhưng tại sao thanh đao đó lại được chí tôn như thế thì không một ai hiểu cả. Quách Công tuần quốc hồi còn trẻ, nên không có con cái và cũng không đồ đệ, vì vậy sự bí mật trong đao kiếm chỉ có tổ sư của bổn phái là được truyền thụ thôi. Tổ sư của bổn phái, hồi sinh tiên, đã cố hết sức đi tìm kiếm thanh đao Ðồ Long, nhưng không thành công.

Lúc hấp hối có truyền lại những bí mật đó cho ân sư của ta là Nhất Thanh sư thái. Ân sư ta quá hiền từ, lại thâu được người sư tỷ bất tài của ta, nên không những không tìm ra được thanh đao Ðồ Long mà Ỷ Thiên kiếm của bổn môn còn bị sư tỷ ta lấy trộm đem đi cống hiến cho triều đình. Vì thế ân sư ta mới uất ức lên rồi chết. khi hấp hối có ra lệnh cho ta phải đi tìm kiếm cho được thanh đao Ðồ Long và cướp lại Ỷ Thiên kiếm.

Chỉ Nhược bổng xen lời nói:

– Ủa, không ngờ con lại có người sư bá như thế.

Sư thái bổng lộ vẻ sát khí và nói tiếp:

– Những người phản loạn và khi sư diệt tổ như thế, còn kêu y thị là sư bá làm chi?

Chỉ Nhược cúi đầu im lặng.

Diệt tuyệt Sư thái nói tiếp:

– Sau rồi, phản đồ đó bị ta kiếm ra được vì y thị là người xảo trá như thế thì võ công làm sao mà học tới mức thượng thặng được? Nhờ vậy ta mới không phụ di chúc của sư tổ. Ở chân núi Nhục Lốc, vùng Trường Sa, ta đuổi kịp y thị dùng một thế kiếm đó chính y thị đã dạy cho ta và khinh thường, chế nhạo ta xử dụng không đúng. Ngờ đâu tối hôm đó dưới ánh trăng ta dùng thế kiếm Phi Hoa Phi Yến đó để giết chết y thị. Ðó là chuyện hơn hai mươi năm trước đây.

Chỉ Nhược nghe tới đó rùng mình kinh hãi, không hiểu tại sao nàng vẫn có lòng thương vị sư bá kia?

Lúc ấy Lộc Trượng Khách đã gỏ cửa và hỏi:

– Nói xong chưa? Tôi không thể nào chờ được nữa đâu!

Sư thái đáp:

– Khỏi phải nóng lòng như thế vội! Chỉ chốc lát thôi, ta sẽ nói xong.

Nói tới đó bà ta khẽ nói với Chỉ Nhược tiếp:

– Thời gian không còn mấy chốc nữa, chúng ta không thể nói nhiều lời thừa được. Nói tóm lại, sau đó vua Mông Cổ ban thanh Ỷ Thiên kiếm cho Nhữ Dương Vương, ta liền vào trong Vương phủ cướp về, lần này không may bị trúng phải gian kế nên mới phải bị bắt như vầy!

– Thế ra không phải là Triệu cô nương đã cướp thanh kiếm đó ư?

Sư thái trợn trừng mắt lên đáp:

– Con bé họ Triệu ấy rõ ràng là cùng bọn với Giáo chủ của Ma Giáo, chẳng lẽ tới giờ phút nầy mà con vẫn chưa tin lời sư phụ sao?

Tuy trong lòng không tin, Chỉ Nhược không dám cãi sư phụ.

Sư thái lại nói tiếp:

– Sư phụ bây giờ muốn con nhận chức trưởng môn như vậy là rất có thâm ý, phen nầy sư phụ bị lọt vào tay kẻ gian, tên tuổi của ta đã bị tiêu tan hết, nên ta không muốn sống khỏi tháp nầy! Tên dâm hồ họ Trương dó dã tâm với con, nên ta chắc nó không dám giết hai con đâu! Con cứ giả bộ làm thân với y để thừa cơ cướp lại thanh Ỷ Thiên kiếm. Còn con đao Ðồ Long hiện giờ đang ở trong tay của nghĩa phụ y là ác tặc Tạ Tốn. Dù sao tiểu tử cũng không chịu nói rõ chỗ ở của Tạ Tốn! Nhưng trên thiên hạ này chỉ có một người bảo y đi lấy được thanh đao ấy.

Chỉ Nhược biết sư phụ nói người đó chính là mình nên nàng vừa kinh hãi vừa xấu hổ, đồng thời nàng lại vừa mừng, vừa sợ.

Sư thái lại nói tiếp:

– Người đó chính là con đây! Ta muốn con dùng mỹ sắc quyến rũ y lấy lại cho ta được thanh Ỷ Thiên kiếm đó. Vẫn biết hành vi đó là trái với hiệp nghĩa, nhưng muốn thành đại sư, ta cũng không nên chú trọng đến tiểu tiết mà làm chi? Con thử nghĩ xem, hiện giờ Ỷ Thiên kiếm ở trong tay con bé họ Triệu, Ðồ Long đao ở trong tay ác tặc Tạ Tốn, một lứa với nhau, nếu chúng lấy được cả đao lẫn kiếm, như vậy chúng sẽ lấy được binh pháp và võ công của Quách đại hiệp. Chúng sẽ đem ra mà hát sát hại lương dân. Như vậy thiên hạ sẽ có nhiều người bị chết oan uổng, vợ ly con tán, công việc xua đuổi quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi lại càng khó khăn thêm.

Nói tới đây Sư thái đột nhiên đứng dậy, quỳ xuống vái Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược kinh hãi vội quỳ xuống và kêu gọi:

– Sư phụ!…

Sư thái đáp:

– Nói khẽ chứ! Ðừng để cho ác tăng đứng bên ngoài nghe được! Chẳng hay con có nhận lời ta không? Nếu có không nhận lời, ta cứ quỳ như vầy mãi mãi!

Chỉ Nhược trong lòng bối rối, vì trong một thời gian ngắn ngủi mà sư phụ bắt nàng làm luôn ba việc rất khó. Trước hết phải thề thật độc, cấm không được yêu thương Vô Kỵ, rồi phải bắt mình nhận chức trưởng môn của bổn phái. Sau rồi bắt nàng dùng sắc đẹp để lấy đao Ðồ Long và Ỷ Thiên kiếm. Ba việc đó dù có bắt nàng trong năm chia ra từng đợt mà làm, thì một người như mì như nàng cũng không thể đảm đương nỗi huống hồ là trong chốc lát, thần trí nàng đang bắn loạn, nàng chết giấc tức thì không hay biết gì nũa. Lát sau nàng tỉnh dậy, mở mắt nhìn, thấy sư phụ vẫn quỳ trước mặt liền khóc lóc khuyên bảo:

– Mời sư phụ đứng dậy đi.

Sư thái hỏi tiếp:

– Thế nào? Con đã nhận lời chưa?

Chỉ Nhược vừa khóc vừa gật đầu.

Sư thái vội nắm lấy cổ tay nàng và nói:

– Sau khi lấy được đao Ðồ Long và kiếm Ỷ Thiên kiếm rồi, con mau kiếm một nơi ẩn, rồi tay cầm đao tay cầm kiếm vận nội lực dùng đao kiếm chém lẫn nhau, như vậy cả bao đao lẫn bảo kiếm cũng gãy liền. Lúc ấy con sẽ lấy đuợc bí kíp ở bên trong. Ðó là phương pháp duy nhất để lấy được bí kiếp đó, thì từ đó trở đi trên thiên hạ không còn bảo đao và bảo kiếm nữa, con đã nhớ chưa?

Thấy Chỉ Nhược gật đầu, sư thái lại tiếp:

– Phương pháp ấy là sự bí mật nhất của bổn phái. Từ khi hoàng nữ hiệp truyền cho Quách tổ sư đến giờ, chỉ có người trưởng môn mới biết được sự bí mật của chuyện đó thôi. Con thử nghĩ xem đao Ðồ Long và kiếm Ỷ Thiên kiếm đều là hai môn khí giới sắc bén vô cùng, bất cứ việc gì cứng rắn đến đâu cũng chịu không nổi hai thứ khí giới đó. Cho nêm dù có người lấy được bảo kiếm, bảo đao cùng một lúc, không ai dám mạo hiểm dùng đao kiếm chém lẫn với nhau như thế. vì họ thế nào cũng sợ hủy mất hai môn khí giới vô giá kia. Con lấy được binh pháp xong, kiếm một người nào lương thiện mà lại có lòng thành yêu nước, con đưa binh pháp cho người ấy học tập và bắt họ thề phải xua đuổi được quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi. Còn bí kiếp võ công thì con giữ lại để tự luyện.

Trong đời ta có hai nguyện vọng, một là xua đuổi được quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi phục lại sơn hà xã tấc, hai là làm thế nào để cho võ công của phái Nga Mi được đứng trên các môn phái khác để trở nên đệ nhất môn phái trong võ lâm Trung Nguyên. Hai việc ấy nói ra thì khó thực, nhưng bây giờ đã có lối đi tới đích rồi, con chỉ cần tuân theo mệnh lệnh của ta là được. Như vậy, ta ở dưới chín suối cũng yên vong hồn. Nếu hồn ta linh thiêng, ta sẽ phù hộ cho con…

Sư thái vừa nói tới đó thì Lộc Trượng Khách lại gỏ cửa , liền nói vọng ra:

– Cứ vào đi.

Cánh cửa hé mở, người bước vào không phải Lộc Trượng Khách mà lại là Khổ Ðầu Ðà, Sư thái không ngạc nhiên chút nào, trong lòng nghĩ thầm:

– Bọn này cá mè một lứa, tên nào cũng thế cả.

Bà ta lại nói với Khổ Ðầu Ðà rằng:

– Ngươi đem con nhỏ này ra khỏi kia đi.

Bà ta không muốn tự vận trước mặt Chỉ Nhược sợ nàng yếu bóng vía chịu không nổi sự khích động lớn lao ấy.

Ngờ đâu Khổ Ðầu Ðà lại đến gần khẽ nói:

– Ðây là thuốc giải độc, uống vào chất độc trong người sẽ hết liền. Bà uống ngay đi, chờ lát nữa bên ngoài có tiếng kêu la ai nấy đều đồng tâm hợp lực xông pha ra khỏi nơi đây.

Sư thái ngạc nhiên hỏi:

– Các hạ là ai, sao bỗng dưng lại tặng thuốc giải cho bần ni như thế?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

– Tại hạ là Phạm Dao Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo lấy trộm được thuốc giải, đặc biệt tới đây sẽ cứu Sư thái.

Diệt Tuyệt Sư thái nổi giận quát mắng:

– Gian tặc của Ma Giáo kia, giờ phút này còn tới đây đùa giỡn ta ư?

Khổ Ðầu Ðà vẫn tươi cười đáp:

– Thôi, thì coi như tôi lại tới đây đùa giỡn Sư thái đi, đây là một thứ thuốc độc mạnh quá sức tưởng tượng, chẳng hay Sư thái có đủ can đảm để uống không? Uống thuốc này chỉ trong một tiếng đồng hồ thì ruột thành từng khúc liền, chết một cách thê thảm không sao cứu được.

Sư thái không nói năng gì hết, liền cướp lấy thuốc bột, bỏ luôn vào mồm nuốt chửng.

Chỉ Nhược kinh hãi kêu la:

– Sư phụ cứu con, cứu con sư phụ…

Khổ Ðầu Ðà giơ tay khác ra và quát bảo:

– Cấm không được nói năng chi hết, cô cũng phải uống thuốc độc nầy đi.

Chỉ Nhược càng kinh hãi thêm. Nàng chưa kịp quyết định ra sao đã bị Khổ Ðầu Ðà bóp mồm đổ thuốc bột và thuận tay đổ thuốc một chai nước trong vào mồm nàng nữa. Sư thái thấy vậy cả kinh, liền nghĩ thầm:

– Nếu Chỉ Nhược chết thì kế hoạch của ta hư hết!

Nghĩ đoạn, bà ta liền nhảy xổ lại giơ tay lên đánh Khổ Ðầu Ðà, nhưng lúc bấy giờ Sư thái đã mất hết nội lực, nên bị Khổ Ðầu Ðà khẽ đẩy một cái đã bắn vào vách tường liền. Khổ đầu vừa cười vừa nói tiếp:

– Các sư của phái Thiếu Lâm, các vị hiệp sĩ của phái Võ Ðang đều uống thuốc độc nầy của chúng tôi. Giáo đồ của Minh Giáo chúng tôi xấu tốt ra sao sẽ hiểu liền.

Nói xong y ha hả cười và quay mình đi ra khỏi phòng, thuận tay khép luôn cánh cửa lại.

Thì ra Khổ Ðầu Ðà hộ tống Triệu Minh đi gặp Vô Kỵ xong, trong lòng chỉ lo nhớ việc cướp thuốc giải. Cho nên Triệu Minh bảo y ở bên ngoài đợi chờ, nhưng y khỏi khách điếm trở về chùa Vạn Pháp liền. Về tới chùa y lên thẳng bảo tháp, tới phòng Du Long Tử ở trên tầng cao nhất. Y thấy Long Tử đang đứng ngoài cửa phòng, vừa thấy y tới Tử Long đã cung kính chào liền:

– Khổ đại sư.

Khổ Ðầu Ðà gật đầu, trong lòng cười thầm và nghĩ:

– Hay lắm, lão già họ Lộc làm sư phụ mà không tôn kính y núp trong phòng hú hí với ái cơ của Vương gia lại gọi đồ đề đứng ngoài cửa canh gác cho như vậy, sao ta không nhân lúc y đang khoái lạc mà cướp thuốc giải?

Nghĩ đoạn, y liền cúi khom người lại đi qua cạnh Du Long Tử đột nhiên giơ tay ra điểm luôn vào huyệt ở bụng dưới của tên đó. Vì không đề phòng, Du Long Tử bị diểm trúng yếu huyệt một cách bất ngờ, đứng đờ người ra, không sao cử động được, trong lòng ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Không hiểu ta thất lễ gì với Ðầu Ðà câm này mà y lại ra tay điểm huyệt ta như thế? hay là vừa tôi ta chào y như vậy chưa được cung kính?

Khổ Ðầu Ðà đẩy cửa vào trong phòng, nhanh như điện chớp, nhảy xổ lên trên giường. Chân chưa chấm mặt ván, y đã giơ chưởng lên tấn công người nằm trên giường liền. Y biết võ công của Lộc Trượng Khách lợi hại lắm. Nếu chưởng đó không đánh được đối chủ bị trọng thương thì thế nào cũng tránh không khỏi một trận đấu chí tử, cho nên y đã dùng mười thành kỉnh lực ra đánh chưởng ấy. Chỉ nghe thấy kêu bộp một tiếng, chăn bông đã bị rách tan tành.

Y lật chăn lên xem, thấy Hàn Cơ đã hộc máu mồm máu mũi ra chết, mà không thấy hình bóng Lộc Trượng Khách đâu cả. Y sực nghĩ ra một kế, vội ra ngay ngoài cửa phòng, lôi Du Long Tử vào nhét luôn xuống dưới gầm giường, y vừa khép cửa lại, đã nghe Lộc Trượng Khách ở ngoài cửa, giận dữ quát mắng:

– Long Nhi, Long Nhi, sao mi dám tự tiện rời khỏi nơi đây?

Thì ra Lộc Trượng Khách ở ngoài cửa phòng của Diệt Tuyệt Sư thái chờ một hồi lâu, trong bụng nghĩ thầm:

– Hai mẹ con mụ ấy cứ nói chuyện với nhau mãi như vậy, không biết nói tới bao giờ mới xong?

Y lại nghĩ tới Hàn Cơ nên trở về phòng Du Long Tử tức thì. Y không thấy tên đại đệ tử đứng ở bên ngoài cửa canh gác, trong lòng tức giận vô cùng, liền đẩy cửa phòng ra. May thay y thấy không có gì lạ và cả thấy Hàn Cơ vẫn đắp chăn quay mặt vào trong trường như trước. Y liền đóng cửa lại, rồi quay người vừa cười vừa nói:

– Mỹ nhân của ta ơi, để ta giải huyệt cho mỹ nhân, nhưng mỹ nhân đừng có lên tiếng nhé.

Vừa nói y vừa thò tay vào trong chăn, nhưng tay của y vùa đụng tới lưng của Hàn Cơ thì đột nhiên thấy cổ tay bị nắm chặt, như có một cái kềm sắt lại vậy. Thế rồi chân tay và mình mẩy mềm nhũn, không còn một chút hơi sức nào hết, rồi y thấy chăn bông bật tung ra, Khổ Ðầu Ðà đang nằm đó và ngồi nhổm dậy liền.

Khổ Ðầu Ðà nắm chặt lấy mạch môn ở cổ tay của Lộc Trượng Khách rồi giơ tay của Lộc Trượng Khách rồi giơ tay trái ra điểm luôn mười chín đại huyệt của tên Phiên tăng

Thế là phiên tăng mềm nhũn, ngã lăn ra đất, không sao cử động được nữa, hai mắt chỉ lộ vẻ hờn giận thôi.

Khổ Ðầu Ðà chỉ tay vào mặt y và nói:

– Xưa nay lão phu đi không đổi họ, ngồi không cãi tên, ta dây chính là Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo, họ Phạm tên là Dao. Ngày hôm nay, ngươi đã bị mắt hỡm ta rồi. Ngươi vẫn tự phụ là người có mưu trí tuyệt luân, nhưng sự thật ngươi chỉ là một tên ngu xuẩn đần độn. Nếu lúc ày ta giết ngươi ngay thì ta không phải là anh hùng hảo hán. Ta để cho ngươi sống sót, nếu ngươi có can đảm, sau này cứ việc kiếm Phạm Dao mà trả thù.

Y sợ Lộc Trượng Khách nội công rất thâm hậu, có thể vận khí tự giải lấy huyệt được, cho nên y nắm chân tay của đối thủ bẻ luôn mấy cái. Chỉ nghe thấy mấy tiếng kêu “lách cách”, xương chân và tay của Lộc Trượng Khách đã bị gãy liền.

Tuy vậy, Phạm Dao vẫn chưa thôi, còn cởi hết quần áo của Lộc Trượng Khách để Lộc Trượng Khách nằm chung với Hàn Cơ, rồi lấy chăn phủ lên, một sống một chết. xong đâu đấy, y mới lấy xong trượng sừng hưu của Lộc Trượng Khách ra, mở chốt đầu trượng, lấy hết thuốc giải đem đi các phòng chia cho Không Văn đại sư, Tống Viễn Kiều, Dư Liên Châu các người uống.

Y tới phòng Sư thái là cuối cùng thấy Sư thái không tin là thuốc giải, nên y mới dọa nát, bảo là thuốc độc.

Ðưa hết thuốc giải cho mọi người uống xong, y đang đắc chí bỗng nghe thấy dưới tháp có tiếng người ồn ào, có cả tiếng của Hạt Bút Ông.

Y liền trõ Hạt Bút Ông nói:

– Khổ Ðầu Ðà gian tế, phải bắt y cho mau.

Khổ Ðầu Ðà nghĩ:

– Nguy tai, nguy tai, không hiểu ai đó ra tay cứu tên này thoát nạn?

Y nhìn xuống dưới tháp, thấy Hạt Bút Ông đang dẫn theo một bọn võ sĩ và đang vây bảo tháp rất chặt chẽ. Y lại thấy Tôn Tam Hủy với Lý Tứ Thôi đang giương cung, nhắm đầu của y bắn tới mồm thì mắng chửi:

– Ác tặc Ðầu Ðà kia, mi hại chúng ta thảm khốc lắm.

Thì ra Hạt Bút Ông ba người bị điểm huyệt như vậy, nhất thời không thể nào thoát khỏi được và chúng bị nhốt trong phòng Lộc Trượng Khách thì người khác cũng không dám đương nhiên xông vào.

Ngờ đâu vừa gặp các võ sĩ của Vương phủ phái ra khám xét để tìm kiếm tung tích của Hàn Cơ, vì có người biết Lộc Trượng Khách binh xinh rất hiếu sắc, nên mới nghĩ tên phiên tăng này đã bắt cóc ái cơ của Vương gia đem về hưởng lạc.

Tuy mọi người nghi ngờ như vậy, nhưng xưa nay họ vẫn sợ anh em Lộc Trượng Khách, nên không một tên nào dám ra tay vuốt râu cọp trước. Vì thế không ai dám vào phòng Lộc Trượng Khách để khám xét cả. Sau đó tên võ sĩ bé nhỏ đến gõ cửa phòng Lộc Trượng Khách là Hạ Lỗ Xích Hoa nghĩ ra được một kế, liền sai một tên võ sĩ y đoán chắc Lộc Trượng Khách là người có địa vị cao quý như thế, dù có nổi giận, cũng không bao giờ lại đánh đập một tên tiểu võ sĩ hèn kém như vậy.

Không ngờ y thấy tên tiểu võ sĩ gõ luôn mấy tiếng mà trong phòng trông thấy một ai trả lời cả, y liền bảo tên tiểu võ sĩ đó cứ việc đẩy cửa vào bừa đi.

Ngờ đâu tên tiểu võ sĩ vừa đẩy cửa ra chúng đã trông thấy Hạt Bút Ông, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi nằm ở dưới đất.

Lúc ấy Hạt Bút Ông vận nội công để tự giải huyệt lấy.

Ðã giải được ba bốn thành, Hạ Lổ Xích Hoa liền chạy lại, giúp đỡ một tay, nên chỉ trong phút chốc, là y đã giải hết cácyếu huyệt liền.

Y tức giận vô cùng hỏi Lộc Trượng Khách với Khổ Ðầu Ðà hiện giờ ở đâu.

Sau khi Khổ Ðầu Ðà và Lộc Trượng Khách đang ở trên bảo tháp y liền dẫn bọn võ sĩ đi bao vây và lớn tiếng hò reo, kêu gọi Khổ Ðầu Ðà xuống quyết chiến.

Khổ Ðầu Ðà đang phân vân vì thuốc giải chưa ngấm thì Hạt Bút Ông lại lớn tiếng kêu gọi:

– Tên Ðầu Ðà chết bầm kia, nếu mi không xuống thì ta lên ngay đây!

Khổ Ðầu Ðà vội quay trở vào phòng Du Long Tử lấy chăn cuốn chặt Lộc Trượng Khách với Hàn Cơ rồi đem ra bên ngoài, giơ cao hai người lên rồi lớn tiếng bảo:

– Lão già họ Hạt kia, nếu mi đi tới gần cửa tháp một bước là ta vứt tên dâm đồ họ Lộc này xuống liền.

Các võ sĩ đưa cao bó đuốc lên, bốn bên chiếu sáng như ban ngày, nên bảo tháp tuy cao thật nhưng chúng ở bên dưới vẫn trông thấy rõ mặt của Lộc Trượng Khách với Hàn Cơ. Hạt Bút Ông cả kinh lớn tiếng hỏi:

– Sư ca! Sư ca có gì không?

Y gọi luôn mấy tiếng không thấy Lộc Trượng Khách trả lời tưởng sư ca của y đã bị Khổ Ðầu Ðà giết chết, trong lòng lại đau đớn thêm. Y lại nói tiếp:

– Tặc Ðầu Ðà kia! Mi giết chết sư ca ta, ta thề không đội trời chung với mi.

Khổ Ðầu Ðà dùng khủyu tay thích mạng vào người Lộc Trường Khách một cái, để giải yếu huyệt câm cho y.

Lộc Trượng Khách liền lớn tiếng mắng chửi:

– Tặc Ðầu Ðà là gian tế, nội ứng ngoại hợp, ta phải chém mi nghìn vạn nhát đao…

Khổ Ðầu Ðà khi nào chịu để cho Lộc Trượng Khách mắng chửi, liền điểm luôn vào yếu huyệt câm. Hạt Bút Ông thấy sư huynh chưa chết trong lòng hơi yên. Nhưng y sợ Khổ Ðầu Ðà ném sư huynh xuống đất thì nguy tai, nên y không dám tới gần nữa.

Hai bên cầm cự với nhau hồi lâu, Hạt Bút Ông vẫn không dám lên cứu sư huynh. Khổ Ðầu Ðà chỉ mong kéo dài được thời gian, càng lâu càng hay.Y đứng cạnh lan can hả hả cười gọi:

– Lão già họ Hạt kia! Sư huynh của ngươi táo gan bắt cóc Ái Cơ của Vương gia. Nay ta đã bắt được tại trận đôi gian phu dâm phụ. Sao ngươi còn dám binh vục sư huynh của ngươi?

Hạ Tống Quản! Mi có mau bắt lão họ Hạt đi không? Bắt lấy Hạt Bút Ông thì thế nào Vương gia cũng phải trọng thưởng nhà ngươi.

Hạ Lổ Xích Hoa liếc nhìn Hạt Bút Ông ra tay bắt nhưng lại sợ.y thấy Khổ Ðầu Ðà đột nhiên nói được lại thấy rõ Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ bị quấn chặt trong chăn bông bèn lên tiếng gọi:

– Khổ đại sư! Chúng tôi cùng mời Khổ đại sư xuống đây để chúng ta cùng đi đến Vương gia để coi ai phải ai trái. Ba vị toàn là bậc tiền bối cao nhân, tiểu nhân không dám xúc phạm.

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

– Trở về Vương phủ gặp Vương gia để chờ tới khi biết rõ ai phải, ai trái các vị hào hiệp đã tỉnh táo rồi.

Nghĩ đoạn y liền lớn tiếng đáp:

– Hay lắm! Hay lắm ta đang định gặp Vương gia để lãnh thưởng. Hạ tống quản hãy coi chừng lão già họ Hạt này đào tẩu.

Ðang lúc ấy, có tiếng ngựa từ đàng xa đưa tới, một người cỡi ngựa phi về phía bảo tháp. Các võ sĩ vừa thấy y đã cúi đầu vái chào:

– Tiểu Vương Gia.

Khổ Ðầu Ðà đứng ở trên cao dòm xuống trông thấy người đó đội mảo vàng, mình mặc áo cẩm bào, chính con trai của Nhữ Dương Vương tên là Khố Khố Ðặc Mục Nhỉ tên hắn là Vương Bảo Bảo.

Y đang lớn tiếng quát bảo:

– Hàn Cơ đâu? Vương gia đang nổi giận bảo ta tới đây điều tra xem.

Hạ Lổ Xích Hoa tiến lên bẩm rõ sự thể cho Vương Bảo Bảo hay là Lộc Trượng Khách đã bắt trộm Hàn Cơ đem tới đây và bị Khổ Ðầu Ðà bắt được.

Hạt Bút Ông thấy Tổng quản nói như thế vội cãi:

– Thưa Tiểu vương gia, Tiểu vương gia chớ nghe y nói bậy, tên Khổ Ðầu Ðà kia mới là gian tế, y đã hãm hại đại sư của…

Vương Bảo Bảo trợn ngược đôi lông mày, lớn tiếng nói:

– Tất cả xuống đây nói chuyện.

Khổ Ðầu Ðà làm việc trong Vương phủ lâu năm biết Vương Bảo Bảo là người rất khôn ngoan và mẫn cán, còn hơn cả cha y, quỷ kế của mình chỉ có thể lừa dối được kẻ khác chứ không thể lừa dối được Tiểu vương gia này đâu. Y tự biết xuống dưới tháp nói chuyện chỉ đôi ba lời là Tiểu vương gia biết mưu kế của mình liền. Như vậy các võ sĩ sẽ xông lại vây đánh, riêng Hạt Bút Ông y chưa chắc đã thắng nổi, nhưng y muốn thoát thân không phải là khó, chỉ sợ các hào hiệp ở trong bảo tháp, chưa hồi sức khỏe thì không sao thoát khỏi vòng vây được. Sau khi suy tính, thấy không còn cách gì đánh lừa Vương Bảo Bảo nữa, liền lớn tiếng trả lời:

– Tiểu vương gia, tôi đã bắt được Lộc Trượng Khách, sư đệ của y tức giận tôi lắm. Nếu tôi xuống dưới đó thế nào y cũng xông lại giết tôi.

Vương Bảo Bảo lại nói:

– Ðại sư cứ xuống đây đi. Hạt tiên sinh không dám giết đại sư đâu.

Khổ Ðầu Ðà lắc đầu đáp:

– Tôi ở trên tháp vẫn bình yên hơn, bình sinh Khổ Ðầu Ðà tôi không lên tiếng nói bao giờ, ngày hôm nay bất đắc dĩ tôi mới phải mở mồm như vậy. Ðó là lòng trung thành của tôi báo đáp Vương gia đấy. Nếu Tiểu vương gia không tin thì Khổ Ðầu Ðà tôi sẽ ở đây nhảy xuống tự tử để cho Tiểu vương gia tin.

Vương Bảo Bảo nghe lời nói của Ðầu Ðà biết ngay đối phương nói dối, hiển nhiên có ý muốn kéo dài thời gian, nên y vội khẽ hỏi tên Hạ Tổng quản rằng:

– Hạ Tổng quản, y định mưu mô gì mà kéo dài thời gian ra như thế? Hay là y định chờ ai tới.

Hạ Tổng quản đáp:

– Ðiều đó tiểu nhân không được biết…

Hạt Bút Ông lại cười lời nói:

– Thưa Vương gia, tặc Ðầu Ðà đã cướp thuốc giải của sư ca rồi đều giải cứu cho những tên phản loạn bị giam giữ ở trên bảo tháp.

Vương Bảo Bảo vừa nghe nói tỉnh ngộ ngay, liền ngửng mặt về phía trước, lớn tiếng kêu gọi:

– Khổ đại sư, tôi biết công lao của đại sư rồi, vậy hãy mau xuống đây, tôi sẽ trọng thưởng cho.

Khổ Ðầu Ðà đáp:

– Tôi bị Lộc Trượng Khách đá phải, hiện giờ xương chân của tôi không thể nào cử động được, Tiểu vương gia hãy chờ giây lát để tôi vận khí chữa thương cho lành mạnh đã, rồi tôi sẽ xuống ngay.

Vương Bảo Bảo quát bảo Hạ Tống quản rằng:

– Hạ Tổng quản, mau cho người lên trên đó khiêng Khổ đại sư xuống đây.

Khổ Ðầu Ðà vội lớn tiếng đáp:

– Không được, không được, ai đụng vào người tôi, tất thân tôi bị phế liền.

Lúc ấy Vương Bảo Bảo hết hoài nghi, vì y trông thấy Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ cũng bị quấn trong một chăn bông. Dù hai người đó không có bậy bạ với nhau thì phụ vương cũng không thể nào lấy Hàn Cơ được nữa, nên y liền khẽ dặn:

– Hạ Tổng quản, mau lấy lửa lại đây đốt cháy bảo tháp này và sai người dùng cung tên, hễ thấy ai nhảy ra khỏi tháp là bắn chết ngay.

Hạ Lổ Xích Hoa vâng lời vội vã đi truyền lệnh cho bộ hạ ngay. Liền có bọn cung tiễn thủ tới bao vây bảo tháp, tên nào tên nấy đều giương cung đợi chờ. Còn một số võ sĩ khác thì đi lấy rơm cỏ và củi lửa đến châm đốt.

Hạt Bút Ông thấy vậy kinh hãi vô cùng vội nói:

– Tiểu vương gia, sư ca ở trên đó đấy.

Vương Bảo Bảo lạnh lùng đáp:

– Chẳng lẽ cứ để tên Ðầu Ðà ở trên đó suốt đời hay sao? Bây giờ ta cho phóng hỏa như vậy thì y phải xuống liền.

Hạt Bút Ông lại nói tiếp:

– Nếu y ném sư ca tôi xuống đất thì làm sao? Tiểu vương gia không nên phóng hỏa như vậy.

Vương Bảo Bảo không nói năng gì hết và cũng không điếm xỉa gì đến Hạt Bút Ông.

Giây lát sau, các võ sĩ đã lấy đủ củi và rơm tới liền đánh lửa đốt cháy luôn.

Hạt Bút Ông là người có địa vị rất cao trong võ lâm được Nhữ Dương Vương dùng hậu lễ mời vào vương phủ giúp việc, cho nên từ trước đến giờ anh em y được vương gia kính trọng. Không ngờ ngày hôm nay anh em y đã trúng kế của Khổ Ðầu Ðà và bị Tiểu vương gia khinh thị, đồng thời y thấy tính mạng của sư huynh y sắp nguy đến nơi.

Lúc này y cũng không nể Tiểu vương gia nữa, liền cằm đôi bút mỏ bạc, tung mình nhảy tới tấn công hai tên võ sĩ đang đánh lửa đốt bảo tháp và gạt chúng bắn ra ngoài xa.

Vương Bảo Bảo vội quát mắng:

– Hạt tiên sinh định phạm thượng và làm loạn phải không?

Hạt Bút Ông đáp:

– Nếu Tiểu vương gia không bảo người phóng hỏa thì không bao giờ tôi chống Tiểu vương gia cả.

Vương Bảo Bảo không thèm trả lời y và quát bảo bọn võ sĩ.

– Mau châm lửa ngay.

Y giơ tay trái phảy một cái, đột nhiên phía sau lưng của y có năm tên phiên tăng áo đỏ nhảy tới ra đỡ lấy mấy bó đuốc của võ sĩ ném luôn vào đống rơm cỏ và những thanh củi. Rơm cỏ gặp lửa liền bốc cháy ngay.

Hạt Bút Ông thấy vậy cả kinh vội cướp một dây trường mâu của một tên võ sĩ xông lại gạt những rơm cỏ đang cháy ra ngoài.

Vương Bảo Bảo lại quát lớn:

– Mau bắt lấy tên phản tặc này cho ta.

Năm tên phiên tăng áo đỏ liền múa giới đao xông lại bao vây Hạt Bút Ông, thấy vậy Hạt Bút Ông tức giận vô cùng, liền vứt trường mâu đi và giơ tay lên cướp khi giới của một tên phiên tăng. Không ngờ tên phiên tăng đó không phải là một tay tầm thường, y vội xoay lưỡi đao, nhắm đầu vai của đối thủ chém luôn.

Hạt Bút Ông vừa nhảy sang bên tránh né thì phía sau lại có tiếng gió lấn át tới.

Y liền quay đầu lại nhìn mới hay là có hai tên phiên tăng đang múa đao chém tới.

Thì ra năm tên phiên tăng đó là những người thân tín nhất của Vương Bảo Bảo. Chúng thuộc bọn Thiên long Thập Bát Bộ, khi nào Vương Bảo Bảo ra khỏi vương phủ cứ thích cỡi ngựa đi một mình ở phía trước, còn mười tám tên phiên tăng theo sau, nhưng ở đằng xa để bảo vệ thôi chứ không dám tới gần. Bọn Thiên Long Thập Bát Bộ có tất cả ngũ đao ngũ kiếm, tứ trượng tứ bạt. Năm người này đều thuộc nhóm ngũ thần đao, người nào người nấy đều tài nghệ xuất sắc. Nếu một đấu với một thì năm người đó không phải là địch thủ của Hạt Bút Ông, nhưng năm thần đao liên hiệp, công thủ tương trợ thì võ công của Hạt Bút Ông có cao siêu đến đâu cũng chỉ có thể chống đỡ được một hồi, rồi chân tay sẽ bị cuống quýt liền. Ðồng thời y thấy ngọn lửa càng bốc càng cao, hoàn cảnh của sư huynh y rất nguy hiểm, cho nên càng đấy càng tức giận thêm.

Hạt Bút Ông bị Thiên Long ngũ đao bao vây, các thủ hạ của Vương Bảo Bảo liền thêm củi cho ngọn lửa càng cháy cao thêm.

Chỉ trong chốc lát lửa đã bao trùm hết tầng dưới của bảo tháp đó rồi. Khổ Ðầu Ðà đặt Lộc Trượng Khách xuống, chạy vào phòng của quần hiệp phái Võ Ðang đang bị giam giữ và lớn tiếng kêu gọi:

– Quân Thát Ðát đang phóng hỏa đốt tháp, chẳng hay nội lực của các vị đã khôi phục chưa?

Y thấy Tống Viễn Kiều và Dư Liên Châu các người đang ngồi vận công điều nguyên, không một ai trả lời y cả.

Hiển nhiên công lực của các người đó sắp khôi phục được.

Lúc ấy bọn võ sĩ canh gác quần hiệp đã có mấy tên xông lại can thiệp.

Nhưng chúng bị Khổ Ðầu Ðà túm cổ từng tên một, mém ra ngoài tháp.

Rớt xuống bên dưới chết tốt. Còn một số võ sĩ không dám kháng cự với Khổ Ðầu Ðà đều mạo hiểm chạy xuống từng dưới cùng.

Cũng không có một vài tên thấy cầu thang bị lửa bén tới, không sao xuống được, đành phải quay trở lên.

Một lúc sau, lửa bén lên tới từng thứ ba, người bị giam giữ trong đó là các tay cao thủ của phái Hoa Sơn.

Chúng không đợi chờ công lực khôi phục, liền chạy ra ngoài và leo thẳng lên từng thứ tư.

Ngọn lửa càng bốc cháy cao, những người bị giam từng thứ tư là các cao thủ của phái Không Ðộng.vì thấy lửa cháy đã tới nới, người của phái Không Ðộng cùng phái Hoa Sơn đều rũ nhau leo lên từng thứ năm Có người chạy chậm bị cháy xém cả râu tóc. Khổ Ðầu Ðà đang vô kế khả thi, nóng lòng sốt ruột vô cùng, bỗng nghe một người lớn kêu gọi:

– Phạm Hữu sứ hãy tiếp lấy.

Y nhận ngay ra tiếng nói đó là Vi Nhất Tiếu.

Y mừng rỡ vô cùng, liền quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng nói đó.

Y thấy Nhất Tiếu đứng ở trên đỉnh hậu diện của chùa Vạn Pháp, hai tay đang tung một sợi dây thừng tới.

Khổ Ðầu Ðà vội giơ tay ra bắt lấy sợi dây thừng đó.

Nhất Tiếu lên tiếng nói tiếp:

– Hữu sứ cột một đầu dây thừng vào lan can, để dùng sợi dây thừng này làm cái cầu dây.

Khổ Ðầu Ðà vừa cột xong đầu dây thừng thì Triệu Nhất Thương trong nhóm Thần Tiễn bát hùng đã bắn một mũi tên lên trúng ngay sợi dây thừng đứt tức thì.

Khổ Ðầu Ðà với Nhất Tiếu cùng lớn tiếng mắng chửi, nhưng hai người biết tiễn pháp của bát hùng rất lợi hại. Vậy muốn treo một cầu dây này thì phải diệt trừ tám người kia trước.

Nhất Tiếu lại lên tiếng mắng chửi:

– Tên khốn nạn kia, ai bảo mi bắn như thế? nếu tên nào không vứt cung tên xuống, ta sẽ giết tên đó trước.

Y vừa chửi vừa rút khí giới ra, và tung mình nhảy xuống mặt đất. Khí giới của y là một đôi Hổ đầu câu. Xưa nay y không xử dụng tới khí giới đó, nhưng lần này tình thế rất nguy ngập, nên y mới động dụng tới song câu như vậy. Y vừa nhảy xuống tới mặt đất, năm tên phiên tăng áo bào xanh đã múa kiếm xông lại vây đánh liền.

Năm tên phiên tăng này thuộc ngũ kiếm tăng của nhóm Thiên Long thập bát bộ, kiếm pháp của năm người này rất quái dị. Chúng vừa tới nơi, đã tấn công Nhất Tiếu lia lịa liền.

Hạt Bút Ông vừa khổ chiến vừa lớn tiếng kêu gọi:

– Nếu Tiểu vương gia không ra lệnh dập tắt ngọn lửa đi thì tôi sẽ không vị nể nữa đâu.

Vương Bảo Bảo không thèm đếm xỉa đến y nhưng bốn tên phiên tăng cầm thiên trượng đã chạy tới đứng quanh Tiểu vương gia để hộ vệ.

Hạt Bút Ông lòng sốt ruột vô cùng, liền dùng một thế hoành Tảo Thiên quân quét ngang một cái gạt luôn ba tên phiên tăng trước mặt sang bên rồi nhảy đến cạnh bảo tháp.

Năm tên phiên tăng đều đuổi theo.

Hạt Bút Ông nhún mình một cái, tựa như con chim đại bàng nhảy lên trên mái hiên của tầng thứ nhất.

Năm tên phiên tăng thấy lửa cháy như vậy không dám đuổi theo.

Hạt Bút Ông nhảy hết từng này sang từng nọ.

Chỉ thoáng cái y đã nhảy lên tới từng thứ tư rồi.

Khổ Ðầu Ðà ngó đầu xuống nhìn và hai tay nâng người Lộc Trượng Khách lên, vừa cười vừa nói:

– Hạt lão nhị có chịu dừng chân lại không, bằng không ta sẽ ném sư huynh ngươi xuống đất bị tan xương nát thịt ngay.

Quả nhiên Hạt Bút Ông ngừng chân lại không dám nhảy lên nữa chỉ ngửng đầu lên lớn tiếng trả lời:

– Khổ đại sư, xưa nay Khổ đại sư với chúng tôi không thù oán gì hết, hà tất đại sư làm khó dễ chúng tôi như thế? đại sư muốn cứu người yêu cũ là Diệt Tuyệt Sư thái và con gái là Chu cô nương thì cứ việc cứu đi, tôi quyết không còn cản trở đâu.

Diệt Tuyệt Sư thái uống thuốc giải của Khổ Ðầu Ðà đưa cho tưởng là thuốc độc thật nên yên chí thế nào cũng chết, nhưng bà ta thấy Chỉ Nhược cũng bị Khổ Ðầu Ðà cho uống thuốc độc nốt, như vậy kế hoạch của bà ta bị tiêu tan hết, cho nên bà ta đau đớn vô cùng.

Ðang đau lòng thì bỗng nghe dưới bảo tháp có tiếng ồn ào vọng tới, tiếp theo đó bà ta nghe Khổ Ðầu Ðà cãi nhau với Hạt Bút Ông và Vương Bảo Bảo ra lệnh phóng hỏa v.v… đều rõ mồn một.

Bà ta ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ Ðầu Ðà quỉ quái đó đến cứu ta thực chăng?

Nghĩ đoạn, Sư thái ngấm ngầm vận sức thử xem, thấy trong người rất dễ chịu chứ không có triệu chứng gì là trúng độc cả.

Thì ra Diệt Tuyệt Sư thái không chịu nghe lệnh của Triệu Minh xuống dưới đại điện tỷ võ, nên đã tuyệt thực sáu bảy ngày. Vì vậy trong dạ dầy trống rỗng, nên thuốc giải vừa vào dễ hòa với máu liền, nên Diệt Tuyệt Sư thái chóng khỏi hơn ai hết, lại thêm nội lực của Sư thái rất thâm hậu cao hơn Viễn Kiều, Liên Châu, Thái Sung chỉ kém Không Văn thần tăng trưởng môn phái của phái Thiếu Lâm, khi thuốc độc đã hết thì nội lực nẩy nở ra liền. Không đầy nửa tiếng đồng hồ nội lực của bà ta đã khôi phục lại hơn năm sáu thành.

Bà ta đang vận nội lực bỗng nghe Hạt Bút Ông bên ngoài kêu gọi.

Tiếng nói của Hạt Bút Ông, mỗi tiếng như một mũi tên đâm sâu vào Sư thái vẫn lắng tai nghe Hạt Bút Ông nói:

– Bạn muốn cứu người tình nhân cũ của bạn là Diệt Tuyệt Sư thái và con gái là Chu cô nươn thì hãy cứu đi, tôi không bao giờ cản trở bạn đâu.

Diệt Tuyệt Sư thái đi tu từ hồi nhỏ, không bao giờ dám trông mặt người đàn ông nào cả thì làm gì có người yêu, nên khi nghe tới đó là tức giận không sao chịu nổi, liền bước đi ra ngoài lan can giận dữ quát mắng:

– Ngươi nói bậy bạ như vậy làm chi?

Hạt Bút Ông van lơn:

– Lão Sư thái, mau mau khuyên người … người bạn già hãy buông tha sư huynh tôi xuống. Tôi cam đoan cả gia đình Sư thái được rời khỏi nơi đây một cách bình yên. Huyền Minh Nhị lão nói một là một, nói hai là hai không khi nào sai lời.

Diệt Tuyệt Sư thái càng tức giận thêm:

– Cái gì gia đình… ba người nào?

Tuy đang đứng ở chỗ nguy hiểm, Khổ Ðầu Ðà vẫn ha hả cười tỏ vẻ rất đắc chí và nói:

– Lão Sư thái, ông già kia bảo tôi với Sư thái là người yêu cũ với nhau, còn Chu cô nương là con gái của chúng ta.

Diệt Tuyệt Sư thái càng tức giận thêm, trước ánh lửa trông mặt bà ta rất kinh khủng.

Bà ta trầm giọng quát tiếp:

– Hạt lão nhị lên đây, ta sẽ đấu với mi một trăm chưởng rồi sẽ nói chuyện sau.

Nếu là ngày thường Hạt Bút Ông nói lên là lên ngay, chứ có sợ gì một người chưởng môn của phái Nga Mi đâu. Nhưng lúc này vì thấy sư huynh bị lọt vào tay người khác, nên không dám bướng bỉnh, chỉ van lơn tiếp:

– Khổ Ðầu Ðà đó là bạn tự nói ra chứ không phải do tôi bịa đặt.

Sư thái trợn trừng mắt nhìn Khổ Ðầu Ðà và quát hỏi:

– Sao ngươi lại nói như thế?

Khổ Ðầu Ðà ha hả cả cười và đang định thừa cơ chọc tức Sư thái vài câu, thì bỗng nghe thấy dưới tháp có tiếng la ồn ào, liền cúi đầu xuống nhìn. Thấy trong bóng lửa có một người như hồ điệp xuyên hoài, bay múa lẹ làng vô cùng và đồng thời chỉ nghe thấy tiếng kêu “loong coong lẻng kẻng” hoài. Y định thần nhìn kỹ, mới hay tiếng kêu đó là tiếng khí giới của các phiên tăng và võ sĩ bị đánh rớt và người đang tấn công bọn phiên tăng đó chính là Trương Giáo chủ Vô Kỵ.

Vô Kỵ ra tay một cái, đã đánh rớt năm thanh kiếm của năm tên phiên tăng đang bao vây Nhất Tiếu.

Nhất Tiếu cả mừng, liền nhảy tới cạnh chàng và khẽ nói:

– Tôi đi đến Nhữ Dương Vương phủ phóng hỏa nhé?

Vô Kỵ đã hiểu được dụng ý của Nhất Tiếu bèn gật đầu nghĩ thầm:

– Bức Vương hành động rất phải. Ở đây, chúng ta vỏn vẹn có mấy người, muốn cứu bấy nhiêu người ra không phải là chuyện dễ. Hơn nữa quân tiếp viện càng lúc càng nhiều. Bây giờ, Bức Vương phóng hỏa Vương phủ, tất nhiên đám võ sĩ phải trở về bảo vệ Nhữ Dương Vương. Kế điệu hổ ly sơn rất tuyệt diệu.

Nhất Tiếu thoáng một cái đã vượt ra khỏi tường và mất hút.

Hồi thứ 68

Lấy Ðức Báo Oán

Vô Kỵ quan sát tình hình mới lớn tiếng hỏi:

– Phạm Hữu Sứ, công việc tiến hành ra sao?

Khổ Ðầu Ðà vội đáp:

– Nguy lắm rồi, lối đi đã bị lửa bịt kín, không ai có thể thoát được.

Lúc ấy đám Thiên Long thập bát bộ đả có mười bốn phiên tăng xông đến vây đánh Vô Kỵ.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Bắt giặc phải bắt chúa trước. Bây giờ phải bắt Vương Tử kia trước, bắt buộc y phải ra lệnh cho dập tắt ngọn lửa và than mọi người ra.

Nghĩ đoạn, chàng phi thân lướt qua đầu bọn phiên tăng, tới gần Vương Bảo Bảo thì đột nhiên bên trái có một thanh kiếm bay tới, chàng liền kùi lại hai bước, nghe rõ giọng của một thiếu nữ:

– Trương công tử! Ðây là gia huynh Vương Bảo Bảo, công tử đừng đả thương anh ấy.

Vô Kỵ biết người đó là Triệu Minh, tay cầm Ỷ Thiên kiếm chàng vội trả lời.

– Cô nương mau ra lệnh dập tắt ngọn lửa và thả các vị anh hùng ra. Bằng không tôi đành thất lễ với hai vị.

Triệu Minh liền lớn tiếng quát bảo bọn phiên tăng:

– Thiên Long thập bát bộ! Người này võ công lợi hại lắm, mau kết Thiên Long Trận bao vây y.

Mười tám tên phiên tăng vâng lời xông lại bao vây Vô Kỵ.

Vô Kỵ thấy bộ pháp của mười tám phiên tăng đó rất quái dị. Chúng tạo một bức tương người. Chàng định thử thách xem mình có phá nổi Thiên Long trận không?

Bỗng nghe tiếng “bùng” từ trên bảo tháp một cây trụ rớt xuống.

Chàng quay đầu lại nhìn, thấy ngọn lửa đã bén đến từng thứ sáu rồi, có hai người trên đó là Diệt Tuyệt Sư Thái và Hạ Bút Ông.

Cả hai đang đấu kịch kiệt, cạnh lan can. Còn trên tầng cao nhất đứng đầy những cao thủ các môn phái. Võ công của họ chưa phục hẳn mà tầng chót vót lại cách mặt đất mấy chục trượng. Như vậy, dù có kinh công tuyệt đỉnh, nội công chưa mất chút nào, nhảy từ trên đó xuống cũng phải gãy chân què tay. Huống hồ lúc này chưa có một người nào hoàn toàn khôi phục nội lực.

Vô Kỵ sực nghĩ:

– Muốn phá nổi Thiên Long trân này phải tốn nhiều thì giờ huống hồ ta đánh bại bọn này thì lại có bọn khác đến tiếp viện. Ta muốn bắt cóc tên Vương tử kia không phải dễ. Diệt Tuyệt Sư Thái đấu với Hạ Bút Ông hăng hái như thế nội lực của bà ta đã khôi phục lại được rồi. Như vậy các sư bá của ta cũng đã bình phục, nhưng bảo tháp cao quá làm sao họ nhảy xuống được.

Nghĩ đoạn, chàng ngạc nhiên chạy quanh mọi người, hai tay, lúc đánh, lúc bắt, lúc vỗ, lúc cướp, chốc lát đã đánh té Thần Tiễn Bát Hùng và các võ sĩ cầm cung , tất cả cung tên đều bị chàng bẽ gãy hết, chàng vội lớn tiếng gọi:

– Các vị tiền bối ở trên tháp, xin hãy lần lượt nhảy xuống phía dưới đã có tại hạ tiếp đón.

Các vị hào hiệp đứng trên đỉnh tháp nghe Vô Kỵ nói đều ngẩn người suy nghỉ:

– Nơi đây, cách mặt đất những mấy chục trượng, người ta trên này nhảy xuống thì người dưới đất phải có sức khỏe ngàn cân mới đủ sức đỡ được.

Vì vậy phái Không Ðộng và Côn Luân đã có người lên tiếng:

– Không thể nhảy xuống được đâu! Chúng ta đừng mắc hởm tên tiểu tử. Chúng ta nhảy xuống là tan xương, nát thịt ngay.

Vô Kỵ thấy lửa đã bén tới gần tầng thứ bảy mà các cao thủ không chịu nhảy, tất nhiên sẽ chôn xác trong đống lửa. Chàng lên tiếng gọi:

– Thất sư thúc đối với cháu là ân nghĩa, khi nào cháu lại hại sư thúc. Xin sư thúc hãy nhảy xuống trước đi.

Mạc Thanh Cốc rất can đảm nghe Vô Kỵ nói bèn nghỉ thầm:

– Ở lại đây bị thiêu chết, chi bằng nhảy xuống dù có chết vẫn còn xác.

Nghĩ đoạn Thất hiệp trả lời:

– Ðược ta nhảy xuống ngay.

Nói xong liền tung mình nhảy xuống tức thì Vô Kỵ chờ Thanh Cốc rớt xuống còn cách mặt đất chừng bốn thước, liền giơ chưởng khẽ vỗ vào lưng Thanh Cốc.

Chưởng ấy chàng vận dụng Càn Khôn Ðại Nã Di thủ pháp ra khiện cho sức mạnh từ bên trên rớt xuống, chuyển thành từ trái sang phải, nên Thanh Cốc bị đẩy bắn ra ngoài xa mấy trượng. Nhờ công lực đã được khôi phục được bảy tám thành, nên Thanh Cốc xoay người một vòng đã lẹ làng đứng trên mặt đất rồi thuận tay đánh luôn một tên võ sĩ Mông Cổ một chưởng. Tên võ sĩ hộc máu tươi chết tốt.

Tiếp theo đó Thất hiệp lại lớn tiếng kêu gọi:

– Ðại sư ca, nhị sư ca, tứ sư ca lần lượt nhảy xuống ca đi.

Trên tháp, các người thấy Thanh Cốc bình yên vô sự, đều đồng thanh hoan hô.

Viễn Kiều rất thương con, nên muốn Thanh Thư thoát hiểm, liền lên tiếng bảo:

– Thanh Thư con nhảy xuống trước đi!

Từ khi ra khỏi tư thất, Thanh Thư cứ đứng cạnh Chỉ Nhược hoài nên khi nghe cha bảo như vậy, chàng bèn bảo Chỉ Nhược rằng:

– Chu cô nương hãy nhảy trước đi.

Chỉ Nhược thấy công lực của mình chưa khôi phục hẳn, không thể nào ra tay giúp sư phụ được nàng lắc đầu đáp:

– Tôi phải đợi sư phụ tôi.

Lúc ấy Thái Sung, Thục Nhàn lần lượt nhảy xuống.

Hai người đó cũng được Vô Kỵ dùng Càn Khôn Ðại Nã Di cứu giúp thoát hiểm.

Tuy mới khôi phục được năm phần công lực, nhưng những cao thủ cũng đủ đánh bọn phiên tăng và bọn võ sĩ Mông Cổ tơi bời rồi. Thanh Cốc cướp khí giới của kẻ địch liền đến gần bảo vệ Vô Kỵ.

Thủ hạ của Vương Bảo Bảo, Triệu Minh định xông lại không cho Vô Kỵ cứu giúp quần hào, đã bị Thanh Cốc, Thái Sung, Thục Nhàn ngăn lại.

Trên tháp có một người nhảy xuống là Vô Kỵ thêm một người giúp sức.

Từ khi bị Triệu Minh nhốt vào bảo tháp chịu đựng biết bao sự khuất nhục, còn bị chặt đứt một hai ngón tay, nên nay chẳng ai nương tay tha hồ tấn công phiên tăng và võ sĩ Mông Cổ.

Vì vậy, chỉ trong giây lát đã có mười mấy võ sĩ bị đánh chết.

Vương Bảo Bảo thấy tình thế bất lợi bèn ra lệnh:

– Mau điệu đội phi nỏ thân binh của ta tới đây.

Hạ Tổng Quản định truyền lệnh, bỗng thấy phía Ðông Nam có ngọn lửa bốc cao, kinh hãi la lớn:

– Tiểu Vương gia! Vương phủ đang cháy to. Chúng tôi phải bảo vệ Vương Gia trước.

Vương Bảo Bảo lo sợ đến an ninh của cha, nên vội nói:

– Triệu Minh, anh trở về Vương phủ trước, em ở lại chỉ huy. Hãy cẩn thận nghe chưa!.

Không đợi Triệu Minh trả lời Vương Bảo Bảo nhảy lên mình ngựa phóng đi luôn.

Vương Bảo Bảo đi khỏi, mười tám phiên tăng và bọn võ sĩ đều đã bị đánh ngã.

Các võ sĩ khác thấy Vương phủ bị cháy, lại tưởng phản loạn đông lắm tấn công vương phủ, không ngờ có một mình Nhất Tiếu. Bọn chúng vô cùng kinh hoảng.

Lúc ấy Thanh Thư, Viễn Kiều, Liên Châu, Tòng Khê đã nhảy xuống dưới rồi.

Tình thế chuyển ngược.

Phía quần hào càng lúc càng mạnh, Phía Mông Cổ càng lúc càng suy dần.

Khi thấy Không Văn, Không Trí đại sư và các cao tăng của La Hán Ðường, Ðạt Ma Ðường nhảy xuống, các võ sĩ của Triệu Minh biết không thể nào chống cự được nữa.

Triệu Minh vội ra lệnh:

– Các người lui ra khỏi chùa Vạn Pháp.

Rồi nàng quay lại nói với Vô Kỵ:

– Chiều mai mời Trương Giáo chủ lại quán cũ xơi rượu. Thế nào ngày cũng tới đừng để tôi chờ, nhỡ việc.

Vô Kỵ ngẩn người chưa kịp trả lời thì Triệu Minh đã tủm tỉm cười rồi lui vào phía sau điện chùa Vạn Pháp.

Khổ Ðầu Ðà ở trên đỉnh tháp lớn tiếng gọi:

– Chu cô nương, mau nhảy xuống đi, lửa cháy đến nơi rồi mà cô chưa chịu nhảy. Chẳng lẻ cô muốn làm mỹ nhân cháy thành than hay sao?

Chỉ Nhược đáp:

– Tôi còn phải hầu sư phụ tôi.

Diệt Tuyệt sư thái vẫn còn đấu với Hạt Bút Ông. Tuy công lực của bà ta chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng bà ta không coi cái chết vào đâu, chưởng pháp chỉ tấn công chứ không phòng vệ.

Còn Hạt Bút Ông vì mãi lo ngại cho sư huynh nên không tập trung được tịnh thần. Hơn nữa y vừa uống một phần thuốc mê, nên tay chân chẳng còn linh động. Nhờ vậy mà hai người đấu mãi không phân thắng bại.

Sư thái nghe đồ đệ nói vậy, vội lớn tiếng bảo:

– Chỉ Nhược con mau nhảy xuống đi, đừng để ý đến ta. Lão tặc này đã làm nhục ta quá đáng, không khi nào ta tha mạng cho y đâu?

Nghe Sư thái nói, Hạt Bút Ông liền lớn tiếng quát:

– Diệt Tuyệt Sư Thái! Lời nói đó là của Khổ Ðầu Ðà nói ra chứ liên quan gì đến lão đâu.

Diệt Tuyệt Sư Thái vội ngưng tay hỏi Khổ Ðầu Ðà:

– Tên Ðầu Ðà kia, những lời nói điên rồ kia có phải là mi đặt ra không?

Khổ Ðầu Ðà vừa cười vừa đáp:

– Lời nói điên rồ ấy thế nào? Sư thái làm ơn nhắc lại cho Khổ Ðầu Ðà nghe.

Diệt Tuyệt Sư Thái đâu dám nhắc lại những lời đó, nên bà ta càng tức giận hơn và nhận thấy lời của Hạt Bút Ông không ngoa.

Hạt Bút Ông thấy Sư thái quay lưng về phía mình, liền giơ chưởng đánh thật mạnh vào lưng Sư thái.

Chỉ Nhược và Khổ Ðầu Ðà thấy rõ bèn la lớn:

– Sư phụ cẩn thận.

– Lão ni coi chừng.

Diệt Tuyệt Sư Thái vội quay lưng lại chống đỡ nhưng bà ta chỉ đỡ nổi tay trái của Hạt Bút Ông thôi. Còn tay phải của Hạt Bút Ông đánh trúng giữa lưng Sư thái.

Huyền Minh thần chưởng của y rất lợi hại.

Năm xưa trên Võ Ðang chỉ có Trương Tam Phong chống đỡ nổi thần chưởng của Huyền Minh nhị lão thôi. Lúc này, chưởng của y đánh giữa lưng Sư Thái thì Sư Thái chịu đựng sao nổi?

Vì vậy bà ta loạng choạng suýt ngã.

Chỉ Nhược thấy vậy kinh hãi, vội chạy đến đỡ.

Khổ Ðầu Ðà tức giận vô cùng, liền quát lớn:

– Quân tiểu nhân thâm độc kia để mi sống làm gì.

Nói xong, y ném luôn Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ xuống dưới tháp.

Hạt Bút Ông là người rất độc ác, nhưng tình huynh đệ vẫn nặng.

Trong lúc nguy cấp, y không kịp suy nghỉ, vội phóng mình định chụp Lộc Trượng Khách. Nhưng không kịp, y chỉ nắm được một mảnh chăn, còn Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ đều rớt xuống đất.

Vô Kỵ đứng dưới, bị khói bay mù mịt, nên không nhìn rõ những hoạt động phía trên tháp. Chàng bỗng thấy một vật thật lớn rớt xuống như bên trong có người.

Còn khi Hạt Bút Ông nhảy theo xuống, chàng trong thấy rõ. Vốn bản tánh từ thiện, tuy biết Hạt Bút Ông đã làm cho anh đau khổ mấy năm trời thậm chí đến cái chết của cha mẹ cũng liên can đến y, nhưng chàng vẫn không nhẫn tâm đứng nhìn kẻ thù chết tức tưởi, mới nhảy lại giơ song chưởng lên, một tay đánh vào bọc chăn và một tay đánh vào Hạt Bút Ông. Nhờ vậy Hạt Bút Ông với cái chăn kia bị đánh bay ra ba trượng.

Hạt Bút Ông chỉ lộn một vòng đã đứng dậy được và trong lòng kêu thầm:

– Nguy hiểm thực.

Y không ngờ Vô Kỵ lấy đức báo oán, đã ra tay cứu mình thoát chết. Y vội quay lại tìm kiếm sư huynh.

Y giật mình kinh hãi.

Thì ra Vô Kỵ hai tay cùng sử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di thân pháp, đồng thời hoá giải sức mạnh ở hai bên rớt xuống. Như thế không phải là một chuyện dễ, huống hồ trong bọc chăn có Lộc trượng Khách với Hàn Cơ hai người. Tất nhiên sức rớt xuống phải nặng hơn Hạt Bút Ông, nên chàng không thể nào làm được bọc chăn đó rớt theo ý muốn của mình. Ngờ đâu bọc chăng bị chàng đánh trúng mở tung ra, bên trong có hai trần trục lăn ra rớt ngay vào trong đống lửa, Lộc Trượng Khách vẫn bị điểm huyệt không sao cử động được, nên râu tóc bị cháy liền, Hạt Bút Ông lớn tiếng kêu gọi:

– Sư ca!

Rồi y nhảy luôn vào trong đống lửa ôm lấy Lộc Trượng Khách và nhảy ra bên ngoài luôn. Y chưa đứng vững, Dư Liên Châu đã lớn tiếng nói:

– Hãy đỡ một chưởng nầy của ta.

Tam Hiệp vừa nói dứt đã múa chưởng tấn công vào đầu vai của Hạt Bút Ông liền.

Hạt Bút Ông không dám chống đỡ, vội tầm vai xuống để tránh.

Ngờ đâu chưởng của Liên Châu vẫn theo vẫn theo vai của đối thủ mà trầm xuống tấn công, nên có tiếng kêu “chộp” một cái.

Hạt Bút Ông đã đau đến toát mồ hôi lạnh. Nhưng lúc ấy y cần phải cứu người sư huynh trước, nên cứ nghiến răng cam chịu và ôm lấy Lộc Trượng Khánh tung mình nhảy lên tường cao.

Ðang lúc ấy trên tháp có một cây trục lớn cháy đỏ rớt xuống trúng ngay vào xác Hàn Cơ, chỉ trong thoáng cái xác của nàng đã cháy xém.

Những người dưới tháp đều lớn tiếng kêu la:

– Mau nhảy xuống! Mau nhảy xuống! Khổ Ðầu Ðà ở trên đỉnh tháp chạy đi chạy lại, để tránh ngọn lửa. Xà ngang và cột trụ của tháp đã bị cháy hủy, gạch đá đổ xuống lia lịa. Bảo tháp đã rung chuyển như sắp đổ vậy.

Diệt Tuyệt Sư thái quát lớn:

– Chỉ Nhược, con mau nhảy xuống đi!

Chỉ Nhược đáp:

– Sư phụ nhảy xuống trước, con nhảy xuống sau!

Sư thái đột nhiên nhảy tới giơ chưởng lên bổ vào vai trái của Ðầu Ðà quát lớn:

– Tặc tử của Ma Giáo, ta không thể dung ha cho ngươi được! Khổ Ðầu đà biết không thể nào ở lại trên đỉnh tháp nữa, liền lớn tiếng cười và tung mình nhảy xuống khỏi tháp thức thì.

Vô Kỵ giơ chưởng kên đánh khẽ đẩy Khổ Ðầu Ðà sang bên, và khen ngợi:

– Phạm Hữu sứ đã thành công rất lớn!

Khổ Ðầu Ðà vừa đứng vững liền đáp:

– Nếu không được thần công cái thế của Giáo chủ thì tất cả mọi người đều bị cháy xém như con heo rồi. Phạm Dao tôi làm việc không được chu đáo thì làm có công trạng lớn?

Sư thái thấy Khổ Ðầu nhảy xuống, thở dài một tiếng, rồi ôm chặt lấy Chỉ Nhược nhảy xuống luôn.

Khi sắp xuống tới mặt đất Sư thái tung Chỉ Nhược lên cao mấy thước, bà ta làm như vậy không khác gì Chỉ Nhược ở trên cao một trượng rớt xuống thôi nên nàng không nguy hiểm chút nào.

Trái lại thế rớt xuống của Sư thái lại càng nhanh càng mạnh.

Vô Kỵ vội chạy lại dùng Càn Khôn Ðại Nã Di đẩy luôn vào lưng bà ta.

Ngờ đâu sư thái đã quyết chí chết và cũng không mốn nhận một chút ân huệ nào của Minh Giáo hết.

Bà ta thấy Vô Kỵ dùng chưởng đánh tới vội xoay người đánh lại một chưởng, chưởng của hai người va chạm nhau kêu đến “bùng” một tiếng.

Chưởng lực Càn Khôn Ðại Nã Di của Vô Kỵ bị chưởng lực của bà ta làm đổi phương hướng. Mỗi người chỉ nghe thấy tiếng kêu “bộp” một tiếng.

Sư thái đã rớt xuống đất thật mạnh. Xương sống gãy làm mấy khúc.

Vô Kỵ bị chưởng của bà ta đánh trả lại, vì không thể đề phòng nên ngực của chàng trúng luồng chưởng phong của đối thủ.

Chàng cảm thấy khí huyết rạo rực và lui luôn phía sao mấy bước trong lòng ngạc nhiên vô cùng, nhưng chàng có biết đâu Sư thái đã giở ra hết toàn lực đánh chưởng đó để tự sát.

Chỉ Nhược chạy lại ôm lấy sư phụ vừa khóc vừa kêu gọi:

– Sư phụ! Sư phụ! Các nam nữ đệ tử khác của phái Nga Mi cũng đều chạy lại cạnh xác của sư phụ mình kêu la khóc lóc thảm thiết.

Diệt Tuyệt Sư thái liền nói:

– Chỉ Nhược, từ nay trở đi con đã là chưởng môn của bổn phái những việc ta bảo con làm không được trái lệnh nghe chưa.

Chỉ Nhược vừa khóc vừa đáp:

– Vâng! đệ tử không dám quên!

Sư thái mỉm cười và nói tiếp:

– Như vậy là ta chết cũng mãn nguyện lắm rồi.

Lúc ấy Vô Kỵ đã chạy tới gần giơ tay ra nắm cổ tay của Sư Thái để thăm mạch và xem có thể cứu chữa được không.

Ngờ đâu bà ta lật bàn tay lại nắm lấy cổ tay chàng và quát lớn:

– Dâm đồ của Ma giáo kia, nếu ngươi làm nhơ nhuốc đồ đệ yêu quý của ta, dù ta có làm ma ta cũng không tha cho ngươi…

Nhưng Sư thái chỉ nói được tới đó thì tắt thở liền. Nhưng tay của bà ta vẫn nắm chặt tay của Vô Kỵ đến nổi bật cả máu tươi ra.

Khổ Ðầu đà vội la lớn:

– Tất cả mọi người đều theo tôi đi ra ngoài cửa tây để hội họp. Nếu chậm trễ gian vương có thể phái đại nội nhân mã đến bao vây chúng ta đấy.

Vô Kỵ liền ẳm xốc Sư thái lên và khẽ nói:

– Chúng ta đi thôi.

Chỉ Nhược khẽ gỡ những ngón tay của sư phụ mình ra rồi đỡ lấy xác của Sư phụ, nàng không thèm nhìn Vô Kỵ, cắm đầu đi thẳng ra ngoài chùa.

Lúc ấy, các cao thủ của phái Côn Luân, Không Ðộng, Hoa Sơn v.v… đã lần lượt chạy theo ta.

Riêng có Không Văn, Không Trí của phái Thiếu Lâm không theo ra, là vẫn giữ được phong độ của một môn phái lớn, từ từ tiến lại chắp tay chào Vô Kỵ cùng Viễn Kiều, Liên Châu rồi đi ra ngoài cửa…

Vô Kỵ dùng Càn Khôn Ðại Nã Di thần công cứu các cao thủ của các môn phái thoát chết nội kực đã tiêu hao gần hết, sao cùng lại bị Diệt Tuyệt Sư thái đánh trúng một chưởng gần chết, đã tổn nguyên khí rất nhiều, Mạc Thanh Cốc liền ẳm chàng lên trên vai, chàng liền vận Cửu Dương thần công để lấy lại nội lực.

Lúc ấy trời đã sáng tỏ, quần hùng đã đi đến cửa Tây, xua đuổi quân binh canh gác cửa thành rồi đi ra ngoài mấy dặm thì gặp Dương Tiêu đem xe và lừa đến đón.

Mọi người nghỉ ngơi bên lề đường giây phút, một người lên tiếng:

– Phen này nếu không được Trương Giáo chủ của Minh Giáo với các vị đến cứu, thì sáu đại môn phái Trung Nguyên của chúng ta bị hao tổn nguyên khí rất nhiều, ơn lớn nầy không dám nói cám ơn. Bây giờ chỉ có một cách là chúng ta xin Trương Giáo chủ ra lệnh định đoạt ra sao?

Vô Kỵ đáp:

– Tại hạ ít tuổi, và ngu dốt, không có định kiến gì hết. Xin phương trượng của Thiếu Lâm ra lệnh cho:

Không Văn đại sư cương quyết không chịu, Tòng Khê liền xen lời nói:

– Nơi đây cách thành không xa, ngày hôm nay chúng ta ở trong kinh thành làm đảo lộn như thế tất nhiên tên gian Vương không bao giờ chịu để yên đâu. Chờ tới khi ngọn lửa ở Vương phủ dập tắt, y thế nào cũng phái binh mà đuổi theo chúng ta. Chúng ta phải mau rời khỏi nơi đây và nên đi đâu phải định đoạt ngay bây giờ.

Thái Sung xen lời nói:

– Gian Vương phái người đuổi theo thì càng hay, chúng ta đánh cho chúng ta một trận tơi bời, như vậy mới hả cơn giận bấy lâu nay.

Tòng Khê liền đáp:

– Tất cả anh em chúng ta chưa hoàn toan khôi phục công lực muốn giết quân Thát Ðát để khi khác cũng được, bây giờ chúng ta nên tránh thì hơn.

Không Văn đại sư lại nói:

– Trương Tử hiệp nói rất phải. Ngày hôm nay dù có giết được bao nhiêu quân Thát đát, chúng ta cũng phải hao mòn nhân lực rất nhiều. Chúng ta nên tạm tránh thì hơn.

Người chưởng môn của phái Thiếu Lâm đã nói như vậy, người khác không dám bàn tán nữa, Không Văn đại sư lại hỏi:

– Trương Tứ hiệp, theo ý kiến của Tứ hiệp thì chúng ta nên đi đâu để tạm tránh?

Tòng Khê đáp:

– Quân Thát Ðát thế nào cũng đùoán chắc chúng ta không đi về phía Nam thì thế nào cũng đi về phía Ðông Nam. Nhưng bây giờ chúng ta đi ngược hướng chạy thẳng lên phía Mông Cổ. Chẳng hay các vị nghĩ sao?

Mọi người đều ngẩn người ra nghỉ thầm:

– Mông Cổ là nơi căn cứ của quân Thát Ðát tại sao mình lại đi sâu vào đất địch như thế?

Dương Tiêu vỗ tay xen lời nói:

– Ý kiến của Trương Tứ hiệp rất hay, đất Mông Cổ rộng mà ít, ta tới đó tạm tránh thế nào cũng được yên ổn. Quân Thát Ðát thế nào cũng tưởng ta trở về Trung Nguyên chớ ngờ đâu ta đi lên Mông Cổ như vậy.

Mọi người nhận thấy kế của Tòng Khê rất hay liền quay ngựa về hướng Bắc.

Mọi người đi được năm mươi dặm tới một sơn cốc liền nghỉ ngơi.

Dương Tiêu đã mua sẳn các thức ăn và rượu thịt, trong lúc ngồi ăn uống nhậu nhẹt mọi người nói:

– Lần này không được Vô Kỵ và Phạm Dao hai người cứu giúp thì ai nấy đều chết hết. Còn Chỉ Nhược với bọn người của phái Nga My đang ngồi đằng kia đào lỗ chôn Diệt Tuyệt sư thái.

Không Văn, Không Trí, Vô Kỵ, Viễn Kiều, Liên Châu các người lần lượt đi tới lễ Diệt Tuyệt là một đại hiệp nhất thời tuy tính tình quái dị chuyên môn hành hiệp trượng nghĩa, chí khí lẫm liệt nên được các người trong võ lâm kính nễ.

Không Văn đại sư nói:

– Người chết không thể nào sống lại, chư hiệp của phái Nga My nên theo lời dặn của Sư thái mà tiếp tục hành hiệp. Như vậy tuy Sư thái chết như vẫn còn sống. Lần này bị kẻ gian đầu độc ai cũng thiệt thòi hết, bổn phái Không Tín sư đệ cũng bi quân Thát Ðát giết chết, thù này thế nào cũng phải trả, nhưng phải trả bằng cách nào:

Không Trí đại sư cũng xen lời nói:

– Trước khi sáu đại môn phái ở trung Nguyên đối địch với Minh Giáo nhưng Trương Giáo chủ không báo oán. Trái lại ra tay cứu giúp chúng ta. Từ nay trở đi thù hằn của hai bên coi như đã xóa bỏ. Ngày hôm nay, nhân người của sáu đại môn phái đều có mặt nơi đây, bần tăng xin đề cử Trương Giáo chủ làm Minh Chủ của võ lâm Trung Nguyên. Từ giờ trở đi hể lệnh của Trương Giáo chủ tới đâu là các môn phái của Trung Nguyên phải tuân theo hết. Chúng ta đồng tâm hiệp lực xua đuổi quân Thái Ðát ra khỏi bờ cõi.

Quần hào thấy Không Trí đại sư nói như vậy đều vỗ tay tán thành, riêng Chỉ Nhược lẳng lặng không nói năng gì hết, vì lúc này nàng bối rối đang nghỉ tới những việc sư phụ dặn bảo mình.

Vô Kỵ vội giơ tay lên xua lia liạ:

– Quý vị hãy khoan! Việc này không thể làm như thế được. Xưa nay các đại môn phái của võ lâm đều tôn phái Thiếu Lâm làm Ðảng trưởng. Hơn nữa, nói đến tuổi tác thì phải nói đến Thái Sư phụ của tôi là Trương Chân nhân, còn sư hiệp của Võ Ðang đều là sư bá, sư thúc của tôi. Tôi là một thằng nhỏ đâu dám vượt qua những người trên như thế.

Tống Viễn Kiều lên tiếng:

– Vô Kỵ, tất cả mọi người đã đều cử cháu là Minh Chủ của Võ Lâm. Tất nhiên một nữa là vì cám ơn cháu đã cứu giúp ngày hôm nay và mọi người cũng vì dân chúng trong thiên hạ mà bầu cháu như vậy. Chưởng môn các môn phái từ nay phải đồng tâm hiệp lực đừng có sát hại nhau để cùng diệt quân Thát Ðát. Nếu trong võ lâm Trung Nguyên có một Tổng Minh chủ đứng phát hiệu lệnh, thì mới mong xua đuổi được quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi. Bằng không, không sao hoàn thành được công việc vĩ đại đó.

Tòng Khê cũng lên tiếng nói:

– Hai vị thần tăng của phái Thiếu Lâm thành khẩn đề cử cháu, cháu nên nhận lời đi. Còn Thái sư phụ cháu tuổi tác như vậy chẳng lẽ còn mời người ra gánh vác trọng trách hay sao?

Mọi người đều nói thêm vào.

Vô Kỵ vẫn không dám nhận và đáp:

– Tiểu tử tuổi còn trẻ, kiến thức rất nghèo nàn, chỉ gọi là có đôi chút võ công thôi. Còn bây giờ bảo tiểu tử nhận chức Minh chủ võ lâm thiên hạ, trách nhiệm nặng nề như thế tiểu tử nhận sao nổi. Bây giờ chỉ có Phương trượng của Thiếu Lâm hay Tống đại sư bá mới xứng đáng chức vị đó thôi.

Dương Tiêu cũng lên tiếng:

– Giáo chủ, thời cơ đã lở không sao vớt lại được. Ngày hôm nay may mắn được quân hùng tụ hợp nơi đây, ai nấy đều đồng tâm nhất trí bầu cử Giáo Chủ làm Minh chủ, nếu Giáo chủ không chịu, thì không còn ai mà được quần hùng qui phục nữa. Nhất đáng, tất cả mọi người tản mác đi mọi nơi. Muốn triệu tập lại đông đảo như thế nầy thì khó lắm. Năm xưa Giáo chủ trên Quang Minh Ðỉnh phải hòa giải với sáu đại môn phái để cùng tâm hiệp lực đánh quân Hồ, Giáo Chủ quên rồi hay sao?

Vô Kỵ không nói năng gì, Phạm Dao lớn tiếng nói:

– Giáo chủ, đây là làm Minh Chủ của võ lâm chứ không phải làm vua đâu. Tất cả anh em không muốn Giáo chủ tác oai tác phúc mà chỉ muốn Giáo chủ gánh vác công việc nặng nề của thiên hạ thôi. Phải chịu thiên hạ oán trách, Giáo chủ có phải là nam nhu đại trượng phu không? Sao Giáo chủ lại không gánh vác việc nặng nề và bị thiên hạ oán trách như thế, Phạm Dao tôi tưởng Giáo chủ là anh hùng mới theo Giáo chủ, không ngờ lúc hữu sự Giáo chủ lại sợ sệt như thế.

Vô Kỵ liền vái chào Phạm Dao một cái và đáp:

– Phạm Hữu sứ trách tôi như vậy rất phải. Vô Kỵ tôi xin thụ giáo. Ðúng thế, nam nhi sống ở trên đời phải đảm đương những công việc nặng nề mới được.

Nói xong chàng liền chắp tay chào quần hào và nói tiếp:

– Ðược các vị đề cử như vậy, tiểu tử không dám từ chối nữa, chỉ mong công việc này thành tụ để khỏi phụ chí nguyện bình sinh thôi.

Quần hào thấy Vô Kỵ nhận lời đều vỗ tay hoan hô.

Dương Tiêu liền lấy một túi rượu đến, cắn đứt ngón tay chảy máu nhỏ vào trong rượu, mọi người cũng bắt chước y lần lượt làm như vậy.

Rồi mọi người đều uống một hớp rượu đó, và thề từ nay trở đi đồng tâm đồng sức xua đuổi quần Hồ, lấy lại sơn hà xã tắc.

Vô Kỵ vừa phấn khởi vừa hoảng sợ, nghĩ tới mấy lời nói của Phạm Dao, chàng lại thản nhiên không còn lo sợ gì nữa.

Trong mấy tháng nay, chàng đã trải qua rất nhiều phong ba bão táp, đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm.

Lúc này chàng ra làm Minh chủ võ lâm, lại còn bình tĩnh hơn là lúc ra làm Giáo chủ. Ðồng thời chàng nhận thấy việc xua đuổi quân Hồ ra khỏi bờ cõi là một trách nhiệm không thể nào từ chối được.

Chờ mọi người uống máu ăn thề với nhau xong, Vô Kỵ nói:

– Hiện giờ thiên hạ đang loạn lạc, giáo chúng của chúng tôi đang phân tán bốn phương, nếu có cơ hội là họ nổi lên kháng quân Hồ ngay. Bây giờ chỉ mong các tôn trưởng các phái ra lệnh cho đệ tử mình hễ thấy nghĩa quân nổi lên thì giúp liền nhé. Ðừng có tranh cướp quyền lợi mà sát hại lẫn nhau. Nếu có những sự thị phi tranh chấp thì phải báo trưởng môn của bổn phái biết rồi do bổn nhân cùng trưởng lão, trưởng môn các phải xét xử một cách công bằng.

Mọi người đều nhận lời:

– Phải nên như vậy lắm.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Ðại sự ở đây đã xong rồi, tôi còn có việc riêng cần phải về Kinh đô một phen, xin tạm biệt quý vị. từ nay trở đi trong một vài năm yhế nào cũng có một phen tôi sẽ cùng quý vị phi ngựa trên mặt trận quyết chiến với quân Thát Ðát.

Tiếng hoan hô của quần hào làm chấn động cả một vùng trời đất rồi mọi người tiễn chàng đi ra tận cửa thung lũng.

Dương Tiêu lên tiếng nói:

– Bây giờ Giáo chủ là người mà thiên hạ đều trông mong vào vậy. Giáo chủ nên cẩn thận đôi chút thì hơn.

Vô Kỵ đáp:

– Việc đó tôi biết rồi.

Nói xong, chàng thúc ngựa phi thẳng về phía Nam.

Lúc sắp tới kinh đô chàng liền nghĩ thầm:

– Câu chuyện xảy ra ở chùa Vạn Pháp hồi hôm, các võ sĩ và thủ hạ của Nhữ Dương Vương đã nhận được mặt ta rồi. Nếu để chúng bắt gặp sẽ phiền phức lắm.

Chàng vào một nhà nông mua một bộ áo cũ để thay đổi. Ðầu đội cái nón là, chàng dùng lọ nồi bôi lên mặt, mới vào thành.

Chàng đi tới khách sạn phía Tây thành, đưa mắt quan sát, không có ai theo mình mới lẻn vào trong, trở về phòng cũ.

Một tiểu thư ngồi bên cửa thấy chàng bước vào thì ngạc nhiên nhưng giây lát đã nhận ra mới mừng rỡ cười hỏi:

– Cháu lại tưởng chàng quê mùa vào nhầm phòng. Không ngờ là công tử.

Vô Kỵ cười đáp:

– Cô nương làm gì thế? Sao lại ngồi rầu rĩ?

Tiểu Siêu đỏ mặt nũng nịu:

– Cháu nhàn rỗi ngồi khâu chơi!

Nói xong, nàng cất áo xuống dưới gối. Rót nước mời Vô Kỵ uống, hỏi tiếp:

– Công tử có rửa mặt không?

Vô Kỵ đáp:

– Khỏi cần.

Chàng cầm chén nước uống , nghĩ thầm:

– Triệu cô nương bảo ta đưa nàng đi mượn Ðồ Long, ta là đại trượng phu không thất tín được. Hơn nữa, thế nào ta cũng phải đi đón nghĩa phụ về Trung Thổ. Vì vẫn lo ở Trung Thuu còn có nhiều kẻ thù mà bây giờ nghĩa phụ ta lại mù, tất thế nào khó chống đỡ với kẻ thù được. Lúc này, võ lâm quần hào đang đồng tâm hiệp sức chống quân Hồ. Mối thù cá nhân đều phải hòa giải hết thì cần có ta cạnh nghĩa phụ ta là không ai dám đông tới ông nữa. Trên bể sóng to gió lớn nguy hiểm như vậy, không dám để Tiểu Siêu đi cùng được. Nay ta phải bảo Triệu cô nương dành một căn phòng ngay trong vương phủ cho nàng ở tạm. nàng ở trong đó còn bình yên hơn ở ngoài.

Tiểu Siêu thấy Vô Kỵ bỗng nhiên cười một mình bèn hỏi:

– Công tử nghĩ gì thế?

– Tôi định đi tới một nơi thật xa nhưng không tiện đem cô nương đi nên tôi mới tìm ra một chỗ an toàn, để cô nương ở đó.

Tiểu Siêu sầm nét mặt đáp:

– Công tử đi đâu tôi theo đó. Ngày nào tôi cũng hầu hạ công tử, chớ tôi không muốn ở đâu một mình cả:

– Chỗ tôi định đi rất xa và rất nguy hiểm lại chưa biết bao giờ về.

– Trong khi ở trong Tiểu Quang Ðỉnh tôi đã quyết định rồi. Bất cứ công tử đi đến đâu tôi cũng đi theo, trừ phi công tử giết tôi mới để tôi ở lại được, hay là công tử đã ghét tôi rồi nên không muốn tôi đi theo?

– Không, không cô nương yen6 lòng bao giờ tôi cũng quý cô nương. Sở dĩ, tôi không muốn cô nương đi theo là tôi sợ nguy hiểm cho cô nương đấy thôi! Khi nào về tới sẽ kiếm cô nương ngay!

– Không! Công tử đừng bỏ tôi, Quý hồ được gần công tử là tôi mãn nguyện rồi. Tôi không sợ gì hết, công tử cứ đưa cùng đi.

Vô Kỵ nắm tay Tiểu Siêu nói:

– Tiểu Siêu! Tôi không dám nói dối cô nương, vì tôi đã nhận lời đưa Triệu cô nương du hải ngoại. Trên bề, sóng to gió lớn nguy hiểm vô cùng. Tôi trót đã nhận lời với cô ta nên mới mạo hiểm mà đi. Còn Tiểu Siêu là người ngoại cuộc việc gì mà phải mạo hiểm như vậy.

Tiểu Siêu đáp:

– Công tử đi với Triệu cô nương thì tôi lại càng phải đi theo.

Nàng nói xong câu đó thì oà lên khóc, Vô Kỵ hỏi:

– Tại sao cô nương lại quyết tâm theo tôi như thế?

– Vì Triệu cô nương rất độc ác. Cô ta có thể hại công tử dễ dàng, nên tôi phải đi theo đặng quán xuyến hộ tống công tử.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ cô bé này yêu ta?

Chàng thấy Tiểu Siêu có lòng thành như vậy bèn cười trả lời:

– Thôi được, tôi nhận lời đem cô nương đi.

Tiểu Siêu cả mừng.

– Vô Kỵ lên giường ngủ bỗng nghe thấy tiếng xích trên tay Tiểu Siêu, tự nhiên lòng chàng cảm thấy buồn man mác…

Vô Kỵ ngủ cho tới chiều mới thức dậy.. Chàng ăn bát mì xong bèn bảo Tiểu Siêu:

– Tiểu Siêu! tôi đưa cô đi gặp Triệu cô nương để tôi mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của cô ta để chặt đứt xích cho cô.

Hai người liền đi ra ngoài phố thấy quân lính Mông Cổ cỡi ngựa phi đi phi lại lục lạo. Thành phố giới bị rất nghiêm. Chàng biết vì việc vương phủ và chùa Vạn Pháp phát hỏa mà nên.

Chàng và Tiểu Siêu núp vào xó cửa gần đó,chờ cho quân Mông Cổ đi khỏi mới tiếp tục đi.

Không bao lâu, hai người đã đi tới quán rượu nhỏ, Vô Kỵ dắt Tiểu Siêu vào trong, đã thấy Triệu Minh ngồi uống rượu ở bàn hôm trước rồi.

Nàng vừa thấy Vô Kỵ bèn đứng dậy cười, nói:

– Công tử là người rất trọng chữ tín. Tôi cảm phục.

Vô Kỵ thấy nàng vẫn ung dung như thường, không tức giận gì mình thì nghĩ thầm:

– Cô nương này kín đáo thực, chẳn gnhững nàng không giận ta mà còn tỏ ra bình tĩnh thân ái với ta như thế này ta hãy xem nàng đối xử vớt ta ra sao?

Thấy trên bàn đã bày sẳn hai đôi đũa và hai cái bát Vô Kỵ vội vái chào rồi ngồi xuống, Tiểu Siêu thì đứng ở ngoài đợi.

Vô Kỵ chắp tay chào và lên tiếng:

– Triệu cô nương, chuyện xảy ra tối hôm qua tại hạ thất lễ rất nhiều, mong cô nương lượng thứ.

Triệu Minh cười đáp:

– Hàn Cơ của cha tôi rất lẳng lơ. Trông thấy y thị tôi đã ghét rồi, nên tôi càng cám ơn công tử đã cho người giết y thị. Mẹ tôi cũng khen công tử là người thông minh.

Vô Kỵ ngẩn người ra chưa biết nói sao cho phải, Triệu Minh thấy vậy nói tiếp:

– Những người đó đượcx công tử cứu đi càng hay vì để họ ở lại mà họ không hàng thì cũng vô ích. Công tử cứu họ đi, thế nào họ cũng cám ơn công tử. Như vậy, địa vị và danh vọng của công tử cao tới mức trong Võ lâm Trung Nguyên không có ai có thể sánh nữa. Vậy tôi phải mừng công tử một chén mới được.

Nói xong, nàng vừa cười vừa nâng chén lên mời.

Lúc ấy ngoài cửa có bóng người, thấp thoáng rồi có một người bước vào.

Người đó là khổ Ðầu Ðà, tiến tới vái Vô Kỵ một lạy, rồi cung kính vái Triệu Minh một lạy và nói:

– Quận chúa, Khổ Ðầu Ðà tôi tới đây để cáo từ Quận chúa.

Triệu Minh không đáp lễ, chỉ lạnh lùng trả lời:

– Khổ Ðại sư giỏi giả thật, lần này Quận chúa của đại sư bị té một cái thật đau.

Khổ Ðầu Ðà đứng dậy nghinh ngang nói tiếp:

– Khổ Ðầu Ðà tôi họ Phạm tên Dao là Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo. Minh Giáo là kẻ địch của triều đình. Bổn nhân trà trộn vào Vương phủ là có mục đích riêng, cám ơn Quận chúa đã đối đãi rất tử tế , cho nên mới tới đây cáo từ như thế.

Triệu Minh lạnh lùng đáp:

– Ðại sư muốn đi thì cứ việc đi, hà tất phải đa lễ làm chi?

– Ðại trượng phu làm việc gì phải quang minh chính đại, từ nay trở đi tại hạ là kẻ địch của Quận chúa. Nếu tại hạ không đến đây nói rõ thì thế nào cũng phụ lòng tốt của Quận chúa bấy lâu nay.

Triệu Minh liếc nhìn Vô Kỵ và hỏi:

– Chẳng hay công tử có bản lãnh gì mà khiến tất cả thủ hạ ai ai cũng trung thành như thế?

Vô Kỵ đáp:

– Chúng tôi chỉ vì dân vì nước, vì nhân hiệp và vì nghĩa khí mà làm việc, Phạm Hữu Sứ và tôi không hề quen biết nhau. Nhưng chúng tôi mới gặp nhau đã hợp liền. Ðây chẳng qua vì chữ nghĩa mà nên.

Khổ Ðầu Ðà thấy Vô Kỵ nói như vậy ha hả cả cười, nói:

– Mấy lời của Giáo chủ vừa nói đúng là tâm sự của hạ thuộc, Giáo chủ phải cẩn thận vì Quận chúa nương nương này độc ác lắm chớ không phải là người thường đâu!

Vô Kỵ đáp:

– Ðược rồi tôi sẽ hết sức cẩn thận.

Triệu Minh thấy Khổ Ðầu Ðà nói như vậy vội đáp:

– Cám ơn đại sư đã quá khen tôi.

Khổ Ðầu Ðà quay mình đi ra ngoài cửa điếm, lúc y đi ngang Tiểu Siêu bỗng ngạc nhiên ngẩn người ra hình như y đã trông thấy một con ma quỷ đáng sợ vậy, liền thất thanh la lớn:

– Người… người…

Tiểu Siêu ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì thế?

Khổ Ðầu Ðà nhìn nàng rồi lắc đầu nói tiếp:

– Không phải… không phải… tôi đã nhận lầm…

Nói xong, y liền đẩy cửa ra, mồm vẫn lẩm bẩm nói:

– Giống qua… giống quá…

Triệu Minh với Vô Kỵ ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu Khổ Ðầu Ðà nói Tiểu Siêu giống ai.

Bỗng nghe thấy đàng xa có mấy tiếng còi vọng tới, cứ ba tiếng dài, ba tiếng ngắn.

Vô Kỵ ngẩn người ra, vì biết đó là tiếng kêu gọi của các đồng môn của phái Nga Mi.

Vì năm xưa, ở Tây Vực chàng gặp Diệt Tuyệt Sư thái với các môn đồ đã được nghe Nga Mi thổi còi liên lạc với nhau.

Vì vậy chàng mới ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Sao phái Nga Mi quay trở lại kinh thành này làm chi? Chẳng lẽ bọn họ lại gặp kẻ địch nơi đây chăng?

Chàng đang nghĩ bỗng nghe Triệu Minh hỏi:

– Ðó là tiếng báo động của phái Nga Mi. Hình như họ bị chuyện khẩn cấp gì. Chúng ta thử ra ngoài đó xem sao?

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi lại:

– Sao cô nương lại biết đó là tiếng báo động của phái Nga Mi?

– Tôi ở Tây Vực đã từng theo dõi bọn họ, sao tôi không biết.

– Cũng được, chúng ta đi ra ngoài đó xem họ làm gì. À Triệu cô nương, tôi nhờ nương một việc này trước, tôi muốn mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của cô nương xử dụng giây lát.

– Công tử chưa mượn đao Ðồ Long cho tôi mà công tử lại mượn Ỷ Thiên trước kể ra công tử thông minh thật.

Nói xong nàng cởi thanh bảo kiếm ra đưa cho chàng.

Vô Kỵ rút thanh kiếm khỏi bao rồi nhìn về phía Tiểu Siêu kêu gọi:

– Tiểu Siêu cô lại đây.

Tiểu Siêu, lẹ bước đi tới trước mặt chàng. Chàng múa động trường kiếm chém luôn mấy nhát rất khẽ; xích ở tay và chân Tiểu Siêu đứt từng khúc rớt xuống mặt đất.

Tiểu Siêu liền quỳ xuống vái liền:

– Ða tạ công tử. Ða tạ quận chúa.

Vô Kỵ cắm kiếm vào bao trả cho Triệu Minh.

Lúc ấy tiếng còi của phái Nga Mi ở phía Ðông Bắc càng nghe càng rất thê thảm.

Chàng liền nói:

– Chúng ta đi thôi.

Triệu Minh móc túi lấy một thỏi vàng nhỏ ném ra lên trên, rồi ra ngoài cửa tức thì.

Vô Kỵ sợ Tiểu Siêu khinh công hãy còn non nớt không sao theo kịp, liền dùng tay phải nắm chặt tay và tay trái đỡ vào lưng nàng, kéo nàng theo Triệu Minh.

Nhưng đi được mười mấy trượng chàng cảm thấy người của Tiểu Siêu nhẹ vô cùng và chân đi rất nhanh.

Tuy bấy giờ chàng chưa giở khinh công tuyệt mức ra, nhưng chân của chàng đi đã rất nhanh mà Tiểu Siêu vẫn theo kịp.

Như vậy đủ thấy khinh công của nàng không kém mấy.

Chỉ thoáng cái, Triệu Minh đã vượt qua mấy con đường nhỏ tới môt nơi có tường vây quanh nhưng đã đổ nát gần nửa.

Vô Kỵ nghe thấy bên torng hình như có tiếng con gái đang cãi vã, biết ngay phái Nga Mi đang ở trong đó.

Chàng liền kéo tay Tiểu Siêu kéo qua bờ tường vào bên trong.

Trong bóng tối, chàng hạ chân xuống đất một cách lẹ làng không có tiếng động gì cả. Cỏ bên trong mọc rất cao, chàng định thần nhìn kỹ, mới biết nơi đó là một vườn bỏ hoang.

Triệu Minh cũng nhảy theo vào rồi ba người cùng nằm phục trong đám cỏ lau đó.

Ở phía Bắc trong vườn hoang có một cái đình đổ nát.

Trên đình tụ tập hơn mười người.

Chỉ nghe một thiếu nữ lên tiếng nói:

– Ngươi là đệ tử ít tuổi nhất trong bổn môn nói về tư vọng và võ công cũng vậy, không có một tư thế nào hơn tất cả anh chị em. Như vậy, ngươi làm gì đủ tư cách làm chưởng môn…

Vô Kỵ nghe tiếng nói đó rất quen thuộc, chàng biết ngay tiếng nói đó là của Ðinh Mẫn Quân, liền bò tới gần cái đình đổ nát kia.

Khi tới cách đình còn mấy trượng chàng liền ngừng lại.

Lúc ấy, tuy không có trăng, nhưng chàng cũng thấy cũng thấy trên đỉnh có cả đàn ông lẫn đàn bà, đều là đệ tử của phái Nga Mi hết.

Ngoài Mẫn Quân ra, còn có đại đệ tử của Diệt Tuyệt Sư thái cũng có mặt ở đó.

Người mặc áo dài xanh nhạt, đứng phía bên trái, chính là nàng Chu Chỉ Nhược.

Chàng lại nghe thấy Mẫn Quân nghiêm nghị hỏi:

– Ngươi nói đi… ngươi nói đi…

Chỉ Nhược từ từ đáp:

– Ðinh Sư Tỷ nói rất phải. Tiểu muội là đệ tử rất trẻ của bổn môn thật, bất cứ về tư cách võ công, tài ba, đức hạnh v.v… tiểu muội đều không xứng đáng làm chưởng môn nhưng, Tiên sư truyền lệnh bảo tiểu muội lãnh trọng trách đó, tiểu muội từ chối hoài, mà tiên sư nhất quyết không nghe, còn bắt tiểu muội thề độc không được phụ lời dặn bảo của Tiên sư.

Một thiếu nữ ăn mặc lối ni cô liền đỡ lời:

– Phải, lúc Tiên sư lên Tây phương cực lạc chầu Phật tổ có trối trăn bảo Chu sư muội phải kế nhậm môn bổn phái thật. Lúc ấy, chúng ta ai ai cũng nghe, khôn người đồng môn của bổn phái mà tất cả anh hào của các môn phái: Thiếu Lâm Võ Ðang, Côn Luân, Không Ðộng đều làm chứng.

Lại có một người tuổi trạc trung niên xen vào nói:

– Tiên sư rất anh minh, quả quyết. Nếu tuyển dụng sư muội làm Chưởng môn thì thế nào cũng có thâm ý gì đây?

Chúng tôi cũng đội ơn tiên sư rất lớn, tất nhiên ai ai cũng phải tuân theo di chúc của tiên sư mà đồng tâm hiệp lực phò trợ cho Chu sư muội làm chưởng môn hầu rạng rỡ bổn phái.

Mẫn Quân cười nhạt hỏi:

– Phùng sư ca nói tiên sư thế nào cũng có thâm ý? Mấy chữ đó được nói ra quả là khéo. Chúng ta ở dưới hay trên tháp đều nghe rõ, Khổ Ðầu Ðà và Hạt Bút Ông lớn tiếng kêu là gì? Chu sư muội là con của ai? tại sao tiên sư lại đặc biệt cùng cô ấy, chẳng lẽ quý vị không rõ hay sao?

Hồi hôm Khổ Ðầu Ðà nói với Lộc Trượng Khách rằng: Diệt Tuyệt Sư thái là nhân tình cũ và Chu Chỉ Nhược là con gái riêng của y. Ðó là câu nói lừa để lấy thuốc giải độc, nhưng Hạt Bụt Ông lại tưởng thiệt nói lớn cho mọi người nghe. Vì vậy mọi người thấy Mẫn Quân nhắc lại, không ai dám cãi nữa.

Chỉ Nhược run run nói với Mẫn Quân rằng:

– Ðinh sư tỷ! Nếu sư tỷ không phục tiểu muội ở chức chưởng môn thì cứ việc nói thẳng, hà tất nói bậy nói bạ như thế, làm mất thanh danh của tiên sư. Sư tỷ có biết làm như thế sẽ bị tội như thế nào không? Tiên sư của tiểu muội họ Chu, tên là Vương, tiên mẫu họ Tiết. Tiểu muội được Trương Chân Nhân của phái Võ Ðang thu làm môn hạ cho tiên sư. Trước khi tiểu muội tới đây chưa hề gặp tiên sư. Sư tỷ đội ơn của tiên sư rất lớn, mà ngày nay di hài của tiên sư chưa lạnh đã dám dùng những lời nói ra như thế.

Nói tới đó nàng đã nghẹn ngào, nước mắt ràn rụa không th6ẻ nói tiếp được nữa.

Mẫn Quân thấy vậy cười nhạt và nói:

– Cô muốn làm chưởng môn của bổn phái, chưa được các đồng môn công nhận nhất là là ta thử lai lịch của cô chưa rõ, nay cô đã muốn tác oai tác phúc, định chi phối chúng tôi phải không? Cái gì gọi là bại hoại thanh danh của tiên sư? Lại còn bảo ta là mang tội này tội nọ, có phải là cô muốn trị tội tôi không?

Hỏi cô câu này, cô được tiên sư trối trăn cho làm ngôi chưởng môn thì cô phải về ngay núi Nga Mi để phụ trách mọi công việc chứ sao cô lại lẳng lặng quay lại kinh đô là chi? Tiên sư khuất núi rồi, việc của bổn phái rất bề bộn, bất cứ việc gì cũng vậy, ai ai cũng chờ đợi người chưởng môn phân phối công việc. Thế mà cô không chịu trở về đảm nhiệm trọng trách, lại một thân một mình quay trở lại kinh đô này để làm gì?

Chỉ Nhược đáp:

– Tiên sư đã giao một gánh nặng nề cho tiểu muội, bảo tiểu muội thế nào cũng làm cho xong, vì vậy tiểu muội mới quay trở lại đây là thế.

– Việc gì thế? Nơi đây, trừ các đồng môn của bổn phái ra, không có một người nào hết, sao sư muội không nói ra cho các anh em biết?

– Việc này là một việc rất bí mật, ngoài người chưởng môn của bổn phái ra, không thể nào tiết lộ cho một ai biết hết.

– Hừ, hừ, cái gì cô cũng đổ vào hai chữ chưởng môn, nhưng cô phải biết, cô chỉ có thể loè người khác chứ không thể đánh lừa được tôi đâu. Tôi hỏi cô câu này, bổn phái với Ma Giáo có thâm thù lớn như thế, đồng môn của bổn phái bị Ma Giáo giết chết rất nhiều, trái lại giáo chúng của Ma Giáo cũng chết dưới Ỷ Thiên kiếm của tiên sư không ít. Sở dĩ tiên sư tạ thế một cách đột ngột như vậy là vì không muốn chịu ơn Giáo chủ của Ma Giáo. Cô biết di hài của tiên sư chưa lạnh, sao cô lại lẳng lặng đến tìm tên dâm tặc họ Trương của Ma Giáo kia làm chi?

Vô Kỵ núp tron bụi lau, nghe thấy Mẫn Quân nói mấy câu sau cùng, tức giận đến run lẩy bẩy, thì lúc ấy chàng bỗng thấy có một ngón tay mềm mại đưa lên má mình, khẽ gạt đi gạt lại mấy cái, hình như đang bêu xấu mình.

Chàng biết ngay đó là Triệu Minh, xấu hổ vô cùng và nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ Chu cô nương tời đây kiếm ta thực chăng?

Chàng nghe thấy Chỉ Nhược ngập ngừng nói:

– Sư tỷ chớ có bậy….

Mẫn Quân càng đắc chí, càng lớn giọng nói tiếp:

– Ðến lúc này, cô còn phải không? Cô bảo tất cả anh chị em hãy về Nga Mi trước. Vậy chúng tôi hỏi cô quay trở lại kinh đô này với mục đích gì? Thấy cô hỏi người cha là Khổ Ðầu Ðà tên dâm đó ở đâu. Tưởng tất cả anh chị em không biết hay sao? Có phải cô tới khách điếm kiếm tên tiểu tặc không?

Mẫn Quân cứ nói tiểu dâm tặc hoài, Vô Kỵ dù mát tính đến đâu cũng không sao nhịn được.

Chàng bỗng thấy có người hà hơi vào cổ, biết ngay là Triệu Minh trêu mình. Chàng lại nghe thấy Mẫn Quân nói tiếp:

– Cô muốn yêu ai lấy ai không ai có quyền lý đến, nhưng cô nên rõ tiểu lâm tặc họ Trương là kẻ thù của bổn phái. Hồi hôm mọi người bầu y làm Minh chủ của võ lâm, cô là chưởng môn của bổn phái sao không thấy cô lên tiếng phản đối. Dù cô vì chúng ta ít người, bên chúng nhiều người, có phản đối cũng không ăn thua gì, nhưng cô cũng phải lên tiếng để tỏ rõ cho mọi người hay là phái Nga Mi chúng ta không phục y làm Minh Chủ võ lâm.

Nhưng không thấy cô nói năng gì hết, mà cô lại còn bắt chước mọi người: cắt máu ăn thề. Nhưng theo ý tôi thì lúc ấy cô sung sướng lắm, nhưng không dám để lộ cho người ta thấy thôi. Ngày nọ trên Quang Minh Ðỉnh, tiên sư bảo cô đâm y một kiếm, y không tránh né gì hết, mà nháy mắt tống tình với cô. Còn cô kẻ đâm y như gãi ngứa vậy.

Bên trong thế nào cũng có ẩn tình, có ai dám tin là cô đâm thật đâu.

Hồi thứ 69

Tinh Thần Bất Khuất

Mẩn Quân nói xong. Chỉ Nhược thất thanh khóc hu hu và trả lời:

– Ai nháy mắt tống tình, chí chớ có vu oan cho người ta như thế.

– Lời nói của tôi mà cô bảo là vu oan ư? Thế hành vi của cô không sợ khó coi hay sao? Phải lời nói của cô thì dễ nghe thực cũng như vừa rồi cô hỏi người phổ ky ở khách điếm: “Cảm phiền ông cho tôi hỏi chút việc. Ở đây có một vị khách quan họ Trương phải không… người đó tuổi trạc độ ba mươi, người vừa cao vừa trong lớn, hoặc ông ta không dùng họ Trương mà dùng họ khác cũng nên?

Mẩn Quân nói mấy câu này, dùng giọng nói thẻ bắt chước Chỉ Nhược, nhưng giọng nói của y thị lại the thé, nghe rất sờn lòng.

Vô Kỵ tức giận thêm, liền nghĩ thầm:

– Ðinh Mẩn Quân là đứa tiêu ác nhất trong nhóm đệ tử của phái Nga Mi, còn Chỉ Nhược thì nhu nhược nhân từ. Như vậy nàng đối chọi với Mẩn Quân sao nỗi, nhưng nếu bây giờ ta ra tay chống chế cho Chỉ Nhược, thì sẽ bị người ta chê cười ngay. Vì đó là việc riêng của phái Nga Mi, ta không có quyền can thiệp vào. Hơn nữa Chỉ Nhược đang đứng vào địa vị bất lợi…

Ðáng lẽ có một số đồng môn phái của Nga Mi đã bằng lòng tuân theo di mệnh của Diệt Tuyệt Sư thái để cho Chỉ Nhược làm chưởng môn, nhưng Mẩn Quân ăn nói lợi hại như vậy và lời lẽ rất có tinh tiết, nghĩa lý, nên người nào người ấy đều nghĩ thầm:

– Tiên sư với Ma Giáo kết thù oán quá lớn như vậy mà Chu sư muội lạicó một sự liên can rất mật thiết với giáo chủ của Ma Giáo. Nếu nàng đem bổn phái bán cho Ma Giáo thì sao?

Mẩn Quân lại lên tiếng nói tiếp:

– Chu sư muội, sư muội là do Trương Chân Nhân của phái Võ Ðang giới thiệu cho tiên sư để làm môn hạ, còn tiểu dâm tặc là con trai của Trương Ngũ Hiệp trong phái Võ Ðang, chắc bên trong thế nào cũng có âm mưu quỹ quyệt gì đây. Cô tưởng người ngoài không biết chuyện đó hay sao?

Nói tới đó, nàng lại lớn tiếng nói tiếp:

– Các vị sư huynh, sư tỷ, tuy tiên sư có lời trối trăn bảo Chu sư muội làm chưởng môn phái của chúng ta, nhưng sư phụ của chúng ta có ngờ đâu, sau khi viên tịch, người chưởng môn của bổn phái lại đi tìm giáo chủ Ma Giáo để tư tình như vậy. Việc này liên đến sự hưng vong tồi bại của bổn môn, nếu sư phụ biết câu chuyện tối hôm nay thì thế nào sư phụ cũng sẽ lựa người khác làm chưởng môn. Di chúc của tiên sư là phải làm cho bổn phái được rạng rỡ, chứ không bao giờ muốn bổn phái bị diệt vong bởi tay của Ma Giáo. Theo ý kiến của tiểu muội, thì chúng phải thừa kế di ngôn của tiên sư, mời Chu sư muội trao cái áo cà rá sắt chưởng môn ra để chúng ta bầu một vị chưởng môn tài đức kiêm toàn khác lên thay thế. như vậy các đồng môn mới phục.

Mẩn Quân vừa nói xong, thì đã có mấy người vỗ tay tán thành liền.

Chỉ Nhược vội nói:

– Tôi thừa di mệnh của tiên sư, tiếp nhận chưởng môn của bổn phái, chiếc cà rá sắt của sư môn trao cho tôi quyết không trao cho bất cứ người nào cả. Sự thật tôi có muốn làm chức chưởng môn nầy đâu. Nhưng đã nói trót thề nặng trước mặt tiên sư, vì vậy tôi không thể nào phụ lòng phó thác của sư phụ được.

Mấy lời nói của nàng quá yếu ớt, nên những người theo nàng nghe thấy chỉ có lắc đầu thở dài thôi.

Mẩn Quân lại quát lớn:

– Cà rà sắt chưởng môn này cô không trao ra không được, điều thứ nhất, qui luật của bổn môn là cấm các môn đồ không được khi sư diệt tổ, điều thứ hai là cấm ngặt dâm tà vô sỉ, cô đã phạm điều luật thứ nhất và thứ hai, như vậy thì làm chưởng môn phái Nga Mi sao được.

Triệu Minh rỉ tai Vô Kỵ rằng:

– Nếu Chu cô nương có bị thất bại, công tử bằng lòng gọi tôi là chị thì tôi sẽ ra mặt giải vây cho cô ta liền.

Vô Kỵ biết Triệu Minh là người đa mưu túc trí, thế nào cũng có mưu kế gì cứu Chỉ Nhược thoát nguy, nhưng nàng ít tuổi hơn mình mà mình phải gọi bằng chị, thực khó nghe vô cùng.

Vô Kỵ do dự mãi không dám gọi, Triệu Minh lại hỏi:

– Sao? công tử không dám gọi ư? Thôi được, tôi đi vậy.

Vô Kỵ bất đắc dĩ đành phải gọi nàng:

– Bà chị ngoan ngoãn!

Triệu Minh phì cười, đang định đứng lên thì mọi người trong đình đã hay biết.

Mẩn Quân vội quát hỏi:

– Ai dám lén lút núp nghe trộm chúng ta vậy?

Ðột nhiên ngoài bờ tường có mấy tiếng ho vọng tới, rồi có một giọng đàn bà già và khàn hỏi:

– Trong đêm tối, phái Nga Mi các ngươi đến đây lén lút làm trò chi thế?

Tiếng nói đó vừa dứt thì Vô Kỵ và Triệu Minh đã thấy trong sẳn có thêm hai người đứng trước cái đỉnh nọ rồi.

Dưới ánh sáng trăng Vô Kỵ trông thấy rõ một bà cụ lụm khụm tay chống gậy.

Người đó chính là Kim Hoa bà bà. Còn một người nữa là một thiếu nữ xấu xí, nhưng thân hình rất ẻo lả. Thiếu nữ này chính là A Ly, em họ của Vô Kỵ và là con của Dã Vương.

Ngày nọ Nhất Tiếu bắt Thù Nhi đem đi, khi lên tới Quang Minh Ðỉnh, y liền thuận tay bỏ nàng xuống bên đường và một lát sau y quay lại tím thì không thấy nàng ta đâu cả. Từ khi chia tay với nàng tới giờ, Vô Kỵ vẫn thương nhớ, không ngờ nàng ta lại xuất hiện nơi đây mà cùng đi với Kim Hoa Bà Bà nữa.

Chàng mừng rỡ vô cùng, suýt tí nữa thì buột miệng lên tiếng gọi.

Mẩn Quân lạnh lùng hỏi:

– Kim Hoa Bà Bà tới đây làm chi?

Kim Hoa Bà Ba hỏi lại:

– Sư phụ các ngươi đâu?

Mẩn Quân đáp:

– Tiên sư viên tịch từ hồi hôm. Bà đứng ngoài vườn nghe lỏm đã lâu, biết rồi thì còn hỏi làm chi?

– Ủa, Diệt Tuyệt Sư thái đã viên tịch rồi ư? Sao Sư thái lại chết chóng như thế, sao mụ ta không đợi chờ ta tái kiếm một lần nữa rồi hãy chết? Hà, hà đáng tiếc đáng tiếc…

Nói tới đó mụ ta liền khom lưng ho hoài.

Thù Nhi vội đấm lưng cho mụ ta.

Nàng quay mặt về phía Mẩn Quân, cười nhạt một tiếng và hỏi:

– Ai thèm nghe lỏm chuyện các người, ta với bà đi qua đây nghe ngươi lải nhải nói xàm hoài ta nhận ra tiếng nói của ngươi, nên mới vào đây xem thử. Vừa rồi bà của ta hỏi ngươi, ngươi có nghe không? Tại sao sư phụ lại chết?

Mẩn Quân nổi giận đáp:

– Không việc gì đến mi, tại sao ta phải nói cho mi hay.

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng và từ từ nói tiếp:

– Ta bình sinh đấu với các cao thủ, chỉ thua sư phụ của mi có một lần thôi, nhưng không phải võ công của ta không bằng phụ mi, nhưng chỉ vì Ỷ Thiên Kiếm quá sắc bén nên ta địch không nổi thôi. Mấy năm nay ta đã thề thế nào cũng phải tìm cho được một khí giới sắc bén rồi mới kiếm Diệt Tuyệt Sư thái so tài sau. Ta đi khắp chân trời góc biển, cũng may không mất công phu.

Một người bạn cũ đã nhận lời cho ta mượn bảo đao để xử dụng và ta dò biết người của phái Nga Mi đang bị triều đình giam giữ ở chùa Vạn Pháp, cho nên ta mới đến đây định cứu sư phụ mi ra khỏi lao tù để cùng ta so tài một phen. Ngờ đâu chùa Vạn Pháp lại biến thành một đống gạch vụn, hà, số trời đã định như vậy. Ðời Kim Hoa Bà Bà này không còn mong có dịp rửa nhục huyết hận nữa. Diệt Tuyệt ơi, Diệt Tuyệt tại sao mụ lại không chết muộn vài ba ngày để chờ ta.

Mẩn Quân thấy Kim Hoa Bà Bà nói như vậy, liền lạnh lùng xen lời nói:

– Sư phụ ta lúc nầy còn ở trên đời thì ngươi lại thua một trận nữa, mà nếu lần nầy ngươi có thua thì chắc ngươi phục tâm nhỉ.

Ðột nhiên có mấy tiếng kêu “bộp” liên hồi.

Mọi người nhìn về phía Mẩn Quân thấy y loạng choạng suýt ngã về phía sau mới hay y thì bị Kim Hoa Bà Bà tát cho mấy cái liền.

Kim Hoa Bà Bà gầy gò và ốm yếu như vậy, ngờ đâu ra tay rất nhanh và mạnh vô cùng. Vì vậy Mẩn Quân không sao né và chống đỡ được.

Mẩn Quân vừa kinh hãi vừa tức giận, liền rút ngay trường kiếm ra chỉ vào mặt Kim Hoa Bà Bà nói:

– Mụ ăn mày già kia, có lẽ mụ hết muốn sống rồi chăng?

Hình như Kim Hoa Bà Bà không nghe thấy y thị mắng chửi, và cũng hình như không thấy thanh kiếm bóng nhoáng của đối phương đang đâm tới thản nhiên lên tiếng hỏi:

– Sư phụ ngươi chết như thế nào, bị người ta đánh chết hay là đau ốm chết?

Mũi trường kiếm của Mẩn Quân đâm tới gần, chỉ còn hai tấc nữa là trúng ngực đối phương, nhưng y thị không dám tiếp nữa, mà chỉ bướng bình mắng chửi lại:

– Mụ ăn mày già kia, ngươi là cái thá gì mà ta phải nói cho ngươi hay?

Kim Hoa Bà Bà thở dài một tiếng và nói:

– Diệt Tuyệt Sư thái một đời anh hùng như vậy mụ cũng có thể là một nhân vật xuất sắc trong võ lâm đấy. Ngờ đâu mụ vừa khuất núi mà môn hạ, đệ tử đã bất hiếu đến thế. Không có một người nào xứng đáng kể tiếp được chưởng môn để làm rạng rỡ phái Nga Mi như mụ.

Một người tuổi trạc trung niên, thân hình trong lớn, bước lên một bước chắp tay vái chào và nói:

– Bần ni Tịnh Trú tham kiến Bà Bà, lúc tiên sư viên tịch có truyền cho Chu sư muội tiếp nhận chưởng môn, những người trong bổn phái còn có một số đồng môn chưa chịu phục, bây giờ tiên sư viên tịch, lệnh Bà Bà không được toại nguyện. Ðó là số trời xui nên, biết nói sao được, hiện giờ chưởng môn của bổn phái chưa quyết định thì là ai thì không thể nào hẹn ước với Bà Bà được. Nhưng phái Nga Mi chúng tôi cũng là một đại môn phái trong võ lâm chúng tôi quyết không để cho mất oai danh của tiên sư. Vậy Bà Bà định dặn bảo điều gì xin cứ cho biết, sau này người chưởng môn của bổn phái thế nào cũng theo đúng qui cũ của võ lâm mà tới kiếm Bà Bà để giải quyết việc Bà Bà đã phán cho. Nếu Bà Bà thị mình là tiền bối ra tay hà hiếp nhưng kẻ hậu sinh, chúng tôi thì phái Nga Mi chúng tôi, dù xó bị tiêu diệt hết tại chỗ cũng phải đối phó với Bà Bà tới cùng.

Lời nói của ni cô đó rất đắc thế.

Vô Kỵ với Triệu Minh nghe thấy cũng khen ngợi thầm.

Kim Hoa Bà Bà liền trợn mắt đáp:

– Lúc Tôn sư viên tịch đã có di mệnh truyền lại phái người kế nhận chưởng môn, chẳng hay là vị nào thế? mời ra đây cho lão bà gặp mặt!

Lời nói của Kim Hoa Bà Bà đã dịu dàng hơn lúc nói với Mẩn Quân nhiều.

Chỉ Nhược tiến lên vái chào và nói:

– Chào Bà Bà, tôi, Chu Chỉ Nhược là chưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi, thỉnh an Bà Bà.

Mẩn Quân lớn tiếng xen lời đáp:

– Không biết xấu hổ, tự phong mình là chưởng môn thứ tư của bổn phái!

Thù Nhi cười nhạt và lạnh lùng nói:

– Chị họ Chu nầy là người rất tự tế, hồi con còn nhỏ ở Tây vực cũng đã được chị họ Chu nầy trông mom cho đấy! Chị họ Chu không xứng đáng làm chưởng môn chẳng lẽ ngươi lại xứng đáng lắm hay sao? Nếu ngươi còn hổn láo như vậy ta sẽ thưởng cho ngươi mấy cái tát liền.

Mẩn Quân cả giận rút kiếm ra xông lại đâm Thù Nhi.

Thù Nhi né mình sang bên, giơ chưởng ra tát luôn vào mặt Mẩn Quân một cái.

Thủ pháp và thân pháp của nàng nhanh nhẹn y như Kim Hoa bà bà vậy.

Mẩn Quân vội cúi đầu tránh né ví thế mà kiếm của nàng ta không thể nào đâm trúng được Thù Nhi.

Kim Hoa Bà Bà thấy vậy liền vừa cười vừa đáp:

– Con nhỏ nầy, ta dạy mi bao nhiêu lâu rồi, chỉ có một thế tát đó mà học mãi không thành công, mi thử coi đây.

Nói xong, bà ta chỉ giơ tay lên khẻ tát một cái đã tát trúng ngay gò má bên phải của Mẩn Quân liền! Rồi bà ta lại trái tay tát thêm một cái vào má bên trái của Mẩn Quân nữa.

Tiếp theo đó là bà ta lại tát Mẩn Quân luôn hai cái tát nữa.

Bốn cái tát của Kim Hoa Bà Bà rõ rệt, ai ai cũng đều trông thấy hết nhưng không hiểu tại sao Mẩn Quân cứ đứng yên, không chống cự gì cả, cứ để cho bà ta tát y như không có việc xảy ra cả vậy!

Thù Nhi thấy vậy liền cười vừa nói:

– Bà Bà! Con đã biết thủ pháp đó rồi, để con đánh thử cho Bà Bà coi!

Nói xong, nàng xông lại tát luôn Mẩn Quân một cái, vì sợ Kim Hoa Bà Bà, Mẩn Quân không dám tránh né nên mới bị thương Thù Nhi tát một cách dễ dàng như vậy, y thị tức giận vô cùng suýt chết giấc tại chỗ.

Ðột nhiên Chỉ Nhược xông lại giơ tay ra cản tay của Thù Nhi lại và nói:

– Xin chị hãy ngừng tay lại!

Nói xong, nàng quay đầu lại nói với Kim Hoa Bà Bà rằng:

– Thưa Bà Bà, vừa rồi Tịnh Trú sư tỷ đã nói rõ, võ công của đồng môn của bổn phái tuy không giỏi bằng Bà Bà thực, nhưng chúng cháu không thể nào để cho Bà Bà hà hiếp một cách nhục nhã như thế đâu.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa đáp:

– Vì con bé họ Ðinh kia nó chua ngoa và đanh đá quá, mở miệng ra là nó không phục cô em làm chưởng môn, như vậy cô em còn ra mặt nói hộ cho nó làm chi?

Chỉ Nhược vừa cười vừa đáp:

– Ðó là việc của bổn phái, không liên can gì đến người ngoài, cháu đã được tiên sư giao phó, tất nhiên bất cứ việc to nhỏ nào cháu cũng không muốn người ngoài làm nhục đến bổn phái.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa nói tiếp:

– Hay lắm! Hay lắm!…

Bà ta vừa nói có bấy nhiêu liền ho lên rũ rượi liền.

Thù Nhi liền lấy một viên thuốc đưa cho Kim Hoa Bà Bà uống.

Uống xong viên thuốc Kim Hoa Bà Bà đã đỡ ngay, đột nhiên bà ta giở song chưởng tấn công liền!

Một tay để vào trước ngực và một tay dí vào sau lưng của Chỉ Nhược, hai nơi đó là hai nơi yếu huyệt chí mạng của ta, thế công của Kim Hoa Bà Bà quái dị vô cùng, dù Chỉ Nhược đã học được rất nhiều võ công của Diệt Tuyệt Sư thái, nhưng đối với Kim Hoa Bà Bà thì kém về hơn rất nhiều nên không sao tránh né nổi và đã bị Kim Hoa Bà Bà đã kiềm chế liền, cho nên nàng biến sắc mặt không sao nói lên được nữa lời.

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng hỏi:

– Chu cô nương! Sao võ công của một người chưởng môn lại tầm thường như thế này? Chẳng lẽ tôn sư lại giao trọng trách cho một cô bé yếu ớt như vậy hay sao? Tôi chắc cô nương nói láo thì có.

Chỉ Nhược hoàn hồn xong, liền nghĩ:

– Bây giờ bà ta chỉ còn dùng sức ấn mạnh một cái là ta bị chết ngay tại chỗ, nhưng ta không thể nào làm mất oai danh của sư phụ được, thà chết thì chết.

Nghĩ đến sư phụ nàng bỗng cảm thấy hăng hái vô cùng, vội giơ tay phải lên và nói:

– Ðây là cà sá sắt của chưởng môn của phái Nga Mi do tiên sư đeo vào tay cháu, chứ cháu có nói dối đâu!

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa nói tiếp:

– Muốn làm chưởng môn của phái Nga Mi, trách nhiệm rất nặng nề. Quý phái từ Quách nữ hiệp, tổ sư sáng lập môn phái tới giờ, chưởng môn đời nào cũng phải gánh vác gánh nặng, những sự bí mật bên trong, chẳng lẽ tôn sư cũng nói cả cho cô nương nghe hay sao? Tôi chắc tôn sư chưa nói cho cô nương biết đâu.

Chỉ Nhược vội đáp:

– Sao lại không?

Nàng sực nghĩ tới:

– Tại sao bà ta lại nói tiếp sự bí mật của bổn phái?

Kim Hoa bà bà hỏi tiếp:

– Vậy thanh Ỷ Thiên Kiếm đâu?

– Ðó là vật của bổn phái, có liên can gì đến Bà Bà đâu? Cháu xin thưa thực với Bà Bà rằng, tuy sư phục của cháu đã viên tịch thực nhưng phái Nga Mi chúng tôi không vì thế mà bị hủy, bây giờ tôi đã bị bà kiềm chế. Bà muốn giết thì giết, còn nếu Bà Bà muốn uy hiếp bắt buộc tôi phải làm những việc bất nghĩa thì tôi nhất định không khi nào làm đâu! Bổn phái mắc phải gian kế của triều đình và mọi người bị giam ở trên một cái tháp cao, nhưng không có một người nào chịu đầu hàng triều đình hết. Chỉ Nhược tôi tuy ít tuổi mà phải mang trọng trách, tự biết là khó khăn thực, nhưng tôi đã coi sự sống chết không có nghĩa lý gì hết…

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược bị Kim Hoa Bà Bà kềm chế như thế mà nàng vẫn còn bướng bỉnh như vậy, chàng chỉ sợ Kim Hoa Bà Bà nổi giận khẽ tay một cái là nàng sẽ bị toi mạng liền, cho nên chàng càng nóng lòng sốt ruột muốn ra tay cứu giúp.

Triệu Minh đã biết ý định của chàng vội nắm tay rồi khẽ run mấy cái, có ý bảo chàng đừng có nóng nảy như thế vội.

Chàng nghe thấy Kim Hoa Bà Bà ha hả cười rồi nói tiếp:

– Kể ra Diệt Tuyệt Sư thái cũng sành mắt đấy, người chưởng môn này võ công tuy còn non nớt nhưng tánh tình cũng khá bướng bỉnh đấy. Ở phải đấy, phải đấy! Võ công non nớt có thể luyện giỏi được, chỉ tính nết của con người thì không sao thay đổi được hết.

Sự thực lúc này Chỉ Nhược đã hãi sợ đến mất hết cả hồn vía, nhưng chàng chỉ nghĩ đến lúc sư phụ chết trối trăn như thế nào nên nàng mới dám bướng bỉnh như vậy. Không ngờ Kim Hoa Bà Bà lại tưởng rằng là người bướng bỉnh nên mới khen lầm.

Các đồng môn của phái Nga Mi đều khinh thường Chỉ Nhược nhưng lúc nầy thấy nàng không nghĩ đến thù cũ mà xông ra bênh vực Mẩn Quân như vậy và chính vì thế mà nàng bị kẻ địch kềm chế tuy bị nguy hiểm như vậy mà nàng vẫn không chịu để mất oai danh của môn phái, vì vậy ai nấy đều tỏ lòng kính phục nàng vô cùng.

Tịnh Trú giơ trường kiếm lên và huýt lên mấy tiếng còi, các đệ tử của phái Nga Mi đều rút kiếm ra bao vây chung quanh cái đình đó.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa hỏi:

– Làm gì thế? các ngươi làm cái gì thế?

Trịnh Trú đáp:

– Chẳng hay bà kềm chế chưởng môn của chúng tôi như thế làm chi?

Kim Hoa Bà Bà ho mấy tiếng rồi mới hỏi lại:

– Các ngươi muốn thị người nhiều mà thắng ta phải không? Hà, hà! Với Kim Hoa Bà Bà này, dù các ngươi có nhiều gấp bội lần thì cũng chả thấm tháp vào đâu cả!

Ðột nhiên bà ta buông Chỉ Nhược ra, lướt mình tới trước Tịnh Trú, rồi bà giơ tay hai ngón tay lên định móc mắt vị sư nữ kia.

Tịnh Trú vội xoay mũi kiếm lại đâm vào tay của Bà Bà, nhưng mọi người đều nghe thấy có người “hự” một tiếng, và có một sư nữ trẻ tuổi đứng cạnh Tịnh Trú đã té lăn ra đất liền.

Thì ra trong khi Kim Hoa Bà Bà giơ tay ra móc mắt Tịnh Trú cũng giơ chân lên đá vào yếu huyệt của vị sư nữ trẻ tuổi kia nên sư nữ ấy mới bị điểm huyệt mà té ngã như thế. tiếp theo đó, bà nhảy đi nhảy lại, nảy ngược chạy xuôi một hồi, thỉnh thoảng ho mấy tiếng nữa. Bao nhiêu đao kiếm của các đệ tử của phái Nga Mi bị bà ta điểm trúng yếu huyệt ra lăn ra đất.

Thủ pháp điểm huyệt của Kim Hoa Bà Bà rất ác độc người nào bị bà ta điểm trúng yếu huyệt đều lớn tiếng kêu la. Vì vậy trong vườn hoang cứ có tiếng kêu la thảm khốc hoài.

Ðiểm huyệt các đệ tử của phái Nga Mi bao vây bên ngoài đình xong, Kim Hoa Bà Bà vỗ tay một cái nhảy vào trong đình và nói với Chỉ Nhược rằng:

– Chu cô nương đã trông thấy võ công của ta chưa? Vậy cô nương bảo võ công của Bà Bà này có cao siêu hơn võ công của phái Nga Mi không?

Chỉ Nhược đáp:

– Dù sao võ công của bổn phái cũng cao siêu hơn Bà Bà. Năm xưa bà đã bị kiếm của tiên sư đánh bại. Chẳng lẽ Bà Bà đã quên rồi hay sao?

Kim Hoa Bà Bà tức giận vô cùng, vội hỏi:

– Lần này Diệt Tuyệt lão ni nhờ có bảo kiếm sắc bén mới thắng nổi ta đấy chứ? Có phải mụ ta giỏi võ hơn Bà Bà này đâu?

Chỉ Nhược lại đáp:

Thưa Bà Bà suy nghĩ giây lát mới đáp:

Không biết. Sỡ dĩ ngày hôm nay ta tới đây cũng muốn đấu với lệnh một phen, để xem ai giỏi hơn ai. Hà, ngờ đâu lệnh sư lại viên tịch rồi. Từ nay trở đi, trong võ lâm thiếu mất một tay cao thủ. Trước kia không trông mong thấy cố nhân, và sau này không được gặp những kẻ hậu lai, từ nay trở đi phái Nga Mi sẽ suy đồi.

Bảy tám tên đệ tử của phái Nga Mi vẫn kêu la thảm khốc hoài.

Tịnh Trú với mười mấy người đệ tử khác vội xoa bóp cho những người ấy, nhưng không thấy công hiệu gì cả.

Năm xưa, Vô Kỵ đã cứu chữa rất nhiều tay cao thủ bị Kim Hoa Bà Bà đả thương, nên chàng biết Bà Bà ra tay rất độc ác. Chàng định nhảy ra cứu chữa cho mấy người đó, nhưng nghĩ lại:

– Ta nhảy ra cứu chữa cho bọn người kia là ra tay giúp cho Chu cô nương nhưng vì thế lại mất lòng em Thù Nhi. Cô em họ nầy đệ tử với ta lắm và nàng lại là em họ ngoại của ta nữa , ta không nên làm mích lòng nàng.

Chàng nghĩ tới đó lại nghe thấy Kim Hoa Bà Bà nói tiếp:

– Chu cô nương đã chịu thua lão bà này chưa?

Chỉ Nhược vẫn cứng đầu nói:

– Võ công của bổn phái lớn rộng như bể cả, không thể nào biết hết trong một thời gian luyện tập rất ngắn ngủi được. Cháu còn ít tuổi tất nhiên không thể nào địch nổi bà rổi. Nhưng sau này cháu học tập thêm ít năm tới lúc nầy chắc đâu Bà Bà còn thắng nổi cháu nữa.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa nói tiếp:

– Hay lắm, hay lắm, Kim Hoa Bà Bà này cáo từ ngay đây. Chờ bao giờ cô nương học thành tài, Bà Bà sẽ lại đây giải huyệt cho mấy người kia.

Nói xong, bà ta dắt Thù Nhi đi luôn.

Chỉ Nhược nghĩ thầm:

– Các đồng môn bị đau đớn như thế kia, chịu sao nổi một đôi tiếng đồng hồ. Bây giờ Kim Hoa Bà Bà bỏ đi, không ai cứu chữa cho mấy người đó, chỉ sợ họ chịu không nổi sẽ chết cũng nên?

Nghĩ đoạn, nàng vội gọi:

– Bà Bà hãy khoan đi đã làm ơn giải cứu hộ sư huynh tỷ của cháu đi.

Kim Hoa Bà Bà đáp:

– Nếu muốn Bà Bà này cứu giúp thì không khó, từ nay trở đi Kim Hoa Bà Bà và Thù Nhi đi tới đâu thì phái Nga Mi phải tránh tới đó.

Chỉ Nhược nghe Kim Hoa Bà Bà nói như vậy, liền nghĩ thầm:

– Ta vừa làm chưởng môn và đã gặp một đại địch như vậy nếu nhận lời Bà Bà thì phái Nga Mi còn đứng vững trong võ lâm sao được. Như vậy có khác gì phái Nga Mi bị tiêu hủy bởi tay ta không?

Kim Hoa Bà Bà thấy Chỉ Nhược trù trừ, liền mỉm cười nói tiếp:

– Cô nương không chịu làm mất oai danh của Nga Mi cũng được. Cô nương cho tôi mượn. Ý Thiên kiếm xử dụng thì tôi sẽ giải cứu các đồng môn cho.

Chỉ Nhược đáp:

– Trong khi thầy trò cháu bị triều đình bắt giữ ở trên tháp, thanh kiếm Ỷ Thiên đã lọt vào tay triều đình rồi.

Kim Hoa Bà Bà đã biết trước việc này rồi, nhưng chưa tin hẳn, nên mới lên tiếng hỏi như vậy, nay nghe Chỉ Nhược nói, mới biết rõ là sự thực, đột nhiên lớn tiếng quát hỏi:

– Người muốn bảo tồn thanh danh của phái Nga Mi, thì không thể nào bảo tồn được tính mạng của mình.

Nói xong, bà ta móc túi lấy một viên thuốc ra đưa cho Chỉ Nhược và nói tiếp:

– Thuốc này là thuốc độc Ðoạn Trường, nếu cô nương dám uống viên thuốc nầy thì tôi sẽ cứu những người đồng môn cho.

Chỉ Nhược nghĩ tới lời dặn của sư phụ, lòng đau như ruột cắt và nghĩ tiếp:

– Sư phụ bảo ta phải lừa dối Trương công tử, ta làm sao mà làm việc đó, sống một cách khốn khổ như vầy, thà chết còn hơn nhắm mắt đi rồi trút được hết phiền não.

Nghĩ đoạn, nàng liền cầm lấy viên thuốc độc.

Tịnh Trú thấy vậy vội quát lớn:

– Chu sư muội không thể uống viên thuốc độc đó được.

Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp định bước ra ngăn cản, nhưng Triệu Minh rỉ tai khẽ nói:

– Ngốc tử, thuốc đó là thuốc giải chứ có phải thuốc độc thật đâu mà sợ hãi như vậy.

Vô Kỵ ngẩn người ra, ngơ ngác nhìn Triệu Minh thì Chỉ Nhược đã nuốt viên thuốc kia rồi.

Tịnh Trú và các người đều lớn tiếng kêu la hò hét định xông lại tấn công Kim Hoa Bà Bà.

Bà Bà chỉ mỉm cười nhạt và nói:

– Thuốc độc này phải lâu lắm mới ngấm được. Chu cô nương hãy theo Bà Bà này đi, nếu cô nương ngoan ngoãn nghe lời thì Bà Bà này sẽ cho uống thuốc giải.

Nói xong, Bà Bà đi đến trước những môn hạ của phái nga Mi đang nắm kêu la rên rĩ, chỉ giơ tay ra gỏ vào thân thể của mấy người đó vài cái. Lạ thay những người đó đã hết đau và không còn kêu la nữa, nhưng chân tay hãy còn tê tái, chưa cử động được thôi.

Mấy người đó thấy Chỉ Nhược hy sinh tánh mạng của mình để cứu các đồng môn khỏi đau khổ, cảm động vô cùng.

Có người liền lên tiếng nói:

– Cám ơn Chu sư muội.

Kim Hoa Bà Bà nắm tay Chỉ Nhược khẽ nói:

– Con hãy ngoan ngoãn theo ta, ta không để cho con bị đau khổ đâu.

Chỉ Nhược chưa kịp trả lời, đã thấy có một luồng sức lôi kéo và thấy thân hình của mình bay lơ lửng trên không mà đi.

– Chu sư muội…

Nữ ni định đuổi theo ngăn cản, nhưng đã bị Thù Nhi đứng cạnh đó giơ tay ra cản lại. Tịnh Trú liền thấy một luồng gió rất mạnh lấn át tới liền giơ tả chưởng lên chống đỡ.

Ngờ đâu thế công của Thù Nhi là thế hư và mọi người chỉ nghe kêu “bộp” một tiếng Mẩn Quân đã bị tát một chưởng vào mặt rồi.

Nàng đánh được Mẩn Quân, thích chí cười khúc khích, rồi giở khinh công ra chạy theo Bà Bà và Chỉ Nhược liền:

Vô Kỵ thấy vậy vội nói:

– Mau đuổi theo!

Nói xong, một tay chàng dắt Triệu Minh, một kéo Tiểu Siêu chạy qua bờ tường đuổi theo tức thì.

Tịnh Trú các người đột nhiên thấy trong đám cỏ có ba người nhảy ra, ai nấy đều kinh ngạc vô cùng.

Khinh công của Kim Hoa Bà Bà với Vô Kỵ cao siêu vô cùng.

Chờ tới khi các đệ tử của phái Nga Mi nhảy đầu tường thì họ đã đi mất rồi.

Vô Kỵ đuổi theo được mười trượng thì Kim Hoa bà bà đã hay nhưng chân đã chạy và mồm quát hỏi:

– Ai đuổi theo Bà Bà này thế?

Triệu Minh đáp:

– Ðể lại chưởng môn của bổn phái thì ta sẽ tha chết cho.

Nàng lại khẽ nói với Vô Kỵ rằng:

– Công tử áp trận hộ tôi đừng ra mắt nhé.

Nói xong, nàng tung mình nhảy lên cao mấy trưỡng, múa Ỷ Thiên Kiếm nhắm sau lưng Bà Bà đâm tới.

Nàng xử dụng thế Kim Ðỉnh Phật Quang, chính là kiếm pháp của phái Nga Mi. Nàng quả thực người thông minh, chỉ học một lần ở chùa Vạn Pháp mà bây giờ có thể xử dụng một cách đứng mức. Tuy nội lực của nàng còn non nớt, nhưng khinh công của nàng đã luyện tới mức thượng nặng nên kiếm pháp của nàng lợi hại vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà nghe phía sau có tiếng gió động, liền quay người trở lại.

Triệu Minh lại giở thế Thiên Phong kinh tú (nghìn ngọn núi xanh biếc).

Kim Hoa Bà Bà nhận ra thanh kiếm trong tay Triệu Minh là Ỷ Thiên kiếm mà nàng lại xử sụng kiếm pháp của phái Nga Mi lại tưởng lầm nàng là người của phái Nga Mi thực.

Vì chuyên tâm đối phó với Diệt Tuyệt Sư thái, nên Kim Hoa Bà Bà đã nghiên cứu kiếm pháp của phái Nga Mi trong mấy năm liền. Bà ta thấy công lực Triệu Minh còn non nớt, liền tiến gần định cướp Ỷ Thiên kiếm. Ngờ đâu Triệu Minh thấy tình thế quá nguy cấp vội giở kiếm pháp Côn Luân ra chống đỡ. Võ công của Kim Hoa Bà Bà tuy cao siêu thật, nhưng bà ta có ngờ đâu Triệu Minh vội xoay sang kiếm pháp của Côn Luân nên suýt nữa bà ta bị Triệu Minh đâm trúng.

Nhưng may thay bà ta đã vội nằm xuống đất, lăn luôn mấy vòng mới tránh khỏi mấy thế kiếm đó. Tuy nhiên tay áo trái của bà ta đã bị mũi kiếm của Triệu Minh rạch mất một mảnh lớn.

Kim Hoa Bà Bà vừa kinh hãi, vừa tức giận, bèn xông lên, Triệu Minh biết võ công của mình còn kém đối thủ xa, không dám xáp lá cà chỉ múa động Ỷ Thiên cắm bên trái một nhát, chém bên phải một kiếm, lúc thì dùng Không Ðộng kiếm pháp, khi thì giở Hoa Sơn kiếm pháp. Sau thế kiếm của phái Côn Luân, nàng lại giở Ðạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu lâm tấn công liền. Thế kiếm nào của nàng cũng là tinh hoa của các phái. Hơn nữa thanh Ỷ Thiên kiếm của nàng vô cùng sắc bén, nên võ công của Bà Bà có cao siêu đến đâu cũng không dám đến gần nàng.

Bà Bà đành ở xa sáu thước, tìm sơ hở để phản công lại mà thôi.

Thù Nhi vội cởi ngay trường kiếm đang đeo ở lưng ra ném cho Kim Hoa Bà Bà.

Triệu Minh nhanh tay chém luôn bảy tám kiếm, điều kiếm thứ chín, bắt buộc Kim Hoa Bà Bà phải dùng khí giới để chống đỡ, chỉ nghe thấy kêu “soẹt” một tiếng, thanh trường kiếm của bà ta tức thì gãy làm đôi.

Kim Hoa Bà Bà kinh hãi vô cùng vội nhảy lùi về phía sau quát hỏi:

– Con nhỏ là ai thế?

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Sao mụ không giở Ðồ Long đao ra?

Kim Hoa Bà Bà cả giận trả lời:

– Nếu ta có Ðồ Long đao trong tay, thì mi địch ta sao nổi. Mi có dám theo ta đi để đấu thử Ðồ Long đao của ta không?

Vô Kỵ nghe thấy Kim Hoa Bà Bà nói tới Ðồ Long đao thì kinh ngạc vô cùng lại nghe Triệu Minh nói tiếp:

– Mụ già đi lấy được đao Ðồ Long phải không? Thế thì hay lắm, ta sẽ đợi mụ ở trên kinh đô. Mụ cứ đi lấy đao Ðồ Long tới để đấu tới để đấu với ta đi.

Kim Hoa Bà Bà trả lời:

– Mi hãy quay tréo người, nhắm mắt phải, thè lưỡi ra, hai má nhăn nhó, trông thấy xấu xí và kỳ lạ. Kim Hoa Bà Bà thấy vậy cả giận nhổ nước miếng xuống đất, rồi vứt cây kiếm gãy dắt Thù Nhi cùng Chỉ Nhược đi luôn.

Vô Kỵ liền lên tiếng:

– Chúng ta hãy đuổi theo Bà Bà.

Triệu Minh đáp:

– Khỏi cần, công tử cứ theo tôi đến đằng này tôi cam đoan với công tử Chu cô nương sẽ bình yên vô sự.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Cô nương vừa nói đao Ðồ Long gì thế?

– Tôi nghe thấy mụ già nói chuyện trong cái vườn hoang rằng mụ ta đã mượn được thanh bảo đao của một cố nhân ở hải ngoại định đem về đây đấu với Ỷ Thiên kiếm của Diệt Tuyệt sư thái. Tôi liền nghĩ tới câu “Ỷ Thiên bất xuất thùy nhữ thanh phong”. Nếu muốn tránh sắc bén với Ỷ Thiến thì chỉ có đao Ðồ Long thôi nên tôi đoán chắc mụ ta đã hỏi nghĩa phụ của công tử mượn đao Ðồ Long ấy rồi. Vừa rồi, tôi dùng Ỷ Thiên kiếm đấu với mụ ta là muốn bắt buộc mụ ta đưa đao Ðồ Long ra, nhưng mụ ta không theo cho nên mới bảo tôi đi theo thể thử. Hình như mụ ta đã biết đao Ðồ Long ở đâu rồi, nhưng chưa lấy được đấy thôi.

Vô Kỵ vừa ngầm nghĩ vừa lẩm bẩm nói:

– Thế thì lạ thật.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Tôi đoán chắc mụ ta thế nào cũng đi về phía bờ bể và đi thuyền ra ngoài khơi kiếm đao. Chúng ta duổi theo và đi trước mụ, đừng để cho Tạ Lão tiền bối hai mắt đã mù, tâm địa rất lương thiện bị mù già ác độc ấy đối.

Vô Kỵ nghe mấy câu đó vội đáp:

– Thoạt tiên chàng nhận lời Triệu Minh đi mượn Ðồ Long là vì đã trót hứa với nàng không muốn nuốt lời. Lúc này chàng nghĩ tới Kim Hoa Bà Bà đi làm khó dễ nghĩa phụ mình, chàng chỉ muốn có cánh bay với nghĩa phụ để ra tay cứu giúp.

Triệu Minh dẫn Vô Kỵ và Tiểu Siêu tới vương phủ dặn tên Thị vệ vài lời.

Tên Thị vệ quay trở vào ngay.

Một lát sau tên đó đã dắt ra chín con ngựa thật cao lớn và còn đem theo một túi vàng bạc đưa cho Triệu Minh.

Ba người cởi ba con ngựa và dắt theo sau sáu con để thay đổi. Cả ba cũng tiến thẳng về phía Ðông.

Sáng hôm sau, chín con ngựa đã mỏi nhoài, Triệu Minh đưa thẻ vàng của Nhữ Dương Vương ra cho quan địa phương để đổi chín con ngựa khác.

Ðêm đó ba người mới đến được bờ bể.

Triệu Minh cởi ngựa đi thẳng vào huyện thành bảo quan huyện cấp tốc lo cho mình một chuyến đi bể lớn và chắc chắn. Trên thuyền và bảo quan huyện cho lính đuổi hết những thuyền huyện đậu ở bờ bể đi về phía miền Nam. Một trăm dặm bờ bể, gần huyện thành đó cấm ngặt không cho đậu thuyền.

Thấy kim bối của Nhỉ Vương, quận huyện phải tuân lệnh.

Không đầy một ngày quan tri huyện đã làm xong mọi việc.

Triệu Minh, Vô Kỵ, Tiểu Siêu đều mặc quần áo thủy thủ.

Lấy sáp màu bôi lên mặt, nên da mặt của ba người đều vàng khè.

Ba người hóa trang xong, không ai đó có thể nhận diện được, nên cũng xuống thuyền ngồi, đợi Kim Hoa Bà Bà tới.

Bộ ước đoán của Triệu Minh rất đúng.

Quả nhiên, nhiều hôm ấy, có một chiếc xe lớn chạy tới bờ bể.

Kim Hoa Bà Bà dắt Thù Nhi và Chỉ Nhược bước xuống rồi đi về phía sau ven bể mướn thuyền.

Bọn thủy thủ đã có lệnh của Triệu Minh nên chúng cứ giả bộ thoát thác.

Sau thấy Bà Bà lấy mấy chén vàng ra, người chủ thuyền mới chịu nhận lời.

Kim Hoa Bà Bà dắt hai nàng xuống thuyền và bảo giường buồn đi thẳng về phía Ðông Nam.

Thuyền đó rất rộng, có hai từng, boong thuyền, mũi, lái cùng hai bên thành thuyền đều trang bị thiết pháo.

Thì ra chiếc thuyền đó là pháo thuyền của Hải quân Mông Cổ.

Năm xưa đại quân Mông Cổ định viễn chinh Nhật Bản nên đã mộ hết nhân tài làm thuyền để làm một hạm đội đi chinh phục Nhật Bản.

Không ngờ bị một trận gió bão, đội chiến thuyền đó điều bị gió bão đánh đắm gần hết, Mông Cổ mới thôi không đánh Nhật Bản nữa.

Triệu Minh bảo quan huyện sửa soạn một chiếc thuyền lớn và kiên cố mới có ngay.

Lúc ấy, Vô Kỵ, Triệu Minh và Tiểu Siêu ba người đã hóa trang thành thủy thủ ẩn núp ở từng dưới cùng.

Nhưng khi Triệu Minh lên tới thuyền đã thấy có nhiều sơ hở.

Nàng không ngờ quan tri huyện lại muốn lấy lòng nàng đi mượn chiếc pháo thuyền của Thủy Sứ đô đốc.

Nhưng khi ấy tất cả thuyền khác đã bị đuổi xuống miền Nam thật xa rồi, muốn có thuyền khác để thay đổi cũng không kịp.

Bất đắc dĩ, Triệu Minh đành phải bảo thủy thủ căng nhiều lưới cá để che lấp mấy khẩu thiết pháo, để trên thuyền mấy thùng cá tươi làm như chiếc pháo thuyền này đã cũ, không xử dụng được nữa, mới sửa đổi thành thuyền đánh cá.

Kim Hoa Bà Bà tìm khắp nơi không thấy một chiếc nào khác đành phải mướn chiếc thuyền lớn đậu trơ trọi ở dưới đấy.

Mụ ta chưa hay biết nhựng sơ hở mà Triệu Minh đã giấu.

Thuyền đi được hai ngày, Vô Kỵ và Triệu Minh ở dưới đáy khoang ngó qua cửa sổ, nhìn ra bên ngoài thấy mặt trời và mặt trăng đều từ bên trái lên, tức là thuyền đang đi về phía Ðông Nam.

Mùa đông giá lạnh gió bắc thổi rất mạnh, thuyền đi rất nhanh, Vô Kỵ bàn với Triệu Minh rằng:

– Nghĩa phụ ở trên đảo Băng Sơn ở phía cực Bắc tại sao thuyền này định đi kiếm ông ta lại về miền Ðông Nam như thế?

Lần nào Triệu Minh cũng trả lời rằng:

– Chắc Kim Hoa Bà Bà thế nào cũng có mưu mô gì đây, huống hồ mùa Ðông không có gió Nam, thì dù có lên miền Bắc cũng không sao đi được.

Trưa ngày thứ ba người lái thuyền lẽn xuống dưới khoang thưa với Triệu Minh rằng:

– Kim Hoa Bà Bà rất quen thuộc vùng biển này, nơi nào bãi cát ngầm, có đá ngầm đều biết rõ hơn cả người lái thuyền nữa.

Vô Kỵ đột nhiên hỏi Triệu Minh:

– Hừ phải rồi có lẽ bà ta muốn trở về Linh Xà Ðảo chắc?

Triệu Minh hỏi lại:

– Linh Xà Ðảo là gì?

Vô Kỵ đáp:

– Nhà của Kim Hoa Bà Bà ở trên đảo Linh Xà, chồng quá cố của bà ta là Ngân Ðiệp tiên sinh. Linh Xà Ðảo, Kim Hoa Ngân Ðiệp năm xưa đã oai trấn giang hồ một thời chẳng lẽ cô nương không nghe người ta nói tới hay sao?

Triệu Minh phì cười đáp:

– Công tử lớn hơn tôi bao nhiêu tuổi nào? Mà làm như rất thạo chuyện giang hồ vậy.

– Minh Giáo chúng tôi, tuy là tà ma ngoại đạo, nhưng biết nhiều chuyện giang hồ hơn Quận chúa nương nương.

Sống chung với nhau mấy ngày dưới khoang thuyền lại cùng coi Kim Hoa Bà Bà là kẻ thù chung, hai người ngày càng khắn khít.

Triệu Minh vừa cười vừa nói:

– Ðại giáo chủ làm ơn kể lại sự tích Kim Hoa Ngân Diệp Linh Xà oai trấn trên giang hồ như thế nào để cho con bể xưa nay vẫn ở trong thâm cung được hay rõ.

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

– Nói ra thì xấu hổ, Ngân Diệp tiên sinh là người nhu thế nào quả thật tôi không biết gì cả. Còn Kim Hoa Bà Bà thì tôi đã gây hắn với bà ta một phen rồi.

Chàng liền đem chuyện Kim Hoa Bà Bà ở trong Hồ Ðiệp cốc như thế nào, bà ta làm cho các vị cao thủ của các môn phái sống dở chết dở ra sao.

Hồi thứ 70

Tỷ Sam Long Vương

Nhưng những người đó nhờ mình cứu chữa, rồi Kim Hoa Bà Bà đấu với Diệt Tuyệt Sư thái. Bà ta bị Sư thái đánh thua, vợ chồng Hồ Thanh Ngưu sợ bà ta tầm thù, bỏ nhà đi, nhưng rốt cuộc vẫn bị bà ta giết chếtv.v… chàng đều kể hết cho Triệu Minh nghe.

Nghĩ đến vợ chồng Thanh Ngưu, chàng lại thương tiếc, hai mắt đỏ ngầu.

Sau đó chàng kể cho Triệu Minh nghe Thù Nhi định bắt chàng đi Linh Xà đảo làm bạn nhưng chàng không nghe. Trái lại chuyện chàng cắn tay Thù Nhi, chàng không nói, vì sợ Triệu Minh cười.

Triệu Minh lẳng lặng nghe Vô Kỵ kể xong liền, liền nghiêm nét mặt lại và nói:

– Trương công tử thoạt tiên, tôi cứ tưởng bà già này là một cao thủ có võ công rất cao siêu, bây giờ mới biết bên trong còn có nhiều chuyện ân oán như thế. Nghe công tử nói thì lão Bà Bà này rất khó đối phó, chúng ta phải cẩn thận lắm mới được.

Vô Kỵ vừa cười vừa đỡ lời:

– Quận chúa nương nương văn võ toàn tài, hạ thuộc lại có rất nhiều người tài giỏi, đối phó với một Kim Hoa Bà Bà này có nghĩa lý gì đâu.

– Chỉ tiếc rằng ở trên bể cả này tôi không có cách gì gọi những võ sĩ và Phiên tăng tới đây.

– Thế những người bếp, nấu nướng, những thủy thủ kéo buồm chả là những hảo thủ hạng nhất trong giang hồ là gì? Chẳng lẽ chúng ta là hảo thủ hạng nhì hay sao?

Triệu Minh nghe Vô Kỵ nói như vậy, ngẩn người ra cười khúc khích!

– Phục thật, phục thật. Ðại giáo chủ sành thật. Cái gì cũng không thể giấu được giáo chủ.

Thì ra lúc Triệu Minh về Vương phủ lấy tiền bạc và ngựa đã ngấm ngầm điều động một số vệ sĩ ra bờ bể đợi chờ, những người đó liền phóng ngựa theo sau nên đến chậm hơn hơn Vô Kỵ chừng nửa ngày thôi.

Những người này chưa ai tham dự trận đấu ở chùa Vạn Pháp cả và cũng chưa gặp Vô Kỵ bao giờ.

Tuy chúng đã cố hết sức che đậy, nhưng người có võ nghệ giấu kín đến đâu vẫn để cho người thông thạo biết liền. Vì thế Vô Kỵ vừa trông thấy bọn chúng đã biết ngay.

Triệu Minh thấy Vô Kỵ hay biết bộ hạ của mình trong lòng lo âu vô cùng. Nàng chỉ sợ Kim Hoa Bà Bà là người gian giảo như thế, thế nào cũng hay biết trước Vô Kỵ. Cũng may bên nàng có rất nhiều người dù Kim Hoa Bà Bà hay biết hay không cũng không sợ. Nàng quyết định, nếu Kim Hoa Bà Bà để yên thì nàng sẽ giả bộ như câm như điếc. Trong mấy ngày đó, người lo lắng nhất là Vô Kỵ vì chàng sợ Chỉ Nhược uống viên thuốc độc của Kim Hoa Bà Bà, nhỡ thuốc đó làm nguy mà bị toi mạng thì sao?

Triệu Minh thấy chàng cau mày suy nghĩ nàng liền phái người lên trên boong thuyền giả tát nước xem có động tịnh về Chỉ Nhược?

Nhưng lần nào người của nàng xuống báo cáo Chỉ Nhược ăn nói và cử chỉ đã như thường rồi chứ không có vẻ gì trúng độc, Vô Kỵ mới yên tâm.

Chàng nghĩ đến câu chuyện năm xưa, Thù Nhi ngồi cạnh chàng rồi bị Thái Sung Võ Liệt và Mẫn Quân các người vây đánh.

Trước mặt những người đó chàng còn lớn tiếng nói:

– Cô nương, tôi thành tâm lấy cô nương, lấy cô nương làm vợ, chỉ mong cô đừng bảo tôi không xứng đáng làm chồng thôi.

Ngày hôm đó, chàng ngồi một góc khoang thuyền ngẫm nghĩ lại lời nói xưa thì xấu hổ, mặt đỏ bừng.

Triệu Minh đột nhiên lên tiếng hỏi:

– Có phải công tử nghĩ đến Chu cô nương đấy không.

Vô Kỵ đáp:

– Không.

– Công tử nghĩ thì nghĩ, có ai cấm đâu mà cứ phải nói dối như thế.

– Tội gì phải nói dối, tôi đã nói cho cô nương biết là tôi không nhớ Chu cô nương mà.

– Nếu công tử nhớ Khổ Ðầu Ðà, Vi Nhất Tiếu các người, mặt của công tử phải khác. Chứ không bao giờ có vẻ nhu mì và hổ thẹn như thế này.

Vô Kỵ ngượng vô cùng, tủm tỉm cười đáp:

– Cô nương lợi hại thật, người nghĩ nét mặt lộ xấu hay đẹp cô nương cũng đoán được. Nhưng nói thật để cô nương biết người mà tôi đang nghĩ đây lại xấu xí lắm.

Triệu Minh thấy vẻ mặt chàng rất thành khẩn, nên nàng chỉ mỉm cười chứ không hỏi lại nữa. Dù nàng thông minh đến đâu, nàng cũng không ngờ Vô Kỵ nghĩ đến Thù Nhi, một cô bé xấu xí.

Vô Kỵ biết sở dĩ Thù Nhi xấu xí như thế vì nàng luyện môn Thiên Thủ Tuyệt hộ thủ. Thật ra mặt của nàng rất xinh đẹp. Chàng lại nghĩ tới, khi chàng bị rớt xuống chân núi, Thù Nhi nằm phục xuống khóc lóc một cách chân thành, chàng lại cảm động thêm.

Từ khi chàng lên Quang Minh đỉnh đến giờ ngày đêm bận luyện võ hoặc đi đây đó vì việc của Minh giáo, không bao giờ được bình tĩnh và an nhàn như lúc này để hồi tưởng lại chuyện xưa. Có một lần chàng ngẫu nhiên nhớ đến Thù Nhi, đã sai lãnh Khiêm phái người đi xung quanh Quang Minh đỉnh để tìm kiếm, và cũng có lần hỏi Nhất Tiếu, nhưng không ai biết Thù Nhi đâu.

Triệu Minh bỗng hỏi:

– Công tử lại hối hận gì thế?

Vô Kỵ chưa kịp trả lời thì đột nhiên nghe thấy trên boong thyền có tiếng quát tháo vọng xuống.

Tiếp theo, một thủy thủ chạy xuống thưa rằng:

– Ðã thấy đất liền ở phía đằng trước rồi, bà cụ đang sai chúng tôi lái thuyền vào bờ.

Triệu Minh với Vô Kỵ ngó qua lỗ hổng cửa sổ, nhìn ra bên ngoài, thấy cách đó mấy dặm có một cái đảo lớn cây cối mọc um tùm. Góc phía Ðông của hòn đảo đó, có mấy ngọn núi rất cao. Thuyền được gió cứ tiến thẳng về phía ấy. Giây phút sau, thuyền đã tới trước đảo. Bờ phía Ðông của hòn đảo có đá chạy thẳng xuống bể. Bên dưới không có bãi cát nào hết, nên thuyền lớn như thế mà cũng có thể ghé vào bờ được.

Thuyền chưa đậu yên, mọi người đã nghe thấy trên đỉnh núi có tiếng rú rất dài vọng tới. Chỉ nghe tiếng rú oai hùng đó cũng khiến người ta phấn chấn.

Vô Kỵ nghe thấy tiếng rú đó liền mừng rỡ vô cùng, vì chàng nhận ra tiếng rú đó là tiếng rú của Tạ Tốn. Chàng thấy xa cách nhau hơn mười năm mà nghĩa phụ mình hùng phong vẫn như xưa, nên chàng mới mừng rỡ như thế.

Lúc ấy chàng không kịp nghĩ tới Tạ Tốn đang ở Băng Hỏa đảo, tại sao lại tới nơi đây được. Chàng cũng không sợ Kim Hoa Bà Bà biết rõ mặt mũi của mình vội leo lên trên boong thuyền đi ra đằng sau ngắm nhìn về phía có tiếng hú vọng tới.

Chàng thấy bốn người cầm khí giới đang kịch chiến với một người thân hình to lớn vạm vỡ.

Người to lớn đó mình khoác một cái áo dài xám tay không đối địch với bốn tên kia. Người đó chính là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.

Vô Kỵ thấy nghĩa phụ mình hai mắt tuy mù, nhưng cũng có thể tay không và một địch bốn mà không nao núng chút nào.

Chàng chưa thấy nghĩa phụ giở võ công ra đối địch với đối phương bao giờ.

Bây giờ chàng mới được trông thấy, trong lòng mừng rỡ vô cùng và nghĩ:

– Năm xưa Kim Mao Sư Vương oai trấn thiên hạ quả thực danh bất hư truyền, nghĩa phụ của ta võ công còn cao siêu hơn cả Thanh Dực Bức Vương, có thể nói là tài ba ngang với ông ngoại ta.

Nhưng bốn người này võ công cao siêu lắm, ở bên dưới trông lên trên núi cao quá nên không sao trông thấy rõ mặt họ được, nhưng chàng thấy bốn người đó ăn mặc quần áo rách rưới, trên vai có vác mấy cái túi vải, không cần nhìn rõ chàng cũng đoán biết họ là mấy trưởng lão của Cái Bang.

Bên cạnh những người đó lại còn có ba người nữa đợi chờ, hình như chúng chờ xem nếu bốn người cự không nổi thì nhảy vào trợ chiến.

Chàng lại nghe một người lên tiếng nói:

– Giao thanh đao Ðồ Long ra, thì ngươi khỏi chết, chẳng hay ngươi muốn lấy đao hay muốn lấy tính mạng?

Vì gió núi rất lớn nên tiếng nói người nọ không sao liên tục được nên Vô Kỵ chỉ nghe được có như vậy thôi.

Tuy chàng chỉ nghe có một câu như thế nhưng cũng biết được các đệ tử của Cái Bang đến đây với mục đích cướp thanh đao Ðồ Long!

Chàng lại nghe thấy Tạ Tốn ha hả cười và đáp:

– Ðồ Long đao ở bên cạnh ta đây, mấy tên giặc hôi thối của Cái Bang kia, có bản lãnh thì cứ việc lại gần đây mà lấy!

Tạ đại hiệp miệng nói mà tay chân vẫn tấn công mấy tên kia lia lịa.

Kim Hoa Bà Bà giở khinh công ra tung mình một cái nhảy lên trên bờ, vừa ho vừa nói:

– Quần hiệp của Cái Bang giáng lâm ở Linh Xà Ðảo này mà sao không cho Lão Bà này biết? Mà quý vị lại còn quấy nhiễu quý tân khách của Linh Xà Ðảo này nữa, chẳng hay quý vị muốn gì thế?

Vô Kỵ nghe Kim Hoa Bà Bà nói như vậy liền nghĩ thầm:

– Thế ra cái đảo này là Linh Xà Ðảo đây! Nghe lời nói của Kim Hoa Bà Bà thì hình như nghĩa phụ ta là khách của mụ ta mời tới. Năm xưa dù mời thế nào, nghĩa phụ ta vẫn cứ nhất định không chịu rời khỏi Băng Hoa Ðảo để trở về Trung Nguyên. Bây giờ tại sao Kim Hoa Bà Bà lại có thể mời được người như thế? Sao Kim Hoa Bà Bà lại biết chỗ ở của nghĩa phụ ta được?

Chàng biết mấy người ở trên đỉnh núi biết bên dưới có người đến cứu viện chỉ mong sớm diệt được Tạ Tốn, cho nên chúng tấn công càng ráo riết hơn trước.

Ngờ đâu chúng đã phạm phải sự tối kỵ nhất trong võ lâm.

Tạ Tốn cả cười một hồi, rồi giơ tay điểm luôn một cái, trúng ngay ngực một người kêu đến “bùng”, người nọ rú lên một tiếng rất thảm khốc, rồi cả thân xác của y bị rơi từ trên đỉnh núi xuống vực sâu.

Khi xác của tên đó rơi xuống đến chân núi kêu đến bộp một tiếng, vỡ sọ vọt óc ra trông rất kinh khiếp!

Ba người đứng cạnh áp trận thấy tình thế nguy nan như vậy, một người trong bọn liền quát lờn:

– Lui ra!

Nói xong người đó đâm tới một quyền rất nhẹ nhàng. Sở dĩ y dùng thế quyền đó là muốn cho Tạ Tốn không thể nào biết được quyền của y từ đâu đánh tới.

Quả nhiên, quyền của y tấn công tới gần đích thì Tạ Tốn mới hay, vội giơ tay ra chống đỡ nhưng đã luống cuống chân tay chứ không trầm tĩnh như trước nữa.

Ba người đấu với Ðại hiệp hồi nãy đều dang ra hai bên.

Ông già đứng cạnh cũng xông vào giúp sức.

Ông già này cũng như người kia, chỉ dùng toàn những thủ pháp rất nhẹ nhàng, làm Tạ Tốn càng lép vế thêm.

Kim Hoa Bà Bà thấy vậy thét lớn:

– Quý Trưởng Lão và Trịnh Trưởng Lão, hai vị đã biết Kim Mao Sư Vương đau mắt, tại sao lại còn dùng thủ đoạn mà tấn công? Như vậy không phải là những anh hùng có tên tuổi trong giang hồ chút nào!

Mụ ta vừa nói vừa chống Thiết Quài phi thân lên núi…

– Chân mụ ta đi thì khập khiễng, nhưng khi giở khinh công ra thì nhanh vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà chỉ nhảy nhót mấy cái là lên đến trên đỉnh núi.

Thù Nhi cũng theo sau, tuy võ công của nàng còn kém Kim Hoa Bà Bà xa, nhưng khinh công của nàng đã luyện tới mức cao siêu nên nàng chỉ kém Kim Hoa Bà Bà có mấy bước thôi.

Vô Kỵ lo ngại sự an nguy cho nghĩa phụ nên chàng cũng rảo bước đi lên trên núi.

Triệu Minh đi theo sau và khẽ gọi:

– Có Lão bà ở đấy tôi chắc Sư Vương không bị nguy hại đâu! Công tử hà tất phải ra tay, cứ giấu diếm như thế này còn hơn!

Vô Kỵ thấy Triệu Minh nói rất phải liền dắt tay nàng thủng thẳng đi theo phía sau Thù Nhi.

Một lát sau bốn người đã lên tới trên đỉnh núi.

Vô Kỵ thấy Tạ Tốn chỉ có thể bảo vệ thôi, chứ không sao có thể phản công lại được, chàng biết lối đánh của Tạ Tốn tuy không hạ được địch thủ nhưng cũng đủ tư cách để bảo vệ cho mình, nên chàng đỡ lo âu và đứng ở dưới gốc thông thật lớn để xem trận đấu.

Chàng thấy mặt của nghĩa phụ có nhiều nếp nhăn hơn trước, tóc cũng bạc hơn xưa nhiều, cảm động vô cùng, không sao nhịn được, chỉ muốn tiến lên đánh bại hai tên địch kia rồi cùng nghĩa phụ nhận nhau ngay.

Thấy sắc mặt Vô Kỵ, Triệu Minh đã biết ngay ý nghĩ của chàng như thế nào rồi, vội bóp tay chàng một cái và lắc đầu ra hiệu bảo chàng không nên làm như vậy.

Vô Kỵ lại nghe thấy Kim Hoa Bà Bà nói:

– Quý Trưởng Lão, môn Âm Sơn Chưởng Ðại Cửu thức của Trưởng Lão đã lùng danh giang hồ, hà tất Trưởng Lão phải biến môn chưởng pháp đó thành môn Miên Chưởng như vậy làm chi? Còn Trịnh Lão còn tệ hơn thế nữa, bề ngoài xử dụng Bát quái quyền nhưng sự thực trưởng lão dùng Hôi Phong Hốt Liễu quyền để đối địch? Chẳng lẽ Tạ Ðại Hiệp lại không biết rõ âm mưu của hai vị hay sao?… Năm xưa, Cái Bang là một Ðại Bang hội, hành hiệp trượng nghĩa số một trên giang hồ, ngờ đâu bây giờ càng ngày càng suy đồi… càng hèn mạt.

Tạ Tốn không trông thấy rõ thế võ của kẻ địch ra sao, nên lúc đối địch rất thiệt thòi, lại thêm Quý, Trịnh hai trưởng lão giảo hoạt vô cùng. Lúc ra tay cố ý thay đổi thế võ luôn luôn để cho Tạ Tốn không biết đâu mà phỏng đoán?

Khi nghe Kim Bà Bà nói trắng ra như vậy, Tạ Tốn đã hiểu biết liền.

Nhân lúc Trịnh Trưởng lão chưa kịp thay đổi quyền pháp, đã múa quyền đấm luôn vào quyền của đối thủ một cái.

Quyền lực của Kim Mao Sư Vương nạnh kỳ lạ. Cũng may võ công của Trưởng lão khá cao siêu nhưng cũng bị đẩy lùi về phía sau hai bước mới đứng vững được.

May có Quý Trưởng lảo ra tay tấn công luôn nên Tạ Tốn mới không chịu đuổi theo đấm bồi thêm, chứ nếu không thì Trịnh Trưởng lão đã bị toi mạng rồi.

Vô Kỵ thấy hai trưởng lão của Cái Bang, người béo lùn, mặt đỏ hồng trông như một anh chàng đồ tể của Quý Trưởng lão, còn Trịnh Trưởng lão thì người gầy gò, mặt nhợt nhạt, trông đúng là một người ăn màu thực thụ.

Người thanh niên tuổi trạc ba mươi đứng ở đàng xa ăn mặc quần áo Cái Bang nhưng rất sạch sẽ, trên lưng đeo tám cái túi vải. Với tuổi như y mà làm tới Trưởng lão đeo tới tám cái túi trong Cái Bang như vậy thật là hiếm có.

Chàng liếc nhìn người đó, thấy mặt rất quen thuộc hình như đã gặp nhau ở đâu rồi nhưng nghĩ mãi mà không sao nghĩ ra được.

Chàng bỗng nghe thấy người đó nói:

– Kim Hoa Bà Bà tuy bề ngoài bà không ra tay trợ giúp Tạ Tốn, nhưng mồm bà nói giúp như thế chả là giúp đỡ rồi là gì?

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng đáp:

– Các hạ cũng là Trưởng lão của Cái Bang đấy à? Thứ lỗi bà già này mắt kém chưa hề gặp các hạ bao giờ.

Người nọ vừa cười vừa đáp:

– Tại hạ mới làm Trưởng lão không lâu, tất nhiên Bà Bà không biết. Tại hạ họ Trần tên là Hữu Lượng.

Vô Kỵ nghe người đó xưng danh mới sực nhớ ra và nghĩ thầm:

– Trần Hữu Lượng, phải rồi năm nọ Thái sư phụ đưa ta tới chùa Thiếu Lâm để chữa bệnh, có một thiếu niên chỉ đọc qua một lượt là nhớ liền, y đã đọc cuốn Cửu Dương Công của Võ Ðang mà Thái sư phụ viết ra không thiếu sót một chữ nào. Nhưng y là đệ tử của Thiếu Lâm, sao bây giờ y lại làm Trưởng lão của Cái Bang như thế? Ừ, phải rồi, trong Cái Bang có đủ cả các môn phái, như vậy đệ tử của Thiếu Lâm gia nhập Cái Bang cũng không có gì lạ. Y là người rất thông minh, lại có võ công thựong thặng, bây giờ ra nhập Cái Bang, tất nhiên phải có địa vị hơn người. Huống hồ, y đã học lỏm được Cửu Dương Công của Thái sư phụ ta, như vậy có khác gì y kiêm cả tài ba của Thiếu Lâm và Võ Ðang.

Kim Hoa Bà Bà lớn tiếng quát:

– Môn hạ đệ tử của phái Võ Ðang cũng gia nhập Cái Bang hay sao?

Vô Kỵ thấy Hữu Lượng vận dụng nội công của phái Võ Ðang nên mới bị Kim Hoa Bà Bà nói như vậy.

Chàng tức giận vô cùng và nghĩ thầm:

– Người này học lỏm Cửu Dương Công của phái Võ Ðang rồi ngấm ngần tự tu luyện lấy, thật là không biết xấu hổ một tí nào!

Chàng lại nnghe thấy Hữu Lượng vừa cười vừa trả lời với Kim Hoa Bà Bà rằng:

– Tại hạ xuất thân ở Thiếu Lâm mà bà già này cứ bảo tại hạ là phái Võ Ðang thực là buồn cười hết sức!

Y nói xong mấy câu đó liền thổi hơi ra rất mạnh, quả thật lúc này Cửu Dương Công của y là tâm pháp của Thiếu Lâm chứ không phải của phái Võ Ðang.

Vô Kỵ đã học Cửu Dương Công của cả hai môn phái nên chàng biết rất rõ.

Vì vậy chàng nghe Hữu Lượng trả lời như thế liền nghĩ tiếp:

– Người này học cả nội công của hai môn phái, hai môn y cũng luyện thành công hết, quả thật y là một người có tài chí.

Bỗng chàng nghe có tiếng hò hét vội quay lại nhìn mới hay cánh tay trái của Trịnh Trưởng lão đấm cho một quyền.

Ba tên đệ tử của Cái Bang trông thấy thế liền rút khí giới ra cùng xông lại tấn công Tạ Tốn.

Võ công của ba người này kém Quý, Trịnh hai vị trưởng lão nhiều, có chúng xông vào trận đấu lại càng vướng tay vướng cẳng thêm.

Nhưng hai mắt của Tạ Tốn đã mù, mà từ khi mù đến giờ đại hiệp chưa hề đấu với ai hết, nên không có một chút kinh nghiệm nào về đối địch cả.

Ngày hôm nay mới gặp cường địch, chỉ nghe tiếng gió mà đoán thế võ của đối thủ ra sao thôi, chứ không thể nào phân biệt được phương hướng.

Chỉ đấu được một chốc lát vai của đại hiệp bị chém trúng một kiếm liền, Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp đang định ra tay cứu viện, nhưng Triệu Minh khẽ nói:

– Công tử cứ yên trí. Kim Hoa Bà Bà thế nào cũng ra tay cứu cho mà xem.

Vô Kỵ hơi chần chờ, quả nhiên Bà Bà múa quài trượng cười nhạt một tiếng, nhưng không xông ra cứu viện.

Ðang lúc ấy, chân bên trái của Tạ Tốn lại bị Trịnh Trưởng Lão đá trúng một cái, loạng choạng suýt ngã.

Năm tên Bang chúng của Cái Bang thấy vậy cả mừng cùng nhảy xổ lại, Vô Kỵ đã cầm sẳn bẩy hòn đá nhỏ, vừa thấy năm người nọ xông lại chàng liền ném bẩy hòn đá đó vào năm kẻ địch.

Bẩy hòn đá đó trúng ngay vào người năm tên kia, đồng thời ba món khí giới của chúng bị chém gãy đôi ngay và còn bốn tên trong bọn, bị đao chém trúng ngực, người gãy gục rớt cả xuống dưới núi.

Chỉ có một mình Trịnh Trưởng Lão bị chém gãy một cánh tay phải ngã lăn ra đất thôi, nhưng lưng y vẫn bị hai hòn đá của Vô Kỵ bắn trúng cắm sâu vào trong người.

Bốn người bị chém rớt xuống núi chết, trên người chúng cũng bị đá cắm sâu vào trong thịt.

Sự biến cố xảy ra rất nhanh, mọi người đều kinh hãi vô cùng.

Tới khi ai nấy định thần nhìn kỹ mới hay Tạ Tốn đã cầm một con đao lớn vừa đen vừa nặng chình chịch, con đao ấy chính là Ðồ Long bảo đao, võ lâm chí tôn.

Tạ đại hiệp cầm đao đứng trên đỉnh núi trông thật oai phong lẫm liệt không khác một vị tiên thần giáng trần vậy.

Vô Kỵ đã được trông thấy thanh đao này từ hồi cỏn nhỏ, nhưng chàng không ngờ nó lại sắc bén và oai mãnh như thế.

Kim Hoa Bà Bà đứng yên, mồm lẩm bẩm nói:

– Võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long, võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long.

Trịnh Trưởng Lão bị chém gãy một cánh tay đau nhức chịu không nổi, kêu la như heo rống vậy.

Trần Hữu Lượng sợ hãi sắc mặt biến thành nhợt nhạt rồi lớn tiếng nói:

– Tạ đại hiệp võ công cái thế, chúng tôi rất lấy làm thán phục. Ðại hiệp làm ơn tha cho Trịnh Trưởng Lão xuống núi, tại hạ xin ở lại đây thường mạng và xin Tạ đại hiệp ra tay chém ngay đi.

Mọi người thấy y nói như vậy đếu cảm động vô cùng, không ngờ y lại là người trọng nghĩa khí như thế. Người trên giang hồ kính trọng nhất là chữ nghĩa.

Vô Kỵ vẫn khinh thường Hữu Lượng, bây giờ thấy y có nghĩa khí như thế trong lòng lại kính trọng thầm.

Tạ Tốn liền đáp:

– Trần Hữu Lượng, mi là một hảo hán như vậy mi cứ việc ẳm tên họ Trịnh này đi, ta cũng không giết mi đâu.

Hữu Lượng đáp:

– Tại hạ cảm ơn Tạ đại hiệp đã không ra tay giết như vậy nhưng vừa rồi đại hiệp đã giết chết năm người của Cái Bang, trong mười năm sau, tại hạ thế nào cũng luyện thành võ công và trở lại đây để trả mối ân cừu này.

Tạ Tốn thấy Hữu Lượng có can đảm như vậy, đủ thấy là một nhân vật phi thường trong võ lâm, nên đại hiệp lại nói tiếp:

– Nếu lão phu sống thêm được mười năm nữa thế nào cũng lãnh giáo võ công của các hạ có cả Thiếu Lâm và Võ Ðang.

Hữu Lượng chắp tay vái chào Kim Hoa Bà Bà và nói tiếp:

– Cái Bang tự tiện xâm nhập quý đảo, tại hạ xin tạ tội Bà Bà nơi đây.

Nói xong y ẳm Trịnh Trưởng Lão, rồi bước đi xuống dưới núi tức thì.

Kim Hoa Bà Bà trợn mắt nhìn Vô Kỵ một cái rồi hỏi:

– Lão già này ném đá điểm huyệt trúng đáo để, tại sao lão lại nắm bẩy hòn đá ở trong tay một lúc như thế? Có phải ngươi định dùng hai hòn đá để ném Hữu Lượng và Bà Bà này không?

Vô Kỵ thấy Kim Hoa Bà Bà đã biết rõ ý định của mình như vậy, nhưng chưa biết rõ mặt mình, nên chàng không trả lời chỉ mỉm cười thôi.

Kim Hoa Bà Bà lại lớn tiếng quát hỏi tiếp:

– Lão già kia quý tính danh là chi? Giả bộ làm thủy thủ theo dò lão Bà Bà nầy để làm gì? Ở trước mặt Bà Bà nầy mà giở trò quỉ ra thì không sao thoát chết được đâu.

Vô Kỵ không quen nói dối, thấy Kim Hoa Bà Bà hỏi như vậy chỉ biết đứng ngẩn người ra, không biết trả lời ra sao.

Triệu Minh dùng giọng khàn khàn vội đáp:

– Chúng ta là Cự Kình Bang xưa nay chuyên sống trên bể cả làm nghề không vốn. Lão Bà Bà bằng lòng trả một số vàng lớn như thế chúng tôi bằng lòng đưa Bà Bà đi một chuyến như vậy có sao đâu. Người anh em của chúng tôi thấy Cái Bang cậy người nhiều bắt nạt người ít, cho nên mới ra tay cứu giúp mà thôi. Ðó là lòng tốt của người anh em tôi, không ngờ Tạ đại hiệp võ công cao siêu như thế. Như vậy sự ra tay của anh em tôi là thừa.

Tuy nàng bắt chước giọng đàn ông để nói, nhưng vẫn không sao che lấp được giọng nói bén nhọn, nên nghe thấy cũng phải đinh tai. Nhờ có tài hóa trang khéo léo nên Kim Hoa Bà Bà vẫn chưa nhận được nàng là ai.

Tạ Tốn giơ tay lên phẩy một cái và nói:

– Cám ơn, các người đi đi, không ngờ ngày hôm nay Kim Mao Sư Vương vì mắt mù bị người ta hà hiếp, lại được Cự Kình Bang trợ giúp như vậy, không ngờ ta cách biệt giang hồ hai mươi năm trong võ lâm lại xuất hiện nhiều người tài năng. Biết thế ta chả cần trở về Trung Nguyên nữa.

Nói tới hai câu sau cùng, giọng nói của đại hiệp có vẻ rầu rĩ cảm khái vô cùng. Thì ra, đại hiệp nghe tiếng bảy hòn đá của Vô Kỵ ném ra mạnh vô cùng, nên mới kinh hãi, sao trong võ lâm lại có người có kình lực đến thế.

Ðại hiệp cảm khái là vì ngày hôm nay nếu không nhờ thanh đao Ðồ Long này thì khó mà thoát khỏi tay lũ quỷ kia.

Kim Hoa Bà Bà thấy vậy liền hỏi:

– Tạ hiền đệ, ngu tỷ biết hiền đệ không ưa người ngoài trợ giúp nên không ra tay chắc hiền đệ không trách ngu tỷ đâu.

Vô Kỵ thấy Kim Hoa Bà Bà gọi nghĩa phụ mình là hiền đệ trong lòng hơi ngạc nhiên, chàng lại nghe thấy Tạ Tốn trả lời:

– Có gì mà trách cơ chứ! Lần nầy trở về Trung Nguyên, Bà Bà làm ơn thầm dò tin tức Vô Kỵ đứa con nuôi của tôi xem nó có còn sống không?

Vô Kỵ cảm động vô cùng, bỗng cảm thấy một bàn tay mềm mại nắm chặt tay mình. Chàng mới biết Triệu Minh không muốn mình nhận ngay Tạ Tốn lúc này, vừa rồi chàng không nghe lời nàng đột nhiên ném đá cứu viện, nên suýt xảy ra chuyện không hay. Vì vậy, chàng thấy Triệu Minh ra hiệu như vậy, đành phải cố chịu nhịn nhất thời.

Chàng lại nghe Kim Hoa Bà Bà trả lời:

– Tôi đã dò hỏi rồi, nhưng không có tin tức gì hết, nhưng tôi dám chắc y chưa chết đâu!

Tạ Tốn thở dài một tiếng, hồi lâu mới hỏi tiếp:

– Hân phu nhân, ngày hôm nay, phu nhân chớ có đánh lừa kẻ mù này. Chẳng lẽ Vô Kỵ con của tôi vẫn còn sống ở trên đời hay sao?

Kim Hoa Bà Bà lưỡng lự mãi không dám trả lời, Thù Nhi đột nhiên xen lời nói:

– Kim Hoa Bà Bà vội giơ tay trái ra nắm chặt lấy cổ tay nàng trợn trừng đôi mắt lên nhìn, vì vậy nàng không dám nói nữa.

Tạ Tốn vội hỏi:

– Hân cô nương nói đi? Có phải Bà Bà của cô lừa dối tôi không?

Nước mắt của Thù Nhi nhỏ ròng hai bên má, Kim Hoa Bà Bà giơ hữu chưởng lên để trên đầu của nàng, hễ nàng lên tiếng nói một câu gì không hợp ý bà ta là bà ta đánh xuống luôn.

Thấy bà ta đe dọa như vậy thù Nhi liền trả lời:

– Tạ đại hiệp, bà tôi không lừa dối Tạ đại hiệp đâu. Lần này chúng tôi đi Trung Nguyên quả thật không dò thấy tin tức của Trương Vô Kỵ.

Kim Hoa Bà Bà thấy nàng nói như vậy mới đổi sắc mặt vui cười, rồi thâu ngay chưởng lại.Nhưng tay trái vẫn còn nắm chặt lấy cổ tay Thù Nhi.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

– Vậy hai người đã dò thám được những tin tức gì? Minh Giáo của chúng tôi hiện giờ ra sao? Những bạn cũ của tôi hiện giờ như thế nào?

Kim Hoa Bà Bà đáp:

– Tôi không biết, vì tôi không để ý tới việc của giang hồ. Tôi chỉ mải đi tìm kiếm Diệt Tuyệt Sư thái lão ni của phái Nga Mi thôi. Tôi muốn trả được mối thù cũ, nên tôi không để ý đến việc gì khác.

Tạ Tốn nổi giận nói tiếp:

– Giỏi thật! Ở trên đảo Băng Hỏa, Hàn phu nhân đã nói gì với tôi, còn nhớ không? Phu nhân bảo vợ chồng Trương ngũ đệ của tôi đã tự tử trên núi Võ Ðang rồi. Vô Kỵ nghĩa tử của tôi trở thành đứa trẻ mồ côi không ai trông nom tới, đang lưu lạc trên giang hồ, đi đến đâu cũng bị người ta hà hiếp thảm khốc vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà vội đáp:

– Phải.

– Phu nhân còn nói y bị người ta đánh trúng một Huyền Minh thần chưởng, ngày đêm đau đớn chịu không nổi. Phu nhân có gặp y ở Hồ Ðiệp Cốc và có gọi y đến Linh Xà đảo nầy, nhưng y không chịu đi phải không?

– Phải, nếu tôi nói dối đại hiệp thì trời di đất diệt và Kim Hoa Bà Bà tôi không bằng một đứa hạ cấp của giang hồ.

– Hân cô nương, còn cô thì nói sao?

Thù Nhi đáp:

– Tôi nói lúc ấy tôi đã hết sức khuyên y đi cùng chúng tôi tới đảo Linh Xà này, y không những không chịu đi theo mà còn cắn tôi một cái. Ðây, tay vẫn còn vết thẹo hẳn hòi chớ không phải tôi nói dối đâu.

Triệu Minh bỗng nắm chặt tay Vô Kỵ, hai mắt nhìn thẳng vào mặt chàng. Mặt tỏ vẻ cười một cách chế nhạo và oán hận. Trong óc nàng nghĩ:

– Giỏi thật, anh nói dối tôi, thì ra anh biết cô bé này từ trước, mà hai người lại còn có sự liên can như thế nữa.

Vô Kỵ xấu hổ, mặt đỏ bừng, nghĩ đến Thù Nhi, người em họ của mình, trong lòng lại cảm thấy chua chát.

Chàng đang suy nghĩ đột nhiên bị Triêu Minh cắn luôn vào mu bàn tay một cái, đến chảy máu ra, nhưng Cửu Dương Thần Công trong đầu chàng phản ứng tức thì.

Tay chàng bỗng có một sức mạnh hất bắn mồm Triệu Minh ra.

Môi nàng cũng chảy máu nốt.

Cả hai đều la rên rỉ.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn Triệu Minh, không hiểu tại sao nàng đột nhiên cắn mình như thế. Chàng thấy mặt nàng vẫn tỏ vẻ tươi cười, hai má đỏ bừng tuy bị nứt bật máu tươi ra, nhưng vẫn không lấp nổi vẻ đẹp của nàng.

Chàng đang hồ nghi lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

– Ðược lắm, Hàn phu nhân, sở dĩ tôi không quản ngại đường sá xa xôi rời Băng Hỏa đảo để vế Trung Nguyên cũng chỉ vì nhớ nhung Vô Kỵ, nghĩa tử của tôi. Bà Bà nhận lời tôi đi tìm kiếm Vô Kỵ hộ, tại sao Bà Bà lại không giữ lời hứa như thế?

Vô Kỵ cảm động, nước mắt chảy quanh. Bây giờ chàng mới biết, nghĩa phụ mình không quản ngại nguy hiểm, không sợ kẻ thù giết chóc, mà trở về đất Trung Nguyên nàyđể tìm kiếm mình.

Chàng lại nghe Kim Hoa Bà Bà trả lời:

– Ngày nọ, trước khi rời khỏi Băng Hỏa, tôi có hứa tìm kiếm Trương Vô Kỵ cho đại hiệp, nhưng đại hiệp phải cho tôi mượn đao Ðồ Long. Nếu đại hiệp cho tôi mượn đao trước, lão bà nầy không bao giờ nuốt lời, thế nào cũng dò biết tin tức thiếu niên đó cho đại hiệp hay.

Tạ Tốn lắc đầu:

– Không được, Hàn phu nhân dẫn Vô Kỵ tới đây trước tôi sẽ cho mượn đao sau.

– Thế Tạ hiền đệ không tin người chị này hay sao?

– Việc đời khó nói lắm, ngay đến cha con và anh em không thể tin nhau được, huống hồ tôi với Hàn phu nhân.

Vô Kỵ biết Tạ Tốn nói như vậy là vì nghĩ đến chuyện của Thành Khôn mà nên:

Kim Hoa Bà Bà hỏi tiếp:

– Có phải Tạ hiền đệ nhất định không cho tôi mượn đao trước phải không?

Tạ Tốn đáp:

– Tôi đã tha Trần Hữu Lượng của Cái Bang xuống núi, từ nay trở đi đảo Linh Xà này sẽ không còn ngày nào yên ổn như trước nữa, rồi sẽ có rất nhiều kẻ thù của tôi tìm tiếm tới đây. Kim Mao Sư Vương bây giờ không phải Kim Mao Sư Vương năm xưa nữa, trừ thanh đao Ðồ Long này ra, tôi không còn ai che chở và giúp đỡ cho nữa, hì… hì… Vừa rồi năm người vây đánh rồi, mà hảo hán của Cự Kình Bang cũng biết cầm sẳn bảy hòn gạch, như thế đủ thấy phu nhân đã có ý muốn giết hại tôi rồi. bạn đó còn biết hoài nghi phu nhân, chẳng lẽ tôi không hoài nghi hay sao. Phu nhân chỉ mong tôi bị bọn Cái Bang giết chết rồi phu nhân ra tay giết bọn chúng sau, để cướp lại con đao Ðồ Long. tạ Tốn này tuy mắt mù nhưng lòng vẫn chưa mù. Tôi hỏi phu nhân một câu này, Tạ Tốn tôi tới Linh Xà đảo của phu nhân một cách bí mật lắm, tại sao Bang chúng của Cái Bang lại biết như vậy?

Kim Hoa Bà Bà đáp:

– Tôi đang muốn điều tra xem tại sao chúng lại hay tin như thế.

Tạ Tốn búng tay vào lưỡi đao Ðồ Long một cái rồi mới giấu thanh đao đó vào trong tay áo và nói tiếp:

– Phu nhân không chịu dò la tin tức Vô Kỵ cho tôi thì thôi, nhưng tôi cũng không dám bắt ép phu nhân. Bây giờ tôi đành tái nhập giang hồ làm cho thiên hạ đảo lộn một phen vậy.

Nói xong, y ngẩng nặt lên trời rú lên một tiếng thật dài rồi tung mình lên, chạy thẳng lên trên eo núi ở bên phía Tây. Nhưng y đi nhanh vô cùng và càng đi càng xa.

Sau cùng mọi người thấy y tiến thẳng lên trên ngọn núi ở phía Bắc của hòn đảo.

Mọi người còn thấy trên đỉnh núi có một căn nhà lá trơ trọi đoán biết ngay nhà đó thể nào cũng của Tạ đại hiệp lập nên.

Kim Hoa Bà Bà chờ Tạ Tốn đi xa rồi mới quay lại trợn trừng mắt nhìn Vô Kỵ và Triệu Minh giây lát, mồm thì quát bảo:

– Bước xuống thuyền đi.

Triệu Minh dắt tay Vô Kỵ đi xuống núi trở về thuyền liền.

Vừa đi Vô Kỵ vừa nói:

– Tôi còn phải đi thăm nghĩa phụ đã.

Triệu Minh vội hỏi:

– Khi nghĩa phụ của công tử quay người đi khỏi, đôi mắt của Kim Hoa Bà Bà lộ hung quang, chẳng hay công tử có thấy không?

Vô Kỵ đáp:

– Có, nhưng tôi không sợ mụ ta.

– Tôi thấy đảo này có nhiều sự xếp đặt rất huyền bí, nhưng không hiểu tại sao Bang chúng của Cái Bang lại tới đảo này được? Tại sao Kim Hoa Bà Bà lại biết chỗ ở của Tạ đại hiệp như thế? Tại sao mụ ta lại tìm tới Băng Hỏa đảo được. Bên trong còn có rất nhiều vấn đề khó hiểu lắm, công tử muốn đánh chết mụ ta không khó gì hết, nhưng đánh chết mụ ta rồi thì công tử không còn biết một tí gì về vấn đề khó hiểu ấy nữa.

– Tôi có muốn đánh chết mụ ta đâu. Tôi chỉ nhớ thương nghĩa phụ của tôi quá và chỉ muốn đi gặp ông ta ngay đấy thôi.

– Cách biệt nhau mười mấy năm còn được, bây giờ có phải chờ đợi thêm một vài ngày cũng chưa phải là muộn mà. Trương công tử, tôi nói như thế là muốn bảo chúng ta phải cẩn thận đề phòng Kim Hoa Bà Bà mới được. Nhưng chúng ta còn phải đề phòng cả Trần Hữu Lượng nữa.

– Trần Hữu Lượng ư? Tôi thấy người đó rất trọng nghĩa khí, kể ra y cũng là một anh hùng hảo hán đấy.

– Có thực công tử nghĩ như vậy không? Hay là công tử nói dối tôi.

– Tôi nói dối cô nương làm chi. Vừa rồi cô nương không thấy hay sao. Trần Hữu Lượng cam tâm chết thay Trịnh Trưởng Lão như vậy, chả là một hảo hán hiếm có là gì?

Thấy Vô Kỵ nói như vậy, Triệu Minh ngắm nhìn chàng một hồi rồi thở dài một tiếng, rồi mới nói tiếp:

– Trương công tử ơi. Trương công tử là giáo chủ của Minh Giáo còn phải cầm đầu bao nhiêu anh hùng hào kiệt, tốt, xấu, trung, gian, mà sao công tử lại nhẹ dạ dễ tin người như thế được.

Vô Kỵ ngạc nhiên vội hỏi lại:

– Cô nương nói sao? Tôi đã bị người ta lừa dối ư?

– Rõ ràng Trần Hữu Lượng lừa dối Tạ đại hiệp, công tử trông thấy rõ như vậy mà không hay biết gian kế của hắn hay sao?

Vô Kỵ nổi giận nhảy phắt lên và hỏi lại:

– Y lừa dối nghĩa phụ tôi?

– Lúc Tạ đại hiệp rút Ðồ Long đao ra chém một nhát, các tay cao thủ của Cái Bang liền có bốn tên bị giết chết và một tên bị thương thì Hữu Lượng võ công cao siêu đến đâu cũng không sao địch lại thanh đao Ðồ Long ấy. Trước hoàn cảnh ấy nếu y không tiến lên chịu chết thì chỉ có quỳ xuống đất van lơn thôi. Nhưng công tử thử nghĩ xem, Tạ đại hiệp không muốn để hành tung của mình tiết lộ cho người ngoài hay. Thì lúc ấy Hữu Lượng có vái lạy ba trăm cái và khóc lóc van lơn đến đâu Tạ đại hiệp cũng không tha thứ cho đâu. Chỉ có một cách giả bộ làm hiệp nghĩa thì mới lay chuyển được ý định của đại hiệp thôi.

Nàng vừa nói vừa lấy thuốc cao dán vết thương ở tay của Vô Kỵ và dùng khăn tay của mình bọc cho chàng.

Vô Kỵ thấy nàng giải thích như vậy, cho là rất có lý. Nhưng chàng trông thấy thái độ của Hữu Lượng như vậy thành thực như vậy, chàng lại bán tín bán nghi.

Triệu Minh lại nói:

– Ðược. Tôi hãy nói công tử một câu nầy, lúc Hữu Lượng nói với Tạ đại hiệp hai tay của y làm gì và chân của y làm gì?

Vì lúc ấy Vô Kỵ chỉ nhìn mặt Hữu Lượng và Tạ Tốn thôi nên không để ý đến tay chân của Hữu Lượng. Bây giờ chàng nghe Triệu Minh hỏi như vậy, liền nhắm mắt hồi tưởng giây lát rồi đáp:

– Phải đấy, lúc ấy tôi không để ý đến vấn đề đó, nhưng tôi vẫn còn nhớ y giơ tay phải lên, tay trái cứ xua lia lịa. Còn hai chân của y thì cứ đá hậu về phía sau liên tiếp. Tôi lại tưởng y tấn công lén nghĩa phụ tôi, nhưng tôi không thấy y tiến lên một chút nào hết, nên tôi không nghi ngờ nữa.

– Không ngờ Trương công tử lại ít kinh nghiệm nhận xét người đời như thế. Công tử đã biết Hữu Lượng là một người rất thông minh, trong khi y nói dối đại hiệp, y còn phòng bị đại hiệp biết rõ gian mưu ấy, nên tay y chuẩn bị một thế võ và chân y cũng chuẩn bị một thế võ nữa. Nhưng công tử có biết thế võ ở tay y là đề phòng ai thế võ ở chân là để đối phó với ai không?

Thấy Triệu Minh hỏi như vậy Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát bỗng mồ hôi lạnh toát ra ướt đẫm cả áo ngoài áo trong, và với giọng run run đáp:

– Phải rồi… thế võ ở chân là y định đá vào người Trinh Trưởng Lão đang nằm dưới đất, còn thế võ trên tay là định chộp Hân cô nương phải không?

– Ðúng lắm. Y định đá Trưởng Lão bắn vào người đại hiệp và tay chộp Hân cô nương, người đã cắn tay ăn thề với công tử để đẩy vào người đại hiệp. Như vậy đại hiệp không còn tay chân đâu mà đánh y, thế là y có dịp đào tẩu liền. Tuy y biết kế đó chưa chắc đã thật hoàn hảo, nhưng ngoài kế đó ra không còn kế nào hơn thế nữa. Nếu là tôi cũng phải làm như y vậy. Chỉ trong giây lát mà y nghĩ ra được mưu kế duy nhứt ấy, đủ thấy là một nhân vật lợi hại như thế nào.

Vô Kỵ càng nghĩ càng kinh hoảng, chàng kinh lịch từ nhỏ đến giờ đã nhiều và cũng đã gặp rất nhiều kẻ nham hiểm gian giảo rồi, nhưng chưa thấy ai lại lợi hại như Hữu Lượng. Một lát sau, chàng lại nói:

– Triệu cô nương, dù y gian giảo đến đâu cũng không qua được mắt cô nương. Như vậy đủ thấy cô nương còn lợi hại hơn y nhiều.

– Công tử nhạo báng tôi phải không. Nếu công tử sợ tôi là người nham hiểm thì xa lánh tôi ngay đừng có gần tôi nữa.

– Cô nương đã xử dụng nhiều quỷ kế đối với tôi rồi, nên việc nào tôi cũng đề phòng cô nương đôi chút.

– Công tử vẫn đề phòng tôi, tại sao tôi bôi thuốc độc vào tay công tử mà công tử không hay biết gì hết?

Vô Kỵ kinh hoảng và cảm thấy tay mình hơi tê tái và ngứa ngáy thật vội cởi khăn tay ra đưa lên mũi ngửi thử, chỉ thấy mùi thơm xông lên. Chàng biết ngay đó là một thứ thuốc dán để cho tiêu hết thịt thối ở vết thương đi. Dán cái đó lên trên vết thương ở trên tay của chàng, tuy không bị hại gì mấy, nhưng cũng bị ngứa ngáy khó chịu. Vì vậy chàng vội đi kiếm nước rửa cho thật sạch.

Triệu Minh theo sau, rửa giúp chàng.

Chàng bỗng đẩy mạnh vai nàng một cái và giận dữ nói:

– Cô nương đừng tới gần tôi nữa. Cô hại tôi như thế để làm chi? Chẳng lẽ người ta không đau đớn hay sao?

Sở dĩ Vô Kỵ đã ngửi qua mùi thuốc cao nọ rồi mà không hay thuốc ấy là thuốc độc là vì Triệu Minh có hòa chút sáp son của mình vào nên Vô Kỵ chỉ ngửi thấy mùi thơm mà không hay thuốc đó có chất độc là thế.

Triệu Minh bị chàng đẩy một cái, chỉ khúc khích cười và nói:

– Công tử hồ đồ thực. Tôi sợ công tử đau đớn chịu không nổi, nên tôi mới phải dùng phương pháp ấy để chữa cho công tử.

Vô Kỵ không thèm trả lời nàng ta, vẻ mặt hầm hầm đi thẳng xuống dưới khoang thuyền, ngồi xuống nhắm nghiền mắt lại.

Triệu Minh đi theo sau liền gọi:

– Trương công tử.

Vô Kỵ giả bộ như say.

Triệu Minh lại gọi thêm mấy tiếng nữa.

Vô Kỵ không trả lời thì chớ, lại còn ngáy rất lớn là khác.

Triệu Minh thấy vậy lẩm bẩm nói:

– Sớm biết như vậy, thà tôi bôi ngay thuốc độc vào, giết chết công tử luôn còn hơn là bị công tử làm thinh không thèm trả lời như vạy.

Vô Kỵ mở mắt ra nhìn và hỏi:

– Sao cô nương lại bảo tôi hồ đồ, không biết ai tốt ai xấu như vậy?

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Nếu tôi nói được công tử phải chịu tin và chịu phục thì sao?

– Cô cãi bướng quen rồi, tôi cãi sao nổi cô chứ?

– Tôi chưa nói công tử cũng tự biết là mình đuối lý và biết tôi có thực lòng giúp công tử rồi.

– Không đúng. Trên đời có ai như cô nương không? đã cắn sứt tay người ta không xin lỗi thì chớ, lại còn bôi thêm thuốc độc vào để cho người ta bị đau đớn như vậy. Thế mà cô nương lại còn bảo có lòng tốt giúp tôi nữa?

– Hừ, Trương Vô Kỵ, tôi hãy hỏi công tử vấn đề này đã. Tôi cắn công tử bị thương như vậy có nặng bằng công tử cắn Hân cô nương không?

Thấy nàng ta hỏi như vậy, Vô Kỵ xấu hổ mặt đỏ bừng, ấp úng đáp:

– Ðó là… là việc xưa kia rồi… Cô nương còn nhắc tới làm chi?

Hồi thứ 71

Xếp Ðặt Kế Ðộc

Triệu Minh lại nói :

– Tôi cứ thích nhắc nhở tới đấy. Tôi hỏi như vậy, công tử không chịu trả lời lại cứ đánh trống lảng như thế làm chi?

– Tôi chịu nhận, tôi cắn Hân cô nương còn nặng hơn cô cắn tôi nhưng lúc ấy vì cô ta nắm tay tôi mà võ công của tôi lại kém cô ta nhiều. Tôi giằng co mãi không sao thoát khỏi tay cô ta, lúc ấy tôi còn con nít nên cắn bừa tay của cô ta. Còn bây giờ cô khác tôi hồi ấy nhiều, cô có nhỏ như tôi hồi ấy đâu? Và tôi có nắm tay cô như cô ta nắm tay tôi định lôi tới đảo Linh Xà này đâu?

– Thế thì lạ thực. Lúc ấy cô ta lôi kéo công tử phải tới đảo Linh Xà này mà công tử nhất định không chịu tới. Sao bây giờ cô ta không mời mọc gì cả, công tử lại theo dõi cô ta tới đây? Có lẽ vì người đã lớn, trái tim cũng lớn theo nên thay đổi như vậy phải không?

Vô Kỵ xấu hổ, mặt đỏ bừng, vừa cười vừa đáp:

– Lần này cô gọi tôi tới đây chứ?

Thấy chàng nói như vậy, Triệu Minh cũng xấu hổ theo, nhưng trong lòng cảm thấy thích thú.

Hai người nhìn nhau, không nói năng gì cả, rồi cả hai đều quay đầu đi.

Triệu Minh cúi đầu, tỏ vẻ ngượng nghịu khẽ nói tiếp:

– Thôi được, chúng ta không cãi lý nữa. Nhưng công tử hãy nghe tôi nói câu này đã. Năm xưa công tử cắn cô ta một cái, khiến cô ta nhớ công tử mãi mãi. Cứ nghe lời của nàng vừa nói, đủ thấy nàng ta nhớ công tử suốt đời chứ không sai. Còn tôi cắn công tử một cái là cũng muốn công tử càng nhớ tôi mãi.

Tới lúc này,Vô Kỵ mới biết thâm ý của nàng, lòng cảm động vô cùng.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Tôi thấu cái xẹo ở tay Hân cô nương rất sâu, tôi mới nghĩ rằng, vì công tử cắn cô ta bị thương nặng như vậy, nên cô ta mới thương nhớ công tử thiết tha? Nếu tôi không cắn công tử bị thương nặng như cô ta thì… Nhưng tôi không thể nhẫn tâm cắn công tử bị thương nặng như vậy.

Tôi lại sợ cắn công tử không đau, công tử sẽ quên tôi ngay. Nghĩ đi nghĩ lại, rốt cục tôi mới cắn công tử một cái như thế và bôi thêm thuốc Khứ Hư Tiêu Cơ Tán lên, để cho vết thương của công tử loét to ra, thì công tử mới nhớ tôi mãi mãi.

Thấy Triệu Minh có ý nghĩ ngây thơ như vậy, Vô Kỵ không sao nhịn được cười. Chàng nghe những lời chót, mới hay nàng ta có cử chỉ ngu dại như thế cũng vì quá yêu thương. Rốt cục, chàng thở dài một tiếng rồi nói:

– Tôi không dám oán trách cô đâu, và sự thực tôi không biết cô có lòng tốt như thế. Nếu cô không nói ra thì tôi làm sao hiểu được thâm ý của cô? Sự thực cô chả phải làm như thế tôi cũng không sao quên cô được.

Triệu Minh thấy Vô Kỵ nói như thế liền hỏi tiếp:

– Tôi vẫn không tin công tử mến tôi như lời công tử vừa nói. Vì từ trước tới nay, tôi làm cho công tử bực mình nhiều hơn là tử tế.

– Từ giờ trở đi, quý hồ cô nương đừng có làm cho tôi bực mình nữa là xong.

Nói tới chàng cầm tay Triệu Minh đưa lên trên miệng của mình và nói tiếp:

– Bây giờ tôi cũng cắn cô nương một cái, để cô nương phải nhớ tôi mãi mãi mới được.

Triệu Minh hổ thẹn vô cùng vội dang tay ra, chạy tới cửa khoang thuyền mở cửa khoang định phi thân ra bên ngoài thì vừa va chạm phải Tiểu Siêu.

Nàng kinh hãi giựt mình và nghĩ thầm:

– Nguy tai! Có lẽ con nhỏ này đã nghe thấy hết lời nói của hai ta rồi cũng nên? Như vậy thực xấu hổ chết đi được?

Mặt đỏ bừng, nàng vội chạy lên bong thuyền để lánh mặt.

Tiểu Siêu đi tới trước mặt Vô Kỵ và thưa rằng:

– Thưa công tử, tôi trông thấy Kim Hoa Bà Bà và cô bé xấu xí đi về phía bên kia, mỗi người vác một cái túi lớn, không biết họ định làm trò quái gì thế?

Vô Kỵ thấy Tiểu Siêu vào đột ngột như thế cũng sợ nàng ta nghe thấy lời mình nói với Triệu minh nên Tiểu Siêu nói xong chàng chỉ ầm ừ mấy ttiếng.

Giây phút sau, chàng mới định thần và hỏi lại:

– Có phải hai người đi về phía Bắc, lên trên đỉnh núi tiến về chỗ cái nhà nhỏ không?

– Thưa không phải, họ đi về phía Ðông Bắc, hình như vừa đi vừa cãi lộn với nhau. Trông mặt Kim Hoa Bà Bà có vẻ tức giận lắm.

Thấy Tiểu Siêu nói như vậy, Vô Kỵ liền lên trên boong thuyền và đi về phía đàng đuôi.

Xa xa chàng trông thấy Triệu Minh đang đứng mải chăm chú nhìn xuống mặt bể, nhưng không quay người lại.

Cả hai cùng đứng yên như vậy cho tới mặt trời lặn mới trở xuống dưới khoang.

Cơm nước xong, Vô Kỵ nói với Triệu Minh và Tiểu Siêu rằng:

– Tôi đi dò thám nghĩa phụ. Hai cô ở lại thuyền canh gác, vì đi nhiều người sẽ bị Kim Hoa Bà Bà biết liền.

Triệu Minh đáp:

– Công tử không nên đi vội, chờ trời tối hẳn hãy đi thì hơn.

Vô Kỵ tán thành ý kiến của nàng, nhưng vì nhớ thương nghĩa phụ quá, chàng đợi chờ một canh ấy, tựa như đợi chờ mười năm vậy.

Thấy trời đã tối, chàng đứng dậy nhìn Triệu Minh và Tiểu Siêu mỉm cười rồi đi ra ngoài khoang. Triệu Minh liền cởi thanh Ỷ Thiên Kiếm xuống đưa cho chàng và nói:

– Công tử đem thanh kiếm này để phòng thân thì hơn.

Vô Kỵ ngạc nhiên rồi nói:

– Thôi cô nương cứ giữ lấy để phòng thân thì hơn.

– Không, vì không hiểu tại sao tôi cảm thấy lo ngại vô cùng công tử cứ đem theo thì hơn.

– Cô nương lo ngại gì thế?

– Tôi cũng không hiểu tại sao cả, nhưng tôi thấy Kim Hoa Bà Bà là người giảo hoạt khôn lường. Và Trần Hữu Lượng lại nhiều quỷ kế. Hơn nữa tôi không biết nghĩa phụ của công tử có tin công tử là người con nuôi của ông ta không… Hà, đảo này tên là Linh Xà chưa biết chừng trên đảo này có những thú dữ rắn độc rất lợi hại?… Huống hồ…

Nói tới đó, nàng ngừng lời, Vô Kỵ vội hỏi:

– Huống hồ cái gì?

Triệu Minh giơ tay lên để vào mồm, làm điệu cằn, rồi khúc khích cười.

Vô Kỵ biết nàng nói Hân Nhi người em họ của mình nên chàng lắc đầu xua tay mấy cái rồi nhảy đi luôn.

Triệu Minh liền gọi với:

– Ðỡ lấy!

Nàng vừa nói vừa ném thanh Ỷ Thiên Kiếm cho chàng.

Chàng vội bắt lấy thanh bảo kiếm, trong lòng thấy ấm áp và nghĩ thầm:

– Nàng tin ta như vậy, dám cho ta mượn cả thanh Ỷ Thiên Kiếm nữa.

Chàng cột thanh bảo kiếm lên trên vai, rồi giở khinh công ra đi về phía Bắc của hòn đảo.

Vừa đi vừa nhớ tới lời nói của Triệu Minh chỉ sợ trong những bụi lau có những thú dữ và rắn độc ẩn núp, nên chàng rất cẩn thận, và cứ kiếm những nơi không có cỏ lau mà đi. Ði được một lát, chàng đã tới dưới chân núi, chàng ngẩng đầu nhìn lên phía trên thấy căn nhà lá ở trên đỉnh núi tối đen như mực, liền nghĩ thầm:

– Có lẽ nghĩa phụ ta đã ngủ say chắc.

Chàng nghĩ như vậy, nhưng lại nghĩ tiếp:

– Nghĩa phụ ta mù hai mắt, thì thắp đèn làm chi? Biết đâu ông ta vẫn chưa ngủ…

Chàng đang suy nghĩ, bỗng văng vẳng nghe trên lưng núi ở phía trái có tiếng người nói vọng tới. Chàng vội bò tới nơi có tiếng nói đó.

Nhưng khi tới nơi chàng lại không nghe gì hết. Lúc ấy chỉ có tiếng gió Bắc thổi vào bụi cây có tiếng kêu “xào xào” thôi.

Chàng lại bò về phía trước bốn năm trượng, bỗng nghe thấy một giọng nói rất nhỏ của một người đang nói chuyện với một người khác:

– Sao mi còn không ra tay đi còn cứ đứng chần chừ mãi như thế làm chi?

Chàng nhận ra người đó chính là Kim Hoa Bà Bà, còn người trả lời mụ ta là Hân Nhi, chàng nghe người em họ của mình đáp:

– Bà làm như thế, không nên không phải với người bạn cũ tí nào, Tạ đại hiệp giao hảo với bà mấy chục năm liền, nên ông ta rất tin bà mới theo bà về Trung Nguyên như vậy.

Kim Hoa Bà Bà cười nhạt trả lời:

– Y tin ta ư? Buồn cười thật. Mi hãy còn ít tuổi, trẻ con không biết gì hết. Nếu y tin ta sao y không cho ta mượn thanh bảo đao. Sở dĩ y theo ta trở về Trung Nguyên là muốn tìm đứa con nuôi của y đấy chứ.

Thấy người đối đáp, Vô Kỵ biết Kim Hoa Bà Bà đang hạ độc kế hãm hại nghĩa phụ mình để cướp lấy thanh bảo đao. Vì vậy chàng bò lên mấy trượng nữa để nghe cho rõ.

Trong bóng tối chàng đã trông thấy hình bóng lom khom của Kim Hoa Bà Bà. Chàng còn nghe có tiếng kêu “coong” ở trước mặt bà như đồ kim khí va chạm vào núi đá vậy. Một lát sau có một tiếng kêu như thế nữa. Chàng ngạc nhiên vô cùng, nhưng sợ hai người phát giác nên không dám tiến tới gấn.

Chàng lại nghe thấy Hân Nhi nói tiếp:

– Bà định cướp bảo đao Ðồ Long của ông ta sao không giao chiến thẳng thắn, như vậy mới phải là hành vi của một người anh hùng. Kim Hoa Ngân Diệp của Linh Xà đảo đã oai trấn giang hồ bấy lâu nay, nếu bây giờ Bà Bà làm như vậy, thế nào chả bị thiên hạ hảo hán chê cười. Dù Bà Bà có cướp được thanh bảo đao đó đánh bại được nữ đệ tử phái Nga Mi đi chăng nữa cũng không vẻ vang gì mà.

Kim Hoa Bà Bà cả giận đứng thẳng người lên quát mắng:

– Con nhãi năm xưa ai đã cứu mi thoát chết, trong khi cha mi đang định giết mi? Bây giờ mi đã lớn rồi, không nghe lời Bà Bà này dạy bảo nữa. Tên Tạ Tốn có họ hàng thân thích với mi đâu, sao mi cứ bênh y như thế?

Tuy tức giận và quát mắng, Kim Hoa Bà Bà không vẫn không dám nói lớn, vì sợ Tạ Tốn nghe. Sự thật chỗ đứng của Kim Hoa Bà Bà còn cách nhà lá của Tạ Tốn rất xa, dù có lớn tiếng nói cũng chưa chắc nghe được nhưng Kim Hoa Bà Bà vẫn sợ hãi. Hân Nhi liền vứt cái túi đang vác trên vai xuống, liền có tiếng kêu “lẻng kẻng” đồng thời nàng nhảy lùi về phía sau ba bước.

Kim Hoa Bà Bà lại quát mắng tiếp:

– Mi làm gì thế. Bây giờ mi có lông cánh đầy đủ muốn bay phải không?

Hân Ly đáp:

– Thưa Bà Bà, con không bao giờ dám quên ơn Bà Bà, nhưng đại hiệp là nghĩa phụ của anh ấy.

Trong thế gian nầy không có ai ngu như mi cả, tiểu tử họ Trương đã rớt xuống thung lũng sâu muôn trượng như thế và mi lại nhge thấy Võ Liệt và Thanh Anh nói với nhau, bảo thằng nhỏ ấy đã chết rồi mà mi vẫn còn bắt chúng đem về tra khảo. Chúng đã khai đúng như thế, chẳng lẽ chuyện như vậy còn là chuyện giả hay sao? Có lẽ bây giờ xương cốt của thằng nhỏ họ Trương đã hóa thành tro rồi cũng nên, mà mi vẫn còn nhớ nhung y như vậy thật buồn cười.

-Thưa Bà Bà, dù sao con không thể quên anh ta được, cũng như Bà Bà đã nói… cái gì oan nghiệp kiếp trước…

Kim Hoa Bà Bà thở dài một tiếng rồi đổ giọng ôn hòa và nói tiếp:

– Ðừng nói năm xưa, thằng nhỏ ấy không chịu theo mi tới đảo Linh Xà nầy, mà dù nó có theo tới đây và đã kết thành phu phụ với con đi chăng nữa, thì nó cũng đã chết rồi, con đợi chờ sao được, cũng may nó chết sớm như vậy, nếu nó còn sống mà bây giờ trong thấy mặt con xấu xí như thế này, ta dám chắc y không khi nào yêu con đâu. Vậy con trông thấy yêu một thiếu nữ khác thì lòng con sẽ ra sao?

Thấy Hân Ly không nói năng gì hết. Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

– Không nói gì người khác cứ nói Chu cô nương của phái Nga Mi mà thấy trò ta đã bắt tới đây xinh đẹp như thế, thằng nhỏ họ Trương trông thấy thề nào cũng phải động lòng. Lúc ấy con giết Chu cô nương hay giết thằng nhỏ. Hù, hù… nếu con không luyện môn võ công này thì con vẫn là một giai nhân tuyệt sắc, nhưng bây giờ cái gì cũng khỏi nói nữa.

-Y đã chết rồi mặt con cũng đã bị hủy rồi còn biết nói năng chi nữa? Nhưng Tạ đại hiệp là nghĩa phụ của anh ta, con xin Bà Bà đừng có đụng tới một sợi lông chân của ông ta, con chỉ yêu cầu Bà Bà có điều này thôi, còn việc gì con cũng nghe lời Bà Bà dạy bảo.

Nói xong, nàng quỳ ngay xuống dưới đất. Thì ra Kim Hoa Bà Bà với Hân Ly đi đến Băng Hỏa đảo đón Tạ Tốn về, vì đường sá xa xôi, nên cả hai đi lẫn về tốn mất gần một năm trời và khi về tới Trung Nguyên, Kim Hoa Bà Bà không lai vãng với ai hết, vì thế việc Vô Kỵ lên làm Giáo chủ của Minh Giáo tuy đã đồn ầm khắp trong võ lâm mà Kim Hoa Bà Bà với Hân Ly không hay biết gì hết.

Kim Hoa Bà Bà ngẫm nghĩ giây lát rồi lại nói tiếp:

– Thôi được, con đứng dậy đi.

Hân Ly mừng rỡ vô cùng vội đáp:

– Cám ơn Bà Bà.

Ta nhận lời con, không giết y, nhưng ta thế nào cũng phải lấy được thanh bảo đao Ðồ Long mới thôi…

-Nhưng…

Kim Hoa Bà Bà vội ngắt lời nàng và quát bảo:

– Ðừng có nói lôi thôi nữa. Mi còn muốn làm cho Bà Bà này tức giận phải không?

Nói xong, bà ta giơ tay ném một cái, liền có tiếng kêu “coong” ngay.

Tiếp theo đó chỉ thấy bà ta giơ hai tay lên ném lia lịa và vừa ném vừa đi.

Hân Ly ôm đầu, ngồi trên một tảng đá nức nở khóc.

Vô Kỵ thấy nàng thương yêu mình như vậy trong lòng cảm động vô cùng.

Qua một lát sau, Kim Hoa Bà Bà ở ngoài mười mấy trượng quát bảo:

– Mau đưa ta.

Bất đắc dĩ Hân Nhi đành phải đưa hai cái túi vải ấy cho mụ.

Vô Kỵ thấy nàng đi tới gần Kim Hoa Bà Bà liền đuổi theo mấy bước nhìn xuống đất xem.

Chàng kinh hãi vô cùng, vì thấy dưới mặt đất cứ cách hai ba thước là có một mũi kim dài bảy tám tấc, cắm sâu vào trong đá.

Mũi kim bén nhọn khôn tả, chàng càng nhìn càng hoảng sợ, liền nghĩ thầm:

– Ðúng Kim Hoa Bà Bà địch không nổi nghĩa phụ ta, nên mới phải cắm kim dưới đất như thế. Mụ ta tưởng nghĩa phụ ta mắt mù, cắm kim châm như thế để cho nghĩa phụ mình dẫm phải dù không chết cũng bị thương nặng. Mụ ta xếp đặt như vậy ác độc thật. Mụ biết nếu ném bằng ám khí thể nào nghĩa phụ ta cũng nghe thấy tiếng gió tránh né hay chống đỡ. Nhưng xếp đặt như vậy thế nào nghĩa phụ ta cũng mắc kế. Nhưng tại sao mụ già ác độc ấy lại gọi nghĩa phụ ta là Tạ hiền đệ, không biết trước kia tình giao hảo giữa hai người có mật thiết không? Nếu phải, ta hãy đợi hai người giở mặt với nhau rồi ta sẽ tố cáo ác kế của mụ ta cho nghĩa phụ hay. Ngày hôm nay, trời đã để cho ta được tới đây, tất nhiên ta không để cho nghĩa phụ bị thương được.

Chàng quyết định như vậy, liền bó gối ngồi ở phía sau đó để chờ.

Bỗng có một luồng gió mạnh thổi tới, trong tiếng gió có lẫn tiếng lá cây rụng. Chàng biết ngay không phải tiếng lá rụng mà là tiếng chân của một người có khinh công rất cao siêu vừa nhảy tới chỗ cạnh mình. Chàng vội quay người lại nhìn, liền thấy một người có thân hìng gầy gò bé nhỏ bước đi rất lẹ, đang rón rén đi tới.

Người đó chính là Trần Hữu Lượng, trưởng lão của Cái Bang, tay y cầm một con đao rất mỏng nhưng dùng một miếng vải bọc ngoài đao để cho ánh sáng đao khỏi thấp thoáng.

Chàng thấy hành vi của Hữu Lượng lén lút như vậy, liền nghĩ thầm:

– Triệu Minh thông minh thật, nàng đoán việc gì cũng đúng. Quả nhiên việc này không phải là hiền lành.

Chàng đang nghĩ, bỗng nghe thấy Kim Hoa Bà Bà lớn tiếng kêu gọi:

– Tạ hiền đệ có cẩu tặc không sợ chết đến đấy.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nghĩ thầm:

– Kim Hoa Bà Bà lợi hại thật. Chẳng lẽ bà ta phát giác tung tích của ta chăng. Nhưng không có lý nào mụ ta lại hay biết ta ẩn núp ở nơi đây được?

Chàng thấy Hữu Lượng nằm yên trong bụi cỏ không dám cử động chút nào.

Chàng liền tiến lên mấy trượng, sở dĩ chàng tới gần như thế là phòng nghĩa phụ có bị Kim Hoa Bà Bà ám hại thì mình mới ra tay cứu kịp.

Một lát sau, chàng thấy một bóng người to lớn trong căn nhà bé nhỏ ở phía trước núi bước ra.

Người đó chính là Tạ Tốn.

Chàng thấy nghĩa phụ mình đứng trước nhà không nói năng gì hết.

Kim Hoa Bà Bà lại lớn tiếng nói tiếp:

– Tạ hiền đệ, đối với người bạn cũ thì đề phòng cẩn mật đến thế mà đối với người ngoài thì lại tin cậy như vậy. Ngày hôm nay hiền đệ để y tẩu thoát bây giờ y quay trở lại để tìm kiếm hiền đệ đấy.

Tạ Tốn lạnh lùng đáp:

– Tạ Tốn tôi là người thật thà suốt đời bị người ta lừa gạt. Hữu Lượng lại quay trở lại kiếm ta làm chi?

Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

– Những tiểu nhân giả hoạt nầy lý đến chúng làm chi. Ngày hôm nay, lúc hiền đệ tha chết cho y có biết y đang giở trò gì không. Y chuẩn bị sẳn hai thế võ, một là Sư Tử Bát Thố của phái Võ Ðang và một là Giáng Ma Thích đấu thức. Hà hà, hiền đệ có biết y chuẩn bị hai thế võ đó để định đối phó với ai không?

Tiếng cười của Kim Hoa Bà Bà như tiếng cú kêu trong đêm khuya nghe càng rùng rợn thêm.

Tạ Tốn ngẩn người ra, đã biết lời nói của Kim Hoa Bà Bà không sai chút nào, chỉ vì mắt mình mù, nên mới bị mắc hỡm Hữu Lượng.

Nghe Kim Hoa Bà Bà nói xong, Kim Mao Sư Vương lạnh lùng đáp:

– Tạ Tốn tôi bị người ta lừa dối đã nhiều lần rồi, chứ lần này có phải lần đầu tiên đâu. Những quân hèn mạt như vậy, trên giang hồ nhiều lắm, giết một tên thì chỉ thiếu một tên thôi chứ không thể nào giết sạch chúng được. Hàn phu nhân cũng là bạn tốt của tôi, tại sao lúc ấy trông thấy lại không cho tôi hay, có phải định tâm chọc tức tôi đấy không?

Lão anh hùng vừa nói tới đó, đột nhiên phi thân tới trước mặt Hữu Lượng nhanh như điện chớp vậy.

Hữu Lượng kinh hãi vô cùng, giơ đao lên chém liền.

Nhưng Tạ Tốn đã giơ tay trái lên chộp lấy con đao của y và dùng tay phải tát cho y ba cái bạt tai liền.

Tiếp theo đó Kim Mao Sư Vương chộp cổ Hữu Lượng và nói:

– Lúc nãy ta muốn giết mi như giết một con gà vậy. Nhưng Tạ Tốn đã nói trước cho phép mi mười năm sau quay trở lại kiếm ta. Nên bây giờ ta lại tha cho mi một lần nữa. Nếu lần sau ta còn gặp mi, tất nhiên ta không thể nào tha thứ được nữa.

Nói xong Tạ Tốn khẽ vứt tên nọ xuống dưới sườn núi liền.

Vô Kỵ thấy chỗ Hữu Lượng bị rớt xuống đúng là nơi Kim Hoa Bà Bà đã cắm sẳn những ngọn kim châm. Chàng đoán chắc, tên nọ bị rớt xuống đụng phải những mũi nhọn đó thể nào cũng kêu đau. Như vậy âm mưu độc kế của Kim Hoa Bà Bà sẽ bại lộ liền. Ngờ đâu, Kim Hoa Bà Bà đã lẹ tay đưa cây thiết quài ra, đẩy người Hữu Lượng một cái, tên đệ tử Cái Bang ấy liền bị đẩy bắn ra ngoài mấy trượng.

Ðồng thời mụ già đó lại nói với theo:

– Từ nay mi còn bước lên Linh Xà đảo của mụ già này, ta sẽ giết chết một trăm đệ tử của Cái Bang liền. Kim Hoa Bà Bà nói được làm được. Ngày hôm nay hãy thưởng cho mi một bông Kim Hoa trước.

Nói xong, mụ ta giơ tay trái lên ném một cái, liền có ánh sáng vàng thấp thoáng, và tiếng kêu “bộp” một tiếng, má bên phải của Hữu Lượng bị một bông Kim Hoa ném trúng liền. Bị bông hoa vàng ấy cắm ngay vào má, Hữu Lượng không sao nói lên được, nên y cứ giơ tay lên má, cắm đầu chạy xuống dưới núi luôn.

Lúc ấy Tạ Tốn đã đi tới chỗ cách trận kim nhọn không đầy ba trượng.

Vô Kỵ ẩn núp ở sau tảng đá đang ở phía trước lão hiệp, bây giờ hóa ra ở phía sau, nội công của chàng cao siêu hơn của Hữu Lượng rất nhiều nên chàng nín thở mà Tạ Tốn với Kim Hoa Bà Bà không hay biết gì hết.

Kim Hoa Bà Bà quay người lại khen ngọi:

– Tai của Tạ hiền đệ thính thật, nếu người không biết không ai dám bảo hiền đệ mắt mù đâu. Phen nầy hiền đệ trở về Trung Thổ thế nào cũng hoành hành trên hai mươi năm là ít.

Tạ Tốn đáp:

– Hàn phu nhân đừng có ngợi khen tôi như thế làm chi nữa. Nếu tai tôi thính như phu nhân nói thì sao tôi không biết tên nọ đã sửa soạn hai thế võ. Bây giờ tôi chỉ mong hay được tin tức của Vô Kỵ rồi tôi chết cũng cam tâm. Tôi có rất nhiều người thù oán, nên cái chết của tôi có thảm khốc đến đâu cũng đáng lắm. Như vậy còn nói chi là tung hoành trên giang hồ nữa.

Hộ Giáo Pháp Vương của Minh giáo ơi, hiền đệ có giết thêm vài người nữa cũng không nghĩa lý gì mà. Tạ hiền đệ hãy đưa thanh đao Ðồ Long cho tôi mượn đã.

Tạ Tốn lắc đầu không trả lời. Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

– Bây giờ chốn này đã lộ liễu rồi, hiền đệ không thể ở lại nơi đây được nữa, để tôi tìm một nơi khác ẩn khuất hơn rồi đưa hiền đệ tới đó ở tạm vài tháng, chờ tôi đem thanh đao Ðồ Long đánh bại phái Nga Mi rồi tôi sẽ hết sức tìm kiếm Trương Vô Kỵ cho hiền đệ.

Tạ Tốn lắc đầu, Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

– Tạ hiền dệ có còn nhớ tám chữ Tứ Ðại Pháp Vương Tỷ Bạch Kim Thanh không? Thiết nghĩ năm xưa chúng ta phục vụ dưới trướng của Dương giáo chủ Hân Thiên Vương. Hân hiền đệ, Bức Vương Vi hiền đệ, và tôi với chú hai người hoành hành thiên hạ, không ai địch nổi chúng ta. Ngày hôm nay, chẳng lẽ hiền đệ lại chịu để cho người chị Tỷ Sam này bị người ta khinh thị mà không ra tay trợ giúp hay sao?

Vô Kỵ nghe nói tới đó giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Nghe lời mụ ta nói chẳng lẽ mụ ta là Tỷ Sam Long Vương người đứng trên đầu của Tứ Ðại Pháp Vương của bổn giáo chăng? Sao thiên hạ lại có những chuyện kỳ lạ như thế.

Nghĩ đoạn chàng lại nghe thấy Tạ Tốn thở dài một tiếng và đáp:

-Chuyện cũ còn nhắc tới làm chi, chúng ta đã già nua cả rồi.

-Tạ hiền đệ, người chị này tuy đã già thật, nhưng hai mắt vẫn chưa hoa. Chẳng lẽ ta không nhận ra võ công của hiền đệ không tiến bộ hơn hai mươi năm trước hay sao. Hà tất hiền đệ phải khiêm tốn làm chi? Chúng ta sống ở trên đời không còn mấy tuổi nữa đâu. Theo ý ngu tỷ thì nhân lúc Tứ Ðại Pháp Vương của Minh Giáo chưa chết, chúng ta nên dắt tay nhau ra ngoài giang hồ làm một việc rất oanh liệt có hơn không?

Lúc này nhị ca với Vi hiền đệ chưa chắc còn sống sót, nhất là Vi hiền đệ bị hơi hàn độc làm nguy có lẽ đã chết lâu rồi cũng nên,

Hiền đệ đoán như vậy lầm lắm. Nói thật cho hiền đệ hay hiện giờ Bạch Mi Ưng Vương với Thanh Dực Bức Vương đang ở trên Quang Minh đỉnh, cả hai đều khoẻ mạnh như thường.

– Hân nhị ca với Vi hiền đệ trở vế Quang Minh đỉnh làm chi?

– Ðiều đó ngu tỷ không hay rõ lắm, nhưng chính mắt Hân Ly đã trông thấy và nó chính là cháu ruột của Hân hiền đệ đấy. Nó bất hiếu với cha nên cha nó định giết nó, lần đầu tiên nhờ được sư tỷ cứu giúp, lần thứ hai Vi hiền đệ ra tay cứu cho. Sau Vi hiền đệ đem nó lên Quang Minh đỉnh nhưng khi tới giữa đường thì bị ngu tỷ bắt lại đem về đây.

Nói tới đó, Kim Hoa Bà Bà quay đầu về phía Hân Ly nói tiếp:

– Hân Ly, con kể lại chuyện sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh đỉnh thế nào nói cho Tạ công công nghe đi.

Hân Ly bèn bèn đem những chuyện mà mình đã thấy ở Tây Vực kể hết cho Tạ Tốn nghe, nhưng nàng chưa lên tới Quang Minh dỉnh đã bị Kim Hoa Bà Bà bắt cóc đem về đây. Nên những chuyện đã xảy ra trên Quang Minh đỉnh như thế nào, nàng không hay biết gì hết.

Tạ Tốn càng nghe càng lo âu vội hỏi:

– Sau rồi thế nào nữa? Sau rồi thế nào nữa?…

Y không thấy Hân Ly trả lời, liền nỗi giận nói tiếp:

– Hàn phu nhân, vì việc tranh lộc Giáo chủ, phu nhân đã bất hòa với anh em chúng tôi. Nhưng tại sao bổn giáo bị nạn như thế mà phu nhân lại khoanh tay đứng nhìn. Phu nhân thử xem Hân nhị ca và Vi hiền đệ. Ngũ Tảng nhân với Ngũ Hành kỳ ai mà chẳng lên trên Quang Minh đỉnh cứu giúp bổn giáo là gì.

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng đáp:

– Tôi không lấy được con đao Ðồ Long tôi vẫn là bại tướng của Diệt Tuyệt Lão ni, như vậy dù tôi có lên trên Quang Minh đỉnh cũng không thể nào ra tay đấu với mụ ấy được. Như vậy tôi có lên trên đó cũng như là không, huống hồ ngày đó tôi hay biết chỗ ở của hiền đệ, tôi không kịp chờ đợi gì cả, tôi liền đi ngay Băng Hỏa đảo để đón hiền đệ về đây.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

– Sao Hàn phu nhân biết chỗ ở của tôi như vậy, có phải người của phái Võ Ðang nói cho phu nhân hay không?

Người của phái Võ Ðang làm sao mà biết chỗ ở của hiền đệ được. Vợ chồng Thúy Sơn bị người của các môn phái bắt ép, cả hai đành tự sát mà cũng không chịu thổ lộ chỗ ở của hiền đệ cho chúng hay. Như vậy, người của phái Võ Ðang làm sao mà biết được. Bây giờ tôi cũng không cần giấu diếm hiền đệ làm chi, nói thật cho hiền đệ biết cũng không sao. Sự thực tôi đi Tây Vực gặp một người tên Võ Liệt. Không ngờ, trong khi cha con y nói chuyện, tôi tình cờ nghe chúng nói tới chỗ ở của hiền đệ.

Vô Kỵ nghe Kim Hoa Bà Bà nói như vậy hổ thẹn vô cùng, nghĩ lại năm xưa mình bị cha con Chu Trường Linh lừa gạt, nên mới tiết lộ chỗ ở của nghĩa phụ cho cha con y hay. Nếu vì thế mà nghĩa phụ bị kẻ ám hại, mình là người phải gánh hết tội lỗi đó.

Chàng lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

– Sáu đại môn phái vây đánh Minh Giáo như vậy, rút cục ra sao? Sao lúc phu nhân tới Băng Hỏa đảo đón tôi, lại giấu không cho tôi hay tin ấy. Phen nầy phu nhân về tới Trung Nguyên chắc hay thêm nhiều tin nữa phải không?

Kim Hoa Bà Bà đáp:

– Tôi có nói cho hiền đệ biết cũng không có ích lợi gì? Thế nào chẳng bị hiền đệ trách cứ. Sự hưng vong của Minh Giáo đã không liên can gì tới tôi đã lâu. Năm xưa Tả, Hữu Quang Minh Sứ vây đánh tôi ở trên Quang Minh đỉnh như thế nào, chắc hiền đệ đã quên bẳng chuyện ấy rồi phải không? Riêng tôi vẫn nhớ kỹ lắm.

– Hà, tư thù là việc nhỏ, bảo hộ bổn giáo là việc lớn. Theo lời của phu nhân vừa nói thì phu nhân hẹp lượng quá.

– Tôi đàn bà tất nhiên rộng lượng sao bằng đàn ông? Năm xưa tôi phá cửa ra khỏi Minh Giáo, đã thề không liên can gì tới Minh Giáo nữa. Bằng không Hồ Thanh Ngưu không coi tôi là người ngoài. Và tại sao y còn bắt tôi thề nặng không trở về bổn giáo, rồi mới chịu chữa cho Ngân Diệp tiên sinh? Nói thực cho Hiền đệ hay chính tay tôi đã giết vợ chồng Hồ Ðiệp Cốc Tiên Y, vì vậy Tỷ Sam Long Vương nầy đã phạm phải giới luật lớn của bổn giáo rồi, thì còn liên can làm sao tới Minh Giáo được.

– Hàn phu nhân, tôi biết rõ tâm sự của phu nhân lắm. Phu nhân bảo mượn con đao Ðồ Long của tôi để đi trả thù phái Nga Mi, nhưng sự thực phu nhân muốn đối phó với Dương Tiêu và Phạm Dao các người thì đúng hơn. Như vậy, tôi nhất định không cho phu nhân mượn đâu.

Kim Hoa Bà Bà ho mấy tiếng, rồi hỏi tiếp:

– Tạ hiền đệ, năm xưa võ công của hiền đệ so sánh với tôi thì ai cao ai thấp?

– Lúc ấy, Tứ Ðại Pháp Vương mỗi người có một sở trường riêng.

– Ngày nay hiền đệ đã hư cả hai mắt, vậy hiền đệ có dám đấu với tôi không?

– Có phải phu nhân muốn thị mình mạnh mà định cướp bảo đao của tôi phải không? Tuy Tạ Tốn bị mù thực, nhưng có Ðồ Long đao ở trong tay cũng như là không mù.

Nói xong Tạ Tốn ngẩng mặt lên trời rú một tiếng thực dài, rồi giận dữ quát hỏi tiếp:

– Con Ngọc Diện Hỏa Hầu theo tôi hai mươi năm như bóng với hình vậy. Tại sao phu nhân lại dùng thuốc độc giết chết nó? Tôi chịu nhịn không nói ra, chứ có phải tôi không hay biết việc ấy đâu?

Vô Kỵ nghe thấy Tạ Tốn nói như vậy, rùng mình hoảng sợ, vì năm xưa con khỉ đã cứu cha mẹ chàng thoát chết và hồi chàng còn nhỏ, nó là người bạn duy nhất của chàng. Nay chàng đột nhiên nghe nói nó đã chết vậy, chàng đau lòng vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng đáp:

– Mỗi lần con khỉ ấy trông thấy Bà Bà nó cứ trợn trừng mắt lên nhìn, hình như nó muốn tấn công lén tôi vậy. Vả lại thân pháp của nó nhanh như điện chớp, không kém gì một võ lâm cao thủ. nếu tôi không đề phòng nhỡ nó tấn công trộm, có phải tôi bị nó giết chết lúc nào hay không? Tôi muốn xem nó có phải tinh khôn như người ta vẫn nói hay không? Nên tôi mới cho thuốc độc vào mấy trái mận đào để cho nó ăn thử xem, nếu nó tinh khôn thực thì thế nào cũng không ăn. Ngờ đâu, nó chỉ có hư danh thôi, chứ không phải tinh khôn thực, vừa thấy mấy trái mận đào của Bà Bà này đã nhẩy lại ăn lấy ăn để liền, và nó còn chắp tay vái chào cám ơn Bà Bà này nữa.

Vô Kỵ nghe thấy mụ ta nói như vậy, chàng càng nghe càng tức giận thêm chỉ muốn nhảy ra đánh cho Kim Hoa Bà Bà mấy cái bạt tai mới hả dạ. Nhưng chàng sực nghĩ lại:

– Tuy mụ già này quái ác thật, nhưng dù sao mụ ta cũng là người đứng đầu trong Tứ Ðại Pháp Vương của bổn giáo, ta phải nhẫn nại để thâu phục mụ ta, như vậy mới bảo toàn được lòng nghĩa khí của các anh em trong bang phái.

Tạ Tốn thở dài một tiếng, tiến lên một bước, trợn trừng đôi mắt đã mù, hướng về phía Kim Hoa Bà Bà. Tuy vậy trông đại hiệp vẫn thần oai lẫm lẫm.

Hân Ly thấy vậy hãi sợ vô cùng, vội lui về phía sau mấy bước.

Kim Hoa Bà Bà lưng vẫn khom, tay vẫn chống quài trượng, thỉnh thoảng ho vài tiếng, mụ thấy Tạ Tốn chỉ giơ tay ra đánh một cái là trúng mụ liền, nhưng mụ đứng yên không cử động gì hết, hình như không coi Tạ Tốn vào đâu.

Vô Kỵ đã thấy Bà Bà đối địch với đối phương mấy lần, võ công của mụ ta rất lợi hại và thân pháp nhanh vô cùng. Khinh công của mụ ta không kém gì Vi Nhất Tiếu. Bây giờ chàng thấy Bà Bà đứng đối diện với Tạ Tốn mà trông mụ ta ung dung như thường, không có vẻ gì gay cấn hết. Chàng liền nghĩ thầm:

– Khi Bà Bà ở trong Minh Giáo, tên tuổi còn được xếp trên ông nội ta, nghĩa phụ và Vi Bức Vương còn phải xếp tên ở dưới bà ta nữa. Như vậy đủ thấy võ công bà ta lợi hại như thế nào. Vì vậy chàng mới lo ngại cho Tạ Tốn.

Chàng lại nghe thấy chung quanh có tiếng cú kêu và gió thổi “vèo vèo” khiến cảnh tượng ấy thêm thê thảm.

Tạ Tốn với Kim Hoa Bà Bà đứng đối diện nhau, nhưng không ai tấn công ai cả, mãi một lát lâu, Tạ Tốn mới lên tiếng nói:

– Hàn phu nhân, ngày hôm nay bắt buộc tôi phải ra tay và đã trái mất lời thề kết nghĩa năm xưa của Tứ Ðại Pháp Vương chúng ta. Tạ Tốn tôi lấy làm đau lòng vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà đáp:

– Tạ hiền đệ là người rất hiền từ, nên tôi nghe người ta nói hiền đệ giết rất nhiều anh hùng hào kiệt có tên tuổi ở trên giang hồ, tôi không tin tí nào.

Tạ Tốn thở dài và đỡ lời:

– Sở dĩ tôi giết họ như thế là vì tôi muốn nóng lòng trả thù cho vợ con, nên tôi không còn suy nghĩ gì hết mà chém giết họ bừa như vậy. Tôi biết làm như thế rất có lỗi với giang hồ, ngoài ra còn có một việc tôi đã trót lầm lỡ, là xử dụng Thất thương quyền đánh chết Không Kiến Thần tăng.

Kim Hoa Bà Bà nghe nói, giật mình kinh hãi, vội hỏi trở lại:

– Có thực hiền đệ luyện được môn võ công lợi hại đó từ hồi nào thế?

Mụ ta vẫn tin võ công của mình đối địch được với Tạ Tốn. Bây giờ nghe thấy Tạ Tốn dùng quyền đánh chết Thần tăng nên mới hoảng sợ như thế.

Tạ Tốn đáp:

– Phu nhân khỏi lo sợ, sở dĩ tôi đánh chết được Không Kiến Thần tăng, là vì ông ta chỉ chịu đòn chứ không chống cự lại, sở dĩ ông ta chỉ chịu cho tôi đánh như thế là muốn siêu độ tôi đấy thôi.

– Có thế chứ, lão bà địch không nổi Thần tăng, mà hiền đệ chỉ đánh có mười ba quyền Thần tăng đã chết, như vậy hiền đệ chỉ đánh chín mười quyền cũng đủ diệt nổi lão bà này liền.

– Hàn phu nhân, năm xưa ở trên Quang Minh đỉnh, Hàn dại ca với phu nhân đối xử với tôi rất tử tế, tôi còn nhớ một lần tôi đau yếu, phu nhân đã trông nom tôi hơn một tháng trời, nên lúc nào tôi cũng ghi nhớ ơn ấy trong lòng.

Nói xong, đại hiệp vỗ áo bông phủi bụi và nói tiếp:

– Khi tôi ở hải ngoại, toàn mặc áo da thú bây giờ phu nhân may áo quần cho tôi mặc đấy thật là áo trong lẫn áo ngoài cũng đều đúng kích thước hết. Ðủ thấy tình nghĩa trên Quang Minh dỉnh năm xưa hãy còn, phu nhân đã trót giết con Ngọc Hỏa Hầu, ta cũng không nói gì hết. Thôi phu nhân đi đi, chúng ta cũng không cần tái kiến nữa, nhưng tôi nhờ phu nhân truyền hộ một tin nầy cho Vô Kỵ con tôi, tôi bảo nó đến đây gặp tôi một phen. Như vậy tiểu đệ rất cám ơn bà chị.

Kim Hoa Bà Bà gượng cười đáp:

– Thế ra hiền đệ vẫn còn nhớ những tình nghĩa năm xưa đấy. Tôi xin nói thực để hiền đệ hay từ khi Ngân Diệp đại ca khuất núi đến giờ, tôi chán sự đời lắm, nhưng vì còn mấy mối thù chưa trả nên tôi mới không chết theo Ngân Diệp đại ca là thế. Tạ hiền đệ, những nhân vật trên Quang Minh đỉnh đủ lợi hại đến thế nào và cơ mưu hơn người đến đâu, với ai chớ với người chị này thì không nghĩa lý chi hết. Nhưng riêng đối với Tạ hiền đệ thì ngu tỷ lại coi khác chẳng hay hiền đệ có biết tại sao không?

Kim Hoa Bà Bà tiến lên mấy bước, bỗng ngồi trên một tảng đá và nói tiếp:

– Năm xưa ở trên Quang Minh đỉnh chỉ có Dương Giáo chủ phu nhân với Tạ hiền đệ mà Tỷ Sam Long Vương nầy coi thuận mặt mà thôi. Từ khi ngu tỷ lấy Ngân Diệp tiên sinh đến giờ và chỉ có Dương phu nhân với hiền đệ là người không trách cứ ngu tỷ lấy nhầm chồng thôi.

Tạ Tốn cũng từ từ ngồi xuống trả lời:

– Tuy Hàn đại ca không phải là người trong bổn giáo nhưng cũng là người anh hùng. Các anh em phản đối như thế thì hơi hẹp lượng. Hà… hà… khi sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh đỉnh không biết các anh em có việc gì không?

– Tạ hiền đệ ở hải ngoại mà lúc nào cũng nhớ những việc xảy ra ở Trung Thổ. Người ta sống trên đời có mấy chục năm thôi, thoáng cái đã qua liền, hà tất phải nhớ thương đến những người quanh mình làm chi?

Hai người chỉ cách nhau có mấy thước, có thể nghe thấy tiếng hơi thở của nhau được.

Tạ Tốn thấy Kim Hoa Bà Bà cứ nói một câu lại ho lên vài ba tiếng liền hỏi:

– Năm xưa phu nhân kịch chiến với Cái Bang, bị chúng đâm trúng một cái vào phổi, từ đó tới giờ cũng chưa khỏi hay sao?

– Cứ đến mùa đông tiết trời giá lạnh là ho dữ dội. Hà… đã ho ba mươi năm ho mãi nó cũng quen rồi! Tạ hiền đệ! Tôi nghe thấy hơi thở của Tạ hiền đệ không được đều đặn, có phải vì luyện Thất Thương quyền mà nội tạng đã bị thương đấy không? Vậy hiền đệ phải nên cẩn thận mà điều dưỡng mới được.

– Cám ơn bà chị đã quan tâm như vậy.

Ðại hiệp bỗng ngửng đầu lên, hướng đầu về phía Hân Ly và kêu gọi:

– Hân Ly, cháu lại đây!

Nàng liền vâng lời đi tới bên Tạ Tốn và kêu gọi:

– Tạ công công!

Tạ Tốn lại nói tiếp:

– Cháu không dám!

Tạ Tốn vừa cười vừa nói tiếp:

– Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ của cháu không thể đả thiương được ta đâu! Cháu cứ việc ra sức mà đâm thử đi, để ta xem công lực của cháu đã đến mức nào rồi?

Hân Ly vẫn không dám đâm thử và trả lời rằng:

– Năm xưa Tạ công công với Bà Bà cháu là bạn kết nghĩa với nhau, dù có việc gì không bằng lòng nhau cũng có thể dùng lời lẽ nói với nhau, hà tất phải tranh chấp bằng con đao mãi làm chi?

Tạ Tốn gượng cười một tiếng nói tiếp:

– Cháu cứ thử đâm một ngón tay vào người của ta xem.

Bất đắc dĩ, Hân Ly phải lấy khăn tay ra bọc lấy ngón tay trỏ của mình, rồi dùng ngón tay đó mà đâm vào vai Tạ Tốn một cái. Nàng kêu lên “ối chà” một tiếngrồi người văng bắn ra xa hơn một trượng, rơi xuống đất kêu dến “bộp” một cái, cảm thấy xương trong người như đã bị gãy hết.

Kim Hoa Bà Bà không nói năng gì hết ngồi lẳng lặng nghĩ thầm:

– Tạ hiền đệ ác độc thật, sợ ta có thêm một tay trợ giúp nên ra tay trừ khử trước.

Tạ Tốn lẩm bẩm nói:

– Con nhỏ này tâm địa cũng hiền lành lắm, nó chỉ dùng có hai ba thàng chân lực và tay của nó lại lấy khăn bọc lại, không dùng Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ đả thương ta, nhưng cũng may nó có lòng hiền từ như vậy. Bằng không bây giờ nó đã bị hơi độc mà chết rồi!

Vô Kỵ nghe thấy nghĩa phụ lẩm bẩm như vậy cũng phải toát mồ hôi lạnh ra và nghĩ thầm:

– Nghĩa phụ ta đã nói muốn thủ công lực của Hân Ly ra sao, nếu nàng giở hết công lực ra thì lúc này nàng đã chết rồi cũng nên! Người trong Minh Giáo ai cũng ác độc vô cùng, riêng nghĩa phụ ta tuy hiền từ thật nhưng cũng không thể tránh được những thủ đoạn độc ác như thế!

Nhưng chàng đâu có biết Tạ Tốn định tâm diệt trừ A Ly đi để cho Kim Hoa Bà Bà khỏi có thêm một người trợ giúp, ngờ đâu A Ly không có tâm hại đại hiệp nên mới bảo toàn được tánh mạng như thế!

Tạ Tốn lại lên tiếng hỏi:

– A Ly! Sao cháu lại có lòng từ tâm đối xử với ta như thế?

A Ly đáp:

– Công công là nghĩa phụ của y, lại là… cũng vì y chưa trở về đây. Bây giờ trên đời chỉ có mình công công với cháu, hai người là còn nhớ nhung đến y mà thôi!

Tạ Tốn nghe A Ly nói như vậy, kêu “ủa” một tiếng rồi nói tiếp:

– Không ngờ cháu lại tử tế với Vô Kỵ như thế, suýt chút nữa thì ta đã lỡ tay giết chết cháu rồi. Vậy cháu hãy đi gần lại đây để ta rỉ tai nói nhõ một điều này!

Hân Ly gượng bò dậy đi tới cạnh Tạ Tốn.

Kim Mao Sư Vương rỉ tai nàng khẽ nói:

– Ta truyền thụ cho cháu một pho nội công tâm pháp, pho nội công này ta sáng tác từ trên Băng Hỏa đảo, và cũng hỗn tập hết tất cả những võ công của ta lại mà thành.

Ðại hiệp không chờ đợi Hân Ly có bằng lòng hay không, liền đọc luôn tâm pháp đó cho nàng ta nghe.

Hân Ly cố hết sức ghi nhớ.

Tạ Tốn sợ nàng không nhớ kỹ, lại đọc thêm một lần nữa, rồi mới hỏi:

– Cháu đã nhớ hết cả rồi chưa?

Hân Ly gật đầu đáp:

– Cháu đã nhớ hết cả rồi!

Hồi thứ 72

Thánh Hỏa Lục Lệnh

Tạ Tốn lại nói tiếp:

– Cháu tu luyện năm năm sẽ tiểu thành. Nhưng cháu có biết ta truyền thụ tâm pháp cho cháu để làm chi không?

Hân Ly đột nhiên khóc lớn thành tiếng và đáp:

– Cháu… cháu biết lắm! Nhưng cháu… không thể nào làm như thế được!

Tạ Tốn quát lớn:

– Cháu biết gì nào? Tại sao lại không làm được?

Nói xong, Kim Mao Sư Vương giơ chưởng lên định đánh xuống nếu Hân Ly mà nói sai thì bị Kim Mao Sư Vương giết chết liền!

– Cháu biết công công bảo cháu tìm kiếm Vô Kỵ và truyền thụ môn võ công này cho anh ấy. Cháu biết công công muốn cháu luyện thành võ công thượng thặng xong, để đi bảo vệ cho anh Vô Kỵ và không để cho những kẻ khốn nạn ám hại anh ấy nhưng… nhưng…

Hân Ly chỉ nói được hai chữ “nhưng” rồi khóc oà lên.

Tạ Tốn liền đứng dậy quát:

– Nhưng cái gì cơ chứ? Có phải con ta, Vô Kỵ đã mất mạng rồi chăng?

Hân Ly ngã luôn vào lòng Tạ đại hiệp, càng lớn tiếng khóc thêm rồi nức nở:

– Anh ấy… sáu năm trước đây, ở Tây Vực… rớt xuống vực thẳm chết rồi.

Tạ Tốn nghe nói, người run lẩy bẩy liền hỏi:

– Có thực không?

– Thực đấy! Cha con Võ Liệt đã trông thấy anh ấy chết. Cháu đã dùng Thiên Thù Thủ điểm vào người chúng bảy lần rồi lại cứu chúng sống bảy lần mới bắt chúng thốt ra tin đó, như vậy cháu chắc không thể nào là giả nữa.

Tạ Tốn ngửng mặt lên trời rú lên một tiếng rất bi đát rồi nước mắt tuôn rơi lã chã.

Vô Kỵ thấy cô em họ với nghĩa phụ của mình đau đớn như vậy không sao chịu nổi, định nhảy ra nhận cả hai người nhưng Kim Hoa Bà Bà đã lên tiếng nói:

– Tạ hiền đệ! Con nuôi của Tạ hiền đệ chết rồi, hiền đệ còn giữ thanh bảo đao Ðồ Long này làm chi nữa, chi bằng cho tôi mượn đi có hơn không?

Tạ Tốn với giọng khàn khàn đáp:

– Phu nhân giấu diếm tôi hoài, làm tôi đau khổ mãi. Muốn lấy thanh bảo đao này thì hãy giết tôi trước đã!

Nói xong, Kim Mao Sư Vương khẽ đẩy Hân Ly sang bên, rồi xé luôn vạt áo ở phía đằng trước ném vào mặt Kim Hoa Bà Bà để tỏ cho Bà Bà hay đã cắt bào đoạn nghĩa, từ nay không còn tình nghĩa gì với nhau nữa!

Khi Hân Ly kể tin Vô Kỵ chết cho Tạ Tốn hay, Kim Hoa Bà Bà định chạy lại ngăn cản, nhưng sực nghĩ thầm:

– Tạ Tốn hay tin đứa con nuôi bị chết như vậy thế nào tâm thần cũng bấn loạn, ta sẽ nhân cơ hội xông lại cướp lấy bảo đao, như vậy thế nào cũng thành công.

Nghĩ đoạn, mụ ta mới chỉ ngồi đó yên lặng và cười nhạt thôi chớ không nói năng gì hết!

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Ta có nên tiến lên lúc này nói rõ cho hai người hay để cho hai người khỏi đau lòng và cũng để cho Kim Hoa Bà Bà với nghĩa phụ ta khỏi bị tiêu hao nghĩa khí.

Chàng nghĩ đến đó bỗng nghe thấy phía bên trái có tiếng hô hấp rất nhỏ và thấy có người đang bò lần về phía mình. Tiếng hô hấp đó rất nhỏ, chỉ có tai chàng rất thính mới nghe được mà thôi, chàng liền nghĩ tiếp:

– Thế ra Kim Hoa Bà Bà ngấm ngầm mai phục những tay lợi hại trợ giúp? Như vậy thì ta cũng không nên hiện thân ra vội, để chờ xem…

Chàng liền nghe thấy có tiếng khí giới bay vù vù, mới hay Tạ Tốn và Kim Hoa Bà Bà đã ra tay đấu với nhau rồi.

Chàng đưa mắt nhìn thấy Tạ Tốn xử dụng bảo đao như một con rồng đen, lúc nhanh lúc chậm biến hóa vô chừng. Còn Kim Hoa Bà Bà sợ bảo đao sắc bén, cứ chạy quanh đại hiệp chứ không dám tới gần. Hễ thấy đại hiệp sơ hở thí bà ta xông vào tấn công tức thì.

Chờ tới khi Tạ Tốn quay đao lại chém thì bà ta lại nhảy ra ngoài tránh nó luôn. Hai người đều thuộc biết võ công của nhau nên ít ra phải đánh vài trăm hiệp mới có thể phân biệt được ai hơn ai kém. Tạ Tốn thì có bảo đao sắc bén, còn Kim Hoa Bà Bà khinh đại hiệp hai mắt không thấy đường, vì vậy hai người cứ phải dùng mưu trí ra mà đấu với nhau.

Ðang lúc ấy bỗng nghe có hai tiếng kêu “soẹt soẹt” và có ánh sáng vàng thấp thoáng. Thì ra Kim Hoa Bà Bà đã xử dụng hai bông hoa vàng để tấn công lên đối thủ.

Tạ Tốn múa thanh đao Ðồ Long gạt về phía đó, hai bông hoa vàng liền dính luôn vào bảo đao tức thì.

Thì ra bông hoa đó chế bằng gang, bên ngoài bọa vàng mà thanh đao Ðồ Long lại chế bằng chất nam châm nên hai bông hoa vàng kia mới bị bảo đao hút dính như vậy. Nếu thanh đao Ðồ Long không có chất đá nam châm như thế thì chưa chắc Tạ Tốn đã chống đỡ nổi hai bông hoa vàng đó của bà ta!

Kim Hoa Bà Bà thấy ném luôn tám bông hoa ra đều bị thanh đao Ðồ Long hút hết, bà ta bực mình vô cùng, ho lên một tiếng, vội lấy nốt mười sáu mười bảy bông hoa nữa ra, nhắm Tạ Tốn ném tới luôn khiến bảo đao của Tạ Tốn không biết đâu mà dính nữa, vì dính được bông hoa bên phía Ðông thì không dính nổi những bông hoa ở phía Tây bắn tới. Nên Kim Mao Sư Vương đành phải dùng tay áo phe phẩy. Nhờ vậy tay áo của đại hiệp hất đi được bảy tám bông hoa, còn con đao thì dính được tám bông, rồi đại hiệp quát lớn:

– Hàn phu nhân trước nay vẫn tự xưng là Tỷ Sam Long Vương nhưng phu nhân có biết, biệt hiệu của mình rất kỵ với thanh đao hay không?

Kim Hoa rùng mình một cái, có vẻ sợ hãi liền.

Nên rõ, người giỏi võ nào cũng sợ kỵ húy, vì vậy mụ ta liền nghĩ thầm:

– Ta tự xưng là Long Vương, mà con đại đao kia lại tên Ðồ Long (giết rồng) quả thật rất bất lợi cho ta.

Nghĩ đoạn, Bà Bà cất tiếng cười và nói tiếp:

– Biết đâu chiếc gậy Sát Sư Trượng của tôi lại chẳng giết chết sư tử mù trước?

Nói xong, bà ta múa gậy tấn công Tạ Tốn luôn. Vội trầm vai tránh né, Tạ Tốn bỗng kêu “ủa” một tiếng, và đi loạng choạng mấy bước, nên vai trái của đại hiệp bị gậy của Bà Bà đánh trúng liền. Nhờ có bước đi loạng choạng và vai trầm xuống đôi chút, Tạ Tốn có bị đánh trúng gậy ấy thực, nhưng chỉ bị thương rất nhẹ thôi.

Vô Kỵ thấy vậy cả mừng và khen ngợi thầm.

Vô Kỵ thấy Tạ Tốn giả bộ làm như tránh né không kịp, để chịu một gậy ấy.

Chàng liền nghĩ tiếp:

– Nghĩa phụ chỉ cần hất những bông hoa dính ở trên tay áo vào người của đối thủ, như vậy Kim Hoa Bà Bà thế nào cũng phải lùi sang bên trái, rồi nghĩa phụ giở thế Thiên Sơn Vạn Thủy ra chém luôn. Bà Bà sợ bảo đao sắc bén thế nào cũng lui sang bên trái nữa. mụ ta lui luôn hai lần như vậy, sức lực tất phải giảm bớt. Nghĩa phụ vận ngay nội công, đẩu tám bông kim hoa dính ở trên thanh đao, bắn luôn vào mình của đối thủ thì kẻ địch thế nào cũng bị thương nặng ngay.

Chàng vừa nghĩ xong, quả nhiên đã thấy có ánh sáng vàng thấp thoáng liền.

Chàng thấy Tạ Tốn đã hất những bông hoa dính ở trong tay áo bắn luôn vào người của địch thủ, và quả nhiên Kim Hoa Bà Bà lui về phía trái thực.

Vô Kỵ bỗng nghĩ ra một việc, liền kêu thầm:

– Ối chà nguy tai, thì ra Kim Hoa Bà Bà đã tương kế tựu kế?

Lúc ấy, võ công của chàng đã luyện tới mức tột độ, nên hai tay cao thủ kia muốn giở thế võ gì ra đối địch với nhau, chàng cũng hay biết trước liền.

Chàng lại thấy Tạ Tốn hất những kim hoa dính ở trên đao bắn vào thân hình của đối thủ. Chỉ thấy Kim Hoa Bà Bà kêu “ối chà” một tiếng, rồi chân đi loạng choạng và nhảy lùi về phía sau mấy bước.

Tạ Tốn là người rất quyết liệt, đã cắt vạt áo đoạn nghĩa với Kim Hoa Bà Bà rồi, nên ra tay không nhường nhịn chút nào. Y biết Bà Bà đã vấp một cái suýt ngã, liền nhảy xổ lại múa đao chém kẻ địch luôn.

Y bỗng nghe Hân Ly lớn tiếng gọi:

– Cẩn thận, dưới chân có kim châm đấy.

Tạ Tốn nghe thấy Hân Ly kêu như vậy, ngẩn người ra định thâu chân ngừng bước, nhưng đã muộn rồi. Ðồng thời đại hiệp còn nghe thấy tiếng kêu “vèo vèo” liên hồi, và có tới mười mấy bông Kim hoa phi tới.

Lúc ấy Tạ Tốn đang lơ lửng trên cao, không sao lui về phía sau tránh né được.

Thì ra Kim Hoa Bà Bà đã suy tính từ trước, mụ ta định tâm lùi như thế và chờ đợi khi Tạ Tốn nhảy xổ tới, liền ném luôn Kim hoa, bắt buộc đối thủ phải đưa người sang và hạ thân xuống để tránh né, như vậy địch thủ thế nào cũng dẩm phải những mũi kim sắc bén của mụ đã xếp đặt sẳn.

Quả nhiên Tạ Tốn phải hạ chân xuống chỗ có kim và tay thì múa đao để chống đỡ những bông Kim hoa của đối phương.

Trong lúc y đang hạ chân xuống bỗng nghe thấy có một tiếng kêu “coong coong” rất khẽ. Y thấy đã đứng xuống đất rồi, mà không việc gì hết, liền rờ xem, thấy xung quanh có những mũi kim rất sắc bén cắm sâu vào trong đá thực, riêng mấy mũi kim chỗ y đứng đã bị người nào dùng đá ném gãy hết.

Y vừa kinh hãi, vừa cả giận, trong lòng nghĩ:

– Xét thủ pháp dùng đá nhỏ ném gãy kim như vậy, chỉ có thiếu niên của Cự Kình Bang ném bảy viên đá hồi nãy mới có thể ném trúng được như thế thôi? Y ẩn núp gần đây dòm ngó đã lâu mà ta không hay biết gì hết, đủ thấy khinh công của y lợi hại biết bao?

Ðại hiệp càng nghĩ càng hoảng sợ, mồ hôi lạnh toát ra như mưa.

Vừa rồi cả hai người đều xử dụng kế khổ nhục để ám hại nhau. Tạ Tốn chịu để cho đối thủ đánh một gậy vào vai thực, và Kim Hoa Bà Bà cũng chịu để cho hai bông Kim hoa bắn trúng. Tuy hai người đều không bị thương nặng, nhưng cả hai cũng thấy vết thương khá đau, vì sức đánh và sức ném của đối thủ mạnh hơn sức của người thường nhiều, nên Kim Hoa Bà Bà phải ho mấy tiếng, rồi quay về phía Vô Kỵ ẩn núp lên tiếng hỏi:

– Tiểu tử của Cự Kình Bang kia tên họ là chi? Sao dám phá bĩnh Bà Bà đôi ba phen như thế để làm chi?

Vô Kỵ chưa kịp trả lời thì đột nhiên thấy có ánh sáng thấp thoáng và thấy Hân Ly kêu “hự” một tiếng, nàng đã bị ba bông hoa bắn trúng.

Thì ra Kim Hoa Bà Bà nhận ra võ công của Vô Kỵ không kém gì mình nên mụ mới ra tay trừng trị Hân Ly trước và đoán chắc Vô Kỵ thế nào cũng ra tay cản trở, vì vậy mụ ta nói chuyện với Vô Kỵ để cho chàng không phòng bị rồi mụ ta liền trái tay ném luôn ba bông hoa vào ngực Hân Ly.

Mục tiêu của mụ ta chính là chỗ chí mạng của nàng nọ, nên Vô Kỵ mới kinh hãi phi thân ra bắt hai bông hoa đó, và vừa hạ chân xuống đất liền ôm ngay Hân Ly vào lòng.

Lúc ấy Hân Ly còn tỉnh bỗng thấy một người đàn ông có râu, ôm mình vào lòng, nàng vội dùng tay kháng cự, nhưng nàng vừa dùng sức, mồm đã phun ra mấy đống máu tươi liền!

Vô Kỵ liền tĩnh ngộ ngay, vôi giơ tay lên xoa mặt và bỏ bộ râu ra.

Hân Ly đã trông thấy rõ mặt chàng liền kêu gọi:

– Anh A Ngưu! Anh đấy à? Trời ơi!…

Vô Kỵ mỉm cười đáp:

– Phải! Chính tôi đây!

Lúc đó Hân Ly mới khoan tâm và chết giấc liền.

Vô Kỵ thấy nàng bị thương nặng không dám rút mũi ám khí trong người nàng ra, chỉ điểm những nơi yếu huyệt để tim của nàng khỏi ngừng đập mà thôi.

Chàng nghe thấy Tạ Tốn lớn tiếng nói:

– Các hạ hai lần ra tay cứu giúp, Tạ Tốn tôi xin cảm ơn vô cùng!

Vô Kỵ nức nở khóc:

– Nghĩa… Nghĩa… hà tất…

Ðang lúc ấy từ đằng xa bỗng có một tiếng “coong” vọng tới, tiếng kêu đó rất khẽ nhưng nghe rất êm tai.

Tạ Tốn, Vô Kỵ cả Kim Hoa Bà Bà đều nghe tiếng kêu đó, cả ba đều rùng mình kinh hãi, vì ba người nghe tiếng động đó không khác gì như một tiếng sấm động vang cả trời đất vậy, nên cả ba mới kinh hãi như thế.

Vô Kỵ vội trấn tĩnh tâm thần, chàng lại nghe thấy một tiếng động nữa, nhưng lần này tiếng động đó lại phát ra rất gần, chỉ cách chỗ chàng độ vài chục trượng thôi. Chàng rất kinh ngạc vì nhận thấy tiếng động đó sao lại đi một cách nhanh chóng đến thế?

Nhưng chàng nhận thấy tiếng kêu sau với tiếng kêu trước hơi khác nhau, tuy cũng đoạt phách kinh hồn nhưng không đến nỗi kinh hồn như trước! Chàng biết người tới đó thế nào cũng là một dị nhân nên chàng không dám khinh địch một chút nào, liền ẳm Hân Ly đứng dậy.

Lại đột nhiên có một tiếng kêu “coong”, bốn bên sơn cốc đều có tiếng vang vọng lại tựa như trăm nghìn cái chuông cùng khua động một lúc!

Trong tiếng kêu đó, bỗng có ba người xuất hiện ra trước mặt.

Chàng đưa mắt nhìn về phía đó, thấy ba người đều ăn mặc áo bào trắng lớn rộng, hai người trong bọn thân hình rất cao lớn, còn người đứng bên phía trái là một thiếu nữ.

Cả ba người đều đứng dưới bóng trăng nên chàng không sao thấy rõ mặt. Tuy vậy chàng trông thấy góc áo bào của người nào cũng có thêu một ngọn lửa màu đỏ, chàng nhận ra ngay đó là dấu hiệu của Minh Giáo.

Người đứng giữa thân hình cao lớn nhất liền cất tiếng nói:

– Thánh Hỏa Lệnh của Minh Giáo đã đến. Hộ Giáo Long Vương và Sư Vương sao không quỳ xuống nghênh đón? Còn đợi chờ chừng nào nữa?

Lời nói của người đó rất ngượng nghịu, hình như y vừa mới học nói vậy.

Chàng giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Trong di ngôn của Giáo chủ có nói: Thánh Hỏa Lệnh của bổn giáo đã thất lạc vào tay của Cái Bang từ Thạch Giáo chủ, giáo chủ đời thứ ba mươi mốt của bổn giáo, cho tới ngày nay vẫn chưa kiếm lại được, không hiểu tại sao lại lọt vào tay ba người này như vậy? Không biết Thánh Hỏa Lệnh nầy là thực hay giả? Ba người nầy không biết có phải là người của bổn giáo không?

Trong lúc chàng đang thắc mắc đã nghe Kim Hoa Bà Bà lên tiếng đỡ lời:

– Bổn nhân đã phá cửa xuất giáo rồi, các người đừng có nhắc nhở bốn chữ Hộ Giáo Long Vương với Bà Bà nầy nữa! Chẳng hay các hạ quý tính đại danh là chi? Thánh Hỏa Lệnh nầy các hạ kiếm ở đâu ra thế? Chẳng hay nó là thật hay giả?

Người nọ lớn tiếng đáp:

– Mụ đã phá cửa xuất giáo, còn nói lôi thôi như thế làm chi?

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng nói tiếp:

– Trong đời Kim Hoa Bà Bà này chưa hề bị ai la lớn nửa tiếng. Năm xưa dù Dương Giáo chủ còn sống đối với mụ này cũng còn phải kính nể ba thành. Ngươi là người như thế nào ở trong Minh Giáo lại lớn tiếng kêu gọi tên tuổi ta như vậy?

Chỉ thoáng cái ba người nọ đã phi thân đến gấn Bà Bà giơ tay trái lên chộp Bà Bà.

Kim Hoa Bà Bà giơ quài trượng lên gạt ngang một cái, nhưng không hiểu chân của ba người đó xê dịch như thế nào, mà đã lướt ra phía sau Kim Hoa Bà Bà liền, nên trượng của Kim Hoa Bà Bà đánh hụt luôn, đồng thời cổ của mụ ta đã bị một người chộp trúng và mụ ta đã bị người đó ném ra xa liền!

Vô Kỵ thấy ba người đó thân pháp quái dị và võ công cao siêu như thếcũng phải kinh hãi, thất thanh kêu “ủa” một tiếng đồng thời chàng đã nhận ra thân pháp và thủ pháp của người đó đều giống như Càn Khôn Ðại Nã Di Thân Pháp vậy!

Chàng liền nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ ba người này cũng luyện thành võ công cao siêu như nhau chăng?

Trong lúc ba người đó vừa tới, Tiếng động rất lớn kia đã làm cho Hân Ly thức tỉnh, nàng mở mắt ra thấy mình đang nằm ở trong tay của Vô Kỵ, nàng cảm thấy rất khoan khoái, nhưng vết thương ở trước ngực đau đớn khôn tả khiến nàng lại nhắm nghiền mắt, cố gượng chịu đau nhưng nàng đã mê man không còn nghĩ ngợi được gì cả.

Ba người nọ vừa xê dịch thân hình một cái, chỉ có ánh sáng trăng hơi chiếu qua mặt họ một chút, Vô Kỵ đã nhận ra được mặt của họ liền.

Chàng thấy người cao nhất, râu xồm mắt xanh. Còn người thứ hai, râu vàng, mũi két, cả hai đều là người Hồ. Còn thiếu nữ thì tóc đen, trông như người Hán vậy, nhưng đôi ngươi của nàng ta rất nhợt hầu như không có mầu sắc gì hết. Mặt nàng lại rất đẹp, chàng thấy vậy nghĩ thầm:

– Thì ra ba người này đều là người Hồ hết, thảo nào họ nói tiếng Hán không sõi và chậm chạp như thế!

Chàng lại nghe thấy người râu xồm lên tiếng nói tiếp:

– Thấy Thánh Hỏa Lệnh như thấy Giáo chủ, sao Tạ Tốn không chịu quỳ xuống nghênh đón?

Tạ Tốn đáp:

– Chẳng hay ba vị là ai? Nếu là đệ tử của bổn giáo thì Tạ Tốn tôi phải quen biết. Nếu ba vị không phải là người của bổn giáo thì Thánh Hỏa Lệnh nầy không có gì liên can đến ba vị cả.

Người râu xồm vội hỏi:

– Minh Giáo xuất xứ ở đâu?

Tạ Tốn đáp:

– Nguồn gốc của Minh Giáo ở Ba Tư.

– Ta là Lưu Vân sứ giả của Tổng Giáo ở Ba Tư, còn hai vị nầy là Diệu Phong sứ giả, thừa lệnh Tổng Giáo Chủ đặc biệt tới Trung Thổ nầy.

Tạ Tốn với Vô Kỵ nghe người đó nói như thế đều ngẩn người ra.

Vô Kỵ đã được đọc cuốn Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký của Dương Tiêu viết, chàng biết Minh Giáo quả thật xuất xứ ở Ba Tư, bây giờ chàng thấy ba người này quả thật là người Hồ ở nước Ba Tư, võ công và thân pháp của họ quái dị như vậy tất nhiên không phải là giả dối.

Vì vậy chàng không nói năng gì hết và chỉ lặng lẽ để nghe Tạ Tốn đối đáp ra sao? Chàng lại nghe thấy Diệu Phong sứ giả, người râu vàng lên tiếng nói:

– Giáo chủ của chúng tôi nhận được tin biết Giáo chủ của chi phái ở Trung Thổ mất tích, các đệ tử đang tàn sát lẫn nhau, vì vậy thế lực của bổn giáo ngày một suy đồi, cho nên mới sai Vân Phong Nguyệt, ba sứ giả đến đây để chỉnh đốn lại chi giáo, khiến người trên người dưới đều phải thừa lệnh Tổng Giáo chủ và không được tàn sát lẫn nhau nữa.

Vô Kỵ nghe thấy người đó nói như vậy liền nghĩ thầm:

– Tổng Giáo chủ có hiệu lệnh truyền tới như vậy thì thật may mắn lắm, ta đỡ phải gánh lấy trọng trách nầy nữa. Vì ta hãy còn ít kinh nghiệm, nếu có gánh vác trọng trách nầy mãi thì thế nào cũng làm lỡ hết đại sự.

Chàng đang nghĩ lại nghe thấy Tạ Tốn lên tiếng nói:

– Tuy Minh Giáo ở Trung Thổ xuất xư ở Ba Tư thật nhưng hơn nghìn năm nay đã độc lập thành một môn phái riêng và không bao giờ chịu để cho Tổng Giáo ở Ba Tư quản thúc hết. Ba vị ở đường xa tới Trung Thổ, Tạ Tốn tôi rất hoan nghênh, còn bảo Tạ Tốn tôi quỳ tiếp thì chúng tôi không có lễ phép ấy!

Lưu Vân sứ giả thò tay vào trong túi áo lấy ra hai cái thẻ bài dài chừng hai thước, không phải làm bằng vàng mà cũng không phải chế bằng ngọc. Người đó cầm hai cái thẻ bài gõ vào nhau đến “coong” một tiếng. Tiếng quái dị đúng là tiếng động mà Vô Kỵ đã nghe thấy hồi nãy. Lúc này vì đứng cách nhau rất gần, tiếng kêu đó lại càng làm cho mọi người chịu không nổi. Cũng may Lưu Vân sứ giả chỉ gõ một cái thôi chứ không gõ thêm một cái nữa.

Gõ xong, y liền nói tiếp:

– Ðây là Thánh Hỏa Lệnh của Minh Giáo, ở Trung Thổ, Thạch Giáo Chủ của đời trước hư hỏng mới để cho Cái Bang lấy mất Thánh Hỏa Lệnh này đi, nay chúng tôi đã lấy lại được, đem lại đây, vậy các người thấy Thánh Hỏa Lệnh này cũng như thấy Giáo chủ, tại sao Tạ Tốn nghe lệnh mà không chịu quỳ xuống nghênh tiếp?

Lúc Tạ Tốn gia nhập Minh Giáo, Thánh Hỏa Lệnh đã bị mất khá lâu, nên đại hiệp chưa được trông thấy bao giờ, nhưng đã nghe các vị tiền bối kể lại những sự linh dị của lệnh đó như thế nào rồi. Nên y biết ngay sáu miếng ngọc bài của sáu người kia cầm chính là Thánh Hỏa Lệnh của bổn giáo thực sự. Huống hồ y còn nhận thấy ba người đó chỉ ra tay một cái đã vứt được Kim Hoa Bà Bà đi xa liền. Y tự biết võ công của mình không hơn gì Kim Hoa Bà Bà, dù có kháng cự chưa chắc đã thắng nổi ba kẻ địch ấy, nên y liền đáp:

– Tại hạ tin lời nói của các hạ là thực, nhưng không hiểu các hạ định chỉ bảo điều gì thế?

Lưu Vân đưa tay trái lên phẩy một cái.

Diệu Phong và Huy Nguyệt đã hiểu ý ngay, liền tung mình lên nhảy với Lưu Vân cùng một lúc.

Họ chỉ nhảy mấy cái đã phi thân tới chỗ Kim Hoa Bà Bà liền, Kim Hoa Bà Bà vội vàng lấy sáu bông Kim hoa ra ném luôn vào ba vị sứ giả một lúc.

Nhưng ba sứ giả ấy chỉ nhảy vài cái đã tránh né được hết. Huy Nguyệt liền phi thân lại gần Kim Hoa Bà Bà, giơ tay búp măng ra định điểm vào yếu huyệt ở trên yết hầu Bà Bà.

Kim Hoa Bà Bà vôi giơ quài trượng lên chống đỡ và còn tấn công thêm một thế trượng nữa.

Vô Kỵ bỗng thấy Kim Hoa Bà Bà tung mình nhảy lên, nhưng tới khi chàng nhìn kỹ mới hay, không phải là bà ta tự nhảy lên mà là bà ta bị Lưu Vân với Diệu Phong chụp cổ túm lên.

Như vậy, chắc bà ta đã bị đối thủ điểm trúng yếu huyệt ở sau lưng, không sao cử động được, nên mới để yên cho hai đối thủ chộp cổ và túm lên như thế.

Tiếp theo đó, Huy Nguyệt còn điểm thêm bảy nơi yếu huyệt ở trên người của Bà Bà.

Vô Kỵ thấy ba sứ giả ra tay nhanh và lợi hại như vậy liền nghĩ thầm:

– Thân pháp và võ công của ba người không có điểm nào hơn người khác hết, nhưng họ chỉ phối hợp rất khéo léo thôi. Cũng như vừa rồi, Huy Nguyệt ở phía trước để dụ địch, còn hai ngươi kia thì rón rén nhảy tới ra tay bắt Kim Hoa Bà Bà luôn. Sự thực võ công của từng người một chưa chắc đã cao siêu hơn Kim Hoa Bà Bà được…

Chàng đang nghĩ, đã thấy Lưu Vân khẽ hất tay một cái Kim Hoa Bà Bà đã bị ném xuống chỗ trước mặt của Tạ Tốn liền.

Rồi Lưu Vân tiến tới gần nói với Tạ Tốn rằng:

– Tạ Sư Vương, qui luật của bổn giáo có phải đã gia nhập bổn giáo rồi suốt đời không được phản bội bổn giáo phải không?

Người này tự nhận là khóa cửa xuất giáo, mụ ta là phản đồ của bổn giáo. Sư Vương dem mụ ta đi xử trảm ngay.

Tạ Tốn ngẩn người ra đáp:

– Minh Giáo của Trung Thổ xưa nay không có luật lệ ấy.

Lưu Vân lạnh lùng nói tiếp:

– Từ nay trở đi Minh Giáo ở Trung Thổ phải nghe hiệu lệnh của Tổng Giáo ở Ba Tư. Vừa rồi mụ già đã xếp đặt âm mưu độc kế giết hại người, hành vi bỉ ổi của mụ đều lọt cả vào mắt chúng ta, để mụ ấy ở lại trần gian chỉ gây tai họa cho người thôi. Vậy ngươi mau mau nghe lệnh diệt trừ mụ đi.

Tạ Tốn nghênh ngang trả lời:

– Năm xưa, Hàn phu nhân đối đãi với Tạ Tốn tôi rất tử tế. Tứ Vương của Minh Giáo coi nhau như ruột thịt, tuy ngày hôm nay bà ta đối với Tạ mỗ vong tình, nhưng Tạ mỗ không thể nào bất nghĩa mà ra tay giết bà ta được.

Diệu Phong Sứ nghe Tạ Tốn nói như vậy ha hả cười một hồi rồi xen lời nói:

– Người Trung Quốc nào cũng vậy, không khác gì đàn bà con gái, làm việc gì cũng không cả quyết. Ngươi còn nói lôi thôi làm chi nữa, mụ già định hại ngươi mà ngươi lại không dám ra tay giết mụ ta, như vậy là có nghĩa lý gì? Thực lạ lùng quá?

Tạ Tốn lại nói:

– Các vị nói thế rất lầm, xưa nay Tạ mỗ giết người không chớp mắt nhưng không bao giờ ra tay giết những người đồng giáo với mình.

Huy Nguyệt cũng xen lời nói:

– Nhưng lần này mi phải giết mụ ta mới được. Nếu ngươi không giết mụ ấy tức là không nghe hiệu lệnh, chúng ta sẽ giết ngươi trước.

Tạ Tốn liền hỏi lại:

– Ba vị tới Trung Thổ, việc thứ nhứt là ép Kim Mao Sư Vương giết Tỷ Sam Long Vương. Ba vị làm như thế là muốn lập oai và doạ nạt người phải không?

Huy Nguyệt mỉm cười đáp:

– Hai mắt tuy mù, đầu óc vẫn còn sáng suốt, ngươi mau ra tay giết mụ ấy đi, còn chần chờ gì nữa.

Tạ Tốn ngửng mặt lên trời lớn tiếng cười một hồi. Tiếng cười của y chấn động cả sơn cốc, cười xong y lại nói tiếp:

– Tạ Kim Mao Sư Vương xưa nay quang minh lỗi lạc. Ðừng nói ta không giết bạn cùng một giáo phái, dù người này có là kẻ thâm thù của ta đi chăng nữa, nhưng trong lúc người ta bị bao vây bắt giữ không có sức phản kháng. Tạ mỗ tôi không bao giờ giết chóc những người không kháng cự lại mình được.

Vô Kỵ nghe thấy lời nói của nghĩa phụ tràn đầy hào khí, trong lòng cũng khen ngợi thầm và dần dần có ác cảm với ba sứ giả người Ba Tư kia.

Chàng lại nghe thấy Diệu Phong nói tiếp:

– Giáo đồ của Minh Giáo thấy Thánh Hỏa Lệnh này như thấy Giáo chủ vậy. Ngươi táo gan dám phản giáo phải không?

Tạ Tốn liền nghĩ ra một kế liền hiên ngang đáp:

– Mắt của Tạ mỗ đã mù hơn hai mươi năm nay, dù ba vị có để Thánh Hỏa Lệnh trước mắt. Tạ mỗ tôi cũng không trông thấy gì hết. Vây ba vị không thể nói là Tạ mỗ tôi trong thấy Thánh Hỏa Lệnh mà không chịu nghe lệnh được.

Diêu Phong cả giận quát hỏi:

– Giỏi lắm, có phải ngươi định quyết tâm phản giáo đấy không?

Tạ Tốn lại đáp:

– Tạ mỗ không dám phản giáo, nhưng tôn chỉ của Minh Giáo xưa nay vẫn hành thiện khử ác, coi nghĩa khí trọng hơn hết. Tạ mỗ đành để cho người chém đứt đầu của mình, chứ không bao giờ chịu làm gương việc phi nghĩa ấy.

Tuy mình mẩy tay chân không cử động được, Kim Hoa Bà Bà vẫn nghe thấy những lời của Tạ Tốn vừa nói.

Vô Kỵ biết sự sống còn của nghĩa phụ mình sẽ bị giải quyết trước mắt. Chàng vội khẽ đặt Hân Ly xuống đất, nhưng chàng lại nghe thấy Lưu Vân nói tiếp:

– Người trong Minh Giáo không ai dám trái lệnh của Thánh Hỏa Lệnh, nếu người nào trái lệnh sẽ bị xử trảm tức thì.

Tạ Tốn quát lớn:

– Bổn nhân là Hộ Giáo Pháp Vương, dù Giáo chủ có muốn giết chết Tạ mỗ thì cũng phải khai đàn khẩn xin trời đất và nói rõ tội trạng rồi mới có thể giết Tạ mỗ được.

Diệu Phong cười khúc khích đáp:

– Minh Giáo ở Ba Tư làm gì có lắm quy luật bậy bạ như Minh Giáo ở Trung Thổ này?

Sứ giả vừa nói dứt, cả ba cùng rú lên một tiếng thực lớn, nhảy xổ lại.

Tạ Tốn liền múa Ðồ Long đao để bảo vệ bản thân.

Ba người sứ giả tấn công luôn ba thế mà không sao lại gần Tạ Tốn nên chúng rút Thánh Hỏa Lệnh ra cầm ở tay, rồi Huy Nguyệt phi thân tới gần, giơ Thánh Hỏa Lệnh ra nhắm ót của Tạ Tốn đánh xuống.

Tạ Tốn vội giơ đao lên chống đỡ, chỉ nghe “coong” một tiếng.

Tiếng kêu đó rất quái dị. Ðao Ðồ Long có thể chặt đứt sắt đá mà không hiểu tại sao lại không chặt gãy nổi thẻ bài Thánh Hỏa Lệnh ấy.

Lưu Vân liền lăn người qua bên trái và đã đánh trúng đùi Tạ Tốn một cái.

Kim Mao Sư Vương loạng choạng suýt ngã.

Diệu Phong giơ ngang Thánh Hỏa Lệnh điểm luôn vào yếu huyệt sau lưng y.

Nhưng Diệu Phong bỗng thấy tay mình bị nắm chặt và Thánh Hỏa Lệnh bị cướp mất.

Y kinh hãi quay người lại nhìn, thấy một thiếu niên ăn mặc lối thủy thủ và tay phải của người đó còn cầm cái thẻ bài Thánh Hỏa Lệnh.

Vừa tung mình nhảy ra, Vô Kỵ đã cướp được Thánh Hỏa Lệnh đó liền, chàng ra tay nhanh và xảo diệu vô cùng, nên Diệu Phong sứ không hay biết gì hết.

Lưu Vân sứ và Huy Nguyệt sứ thấy vậy vừa kinh hãi vừa tức giận và cùng chia làm hai bên nhảy xổ lại để tấn công, Vô Kỵ vội xoay người tránh sang bên trái, không ngờ chàng đã bị Huy Nguyệt đánh trúng một cái thẻ bài vào lưng kêu “bốp” một tiếng, Thánh Hỏa Lệnh đó không phải là vàng, sắt hay ngọc, nhưng cứng rắn vô cùng.

Vô Kỵ bị đối phương đánh trúng một cái thẻ bài vào lưng kêu “bốp” một tiếng, Thánh Hỏa Lệnh đó không phải là vàng, sắt hay ngọc nhưng cứng rắn vô cùng.

Vô Kỵ bị đối phương đánh trúng một thẻ bài thấy mặt mày tối tăm suýt ngã. Cũng may thần công hộ thể của chàng đã phản ứng tức thì, nên chàng chỉ đâm bổ về phía trước ba bước, rồi vô sự.

Ba sứ giả của Ba Tư vẫn vây đánh chàng kịch liệt.

Tay trái giơ ra, Vô Kỵ đã chụp được Thánh Hỏa Lệnh của Huy Nguyệt đang cầm.

Ngờ đâu, Huy Nguyệt bỗng buông tay ra, đuôi của cái Thánh Hỏa Lệnh đó bỗng bật lên phía trên kêu “bộp” một tiếng, trúng ngay vào cổ tay Vô Kỵ, Vô Kỵ thấy năm ngón tay tê tái đành phải buông tay ra, không dám cướpp chiếc Thánh Hỏa Lệnh ấy nữa. Huy Nguyệt nhanh tay bắt luôn cái thẻ bài đó lại.

Từ khi luyện thành Càn Khôn Ðại Nã Di Tâm Pháp, Vô Kỵ lại được Trương Tam Phong chỉ điểm cho Thái Cực Quyền. Từ đó trở đi, chàng tung hoành thiên hạ, chưa hề gặp một địch thủ nào. Chàng không ngờ bây giờ lại bị Huy Nguyệt, một thiếu nữ liên tiếp đánh trúng mình hai cái như thế. Nhất là cái đánh thứ hai trúng vào xương cổ tay, nếu chàng không có thần công hộ thể, làm giảm sức mạnh của cái thẻ bài ấy thì tay chàng đã gãy rồi.

Kinh ngạc vô cùng, Vô Kỵ không dám tấn công kẻ địch nữa, đứng ngẩn người ra nhìn xem thế võ của địch thủ như thế nào rồi mới nghĩ cách đối phó.

Ba sứ giả của Ba Tư, thấy chàng tuy bị đánh hai lần mà không bị thương gì hết, chúng cũng kinh ngạc vô cùng, chúng chưa hề thấy ai bị đánh như thế mà lại vô sự được?

Diệu Phong cúi xuống nhảy xổ tới húc vào người Vô Kỵ.

Theo võ học của Trung Nguyên thì thế húc đầu như thế là rất dại dột.

Nhưng Vô Kỵ vẫn đứng yên, chàng đoán chắc đối thủ dùng thế võ dại dột như vậy, thế nào cũng có ẩn phục thế võ lợi hại khác.

Chàng đợi chờ đầu của kẻ địch húc tới rất gần, chàng mới lui vế phía sau một bước để tránh né. Chàng thấy Lưu Vân tung mình nhảy lên định ngồi trên đầu mình. Thế võ này của địch lại càng quái dị thêm. Vì trong võ công không ai lấy mông đít tấn công một cách ngu dại như vậy bao giờ. Tuy vậy chàng vẫn nhảy sang bên tránh né, nhưng đã thấy ngực hơi đau.

Thì té ra Diệu Phong đã ngấm ngầm nhảy tới dùng khuỷu tay thúc vào ngực Vô Kỵ mà chàng không hay.

Nhưng khi đụng mình Vô Kỵ, Diệu Phong đã bị Cửu Dương Thần Công của chàng phản ứng nên người sứ giả đó bị đẩy lui về phía sau ba bước.

Tiếp theo đó y còn phải lui thêm ba bước nữa rồi mới đứng yên được.

Ba sứ giả của Ba Tư đều ngạc nhiên, mặt thất sắc, Huy Nguyệt lại múa hai cái thẻ Thánh Hỏa Lệnh, tiến lên quét ngang một thế.

Còn Lưu Vân đột nhiên ở trước mặt chàng lộn luôn ba vòng.

Vô Kỵ vừa bị Diệu Phong thúc khủyu tay vào ngực, hiện giờ vẫn còn cảm thấy đau đớn lại thấy Lưu Vân lộn lung tung như vậy, Vô Kỵ không hiểu đối phương lộn như thế có dụng ý gì, liền nghĩ thầm:

– Ta cứ tránh ra xa thì hơn.

Nghĩ đoạn, chàng liền lui sang trái một bước để tránh né. Nhưng chàng lại thấy trước mắt có ánh sáng thấp thoáng và vai bên phải đã bị Lưu Vân đánh trúng một cái thả Thánh Hỏa Lệnh liền. Chàng thấy thế công đó kỳ lạ quá, kẻ địch ra tay như thế nào mà chàng không hay biết một tí gì và chàng rõ ràng thấy Lưu Vân đang lộn vòng ở trên không, y làm sao lại giơ tay ra đánh trúng mình được?

Kinh hãi vô cùng, Vô Kỵ không dám tiếp tục đấu với chúng nữa. Tuy đã có Cửu Dương Thần Công hộ thể nhưng vai và hông của chàng đau đớn chịu không nổi. Chàng đang nghĩ nếu mình rút lui, nghĩa phụ sẽ mất mạng ngay.

Ngày hôm nay dù phải hy sinh tính mạng, chàng cũng phải cố đánh lui kẻ địch, bảo hộ tính mạng của nghĩa phụ, bèn hít một hơi thật mạnh, nghiến răng mím môi phi thân tiến lên, giơ chưởng lên tấn công ngay ngực của Lưu Vân tức thì.

Lưu Vân cũng tiến lên phi thân một lúc với chàng, và chỉ thấy kẻ địch cầm hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh gõ vào nhau kêu đến “coong” một tiếng.

Vô Kỵ bỗng thấy tâm thần hoang mang, rồi người mình ở trên không rớt thẳng xuống và thấy ngang lưng đau nhức khôn tả.

Lúc ấy chàng mới biết mình bị Diệu Phong đa trúng một cái. Diệu Phong liền bị thần công của chàng đánh bạt về phía sau, nhưng cánh tay của chàng đã bị Thánh Hỏa Lệnh của Huy Nguyệt đánh trúng.

Tạ Tốn đứng cạnh, lắng tai nghe, đã biết thiến niên của Cự Kình Bang bị kẻ địch đánh trúng mấy cái liền và đang cố gắng chống chọi, đại hiệp rất bực mình vì hai mắt đã mù nên không sao tiến lên trợ giúp cho thiếu niên đó được.

Tạ Tốn nóng lòng sốt ruột, lớn tiếng kêu gọi:

– Thiếu hiệp mau rút lui đi, đây là việc của Minh Giáo không liên can gì đến các hạ. Ngày hôm nay liên tiếp được thiếu hiệp ra tay trợ giúp như vậy, Tạ Tốn tôi cám ơn vô cùng.

Vô Kỵ cũng lớn tiếng đáp:

– Tôi… thôi đại hiệp mau chạy đi, hãy nghe lời tôi mà chạy đi.

Chàng vừa nói tới đó, đã thấy Lưu Vân múa Thánh Hỏa Lệnh đánh tới liền giơ tay ra gạt chiếc Thánh Hỏa Lệnh đó một cái. Lưu Vân không sao nắm vững chiếc Hỏa Lệnh ấy, nên Thánh Hỏa Lệnh rời khỏi tay và bắn tung lên cao, Vô Kỵ tung mình lên đặng cướp chiếc thẻ bài ấy thì đột nhiên nghe “soẹt” một tiếng, sau lưng áo của chàng đã bị Huy Nguyệt sứ xé rách, móng tay của nàng ta đã cào vào chàng sướt mấy cái lằn, đau nhức vô cùng.

Nhờ đó Lưu Vân đã cướp lại được chiếc Thánh Hỏa Lệnh kia.

Trải qua mấy hiệp đấu đó, Vô Kỵ biết rõ công lực của ba người kia, người nào cũng kém mình xa, nhưng võ học của chúng rất quái dị, và khí giới của chúng lại rất thần kỳ. Vả lại lúc nào ba người cũng xông lại tấn công chàng một lượt.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Chúng ra tay huyền bí thâm độc khôn lường. Ta chỉ cần đả thương được một tên trong bọn chúng thì trận đấu ngày hôm nay ta mới nắm chắc được phần thắng.

Nghĩ tới đó, chàng nhớ lại Diệu Phong hai lần bị đẩy té mà lần nào y cũng hình như không bị một chút nội thương nào hết.

Vô Kỵ biến đổi mấy môn quyền pháp mà vẫn không sao đánh tan được cục diện liền tay của ba người đó.

Trái lại chàng bị Thánh Hỏa Lệnh đánh trúng thêm hai cái nữa.

Lúc này ba sứ giả Ba Tư không dám dùng tay và chân chạm vào người của chàng như trước nữa.

Vì lần nào cũng vậy, chúng đánh trúng người của chàng là chúng không thấy đau đớn thì cũng bị té ngã.

Tạ Tốn quát lớn một tiếng, múa thanh đao Ðồ Long xông vào vòng chiến, nhảy tới cạnh Vô Kỵ và nói:

– Tiểu hiệp dùng đao đi.

Nói xong y liền đưa đao cho cho Vô Kỵ, Vô Kỵ vừa giơ tay ra đỡ lấy thanh đao đó và nghĩ thầm:

– May ra thần oai của thanh bảo đao này có thể đánh lui được địch cũng nên.

Tạ Tốn thấy Vô Kỵ đã cầm lấy thanh đao rồi, liền nhảy về phía sau lui ra ngoài vòng chiến.

Nhưng y đã bị Diệu Phong đánh trúng một quyền.

Y thấy ngũ tạng lục phủ như bị đảo lộn vậy, khó chịu vô cùng.

Sở dĩ Tạ Tốn bị đánh trúng quyền đó là vì quyền của đối phương rất huyền ảo, không có một tiếng động gì hết, nên y mới bị đánh trúng quyền đó như vậy.

Vô Kỵ múa đao nhắm Lưu Vân chém luôn.

Ðối phương liền giơ hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh đã dính vào thanh đao Ðồ Long liền.

Chàng thấy tay mình rung động rất mạnh, thanh đao Ðồ Long suýt rời khỏi tay chàng. Chàng kinh hãi vô cùng, vội vận hết nội lực ra nắm chặt lấy thanh đao đó.

Xưa nay Lưu Vân dùng Thánh Hỏa Lệnh để cướp khí giới của địch dễ như trở bàn tay, chưa hề bị thất thố bao giờ.

Y không ngờ lần này lại cướp hụt khí giới của Vô Kỵ, y ngạc nhiên vô cùng.

Huy Nguyệt thét một tiếng rất thanh thoát, lại giơ hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh lên đè xuống thanh đao Ðồ Long.

Thế là tứ lệnh đoạt đao, oai lực càng mạnh hơn trước nhiều.

Vô Kỵ bị thương bảy tám nơi, tuy những vết thương đó rất nhẹ, nhưng cũng làm giảm mất sức lực của chàng rất nhiều.

Lúc này chàng lại cảm thấy nửa bên người nóng ran.

Tay phải cầm cán đao, cứ run run hoài.

Chàng biết thanh đao nầy không khác gì tính mạng thứ hai của nghĩa phụ.

Bây giờ nghĩa phụ chưa biết thân phận và chân tướng của mình ra sao mà đã chịu cho mình mượn đao như vậy rồi, đủ thấy cử chỉ đó của nghĩa phụ thật là hào khí can vân. Nếu để thanh đao này mất bởi tay mình thì mặt mũi nào trông nghĩa phụ nữa.

Nghĩ tới đó, bỗng chàng quát lớn một tiếng, giơ cánh tay phải lên dồn Cửu Dương Thần Công ở bên trong vào thanh đao. Lưu Vân, Huy Nguyệt, hai sứ giả bỗng thấy thanh đao của đối phương càng ngày càng mạnh hơn trước, nên cả hai đều biến sắc mặt, kinh hãi vô cùng.

Diệu Phong thấy vậy cũng để một chiếc Thánh Hỏa Lệnh lên thanh đao Ðồ Long.

Lúc này Vô Kỵ đã phấn chấn nên một địch ba không nao núng chút nào, trong lòng còn mừng thầm là khác, và nghĩ:

– Cũng may là lúc mới vào đấu, ta đánh rơi được chiếc Thánh Hỏa Lệnh của Diệu Phong, bằng không bây giờ sáu chiếc Hỏa Lệnh đánh ta một lúc thì ta khó chống đỡ nữa.

Bốn người đều vận nội lực ra chống chọi với nhau.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Các ngươi muốn thi thố nội lực với ta thì thật là hợp ý ta quá.

Bốn người cứ đứng yên, không cử động gì cả, ai nấy củng đều vận nội lực vào khí giới của mình để hạ dối phương.

Ðột nhiên Vô Kỵ thấy ngực đau vô cùng, hình như bị một mũi kim thật nhỏ châm phải vậy…

Chàng bị kim chích đau một cái đột ngột và đau buốt tận tim phế, vì vậy con đao Ðồ Long mới bị năm chiếc Hỏa Lệnh kia hút đi.

Sự thể xảy ra đột ngột như thế mà Vô Kỵ vẫn bình tĩnh vô cùng, thuận tay chàng rút luôn thanh Ỷ Thiên kiếm ở sau lưng, dùng thế hoàn Chuyển Như Ý của Thái Cực kiếm pháp. Chỉ thấy thanh kiếm của chàng vạch một vòng, đồng thời nhằm bụng của ba sứ giả đâm luôn.

Hồi thứ 73

Tình Thâm Như Trước

Ba sứ giả vội nhảy về phía sau tránh né, Vô Kỵ cắm luôn thanh ỷ Thiên kiếm vào trong bao và giơ tay ra cướp luôn thanh đao Ðồ Long lại.

Bốn động tác: Mất đao rút kiếm, cắm kiếm cướp đao của Vô Kỵ nhanh như điện chớp. Và đó cũng là võ công thứ bảy của môn Càn khôn đại nã di.

Ba sứ giả đồng thanh kêu “ủa” một tiếng và có vẻ kinh ngạc vô cùng vì chúng thấy nội lực của ba người mà còn kém Vô Kỵ xa.

Vì chúng thất thanh kêu lên một tiếng như thế, ba chiếc Thánh hỏa lệnh của chúng bị thanh đao Ðồ Long hất luôn.

Ba người nọ vội vận nội lực cướp lại.

Thế rồi hai bên lại cầm cự nhau như trước.

Ðột nhiên Vô Kỵ thấy ở ngực như bị kim châm một cái.

Lần này Vô Kỵ đã biết cách đề phòng nên không bị đối phương cướp mất khí giới, nhưng tựa như có hình mà không có thực chất, chỉ thấy một luồng hơi lạnh phá Cửu Dương thần công của mình mà xuyên thẳng vào trong nội tạng.

Chàng biết đó là một nội lực rất âm hàn của ba vị sứ giả nọ xuất phát ở Thánh hỏa lệnh truyền ra.

Ðáng lẽ vật chí âm mà tấn công vật chí dương chưa chắc đã thắng nổi Cửu Dương thần công, nhưng vì Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công bảo hộ khắp thân thể, sức âm hàn kia lại nhỏ như sợi tóc nên âm kình đó mới xuyên qua được Cửu Dương thần công của chàng mà đả kích chàng như vậy. Tuy âm kình đó vào trong người chàng liền tiêu tán ngay, nhưng chàng cũng cảm thấy buốt tận xương.

Huy Nguyệt sứ liên tiếp vận dụng nội kình, đẩy hai mũi Thấu cốt châm tấn công lén Vô Kỵ, nhưng thấy Vô Kỵ không bị hao sức chút nào cả mà đã chống đỡ được hết nên nàng ta càng kinh hãi thêm.

Nàng lại thấy Vô Kỵ đeo thanh bảo kiếm ở ngang lưng rất sắc bén, nàng cũng muốn cướp được cả thanh bảo kiếm ấy nữa, nhưng nàng không sao rảnh tay để cướp.

Diệu phong sứ chỉ còn một cây Thánh hỏa lệnh nên tay trái trống không, đáng lẽ có thể ra tay cướp được thanh kiếm đó.

Nhưng vì đã dồn hết sức vào cánh tay phải, tay trái của y đã tê liệt như không có tay vậy. Trong khi đôi bên đang cầm cự, kẻ địch cứ liên tiếp dồn những mũi tên thấu cốt tấn công lia lịa.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Nếu đối phương cứ dùng thấu cốt châm tấn công mãi thế này có lẽ ta chịu không nổi mất!.

Nhưng chàng không có cách gì đối phó, bỗng nghe thấy tiếng hô hấp của Tạ Tốn rất nặng và nghe thấy bước chân của đại hiệp cứ tiến tới dần.

Chàng biết nghĩa phụ mình đang tiến lên định ra tay giúp đỡ mình. Nhưng lúc ấy, nội kình của bốn người đã bao khắp toàn thân, Tạ Tốn ra tay đánh vào người của kẻ địch một chưởng thì không khác gì đánh vào người của Vô Kỵ vậy.

Ðại hiệp cũng biết điều đó nên chần chờ mãi không dám ra tay.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Ta với ba sứ giả của Ba Tư không có thù oán gì hết. Vậy bây giờ cần nhất là làm sao cho nghĩa phụ thoát thân được. Nhưng nếu nghĩa phụ biết ta là Vô Kỵ thì thế nào nghĩa phụ cũng không chịu đi đâu.

Nghĩ đoạn, Vô Kỵ lớn tiếng nói:

– Tạ đại hiệp, võ công của ba sứ giả Ba Tư tuy lạ kỳ thực, nhưng tại hạ muốn thoát thân không phải là một chuyện khó. Mời đại hiệp hãy đi khỏi nơi đây, tạm tránh nhất thời, tại hạ đối phó với họ xong sẽ hoàn lại thanh đao ngay.

Ba sứ giả Ba Tư thấy chàng đấu nội lực mà còn lên tiếng nói được như thường, trong lòng kinh hãi thêm.

Tạ Tốn liền hỏi:

– Chẳng hay thiếu hiệp quý tính cao danh là gì?

Vô Kỵ chần chờ không muốn trả lời vội, liền nghĩ tiếp:

– Lúc này ta không nên cho nghĩa phụ biết ta là ai vội, bằng không nghĩa phụ thương ta và thế nào cũng quyết thí mạng với ba tên kia liền.

Nghĩ đoạn, chàng liền trả lời tiếp:

– Tại hạ họ Tăng tên là A Ngưu, sao đại hiệp không đi ngay đi, chẳng lẽ còn sợ tại hạ không chịu trả lại thanh bảo đao cho đại hiệp hay sao?

Tạ Tốn ha hả cả cười và nói tiếp:

– Tăng thiếu hiệp hà tất phải dùng lời lẽ nói khích Tạ mỗ như vậy, chúng ta can đảm tương chiến với nhau, mỗ tuổi già như vậy mà được kết giao với người bạn như thiếu hiệp, cảm thấy sung sướng vô cùng. Tăng thiếu hiệp mau rút tay và vứt thanh đao đi luôn.

Vô Kỵ biết Thất thương quyền của nghĩa phụ mình rất lợi hại, quý hồ mình đang tâm vứt con đao Ðồ Long cho kẻ địch thì quyền đó thể nào cũng đánh được Huy Nguyệt sứ, nhưng Minh giáo và tổng giáo Ba Tư sẽ gây thêm oán thù ngay. Vả lại khuyên mọi người phải dĩ hòa vi quý, nay bỗng nhiên ta giết sứ giả của tổng giáo thì hỏi rằng còn gì là phong độ của một vị giáo chủ nữa?

Nghĩ rồi chàng vội nói:

– Hãy khoan!

Và quay lại nói với Lưu Vân sứ rằng:

– Chúng ta hãy tạm ngừng tay, tại hạ có mấy lời muốn thưa cùng ba vị.

Lưu Vân sứ gật đầu tán thành.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tại hạ với Minh giáo có sự liên quan rất mật thiết, bây giờ ba vị đã cầm Thánh hỏa lệnh tới đây, tức là quý khách của tại hạ. Vừa rồi tại hạ vô lễ với quý vị, thật không phải với quý vị lắm. Bây giờ chúng ta cùng thâu lại nội lực tạm thời ngừng đấu, chẳng hay ba vị có tán thành không?

Lưu Vân sứ liền gật đầu, Vô Kỵ cả mừng liền thâu ngay nội lực và cũng thâu luôn đao Ðồ Long để ở trước ngực.

Chàng cảm thấy nội lực của ba sứ giả đó cùng rút lui liền, nhưng chàng lại cảm thấy có một luồng âm lực như đao, như kiếm, như dùi, như đục nhắm Ngọc Ðường huyệt ở trước ngực mình đâm tới.

Luồng âm lực đó tuy vô hình vô chất thật, nhưng nó không khác gì đao kiếm sắc bén, nên Vô Kỵ liền thấy hơi thở bế tắc và mình mẩy không sao cử động được.

Chàng sực nghĩ như sau:

– Sau khi ta chết, nghĩa phụ thế nào cũng không thoát khỏi bàn tay độc của chúng. Không ngờ sứ giả của tổng giáo lại vô tín nghĩa đến thế, còn Hân Ly liệu có sống sót được không? Triệu cô nương với Chu cô nương, Tiểu Siêu, tội nghiệp cho con bé ấy. Còn sự nghiệp lớn của bổn giáo là cứu dân, kháng Nguyên sau này sẽ ra sao?

Chàng vừa nghĩ đến đó, đã thấy Lưu Vân sứ giơ chiếc Thánh hỏa lệnh bên tay phải nhằm mình đánh xuống, vội vận lực dồn ra huyệt Ngọc Ðường ở trước ngực, nhưng dù sao cũng chậm hơn đối thủ.

Bỗng có một thiếu nữ lớn tiếng nói:

– Minh giáo ở Trung thổ đã tới rất đông.

Lưu Vân sứ nghe thấy nàng nọ nói như thế liền ngẩn người và ngừng tay lại không đánh chiếc Thánh hỏa lệnh ấy xuống nữa.

Ðồng thời, có một cái bóng xám như điện chớp phi tới, rút luôn thanh ỷ Thiên kiếm đeo ở ngang lưng Vô Kỵ ra, rồi cả người lẫn kiếm nhảy xổ vào trong lòng Lưu Vân sứ.

Vô Kỵ tuy không cử động được nhưng mắt còn trông thấy rõ, chàng đã nhận ngay ra người đó chính là Triệu Minh, mừng rỡ vô cùng, nhưng lại hoảng sợ ngay.

Thì ra, thế kiếm đó của Triệu Minh đang sử dụng đó là thế Ngọc tuý cô nương.

Nàng định cùng chết với kẻ địch một lúc.

Vô Kỵ biết rõ thế kiếm đó sử dụng như thế nào và kết quả của nó sẽ ra sao. Chàng biết Triệu Minh sử dụng thế kiếm này nhờ có thanh ỷ Thiên sắc bén, tất nhiên Lưu Vân sứ phải chết ngay tại chỗ và Triệu Minh cũng khó lòng thoát khỏi bàn tay độc ác của đối thủ.

Lưu Vân sứ lần đầu tiên đối địch với các tay cao thủ ở Trung Nguyên, y đấu với Vô Kỵ và còn thêm hai người nữa giúp sức cũng không sao thắng nổi đối phương. Nên y với hai người kia mới dùng gian kế mong thủ thắng. Nhưng y sắp hạ được đối thủ thì lại bỗng thấy một nhân vật, không phải là nam mà cũng không phải là nữ, nhưng thế kiếm của đối phương lợi hại vô cùng. Ðừng nói ba người của chúng liên hiệp đối phó không nổi thế kiếm đó mà cả tính mạng y cũng nguy hiểm nốt.

Trong lúc nguy cấp, y liền giơ Thánh hỏa lệnh lên đỡ thanh bảo kiếm kia, đồng thời, y lại sợ chết nên vừa đỡ một cái đã nằm xuống đất lăn ra bên ngoài luôn.

Chỉ nghe thấy kêu “coong” một tiếng, Thánh hỏa lệnh đã gạt được ỷ Thiên kiếm sang bên, nhưng má bên trái của y đã thấy lạnh buốt. Nhất thời y không biết sống chết ra sao hết, chờ tới khi y lóp ngóp bò dậy được, giơ tay lên rờ trên má, thấy nơi đó vừa ướt vừa đau nhức vô cùng.

Lúc ấy y mới biết má bên trái đã bị mũi kiếm nọ rạch mất một mảnh, cả râu lẫn da cũng bị mất hết.

Nếu Thánh hỏa lệnh không là vật báu gạt được ỷ Thiên kiếm sang bên thì đầu của y đã bị thanh kiếm đó chém đứt một mảnh rồi.

Tuy Triệu Minh mạo hiểm dùng thế kiếm đó đã đắc thắng, nhưng thanh ỷ Thiên kiếm bị đối phương hất bắn trở lại cũng chém mất một góc mũ của nàng, nên bộ tóc mây của nàng liền bị tung ra bên ngoài.

Thì ra, lúc Vô Kỵ nhảy ra để gặp Tạ Tốn, Triệu Minh đã nghĩ trước nghĩ sau.

Nàng nhận thấy Kim Hoa bà bà xảo trá và đa mưu kế, Hữu Lượng cũng đáng nghi lắm. Trên đảo Linh Xà này lại ẩn phục rất nhiều nguy cơ, nên nàng nghĩ mãi vẫn không yên tâm liền rón rén bò tới gần.

Nàng biết khinh công của mình còn non nớt, nếu tới gần một chút nữa thế nào cũng bị kẻ địch phát giác liền.

Vì vậy, nàng đành phải ngừng lại chỗ hơi xa để canh chừng.

Tới khi Vô Kỵ ra tay đấu với ba sứ giả nàng mới dám tới gần thêm.

Ðến khi nàng thấy Vô Kỵ đấu nội lực với ba sứ giả trong lòng mừng thầm và nghĩ:

– Ba tên Hồ này võ công tuy quái dị thật, nhưng nội lực của chúng bằng sao được Cửu Dương thần công Vô Kỵ.

Nàng đang nghĩ, bỗng nghe thấy Vô Kỵ lên tiếng bảo bọn người kia hãy ngừng đấu. Nàng chán ngán định lên tiếng bảo Vô Kỵ phải cẩn thận thì đối phương đã sử dụng âm kình đánh chàng rồi.

Vô Kỵ bị thương ngã lăn ra đất.

Triệu Minh thấy vậy, nóng lòng sốt ruột, không quản ngại gì hết, liền nhảy xổ ra.

Tuy nàng biết võ công của Vô Kỵ cao thâm khôn lường mà còn địch không nổi ba người kia thì mình địch sao nổi chúng?

Nhưng lúc ấy nàng không kịp nghĩ tới vấn đề đó nữa, liền nhảy xổ tới, cướp luôn thanh kiếm ỷ Thiên và sử dụng thế tuyệt học của phái Côn Luân mà nàng đã học lỏm được ở chùa Vạn Pháp ra tấn công kẻ địch.

Nàng thấy thế kiếm đó đâm được kẻ địch, liền xoay lưỡi kiếm lại nhằm người Diệu Phong sứ mà tấn công, nhưng thế kiếm này của nàng lại người ở trước mà kiếm thì ở phía sau.

Thế này gọi là thế Nhân quỹ đồng đồ là thế tuyệt học của phái Không Ðộng. Thế này sử dụng trong lúc mình kém vế hơn địch thì phải đem ra sử dụng để cùng chết luôn một thể. Lối đánh như thế rất thảm khốc, nên phái Thiếu Lâm với phái Nga Mi không có những thế độc địa như vậy.

Ngày nọ phái Côn Luân với Không Ðộng có rất nhiều tay cao thủ bị giam giữ ở chùa Vạn Pháp, những tay cao thủ đó bị nhục nhã vô cùng vì võ công và sức lực bị mất hết, không sao thắng nổi đấu thủ của bên địch. Vì vậy có vài người nóng tính, cường ngạnh một chút đã giở hai thế võ đó ra để cùng chết với đối thủ.

Triệu Minh thấy hai thế ấy độc ác như vậy, nhớ kỹ trong đầu óc và hôm nay đem ra sử dụng.

Diệu Phong sứ thấy thế công của nàng hung ác như vậy, kinh hãi vô cùng, liền cảm thấy người lạnh buốt và đứng ngẩn người ra, không cử động được nữa. Thì ra tuy y có võ công cao siêu nhưng lại rất nhát gan.

Trong đời y đã đấu rất nhiều trận mà trận nào cũng đều thắng đối thủ chớ y chưa bao giờ gặp những thế công của đối thủ lợi hại đến nỗi không có cách gì đối phó được. Vì vậy kinh hãi quá độ mà huyết mạch đều ngừng, đành thúc thủ chịu chết thôi.

Triệu Minh đã nhảy tới, người của nàng đã đụng vào Thánh hỏa lệnh của Diệu Phong sứ rồi, tay nàng ở phía sau đưa lên thật cao, nhắm lưng mình tự đâm trước. Thì ra thế kiếm này phải dùng thân hình của mình đưa vào khí giới của địch, bất cứ khí giới của địch là đao hay kiếm, đụng vào người mình cũng phải ngừng lại một chút. Rồi mình giơ kiếm lên đâm xuyên qua nách để hạ địch thủ, như vậy đối phương dù có võ công cao siêu đến đâu cũng không thể nào thoát chết được.

Diệu Phong sứ đã thấy rõ thế kiếm đó lợi hại như thế nào nên y mới ngẩn người hoảng sợ như thế. Cũng may, khí giới của y là cái thẻ sắt, không sắc bén gì cả nên người của Triệu Minh đụng vào vẫn chưa bị thương. Nhưng khi nàng vừa đưa trường kiếm đâm về phía trước thì nàng đã bị Huy Nguyệt sứ ôm chặt lấy rồi.

Ba sứ giả Ba Tư liên hiệp nghênh địch, phối hợp rất khéo léo, trên đời ít người sánh kịp, nên Triệu Minh vừa xông lên giở hai thế võ trí mạng ra tấn công đã làm cho ba tay cao thủ đó cuống cả chân tay lên.

Tới lúc này Huy Nguyệt sứ ở phía sau ôm chặt lấy Triệu Minh và cách ôm của nàng rất khéo léo nên kiếm của Triệu Minh không đâm được nữa.

Nàng thấy cánh tay mình bị ôm chặt, biết là nguy tai liền nhân lúc Huy Nguyệt sứ lôi tay mình về phía sau, đưa mũi kiếm vào bụng dưới của mình để tự sát.

Cử chỉ ấy của nàng cũng là một thế kiếm của phái Võ Ðang tên là Thiên địa đồng thọ, nhưng thế kiếm này không phải do Trương Tam Phong sáng chế ra mà là thế kiếm của Lợi Hanh nghĩ ra.

Lợi Hanh nghĩ ra thế kiếm đó là muốn cùng chết với Dương Tiêu. Vì từ khi chàng hay tin Hiểu Phù chết, trong lòng chỉ có nghĩ cách giết Dương Tiêu để trả thù thôi. Nhưng chàng tự biết võ công của mình không sao địch nổi Dương Tiêu, tuy sư phụ của chàng là đệ nhất cao thủ thực, nhưng chàng kém thông minh nên chỉ học được ba bốn thành võ công của sư phụ thôi. Chàng thấy không sao giết được Dương Tiêu thì tự mình không còn muốn sống nữa. Vì vậy chàng nghĩ mãi mới nghĩ ra được thế kiếm ác độc ấy. Trong khi luyện kiếm bị Tam Phong bắt gặp, Trương chân nhân chỉ thở dài thôi, vì biết có khuyên bảo chàng cũng không nghe. Vì thế Chân nhân mới đặt cho thế kiếm đó là Thiên Ðịa ÐồngThọ. ý nghĩa của cái tên là người tuy chết nhưng tinh thần vẫn bất hủ. Ðại đệ tử của Lợi Hanh ở chùa Vạn Pháp có thể giở thế kiếm đó ra để cùng chết với đối thủ, nhưng được Khổ Ðầu Ðà cứu kịp nên Triệu Minh mới được học thế kiếm đó và đem ra sử dụng lúc này. Thì ra thế kiếm ấy chuyên môn để đối phó với kẻ địch đứng sau và sát bên mình.

Vì thế kiếm đó đâm vào bụng mình xuyên qua phía sau và đâm luôn vào bụng kẻ địch. Thế kiếm ác độc như vậy, Huy Nguyệt Sứ làm sao tránh được nếu Diệu Phong Sứ không bị hoảng sợ đến ngẩn người ra, hay Lưu Vân Sứ đứng gần hơn một chút nữa thì may ra hai người đó có thể cứu thoát Triệu Minh và Huy Nguyệt Sứ. Nhưng chúng không thể nào ra tay cứu được hai người nên yên trí thế nào hai người nọ cũng bị thủng bụng mà chết.

Ðang lúc nguy hiểm thì Vô Kỵ đã tự giải được huyệt rồi, liền giơ tay ra cướp thanh ỷ Thiên Kiếm đó.

Triệu Minh dùng sức đẩy mạnh một cái, thoát ra khỏi lòng của Huy Nguyệt Sứ.

Nàng rất nhanh trí khôn, vội cướp lấy thẻ Thánh hỏa lệnh trong tay Vô Kỵ, ném luôn về phía xa, chỉ nghe thấy “coong” một tiếng, thẻ đó rớt ngay vào trong trận kim nhọn của Kim Hoa Bà Bà.

Ba sứ giả của Ba Tư coi Thánh hỏa lệnh đó như là tính mạng thứ hai của mình, Lưu Vân Sứ với Huy Nguyệt Sứ không nghĩ gì đến chuyện đối địch với Vô Kỵ và Triệu Minh, chúng cũng không nghĩ đến sự an nguy của Diệu Phong Sứ nữa mà cùng tung mình nhảy về phía nọ để nhặt chiếc Thánh hỏa lệnh ấy. Nhưng chúng chỉ chạy được hơn một trượng, đã sa vào trận kim nhọn mà không hay.

Vì nơi đó có lau mọc tới tận đầu gối, nên cả hai không trông thấy Thánh hỏa lệnh và những kim nhọn đâu hết. Vì vậy hai người cứ phải vừa đi vừa tìm kiếm kim để nhổ lên và vừa rờ mó xem Thánh hỏa lệnh rớt ở đâu.

Lúc ấy Diệu Phong Sứ như người nằm mơ vừa thức tỉnh, liền kinh hoàng chạy về phía đó để tìm kiếm chiếc Thánh hỏa lệnh.

Vì cứu thoát mạng của Vô Kỵ, Triệu Minh không suy nghĩ gì hết, giở luôn ba thế kiếm trí mạng như vừa rồi.

Lúc nãy nàng đã hoàn hồn, càng nghĩ lại càng hoảng sợ, liền khóc một tiếng và ngã ngay vào lòng Vô Kỵ tức thì.

Vô Kỵ giơ tay ra ôm lấy lưng nàng, trong lòng cảm động vô cùng, nhưng chàng biết ba sứ giả nọ kiếm thấy Thánh hỏa lệnh rồi thì thế nào cũng trở lại đấu tiếp, nên chàng vội nói:

– Chúng ta mau chạy đi thôi.

Nói xong, chàng quay người lại ẳm cả Hân Ly đang bị thương nặng rồi nói:

– Tạ Ðại hiệp, bây giờ chỉ có một cách tạm tránh né trong chốc lát thôi.

Tạ Tốn đáp:

– Phải.

Ðại hiệp trả lời Vô Kỵ xong, vội cúi mình giải huyệt cho Kim Hoa Bà Bà.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Trải qua đại nạn này, chắc Kim Hoa Bà Bà không còn tức giận gì nghĩa phụ ta nữa.

Thế rồi bốn người cùng chạy xuống núi.

Nhưng vừa chạy được mấy trượng, Vô Kỵ lại nghĩ tiếp:

– Tuy Hân Ly là biểu muội ta thực, nhưng dù sao vẫn nam nữ thọ thọ bất thân.

Nghĩ đoạn chàng liền trao Hân Ly cho Kim Hoa Bà Bà.

Triệu Minh đi trước dẫn đường rồi đến Kim Hoa Bà Bà và Tạ Tốn, sau cùng là Vô Kỵ đi đoạn hậu để phòng khi địch tấn công lén.

Chàng vừa chạy vừa quay đầu lại nhìn, thấy ba sứ giả hãy còn đang khom lưng tìm kiếm, càng hoảng sợ thêm.

Chàng lại nghĩ tới vết thương của Hân Ly, không biết có thể cứu chữa được không. Mấy người đang đi bỗng nghe thấy Tạ Tốn quát lớn một tiếng, rồi giơ quyền nhắm sau lưng Bà Bà đánh luôn.

Kim Hoa Bà Bà đưa tay trái về phía sau chống đỡ.

Mụ ta gạt được quyền của Tạ Tốn sang bên, vội đặt Hân Ly xuống đất.

Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới, nhưng chàng lại nghe Tạ Tốn quát:

– Hàn phu nhân, sao phu nhân lại đang tay giết hại Hân cô nương như thế?

Kim Hoa Bà Bà cười nhạt đáp:

– Hiền đệ không giết tôi, đó là việc của hiền đệ, còn việc tôi giết nó hay không giết, đó là việc của tôi, không can hệ gì đến hiền đệ.

Vô Kỵ liền đỡ lời :

– Có tôi ở đây, Bà Bà không thể tuỳ tiện giết người như thế được.

Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

– Ngày hôm nay, cậu can thiệp vào việc của người khác luôn luôn như thế chưa đủ sao?

Vô Kỵ đáp:

– Sao Bà Bà lại nói như vậy? Thôi đừng nói nữa, ba sứ giả của Ba Tư đã đuổi theo kìa, có mau chạy đi không?

Kim Hoa Bà Bà cười nhạt một tiếng và chạy luôn về phía Tây.

Nhưng mụ ta vừa chạy được mấy bước, đã trái tay ném về phía sau ba chiếc bông kim hoa.

Ba bông kim hoa đó đều nhằm sau ót của Hân Ly phi tới.

Vô Kỵ vội giơ tay ra búng, chỉ nghe tháy ba tiếng kêu “vù vù vù”, ba bông đó liền bay trở lại bắn ra phía sau Kim Hoa Bà Bà tức thì.

Thế đi của mấy bông hoa đó còn nhanh hơn những mũi tên.

Kim Hoa Bà Bà không ngờ nội lực của thiếu niên đó thâm hậu như thế, bà không dám giơ tay ra bắt, chỉ nằm phục xuống tránh né thôi.

Nhờ vậy ba bông hoa mới lướt qua mụ ta mà bay về phía trước. Tuy vậy lưng áo của mụ ta cũng bị rạch ba đường dài, không khác gì bị người ta dùng dao cắt vậy. Mụ ta hoảng sợ vô cùng, không dám quay đầu trở lại, liền giở hết khinh công tẩu thoát tức thì.

Vô Kỵ giơ tay ra ẳm Hân Ly lên, bỗng nghe thấy Triệu Minh kêu đau, hai tay ôm bụng và cứ khom lưng xuống. Chàng vội hỏi:

– Làm sao thế?

Chàng liền tiến lên hai bước, thấy tay nàng đầy những máu tươi, những kẽ tay đều có máu rỉ ra. Thì ra vì hồi nãy nàng sử dụng thế “Thiên Ðịa Ðồng Thọ”, tuy Vô Kỵ đã cướp được thanh kiếm của nàng rồi, nhưng bụng nàng vẫn bị mũi kiếm rạch một đường khá dài.

Vô Kỵ kinh hãi vô cùng, vội nói:

– Bị thương có nặng không?

Ðang lúc ấy, chàng nghe thây Diệu Phong Sứ ở trong trận Kim nhọn đang vui vẻ la lớn:

– Kiếm thấy rồi, kiếm thấy rồi.

Triệu Minh vội nói:

– Công tử để mặc tôi, chạy mau đi, chạy mau đi.

Vô Kỵ không nói năng gì hết, vội ẳm nàng lên vai lớn bước chạy xuống dưới núi liền. Triệu Minh liền đề nghị:

– Công tử luôn chạy xuống thuyền, bảo người lái đò nhổ neo đi ngay.

Vô Kỵ liền vâng lời, một tay ẳm Hân Ly, một tay ẳm Triệu Minh, chân không ngừng bước, rảo bước chạy xuống dưới núi.

Tạ Tốn đi sau lưng chàng hộ vệ, trong lòng kinh hãi thầm và nghĩ:

– Thiếu niên này lợi hại thật, hai tay ẳm hai người mà còn đi nhanh hơn ta.

Vô Kỵ đầu óc bối rối, vì hai thiếu nữ đều bị thương nặng, nếu chữa không khỏi cho một người, mình cũng sẽ ân hận suốt đời. Chàng cảm thấy mình mẩy của hai người vẫn còn ấm áp, không có vẻ gì là sắp lạnh dần cả, nên chàng cũng đỡ lo ngại phần nào.

Hãy nói ba sứ giả Ba Tư tìm được Thánh hỏa lệnh rồi liền đuổi theo bọn Vô Kỵ. Nhưng khinh công của chúng bằng sao được Vô Kỵ và Tạ Tốn.

Vô Kỵ chạy tới bờ bể liền lớn tiếng kêu gọi:

– Minh Minh quận chúa có lệnh, các thủy thủ phải giương buồm nhổ neo, mau rời khỏi nơi đây ngay.

Chờ tới khi chàng cùng Tạ Tốn chạy tới đằng mũi thuyền thì bộ hạ của Triệu Minh đã giương hết buồm lên rồi, nhưng người lái thuyền cần phải đích thân Triệu Minh ra lệnh mới dám cho thuyền chạy. Y liền lên tiếng hỏi. Vì mất sức nhiều quá, nên Triệu Minh nói rất khẽ, vội dặn bảo người lái đò rằng:

– Người… cứ nghe… lệnh của Trương công tử…

Lúc ấy, người lái đò mới chịu cho thuyền rời khỏi bến.

Khi sứ giả Ba Tư đuổi tới bờ bể thì thuyền của mọi người đã đi được mấy chục trượng xa rồi.

Vô Kỵ đặt Triệu Minh với Hân Ly nằm xếp hàng ở trong khoang.

Tiểu Siêu vội cởi áo của hai người ra để cho Vô Kỵ xem xét vết thương.

Chàng thấy vết thương ở bụng dưới của Triệu Minh sâu hơn tấc, tuy máu chảy khá nhiều nhưng không nguy hiểm đến tính mạng, còn Hân Ly thì ba bông Kim Hoa ném trúng ba nơi yếu huyệt và bông hoa nào cũng cắm vào chỗ đó rất sâu, nên chàng không dám chắc có thể chữa khỏi được cho Hân Ly hay không.

Chàng vẫn rịt thuốc và băng bó cho hai người.

Hân Ly đã mê man bất tỉnh không hay biết gì cả, còn Triệu Minh thì nước mắt ràn rụa. Vô Kỵ vội hỏi nàng thấy sao? Nàng chỉ nghiến răng mím môi chịu nhịn chứ không trả lời, Tạ Tốn liền đến gần nói với Vô Kỵ rằng:

– Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ đã tựa như sống sang một thế giới khác không ngờ về Trung Thổ lại quen biết một người bạn nghĩa khí thâm trọng như chú em.

Vô Kỵ vội đỡ nghĩa phụ ngồi trên ghế ở giữa khoang thuyền, rồi chàng quỳ xuống vái lạy vừa khóc vừa nói:

– Thưa nghĩa phụ, con Vô Kỵ bất hiếu không thể sớm ngày trở ra ngoài Băng Hỏa Ðảo để đón nghĩa phụ về đây nên nghĩa phụ mới phải chịu khổ sở vất vả như thế này.

Tạ Tốn giật mình kinh hãi vội hỏi lại:

– Chú… chú nói gì thế?…

Vô Kỵ đáp:

– Con là Trương Vô Kỵ đây.

Tạ Tốn không tin lại hỏi tiếp:

– Chú… chú em nói gì vậy?

Vô Kỵ liền đọc lại những khẩu quyết của Tạ Tốn đã dạy cho mình từ hồi còn nhỏ:

– Về môn quyền học cần nhất phải tập trung tinh thần, phải dục ý trước sức lực, như vậy mới thể thắng…

Thế rồi chàng cứ thao thao bất tuyệt đọc hết cả bài võ công yếu khuyết đó. Khi chàng đọc được hơn trăm câu, Tạ Tốn đã kinh hãi và mừng rỡ vô cùng, vội nắm lấy hai cánh tay chàng và hỏi:

– Con… có thật là Vô Kỵ của ta không?

Vô Kỵ đứng dậy ôm chặt lấy nghĩa phụ rồi chàng kể lại cho Tạ Tốn nghe qua loa những chuyện của mình từ khi về tới Trung Thổ như thế nào. Còn chàng làm giáo chủ Minh giáo thì tạm giấu không nói để Tạ Tốn khỏi phải tuân theo tôn ty trật tự của Minh giáo quỳ lạy mình. Tạ Tốn tưởng mình nằm mơ, nhưng y không thể nào không tin là sự thật, liền lẩm bẩm nói:

– Ông trời có mắt, ông trời có mắt.

Ðang lúc ấy, người lái với các thủy thủ đã la lớn:

– Thuyền của địch đã đuổi theo tới.

Vô Kỵ liền lên đuôi thuyền ngó xem thấy xa xa có một chiếc thuyền buồm thực lớn đương giương cả năm cái buồm đuổi theo tới. Trong đêm tối không sao thấy rõ được thân thuyền của địch nhưng năm cái buồm trắng đó thì rất rõ. Chàng vội bảo bọn thủy thủ rằng:

– Mau tắt đèn đi.

Chàng vừa dặn bảo xong, thuận tay cầm lấy cái bát uống nước của người lái đò, nhắm chiếc đèn bão treo ở trên cột buồm. Chỉ nghe thấy “bộp” một tiếng, ngọn đèn bão bị chàng ném tắt ngay. Tiếp theo đó là những đèn bên dưới cũng đều tắt hết. Bốn bề và thân thuyền đều tối đen như mực.

Riêng có cái buồm màu trắng không sao làm đen đi được và cũng không dám hạ buồm xuống. Vô Kỵ quay lại nhìn thấy thuyền của địch nhiều thân thuyền nhẹ nên càng đuổi càng gần. Chàng nóng lòng sốt ruột không biết tính toán như thế nào cho phải liền nghĩ thầm:

– Ðành để cho ba sứ giả của Ba Tư lên trên thuyền của chúng ta, rồi ta đấu với chúng trong khoang vậy.

Sở dĩ chàng có ý nghĩ như thế là vì trong khoang chật hẹp ba người nó khó mà hợp tác dễ dàng như ở trên bờ.

Thế rồi chàng kéo Triệu Minh với Hân Ly sang một bên, mới lên boong trở lại mang một chiếc neo lớn đem vào trong khoang để ở chỗ chính giữa dùng làm vật chướng ngại để khiến ba sứ giả đó không sao liên kết nhau được.

Chàng bố trí xong, bỗng nghe “ùm” một tiếng. Chàng thấy thân thuyền rung động rất mạnh rồi chếch sang bên một cái. Nếu mọi người trên khoang không có võ công cao cường thì đã ngã lăn lộn, rớt xuống dưới bể rồi. Tiếp đó nước bể tràn vào khoang, tên lái thuyền liền lớn tiếng hỏi:

– Thuyền của địch đã bắn đại bác! Thuyền của địch đã bắn đại bác!

Thì ra phát đại bác thứ nhất của địch bắn không trúng, chỉ bắn vào chỗ cạnh thuyền thôi. Triệu Minh liền vẫy tay Vô Kỵ lại gần.

Vô Kỵ khẽ an ủi nàng rằng:

– Em đừng sợ.

Triệu Minh với giọng yếu ớt đáp:

– Ðại ca, ta cũng có đại bác đấy.

Vô Kỵ mới sực nhớ ra thuyền này là chiếc chiến thuyền nguỵ trang, nên chàng vội chạy lên boong chỉ huy các thủy thủ dọn hết những đồ nguỵ trang rồi nhét thuốc súng và sắt vụn vào trong đại bác.

Chàng ra lệnh cho châm ngòi. “Bùng”, một tiếng bắn trả lại thuyền địch một phát. Nhưng những bọn thủy thủ đó đều là thủ hạ võ sĩ của Triệu Minh võ công tuy rất cao siêu, nhưng không phải là thủy thủ chính thức, nên không biết sử dụng đại bác. Vì vậy, phát đạn đó bắn không trúng, nên thuyền địch không việc gì hết, nhưng nhờ vậy mà thuyền địch không dám đến gần nữa.

Một lát sau, thuyền địch lại bắn phát thứ hai trúng ngay vào mũi thuyền của chàng.

Lửa liền bốc cháy.

Vô Kỵ vội chỉ huy thủy thủ múc nước cứu hỏa, chàng lại thấy khoang trên cũng có lửa bốc lên. Chàng liền xách hai thùng nước dùng chân đạp tung cửa, chạy vào bên trong, nhờ vậy mới dập tắt được ngọn lửa.

Trong khói mịt mù, chàng thấy một thiếu nữ nằm ở trên giường.

Thiếu nữ đó chính là Chỉ Nhược, mình mẩy đã ướt đẫm.

Chàng vội vứt thùng nước xuống chạy vào trong phòng hỏi:

– Chu cô nương có việc gì không?

Chỉ Nhược gật đầu. Nàng trông thấy Vô Kỵ đột nhiên xuất hiện thì vô cùng kinh dị.

Khi nàng cử động tay chân, Vô Kỵ liền nghe thấy tiếng “loảng xoảng” của xích sắt, lúc ấy mới biết chân tay của nàng đã bị Kim Hoa Bà Bà dùng xích xiềng chặt.

Vô Kỵ vội chạy xuống khoang dưới lấy thanh ỷ Thiên kiếm lên chặt xiềng và khoá cho Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược liền hỏi:

– Trương giáo chủ, sao giáo chủ lại biết mà tới đây?

Vô Kỵ chưa kịp trả lời thì thuyền của chàng lại rung động mạnh một lần nữa.

Chỉ Nhược cũng bị xiềng xích lâu ngày, chân tay tê tái, nên nàng vừa đứng dậy đã ngã ngay vào lòng Vô Kỵ.

Vô Kỵ vội giơ tay ra để đỡ nàng.

Lúc ấy ánh sáng ngoài cửa sổ chiếu vào, chàng thấy mặt Chỉ Nhược nhợt nhạt bỗng đỏ bừng, mắt long lanh mấy giọt lệ trông thật thanh nhã tú lệ.

Chàng định thần giây lát rồi mới nói:

– Chúng ta hãy xuống bên khoang dưới.

Hai người vừa ra khỏi cửa khoang đã thấy thân thuyền cứ quay tít, mới hay phát đại bác của địch vừa rồi đã bắn trúng đằng đuôi, lái bị tan nát.

Cả người cầm lái cũng bị rớt xuống bể chết.

Người thuyền trưởng vì âu lo quá liều thân hành tới trước đại bác nhét sắt vụn và thuốc súng vào để bắn. Y chỉ mong phát đại bác đó đánh đắm thuyền địch, nên nhồi rất nhiều thuốc và giả sắt vụn thật chặt rồi mới châm ngòi để bắn.

Bỗng thấy lửa đỏ sáng rực, tiếng nổ vang trời động đất, nhưng sắt vụn trong đại bác bay tứ tung và cây đại bác đó cũng tan tành nốt.

Người thuyền trưởng với bọn thủy thủ đứng cạnh đại bác bị sức nổ bắn nên tên nào tên nấy tan xương nát thịt. Thì ra người thuyền trưởng vì nóng lòng sốt ruột đã nhồi quá nhiều thuốc, nên đại bác mới bị nổ tan tành như thế.

Vô Kỵ với Chỉ Nhược vừa đi ra ngoài boong đã thấy có một sức mạnh và nóng vô cùng đẩy tới, khiến hai người bắn ra ngoài xa, Vô Kỵ liền giơ tay phải ra chộp luôn một sợi dây thừng và tay trái túm được cổ chân của Chỉ Nhược.

Nhờ vậy hai người mới không bị rớt xuống bể. Nhưng chàng thấy trên thuyền đâu đâu cũng có lửa bốc lên và thuyền sắp bị đắm đến nơi. Chàng lại thấy phía bên trái có cột một chiếc thuyền nhỏ, chàng la lớn:

– Chu cô nương hãy nhảy vào thuyền nhỏ kia trước…

Lúc ấy Tiểu Siêu ẳm Hân Ly, Tạ Tốn ẳm Triệu Minh ở khoang dưới đi ra. Thì ra đại bác nổ vừa rồi đã làm cho đáy thuyền thủng một lỗ thật lớn, nước bể liền tràn vô.

Vô Kỵ chờ Tạ Tốn và Tiểu Siêu ngòi vô trong chiếc thuyền nhỏ rồi, liền chặt dứt dây cột thuyền đó, để cho thuyền trôi lênh đênh trên mặt biển.

Chàng liền nhảy vào trong khoang thuyền rồi cầm hai mái chèo mà dùng sức bơi luôn. Lúc ấy, chiếc thuyền đã cháy đỏ, khiến cả mặt biển ở vùng đó cũng đỏ nốt.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Ta chỉ cần bơi thuyền đến những chỗ không có ánh sáng chiếu tới. Ba sứ giả của Ba Tư không trông thấy thuyền nhỏ này, thì thế nào họ cũng tưởng chúng ta đã bị chôn vùi dưới đáy biển rồi. Chúng sẽ không đuổi theo nữa…

Nghĩ đoạn chàng liền dùng hết sức lực để chèo.

Tạ Tốn cũng lấy một tấm ván chèo giúp một tay. Nhờ vậy chiếc thuyền đi nhanh như tên bắn.

Giây phút sau đi tới một vùng không có ánh lửa chiếu tới. Tiếp theo đó, chàng lại nghe thấy chỗ thuyền đắm có tiếng kêu “ùm ùm” liên tiếp, thì ra những thuốc súng để ở trên thuyền đã bị lửa bén tới, nên mới nổ liên tiếp như vậy. Chiếc thuyền của sứ giả Ba Tư đuổi theo tới không dám gần đến chỉ đậu ở đằng xa để canh chừng thôi. Những võ sĩ của Triệu Minh có mấy người bơi lội rất giỏi liền bơi tới cạnh thuyền của địch cầu cứu, nhưng bị ba sứ giả đó đánh chết hết.

Vô Kỵ với Tạ Tốn vẫn không ngừng tay chèo.

Thuyền địch bắn thêm một phát đại bác nữa. Viên đạn đó rớt cách thuyền mấy trượng những làn sóng vọt cao khiến chiếc thuyền nhỏ gần úp. Cũng may nội công của hai người rất cao siêu nên mới giữ được thăng bằng cho chiếc thuyền.

Sáng sớm hôm sau, trời mây đen, sương mù bao phủ hết mặt biển.

Vô Kỵ thấy vậy mừng, nói:

– Sương mù như vậy rất may cho chúng ta. Chỉ cần bơi nửa ngày nữa là địch không thể nào đuổi kịp chúng ta nữa.

Lúc ấy đang là mùa đông, quần áo của mọi người ướt đầm, Vô Kỵ với Tạ Tốn nhờ có nội lực thâm hậu, nên không thấy lạnh, còn Chỉ Nhược với Tiểu Siêu bị gió bấc thổi giá lạnh chịu không nổi.

Cả hai đều rét run. Khốn nỗi trên thuyền nhỏ đó không có một miếng vải và một mảnh chiếu nào hết. Vô Kỵ với Tạ Tốn đành phải cởi áo ngoài ra phủ trên người Triệu Minh với Hân Ly.

Chiều hôm đó, thật là hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai, trời lại mưa to gió lớn, chiếc thuyền nhỏ bị gió thổi trôi xuống miền Nam, nên Tạ Tốn, Vô Kỵ và Chỉ Nhược cùng Tiểu Siêu cứ phải lấy giầy tát nước vì sợ nước mưa xuống nhiều quá, thuyền sẽ bị đắm. Tạ Tốn gặp được Vô Kỵ, lòng khoan khoái vô cùng, dù hoàn cảnh đau khổ đến đâu cũng không quản ngại.

Tạ Tốn và Vô Kỵ chuyện trò vui vẻ.

Tạ Tốn hỏi:

– Vô Kỵ, năm xưa ta với cha mẹ con cùng đi thuyền ra ngoài bể giữa đường gặp gió bão, nhưng trận bão ấy vẫn không to bằng trận bão ngày hôm nay. Sau đó chúng ta tới Băng Sơn ăn thịt con hỏa báo để sinh sống. Ngày đó nhờ có gió Nam mới thổi đưa chúng ta tới nơi cực bắc. Ngày hôm nay, trời thổi gió bắc chẳng lẽ trời ghét Tạ Tốn này định đẩy ta đến nhà của Nam Cực Tiên ông chăng. Nếu quả thật như thế ta sẽ ở lại đó thêm hai mươi năm nữa.

Nói tới đó y ha hả cười một hồi rồi lại nói tiếp:

– Năm xưa cha mẹ con, một nam một nữ thật là nam tài nữ sắc, trời xe duyên cho hai người nhưng bây giờ con lại đem theo bốn thiếu nữ như thế này, thế là nghĩa lý gì, hà hà…

Chỉ Nhược nghe Tạ Tốn nói, xấu hổ mặt đỏ bừng, vội cúi đầu xuống, còn Tiểu Siêu thì vẫn ung dung như thường và còn xen lời nói:

– Thưa Tạ lão gia, cháu chỉ là con sen hầu hạ công tử thôi.

Triệu Minh tuy bị thương khá nặng nhưng cũng tỉnh táo.

Nàng cũng đột nhiên xen lời nói:

– Tạ lão gia chớ có nói bậy, nói bạ như thế, chờ cháu lành mạnh, thế nào cháu cũng đánh cho lão gia mấy bạt tai.

Tạ Tốn thè lưỡi vừa cười vừa đáp:

– Cô bé này lợi hại thật.

Y đột nhiên xịu nét mặt lại không cười nữa và lẩm bẩm nói:

– Ừ, tối hôm qua cô bé này thí mạng đánh ra ba thế. Thế thứ nhất là thế võ của phái Côn Luân. Thế thứ hai là của phái Không Ðộng và thế thứ ba là thế của phái nào nhỉ?…

Lão già này quê mùa cục mịch, không nghĩ ra được thế đó là thế của phái nào.

Triệu Minh kinh hãi thầm và nghĩ:

– Thảo nào năm xưa Kim Mao Sư Vương oai trấn thiên hạ, đảo lộn giang hồ, hai mắt của y không trông thấy gì mà vẫn còn đoán ra được hai thế võ của ta. Ðến giờ ta mới biết, y quả thật danh bất hư truyền.

Nghĩ đoạn, nàng lại nói:

– Thế thứ ba là thế “Thiên Ðịa đồng thọ” của phái Võ Ðang. Hình như thế này mới sáng tạo ra cho nên lão gia mới không biết đấy.

Tạ Tốn thở dài, nói tiếp:

– Cô dùng toàn lực để cứu Vô Kỵ tất nhiên rất hay rồi, nhưng hà tất cô phải thí mạng như thế.

Triệu Minh đáp:

– Y… y…

Nàng ngập ngừng không dám nói là vì không biết có nên nói câu này ra không. Nhưng rốt cuộc nàng nhịn không được, nức nở khóc và nói tiếp:

– Ai bảo y… đầy những tình tứ.. ẳm… ẳm Hân cô nương như vậy nên tôi không muốn sống nữa.

Nói xong, nước mắt nàng đã tuôn như mưa.

Ai nấy nghe thấy nàng nói như vậy đều ngạc nhiên vô cùng, vì ai cũng không ngờ cô bé trẻ tuổi như vậy mà dám thổ lộ tâm sự của mình trước mặt mọi người như thế.

Nhưng không ai biết Triệu Minh là gái Mông Cổ, vì gái Mông Cổ không biết giữ lễ giáo như gái ở Trung Nguyên.

Gái Mông Cổ yêu là yêu, hận là hận, chứ không giả dối và làm bộ làm tịch gì hết.

Lại thêm lúc này chiếc thuyền của mọi người đang lênh đênh trên mặt biển, trời lại mưa to như vậy, không ai có thể biết mình sống thêm được bao lâu nữa hay là, chỉ một cái sóng thuyền đã bị đánh úp…

Lời nói của Triệu Minh từng chữ một rót vào tai Vô Kỵ làm chàng cảm động vô cùng và nghĩ thầm:

– Nói đúng ra, Triệu cô nương là kẻ địch của ta, lần này ta theo nàng đi hải ngoại mục đích của ta là để nghinh đón nghĩa phụ. Có ngờ đâu nàng lại yêu ta đến thế!

Nghĩ tới đó, chàng không sao cầm lòng được, giơ tay ra nắm lấy tay Triệu Minh để lên ngực mình và chàng cúi đầu dí môi vào tai nàng khẽ nói:

– Lần sau, dù sao tôi cũng không dám làm như thế nữa.

Vừa rồi Triệu Minh lỡ lời thổ lộ tâm sự mình cho mọi người hay, sau nàng nghĩ lại rất hối hận và nghĩ thầm:

– Con gái gì mà đoảng đến thế, lời nói ấy làm sao mà nói cho người khác hay được, chắc thế nào mọi người cũng khinh thường ta…

Nàng đang nghĩ bỗng thấy Vô Kỵ dặn dò mình một cách âu yếm như vậy, nàng vừa kinh hãi, vừa mừng rỡ, vừa xấu hổ, vừa yêu đương. Nàng cảm thấy khoan khoái vô cùng và nhận thấy đêm hôm trước ba lần mình xuất tử nhập sinh phiêu lưu chịu khổ ở trên bể như thế này là không phí.

Mưa thêm một hồi lâu nữa đã dần dần tạnh nhưng sương mù ngày càng dày đặc. Ðột nhiên mọi người nghe có tiếng kêu “soạt”, một con cá nặng chừng ba mươi cân từ dưới biển nhảy lên, Tạ Tốn giơ tay phải một cái, năm ngón tay đã nắm sâu vào trong bụng cá và bắt con cá vào thuyền liền.

Mọi người đều vỗ tay khen ngợi.

Tiểu Siêu vừa rút trường kiếm ra mổ bụng và đánh vẩy cá xong rồi cắt từng khúc một. Lúc ai nấy vừa đói vừa khát, tuy thịt cá rất tanh nhưng phải miễn cưỡng ăn môt tí để khỏi đói khát.

Riêng có Tạ Tốn thì ăn ngon lành lắm, vì ở trên hoang đảo trên hai mươi năm đã chịu đựng đủ mọi thứ gian khổ, nên ăn cá sống như vậy là một chuyện rất thường. Vả lại ăn một vài lần thịt cá sống sẽ quen và không thấy tanh hôi, trái lại còn thấy ngon là khác. Sóng trên mặt biển cũng phẳng lặng dần, mọi người ăn thịt cá xong, nhắm mắt lại nghỉ ngơi.

Tiểu Siêu đã ngủ trước, còn Triệu Minh vẫn nắm tay Vô Kỵ không chịu buông.

Một lát sau nàng cũng ngủ thiếp đi lúc nào không hay, vì quá mỏi mệt rồi ai nấy cũng lần lượt ngủ say hết.

Bốn năm tiếng đồng hồ sau, Tạ Tốn tuổi già nên thức dậy trước, lão anh hùng nghe thấy tiếng hô hấp chậm chạp của mọi người hòa với tiếng gió ở trên bể nghe thật êm tai.

Triệu Minh với Hân Ly vì bị thương nên hơi thở ngắn và nhanh hơn.

Chỉ Nhược thì nhẹ và dài, hô hấp của Vô Kỵ như đoạn như tục rất phân biệt.

Lão anh hùng cũng phải kinh hãi và nghĩ thầm:

– Nội lực của thằng nhỏ này cao thâm thật, trong đời ta chưa hề thấy ai có nội lực cao thâm như thế.

Y nghe hô hấp của Tiểu Siêu thấy lúc nhanh lúc chậm khác hẳn người thường, hiển nhiên con nhỏ này đã luyện một môn nội công đặc biệt gì rồi.

Y cau mày lại bỗng nghĩ ra một việc rồi nghĩ tiếp:

– Lạ thật, chẳng lẽ con bé này là…

Y bỗng nghe thấy Hân Ly quát lớn:

– Trương Vô Kỵ, tiểu nữ hôi thối kia sao không theo ta đi Linh Xà Ðảo?

Vô Kỵ, Triệu Minh, Tiểu Siêu bị tiếng quát ấy đều thức tỉnh hết.

Mọi người lại nghe thấy nàng ta nói tiếp:

– Một mình ta ở trên đảo cô đơn buồn bực… Tại sao ngươi không chịu đến ở với ta cho vui? Ngươi… tiểu tử hôi thối, ta dùng kiếm giết chết ngươi ngay… chém ngươi thành mười bảy mười tám mảnh và vứt xuống dưới biển cá ăn ngươi… ngươi…

Vô Kỵ giơ tay rờ trán nàng ta thấy nóng như lửa thiêu mới hay nàng nói mê nói nhảm. Tuy Vô Kỵ rất thiện về y lý nhưng trong thuyền nhỏ này lấy đâu ra thuốc thang, nên chàng đành thúc thủ và chỉ xé một mảnh áo nhúng nước rồi đắp lên trên trán thôi. Hân Ly vẫn nói mê hoài.

Bỗng nàng thất kinh la lớn hơn thế nữa:

– Cha, cha, đừng giết mẹ con, đừng giết mẹ con, chính con đã giết hại nhị nương. Cha cứ giết con đi, chứ không việc gì đến mẹ con đâu. Mẹ chết rồi ư… chết rồi ư… Tại con mà mẹ bị giết như vậy… hu hu.

Nàng khóc rất thảm thiết, Vô Kỵ liền khuyên bảo:

– Thù Nhi, Thù Nhi em thức tỉnh đi, cha em không có ở đây, em khỏi sợ.

Hân Ly giận dữ đáp:

– Cha em không tốt, chớ có phải em sợ cha em đâu, cha em lấy vợ hai vợ ba. Một người đàn ông lấy một vợ không đủ hay sao? Cha em là người thích mới nới cũ, lấy hế người này lại lấy đến người khác, nên mới làm cho mẹ em khổ sở như thế và cả em cũng bị khổ lây. Anh không phải là cha em, anh là người đàn ông phụ bạc nhất thiên hạ, là kẻ độc ác nhất.

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi đến mặt tái mét. Thì ra vừa rồi chàng nằm mơ thấy mình cưới Triệu Minh rồi lại cưới Chỉ Nhược. Chàng thấy Hân Ly mặt đã hết sưng biến thành một người rất đẹp và cả Tiểu Siêu cũng lấy mình. Những chuyện mà ban ngày chàng không dám tưởng tới, ngờ đâu lúc ngủ lại thấy như vậy.

Chàng nằm thấy bốn thiếu nữ này đều xinh đẹp và tử tế hết, chàng không nỡ xa cách một người nào.

Chàng an ủi Hân Ly liền tưởng tượng lại giấc mộng vừa qua.

Lúc ấy Vô Kỵ nghe thấy Hân Ly mắng chửi người cha như vậy chàng lại nghĩ đến những chuyện mà mình đã mắt thấy tai nghe trên Quang Minh đỉnh.

Tại Tây Vực, Hân Ly không nhẫn tâm thấy mẹ bị cha hà hiếp đã giết chết người thứ thiếp rất được cưng yêu của cha, vì thế mẹ nàng phải tự tử chết, nên cậu mình là Hân Dã Vương đành phải ra tay định giết con gái.

Câu chuyện luân thường đại biến thảm khốc vô cùng ấy là do Dã Vương lấy nhiều vợ và thứ thiếp mà gây nên cả. Chàng liền đưa mắt liếc nhìn Triệu Minh rồi lại nhìn Chỉ Nhược một hồi, nghĩ đến giấc mộng hồi nãy trong lòng hổ thẹn vô cùng.

Hân Ly lầm bầm nói mê nói nhảm một hồi rồi bỗng khóc lóc van lơn:

– Vô Kỵ, anh theo em đi đi, theo em đi ngay đi. Anh cắn tay em đau như vậy, em không tức giận anh tí nào. Em nguyện suốt đời hầu hạ anh, coi anh là chủ của em, anh đừng chê mặt em xấu xí, nếu anh vui lòng, em nguyện bỏ hết võ công Thiên Thù để mặt em sẽ trở lại như trước…

Lần này giọng nói cả nàng rất yểu điệu và uyển chuyển.

Vô Kỵ không ngờ người em họ mình hành sự lại hỉ nộ thất thường như thế.

Tính nàng quái dị lạ thường nhưng lòng lại rất ôn nhu.

Ngày nọ gặp nhau trong Hồ Ðiệp Cốc, ngờ đâu nàng lại chung tình với mình, cho mãi đến giờ mà nàng không quên mình như vậy.

Chàng lại nghe nàng ta nói tiếp:

– Vô Kỵ, tôi đi khắp nơi tìm kiếm anh, đi hết chân trời góc biển mà không thấy anh đâu hết. Sau em mới biết anh đã té xuống dưới chân núi chết ở Tây Vực. Em liền đi Tây Vực gặp một thiếu niên tên là Tăng A Ngưu, võ công của y vừa cao siêu, người lại có phẩm hạnh đức tính, y đã hứa cưới em làm vợ.

Triệu Minh các người đều biết Tăng A Ngưu tức là Vô Kỵ nên ai nấy đều đưa mắt nhìn chàng, chàng xấu hổ mắt đỏ bừng.

Lúc ấy Hân Ly vẫn còn mê sảng, nên chàng không thể nào ngăn cấm nàng ta đừng nói được.

Nếu chàng ra tay điểm huyệt cho nàng không nói lại sợ ảnh hưởng đến sức khoẻ nàng còn đang bị thương. Triệu Minh, Chỉ Nhược, Tiểu Siêu ba người với vẻ mặt ngạc nhiên nhìn thẳng vào mặt chàng.

Chàng xấu hổ chỉ muốn nhảy ngay xuống dưới đáy biển tức thì chờ Hân Ly tỉnh táo rồi mới nhảy trở lên.

Chàng lại nghe thấy Hân Ly lẩm bẩm nói:

– Anh A Ngưu nói với tôi rằng: Cô nương, tôi thành tâm bằng lòng lấy cô làm vợ, tôi chỉ mong cô bảo tôi không xứng đáng thôi. Anh ta còn nói: “Từ nay trở đi tôi sẽ hết sức thương yêu và bảo vệ cho cô. Dù có bao nhiêu người làm khó dễ cô hay có người lợi hại đến đâu tới hà hiếp cô, tôi nguyện hy sinh tính mạng để bảo vệ cho cô được an toàn và làm cho cô được sung sướng, quên hết những sự đau khổ dĩ vãng đi”. Anh Vô Kỵ này, anh A Ngưu tính nết và đức hạnh hơn anh rất nhiều, võ công của anh ấy còn cao siêu hơn cả Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi, nhưng từ khi tôi dã có lòng yêu anh, tôi không dám nhận lời yêu anh ấy nữa. Có ngờ đâu anh lại chết non như vậy khiến tôi phải goá bụa suốt đời. Ðây anh Vô Kỵ, anh xem A Ly lần này đối xử với anh có tử tế không? Năm xưa anh không thèm đoái hoài đến tôi, bây giờ anh có hối hận không?

Thoạt tiên, Vô Kỵ nghe thấy nàng ta nhắc lại những lời nói của mình, chàng ngượng vô cùng, nhưng sau chàng nghe, chàng cảm động nước mắt cứ nhỏ ròng xuống hai má. Chàng lại nghe thấy Hân Ly nói tiếp:

– Anh Vô Kỵ ơi, anh ở dưới âm có thấy buồn tẻ không, có thấy trơ trọi không? Em cùng Bà Bà đi Băng hỏa đảo ở Bắc Hải tìm thấy nghĩa phụ của anh, em còn phải đi núi Võ Ðang để tế lễ mộ của cha mẹ anh rồi em sẽ trở lên Tây Vực leo lên ngọn núi tuyết, nơi anh té ngã để nhảy xuống chết theo anh. Nhưng việc này phải đợi chờ Bà Bà khuất núi rồi em mới đi hầu anh được, vì Bà Bà đối xử với em rất tử tế, nếu không được bà ra tay cứu, em đã bị cha em giết chết rồi. Nay em vì nghĩa phụ của anh đã phản Bà Bà, chắc bà ta hận em lắm, tuy em vẫn phải hiếu thuận với bà ta. Anh Vô Kỵ, anh bảo em làm như thế có phải có nên không? Lời nói của nàng tựa như nói với Vô Kỵ vì trong thâm tâm nàng cứ yên trí Vô Kỵ đã chết rồi. Nhưng Vô Kỵ hiện đang ngồi cạnh nàng mà nàng không hay.

Trong khi bị thương nàng mê man bất tỉnh, đáng lẽ ăn nói không có thứ tự trước sau gì hết mới phải, nhưng nàng lại nói rất có thứ tự không khác gì người thường vậy. Với giọng nói nhỏ nhẹ ôn nhu như tiếng ma nói mà lại nó ở trên mặt bể, dưới bóng trăng trong đêm khuya trên một chiếc thuyền lênh đênh, ai nghe thấy mà chẳng động lòng thương! Nhưng quý vị nên rõ mười năm nay Hân Ly vẫn hay lẩm bẩm tự nói như thế quen rồi. Hễ lúc nào nhàn rỗi là ẩn núp vào một chỗ vắng vẻ để lẩm bẩm tự nói với Vô Kỵ như thổ lộ tâm sự của mình. Lần nào nàng cũng nói tương tự như thế, nên những lời nói này nàng đã thuộc làu rồi, chonên bây giờ trong lúc mê man nàng cũng thốt ra như thế. Tiếp theo đó nàng lại nói lung tung, lời nói không có ý nghĩa và cũng không có thứ tự gì hết. Có lúc nàng giật mình kêu la, cũng có lúc nàng tức giận chửi bừa bãi. Tuy nàng còn ít tuổi nhưng trong lòng bị uất ức, những nỗi sầu khổ vô cùng tận, nàg cứ kêu gào khóc lóc mắng chửi một hồi rồi lại mê man bất tỉnh ngủ thiếp luôn. Năm người nhìn nhau không nói năng gì hết, mỗi người nghĩ một tâm sự riêng của mình. Sóng đánh vào thành thuyền kêu lộp bộp, gió mát trăng trong mà vẫn nằm, sự lo buồn của người đời quả thực vô cùng tận. Bỗng nhiên có một tiếng ca rất dịu dàng nổi lên ở mặt biển, đại khái bài hát ấy như sau:

– Khi đã tận số không ai tránh được ngày cuối cùng kia, thời gian trăm năm trôi chảy rất nhanh, nhưng người sống đến bảy mươi đã là hiếm có. Ngày giờ vẫn qua ngày này hết ngày nọ đến năm khác nước vẫn chảy hoài, không bao giờ ngừng…

Ðó là Hân Ly nằm mơ khẽ ca như vậy.

Vô Kỵ nghe bản ca đó liền rùng mình kinh hãi.

Chàng nhớ, khi ở trên Quang Minh đỉnh bị Thành Khôn bịt kín đường hầm, yên trí thế nào cũng bị chết ở trong hầm đó. Chàng có nghe thấy Tiểu Siêu ca qua bản này vì vậy chàng mới đưa mắt nhìn Tiểu Siêu.

Ngờ đâu nàng cũng đang ngắm nhìn chàng.

Nàng vừa thấy chàng đưa mắt nhìn vội quay đầu tránh mặt luôn.

Hân Ly ca xong tiểu khúc đó, lại hát một bài trường ca. Tiếng ca rất quái dị khác hẳn những bài ca của Trung Thổ, ai nghe cũng thấy rùng mình như nghe thấy tiếng va chạm của Thánh hỏa lệnh vậy. Chàng chú ý nghe lời ca, nhận ngay ra đúng như lời ca của Tiểu Siêu đã ca cho mình nghe:

– Ði như lưu thủy hề, thệ như phong bất chi hà xứ lai hề hà sở chung!

Dịch nôm: Tới như nước chảy, biến như gió không biết ở đâu tới và cũng không biết kết thúc ở nơi đâu.

Nàng ca đi ca lại bài đó, càng ca càng khẽ, rốt cuộc tiếng ca xen lẫn tiếng gió, rồi không ai còn nghe thấy tiếng ca của nàng nữa.

Mọi người nghĩ đến sự chết vô thường là một người đã qua đời.

Hồi thứ 74

Ðẹp Như Tiên Nữ

Quả thật không biết mình ở đâu tới, bất cứ mình anh hùng hào kiệt như thế nào, rốt cuộc không tránh khỏi cái chết. Rồi lại rời khỏi trần ai, tựa như một luồng gió biến mất, không biết thổi đi phương nào cả.

Vô Kỵ thấy tay Triệu Minh lạnh buốt và hơi rung động.

Tạ Tốn bỗng lớn tiếng nói:

– Bài ca đó là bài ca tiểu khúc của Ba Tư chắc Hàn phu nhân dạy cho nàng. Hai mươi năm trước đây, có một đêm ta đang ở trên Quang Minh đỉnh cũng được nghe Hàn phu nhân ca một lần. Hà! Không ngờ Hàn phu nhân lại tuyệt tình đến như vậy, hạ độc thủ đả thương con bé nặng như thế.

Triệu Minh xen lời hỏi:

– Thưa lão gia, tại sao Hàn phu nhân lại biết ca tiểu khúc Ba Tư đó? Bản ca này chẳng là bản ca của Minh giáo là gì?

– Minh giáo truyền từ Ba Tư tới, vì vậy bản ca ấy mới có liên can đến Minh giáo. Nhưng không phải bản ca của Minh giáo, bản ca này do một thi nhân rất trứ danh của Ba Tư sáng tác cách đây đã hơn hai trăm năm rồi. Nghe nói người Ba Tư nào cũng biết ca bản ấy.

Năm xưa tôi nghe Hàn phu nhân ca bản ấy, trong lòng thấy khó chịu vô cùng. Tôi liền hỏi bà ta lai lịch của bản ca này, bà ta liền giảng nghĩa và nói rõ lai lịch của bản ca ấy cho tôi hay.

Theo Hàn phu nhân nói: “Năm xưa lúc nhà đại triết học của Ba Tư lập trường khai giảng thâu rất nhiều môn đồ. Môn hạ của nhà đại triết học ấy, có ba người đệ tử rất kiệt xuất là Nga Mạc giỏi về văn học, Ni Nhược Mâu giỏi về chính trị, Hoắc Sơn giỏi về võ công, ba người đó rất ý hợp tâm đầu và đã cắt máu ăn thề: “Phú quý có nhau, hoạn nạn cùng đương”. Sau đó Ni Nhược Mâu đắc ý nhất, được làm đến Thủ tướng của Giáo Vương. Hai người bạn cũ của y đến tìm kiếm. Ni Nhược Mâu liền giới thiệu cho Giáo Vương và yêu cầu Giáo Vương ban quan chức cho hai người. Nga Mạc không muốn làm quan, chỉ xin một món tiền để được tĩnh tâm nghiên cứu thiên văn lịch pháp và uống rượu ngâm thơ thôi. Ni Nhược Mâu đối đãi với Nga Mạc rất hậu. Không ngờ, Hoắc Sơn là người có dã tâm, không chịu làm tôi tớ cho ai hết liền âm mưu nổi loạn. Nhưng việc làm của y thất bại, y liền bỏ chạy tới Nghênh Sơn và kết đảng ở đó. Sau trở nên thủ lãnh của một môn phái trong thiên hạ. Phái đó chỉ chuyên môn giết người lấy tên là Y Tư Mỹ lương phái, Thập tử quân chinh Ðông. Ở Tây Vực hễ ai nhắc tới cái tên Hoắc Sơn là mọi người kinh hoàng ngay. Lúc ấy các quân vương của các nước ở Tây Vực bị Sơn Trung lão nhân Hoắc Sơn giết chết vô số.

Theo Hàn phu nhân nói thì ở phía Tây Vực, ngoài khơi có một nước lớn, tên Anh Cát Lan. Vua ở nước ấy là Ái Ðức Hoa thất lễ với Sơn Trung lão nhân nên bị Hoắc Sơn sai người đi hành thích. Các võ sĩ thủ hạ của y đều có võ công trác tuyệt. Nên vệ sĩ của chúa ái Ðức Hoa chống cự không nổi. Quốc vương đã bị khí giới có độc chém trúng, may được hoàng hậu xả thân ra cứu, lấy mồm hút hết chất độc ở trong vết thương, nhờ vậy Quốc vương đó mới thoát chết. Hoắc Sơn không nghĩ đến ân nghĩa xưa kia liền sai người đi hành thích Ni Nhược Mâu, Thủ tướng của Ba Tư. Trước khi tắt thở vị Thủ tướng đó có ngâm câu thơ của Nga Mạc tức là hai câu trong bài ca vừa rồi: “Lai như lưu thủy hề, thệ như phong, bất tri hà xứ lai hề hà sở chung” đấy. (Theo lời chú thích của Kim thì những tuyệt cú của Nga Mạc truyền lại cho hậu thế, có tất cả một trăm linh một bài. Thơ tập đó Quách Mạc Nhược đã phiên dịch).

Hàn phu nhân nói: “Sau võ công của phái Sơn Trung lão nhân thất truyền, chỉ có Minh giáo của Ba Tư là học được thôi.”

Hồi nãy võ công của sứ giả Ba Tư quái dị như vậy, chắc là võ công của Sơn Trung lão nhân truyền lại cũng nên?

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Thưa lão gia, cháu thấy tính nết của Hàn phu nhân cũng tương tự như tính nết của Sơn Trung lão nhân mà lão gia vừa kể. Dù mình đối đãi với bà ta nhân nghĩa như thế nào đi chăng nữa, bà ta vẫn ngấm ngầm hại lại mình.

Tạ Tốn thở dài đáp:

– Người đời lấy oán báo đức là chuyện rất thường hà tất phải ngạc nhiên.

Triệu Minh ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lại lên tiếng hỏi:

– Hàn phu nhân đã là người đứng đầu Tứ vương của Minh giáo, sao võ công của bà ta lại không bằng lão gia? Và tối qua, khi mụ đấu với ba người sứ giả Ba Tư, sao mụ không giở Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ ra?

Tạ Tốn đáp:

– Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ là gì? Hàn phu nhân đâu có biết môn võ công đó? Trước kia bà ta là một mỹ nhân tuyệt sắc. Bà quý sắc đẹp hơn sinh mạng của mình. Như thế, khi nào bà ta chịu luyện môn võ công đó?

Vô Kỵ, Triệu Minh, Chỉ Nhược đều ngẩn người, nghĩ thầm:

– Mặt Kim Hoa Bà Bà xấu xí như thế thì dù bà ta có trẻ hơn ba bốn chục năm đi nữa cũng không thể nào gọi là tuyệt sắc mỹ nhân được! Mũi ngửng lên trời, mặt vuông, tai to, hình thù như thế thì Bà Bà đẹp làm sao được?

Triệu Minh vừa cười vừa hỏi:

– Lão gia, cháu thấy Kim Hoa Bà Bà mặt mũi như thế sao gọi là đẹp được?

Tạ Tốn đáp:

– Cô không biết, trước kia khi Tía Sam Long Vương đẹp như tiên nữ. Hai mươi năm về trước, bà đã từng nổi danh đệ nhứt hoa khôi trong võ lâm, dù bây giờ bà ta có lớn tuổi đi chăng nữa, thì khuôn mặt của bà ta cũng không sao đến nỗi xấu xí cho lắm!… Hà! Tiếc thay, mắt tôi đã mù không thấy gì!

Triệu Minh nghe lời nói của Tạ Tốn trịnh trọng như vậy đoán chắc bên trong cũng có điều gì bí ẩn đây. Nàng thấy Kim Hoa Bà Bà lại là Tía Sam Long Vương, người đứng đầu trong nhóm Tứ Ðại Hộ Giáo Pháp Vương trong Minh giáo, nàng đã ngạc nhiên rồi, lại nghe nói Kim Hoa bà bà xấu xí như thế mà lại là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm năm xưa, nàng lại càng khó hiểu thêm nữa, liền ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi tiếp:

– Lão gia danh trấn giang hồ. Năm xưa ở Vương Bàn sơn giương đao lập oai, thiên hạ ai cũng hay biết cả. Bạch Mi ¦ng Vương tự sáng lập một môn phái để tranh nhau xưng hùng xưng bá trong võ lâm, ngót hai mươi năm trời nay mà Bạch Mi giáo vẫn hùng mạnh như thường. Thanh Dực Bức Vương thần xuất quỷ mạt ngày nọ ở trong chùa Vạn Pháp đã doạ nạt cháu và định hủy bộ mặt cháu, cho tới ngày nay cháu vẫn còn hoảng sợ. Võ công của Kim Hoa bà bà tuy cao siêu thật, cơ mưu tuy thâm thật nhưng bằng sao được ba vị mà lại đứng đầu cả ba vị thì lạ thực, không xứng đáng chút nào! Như vậy là nghĩa lý gì hở lão gia?

Tạ Tốn đáp:

– Ðó là ba anh em chúng tôi nhường lại cho bà ta đấy!

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Nhưng tại sao ba vị lại chịu nhường cho bà ta?

Hỏi tới đó, nàng bỗng khúc khích cười và nói tiếp:

– Có phải bà ta là đệ nhất mỹ nhân, các vị anh hùng không qua được ải của mỹ nhân nên cả ba vị mới phải chịu nhường nhịn như thế hay không?

Nàng là gái Mông Cổ, nghĩ gì là nói ra, Tạ Tốn cũng phải phì cười rồi lão anh hùng thở dài một tiếng rồi nói tiếp:

– Cam phận làm thần tôi cho bà ta không riêng gì ba anh em chúng tôi. Lúc ấy người trong giáo và người ngoài giáo có hơn trăm người để ý đến bà ta, ai cũng muốn lấy bà ta làm vợ thì mới cam tâm.

Triệu Minh lại hỏi:

– Hồi trẻ bà ta tên là gì?

Tạ Tốn đáp:

– Ðại ỷ Ty!

– Ðại ỷ Ty là Hàn phu nhân à? Sao tên bà ta lại kỳ dị thế?

– Nàng ở Ba Tư tới, tên đó là tên của nước Ba Tư.

Vô Kỵ, Triệu Minh, Chỉ Nhược cùng giật mình kinh hãi và đồng thanh hỏi:

– Thế ra bà ta là người Ba Tư đấy à?

Tạ Tốn ngạc nhiên hỏi lại:

– Như vậy chả lẽ các người không hề hay biết bà ta là người Ba Tư sao? Nàng là người lai Trung Hoa với Ba Tư, tóc và mắt tuy đen, nhưng mũi cao và lộ khác thiếu nữ Trung Hoa nhiều! Chỉ thoáng trông đã nhận ra liền.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Không không! Bà ta mũi tẹt, mắt ti hí như chuột chứ không giống như lão gia vừa tả đâu. Có phải vậy không hả Trương công tử!

Vô Kỵ đáp:

– Phải! Chả lẽ bà ta cũng giống như Khổ đầu đà mà cố ý tự hủy gương mặt của mình hay sao?

Tạ Tốn hỏi lại:

– Khổ đầu đà là ai thế?

Vô Kỵ đáp:

– Khổ đầu đà chính là Quang Minh hữu sứ Phạm Dao đấy.

Nói tới đó chàng liền kể chuyện Phạm Dao tự hủy mặt đi vào Nhữ Dương vương phủ làm nội ứng như thế nào, kể tất cả lại cho Tạ Tốn nghe.

Tạ Tốn thở dài và nói tiếp:

– Cử chỉ ấy của Phạm huynh thực là khổ tâm và là công lớn với bản giáo. Phạm huynh quả là một dị nhân, người thường không ai có thể làm được chuyện đó! Hà…! Sở dĩ Phạm huynh làm như vậy cũng do Hàn phu nhân khiêu khích mà nên!

Triệu Minh ngạc nhiên vô cùng, vội hỏi tiếp:

– Thưa lão gia, xin lão gia kể lại chuyện đó cho chúng cháu nghe đi! Ðừng có úp úp mở mở như thế nữa.

Tạ Tốn “ừ” một tiếng rồi ngửng đầu nhìn lên trời một lúc rồi mới thủng thẳng kể lại câu chuyện cho mọi người nghe:

– Hai mươi năm trước đây, lúc ấy Minh giáo do Dương Phá Thiên giáo chủ thống lãnh phồn thịnh vô cùng. Ngày hôm đó trên Quang Minh đỉnh có ba người Ba Tư, tay cầm phong thư của tổng giáo chủ bên Ba Tư tới. Ba người đó vào yết kiến Dương giáo chủ dâng luôn phong thư ấy lên. Trong lá thư đó nói trong tổng giáo bên Ba Tư có một vị Tịnh Thiện sứ giả vốn là người Trung Hoa đến Ba Tư đã lâu gia nhập Minh giáo lập được rất nhiều công trạng nên đã lấy được một người con gái Ba Tư làm vợ, sinh được một người con gái, một năm trước đây Tịnh Thiện sứ giả đã qua đời. Lúc sắp chết có nhớ đến cố thổ để di chúc bảo đứa con gái của ông về đất Trung Hoa, tổng giáo chủ tôn trọng ý muốn của vị sứ giả đó mới sai người đem cô gái đó về Quang Minh đỉnh mong Minh giáo Trung thổ nuôi nấng dạy dỗ cho. Tất nhiên Dương giáo chủ phải nhận lời ngay và mời thiếu nữ ấy vào. Thiếu nữ vừa bước vào khách sảnh, đột nhiên khách sảnh như bừng lên! Nàng đẹp không thể tưởng tượng được! Khi nàng quỳ xuống lạy Dương giáo chủ, tả hữu Quang Minh sứ, ba phán vương, năm Tảng nhân, Ngũ hành kỳ sứ đều chấn động. Ba sứ giả ở trên Quang Minh đỉnh một đêm, ngày hôm sau giã từ Dương giáo chủ đi luôn! Còn thiếu nữ tuyệt đẹp tên là Ðại ỷ Ty thì ở lại trên Quang Minh đỉnh.

Triệu Minh vừa cười vừa hỏi tiếp:

– Lão gia! Lúc ấy có phải lão gia cũng mê cô gái Ba Tư không? Lão gia khỏi cần phải hổ thẹn, cứ nói thật ra cho chúng cháu nghe đi.

Tạ Tốn lắc đầu đáp:

– Không! Lúc ấy tôi mới lấy vợ, vợ chồng tôi rất âu yếm nhau và vợ tôi có mang, khi nào tôi có ý niệm bậy bạ đó?

Triệu Minh kêu “ủa” một tiếng và biết mình đã lỡ lời, vì nàng biết vợ con của Tạ Tốn đều bị Thành Khôn giết chết, bây giờ mình vô ý nhắc nhở đến chuyện đó thể nào cũng làm cho lão anh hùng xúc động, nên nàng vội xoay giọng nói:

– Phải đấy! Phải đấy! Thảo nào bà ta nói năm xưa khi bà ta lấy Ngân Diệp tiên sinh, người trên Quang Minh đỉnh ai ai cũng phản đối, riêng có giáo chủ với lão gia là không phản đối mà còn đối xử với bà ta rất tử tế nữa. Có lẽ Dương giáo chủ phu nhân không những là một mỹ nhân mà còn có thủ đoạn rất lợi hại nên mới khiến chồng ngoan ngoãn như vậy.

Tạ Tốn gật đầu đáp:

– Cô nương đoán không sai! Dương giáo chủ khẳng khái hào hiệp, còn Ðại ỷ Ty tuổi chỉ bằng con gái ông ta, huống hồ giáo chủ tổng giáo ở nước Ba Tư đã nhờ ông ta trông nom hộ nàng. Dương giáo chủ đối với nàng ta thật là nhân chí nghĩa tận. Như vậy khi nào ông ta lại có lòng tà? Riêng phu nhân là sư muội của giáo chủ và lại là sư thúc của tôi. Dương giáo chủ, Thành Khôn, Dương phu nhân ba người là sư huynh muội đồng môn. Dương giáo chủ là đại sư bá của tôi, năm xưa đã chỉ điểm cho tôi rất nhiều võ công và đối với tôi tử tế lắm.

Thành Khôn đã giết cả nhà Tạ Tốn, mối huyết thù này nặng lắm, nung nấu trong lòng đại hiệp đã lâu, nhưng khi đại hiệp nói đến tên Thành Khôn, coi tên đó như một người thường nên chỉ nói lướt qua thôi.

Triệu Minh đột nhiên nghĩ tới một việc liền hỏi:

– Quang Minh hữu sứ Phạm Dao hồi trẻ cũng là một thanh niên đẹp trai và rất mê nàng Ðại ỷ Ty phải không?

Tạ Tốn gật đầu đáp:

– Phải! Hai người mới gặp đã yêu nhau rồi! Sự thực không riêng gì Phạm huynh mà còn rất nhiều người nữa cũng yêu nàng. Nhưng vì luật lệ của Minh giáo rất nghiêm và ai nấy đều kính mến giáo chủ nên ai ai cũng không dám làm bậy, chỉ có tương tư mà thôi! Và những người mê nàng đều là những người chưa có vợ. Không ngờ nàng tuy đẹp nhưng đối với ai cũng đều tỏ ra lạnh lùng cả, không thèm chuyện trò với ai và cũng không hề tỏ ra có tình ý với ai hết. Hễ ai không biết điều mà chọc ghẹo là đều bị nàng mắng ngay. Dương phu nhân có ý muốn làm mai nàng cho Phạm Dao hữu sứ nhưng nàng cự tuyệt. Thấy Dương phu nhân nói nhiều quá nàng ta còn giơ kiếm lên định tự vẫn và nói với mọi người rằng: nàng quyết không lấy ai hết, nếu cứ ép buộc, nàng đành chết chứ không bao giờ ưng thuận. Vì vậy, ai cũng chán nản, không còn dám để ý đến nàng nữa. Nửa năm sau, có một người ở Linh Xà đảo tại hải ngoại tới tự xưng là họ Hàn tên là Thiên Diệp, là con trai của kẻ thù Dương giáo chủ năm xưa, y nói y lên Quang Minh đỉnh để trả thù cho cha. Mọi người thấy thanh niên họ Hàn ấy mặt rất tầm thường mà dám đơn thân độc mã lên đây tầm thù, ai nấy đều ha hả cười nhưng Dương giáo chủ rất nghiêm nghị đón tiếp người đó như một vị đại khách vậy! Giáo chủ còn thết tiệc khoản đãi y nữa! Thì ra năm xưa giáo chủ với cha y đã vì một lời nói mà giáo chủ đã dùng Ðại Cửu Thiên Thủ đánh cha của tên nọ bị thương nặng. Lúc ấy cha y có nói: Sau này phải trả được mối thù ấy mới thôi! Nhưng y tự biết võ công còn kém giáo chủ xa. Nếu sau này y không gọi con trai thì cũng gọi con gái đến mà trả thù. Dương giáo chủ liền trả lời cha tên nọ rằng: Bất cứ con trai hay con gái của mấy người tới đây ta cũng nhường cho ba thế võ trước.

Người nọ lại nói:

– Khỏi cần phải nhường như vậy, nhưng còn đấu như thế nào phải để cho con cái của ta lựa chọn lấy! Dương giáo chủ liền nhận lời ngay. Không ngờ, câu chuyện đã trôi qua mười mấy năm và Dương giáo chủ cũng đã quên hẳn đi rồi, ngờ đâu con của người họ Hàn ấy đã tới nơi thực.

Mọi người đều nói rằng:

– Người này dám một thân một mình lên Quang Minh đỉnh này tất phải có võ nghệ kinh người mới dám lên đây như thế! Nhưng công lực của Dương giáo chủ đã luyện tới mức cao siêu tuyệt diệu, người trong võ lâm không có ai đương cự nổi với ông ta cả, chưa chắc người họ Hàn nọ đã thắng nổi Dương giáo chủ một miếng hay một thế võ.

Người họ Hàn đó dù có rủ thêm năm ba người nữa đến vây đánh, Dương giáo chủ cũng không hề nao núng. Nhưng mọi người lo lắng nhất là không biết người đó sẽ giở vấn đề gì ra thôi.

Sáng ngày hôm sau, Hàn Thiên Diệp đã nhắc lại câu chuyện xưa ở trước mặt mọi người, y còn dùng lời lẽ khôn khéo khiến giáo chủ không thể nào nuốt lời được. Rồi y mới đem vấn đề ra mà nói sau. Thì ra y đòi cùng Dương giáo chủ vào trong đầm nước lạnh ở trên Quang Minh đỉnh để quyết thắng bại, nếu ai thua sẽ tự vẫn trước mặt mọi người. Thấy y nói như vậy, ai ai cũng kinh hãi ngẩn người ra vì nước trong Bích Thủy hàn đầm đó giá lạnh buốt xương, ngay mùa nóng nực không ai dám xuống huống hồ là mùa đông giá lạnh?

Giáo chủ tuy võ công cao siêu thật nhưng không biết bơi lội, như vậy xuống tới nước cũng đủ rét lạnh mà chết. Dù không sợ rét, giáo chủ không biết bơi lội cũng bị chết đuối mất.

Lúc ấy quần hùng ở trong nghị sảnh đều đồng thanh quát mắng.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Việc này khó xử thực. Ðại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy. Năm xưa Dương giáo chủ đã nhận với người họ Hàn ấy là khi con cái của người đó đến đòi tỷ võ dù bằng phương pháp nào cũng phải để cho người đó tự chọn lấy. Hàn Thiên Diệp tiền bối đã lựa chọn thủy chiến và theo đúng lý thì Dương giáo chủ không có cách gì từ chối hết.

Triệu Minh khẽ nắm tay chàng bóp một cái rồi vừa cười vừa nói:

– Phải đấy! Ðại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy. Là giáo chủ của Minh giáo, có khi nào lại nuốt lời hứa mà thất tín thiên hạ chứ? Khi ông ta đã nhận lời người nọ rồi thì dù sao ông ta cũng phải làm cho được.

Lời nói của nàng chỉ có một mình Vô Kỵ biết là nàng định nói gì thôi, còn Tạ Tốn thì làm gì biết được chuyện đó.

Nên Kim Mao Sư Vương lại nói tiếp:

– Chính thế. Hôm đó Hàn Thiên Diệp lớn tiếng nói: “Tại hạ một thân một mình lên trên Quang Minh đỉnh này chỉ mong chết ở trên này thôi. Quý vị anh hùng hào kiệt cứ việc múa đao phân thây tại hạ đi. Như vậy chỉ có người của Minh giáo biết thôi, còn người trên giang hồ không ai biết chuyện này cả. Tại hạ chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, quý vị giết một kẻ hèn này thì có nghĩa gì đâu? Quý vị muốn giết thì cứ việc ra tay giết đi, hà tất phải nói nhiều như thế làm chi? “.

Mọi người nghe nói đều im lặng hết không dám ồn ào như trước nữa.

Dương giáo chủ ngẫm nghĩ giây phút rồi đáp:

– Hàn huynh! Năm xưa tại hạ quả có hứa hẹn như vậy với lệnh phụ thực. Người hảo hán phải quang minh mới được. Tại hạ nhận thua trận đấu này. Hàn huynh muốn xử trí như thế nào tuỳ ý.

Thiên Diệp lật ngửa cổ tay một cái, mọi người đã thấy tay y cầm một con dao sáng bóng và đang dí mũi dao vào giữa ngực và nói tiếp:

– Con dao găm này là của tiên phụ để lại. Tại hạ chỉ mong Dương giáo chủ vái lạy con dao này ba lại thôi.

Quần hùng nghe y nói như vậy ai nấy đều phẫn uất vô cùng vì đường đường giáo chủ của Minh giáo khi nào lại chịu nhục như thế?

Nhưng Dương giáo chủ đã nhận thua, theo đúng quy củ của giang hồ thì giáo chủ phải tuân theo đối phương mà làm.

Lúc ấy tình thế đã tỏ rõ cho mọi người thấy, phen này Thiên Diệp tới đây là đã quyết tâm hy sinh rồi. Y nhận ba lễ của giáo chủ xong liền đâm ngay lưỡi dao găm vào ngực tự tử. Vì y biết nếu y không tự tử chết thì thế nào cũng bị quần hào của Minh giáo giết chết liền. Lúc ấy trong đại sảnh không có một tiếng động nào hết.

Quang Minh tả hữu sứ, Bạch Mi ¦ng Vương và Bành hòa thượng các người ngày thường đều là những người túc trí đa mưu, nhưng lúc này gặp vấn đề nan giải ấy, ai nấy cũng đều thúc thủ và vô kế khả thi.

Cử chỉ của Thiên Diệp là muốn bức tử Dương giáo chủ để trả thù cho cha mình rồi y mới tự sát.

Ðang lúc cuộc thế rất gay go thì Ðại ỷ Ty bỗng vượt mọi người tiến lên nói với Dương giáo chủ rằng:

– Thưa cha! Người ta có một người con trai hiếu thảo như vậy chẳng lẽ cha lại không có một người con gái hiếu thảo hay sao? Vị Hàn gia này tới đây để báo thù cho cha. Vậy con xin phép cha cho con được thay mặt để đối địch Hàn gia mấy hiệp. Việc của người đời trước đã có người đời trước đối xử, việc người đời sau đã có người đời sau tiếp tay, không thể làm loạn vai vế như thế được.

Mọi người nghe nàng nói đều ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm: “Sao nàng lại gọi Dương giáo chủ là cha như thế? “.

Nhưng mọi người lại hiểu ý ngay và nghĩ tiếp: “Nàng ta giả mạo nhận là con gái cua giáo chủ để giải vây cho giáo chủ đấy thôi”.

Nghĩ tới đó ai nấy đều nghi ngại: “Nàng yếu ớt ẻo lả như vậy không biết nàng có biết võ công không. Dù nàng có biết võ chăng nữa chưa chắc cao siêu hơn ai, chứ đừng nói vào trong đầm nước lạnh tử chiến nữa”.

Dương giáo chủ chưa kịp trả lời thì Thiên Diệp đã cười nhạt nói tiếp:

– Cô nương muốn thay cha đấu với tại hạ cũng được. Nếu cô nương thua, tại hạ vẫn bắt buộc Dương giáo chủ vái lạy con dao găm của tiên phụ như lời tại hạ nói. Y thấy nàng đã đẹp mà lại yếu ớt nên không coi nàng vào đâu hết.

Ðại ỷ Ty lại hỏi:

– Nếu ngài thua thì sao?

Thiên Diệp đáp:

– Nếu tôi thua thì cô nương muốn xử trí thế nào cũng được. Thôi được! Chúng ta đi ngay đến Bích Thủy Hàn đầm đi.

Nói xong nàng liền dẫn đường đi trước.

Dương giáo chủ thấy vậy vôi xua tay và lớn tiếng kêu gọi:

– Không được! Việc này không liên can gì đến con đâu…

Ðại ỷ Ty đáp:

– Thưa cha, cha khỏi lo cho con.

Nói xong nàng quỳ xuống vái lạy, coi như là đã vái Dương giáo chủ làm nghĩa phụ rồi.

Dương giáo chủ thấy nàng có vẻ tự tin lắm. Vả lại ngoài cách ấy ra không còn cách gì nữa cả. Giáo chủ đành phải để mặc nàng muốn làm sao thì làm. Thế rồi mọi người cùng đi lên trên đỉnh núi đến Bích Thủy Hàn đầm.

Hồi ấy gió bắc đang thổi rất mạnh, chỉ đứng bên cạnh đầm cũng thấy lạnh buốt xương rồi. Người nào nội lực hơi kém một chút không sao chịu đựng nổi. Nước trong đầm đã đóng thành băng, có một vài nơi chưa đóng băng nhìn xuống không sao thấy đáy được, đủ thấy đầm đó sâu như thế nào rồi.

Giáo chủ nghĩ thầm: “Không nên vì ta mà để cho Ðại ỷ Ty mất mạng nơi đây”.

Nghĩ đoạn, giáo chủ liền nghênh ngang nói:

– Con gái ngoan ngoãn của ta! Cha không cam đành nhận hảo ý của con. Ðể cha tiếp Hàn huynh đây vài hiệp. Nói xong, Dương giáo chủ cởi áo bào ra, tay cầm thanh đơn đao định nhảy vào trong đầm nước lạnh để kết liễu tính mạng của mình.

Ðại ỷ Ty liền mỉm cười đỡ lời:

– Thưa cha! con gái cha sinh trưởng ở bờ bể từ hồi còn nhỏ nên rất giỏi về môn bơi lội. Nói xong, nàng liền rút trường kiếm ra, phi thân nhảy vào trong giữa đầm, đứng trên mặt băng dùng kiếm rạch một lỗ vuông và dùng chân trái dẫm mạnh một cái, miếng băng đó đã chìm luôn xuống đáy đầm rồi. Lúc ấy gió lạnh của mặt bể thổi tới, khiến áo của mọi người đều bay tung lên.

Tạ Tốn kể tiếp:

– Lúc ấy Ðại ỷ Ty mặc một bộ quần áo màu tím nhạt, đứng trên mặt băng như Lăng ba tiên nữ vậy. Ðột nhiên, nàng lẳng lặng nhảy ngay xuống dưới nước, khiến quần hào đứng cạnh đó kinh ngạc vô cùng. Thiên Diệp thấy nàng nhảy vào nước có lẽ thạo lắm, y không còn kiêu ngạo như trước nữa, tay cầm dao găm cũng nhảy vào trong đầm liền. Lúc ấy nước đầm màu xanh thẫm, đứng ở trên bờ đầm không sao trông thấy tình hình trận đấu của hai người như thế nào, chỉ thấy nước đầm rung động thôi. Một lát sau mặt nước ngưng hẳn, không bao lâu mặt nước lại sủi bọt như trước.

Quần hào của Minh giáo lo âu vô cùng, vì thấy hai người lặn xuống nước đã lâu, vả lại nước lạnh như vậy làm sao mà ở lâu được? Lại qua một hồi nữa, đột nhiên thấy có máu tươi, cứ theo bọt nước sủi lên.

Mọi người lại lo âu thêm, không biết máu của Thiên Diệp hay của Ðại ỷ Ty.

Một lát sau nữa, Thiên Diệp bỗng trồi lên và đứng trên tảng băng thở hồng hộc.

Mọi người thấy y lên trước, liền giật mình đồng thanh hỏi:

– Ðại ỷ Ty đâu? Ðại ỷ Ty đâu? Mọi người thấy Thiên Diệp hai tay không, dao găm thì cắm trên ngực bên trái, hai má đều có vết thương. Mọi người đang kinh ngạc thì Ðại ỷ Ty tựa như một con cá bay từ trong nước nhảy vọt lên, tay vẫn cầm trường kiếm ra khỏi mặt nước. Nàng còn lượn trên không hai vòng rồi mới hạ chân đứng xuống mặt băng. Quần hùng vỗ tay khen ngợi không ngớt.

Dương giáo chủ liền tiến lên cầm tay nàng, mặt tỏ vẻ mừng rỡ. Không ai ngờ một cô bé ẻo lả yếu ớt như vậy mà lại có tài bơi lội giỏi như thế.

Nàng liếc mắt nhìn Thiên Diệp một cái và nói:

– Người này khá giỏi về môn bơi lội đấy. Con thấy y có lòng hiếu thảo trả thù cho cha, nên con mới không giết y. Còn y có tội với giáo chủ, mong cha tha thứ cho y đi. Tất nhiên Dương giáo chủ phải nhận lời, liền ra lệnh cho thần y Hồ Thanh Ngưu chữa vết thương cho Thiên Diệp.

Tối hôm đó, trên Quang Minh đỉnh thết tiệc, ai ai cũng khen Ðại ỷ Ty là đại công thần của Minh giáo, nếu không được nàng đứng ra giải quyết thì tên tuổi của Dương giáo chủ bị tiêu tan hết. Thế rồi Dương phu nhân mới tặng cho nàng một cái mỹ hiệu là Tía Sam Long Vương và cho nàng được ngang hàng với Ưng vương, Sư vương và Bức vương ba người.

Tam vương chúng tôi đều cam tâm tình nguyện để nàng đứng đầu bốn người. Vì ngày hôm đó thực sự công lớn của nàng đã lấn át hết cả Tam vương.

Không ngờ sau trận thủy chiến đó, kết quả lại ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Thiên Diệp tuy bại trận, không hiểu tại sao y lại chiếm được lòng yêu của nàng Ðại ỷ Ty. Có lẽ vì ngày nàng đi thăm y xem vết thương đã lành mạnh chưa mà rồi vì thương hại mới sinh ra tình yêu. Chờ tới khi Thiên Diệp lành mạnh hẳn thì nàng bỗng xin phép Dương giáo chủ để kết hôn với thanh niên đó.

Mọi người hay tin đó đều đau lòng và thất vọng vô cùng.

Có người còn hậm hực nói rằng:

– Hàn Thiên Diệp là đại địch của bản giáo, ngày nọ y đã áp bức giáo chủ và mọi người đứng vào thế khó xử, sao nàng Ðại ỷ Ty lại chịu lấy y như vậy?

Tất nhiên không ai muốn nàng Ðại ỷ Ty lấy y. Có một số anh em nóng tính một chút liền sỉa xói vào mặt Thiên Diệp mắng chửi.

Ngờ đâu nàng Ðại ỷ Ty lại cương liệt đến thế: nàng cầm kiếm đứng trước cửa sảnh, lớn tiếng nói với mọi người rằng:

– Từ nay trở đi Hàn Thiên Diệp là chồng của tôi, nếu ai nói nhục tới chàng thì Tía Sam Long vương này nhất định không để yên cho đâu. Mọi người thấy nàng nói như vậy đành hậm hực mà giải tán. Cuộc hôn lễ của Thiên Diệp với nàng rất giản dị, có già nửa số anh em không đi mừng hai người. Chỉ có Dương giáo chủ với tôi cảm ơn đức giải vây của nàng nên hết sức nâng đỡ cho nàng được thành hôn với Thiên Diệp. Vì vậy mới không có chuyện gì xảy ra nhưng khi Thiên Diệp định gia nhập Minh giáo bị rất nhiều người phản đối. Dương giáo chủ không dám trái ý đại chúng.

Không bao lâu, đột nhiên Dương giáo chủ mất tích, mọi người trên Quang Minh đỉnh đều bàng hoàng, rồi chia nhau đi bốn phương tìm kiếm.

Quang Minh hữu sứ Phạm Dao thấy Hàn phu nhân tức nàng Ðại ỷ Ty trong hầm bước ra.

Vô Kỵ nghe tới đó, rùng mình kinh hãi và xen lời hỏi:

– Nàng ở trong đường hầm ra à?

Tạ Tốn đáp:

– Phải! Quy luật của Minh giáo rất nghiêm, đường hầm đó chỉ có một mình Minh giáo giáo chủ mới được ra vào thôi.

Phạm Dao vừa kinh hãi vừa tức giận, liền tiến lên chất vấn.

Hàn phu nhân đáp:

– Tôi đã phạm trọng tội của bản giáo, muốn giết, muốn mổ bụng cũng không sao. Tuỳ bạn đấy!

Tối hôm đó quần hào đại hội.

Hàn phu nhân cũng vẫn nói mấy lời như vậy.

Mọi người hỏi nàng vào đường hầm làm chi? Dương giáo chủ đi đâu?

Nàng trả lời là không biết, nàng chỉ nhận tội là đã trót vào trong hầm đó thôi. Nàng chỉ bảo nàng đã vui lòng nhận tội rồi, sao mọi người hà tất phải hỏi lôi thôi làm chi? Ðáng lý nàng không tự vẫn thì phải tự chặt một cánh tay nhưng Phạm Dao vẫn còn nhớ tình xưa, cố hết sức chống chế cho nàng. Hơn nữa có tôi bên cạnh nói giúp nên quần hào liền quyết định giam nàng mười năm cốt ý là để cho nàng hối cải.

Ngờ đâu nàng lại trả lời mọi người rằng:

– Dương giáo chủ không có ở đây, không ai có quyền xét xử tôi cả.

Nghe tới đó Vô Kỵ liền xen lời hỏi:

– Nghĩa phụ! Hàn phu nhân lén vào trong đường hầm để làm chi?

Tạ Tốn đáp:

– Câu chuyện này nói ra thì dài lắm. Trong Minh giáo chỉ có một mình ta biết thôi. Lúc ấy ai cũng nghi nàng có liên can đến sự mất tích của Dương giáo chủ, nhưng ta cực lực cải chính cho nàng. Thế rồi, mỗi người nói một lời, không sao giải quyết được vấn đề ấy, rốt cuộc Hàn phu nhân rút lui ra khỏi giáo phái rồi đi luôn.

Từ đó trở đi, nàng không còn dính dấp với Minh giáo của chúng ta nữa. Nàng là người rút lui ra khỏi Minh giáo trước tiên. Rồi nàng cùng Thiên Diệp xuống núi ngay.

Về sau không ai biết hai người đã đi đâu.

Các anh em trong Minh giáo phái người tìm mãi không thấy giáo chủ đâu cả.

Mấy năm sau vì tranh chấp chức giáo chủ, đâm ra nghi kỵ và ghét hận lẫn nhau.

Bạch Mi Ưng vương cũng rút lui ra khỏi Minh giáo và tự sáng lập ra Bạch Mi giáo phái. Ta khuyên mãi Bạch Mi Ưng vương nhất định không nghe. Vì vậy mà hai anh em ta giận nhau. Hai mươi năm trước đây Bạch Mi giáo giương đao lập oai ở trên núi Vương Bàn sơn. Kim Mao Sư vương này vội đến đó để phá đám. Sở dĩ ta tới đó là muốn cướp được thanh bảo đao Ðồ Long, hơn nữa ta cũng muốn làm mất sĩ diện của Hân huynh để bõ tức giận năm xưa và cũng để cho Hân huynh biết sau khi y rời khỏi Minh giáo, chưa chắc đã làm nổi trò trống gì. Hà, ngày hôm nay ta nghĩ lại hồi ấy ta thật quá nóng nảy.

Nói tới đó lão anh hùng thở dài một tiếng, tỏ vẻ rất ân hận.

Mọi người đều yên lặng, không nói năng gì, giây phút sau Triệu Minh lại lên tiếng hỏi:

– Thưa lão gia, sau Kim Hoa, Ngân Diệp oai trấn giang hồ, tại sao người trong Minh Giáo không nhận ra nàng ta? Có phải Ngân Diệp tiên sinh là Hàn Thiên Diệp không? Tại sao y lại trúng độc chết như thế?

Tạ Tốn đáp:

– Ðiều đó tôi không được rõ lắm, chắc vợ chồng họ thành đạo trên giang hồ cố hết sức tránh người của Minh Giáo.

Vô Kỵ bỗng đùi kêu “bốp” một tiếng và nói:

– Phải rồi, từ đó trở đi Kim Hoa bà bà không dám gặp người trong Minh Giáo nữa khi sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh, tuy bà ta có mặt ở đó mà không chịu ra tay cứu viện.

Triệu Minh lẩm bẩm tự nói:

– Tía Sam Long Vương là người đẹp như tiên nữ, tại sao lại biến thành xấu xí đến thế, xem mặt bà ta không bị hư hỏng gì cả, tại sao lại xấu đến thế.

Tạ Tốn liền đỡ lời:

– Theo sự ức đoán của tôi thì bà ta thể nào cũng dùng một phương pháp khéo léo để thay đổi bộ mặt. Các người nên biết Hàn phu nhân suốt đời hành sự rất quái dị, mà sự thật trong nội tâm của bà ta cũng có nhiều nỗi thống khổ lắm! Suốt đời đào tẩu tránh né, chỉ sợ người của Tổng giáo Ba Tư sang đây tìm kiếm. Ngờ đâu đến lúc tuổi già mà vẫn không sao thoát khỏi bàn tay độc của Tổng giáo Ba Tư.

Vô Kỵ với Triệu Minh đồng thanh hỏi:

– Tổng giáo Ba Tư cho người tới đây tìm kiếm bà ta để làm chi?

Tạ Tốn đáp:

– Ðó là một bí mật lớn của Hàn phu nhân đang lẽ ta không nên nói ra, nhưng ta mong các người quay trở vể Linh Xà đảo cứu bà ta, bây giờ ta phải nói cho các người hay.

Triệu Minh kinh hãi hỏi tiếp:

– Chúng ta lại quay trở về Linh Xà đảo ư, lại tái đấu với sứ giả của Ba Tư hay sao!

Tạ Tốn không trả lời câu hỏi của nàng, cứ tiếp tục kể chuyện.

Từ nghìn năm xưa tới giờ, Giáo chủ Minh giáo từ Trung cổ đều cho đàn ông đảm nhiệm, trái lại bên Tổng giáo Ba Tư toàn đàn bà phụ trách. Giáo chủ phải do thanh nữ ấy đảm nhiệm để duy trì sự trong sạch thiêng liêng của Minh giáo. Bất cứ một vị giáo chủ nào cũng vậy khi được đảm nhiệm Giáo chủ xong, là phải lựa sẳn ba người con gái của nhân sĩ có địa vị cao cả nhất trong giáo để làm thánh nữ. Ba thánh nữ ấy phải thề độc trước bàn thờ tổ rồi đi du hành bốn phương để lập công tích đức cho Minh Giáo. Tới khi Giáo chủ tạ thế, các bô lão liền tụ họp xét xem công đức lớn nhất làm Giáo chủ. Nhưng trong ba thánh nữ đó mà có một người mất trinh tiết thì phải khép tội hỏa thiêu. Dù chạy tới chân trời góc biển cũng bị người của Minh Giáo rượt bắt để duy trì trinh thiện của thánh giáo…

Nói tới đó, Kim Mao Sư vương vương bỗng thấy Triệu Minh thất thanh lớn tiếng hỏi:

– Chẳng lẽ Hàn phu nhân là một trong ba thánh nữ của Tổng giáo hay sao?

Tạ Tốn gật đầu đáp:

– Chính thế, khi Phạm Dao phát hiện nàng lén vào trong đường hầm, thì sự thực tôi đã phát giác trước Hữu sứ. Hàn phu nhân coi tôi là người tri kỷ, mới đem sự thực kể hết cho tôi hay, Nàng nói khi xuống dưới đầm nước đấu với Hàn Thiên Diệp, vì đụng độ với nhau nàng bỗng có tình với kẻ địch. Sau khi hai người kết hôn, Hàn phu nhân biết Tổng giáo thế nào để chuộc tội đó. Sở dĩ nàng lén vào trong đường hầm là muốn tìm cuốn bí phổ Càn Khôn Ðại Nã Di, cuốn sách đó là sách của Tổng giáo thất truyền đã lâu, nhưng bản sao của Trung thổ hãy còn tồn tại. Vì vậy Tổng giáo phái nàng tới Quang Minh Ðỉnh để lấy cuốn bí phổ đó.

Nghe tới đo Vô Kỵ bỗng kêu “ủa” một tiếng, chàng cảm thấy trong lòng hình như có một việc gì nan giải, nhưng việc đó là việc gì, nhất thời chàng chưa nghĩ ra được.

Chàng đang thắc mắc thì Tạ Tốn lại kể tiếp:

– Hàn phu nhân lẻn vào trong đường hầm mấy lần, nhưng không sao kiếm ra cuốn võ công tâm pháp đó. Ta nghe nàng kể ró nguyên nhân đó xong mới trịnh trọng khuyến cáo nàng, không nên tái phạm nữa, vì lẻn vào đường hầm như thế, thế nào cũng bị xử trảm.

Triệu Minh bỗng xen lời nói:

– Ủa, tôi biết rồi. Sở dĩ Hàn phu nhân nhất quyết rút lui ra khỏi Minh giáo, là muốn tiếp tục lẻn vào trong đường hầm để tìm kiếm cuốn sách kia, vì bà ta rút lui ra ngoài Minh giáo bà ta không bị luật lệ của Minh giáo bó buộc nữa.

Tạ Tốn gật đầu đáp:

– Triệu cô nương thông minh thực, nhưng Quang Minh Ðỉnh là căn cứ địa của bổn giáo, khi nào để cho người ngoài tuỳ tiện đi lại được. Lúc ấy tôi cũng đoán được Triệu cô nương vậy. Sau khi Hàn phu nhân đi khỏi, tôi liền đến cạnh miệng đường hầm để canh gác. Hàn phu nhân đã lẻn lên trên núi ba lần, nhưng lần nào cũng thấy mặt tôi nàng ta cũng tỏ ra nản chí tỏ vẻ ăn năn và đi luôn…

Nói tới đi Kim Mao Sư vương ngửng đầu lên nghĩ ngợi một hồi lâu rồi bỗng hỏi Vô Kỵ và Triệu Minh rằng:

– Quần áo của ba sứ giả Ba Tư có khác quần áo của người Minh giáo ở Trung thổ không?

Vô Kỵ đáp:

– Họ đều mặc áo bào trắng của họ viền đen, chỉ có điểm đó là khác thôi.

Tạ Tốn vỗ vào thành thuyền một cái và nói:

– Phải đấy, Giáo chủ của Tổng giáo tạ thế, người Tây Vực để tang mặc màu đen chứ không mặc màu trắng. Vì vậy áo bào trắng của chúng mới có viền đen như vậy. Chắc Giáo chủ của họ mới chết. Bây giờ họ đang tuyển lựa tân giáo chủ. Vì vậy chúng mới không ngại đường sá xa xôi tìm kiếm Hàn phu nhân.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Hàn phu nhân đã ở Ba Tư tới, tất nhiên phải biết được võ công quái dị của ba sứ giả kia, sao bà ta đấu chưa được ba hiệp đã bị đối phương kiềm chế là nghĩa lý gì?

Triệu Minh vừa cười vừa đỡ lời:

– Sao công tử dốt thế, đó là Hàn phu nhân giả bộ, bà không muốn để cho ai biết nguồn gốc của mình, nên không dám dở võ công của Ba Tư ra. Theo sự ước đoán của tôi thì lúc ấy nếu Tạ lão gia nghe lời của ba sứ giả ra tay giết bà ta thì bà ta thể nào cũng có kế thoát thân.

Tạ Tốn lắc đầu nói:

– Bà ta không muốn cho người ta biết nguồn gốc, điều đó rất đúng, nhưng bảo bà ta bị ba sứ giả điểm trúng yếu huyệt rồi mà vẫn thoát thân được thì chưa chắc.

Theo ý tôi thì bà ta đành để cho tôi giết chết, chứ không muốn để cho sứ giả bắt đem về hỏa thiêu, thì đúng hơn.

Triệu Minh lại hỏi:

– Tôi bảo Minh giáo ở Trung thổ là tà giáo, ngờ đâu Minh giáo ở Ba Tư lại càng tà hơn! Tại sao nhất định gái đồng trinh mới được làm giáo chủ? Tại sao thánh nữ thất trinh lại bị hỏa thiêu?

Tạ Tốn liền trách mắng:

– Cô bé ăn nói bậy bạ, giáo phái nào cũng có một quy củ riêng biệt, cũng như hòa thượng ni cô không được ăn mặn. Ðây chả là quy luật của Phật giáo là gì? Như vậy cô nương gọi là tà được?

Mọi người đang chăm chú nghe Tạ Tốn kể, thì bốn nghe tiếng “cập, cập, cập” ai nấy đều quay đầu nhìn, mới hay Hân Lý vì quá rét nên hai hàm răng va chạm nhau tạo thành âm thanh đó!

Vô Kỵ liền sờ trán nàng, thấy nóng như thiêu, chắc lúc này nàng vừa nóng vừa lạnh, bệnh thế rất trầm trọng, nên chàng nới với Tạ Tốn rằng:

– Nghĩa phụ, con muốn trở về Linh Xà đảo ngay, vì bệnh của cô nương rất trầm trọng, phải kiếm thuốc chữa ngay cho cô ta mới được. Chúng ta cố sức mà cứu chữa cho hai người, dù không cứu được Hàn phu nhân thì ít nhất cũng phải cứu chữa cho Hàn cô nương hết bệnh.

Tạ Tốn đáp:

– Con nói rất phải, Hân cô nương có cảm tình với con như vậy, thế nào cũng phải cứu cho cô ta mới được. Còn Chu cô nương và Triệu cô nương nghĩ sao?

Triệu Minh đáp:

– Vết thương của cô nương nặng hơn vết thương của tôi nhiều, nếu không trở về Linh xà đảo thì lấy gì để chữa cho cô ta đây?

Chỉ Nhược lạnh lùng trả lời Vô Kỵ:

– Lão gia bảo trở về thì chúng ta cứ việc trở về.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Nếu muốn quay trở về cũng phải đợi cho sương mù tan hết thì mới biết đường đi mà đi chứ? Nghĩa phụ, hồi nãy Lưu Vân Sư lộn luôn hai vòng mà cũng có thể dùng Thánh hỏa lệnh đả thương con, như vậy là nghĩa lý gì?

Hồi thứ 75

Thánh Nữ – Giáo Chủ

Thế rồi hai người nghiên cứu các thế võ của ba sứ giả Ba Tư.

Triệu Minh cũng học được rất nhiều võ của các môn phái, nên thỉnh thoảng cũng tham bác được một vài ý kiến.

Nhưng nói nửa ngày trời, mọi người vẫn không thấy Tạ Tốn nói đến điều cốt yếu của môn võ công mà ba người đã liên hiệp ra tay.

Chờ tới khi mặt trời mọc lên đỉnh đầu, sương mù trên mặt bể tan hết, Vô Kỵ nói:

– Chúng ta ở phía Bắc đi xuống miền Nam bây giờ đang chèo sang Tây Bắc mới phải.

Chàng với Tạ Tốn, Chỉ Nhược, Tiểu Siêu lần lượt chèo.

Lúc tới thì thuận gió, lúc về thì phải nhờ sức người, thật không phải là chuyện dễ.

Cũng may Vô Kỵ với Tạ Tốn có nội lực rất thâm hậu còn Chỉ Nhược với Tiểu Siêu cũng không đến nỗi yếu ớt nên bốn người chèo mấy ngày liền, cứ xông pha sóng bể mà tiến về phía Bắc.

Ði được mấy ngày, Tạ Tốn cau mày nghĩ ngợi những võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư.

Lão anh hùng chỉ thỉnh thoảng lên tiếng hỏi Vô Kỵ vài câu hỏi thôi, ngoài ra không ai nói với ai nửa lời.

Ðến chiều ngày thứ sáu, Tạ Tốn bỗng hỏi Chỉ Nhược những võ công của phái Nga Mi mà nàng đã học được một cách rất cặn kẽ.

Chỉ Nhược cứ theo sự thực trả lời. Hai người một vấn một đáp cho tới khuya mới thôi. Tạ Tốn tỏ vẻ thất vọng cũng nói:

– Võ công của Thiếu Lâm, Võ Ðang và Nga Mi ba phái đều có liên can với Cửu Dương chân kinh, cũng như những võ công mà Vô Kỵ đã học được vậy, đều thiên về mặt dương cương. Nếu Trương Tam Phong chân nhân có ở đây với võ học uyên thâm bao hàm cả Dương cương, Âm nhu của ông ta, liên hiệp với Vô Kỵ. Như vậy âm – dương phối hợp mới có thể thắng nổi ba sứ giả nọ, nhưng nước xa cứu sao nổi lửa gần, còn Hàn phu nhân thì lại bị ba sứ giả ấy kiềm chế rồi, biết làm sao bây giờ đây?

Chỉ Nhược xen lời nói:

– Thưa lão gia, nghe nói trong võ lâm mấy năm trước đây có những cao nhân tinh thông cả Cửu âm chân kinh, chẳng hay chuyện ấy có thực không?

Khi ở trên núi Võ Ðang, Vô Kỵ có nghe Thái sư phụ nói đến tên Cửu âm chân kinh này, chàng mới biết lão hiệp Quách Tỉnh, cha nữ hiệp Quách Tường, tổ sư của phái Nga Mi và Thần Ðiêu đại hiệp Dương Qua các người đều học được võ công của Cửu âm chân kinh đó. Nhưng môn võ công ấy khó luyện. Quách Tường tuy là con gái của Quách Tỉnh mà cũng không sao học hỏi được.

Bây giờ chàng bỗng nghe thấy Chỉ Nhược hỏi đến vấn đề ấy, liền ngẩn người ra nhìn nàng.

Tạ Tốn liền đáp:

– Theo lời bô lão đồn đại như thế, nhưng không ai biết chuyện đó là thực hay hư. Tôi nghe các vị tiền bối nói môn võ công đó lợi hại như phép thần vậy, nhưng tôi chưa được mục kích qua môn võ công ấy. Nếu người nào biết được võ công của Cửu âm chân kinh mà liên hiệp với Vô Kỵ thì thể nào cũng diệt trừ được ba sứ giả kia.

Triệu Minh bỗng xen lời hỏi:

– Chu cô nương, phái Nga Mi của cô nương có ai biết môn võ công ấy không?

Chỉ Nhược đáp:

– Nếu phái Nga Mi chúng tôi mà có biết môn võ công đó thì tiên sư không bao giờ bị mất mạng ở chùa Vạn Pháp như vậy.

Diệt Tuyệt sư thái gián tiếp chết trong tay của Triệu Minh, nên nàng ghét hận Triệu Minh khôn tả, tuy hai người cùng ngồi chung một thuyền và cùng vào sinh ra tử mấy ngày liền như vậy thực, nhưng nàng không hề nói với Triệu Minh lấy nửa lời. Bây giờ nàng bỗng nghe thấy Triệu Minh lên tiếng hỏi, đáng lẽ nàng quát mắng Triệu Minh cho hả dạ, nhưng tính nàng rất hiền hậu, chỉ trợn mắt lên nhìn đối phương thôi chứ không nói năng gì hết.

Triệu Minh thấy Chỉ Nhược không trả lời mình, nàng cũng không tức giận, chỉ tủm tỉm cười thôi.

Vô Kỵ vừa chèo vừa nhìn về phía sau, chàng bỗng la lớn:

– Các người hãy nhìn kia, ở đằng xa có ánh sáng lửa.

Mọi người đều nhìn về phía đó thấy đằng xa quả thật có ánh sáng lấp lánh. Tuy không trông thấy gì, Tạ Tốn nghe thấy tiếng la kinh hãi và mừng rỡ của mọi người, vội chèo nhanh thêm để chóng đến chỗ đó.

Ánh sáng đó trông rất gần, nhưng sự thật thì cách mấy mươi dặm. Hai người chèo nửa ngày trời mới tới gần.

Vô Kỵ đã nhận ra chỗ ánh sáng lấp lánh đó chính là Linh Xà đảo.

Chàng liền nói:

– Chúng ta đã về đến nơi rồi.

Tạ Tốn bỗng thất thanh kêu “ối chà” một tiếng rồi hỏi:

– Tại sao ngọn lửa Linh Xà đảo lại cháy to đến thế? Chẳng lẽ chúng định đốt Hàn phu nhân chăng?

Chỉ nghe thấy kêu đến “bộp” một tiếng, Tiểu Siêu bỗng ngã lăn ra.

Vô Kỵ kinh ngạc vô cùng, vội chạy lại đỡ nàng dậy, thấy hai mắt nàng đã nhắm nghiền lại và đã bất tỉnh rồi.

Chàng vội xoa bóp các yếu huyệt để cứu nàng lại tỉnh, hỏi:

– Tiểu Siêu, cô làm sao thế?

Hai mắt Tiểu Siêu đẫm lệ, đáp:

– Tôi nghe lão gia nói họ định thiêu người, nên tôi sợ lắm.

Vô Kỵ liền an ủi nàng rằng:

– Ðó là Tạ lão gia phỏng đoán đấy thôi, chưa chắc đã là sự thực, dù Hàn phu nhân có bị chúng bắt đi chăng nữa, bây giờ ta đã về đến thì còn hy vọng cứu kịp mà.

Tiểu Siêu nắm chặt lấy hai tay chàng, van lơn:

– Trương công tử, tôi yêu cầu công tử thế nào cũng cứu Hàn phu nhân thoát chết nhé!

Vô Kỵ đáp:

– Tất cả mọi người thế nào cũng hết sức ra tay cứu Hàn phu nhân. Tiểu Siêu hãy yên tâm, chớ nên lo âu gì nữa.

Nói xong, chàng liền tiếp tục chèo thuyền, và chèo nhanh hơn trước nhiều.

Triệu Minh bỗng lên tiếng hỏi:

– Trương công tử, có hai việc này tôi đã nghĩ từ lâu rồi mà chưa nghĩ ra được. Vậy xin công tử chỉ giáo cho.

Vô Kỵ thấy nàng bỗng khách sáo như vậy, ngạc nhiên vô cùng, liền hỏi:

– Việc gì thế?

– Hồi ở ngoài Lục Dương trang tôi sai người tấn công lệnh tổ, Dương tả sứ với các vị đều nghe lệnh của cô nhỏ Tiểu Siêu này để chống đỡ bộ hạ của tôi, quả thật là thủ hạ của cường tướng không có nhược binh, một con sen nho nhỏ của Giáo chủ Minh giáo mà cũng có tài ba như vậy… thật là kỳ lạ…

Tạ Tốn xen lời hỏi:

– Cái gì giáo chủ của Minh giáo thế?

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Thưa lão gia, bây giờ cháu xin nói để lão gia rõ: Công tử nghĩa tử của lão gia là đường đường một vị giáo chủ của Minh giáo đấy, trái lại lão gia lại là thuộc hạ của Trương công tử.

Tạ Tốn bán tín bán nghi, nên không nói năng gì hết.

Triệu Minh liền kể chuyện nhận chức giáo chủ như thế nào cho Tạ Tốn hay.

Nghe xong Tạ Tốn liền hỏi Vô Kỵ có phải như thế không.

Bất đắc dĩ, Vô Kỵ đành phải kể cho Tạ Tốn hay sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh đỉnh như thế nào, mình ở trong đường hầm tình cờ học được Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra sao.

Tạ Tốn cả mừng, liền đứng dậy và quỳ lạy ngay ở trên thuyền và nói:

– Thuộc hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn tham kiến giáo chủ.

Vô Kỵ cũng quỳ xuống đáp lễ và trả lời:

– Nghĩa phụ khỏi phải đa lễ như vậy, di mệnh của Dương giáo chủ là nhờ nghĩa phụ về tạm nhận chức vị giáo chủ. Con nhận thấy cáng đáng không nổi trọng trách này, may mắn thay trời phù hộ cho nghĩa phụ bình yên về tới nơi, đó cũng là phước của bổn giáo xui nên. Chúng ta về đến Trung thổ rồi, thế nào cũng xin nghĩa phụ tiếp nhận chức vị giáo chủ ấy.

Tạ Tốn buồn rầu đáp:

– Tuy nghĩa phụ con đã về đến Trung thổ nhưng hai mắt đã mù thì làm sao mà phụ trách được những việc nặng nề như thế. Vả lại không ai để cho một người mù như ta làm thủ lĩnh Minh giáo cả. Triệu cô nương, vừa rồi cô nương bảo là có hai việc cô chẳng rõ, vậy hai việc đó là hai việc gì thế?

Triệu Minh đáp:

– Tôi xin hỏi Tiểu Siêu cô nương, ai đã dạy cho cô nương biết thuật Kỳ môn bát quái và Âm dương ngũ hành như thế? Cô ít tuổi như vậy tại sao lại học được bản lĩnh cao siêu đến như vậy?

Tiểu Siêu đáp:

– Ðó là võ công gia truyền của nhà tôi, nhưng đối với quận chúa nương nương thì có ăn nhập vào đâu!

Triệu Minh hỏi:

– Lệnh tôn là ai mà có con gái lợi hại đến như thế? Tất nhiên lệnh tôn phải là cao thủ lừng danh trong thiên hạ.

Tiểu Siêu đáp:

– Gia phụ ẩn tính danh, nên không ai biết tới. Quận chúa hỏi như vậy để làm chi? Chẳng lẽ quận chúa muốn chặt đứt mấy ngón tay của tôi để bắt ép tôi biểu diễn võ công cho quận chúa xem hay sao?

Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu ít tuổi như vậy, mồm mép lại lợi hại đến thế, nàng nhắc đến chuyện chặt ngón tay khiến Chỉ Nhược càng tức giận Triệu Minh thêm.

Triệu Minh vừa cười vừa quay đầu lại hỏi Vô Kỵ rằng:

– Trương công tử, lần gặp gỡ thứ hai ở trong tửu điếm, Khổ đầu đà Phạm Dao đến từ biệt tôi, y trông thấy Tiểu Siêu cô nương có nói mấy lời gì thế?

Vô Kỵ đã quên hẳn chuyện này rồi, bây giờ bỗng nghe lời Triệu Minh nhắc lại chuyện ấy, chàng nghĩ ngợi hồi lâu rồi mới đáp:

– Phải, cô nương thử đoán xem Khổ đại sư bảo Tiểu Siêu giống ai nào?

Triệu Minh đáp:

– Tôi có nghe đâu mà biết?

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Khổ đại sư nói Tiểu Siêu giống kẻ địch của đại sư, nhưng kẻ địch đó là ai, tôi không nghe thấy Khổ đại sư nói…

Mọi người đang chuyện trò thì chiếc thuyền nhỏ trôi gần đến bờ rồi.

Mọi người thấy ở phía Tây của hòn đảo có rất nhiều thuyền lớn đậu ở đấy. Thuyền nào cũng dương buồm trắng, trên buồm có vẽ nhãn hiệu của Minh giáo và buồm nào cũng có một sợi dây đen đang bay phấp phới.

Vô Kỵ cau mày lại nói:

– Không ngờ Tổng giáo bên Ba Tư lại đem nhiều người vào Trung thổ này đến thế.

Triệu Minh liền đề nghị:

– Chúng ta bơi thuyền tới phía sau đảo, kiếm một chỗ vắng vẻ để đậu và đổ bộ ngay ở nơi đó, đừng để cho chúng trông thấy chúng ta mới được.

Vô Kỵ gật đầu rồi bơi thuyền ra ngoài xa bốn trượng để vòng qua phía sau đảo. Nhưng đột nhiên nghe thấy trên thuyền lớn có tiếng tù và vang động và đại bác trên thuyền bắn tới kêu “ầm ầm” nữa. Một viên đạn rớt xuống bên trái, một viên rớt bên phải làm cho mặt nước nổi lên hai cái trụ nước thật cao, khiến cho thuyền tròng trành như sắp lật úp vậy.

Người trên thuyền lớn tiếng kêu gọi:

– Thuyền kia, có mau chèo lại đấy không, nếu không tuân lịnh, chúng ta sẽ bắn chìm thuyền ngay.

Vô Kỵ biết hai phát đại bác vừa rồi là của thuyền địch bắn ra để thị oai, chúng chỉ cố ý bắn cho chiếc thuyền tròng trành chứ không phải cố ý bắn chìm. Bây giờ càng trôi vào càng gần đại bác của chúng dễ dàng bắn trúng hơn. Chàng biết nếu thuyền mình chỉ bị một phát đại bác bắn trúng thì sáu người trên thuyền sẽ tan xác hết nên chàng đành phải bơi thuyền vào gần chiếc thuyền lớn nọ. Chàng thấy rõ ba khẩu đại bác của chiếc thuyền đang nhắm về phía thuyền mình.

Khi thuyền của chàng ghé vào cận chiếc thuyền lớn, bên trên đã buông một cái thang dây thòng xuống liền.

Vô Kỵ liền nói với mọi người rằng:

– Chúng ta cứ leo lên, và thừa cơ sẽ cướp thuyền của chúng luôn.

Tạ Tốn lần mò đến cạnh thang, liền leo lên trước tiên.

Chỉ Nhược không nói năng gì cả, cúi mình xuống ẳm Triệu Minh và leo lên, tiếp theo đó Tiểu Siêu còn Vô Kỵ thì ẳm Hân Ly lên sau cùng.

Khi mọi người lên tới boong, đều thấy những người trên đó tóc vàng mắt xanh, thân hình vạm vỡ.

Người nào người nấy đều là người Ba Tư cả.

Nhưng không thấy bọn Lưu Vân Sứ ở trên đó, chỉ thấy một người Ba Tư biết Hoa ngữ tiến lại hỏi rằng:

– Các người là ai? Ðến đây làm chi?

Triệu Minh đáp:

– Chúng tôi gặp bão, thuyền bị đắm nên mới trôi dạt tới đây, được các vị cứu giúp cho thật cám ơn vô cùng.

Người Ba Tư ấy bán tín bán nghi liền quay lại nói với người thủ lãnh ngồi ở ghế chính giữa mấy câu tiếng Ba Tư xong, người thủ lãnh lại dặn lại mấy người thủ hạ quanh đó mấy câu.

Tiểu Siêu đột nhiên tung mình nhảy lên múa chưởng nhằm người thủ lãnh tấn công luôn… Người thủ lãnh ấy kinh hãi, vội nhảy sang bên tránh né và chộp luôn cái ghế phản công lại liền.

Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu lại nhanh đến thế, chỉ thấy nàng xoay người tránh né giơ tay điểm huyệt khiến tên thủ lãnh ấy té ngã liền.

Mấy chục người Ba Tư ở thuyền liền vội rút khí giới bao vây Tiểu Siêu.

Tuy những người đó đều biết võ công hết, nhưng kém ba sứ giả nọ rất xa.

Vô Kỵ dùng tay phải ẳm Hân Ly, còn tay trái điểm Ðông đánh Tây tấn công những người Ba Tư lia lịa.

Tạ Tốn giở Ðồ Long đao ra, Chỉ Nhược múa trường kiếm và thêm Tiểu Siêu với thân hình rất lanh lẹ, chỉ trong chốc lát mấy chục người Ba Tư đã bị bốn người đánh té hết. Mười mấy người bị chém nằm trên boong thuyền, và bảy tám người rớt xuống bể, còn bao nhiêu thì đều bị bốn người điểm trúng yếu huyệt cả.

Giây phút sau, gần đó liền có tiếng hò hét và tiếng tù và nổi lên.

Những chiếc thuyền khác của người Ba Tư liền tiến tới.

Những người ở trên các chiếc thuyền đó cứ muốn nhảy sang thuyền bên này để đấu với bọn Vô Kỵ.

Vô Kỵ đặt Hân Ly nằm ở trên boong thuyền, rồi xách người thủ lãnh nhảy lên trên cột buồm, lớn tiếng kêu gọi:

– Ai dám sang thuyền này, ta sẽ giết chết người này ngay.

Người này có lẽ rất có địa vị trong Tổng giáo, nên những người ở trên mấy chiếc thuyền kia nghe Vô Kỵ nói xong, chỉ kêu la chứ không dám lăm le định nhảy sang thuyền của bốn người như trước nữa.

Vô Kỵ lại nhảy xuống dưới boong, vừa đặt người thủ lãnh nằm xuống, thì chàng bỗng nghe phía sau lưng có tiếng kêu “coong” đồng thời đã có một môn khí giới nhắm chàng tấn công tới.

Chàng vội né mình để tránh và giơ chân ra đá lại luôn. Thẻ bài Thánh hỏa lệnh ấy liền bị chàng đá rớt, phía bên trái lại có một cái thẻ khác tấn công tới.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Không ngờ Phong Vân Tam sư giả tới chóng như vậy.

Nghĩ đoạn, chàng liền lớn tiếng bảo mọi người rằng:

– Mọi người mau mau rút lui vào trong khoang thuyền.

Chàng lại xách người thủ lãnh lên nghênh đỡ cái thẻ Thánh hỏa lệnh nọ.

Huy Nguyệt Sứ thấy chiếc Thánh hỏa lệnh sắp đánh trúng vai trái của Vô Kỵ rồi, không ngờ chàng đột nhiên xách người thủ lãnh kia lên chống đỡ, Huy Nguyệt Sứ vội thu ngay chiếc thẻ lại.

Nhưng vì đột nhiên thu thẻ lại bên dưới thế nào cũng bỏ trống, nên nàng mới bị chân của Vô Kỵ suýt đá trúng.

Lưu Vân với Diệu Phong hai sứ giả vội xông lại tấn công, bắt buộc Vô Kỵ thu chân lại nên Huy Vân sứ giả mới không bị đá trúng là thế. Ðấu đến hiệp thứ chín, Diệu Phong sứ giả lại giở một thế võ rất quái dị ra tấn công, sắp điểm trúng bụng dưới của Vô Kỵ rồi. Vô Kỵ lại đưa thủ lãnh nọ ra chống đỡ, chỉ nghe thấy kêu “bộp” một tiếng, người thủ lãnh ấy bị chiếc Thánh hỏa lệnh kia đánh trúng vào má liền. Ba người sứ giả đó đều kinh hãi và thất thanh kêu la, mặt thất sắc, rồi chúng nhảy lui về phía sau, rỉ tai nhau thì thầm vài câu.

Ðột nhiên chúng cung kính vái chào người thủ lãnh kia. Thì ra, người thủ lãnh Ba Tư mà Vô Kỵ đang bắt cóc đó là một trong mười hai Bảo Thụ Vương của Tổng giáo tên là Bình Ðẳng Vương.

Mười hai Bảo Thụ Vương ấy là: thứ nhất Ðại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Hoan Hỉ, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Ðẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Nhẫn Nhục, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Ðức, mười một Tề Tâm, mười hai Cự Minh, mười hai Bảo Thụ Vương này là mười hai Ðại Kinh Sư, tức là người thân cận nhất của Giáo Vương.

Với địa vị của họ cũng như Tứ đại hộ giáo pháp vương của Minh giáo ở Trung Thổ nhưng mười hai Bảo Thụ Vương này lại chỉ chuyên môn nghiên cứu giáo nghĩa và tinh thông kinh điển thôi, chứ không chú trọng đến võ công, vì vậy chỉ có người thứ nhất là Ðại Thánh Bảo Thụ Vương, người thứ ba là Thường Thắng Bảo Thụ Vương và người thứ mười Công Ðức Bảo Thụ Vương là có võ công trác tuyệt thôi.

Còn mấy người kia võ công đều rất tầm thường.

Họ còn kém cả Phong Vân tam sứ giả nữa.

Lần này Tổng giáo bên Ba Tư đi tìm kiếm thánh nữ về thừa kế ngôi giáo chủ, nên cả mười hai Bảo Thụ Vương đều vào Trung Thổ hết. Bình Ðẳng Vương thất thế bị Vô Kỵ bắt cóc.

Phong Vân sứ giả liền nhảy lên thuyền để cứu, trái lại chúng lại đánh một chiếc Thánh hỏa lệnh vào mặt Bình Ðẳng Vương, tuy chúng không cố ý phạm thượng, nhưng dù sao chúng cũng hoảng sợ rồi nên không dám tiếp tục chiến đấu với Vô Kỵ mà phải vái lạy xin lỗi rồi rút lui ngay.

Vô Kỵ nhẹ thở một tiếng để Bình Ðẳng Vương lên trên đầu gối của mình. Lúc này chàng biết người này có địa vị rất cao ở trong Tổng giáo, bọn mình muốn thoát chết và đào tẩu được phải trông mong vào người này.

Chàng cúi đầu xem xét vết thương ở trên má đó không nặng lắm, chàng mới yên tâm. Chỉ Nhược với Tiểu Siêu quét dọn khoang thuyền, đem những xác chết vứt vào phía sau còn những người chưa chết thì hai nàng để họ nằm xếp hàng ở trên boong thuyền. Mười mấy chiếc thuyền của Ba Tư bao quanh chiếc thuyền của bốn người và họ còn chĩa đại bác vào nữa. Chiếc thuyền nào của chúng cũng có nhiều người đứng đầy, lửa của những ngọn đuốc chiếu vào đao, kiếm, dáo mác làm loé mắt và sáng choang một góc trời. Người của họ rất đông, không biết bao nhiêu mà kể.

Vô Kỵ thấy vậy kinh hãi thầm nghĩ:

– Không nói họ cùng bắn đại bác một lúc vào thuyền, họ hàng nghìn hàng vạn người như thế, cứ xông một lúc tấn công dù ta có ba đầu sáu tay cũng không sao chống nổi được. Mà dù ta nhờ có khinh công tuyệt đỉnh mà tẩu thoát được chăng nữa, nhưng còn mấy người kia ta bảo vệ cho họ sao nổi? Hân Ly với Triệu Minh bị thương nặng như vậy lại càng nguy hiểm thêm.

Chàng đang nghĩ, bỗng nghe thấy một người Ba Tư dùng Hoa ngữ lớn tiếng nói:

– Kim Mao Sư Vương hãy nghe ta nói đây! Mười hai Bảo Thụ Vương của Tổng giáo đều có mặt tại đây cả. Mười hai vị ấy vui lòng xá tội thất lễ với Tổng giáo của ngươi, ngươi mau mau trả giáo hữu của Tổng giáo ra đây ngay, rồi ngươi tự lái thuyền đi đi.

Tạ Tốn vừa cười vừa đáp:

– Tạ mỗ không phải là đứa bé lên ba, nếu chúng ta buông tha hết tù binh thì đại bác trên thuyền của các ngươi sẽ bắn chúng ta liền.

Người nọ nghe Tạ Tốn nói xong, liền nổi giận nói tiếp:

– Chẳng hay ngươi có chịu buông tha các người đó hay không? Ngươi tưởng đại bác của chúng ta không dám bắn hay sao?

Tạ Tốn rú lên một tiếng và nói tiếp:

– Thánh nữ Ðại ỷ Ty đâu? Các người hãy trả nàng sang đây rồi chúng ta mới nói sang chuyện khác được.

Người nọ liền thương lượng với mấy người đứng cạnh đó vài lời rồi mới lớn tiếng đáp:

– Ðại ỷ Ty đã phạm lỗi với tổng giáo, thể nào cũng bị hành hình bằng cách thiêu thân. Nàng với tổng giáo của Trung thổ không có liên can gì hết.

Tạ Tốn lại nói tiếp:

– Tôi có ba điều kiện, nếu quý vị nhận lời thì chúng tôi sẽ cung kính đưa các giáo hữu này lên bờ ngay.

Người nọ liền hỏi:

– Những điều kiện của ngươi là những điều kiện gì?

Tạ Tốn đáp:

– Ðiều thứ nhất là phải do Bảo Thụ vương mười hai vị đích thân nhận lời, từ giờ trở đi, tổng giáo với Minh giáo ở Trung thổ phải tương thân, tương kính, không được quấy nhiễu lẫn nhau…

Người nọ lại hỏi:

– Còn điều thứ hai?

Tạ Tốn đáp:

– Các ngươi phải đưa Ðại ỷ Ty sang bên thuyền này, từ giờ trở đi không truy cứu tới tội thất trinh của nàng ta nữa!

Người nọ giận dữ hỏi tiếp:

– Chúng ta không thể nào tiếp nhận điều này được, vậy còn điều thứ ba?

Tạ Tốn đáp:

– Các người không nhận lời điều kiện thứ hai, còn hỏi đến điều thứ ba làm gì?

Người nọ lại nói:

– Ðược, ví như chúng ta nhận điều kiện thứ hai, ngươi cứ nói điều kiện thứ ba đi!

Tạ Tốn lại nói tiếp:

– Ðiều thứ ba dễ lắm. Các ngươi cứ phái một chiếc thuyền nhỏ đi theo sau thuyền của chúng ta ra khỏi đây năm mươi dặm, chúng ta thấy các ngươi không phái thuyền lớn theo đuổi nữa, lúc ấy chúng ta mới thả hết tù binh xuống thuyền nhỏ, trả lại cho các ngươi đem đi.

Người nọ cả giận quát lớn:

– Nói bậy, nói bậy…

Thì ra, người thông ngôn đó chính là Cụ Minh Bảo Thụ Vương, người thứ mười hai. Chỉ thấy y huýt một tiếng còi, y với mười một Bảo Thụ Vương nữa cùng nhảy lên thuyền của Vô Kỵ.

Vô Kỵ liền xông lên dùng chưởng đẩy vào ngực Tề Tâm Vương, ngờ đâu Tề Tâm Vương không chống đỡ thì chớ, mà còn giơ tay trái nhằm đầu Vô Kỵ chộp luôn. Vô Kỵ biết chưởng của mình thể nào cũng đánh trúng người của y trước, nên chàng không đổi thế võ.

Ngờ đâu Cụ Minh Vương ở bên cạnh đã đưa hai tay ra chống đỡ chưởng của Vô Kỵ liền bắt buộc Vô Kỵ phải nhảy về phía trước một bước mới tránh được thế chộp của Tề Tâm Vương.

Lúc ấy chàng mới hay hai người liên tay tấn công, như vậy họ như có bốn tay chân đối địch với mình.

Ba người đấu với nhau nhanh như điện chớp, chỉ thoáng cái đã đấu được bảy tám hiệp liền.

Vô Kỵ kinh hãi thầm và nghĩ:

– Tuy võ công của hai người này không bằng Phong Vân tam sứ nhưng võ công của họ vẫn quái dị lắm. Rõ ràng võ công của họ giống hệt Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp nhưng khi sử dụng lại biến hình một cách kỳ dị đến thế khiến ta không làm sao mà biết được. Nhưng võ công của họ còn kém môn Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp xa.

Ba người lại đấu thêm hai ba chục hiệp nữa, lúc ấy Vô Kỵ mới bắt đầu thắng thế.

Ðang lúc ấy, Phong Vân tam sứ ở đâu tới rú lên và xông lại tấn công.

Thì ra hồi nãy chúng lỡ tay đánh trúng Bình Ðẳng Vương một cái thẻ bài, trong lòng kinh hoảng nên chúng mới muốn cướp lại Bình Ðẳng Vương để lấy công chuộc tội.

Tạ Tốn giơ cao Bình Ðẳng Vương lên rồi múa thành một vòng tròn, nên Phong Vân tam sứ không dám đường đột xông vào cướp nữa, chỉ cứ chay quanh để chờ chỗ hở tấn công thôi. Hai phe đấu nhau kịch liệt vô cùng.

Bỗng nghe thấy Cụ Minh Vương kêu “hự” một cái đã bị Vô Kỵ đá té liền. Chàng định cúi mình xuống bắt sống địch thủ, ngờ đâu Huy Nguyệt sứ và Lưu Vân sứ cùng chạy tới đấu với chàng luôn, còn Diệu Phong sứ thì vội ẳm Cụ Minh Vương rồi nhảy lên trên thuyền mình tức thì. Lúc ấy Tề Tâm Vương nói với Vân, Nguyệt nhị sứ liền tay đấu với Vô Kỵ nhưng sự hợp tác của ba người này không chặt chẽ như Phong Vân tam sứ hồi nãy, lại thêm họ vừa đấu vừa lo cho vết thương của Cụ Minh Vương nên đấu được vài hiệp thì chúng lép vế liền, vì vậy chúng cũng nhảy về bên thuyền của chúng nốt.

Tạ Tốn liền hỏi Vô Kỵ:

– Con có hiểu được võ công của họ như thế nào không?

Vô Kỵ định thần giây lát rồi nói:

– Hình như bọn người này đã được học môn Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp rồi, nhưng những người đó học sai hết cho nên chúng mới phái Ðại ỷ Ty lên Quang Minh đỉnh để lấy trộm lại môn tâm pháp ấy. Võ công của chúng non nớt thực, nhưng khi chúng vận dụng lại rất khéo léo, hiển nhiên bên trong thể nào cũng có sự bí mật gì rất quan trọng, nhưng con chưa tìm ra được nguyên nhân đấy thôi. Lớp thứ bảy của môn tâm pháp đó khó lắm, con chưa đọc được, chẳng lẽ võ công của chúng lại thoát thai trong tầng lớp ấy chăng?

Nói xong, chàng ngồi xuống ôm đầu nghĩ ngợi.

Tạ Tốn không dám nói thêm nữa vì sợ làm rối trí chàng.

Bỗng đằng xa có tiếng tù và nổi lên và có một chiếc thuyền lớn từ từ đi tới. Mũi thuyền cắm mười hai lá cờ lớn thêu kim tuyến, đằng mũi có để mười hai cái ghế dựa, trên phủ da hổ.

Chín cái ghế có người ngồi còn ba cái thì bỏ trống. Chiếc thuyền lớn tới gần liền ngừng lại.

Tề Tâm Vương và Cụ Minh Vương liền nhảy lên trên chiếc thuyền lớn đó, ngồi lên hai cái ghế bỏ trống cuối cùng. Như vậy mười hai cái ghế đó chỉ có cái ghế thứ sáu là bỏ trống thôi.

Triệu Minh thấy vậy liền hiểu ngay, vội nói:

– Chúng ta bắt cóc được người này ăn mặc cũng như mười một người kia vậy chẳng lẽ người này là một trong mười hai Bảo Thụ Vương chăng?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi cũng đoán như vậy, địa vị của người này phải rất cao nên chúng mới không dám làm gì chúng ta…

Chàng đang nói bỗng thấy Phong Vân tam sứ đã áp giải một người dẫn tới trước mặt mười một người Bảo Thụ Vương kia.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, mới hay người đó chính là Kim Hoa bà bà.

Trí Tuệ Bảo Thụ Vương ngồi ở hàng ghế thứ hai liền lên tiếng hỏi bà bà.

Kim Hoa bà bà cứ chếch người xuống nghe rồi hỏi lại:

– Ngươi nói gì thế? Già này không hiểu.

Trí Tuệ vương cười nhạt một tiếng, đứng dậy giơ tay lột luôn mớ tóc trắng ở trên đầu Kim Hoa bà bà ra.

Trên đầu bà cụ hiện ra mớ tóc đen nhánh và nhỏ như tơ.

Kim Hoa bà bà lại né đầu sang bên trái để tránh.

Trí Tuệ vương lại nhanh tay lột luôn cái mặt nạ của bà nọ xuống, lúc ấy Vô Kỵ với các người đã thấy rõ mặt của Kim Hoa bà bà đẹp khôn tả.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Sao trông mặt của bà bà giống Tiểu Siêu thế nhỉ?

Chàng vừa nghĩ tới đó thì Triệu Minh đã lên tiếng nói liền:

– Bà ta giống Tiểu Siêu quá?

Lúc ấy Ðại ỷ Ty đã bị Trí Tuệ vương lột mất mặt nạ rồi liền vứt luôn cây quẩy xuống nhưng chỉ im lặng chứ không nói gì cả.

Trí Tuệ vương lại nói thêm vài lời, nàng cũng dùng tiếng Ba Tư đối đáp, càng nghe càng tỏ vẻ nghiêm trọng, Vô Kỵ không hiểu hai người nói gì, cứ ngẩn người ra nhìn, Triệu Minh bỗng lên tiếng hỏi:

– Tiểu Siêu cô nương, họ nói những gì thế?

Tiểu Siêu ứa nước mắt đáp:

– Cô nương thông minh thật, cái gì cũng biết hết, nhưng tại sao hồi nãy cô nương không ngăn cản Tạ lão gia kể chuyện?

Triệu Minh ngạc nhiên hỏi:

– Ngăn cản Tạ lão gia làm chi?

Tiểu Siêu lại nói tiếp:

– Ðáng lẽ họ không biết Kim Hoa bà bà là Tía Sam Long Vương rồi, nhưng họ có ngờ đâu Tía Sam Long Vương lại là thánh nữ Ðại ỷ Ty. Nỗi khổ tâm của bà bà chỉ mong lừa dối được bọn họ là bắt bọn họ phải buông tha thánh nữ Ðại ỷ Ty ra. Ðó tuy là lòng hảo tâm của lão gia nhưng không sao lừa dối được Trí Tuệ Vương. Tạ lão gia không trông thấy gì, tất nhiên không biết Kim Hoa bà bà cải trang rất khéo, ai trông thấy cũng phải lầm, Triệu cô nương bảo lời nói của tôi có sai không, Triệu cô nương đã trông thấy rõ như vậy, sao lại không nghĩ đến điều đó?

Nàng trách oan Triệu Minh, sự thực Triệu Minh nghe Tạ Tốn kể chuyện xong, liền đoán ra ngay Kim Hoa bà bà là thánh nữ Ðại ỷ Ty của Minh Giáo, nhưng nàng không ngờ tới người Ba Tư chưa phát giác ra vấn đề đó.

Triệu Minh định cãi lại nhưng thấy Tiểu Siêu có vẻ rầu rĩ đau đớn, nên nàng đoán Tiểu Siêu với Kim Hoa bà bà thể nào cũng có sự liên can rất mật thiết, nên nàng không nỡ cãi lại, vì vậy nàng chỉ hỏi:

– Quả thực tôi không ngờ. Nếu tôi có ý hại Kim Hoa bà bà thì tôi sẽ chết bất đắc kỳ tử.

Tạ Tốn càng ăn năn thêm, nhưng lão anh hùng không nói năng gì hết, chỉ quyết định rằng:

– Thà mình có hy sinh tính mạng cũng phải giúp Ðại ỷ Ty thoát hiểm.

Tiểu Siêu lại vừa khóc vừa nói tiếp:

– Họ trách Kim Hoa bà bà đã lấy chồng mà còn phản giới vì vậy họ mới quyết lấy lửa thiêu bà ta.

Vô Kỵ liền an ủi Tiểu Siêu rằng:

– Tiểu Siêu, cô chớ nên lo âu như vậy làm chi, nếu có dịp may thế nào tôi cũng cứu bà bà.

Chàng quen gọi Kim Hoa bà bà là bà bà, thật ra lúc này mặt mũi thực của Tía Sam Long Vương rất xinh đẹp, tuy tuổi đã trung niên mà vẻ đẹp không kém gì Triệu Minh. Chỉ Nhược các người lại tưởng Tía Sam Long Vương là chị cả của Tiểu Siêu.

Tiểu Siêu đáp:

– Không, không, mười một vị Bảo Thụ Vương lại thêm Phong Vân tam sứ người đông và sức mạnh như thế Giáo chủ địch sao nổi, Giáo chủ mạo hiểm vào đánh nhau với họ, chỉ chết oan chết uổng thôi, bây giờ họ đang bàn cách cướp lại Bình Ðẳng Vương đấy. Triệu Minh hậm hực xen lời nói:

– Dù Bình Ðẳng Vương có sống được thoát về với chúng chăng nữa thì trên mặt cũng đã có in mấy chữ rồi. Như thế xấu hổ cũng đủ chết rồi, chứ chả cần chúng ta phải ra tay đánh nữa.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Trên mặt y có những chữ gì?

Triệu Minh đáp:

– Người sứ giả râu vàng, dùng Thánh Hỏa lệnh đánh vào má trái của y.

Ðột nhiên, nàng nghĩ ra một vấn đề gì liền hỏi Tiểu Siêu rằng:

– Tiểu Siêu, cô biết chữ Ba Tư không?

Tiểu Siêu đáp:

– Biết.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Cô nương thử xem trên mặt Bình Ðẳng Vương in những chữ gì.

Tiểu Siêu vội quay lại nhìn, thấy bên má trái của Bình Ðẳng Vương sưng vù và có ba hàng chữ Ba Tư hiện lên rất rõ.

Thì ra mỗi chiếc Thánh Hỏa lệnh đều có khắc chữ hết.

Diệu Phong sứ lỡ tay đánh trúng Bình Ðẳng vương một cái, nên chữ trên thẻ bài ấy mới in sâu vào mặt Bình Ðẳng Vương, nhưng những hàng chữ đó không được đầy đủ, chữ có chữ không.

Tiểu Siêu theo Vô Kỵ vào đường hầm của Quang Minh Ðỉnh đã mấy lần đọc Càn Khôn Ðại Nã Di rồi. Tuy không hiểu ý nghĩa của mấy câu văn đó và cũng chưa được luyện tập, nhưng võ công pháp môn thì thuộc lòng lắm, lúc ấy nàng thấy mấy chữ trên mặt Bình Ðẳng vương, bỗng buột miệng kêu lên:

– Ủa, mấy chữ này cũng là Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp.

Vô Kỵ ngạc nhiên vội hỏi:

– Cô nương nói Nã Di Càn Khôn tâm pháp gì?

Tiểu Siêu đáp:

– Không, không, thoạt tiên tôi mới trông thấy tưởng là phải nhưng không, để tôi dịch ra Hoa ngữ cho giáo chủ nghe: ý nghĩa của nó là “… nên sang trái trước cần sang phải lại lùi về sau. Tam hư thất thực vô trung sinh hữu…, còn cái gì trời vuông đất tròn…”, còn bên dưới mờ lắm không thấy rõ.

Tuy chỉ có mười mấy chữ đó thôi, nhưng Vô Kỵ nghe xong không khác gì đang bị mây đen che lấp, đột nhiên có ánh sáng điện chớp mấy cái.

Nhờ có ánh sáng đó mà chàng trông thấy đường lối trong đám sương mù.

Nghe xong chàng lẩm bẩm tự nói:

– Nên sang phải thì tiến về phía trước, cần bước sang phải thì lui lại phía sau…

Chàng cố hết sức nghĩ mấy câu đó phối hợp với võ công Càn Khôn Ðại Nã Di mà chàng đã học được, nhưng hình như có lúc đã nghĩ ra lý lẽ chính của nó rồi, nhưng lại có lúc thấy những lý lẽ đó không vững.

Chàng bỗng nghe Tiểu Siêu lớn tiếng bảo:

– Trương công tử phải cẩn thận, họ đã truyền lệnh bảo Phong Vân tam sứ sang đây tấn công một mình công tử. Còn Cẩn Tu vương, Nhẫn Nhục vương và Công Ðức vương thì sang cướp Bình Ðẳng vương.

Nghe thấy Tiểu Siêu nói như vậy, Tạ Tốn liền ôm ngang Bình Ðẳng vương lên trước ngực và ném thanh đao Ðồ Long cho Vô Kỵ và nói:

– Con cứ chém bừa đi.

Triệu Minh cũng đưa thanh ỷ Thiên kiếm cho Chỉ Nhược để nàng chống đỡ với kẻ địch. Vô Kỵ cầm lấy thanh bảo đao, cắm vào hông, mồm vẫn lẩm bẩm đọc “tam hư thất thực, vô trung sinh hữu…”

Triệu Minh thấy vậy nóng lòng sốt ruột vô cùng, liền nói:

– Chàng ngốc ơi, lúc này có phải là lúc nghiên cứu võ học đâu, mau mau chuẩn bị nghênh địch đi.

Nàng vừa nói dứt, Cẩn Tu, Nhẫn Nhục, Công Ðức, ba Bảo Thụ vương đã nhảy tới giơ chưởng ra tấn công Tạ Tốn liền.

Ba người ấy sợ Bình Ðẳng vương bị thương nên chỉ dùng quyền và chưởng thôi chứ không dám dùng khí giới.

Chúng chỉ mong chộp được Bình Ðẳng vương là có thể được liền.

Chỉ Nhược đứng cạnh Tạ Tốn canh gác, hễ thấy nguy hiểm là giơ kiếm ra đâm Bình Ðẳng vương. Cẩn Tu, Nhẫn Nhục, Công Ðức ba người đành phải xoay chưởng tấn công nàng để nàng không còn rảnh tay mà đâm Bình Ðẳng vương.

Còn phía bên kia, Vô Kỵ đấu với Phong Vân tam sứ. Vì hai bên đã biết tài nhau rồi nên bên nào cũng phải cẩn thận chống đỡ. Ðấu được vài hiệp, Huy Nguyệt sứ liền múa thẻ bài Thánh hỏa lệnh đánh tới. Theo lý thuyết của võ học thì thế võ đó phải đánh vào vai trái của Vô Kỵ, ngờ đâu thẻ Thánh hỏa lệnh mới đánh tới được nửa đường, bỗng xoay luôn một vòng và đánh trúng luôn vào sau gáy của Vô Kỵ kêu đánh “bộp” một tiếng.

Vô Kỵ đau đớn vô cùng nhưng chàng đã hiểu, liền lẩm bẩm nói:

– Nên trái nhưng lại sau, thế là đáng lẽ đánh bên trái, nhưng thật ra đánh ở phía sau… Phải rồi! Phải rồi!

Ðọc tới đó, chàng không sao chịu nhịn được, liền thất thanh la, lớn tiếng nói:

– Ta hiểu rồi! Ta hiểu rồi!…

Thì ra, những miếng võ của Phong Vân tam sứ đang sử dụng chỉ là những miếng võ nhập môn của tầng lớp thứ nhất của tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di thôi, nhưng trên Thánh hỏa lệnh có ghi thêm cách dùng và biến hoá quái dị nên mới hoá ra kỳ ảo như thế. Nhờ bị đánh một thẻ bài đó, chàng đã hiểu hết bốn câu của Tiểu Siêu vừa đọc ra liền. Chỉ còn có câu “trời vuông đất tròn” là chàng không sao hiểu được.

Thế rồi chàng rú lên một tiếng thanh thoát, dùng thế “Tam hư thất thực” đã cướp được hai chiếc Thánh hỏa lệnh của Huy Nguyệt sứ tức thì. Chàng lại dùng phương pháp “Vô trung sinh hữu” cướp luôn hai chiếc Thánh hỏa lệnh của Lưu Vân sứ nữa.

Trong khi hai sứ giả đang đứng ngẩn người ra nhìn, chàng đã bỏ bốn chiếc Thánh hỏa lệnh vào trong túi rồi chàng lại giơ tay chộp lấy cổ áo của hai tên sứ giả ấy ném luôn sang bên thuyền địch.

Bọn người Ba Tư liền kêu la inh ỏi.

Diệu Phong sứ biết địch không lại chàng liền nhảy về thuyền của mình.

Lúc ấy Vô Kỵ đã biết bí quyết võ công đối phương rồi, tuy chàng hiểu biết có hạng thôi, nhưng không sợ võ công của Diệu Phong sứ nữa, nên vội giơ tay phải ra đuổi bắt và chộp được chân trái của đối thủ.

Chàng lại cướp nốt hai chiếc Thánh hỏa lệnh của tên này.

Tiếp theo đó chàng giơ cao người của kẻ địch lên nhằm đầu của Nhẫn Nhục vương đánh xuống.

Ba Bảo Thụ vương thấy vậy giật mình kinh hãi.

Chúng biết địch không lại, liền ra hiệu bảo nhau chạy luôn về thuyền của chúng.

Vô Kỵ liền điểm huyệt cho Diệu Phong sứ không cử động được rồi vứt sang một bên. Thấy Vô Kỵ đắc thắng một cách đột ngột như vậy, bọn Triệu Minh mừng rỡ vô cùng, liền lên tiếng hỏi rối rít.

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

– Nếu không nhờ sự đánh nhầm của chúng và mặt của Bình Ðẳng vương hiện ra những chữ kia thì lúc này chúng ta đã nguy tai lắm rồi.

Tiểu Siêu, cô mau giải thích mấy chữ trên Thánh hỏa lệnh này cho tôi nghe đi.

Mọi người xúm lại xem thấy sáu chiếc Thánh hỏa lệnh đó không phải bằng vàng và cũng không phải bằng ngọc, nhưng cứng rắn vô cùng. Sáu chiếc dài ngắn và to nhỏ khác nhau, trông những thẻ đó tựa như trong suốt, nhưng không phải trong suốt thực, ở phía sau mỗi chiếc tựa như có ngọn lửa đang bốc cháy.

Sự thực sáu chiếc thẻ đó làm bằng ngọc, chiếc nào cũng có khắc chữ Ba Tư.

Muốn giải thoát hoàn cảnh nguy nan ở trước mặt, Vô Kỵ cần phải biết rõ câu chuyện võ công của phái Ba Tư nên chàng vội nói với Chỉ Nhược rằng:

– Chu cô nương, mau dùng ỷ Thiên kiếm dí vào cổ Bình Ðẳng vương và nghĩa phụ cũng dùng đao Ðồ Long kê luôn vào cổ Diệu Phong sứ ngay để kéo dài thời gian.

Tạ Tốn với Chỉ Nhược gật đầu nhận lời.

Tiểu Siêu liền cầm sáu cái thẻ đó lên giải thích từng câu một cho Vô Kỵ nghe.

Nghe lần đầu, không hiểu gì cả. Chàng cố nghĩ mãi mà chưa hiểu nổi, nóng lòng sốt ruột vô cùng.

Triệu Minh liền đề nghị:

– Tiểu Siêu cô nương hãy giải thích cái thẻ Bình Ðẳng vương trước, rồi mới giải thích những cái khác sau.

Lúc ấy Tiểu Siêu mới tỉnh ngộ.

Nàng thấy chiếc Thánh hỏa lệnh đánh trúng Bình Ðẳng vương là chiếc dài thứ nhì, liền giải thích những chữ ấy trước.

Giảng xong lần này Vô Kỵ đã hiểu được bảy tám thành.

Tiểu Siêu lại giải đến chiếc dài nhất cho chàng nghe.

Vừa được vài câu, Vô Kỵ đã mừng rỡ nói:

– Tiểu Siêu, thì ra sáu chiếc Thánh hỏa lệnh này, chiếc càng dài, võ công càng thô sơ và dễ hiểu. Vừa rồi cô lại bắt đầu giải thích chiếc ngắn nhất cho tôi nghe, nên mới không hiểu gì cả. Bây giờ cô giảng nghĩa tới cái dài nhất này tôi mới biết những võ công ghi trong này là những thế võ nhập môn. Thì ra sáu chiếc Thánh hỏa lệnh này là của Sơn Trung lão nhân chế ra, bên trên khắc những tinh yếu võ công của đời lão nhân. Sáu chiếc thẻ này với Minh giáo truyền vào trong Trung thổ cùng một lúc.

Từ trước tới nay vẫn dùng làm lệnh phù của giáo chủ Minh giáo ở Trung thổ, lâu ngày người của Minh giáo ở Trung thổ không biết chữ Ba Tư như những lão tiền bối trước, nên không ai hay biết đó là tâm pháp của võ công. Rồi mấy chục năm trước đây Thánh hỏa lệnh lại bị Cái Bang cướp mất, về sau không hiểu làm sao lại lọt vào tay nhà buôn Ba Tư. Sau lại trở về tay của tổng giáo. Người của tổng giáo bên Ba Tư nghiên cứu những võ công ghi trên thẻ bài đó, nhưng tốn hàng mấy chục năm mà chỉ học được một chút ít thôi. Ngay đến Ðại Thánh Bảo Thụ vương là người có võ công cao siêu nhất cũng chỉ học được ba bốn thành võ công của những chiếc thẻ bài ấy thôi. Còn tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di vốn là thần công hộ giáo của tổng giáo ở bên Ba Tư, những võ công ấy rất kỳ diệu, người thường khó mà học được. Vả lại luật lệ của tổng giáo cứ lựa những gái đồng trinh lên đảm nhiệm chức, thử hỏi những gái đồng trinh đó có mấy ai là người có võ công cao siêu? Vì vậy hàng nghìn năm nay, mấy đời nữ giáo chủ của tổng giáo đều là những người tầm thường, nên họ chỉ học được một chút ít tâm pháp ấy thôi. Trái lại Minh giáo bên Trung thổ lại giữ được toàn phần.

Minh giáo ở bên Ba Tư dùng một thành tâm pháp đó phối hợp với hai ba thành võ công trên Thánh hỏa lệnh thì Minh giáo có thể oai trấn trên thiên hạ được liền. Vì vậy chúng mới phái thánh nữ Ðại ỷ Ty vào Quang Minh đỉnh là thế. Không ngờ tâm nguyện của họ lại do Trương Vô Kỵ giáo chủ của Minh giáo bên Trung thổ hoàn thành được. Sự thực dù tổng giáo có lấy được Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp đi nữa, nếu không có Cửu Dương thần công làm căn bản thì không sao học được. Nhưng việc đời bao giờ cũng vậy, nếu không có duyên thì không sao thành tựu được, dù có cưỡng cầu cũng vô ích thôi.

Vô Kỵ ngồi xếp bằng tròn trên mũi thuyền, Tiểu Siêu cúi đầu rỉ tai giảng giải từng câu văn trong Thánh hỏa lệnh cho chàng nghe.

Võ công cũng như văn học, một lý thông là vạn pháp thông liền.

Võ Thái Cực quyền của phái Võ Ðang, ba thứ võ công đó là ba môn võ học tuyệt mức của ba nơi Thiên Trúc, Ba Tư và Trung Hoa.

Võ công trên Thánh hỏa lệnh tuy ly kỳ, nhưng dù sao cũng chỉ là bàng môn tả đạo đã đạt tới mức tột bực thôi. Nếu nói đến tinh thần thì kém những môn võ kia nhiều.

Vô Kỵ nghe thấy Tiểu Siêu dịch xong những câu văn ở trên sáu cái thẻ đó, chỉ một lần mà chàng nghĩ được bảy tám thành liền.

Tuy vậy chàng cũng đủ đánh bại bọn Bảo Thụ vương với Phong Vân tam sứ rồi vậy.

Hồi thứ 76

Âm Mưu Ðộc Kế

Thời gian cứ trôi, Vô Kỵ chăm chú nghiên cứu đến môn võ học đó nên không có thì giờ để ý đến việc xảy ra ở bên ngoài, nhưng Triệu Minh với Chỉ Nhược các người nóng lòng vô cùng, thấy Ðại ỷ Ty bị xích chặt hai tay và mười một Bảo Thụ vương đang tụ họp bàn tán. Rồi lại thấy mười một Bảo Thụ vương cởi áo bào ra mặc áo giáp vào.

Mọi người thấy tả hữu đưa khí giới cho các Bảo Thụ vương ấy, môn khí giới nào cũng kỳ lạ vô cùng.

Tiếp theo đó những người Hồ đều giương cung lên nhắm thuyền của mình định bắn và mấy chục tên Ba Tư tay cầm búa nhảy xuống nước, chỉ chờ các Bảo Thụ vương ra lệnh thì chúng sẽ đến đục thủng thuyền của mình tức thì.

Lúc ấy trời sắp sáng. Trên mặt biển có ánh sáng lập lòe.

Ðại Thánh Bảo Thụ vương liền quát lớn một tiếng rồi các thuyền lớn ở chung quanh đều khua chiêng đánh trống và thổi tù và inh ỏi.

Nghe thấy tiếng tù và vang dội, Vô Kỵ giật mình kinh hãi, vội ngẩng đầu lên nhìn, thấy mười một Bảo Thụ vương mặc áo giáp bóng nhoáng, tay cầm khí giới đang nhảy sang thuyền mình.

Tạ Tốn và Chỉ Nhược đang cầm đao kiếm kề vào cổ của Bình Ðẳng vương và Diệu Phong sứ.

Mười một Bảo Thụ vương thấy vậy không dám tới gần nữa, chỉ đứng xa nhìn và đợi chờ cơ hội để tấn công.

Chỉ Nhược, Triệu Minh thấy mười một Bảo Thụ vương đó rất hung ác và thân hình cao lớn vạm vỡ.

Trí Tuệ vương dùng Hoa ngữ nói:

– Các người mau trả lại giáo hữu của bên ta thì chúng ta sẽ tha chết cho các người. Hai giáo hữu này với chúng ta chỉ tựa như lợn và chó thôi, vậy các người có kề dao vào cổ họ cũng vô ích. Dù các người có giết chết họ đi chăng nữa, chúng ta có cần đâu.

Triệu Minh vội đáp:

– Các ngươi khỏi cần phải nói dối như thế làm gì. Chúng ta đã biết hết rồi. Một trong hai người này là Bình Ðẳng vương và người kia là Diệu Phong sứ, cả hai đều có địa vị rất cao ở trong Minh giáo mà các ngươi lại bảo họ như chó với heo. Chúng ta có phải là trẻ con đâu mà các ngươi định lừa dối chúng ta?

Trí Tuệ vương cau mày nói tiếp:

– Trong thánh giáo có tất cả ba trăm sáu mươi vị Bảo Thụ vương. Bình Ðẳng vương là người thứ ba trăm năm mươi chín, chúng ta có đến những một nghìn hai trăm sứ giả. Diệu Phong sứ võ công rất tầm thường. Các ngươi mau mau giết chúng đi, chúng ta có cần gì chúng đâu.

Triệu Minh liền đáp:

– Hay lắm! Hay lắm! Các bạn cầm đao kiếm mau đem hai người vô dụng kia ra trảm đi.

Tạ Tốn liền đáp:

– Xin tuân lệnh.

Nói xong, lão anh hùng liền giơ đao Ðồ Long lên nhắm đầu Bình Ðẳng vương chém luôn.

Mọi người thấy vậy đều giật mình kinh hãi, nhưng thanh bảo đao ấy chỉ chém lướt qua đầu của Bình Ðẳng vương và chém mất một mảng tóc thôi. Mớ tóc ấy bị gió thổi bay tà tà xuống dưới bể.

Tạ Tốn lại giơ tay lên chém xuống phía trái một nhát và phía bên phải một nhát.

Ai cũng yên trí hai nhát đao ấy chém xuống, hai cánh tay Bình Ðẳng vương thế nào cũng bị đứt ngay. Nhưng khi lưỡi đao vừa chém xuống vai của nạn nhân, Kim Mao Sư Vương đã khẽ hất lưỡi đao lên một chút, nhờ vậy Bình Ðẳng vương chỉ bị chém đứt hai cánh tay áo thôi. Ba nhát đao chém khéo léo như vậy, dù người sáng mắt cũng chưa chắc đã chém được, huống hồ Tạ Tốn lại đui cả hai mắt, đủ thấy đao pháp của Kim Mao Sư Vương lợi hại biết bao! Bình Ðẳng vương yên trí thế nào cũng bị chém chết rồi, ngờ đâu lại được thoát chết như vậy nên y hoảng sợ đến chết giấc luôn.

Mười một vị Bảo Thụ vương và Phong Vân tam sứ đều kinh hãi đến thè lưỡi ra hồi lâu không sao rút vào được.

Triệu Minh lại lên tiếng nói:

Các ngươi đã được kiến thức võ công của Trung thổ chưa? Vị này là Kim Mao Sư Vương, người của Minh giáo ở Trung thổ, tên tuổi của y chỉ được xếp hạng thứ ba nghìn năm trăm lẻ chín thôi. Nếu bây giờ các ngươi thì người nhiều hà hiếp chúng ta, dù các ngươi có đắc thắng đi chăng nữa, nay mai Minh giáo thế nào chả đem đại quân sang tận đất nước của ngươi trả thù liền. Lúc ấy liệu Tổng đàn của các ngươi có chống đối nổi không? Các ngươi biết điều sớm giải hòa ngay với chúng ta có hơn không?

Tuy Trí Tuệ vương biết lời nói của Triệu Minh chưa chắc đã đúng hẳn sự thật, nhưng nhất thời y chưa nghĩ ra được kế gì, nên không dám trả lời Triệu Minh ngay.

Ðại Thánh Bảo Thụ vương bỗng lên tiếng nói vài lời.

Tiểu Siêu nghe người đó nói xong, bỗng la lớn:

– Trương công tử, chúng định đục đáy thuyền của chúng ta đấy.

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi, vì nếu thuyền bị chúng đục thủng, thế nào người của mình cũng bị bắt liền chứ không sai.

Chàng vội nhảy tới trước mặt Ðại Thánh vương để kịp thời đối phó.

Trí Tuệ vương thấy vậy quát lớn hỏi:

– Ngươi định làm gì thế?

Công Ðức vương với Hoan Hỷ vương đứng ở hai bên vội múa truỳ và roi nhằm người Vô Kỵ đánh xuống.

Lúc ấy Vô Kỵ đã thuộc hiểu võ công của địch rồi, nên chàng không cần né tránh gì cả, chỉ giơ hai tay lên đã chộp được cổ tay của hai Bảo Thụ vương liền.

Mọi người chỉ nghe thấy “coong” một tiếng, thì ra roi và truỳ của hai Bảo Thụ vương ấy va chạm vào nhau, phát ra tiếng kêu ấy.

Hai Bảo Thụ vương bị Vô Kỵ thộp cổ tay và xách về chỗ cũ. Trong khi rút lui, Vô Kỵ còn giơ chân lên đá luôn bốn cái, làm rớt luôn hai thanh đại đao của Tề Tâm vương cùng Nhẫn Nhục vương, và đá cho Cẩn Tu vương cùng Cụ Minh vương rớt xuống dưới bể. Bỗng có một Bảo Thụ vương rất cao lớn, hai tay cầm hai thanh đoản kiếm xông lại tấn công Vô Kỵ nhanh như tia chớp.

Vô Kỵ lại phi thân lên đá cổ tay của địch. Người đó bỗng đưa tréo hai tay đâm luôn vào bụng dưới của Vô Kỵ hai nhát.

Thế ấy biến đổi rất linh động khiến Vô Kỵ phải nhảy lên mới tránh nổi.

Thì ra người đó là Thường Thắng Bảo Thụ vương và cũng là người giỏi võ công thứ hai trong nhóm thập nhị Bảo Thụ vương của Tổng giáo Ba Tư.

Thấy thế công ấy không đâm trúng Vô Kỵ, y lại xoay tay đâm luôn vào lưng chàng. Nhanh tay điểm luôn yếu huyệt mê của hai Bảo Thụ vương nọ, Vô Kỵ vứt hai địch thủ ấy vào trong khoang thuyền rồi quay lại ngay chống đỡ thế công của Thường Thắng vương. Chàng tấn công luôn ba thế và bảo thủ ba thế liền.

Trong ba lần tiến và ba lần lui ấy, chàng phải thầm khen ngợi đối thủ:

– Không ngờ người Ba Tư này lại lợi hại đến thế?

Từ khi hiểu biết võ công ghi trên sáu chiếc thẻ Thánh hỏa lệnh tới giờ, Vô Kỵ chưa hề luyện tập qua mà nay đã phải đem ra sử dụng để đối phó với đối thủ, nên chàng vừa đối địch, vừa phải nhớ lại những thế võ ghi trong những chiếc thẻ đó. Trong mười hiệp đầu, nhờ có nội công thâm hậu và những thế võ tinh diệu, chàng mới giữ nổi thế quân bình với địch thủ, nhưng khi đấu tới hiệp thứ hai mươi, chàng đã có thể phối hợp võ công trên thẻ bài với tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di, nên chàng càng đấu càng thấy võ công lợi hại hơn trước nhiều.

Còn Thường Thắng vương xưa nay đấu với ai cũng chỉ mang phần thắng về mình, chưa bao giờ y gặp mặt một địch thủ lợi hại như thế. Y thấy càng đấu, đối thủ càng lợi hại thêm, còn mình thì càng bị bó chân bó cẳng, nên y càng kinh dị và càng sợ hãi thêm. Khi hai người đấu đến hiệp thứ ba mươi, Vô Kỵ bước lên một bước, rồi bỗng ngồi phịch xuống, ôm chặt hai chân của Thường Thắng vương làm cho y cảm thấy bản thân tê tái, đành chịu thất thủ để cho chàng bắt trói lại.

Vô Kỵ bỗng động lòng thương người có tài, liền lên tiếng:

– Võ công của ngươi cao siêu lắm, ta cũng phải khen phục, ta vui lòng bảo tồn tên tuổi của ngươi, vậy ngươi mau trở về thuyền bên kia đi.

Nói xong chàng buông tay ra liền.

Thường Thắng vương vừa cảm động vừa xấu hổ, vội nhảy về thuyền của mình ngay. Lúc ấy Tạ Tốn với Chỉ Nhược đã trói chặt Công Ðức vương và Hoan Hỷ vương, đem ra ngoài bong thuyền của mình, rồi kề hai lưỡi bảo đao và bảo kiếm vào cổ hai thủ lãnh trọng yếu đó.

Ðại Thánh vương bị bắt, y nghĩ nếu đục được thuyền của đối thủ chăng nữa, thì bốn Bảo Thụ vương của bên mình cũng bị chết luôn, nên y liền ra lệnh cho gọi các người trở về thuyền.

Triệu Minh lại lớn tiếng nói tiếp:

– Các ngươi mau đưa Ðại ỷ Ty sang bên thuyền này và nhận ngay ba điều kiện của Kim Mao Sư Vương đi.

Bên thuyền của Ba Tư chỉ còn lại chín vị Bảo Thụ vương thôi, chín người đó liền xúm lại bàn tán hồi lâu, rồi Trí Tuệ vương mới lên tiếng trả lời Triệu Minh rằng:

– Các ngươi muốn chúng ta nhận điều kiện ấy cũng được, nhưng võ công của thiếu niên công tử kia, rõ ràng là võ công của phái Ba Tư chúng ta, tại sao công tử ấy lại hiểu biết những thế võ đó? Chẳng hay công tử ấy học ở đâu? Các ngươi có thể giải thích cho chúng ta biết mấy điều mà chúng ta đang thắc mắc đó không?

Triệu Minh cố nhịn cười, rồi nghiêm nét mặt lại đáp:

– Còn nhiều chuyện các người không thể biết được, vị thanh niên công tử này là đệ tử thứ tám của Quang Minh sứ bổn giáo. Chàng còn bảy vị sư huynh và bảy vị sư đệ nữa sắp đến nơi rồi. Lúc ấy mười lăm sư huynh đệ của y sẽ là “Thất thượng bát lạc”, rồi các người “Bất dịch lạc hồ, ô hô ai tai liền”.

Thấy Trí Tuệ vương đã không thạo văn chương mà lại hay dùng văn nên nàng mới nhại như trên để chế diễu. Trí Tuệ vương là người rất thông minh, tuy không thạo Hoa ngữ, nhưng y biết Triệu Minh đã nói dóc nhiều hơn sự thật nên y suy nghĩ giây lát rồi lại nói tiếp:

– Ðược! Chúng ta bằng lòng đưa Ðại ỷ Ty sang bên thuyền các người trước.

Y vừa dứt lời đã có hai giáo đồ Ba Tư khiêng Ðại ỷ Ty đưa tới mũi thuyền Vô Kỵ.

Chỉ Nhược dùng kiếm ỷ Thiên khẽ gõ vào những xiềng xích ở chân tay nàng ta một cái, chỉ nghe thấy hai tiếng “coong coong rất nhỏ, những xiềng xích đó đã đứt ra làm mấy mảnh.

Hai tên giáo đồ của Ba Tư thấy kiếm của nàng sắc bén như vậy, hoảng sợ đến tay chân run lẩy bẩy vội nhảy lui về thuyền của chúng tức thì, nhưng một tên quá hoảng sợ, nhảy hụt chân và té xuống biển liền.

Trí Tuệ vương lại nói tiếp:

– Các người mau kéo buồm trở về Trung thổ ngay đi. Chúng ta phái một thuyền nhỏ theo sau các người thôi.

Vô Kỵ chắp tay chào và đáp:

– Minh giáo của Trung thổ với tổng giáo của Ba Tư tuy hai mà một. Chúng tôi với các bạn không khác gì anh em ruột thịt, mong quý vị đừng có hiểu lầm về sự việc xảy ra ngày hôm nay nữa. Say này, thể nào cũng có dịp mời quý vị lên trên Quang Minh đỉnh, lúc ấy chúng ta sẽ chén tạc chén thù vui chuyện với nhau. Vậy hôm nay có điều gì sơ xuất không nên, không phải, mong quý vị miễn thứ cho tiểu đệ.

Trí Tuệ vương ha hả cả cười rồi tiếp:

– Võ công của bạn giỏi lắm, chúng rất bái phục, thánh nhân đã dạy “học nhi thời tập chi, bất dịch duyệt hồ, hữu bằng từ viễn phương lai bất duyệt hồ” cũng như cô nương nọ vừa nói “thất thượng bát lạc, bất dịch lạc hồ” phải không?

Thoạt tiên, Vô Kỵ với các người nghe thấy Trí Tuệ vương lấy hai câu trong Tứ thư ra nói đều khen ngợi y là người học rộng, nhưng tới khi mọi người nghe thấy y bắt chước Triệu Minh nói hai câu sau, thì không ai nhịn được đều cười ồ lên.

Triệu Minh vội đỡ lời:

– Bạn nói rất khéo cho nên tôi mới bảo chỉ có bạn là khác những người Ba Tư kia thôi, kể cũng hiếm lắm đấy. Tôi xin chúc các bạn đa phúc đa thọ, lại cách lai hưởng, hoạ diên tiên khảo, vô tật nhi chung.

Trí Tuệ vương chỉ nghe hiểu bốn tiếng đa phúc đa thọ, lại tưởng những câu sau là những lời chúc thọ, nên y tủm tỉm cười và cảm ơn luôn mồm, Vô Kỵ chỉ sợ Triệu Minh cao hứng càng nói càng nhiều chuyện, rồi lỡ mất cơ hội thoát hiểm thì nguy cho mọi người. Nên chàng vội nhổ neo và giương buồm đi luôn.

Những thủy thủ của Ba Tư đứng trên những chiếc thuyền quanh đó, thấy chàng một mình làm công việc của mười mấy người một lúc, thần lực kinh người như vậy, nên chúng đều vỗ tay khen ngợi không ngớt.

Vô Kỵ thấy có một chiếc thuyền nhỏ theo sau và một người quăng dây thừng tới. Chàng liền thộp lấy sợi dây đó và buộc luôn vào đuôi thuyền. Chàng thấy trong chiếc thuyền nhỏ đó có hai người một nam, một nữ, hai người đó chính là Lưu Vân sứ với Huy Nguyệt sứ.

Vô Kỵ nắm chặt lấy bàn lái cho thuyền chạy thẳng về phía Tây, chàng thấy các thuyền lớn của Ba Tư không đuổi theo, trong lòng mới yên tâm.

Ði được vài dặm, chàng thấy hòn đảo với những thuyền của Ba Tư càng ngày càng bé dần và vẫn đứng nguyên một chỗ không cử động.

Chàng liền gọi Tiểu Siêu đến cầm lái, rồi vào trong khoang xem xét vết thương của Hân Ly. Chàng thấy nàng ta vẫn mê sảng như trước, tuy không đỡ chút nào, nhưng bệnh cũng không tăng thêm.

Ðại ỷ Ty đứng ở đằng mũi ngắm nhìn bể khơi, nàng nghe thấy Vô Kỵ đi ra ngoài bong rồi mà vẫn không chịu quay đầu lại nhìn.

Lúc này Vô Kỵ chỉ trông thấy mái tóc và thân hình của nàng, cũng nhận thấy Tạ Tốn bảo nàng là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, quả thật không ngoa chút nào.

Thuyền đi tới chiều tối hôm đó, Vô Kỵ đoán chắc thuyền mình đã cách xa Linh Xà đảo hàng trăm dặm rồi. Chàng thấy trên mặt biển không có một mảnh buồm nào cả và đoán chắc Tổng giáo của Ba Tư bị mình uy hiếp, nên không dám đuổi theo nữa.

Chàng liền hỏi Tạ Tốn rằng:

– Thưa nghĩa phụ, bây giờ chúng ta có thể buông tha họ được chưa?

Tạ Tốn đáp:

– Cũng được, dù chúng có đuổi theo, cũng không bắt được chúng ta nữa.

Vô Kỵ liền cởi trói cho Bình Ðẳng, Công Ðức, Hoan Hỷ, ba Bảo Thụ vương và giải huyệt cho Diệu Phong sứ.

Chàng luôn mồm xin lỗi và thả họ xuống chiếc thuyền nhỏ theo sau đó.

Diệu Phong sứ trước khi xuống thuyền đã lên tiếng hỏi:

– Thánh hỏa lục lệnh này là vật báu của Tổng giáo chúng tôi, nếu để thất lạc, chúng tôi sẽ mang lỗi rất lớn, vậy xin bạn trả cho chúng tôi sáu cái thẻ bài ấy.

Tạ Tốn đáp:

– Thánh hỏa lệnh là lệnh phù của giáo chủ Minh giáo ở Trung thổ, ngày hôm nay vật đã trở về với nguyên chủ, khi nào chúng tôi lại chịu để cho các bạn đem đi như thế.

Diệu Phong sứ cứ luôn mồm đòi lấy lại cho được sáu chiếc thánh hỏa lệnh đó.

Vô Kỵ thấy vậy liền nghĩ thầm:

– Ngày hôm nay ta phải làm thế nào để chúng phải chịu khuất phục hẳn sau này mới khỏi hậu hoạ.

Nói đoạn chàng liền trả lời:

– Chúng tôi trao trả Thánh hỏa lệnh này cho các bạn cũng được, nhưng bản lãnh của các bạn còn thấp kém lắm không sao bảo tồn nổi sáu chiếc thẻ này đâu. Nếu để cho người ta cướp mất thì thà rằng để cho Minh giáo chúng tôi giữ hộ thì hơn.

Diệu Phong sứ lại hỏi tiếp:

– Người ngoài làm sao cướp được nổi sáu chiếc thẻ bài ấy chứ?

Vô Kỵ liền trả lời:

– Nếu bạn không tin cứ thử xem rõ ngay.

Nói xong chàng đưa sáu chiếc Thánh hỏa lệnh đó cho Diệu Phong sứ, tên nọ cả mừng vừa nói được một câu: “Cám ơn”, Vô Kỵ đã dùng tay trái móc một cái, tay phải lôi một cái đã cướp lại được luôn sáu thẻ bài đó liền.

Diệu Phong sứ giật mình kinh hãi nổi giận nói tiếp:

– Tôi chưa cầm chắc, như vậy không kể.

Vô Kỵ vừa cười vừa trả lời:

– Bạn muốn thử lần nữa cũng được.

Chàng lại đưa sáu chiếc thẻ bài đó cho Diệu Phong sứ cầm.

Lần này Diệu Phong sứ cất bốn chiếc thẻ bài vào trong túi trước, còn hai tay cầm hai chiếc thẻ thật chắc.

Y không thấy Vô Kỵ ra tay cướp liền giơ chiếc thẻ bài bên trái lên nhằm cổ tay của đối thủ đánh luôn.

Vô Kỵ lật ngửa cổ tay lên, đã chộp luôn cánh tay phải của đối thủ và giơ chiế tay của đối thủ lên đỡ tay kia của hắn. Hai chiếc thẻ bài va chạm vào nhau kêu “coong” một tiếng.

Diệu Phong sứ cảm thấy hai tay tê tái, mình mẩy mềm nhũn hầu như tê liệt vậy, liền buông tay vứt hai chiếc thẻ xuống mặt bong thuyền.

Vô Kỵ móc túi y, lấy bốn chiếc thẻ bài ra, rồi mới cúi xuống nhặt hai chiếc kia và nói:

– Thế nào? Bạn có muốn thử thêm lần nữa không?

Diệu Phong sứ mặt nhợt nhạt như người chết đuối, mồm lẩm bẩm nói:

– Ngươi không phải là người, ngươi là ma quỷ…

Nói xong, y định nhảy xuống thuyền nhỏ, nhưng quay người, hai chân đã mềm nhũn ngã lăn ra đó liền.

Lưu Vân sứ thấy vậy, vội nhảy lên chiếc thuyền lớn vác Diệu Phong sứ lên vài rồi mới leo xuống dưới thuyền nhỏ và giương buồm đi luôn.

Công Ðức vương nắm sợi dây thừng kéo mạnh một cái, sợi dây đó đứt ngay ra làm đôi. Thế là chiếc thuyền lớn với mấy chiếc thuyền nhỏ đã cách xa nhau liền.

Vô Kỵ chắp tay và nói theo:

– Mong quý vị lượng thứ cho, xin chào quý vị. Chàng thấy bọn Công Ðức vương mặt ai nấy đều tỏ vẻ ai oán quay đầu đi không trả lời. Chiếc thuyền lớn của Vô Kỵ thuận buồm xuôi gió tiến thẳng về phía tây. Vô Kỵ quay đầu lại nhìn, thấy chiếc thuyền nhỏ của bọn người Ba Tư càng ngày nhỏ dần.

Ðang lúc ấy, chàng bỗng nghe thấy Ðại ỷ Ty quát lớn:

– Quân giặc táo gan thật, dám…

Nàng vừa nói vừa nhảy luôn xuống dưới bể.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội quay lái cho thuyền ngừng lại, chàng thấy trên mặt nước có một dòng máu ở bên dưới loang ra.

Tiếp theo đó, lại thấy gần nơi đó có một dòng máu đỏ như thế. Chỉ thoáng cái chàng đã thấy có sáu dòng máu đỏ noỉo lên như vậy.

Rồi chàng thấy nàng Ðại ỷ Ty dưới nước nhô lên, mồm ngậm một thanh đoản đao, tay túm tóc một người Ba Tư đang đạp nước bơi tới.

Chàng vội thả neo ra nắm lấy xích sắt của cái neo rồi mượn sức tung mình lên trên bong thuyền thật đẹp.

Mọi người thấy tình hình như vậy, hiểu biết liền. Thì ra, người Ba Tư đã ngấm ngầm cho những người bơi lội giỏi ẩn núp dưới đáy thuyền nhỏ. Chờ tới khi hai thuyền chia rẽ nhau thì bọn thủy thủ kia liền lặn tới dưới đáy thuyền lớn để đục thuyền của Vô Kỵ.

May Tía Sam Long Vương trông thấy mặt nước có những bọt của hơi người thở sủi lên trên nên nàng vội nhảy ngay xuống dưới bể giết chết sáu tên và bắt được một tên.

Vô Kỵ đang định xét hỏi tên tù binh ấy, thì bỗng nghe thấy phía đuôi thuyền có một tiếng nổ thật lớn và khói đen bốc lên nghi ngút.

Chiếc thuyền của Vô Kỵ bị rung động như ổ đại bác bắn trúng vậy. Phía đuôi thuyền bị nổ gỗ vụn bay tung lên, Vô Kỵ cảm thấy có một luồng hơi nóng xông tới, chàng vội ra hiệu cho mọi người, rồi cùng nằm phục xuống.

Ðại ỷ Ty la lớn:

– Không ngờ bọn người này lại gian ác đến thế.

Nàng vội chạy về phía sau thuyền, thấy đuôi thuyền bị nổ, làm thủng thành một lỗ hổng rất lớn, bánh lái cũng bay đi đâu mất không hay. Nước bể cứ cuồn cuộn theo lỗ hổng dồn vào trong thân thuyền.

Triệu Minh vẻ mặt rầu rĩ liếc nhìn Vô Kỵ một cái rồi nghĩ thầm:

– Thuyền của địch sẽ đuổi theo kịp thuyền của ta ngay, chẳng lẽ chúng ta chết mà không có chỗ chôn hay sao?

Ðại ỷ Ty dùng tiếng Ba Tư hỏi tên tù binh kia vài câu, hỏi xong, nàng giơ chưởng lên đánh vỡ sọ tên kia rồi đá xác của tên ấy xuống bể.

Nàng diệt trừ người Ba Tư ấy rồi, liền quay lại nói với Vô Kỵ:

– Tôi chỉ tưởng chúng đục thuyền không, có ngờ đâu chúng lại cột thuốc nổ vào trong đuôi thuyền của chúng ta như vậy.

Lúc ấy chiếc thuyền nhỏ của Công Ðức vương đã đi xa rồi, dù Ðại ỷ Ty có bơi giỏi đến đâu cũng không sao đuổi kịp.

Mọi người rầu rĩ nhìn nhau không ai còn cách gì để tự cứu nữa đành thất thủ chịu chết vậy. Chiếc thuyền lớn ấy rất rộng, nên nhất thời chưa thể chìm được.

Mọi người bỗng nghe Ðại ỷ Ty dùng tiếng Ba Tư nói với Tiểu Siêu và Tiểu Siêu cũng dùng tiếng Ba Tư trả lời, trong khi hai người đàm thoại sắc mặt thay đổi luôn, hai người nói chuyện rất lâu, hình như đang tranh luận về một vấn đề gì vậy.

Ðại ỷ Ty hình như đang khuyên Tiểu Siêu phải nhận lời một việc gì.

Nhưng cô bé cứ lắc đầu không chịu nghe, rồi nàng liếc mắt nhìn Vô Kỵ, thở dài một tiếng và thốt ra có một tiếng thôi.

Mọi người thấy Ðại ỷ Ty ôm chặt lấy nàng hôn lấy hôn để.

Cả hai nước mắt đều nhỏ ròng, cô bé cứ nức nở khóc hoài, còn Ðại ỷ Ty thì hết sức vuốt ve an ủi nàng.

Vô Kỵ, Triệu Minh, Chỉ Nhược ngơ ngác nhìn nhau đều không hay biết gì hết. Triệu Minh liền rỉ tai Vô Kỵ:

– Công tử thử xem mặt hai người có giống nhau không?

Vô Kỵ nghe nói, liền đưa mắt nhìn hai người thấy quả thật hai người giống nhau như đúc, chàng liền nghĩ tới lời nói của Khổ đầu đà ở trước tửu điếm.

Lúc ấy, Khổ đầu đà thấy Tiểu Siêu liền nói: “giống thực, giống thực”.

Bây giờ chàng mới nhận thức câu “giống thực” của đầu đà là bảo Tiểu Siêu giống mặt Tía Sam Long Vương, chàng liền nghĩ thầm:

– Như vậy Tiểu Siêu là em gái Ðại ỷ Ty chăng? Hay là con gái của bà ta?

Tiếp theo đó, Vô Kỵ lại nghĩ đến cha con Dương Tiêu và Bất Hối lúc nào cũng đề phòng Tiểu Siêu, mỗi lần chàng hỏi Dương Tiêu tại sao lại ghét cô bé ấy và coi nàng như kẻ thù như thế thì tả sứ lại ấp úng, không chịu nói rõ ra cho chàng hay. Ðến bây giờ chàng mới hiểu rõ, thì ra Dương Tiêu đã nhận thấy mặt mũi của Tiểu Siêu giống hệt Tía Sam Long Vương, nhưng vì không có bằng chứng gì cả lại thấy chàng đối đãi tử tế với Tiểu Siêu như thế nên y mới không tiện nói rõ, còn Tiểu Siêu có ý làm cho bộ mặt xấu xí là không muốn cho người ta biết mình là ai.

Ðang lúc ấy Vô Kỵ lại sực nghĩ ra một việc nữa:

– Chẳng hay Tiểu Siêu trà trộn lên Quang Minh đỉnh để làm gì thế? Sao nàng lại biết lối ra vào cửa đường hầm? Chắc thế nào cũng do Tía Sam Long Vương sai nàng đi, và bắt nàng phải lấy trộm cho được Tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di. Nàng chịu làm con sen đòi của ta, gần gũi ta hơn hai năm trời, xưa nay ta không đề phòng chút nào, nếu nàng muốn sao lục cuốn Tâm pháp đó, thậtu là dễ như trở bàn tay. Ối chà, ta lại tưởng nàng là một thiếu nữ ngây thơ. Ngờ đâu nàng lại là người lắm mưu kế đến thế, trong hai năm nay ta tựa như nằm trong giấc mơ, ta đã mắc hỡm nàng mà không hay. Vô Kỵ ơi, Vô Kỵ, ngươi suốt đời tín nhiệm người khác nên việc gì cũng bị người ta đánh lừa và còn bị mắc hỡm cả con nhỏ này nữa.

Nghĩ tới đó chàng thấy tức giận vô cùng.

Ðang lúc ấy Tiểu Siêu vừa quay lại nhìn chàng, chàng thấy đôi mắt của nàng rất nhu mì và thành thật, nên chàng lại động lòng thương và nghĩ lại khi sáu đại môn phái lên Quang Minh đỉnh, Tiểu Siêu đã xả thân ra bảo vệ mình, vả lại hai năm nay nàng đã hầu hạ mình cẩn thận chu đáo, không thấy nàng có một lời lẽ và cử chỉ gì giả dối mình hết, chẳng lẽ mình nghi oan cho nàng chăng? Chàng đang nghi ngờ thì thân thuyền đã rung động mạnh một cái, rồi chiếc thuyền đó chìm ngay một nửa xuống dưới nước.

Ðại ỷ Ty liền nói:

– Trương giáo chủ và các vị khỏi phải kinh hoảng, chờ lát nữa thuyền của người Ba Tư tới, tôi với Tiểu Siêu sẽ có cách đối phó. Tía Sam Long Vương tôi tuy là đàn bà thực, nhưng cũng biết mình làm thì mình chịu, chứ không bao giờ để liên luỵ đến các vị. Trương giáo chủ với Sư Vương Tạ huynh đối xử với tôi tử tế như vậy, ơn nghĩa ấy còn nặng hơn núi Thái Sơn, Ðại ỷ Ty tôi xin cảm ơn hai vị ở nơi đây.

Nói xong, nàng quỳ xuống vái lạy.

Vô Kỵ cùng Tạ Tốn đáp lễ và nghĩ thầm:

– Người Ba Tư hành động rất ác độc, lát nữa chúng thể nào cũng bắt bà đem đi thiêu chết, chứ khi nào chịu buông tha chúng ta.

Thân thuyền càng ngày càng chìm xuống nước dần, khoang thuyền đã có nước chảy vào. Vô Kỵ vội ẳm Hân Ly lên còn Chỉ Nhược thì ẳm Triệu Minh rồi mọi người leo cả lên trên cột buồm.

Tiểu Siêu chỉ về phía Ðông và khóc ra tiếng.

Mọi người liền nhìn về phía tay chỉ của nàng, thấy phía đó trên bề mặt bể đã có những bóng buồm lố nhố.

Một lúc sau mọi người đã thấy mười mấy chiếc thuyền lớn của Ba Tư đang lướt tới.

Vô Kỵ thấy vậy, liền nghĩ thầm:

– Nếu ta là Ðại ỷ Ty thì thà nhảy xuống bể tự tử chết còn hơn để cho người Ba Tư bắt thiêu.

Nhưng chàng thấy mặt nàng ta rất thản nhiên không có vẻ gì hoảng sợ hết, trong lòng kính phục và nghĩ tiếp:

– Nàng là người đứng đầu Ðại Pháp vương có khác, quả thật can đảm hơn người. Năm xưa ¦ng vương, Sư vương, Bức vương ba người đều là những tay hào kiệt niên trưởng và đã nổi tiếng giang hồ. Còn nàng chỉ là một thiếu nữ trẻ tuổi mà lại đứng đầu trên Tam vương như thế, tất nhiên nàng phải có tài ba như thế nào Tam vương mới chịu để cho nàng đứng đầu như thế.

Chàng vừa nghĩ tới đó, đã thấy đoàn thuyền của Ba Tư sắp tới gần, liền nghĩ tiếp:

– Ta đã gây hấn với các Bảo Thụ vương rất nhiều, bây giờ lại bị chúng bao vây như vậy, chắc không mong gì còn sống sót nữa, nhưng dù sao ta cũng phải nghĩ ra một phương pháp nào để bảo vệ nghĩa phụ, Triệu cô nương, Chu cô nương, em họ và các người được an toàn, còn Tiểu Siêu, thà đành để nàng bất nghĩa với ta chớ không nên bất nhân với nàng.

Ðang lúc ấy Hân Ly bỗng cử động và mở mắt ra nhìn, thấy mình đang trong tay Vô Kỵ, liền giật mình kinh hãi và la lên hỏi:

– Anh A Ngưu, tôi ở đâu thế? Anh đang làm gì vậy?

Vô Kỵ đáp:

– Cô chớ nên kinh hoảng, cô thấy đỡ chưa?

Hân Ly lắc đầu đáp:

– Em… em đã mất hết hơi sức, không biết gì cả.

Mười mấy khẩu đại bác của mười mấy chiếc thuyền Ba Tư đều nhắm cả vào bọn Vô Kỵ.

Vô Kỵ võ công có cao siêu đến đâu, cũng không thể nào chống đỡ nổi mười mấy khẩu đại bác ấy. Những chiếc thuyền của Ba Tư đi tới chỗ cách chiếc thuyền đắm, liền buông neo xuống luôn. Chúng sợ nếu đến gần quá thì bọn Vô Kỵ sẽ sang bắt một hai vị Bảo Thụ vương thì mưu kế của chúng sẽ bị tan vỡ hết.

Nên Trí Tuệ vương đã ha hả cười đắc chí vô cùng và lớn tiếng nói:

– Các người có chịu hàng không?

Vô Kỵ lớn tiếng đáp:

– Nghĩa sĩ ở Trung thổ thà chết chứ không chịu nhục, khi nào lại hàng các ngươi như vậy, nếu các ngươi có là hảo hán thì đấu võ công với ta một phen, xem ai thắng ai bại.

Trí Tuệ vương lại đáp:

– Ðại trượng phu đấu trí chứ không đấu sức, mau mau thúc thủ để cho chúng ta bắt trói đi.

Ðại ỷ Ty đột nhiên lớn tiếng nói mấy câu bằng tiếng Ba Tư vẻ mặt rất nghiêm nghị.

Trí Tuệ vương ngẩn người ra giây phút rồi dùng tiếng Ba Tư trả lời.

Hai người cứ vấn đáp mười mấy câu liền rồi Ðại Thánh vương cũng xen lời lên tiếng hỏi. Ba người đó nói xong thì trên thuyền lớn buông một chiếc xuồng nhỏ xuống và có tám tên thủy thủ bơi chèo để tới gần thuyền của Vô Kỵ.

Ðại ỷ Ty liền nói với Vô Kỵ rằng:

– Trương giáo chủ, tôi với Tiểu Siêu sang thuyền họ trước, các vị chờ tôi giây lát.

Tạ Tốn lớn tiếng xen lời nói:

– Hàn phu nhân, Minh giáo ở Trung thổ hậu đãi phu nhân như vậy mà bây giờ sự an nguy thịnh suy của bổn giáo, đều trông mong vào một mình Vô Kỵ, nếu phu nhân xuất mại chúng tôi thì Tạ mỗ đây có chết cũng không đáng tiếc, nhưng Vô Kỵ có bị tổn thương mảy may thì dù Tạ mỗ có chết xuống âm ty, cũng sẽ hiện lên trả thù phu nhân liền.

Ðại ỷ Ty cười nhạt đáp:

– Chẳng lẽ nghĩa tử của Sư vương mới là tâm can bảo bối mà con gái của tôi lại là sành bùn đất hay sao?

Nói xong, nàng dắt tay Tiểu Siêu, khẽ nhảy một cái, đã xuống chiếc xuồng nhỏ rồi.

Tám tên thủy thủ bơi chèo ất đều ra tay, chiếc xuồng nhỏ đi nhanh như bay, chỉ trong chốc lát đã đến cạnh chiếc thuyền lớn của người Ba Tư liền.

Ðại ỷ Ty nói hai câu đó, ai nấy cũng đều ngẩn người ra nhìn nhau.

Triệu Minh lại nói:

– Tiểu Siêu quả thực là con gái của bà ta.

Mọi người trông thấy Ðại ỷ Ty với Tiểu Siêu leo lên trên chiếc thuyền lớn, nói chuyện với các Bảo Thụ vương ở đằng mũi thuyền.

Chiếc thuyền của Vô Kỵ càng lúc càng chìm dần.

Tạ Tốn thở dài một tiếng nói:

– Người nước lạ có khác, lòng họ không sao như chúng ta được. Vô Kỵ con ta ơi, nghĩa phụ đã quen biết lầm Hàn phu nhân mà con thì quen biết lầm Tiểu Siêu. Vô Kỵ, đại trượng phu có thể co, có thể giãn, chúng ta nên tạm nhịn nhục nhất thời để đợi chờ thời cơ mà đào tẩu, trọng trách của con rất nặng, hàng nghìn hàng vạn dân chúng ở Trung Nguyên đang trông mong vào Minh giáo chúng ta khởi nghĩa, xua đuổi quân Mông Cổ ra bờ cõi, nên khi thời cơ đến thì con cứ việc thoát thân lấy, đừng nghĩ đến người khác làm chi. Con là giáo chủ của một giáo phái lớn, chắc không cần phải nói rõ, con đã biết sự khinh trọng ra sao rồi.

Vô Kỵ chưa kịp đáp lời, Triệu Minh đã lên tiếng nói luôn:

– Tính mạng của mình còn chưa biết sống chết ra sao mà còn nói cái gì đến quân Mông Cổ. Lão gia bảo người Mông Cổ tử tế hay người Ba Tư tử tế nào?

Từ hồi nãy tới giờ, Chỉ Nhược không hề nói đến nửa lời, bây giờ nàng bỗng lên tiếng đỡ lời:

– Tiểu Siêu thương mến Trương công tử như vậy, tôi dám chắc không khi nào phản bội Trương công tử đâu.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Cô nương không thấy Tía Sam Long Vương bắt ép nàng hoài hay sao? Thoạt tiên Tiểu Siêu không chịu, sau bị ép mãi mới nhận lời, và còn vờ khóc một hồi nữa. Lúc ấy chiếc thuyền của mọi người đã chìm lỉm xuống mặt nước chỉ còn trơ lại chiếc cột buồm thôi. Vì vậy sóng bể đã bắn ướt đầu và mặt mọi người.

Triệu Minh bỗng vừa cười vừa nói tiếp:

– Trương công tử, chúng tôi được chết cùng với công tử như vậy còn hơn Tiểu Siêu là người nham hiểm xảo trá, nên mới không được chết cùng với chúng ta.

Lời nói của nàng có vẻ là đùa giỡn, nhưng sự thực bên trong bao hàm rất nhiều tình tứ, khiến Vô Kỵ cảm động vô cùng.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Tuy ta không được lấy cả mấy người làm vợ nhưng được chết chung với họ như vậy, kể cũng có phước lắm đấy.

Nghĩ đoạn, chàng đưa mắt nhìn Triệu Minh, nhìn Chỉ Nhược rồi lại nhìn Hân Ly đang nằm gọn trong vòng tay nhưng chàng thấy Hân Ly đã mê man bất tỉnh còn Chỉ Nhược và Triệu Minh thì xấu hổ đến hai má đỏ bừng, nhưng mắt lại ứa lệ, trông không khác gì hai chiếc hoa tươi có mấy hạt sương nhỏ xuống.

Triệu Minh trông không khác gì một bông mai còn Chỉ Nhược thì tựa như chi lan. Chàng ngắm nhìn xong, khẽ thở dài một tiếng và tự hỏi:

– Thế này thì ta biết báo đáp ra sao?

Ðang lúc ấy chàng bỗng nghe thấy những người Ba Tư ở trên mười mấy chiếc thuyền, hoan hô reo hò vang động xen với tiếng sóng gió trên mặt bể làm chấn động cả một góc trời.

Bọn Vô Kỵ các người giật mình kinh hãi vội liếc nhìn sang những chiếc thuyền đó, thấy người Ba Tư ở trên thuyền nào cũng vậy đều nằm rạp xuống vái lễ.

Mọi người nhìn kỹ mới hay chúng hướng về chiếc thuyền lớn nhất mà hành lễ, các vị Bảo Thụ vương ở trên thuyền lớn cũng quỳ xuống vái lạy như những người kia.

Tất cả người Ba Tư và bọn Bảo Thụ vương đều vái lạy một người ngồi ngay ngắn ở trên ghế, người đó trông giống như Tiểu Siêu vậy, nhưng vì cách xa quá không ai trông thấy rõ mặt người.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng và không hiểu bọn người Ba Tư ấy đang làm trò quỷ gì.

Tiếp theo đó những người Ba Tư kêu la một hồi rồi cùng đứng dậy, Vô Kỵ không hiểu chúng kêu la gì, nhưng nghe tiếng kêu của chúng, chàng cũng đoán biết chúng đang sung sướng vô cùng. Hình như chúng có việc gì rất vui mừng vậy.

Một lát sau, chàng lại thấy chiếc thuyền bơi tới gần bọn mình, trong thuyền có Tiểu Siêu, nàng ta vẫy gọi chàng và nói rằng:

– Trương công tử và quý vị, xin mời lên chiếc thuyền lớn. Tổng giáo Ba Tư quyết không giết hại quý vị đâu.

Triệu Minh vội hỏi:

– Tại sao?

Tiểu Siêu đáp:

– Các vị sang đến đó sẽ hay, nếu họ ám hại quý vị, thì Tiểu Siêu tôi đâu dám mời quý vị và Trương công tử sang như thế, hơn nữa Trương công tử lại là người có ơn lớn với tôi.

Tạ Tốn bỗng lên tiếng hỏi:

– Có phải Tiểu Siêu đã làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư đấy không?

Tiểu Siêu chỉ cúi đầu xuống chứ không trả lời.

Giây phút sau, đôi mắt to của nàng đã có nước mắt rỏ xuống.

Lúc ấy, Vô Kỵ cảm thấy hai tai bị kích thích với tiếng động rất mạnh và chàng cũng đoán ra được bảy tám phần chuyện của Tiểu Siêu rồi, nên lòng chàng vừa khó chịu vừa cảm động rồi lên tiếng hỏi:

– Tiểu Siêu, tất cả mọi lẽ đó có phải vì tôi mà nên không?

Tiểu Siêu vẫn cúi đầu không dám đưa mắt nhìn chàng.

Tạ Tốn thở dài một tiếng và nói tiếp:

– Ðại ỷ Ty có con gái như vậy, thật không phụ tiếng tăm vang lừng nhất thời của Tía Sam Long Vương. Vô Kỵ, chúng ta sang bên kia thuyền đi.

Nói xong, lão anh hùng nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ trước, tiếp theo đó là Chỉ Nhược ẳm Triệu Minh nhảy xuống rồi mới đến Vô Kỵ ẳm Hân Ly nhảy xuống sau cùng.

Tám tên thủy thủ liền chèo ngay.

Giây phút sau, chiếc thuyền nhỏ đã tới cạnh chiếc thuyền lớn kia.

Các vị Bảo Thụ vương đều cung kính nghênh đón giáo chủ của họ.

Tía Sam Long Vương tuy là mẹ của Tiểu Siêu thật, nhưng vẫn không dám phế lễ giáo tôn ty của giáo phái.

Mọi người lên trên thuyền lớn.

Tiểu Siêu dặn bảo mọi người Ba Tư vài câu liền có một người cung kính đem khăn mặt, thức ăn ra chia cho mọi người.

Và còn đưa các người vào trong khoang thay quần áo nữa.

Vô Kỵ thấy khoang thuyền đó rất lớn rộng và đóng thành một căn phòng lịch sự, trong có bày biện rất nhiều đồ quý giá. Chàng vừa lau khô mình mẩy thì cửa phòng đã mở và có một người bước vào, người đó chính là Tiểu Siêu, nàng đang cầm một bộ quần áo ngắn và một cái áo dài nói:

– Công tử để tiểu nữ hầu hạ thay áo cho.

Vô Kỵ thấy vậy động lòng vô cùng vội hỏi:

– Tiểu Siêu, ngày hôm nay cô đã là giáo chủ của Tổng giáo rồi, như vậy, tôi còn là thuộc hạ của cô mới phải, sao cô còn hầu hạ tôi như thế làm chi?

Tiểu Siêu van lơn rằng:

– Thưa công tử, đây là lần cuối cùng, xin công tử cho phép tiểu tử được hầu hạ như vậy. Sau đây, chúng ta kẻ Ðông người Tây xa cách hằng muôn dặm không còn dịp nào mà gặp mặt nhau nữa. Lúc ấy, tôi có muốn hầu hạ thêm công tử một lần nữa cũng không được…

Lời nói Tiểu Siêu quá cảm động.

Vô Kỵ xúc động vô cùng đành phải để cho Tiểu Siêu hầu hạ mình mặc áo như mọi khi. Mặc áo cho Vô Kỵ xong, nàng lại lấy lược chải tóc cho chàng. Nàng vừa chải, nước mắt nhỏ dòng.

Vô Kỵ không sao nhịn được, liền giơ tay ra ôm nàng vào lòng.

Tiểu Siêu chỉ khẽ kêu “ủa” một tiếng và người rung động thôi, Vô Kỵ liền cúi đầu xuống hôn nhẹ một cái và nói:

– Tiểu Siêu, thoạt tiên tôi còn trách cô lừa dối tôi, không ngờ cô lại đối xử với tôi như thế này.

Tiểu Siêu gục đầu vào ngực chàng khẽ đáp:

– Thưa công tử trước kia tiểu nữ tôi có lừa dối công tử thật, mẹ tôi vốn dĩ là sứ nữ trong ba vị Thánh sử nữ của Tổng giáo, thừa lệnh giáo chủ đến Trung thổ để tích lập công đức rồi trở về Ba Tư kế vị ngôi giáo chủ liền. Không ngờ từ khi gặp mặt cha tôi rồi, không sao cầm lòng được nên mới phản bội Tổng giáo và kết hôn với cha tôi. Tôi là con gái của cha tôi đấy, nhưng suốt đời chưa hề gặp mặt cha tôi bao giờ. Mẹ tôi tự biết lỗi của mình rất nặng nên mới truyền cái cà rá sắt của Thánh sứ nữ cho tôi và sai tôi trà trộn lên Quang Minh đỉnh để lấy trộm Tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di. Thưa công tử, việc này tôi vẫn giấu giếm công tử, nhưng sự thật lúc nào trong lòng tôi cũng áy náy tự biết là không phải với công tử, nhưng vì tôi đã quyết định không làm giáo chủ Minh giáo của Ba Tư nữa, chỉ muốn suốt đời làm con sen, con hầu của công tử, suốt đời không muốn rời xa công tử. Có phải tôi đã nói với công tử câu này rồi không? Và công tử cũng đã nhận lời để cho tôi được như thế phải không?

Vô Kỵ gật đầu, rồi ôm nàng đặt ngồi lên đùi mình hôn lấy hôn để. Nàng ngoan ngoãn để yên cho Vô Kỵ hôn, nước mắt của nàng nhỏ xuống tận môi nhưng nàng vẫn cảm thấy khoan khoái pha thêm chút chua chát.

Tiểu Siêu lại nói tiếp:

– Tôi nhớ thuộc lòng Tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di, nhưng tôi không bao giờ phản bội công tử. Nếu ngày hôm nay, không gặp phải bước đường cùng tận này thì tôi quyết không bao giờ dám tiết lộ việc này…

Vô Kỵ liền khẽ nói:

– Bây giờ tôi đã biết hết rồi.

Tiểu Siêu lại ai oán nói tiếp:

– Hồi tôi còn nhỏ, đã nhận thấy mẹ tôi ngày đêm không yên lòng, lúc nào cũng hình như kinh hoảng sợ sệt việc gì. Sau mẹ tôi muốn che lấp bộ mặt xinh đẹp kia đi, mới hoá trang thành một bà cụ già. Mẹ tôi lại cấm tối không được gần gũi… Mẹ tôi lại không cho tôi được ở chung, đuổi tôi đến nhà một người nhờ nuôi nấng dạy bảo hộ. Cứ cách hai năm mẹ tôi đến thăm tôi một lần, lúc ấy tôi không biết tại sao mẹ tôi lại mạo hiểm đến thế, không biết vì việc gì mẹ tôi phải hy sinh kết hôn với cha tôi. Thưa công tử, nếu ngày hôm nay chúng ta không toại ý, thì đừng nói làm giáo chủ, dù được làm nữ hoàng tôi cũng không muốn. Nói tới đó, hai má nàng đỏ bừng.

Vô Kỵ cảm thấy nàng đang nức nở khóc ở trong lòng mình.

Giữa lúc ấy, Ðại ỷ Ty ở ngoài phòng bỗng lên tiếng gọi:

– Tiểu Siêu, nếu con không kiềm chế nổi tình dục thì liên luỵ đến tính mạng của Trương công tử đấy.

Tiểu Siêu giật mình, vội đứng phắt dậy và nói tiếp với Vô Kỵ:

– Thưa công tử, xin công tử từ nay trở đi đừng có nhớ tiểu nữ Hân cô nương theo mẹ tôi lâu năm và cũng là người mà công tử đã thương từ trước đến nay. Cô ta mới thật xứng đáng kết duyên với công tử.

Vô Kỵ khẽ đáp:

– Tiểu Siêu, chúng ta cứ việc thí mạng với chúng xông ra khỏi nơi đây bắt cho kỳ được một hai tên Bảo Thụ vương rồi uy hiếp chúng phải đưa chúng mình về Linh Xà đảo.

Tiểu Siêu rầu rĩ lắc đầu nói tiếp:

– Lần này chúng đã tinh khôn rồi, Tạ đại hiệp và Hân cô nương đều bị chúng dùng dao kiếm canh chừng, nếu chúng ta có cử động gì khác, tức thì hai người đó sẽ bị chúng giết luôn.

Nói xong, nàng mở khoang thuyền ra, quả nhiên Vô Kỵ thấy Ðại ỷ Ty đang đứng ở trước cửa và có hai người Ba Tư tay cầm trường kiếm dí mũi kiếm vào lưng nàng, còn hai người Ba Tư khác thì cúi mình vái chào Tiểu Siêu.

Tiểu Siêu ngang nhiên đi thẳng ra ngoài bong thuyền, Vô Kỵ liền theo sau.

Quả nhiên chàng thấy Tạ Tốn với các người đều bị võ sĩ người Ba Tư ghìm kiếm uy hiếp.

Tiểu Siêu liền nói với Vô Kỵ rằng:

– Thưa công tử, ở đây có thuốc của người Ba Tư rất linh nghiệm, công tử hãy lấy thuốc đó chữa cho Hân cô nương!

Nói xong, nàng dùng tiếng Ba Tư dặn bảo mấy lời.

Công Ðức vương vội lấy lọ thuốc cao ra trao cho Vô Kỵ.

Tiểu Siêu lại dặn tiếp Vô Kỵ:

– Tôi sai người tiễn quý vị về Trung thổ, chúng ta từ biệt nơi đây, dù Tiểu Siêu này ở Ba Tư nhưng ngày ngày cũng chúc phúc cho công tử được khỏe mạnh và được mọi sự như ý.

Tới đó nàng nghẹn ngào không sao nói tiếp được nữa, Vô Kỵ liền đỡ lời:

– Cô nương sống một mình ở chốn hổ lang cũng phải nên cẩn thận lắm mới được!

Tiểu Siêu gật đầu, sau đó ra lệnh cho thuộc hạ sửa soạn thuyền bè tiễn đưa mọi người. Tạ Tốn, Hân Ly, Triệu Minh, Chỉ Nhược lần lượt xuống thuyền.

Tiểu Siêu đưa cả Ðồ Long đao, Ỷ Thiên kiếm và sáu chiếc Thánh hỏa lệnh cho Vô Kỵ. Rồi nàng gượng cười một tiếng, vẻ mặt rầu rĩ giơ tay lên chào từ biệt.

Vô Kỵ không biết nói năng thế nào cho phải, đứng ngẩn người ra giây lát rồi mới nhảy xuống thuyền, đồng thời nghe có tiếng tù và từ thuyền của Tiểu Siêu thổi lên “tu tu” mấy tiếng và trông thấy thuyền đó giương buồm lên đi ngay, mỗi lúc một xa dần.

Nhưng chàng vẫn thấy Tiểu Siêu đứng ở mũi thuyền hướng về phía thuyền của chàng. Chàng nhìn theo cho tới khi chiếc thuyền lớn của Tiểu Siêu chỉ còn là một chấm đen, nhưng mỗi khi gió bể thổi tới, chàng còn nghe như có tiếng khóc văng vẳng của nàng vọng lại.

Hân Ly rịt thuốc của người Ba Tư, vết thương tuy đỡ, nhưng khắp người vẫn còn nóng, nàng nói mê sảng luôn. Thì ra, nàng phiêu lưu trên mặt bể mấy ngày, người đã đau yếu, lại thêm bị gió lạnh, thuốc cứu thương kia chỉ có thể chữa được ngoại thương thôi, chứ phong tà ở trong người thì phải dùng thuốc khác mới có thể chữa khỏi được.

Vô Kỵ trong lòng lo âu vô cùng.

Ðến ngày thứ ba mọi người đã trông thấy đằng phía Ðông xa xa có một cái đảo nhỏ hiện ra.

Vô Kỵ liền dặn bảo người cầm lái cho thuyền về phía đó. Người cầm lái có vẻ không muốn, lẩm bẩm nói tiếng Ba Tư hình như muốn nói là giáo chủ chỉ sai hắn đưa mọi người về tới Ðại lục ở Trung Nguyên thôi, chứ không bảo đưa tới một hoang đảo nào cả. Vô Kỵ dùng tay chỉ trỏ để giải thích cho người đó biết là mình định lên hoang đảo tìm thuốc cứu Hân Ly. Người cầm lái vẫn không hiểu, cứ lắc đầu hoài.

Vô Kỵ nóng lòng sốt ruột, liền tiến tới gần, cướp lấy tay lái và tự ý lái lấy.

Khi thuyền tới cạnh đảo thì trời đã sâm sẩm tối.

Mọi người ở trên mặt bể lâu ngày tất nhiên ai cũng say sóng, lúc này được lên trên đất liền người nào người nấy đều cảm thấy sảng khoái vô cùng.

Ðảo này ngang dọc không đầy mấy dặm, đứng đầu này có thể trông thấy hết đầu kia, nhưng khí hậu trên đảo rất ôn hòa nên cây cối mọc um tùm, Vô Kỵ nhờ Chỉ Nhược trông nom Triệu Minh và Hân Ly hộ, rồi một mình đi kiếm thuốc cho bệnh nhân. Trên đảo tuy có rất nhiều hoa cỏ, nhưng những vị có thể dùng làm thuốc thì lại rất hiếm, chàng tìm hoài mà chỉ lấy được có một vị đành phải trở về chỗ cũ.

Chàng thấy Chỉ Nhược đã dùng củi khô đốt lửa và thấy Hân Ly tinh thần có vẻ sảng khoái hơn trước, khi thấy chàng vừa về tới, đã vội hỏi:

– A Ngưu đại ca, tối nay chúng ta ngủ ở đây, đừng xuống thuyền ngủ nữa. Thấy nàng đề nghị như vậy, ai nấy đều vỗ tay tán thành, vì thấy trên đảo có nước ngọt mà lại không có dã thú.

Sáng hôm sau, mọi người thức tỉnh, khi mở mắt ra nhìn, không thấy chiếc thuyền của Ba Tư nữa.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, vội chạy đến bờ biển, tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy tung tích của chiếc thuyền đó đâu cả.

Hồi thứ 77

Biệt Vô Tông Tích

Vô Kỵ đứng dậy vừa đi được một bước thì chân vướng phải một vật gì mềm nhũn, suýt tí nữa ngã lăn ra đất.

Chàng thấy hai chân như không có sức, kinh ngạc vô cùng, vội hỏi Tạ Tốn:

– Nghĩa phụ có được mạnh không?

Nhưng chàng không nghe thấy Tạ Tốn trả lời, vội chạy tới chỗ Sư vương nằm, thấy nghĩa phụ mình đang ngủ rất say, lúc ấy mới yên tâm.

Triệu Minh, Chỉ Nhược, Hân Ly ba người thì ngủ sau một tảng đá lớn.

Chàng vội chạy tới đó xem, chỉ thấy Chỉ Nhược với Hân Ly nằm cạnh nhau, còn Triệu Minh thì mất tích.

Chàng trông thấy mặt Hân Ly đầy những máu, liền cúi xuống nhìn, thấy mặt của người yêu bị rạch mười mấy nhát dao, nằm mê man bất tỉnh. Chàng vội nắm tay nàng thăm mạch thử xem, thấy mạch vẫn chạy nhưng rất yếu ớt. Chàng lại nhìn Chỉ Nhược, thấy tóc của nàng bị cắt mất một mảng lớn, tai trái cũng bị cắt đứt mất một nửa, máu còn rỉ ra, nhưng mặt nàng rất tươi, tựa như đang nằm mơ một giấc mơ thần tiên vậy. Dưới ánh nắng mặt trời mới mọc, trông nàng đẹp như hoa nở.

Vô Kỵ thấy tình cảnh đó trong lòng đau khổ và lên tiếng kêu gọi:

– Chu cô nương, hãy mau thức tỉnh lại.

Chỉ Nhược vẫn mê man, chàng bèn lay vai nàng mấy cái mới thấy nàng ngáp, hơi thở của nàng thơm như hoa lan. Nhưng sau đó nàng lại trở mình ngủ thiếp đi. Chàng biết nàng đã uống trúng phải thuốc mê, chàng rất ngạc nhiên đêm qua xảy ra việc quái dị như vậy mà mình không hay biết gì. Và lúc này chàng lại thấy mình không có hơi sức gì hết, nên chàng mới biết chính mình cũng trúng độc rồi. Chàng gọi Chỉ Nhược hoài mà không thức dậy, liền chạy đến gọi Tạ Tốn:

– Nghĩa phụ, nghĩa phụ!

Tạ Tốn mơ mơ hồ hồ hỏi lại:

– Làm gì thế?

Vô Kỵ đáp:

– Nguy tai, chúng ta đã trúng phải âm mưu độc kế của bọn tiểu nhân rồi.

Tiếp đó, chàng kể cho Tạ Tốn hay, thuyền của người Ba Tư đã bỏ chạy, Hân Ly và Chỉ Nhược bị thương.

Tạ Tốn nghe xong kinh ngạc, hỏi tiếp:

– Còn Triệu cô nương đâu?

Vô Kỵ rầu rĩ đáp:

– Không thấy nàng đâu cả.

Nói xong, chàng vận nội công thử xem, thấy tay chân vẫn yếu ớt, không sao lấy sức được. Rồi chàng lại nói tiếp:

– Nghĩa phụ! Chúng ta đã bị người ta cho uống thuốc độc “thập hương nhuyễn cân tán” rồi.

Chuyện các tay cao thủ của sáu đại môn phái bị Triệu Minh cho uống nhuyễn cân tán, rồi cùng bị bắt trói trên chùa Vạn Pháp, Tạ Tốn đã nghe Vô Kỵ kể cho hay một lần rồi nên Sư Vương vội đứng dậy đi thử xem, thấy bước đi của mình cũng loạng choạng, không có một chút hơi sức nào cả.

Sư Vương định thần giay lát rồi nói:

– Có phải nàng đã đem cả Ðồ Long đao với Ỷ Thiên kiếm đi không?

Vô Kỵ nhìn chung quanh, quả nhiên không thấy đao kiếm đâu cả. Chàng tức giận vô cùng suýt khóc lên thành tiếng. Chàng không phải thương tiếc gì đao kiếm bị người lấy trộm mất mà không ngờ Triệu Minh lại nhân lúc nguy nan này giở gian kế ra đối xử với mình như vậy. Chàng đứng ngẩn người giây lát, bỗng sực nhớ đến vết thương của Hân Ly, vội chạy lại cạnh người tiểu muội và nàng Chỉ Nhược, chàng đẩy Chỉ Nhược mấy cái, nhưng thấy nàng vẫn ngủ say như thường liền nghĩ thầm: “Nội lực của ta cao thâm nhất, vì thế mới thức tỉnh sớm hơn hết, sau đó mới tới nghĩa phụ, còn nội lực của Chu cô nương thì kém ta với nghĩa phụ xa, nên tới giờ nàng chưa tỉnh”.

Nghĩ đoạn, chàng liền xé một mảnh áo lau sạch những máu dính trên mặt Hân Ly. Chàng thấy mặt nàng bị chém ngang dọc mấy nhát dao, trông những vết thương đó chàng biết ngay kẻ tiểu nhân kia đã dùng ỷ Thiên kiếm rạch mặt nàng.

Hân Ly bị Kim Hoa bà bà đả thương đến giờ, vì máu ra quá nhiều, chất độc của những con nhện độc lan tràn theo máu mà chạy khắp mình mẩy, mặt nàng đã bớt sưng được một phần, bộ mặt xinh đẹp xưa kia đã khôi phục dần, nhưng bây giờ nàng lại bị chém mấy nhát như thế, bộ mặt lại trở nên xấu xí kinh dị.

Vô Kỵ thấy vậy vừa đau lòng vừa tức giận, nghiến răng mím môi nói:

– Triệu Minh ơi Triệu Minh! Ngươi đừng để cho ta bắt gặp thì thôi, còn nếu có dịp nhìn thấy ngươi, ta quyết sẽ rạch mặt ngươi mười bảy mười tám nhát như vậy. Nếu không làm được như thế, ta không còn là Trương Vô Kỵ nữa.

Nói xong, chàng định thần giây lát, chạy đi kiếm ít thuốc lá “chỉ huyết” bỏ vào mồm nhai nát rịt lên trên mặt Hân Ly.

Sau đó, chàng lại rịt thuốc vào trán và tai của Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược ngáp một cái rồi mở mắt ra nhìn, nàng bỗng thấy Vô Kỵ giơ tay ra rờ đầu mình.

Nàng hổ thẹn vô cùng, mặt đỏ bừng vội giơ tay lên gạt tay Vô Kỵ ra, hờn giận hỏi:

– Giáo chủ làm gì thế?

Nàng chưa nói dứt, đã cảm thấy tai đau nhức, vội đưa tay lên rờ mó, liền thất thanh kêu “ủa” một tiếng.

Nàng giật mình kinh hãi, nhảy hẳn người lên tự hỏi:

– Tại sao thế?

Rồi đột nhiên ngã khuỵu xuống, lăn vào lòng Vô Kỵ, Vô Kỵ vội đỡ lấy nàng và an ủi:

– Chu cô nương đừng sợ.

Chỉ Nhược thoáng trông thấy mặt Hân Ly rùng rợn như vậy, vội giơ tay lên rờ mặt mình và hỏi:

– Tôi… có bị như chị Hân Ly không?

Vô Kỵ đáp:

– Không, cô chỉ bị thương nhẹ thôi.

Chỉ Nhược kinh hãi hỏi tiếp:

– Có phải bọn ác đồ Ba Tư hạ độc thủ đấy không? Tôi… tại sao tôi không biết một tí gì cả?

Vô Kỵ thở dài một tiếng rồi đáp:

– Tôi e chính Triệu cô nương đã hạ độc thủ như vậy, tối hôm qua trong lúc chúng ta ăn uống, nàng đã bỏ thuốc độc vào trong thức ăn.

Chỉ Nhược nghe nói ngẩn người ra, rờ tay lên chỗ tai bị cắt, rồi khóc nức nở.

Vô Kỵ vội an ủi:

– Chu cô nương, không có gì đáng lo ngại cả. Vết thương của cô nương không nặng lắm, tuy tai có bị cắt một miếng nhưng vẫn có thể buông xoã tóc xuống che lấp được, như thế không mất sắc đẹp của cô nương đâu.

Chỉ Nhược lại nói tiếp:

– Giáo chủ bảo lấy tóc che lấp sao được, giáo chủ coi, đuôi tóc của tôi cũng bị cắt, còn đâu nữa.

Vô Kỵ lại nói:

– Cô nương khỏi lo, nếu tóc trên đầu không mọc được, vẫn có thể đội tóc giả…

Chỉ Nhược lại hờn giận trả lời:

– Tại sao tôi lại phải đội tóc giả? Ðến bây giờ giáo chủ còn bảo vệ Triệu cô nương của giáo chủ nữa không?

Vô Kỵ bị Chỉ Nhược đay nghiến, xấu hổ vô cùng, nhưng cũng ngượng nghịu đáp:

– Y ác độc thật, chém nát mặt Hân cô nương như vậy… rồi nhất định không tha thứ cho y thị đâu!

Chàng càng nhìn mặt Hân Ly càng đau lòng và ứa nước mắt.

Lúc ấy một người mê man bất tỉnh, ba người trúng độc mất hết hơi sức cũng nằm ở trên hoang đảo.

Dù Tạ Tốn với Vô Kỵ là anh hùng nhất thời cũng phải bàng hoàng kinh hoảng.

Vô Kỵ vội ngồi xếp bằng tròn thử vận nội công xem sao. Chàng cảm thấy bị trúng độc rất nặng, chàng biết rằng trúng phải thuốc độc đó, phải có thuốc giải độc của Triệu Minh mới có thể cứu được. Nhưng chàng nghĩ ngồi thúc thủ chịu chết, thì chi bằng vận dụng nội công siêu phàm nhập thánh của mình để chống đối với thứ thuốc độc đó thử xem. Vận nội công hơn tiếng đồng hồ, chàng mới hơi yên tâm vì thấy hơi sức phục hồi rất nhiều, nhưng môn Cửu Dương thần công này không thể nào truyền cho Tạ Tốn và Chỉ Nhược ngay để hai người vận nội công cứu chữa như mình được. Cho nên chàng đành phải tự mình xua đuổi hết chất độc ra ngoài rồi mới vận thần công đó để cứu chữa cho Tạ Tốn và Chỉ Nhược. Môn thần công của chàng nói ra thì rất giản dị nhưng lúc thi hành thì lại phức tạp và phiền phức vô cùng.

Luyện tới ngày thứ bảy, Vô Kỵ chỉ đẩy được ba thành chất độc trong người thôi. “Thập hương nhuyễn cân tán” vốn là một chất độc lợi hại vô cùng. Trước đây, những người tài ba như Thiếu Lâm thần tăng mà cũng đành chịu thua môn thuốc độc này.

Bây giờ Vô Kỵ luyện nội công trong bảy ngày mà xua đuổi được ba thành chất độc, khôi phục được một hai thành công lực, như vậy kể cũng hiếm lắm rồi. Có thể nói trong thiên hạ không có người thứ hai làm nổi như chàng. Cũng may thứ thuốc độc đó chỉ làm cho người ta mất hết hơi sức thôi, chứ không làm hại đến thân thể được.

Mấy ngày đầu, Chỉ Nhược buồn bực hết sức, nhưng dần dần cũng quen đi, ngày nào cũng cùng Tạ Tốn đi bắt cá bắn chim, đun nước, thổi nấu.

Ðêm thì một mình nàng vào trong hang động ngủ còn Vô Kỵ và Tạ Tốn thì nằm ở bên ngoài, cách hang động khá xa. Hai mắt tuy mù, Tạ Tốn sớm biết nàng có tình với Vô Kỵ nên nàng mới phải thủ lễ như vậy. Vì thế Sư vương rất kính trọng nàng.

Vô Kỵ cũng hổ thẹn ngầm và nghĩ thầm:

– Mối tai hoạ này là do ta mà nên cả. Triệu cô nương rõ ràng là Quận chúa của quân Mông Cổ, là kẻ thù của Minh giáo, trong võ lâm đã có không biết bao cao thủ bị chết vì tay nàng. Thế mà ta không đề phòng nàng chút nào, thật là ngu dại vô cùng.

Chàng thấy Tạ Tốn với Chỉ Nhược không hề oán trách chàng đến nửa lời nên trong lòng lại càng hổ thẹn và đau đớn thêm.

Có lúc chàng trông thấy sắc mặt của Chỉ Nhược, cảm thấy hình như nàng muốn nói:

– Chỉ vì giáo chủ ham mê sắc đẹp của nàng Triệu Minh, nên mới gây nên tai hoạ như vậy.

Chất độc trong người của Vô Kỵ càng ngày càng ít dần, trái lại vết thương của Hân Ly càng ngày càng nặng thêm.

Trên hoang đảo này lại rất ít thuốc men, dù chàng có yêu thuật thần thông đến đâu cũng không chữa được. Chàng biết vết thương của Hân Ly có thể cứu chữa được, nhưng trên đảo không có thuốc, lại thiếu những cây lớn, bằng không chàng đã nhặt thân cây làm bè, mạo hiểm trở về đất liền rồi. Lúc ấy tim của chàng như bị muôn vạn con dao nhọn đâm trúng hòai. Tới đêm, chàng nhai một ít cỏ thoái nhiệt mớm cho Hân Ly uống. Chàng thấy nàng ta không nuốt nổi, đau lòng đến ứa nước mắt ra. Lệ của chàng nhỏ xuống mặt nàng, nàng bỗng thức tỉnh mỉm cười và nói:

– A Ngưu đại ca hà tất phải rầu rĩ như thế làm chi, em sắp xuống âm phủ và sắp được gặp tiểu quỷ Trương Vô Kỵ, con người nhẫn tâm và chết non kia. Em sẽ bảo y biết trên thế gian này có một vị là A Ngưu đại ca đối xử với em tử tế hơn Vô Kỵ nhiều.

Vô Kỵ nghẹn ngào không sao nói ra tiếng để trả lời nàng được. Chàng phân vân, không biết có nên nói rõ mình là Trương Vô Kỵ không?

Giữa lúc đó Hân Ly đã nắm chặt tay chàng và nói:

– A Ngưu đại ca, trước sau em vẫn không nhận lời lấy anh, chẳng hay anh có hận em không? Em đoán chắc vì muốn làm cho em được vui, nên anh mới dối em đấy thôi, chứ em mặt mũi xấu xí tính nết lại quái dị như thế này thì khi nào được anh để ý tới em.

Vô Kỵ đáp:

– Không, tôi không lừa dối cô đâu. Cô quả thật là một cô bé, tình thâm ý thực, nếu tôi cưới được cô làm vợ thì đời tôi thực là hạnh phúc. Chớ tới khi cô khoẻ mạnh và mọi việc của chúng ta cũng dàn xếp xong, chúng ta sẽ kết hôn với nhau, chẳng hay cô có bằng lòng không?

Hân Ly giơ tay ra khẽ vuốt má chàng, lắc đầu mấy cái rồi trả lời:

– A Ngưu đai ca, em không thể nào lấy anh được vì lòng em đã hứa cho Trương Vô Kỵ, một tên hung ác và nhẫn tâm rồi… A Ngưu đại ca, em hơi sợ, sợ xuống đến âm ty, không biết y có đối đãi với em hung ác như trước nữa không?

Vô Kỵ thấy nàng ta ăn nói tỉnh táo hai má đỏ bừng, liền giật mình, kinh hãi và thầm nghĩ:

– Ðây là hiện tượng hồi quan phản chiếu. Chẳng lẽ này hôm nay nàng sẽ tận số hay sao?. Chàng lại ngẩn người ra suy nghĩ, nên không nghe thấy Hân Ly nói gì. Nàng lại nắm lấy cổ tay chàng và hỏi lại một lần nữa.

Với giọng dịu dàng, chàng trả lời:

– Y sẽ vĩnh viễn đối đãi tử tế với cô, coi cô như hạt châu hạt báu của y vậy.

Hân Ly lại nói tiếp:

– Ðại ca thử đoán xem, y có thể đối đãi với em bằng được một nửa của sự đối đãi của đại ca không?

– Trên có trời dưới có đất chứng kiến cho, quả thật tôi biết Trương Vô Kỵ đã thành thật yêu cô. Tôi biết y đã hối hận lúc còn nhỏ đối đãi với cô nương hung tợn như vậy. Y… Y cũng như… tôi không có một tí gì khác lạ hết.

Hân Ly thở dài một tiếng, mồm tủm tỉm cười và nói tiếp:

– Nếu vậy… nếu vậy em mới yên tâm…

Nói tới đó, hai tay nàng đang nắm chặt tay của Vô Kỵ đã từ từ buông ra, hai mắt nhắm nghiền và tắt thở tức thì.

Vô Kỵ ôm xác của nàng vào lòng nghĩ thầm:

– Cho tới lúc thở hơi cuối cùng mà nàng cũng chưa biết ta là Trương Vô Kỵ. Mấy ngày gần đây nàng cứ mê man bất tỉnh, ta không sao nói rõ chân tướng của ta cho nàng hay được. Trong lúc nàng “hồi quang phản chiếu” đầu óc tỉnh táo, trong phút chốc ấy, tại sao ta không nói cho nàng hay?

Sự thực tới lúc đó, nói hay không cũng vậy thôi, Vô Kỵ lòng đau như cắt, không sao khóc ra tiếng được liền nghĩ thầm:

– Nếu Triệu Minh không rạch mặt nàng, chưa chắc nàng đã chết, nếu Triệu Minh không bỏ rơi chúng ta ở trên đảo hoang này thì chỉ trong vài ngày ta cũng đã về tới Trung thổ rồi. Như vậy có phải ta đã có cách cứu nàng thoát chết không?

Nghĩ tới đó, chàng hậm hực, buộc miệng lên tiếng nói:

– Triệu Minh ơi! Triệu Minh, lòng dạ ngươi ác độc như rắn rết, thế nào cũng có ngày lọt vào tay ta, Vô Kỵ quyết không tha thứ cho ngươi đâu.

Chàng vừa nói tới đó, bỗng nghe thấy phía sau lưng có giọng nói lạnh lùng xen lời:

– Nhưng tới khi giáo chủ trông thấy bộ mặt đẹp như hoa nở của nàng thì lại không đang tay hạ thủ phải không?

Vô Kỵ vội quay người lại, mới hay đó chính là Chỉ Nhược, vẻ mặt nàng lạnh lùng và hình như còn khinh miệt chàng nữa.

Chàng vừa đau lòng vừa hổ thẹn, vội đáp:

– Tôi đã thề trước xác của cô em họ rồi, nếu tôi không giết chết yêu nữ đó thì Vô Kỵ tôi không còn mặt mũi nào sống trên đời này nữa.

– Như vậy mới phải là chí của một người đàn ông chứ.

Nói xong, nàng tiến lên vuốt ve xác Hân Ly và lớn tiếng khóc lóc.

Tạ Tốn nghe tiếng khóc vội lần mò tới, biết Hân Ly đã chết cũng đau lòng vô cùng.

Vô Kỵ đào một cái huyệt ở trên núi để chôn cất Hân Ly rồi bẻ một cành cây cắm lên trên.

Sau đó, chàng lấy con dao găm của Hân Ly khắc trên cành cây đó mấy chữ “ái thê Thù Nhi, Hân Ly chi mộ” bên dưới khắc “Trương Vô Kỵ cẩn lộc”.

Khắc xong mấy chữ đó, chàng liền quỳ xuống đất vái lạy, khóc lóc thê thảm.

Chỉ Nhược liền khuyên can:

– Trương giáo chủ, Hân cô nương yêu giáo chủ như vậy mà giáo chủ đối với nàng cũng nhân nghĩa trí tận rồi, quý hồ giáo chủ đừng phụ lời thề hôm nay, cố giết chết Triệu Minh để trả thù cho nàng. Cô em họ Hân dù có ở dưới chín suối cũng ngậm cười chớ không sai.

Vô Kỵ vì sự đau thương đó không vận nội công khiến độc tố ở trong người lại tản mát ra. Vì vậy, chàng phải tốn thêm bảy tám ngày mới dồn được độc tố đó ra khỏi người thì đã mất hơn một tháng.

Trên đảo nhỏ này khác hẳn Băng Hỏa đảo và Linh Xà đảo, cây cối thưa thớt và không có một con dã thú nào hết, vì vậy ba người càng khốn cùng thêm.

Chỉ Nhược biết Vô Kỵ đau buồn vì thương tiếc Hân Ly và tức giận Triệu Minh xảo trá, hơn nữa Vô Kỵ lại không có người hầu hạ, nên nàng càng đặc biệt an ủi chàng.

Vô Kỵ vận thần công, xua đuổi hết độc tố ở trong người của Tạ Tốn xong, lại định giúp Chỉ Nhược dồn độc tố ra ngoài, nhưng khi nghĩ đến cách xua đuổi độc tố phải để một bàn tay áp chặt vào sau lưng bệnh nhân, còn bàn tay khác ấn vào lỗ rốn, chàng lại thấy ngại ngùng, vì hai người là thanh niên nam nữ, chàng đâu dám chạm vào da thịt nàng như vậy. Nhưng nếu không chữa chạy cho nàng, thì là sao mà dồn Cửu Dương chân khí sang người nàng được. Chàng trù trừ không biết giải quyết như thế nào cho phải. Chàng suy nghĩ mấy ngày liền mà vẫn chưa tìm ra được một phương pháp nào hoàn hảo cả. Một tối hôm nọ, Tạ Tốn bỗng lên tiếng nói:

– Vô Kỵ thử nghĩ xem, chúng ta còn phải ở trên đảo này bao nhiêu ngày nữa?

Vô Kỵ ngẩn người ra giây lát rồi đáp:

– Vấn đề này khó nói lắm, bây giờ chỉ mong có thuyền bè nào đi qua đây rồi nhờ họ cứu chúng ta về Trung thổ mà thôi.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

– Hơn một tháng nay, con có thấy hình bóng thuyền bè nào đi qua đây không?

– Không.

– Phải rồi, chưa biết chừng ngày mai sẽ có thuyền đến nơi, nhưng cũng chưa biết chừng trăm năm nữa mới có thuyền đi qua cũng nên.

Vô Kỵ thở dài một tiếng rồi nói tiếp:

– Hòn đảo này mọc trơ trụi ở giữa mặt bể và nơi đây cũng không phải là đường đi của các thuyền bè. nên sự hy vọng trở về Trung thổ của chúng ta rất mỏng manh.

– Trên đảo này không sao kiếm ra được thuốc giải độc, vậy độc tố ở lại trong người, ngoài việc chân tay mỏi mệt, không có hơi sức, còn có tệ hại gì nữa không?

– Không có việc gì hết, nhưng không chữa ngay, lâu ngày lục phủ ngũ tạng cũng tổn thương.

– Thế ư! Như vậy sao con không mau xua đuổi độc tố cho Chu cô nương đi? Cha mẹ của Chu cô nương vốn là người của bổn giáo, nàng lại là chưởng môn của phái Nga Mi. Người hiền hậu và có đức như thế thực trên thế gian này khó có người thứ hai, chẳng lẽ con lại hiềm mặt cô ta xấu xí hay sao?

Vô Kỵ đáp:

– Không, Chu cô nương là người đẹp nhất thế gian này, trên thế gian này không có người thứ hai đẹp như thế.

Tạ Tốn lại tiếp:

– Nếu vậy để nghĩa phụ đứng ra làm chủ hôn để con cưới nàng làm vợ, như vậy con khỏi lo ngại về vấn đề “nam nữ thụ thụ bất thân” nữa.

Chỉ Nhược đang lắng tai nghe hai người nói chuyện, thấy nói đến cuộc hôn nhân của mình, nàng hổ thẹn vô cùng, vội đứng dậy đi ra nơi khác, nhưng Tạ Tốn đã nhảy tới ra tay cản ngăn, không cho nàng đi, rồi vừa cười vừa bảo nàng rằng:

– Cháu đừng đi đâu hết, ngày hôm nay ta nhất định phải làm mai cho được cuộc hôn nhân này.

Chỉ Nhược đáp:

– Cám ơn Tạ lão gia, bây giờ chúng ta chỉ mong làm sao về được Trung thổ thôi, chứ nghĩ làm gì đến những chuyện vớ vẫn ấy.

Tạ Tốn cười ha hả và nói tiếp:

– Nam nữ hỗn hợp, đó là một đại sự của đời người, sao cháu lại bảo là bậy bạ được? Chính cha mẹ của Vô Kỵ cũng kết hôn với nhau trên hoang đảo. Nếu hai người không phải vượt qua lễ giáo của xã hội thì trên đời này làm gì có thằng nhỏ Vô Kỵ? Huống hồ ngày hôm nay đã có nghĩa phụ làm chủ hôn cho hai con, Vô Kỵ chẳng lẽ con không yêu Chu cô nương hay sao? Không muốn xua đuổi độc tố trong người nàng hay sao?

Chỉ Nhược giơ tay lên ôm mặt, cứ định bỏ chạy, nhưng Tạ Tốn đã nắm chặt tay áo của nàng, vừa cười vừa nói tiếp:

– Cô định đi đâu? Cô tưởng tránh mặt được mãi hay sao? Trên đảo này chỉ có ba chúng ta thôi, lúc nào mà chẳng gặp mặt nhau? à, hay cô không muốn lão già mù này làm bố chồng cô?

Chỉ Nhược đáp:

– Không, không phải thế.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

– Thế cô đã nhận lời chưa?

Thấy Chỉ Nhược luôn mồm nói “không” hoài, Tạ Tốn liền vừa cười vừa hỏi tiếp:

– Hay là cô hiềm Vô Kỵ nghĩa tử của lão, là kẻ bất tài phải không?

Chỉ Nhược ngừng giây lát vội đáp:

– Trương công tử võ công trác tuyệt, tiếng tăm lừng lẫy vô cùng, lấy… lấy được người chồng như vậy thì còn gì bằng… nhưng… nhưng…

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

– Nhưng cái gì cơ chứ?

Chỉ Nhược liếc mắt nhìn Vô Kỵ rồi đáp:

– Công tử… công tử chỉ yêu một mình Triệu cô nương thôi, cháu biết lắm.

Tạ Tốn nghiến răng mím môi nói tiếp:

– Con khốn nạn Triệu Minh làm hại chúng ta như thế này, khi nào Vô Kỵ còn mê man, không tỉnh ngộ nữa. Vô Kỵ, con cứ nói thật cho ta với Chu cô nương hay đi.

Vô Kỵ chưa biết trả lời ra sao cho phải, thì bỗng chàng trông thấy hình bóng của Triệu Minh hiện lên đang tủm tỉm cười với mình, liền nghĩ thầm:

– Cưới được một người vợ như Triệu Minh, đời mình mới có hạnh phúc…

Chàng vừa nghĩ tới đó, lại thấy bộ mặt của Hân Ly dính đầy máu và bị kiếm chém nát. Chàng liền giật mình, vội trả lời Tạ Tốn ngay:

– Thưa nghĩa phụ, Triệu cô nương là kẻ thù lớn của con, thế nào con cũng phải giết nàng để trả thù cho biểu muội.

Tạ Tốn quay lại nói tiếp với Chỉ Nhược:

– Ðó, Chu cô nương nghe thấy chưa? Cô nương còn nghi kỵ gì nữa không?

Chỉ Nhược khẽ đáp:

– Cháu chưa yên tâm… trừ phi… trừ phi Trương công tử phải… phải thề thì cháu mới chịu, bằng không cháu đành để cho độc tố nó tan ra mà chết chứ không chịu để cho công tử chữa giúp.

Tạ Tốn liền ra lệnh cho Vô Kỵ:

– Vô Kỵ, con thề ngay đi.

Vô Kỵ không ngần ngại gì hết, quỳ ngay xuống đất và nói:

– Nếu Trương Vô Kỵ tôi quên mối thù của biểu muội thì trời đất sẽ không dung thứ cho.

Chỉ Nhược lại nói tiếp:

– Công tử phải nói rõ là công tử sẽ đối xử với Triệu cô nương ra sao?

Tạ Tốn nghe thấy Chỉ Nhược nói như vậy, cười thầm và nghĩ:

– Cô bé này có máu ghen không thua gì Hoạn Thư, chưa vào nhà chồng mà đã bắt chồng làm việc này việc nọ rồi. Nàng rất khôn ngoan bắt buộc Vô Kỵ như vậy, sau này Vô Kỵ không còn cách gì mà trở mặt.

Nghĩ đoạn, Sư vương liền bảo Vô Kỵ:

– Vô Kỵ, con cứ nghe lời Chu cô nương mà nói thật cho rõ đi.

Bất đắc dĩ, Vô Kỵ phải lớn tiếng nói:

– Yêu nữ Triệu Minh đã ra công giúp sức cho hoàng triều Mông Cổ của y thị, làm cho dân chúng khổ sở biết bao, lại giết hại võ lâm nghĩa sĩ và lấy trộm bảo đao của nghĩa phụ tôi để giết hại biểu muội tôi là Hân Ly. Vô Kỵ tôi sống ở trên đời này không ngày nào là quên mối thù ấy. Nếu tôi trái lời thề sẽ bị trời chu đất diệt.

Chỉ Nhược có vẻ hài lòng, tủm tỉm cười và nói tiếp:

– Chỉ sợ lúc ấy công tử lại nương tay không dám giết nàng ta thôi.

Tạ Tốn xen lời nói:

– Ở trên đảo này không có lịch để ta chọn ngày lành tháng tốt, vả lại chúng ta là người giang hồ hào kiệt, không mê tín như người thường, vậy hai bên đã bằng lòng rồi thì hãy quỳ xuống vái lạy trời đất để thành hôn, và sau đó Vô Kỵ hãy xua đuổi độc tố trong người Chu cô nương sớm ngày nào hay ngày ấy.

Vô Kỵ liền đỡ lời:

– Không, thưa nghĩa phụ và cô nương, xin hãy nghe tôi nói. Hân cô nương đối đãi với tôi tình thâm nghĩa trọng như vậy, nàng coi tôi như chồng từ hồi còn nhỏ, tôi cũng coi nàng như vợ từ lâu, tuy tôi với nàng chưa có hôn ước ràng buộc, nhưng đã có nghĩa vợ chồng, vậy nàng mới chết, xác còn chưa lạnh, tôi làm sao mà nhẫn tâm kết hôn với người khác ngay được?

Tạ Tốn ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói tiếp:

– Con nói rất phải, vậy ý con định thế nào?

Vô Kỵ đáp:

– Theo ý con thì ngay hôm nay trước hết con xin đính hôn với Chu cô nương để xua đuổi độc tố cho cô ta, như vậy có phải là thuận tiện cả không. Nếu trời phù hộ cho chúng ta bình yên về đến Trung thổ chờ con giết chết Triệu Minh, lấy lại được thanh bảo đao Ðồ Long trao cho nghĩa phụ xong, lúc đó chúng con thành hôn với nhau, có phải lưỡng toàn không?

Tạ Tốn vừa cười vừa nói:

– Con nghĩ rất phải nhưng nếu mười năm hay trăm năm nữa mà chúng ta không về được đến Trung thổ thì sao?

Vô Kỵ đáp:

– Ba năm sau, dù chúng ta có dời khỏi hòn đảo này được hay không, con cũng xin nghĩa phụ chủ trì cuộc hôn lễ cho chúng con.

Tạ Tốn gật đầu tán thành và quay đầu lại hỏi Chỉ Nhược:

– Còn Chu cô nương nghĩ sao?

Chỉ Nhược cúi đầu xuống, không trả lời, một lát sau mới lên tiếng:

– Cháu là một con bé mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ, sống không anh em chú bác gì hết, vậy cháu còn biết hỏi ý kiến ai nữa, nên bất cứ việc gì xin lão gia tự tiện làm chủ cho.

Tạ Tốn ha hả cười :

– Hay lắm, hay lắm. Thế là chúng ta ba người đã quyết định rồi, bây giờ hai người đã là vị hôn phu phụ, khỏi cần phải nghi kỵ gì nữa. Vô Kỵ, con mau xua đuổi độc tố trong người của vị hôn thê con đi.

Nói xong, lão hiệp đi luôn ra phía sau đảo để mặc cho hai người chữa bệnh cho nhau. Vô Kỵ khẽ hỏi Chỉ Nhược rằng:

– Em Chỉ Nhược, chẳng hay em có lượng thứ cho nỗi khổ tâm của tôi không?

Chỉ Nhược mỉm cười đáp:

– Chỉ vì tôi xấu xí, công tử mới vịn lẽ này lẽ nọ từ chối như vậy, nếu tôi là Triệu cô nương chắc lẽ hôm nay đã…

Nói đến đây, nàng quay đầu đi, không tiện nói nữa.

Vô Kỵ bỗng động lòng và nghĩ thầm:

– Khi còn ở trên thuyền nhỏ nổi lênh đênh trên mặt bể, ta đã vọng tưởng sau này sẽ được lấy cả bốn nàng một lúc. Sự thực người ta yêu nhất lại là tiểu yêu nữ thâm độc giảo hoạt bất cứ việc gì cũng dám làm. Ta thực uổng là một anh hùng hào kiệt, ham mê nữ sắc không biết phân biệt thiện ác gì hết…

Chỉ Nhược quay đầu lại, thấy chàng cứ đứng ngẩn người ra, nàng vội đứng dậy định đi nơi khác, Vô Kỵ vội giơ tay ra bắt lấy nàng, khẽ kéo một cái, không ngờ vì nàng uống phải thuốc độc nọ mà chân tay không còn chút hơi sức nào cả nên vừa bị Vô Kỵ kéo một cái, nàng ngã sắp về phía trước, ngã luôn vào trong lòng chàng.

Nàng hờn giận nói:

– Thế nào em cũng sẽ suốt đời bị công tử hà hiếp mất!

Vô Kỵ thấy nàng hơi hờn giận, lại càng xinh đẹp hơn trước nhiều, liền ôm chặt nàng và nói:

– Chỉ Nhược, hồi nhỏ chúng ta gặp nhau ở trên Hán Thủy, không ngờ bây giờ tôi được toại nguyện. Khi ở trên Quang Minh đỉnh, tôi một mình đấu với bốn ông già của phái Hoa Sơn và Côn Luân, nhờ có em lên tiếng chỉ điểm cho, tôi mới thoát chết, ơn đó tôi không bao giờ quên được.

Chỉ Nhược nằm tựa trong lòng chàng, thấy chàng nói như vậy, sực nghĩ lại chuyện xưa, vội hỏi:

– Hôm đó thiếp đâm chàng một kiếm, chẳng hay chàng có hận thiếp không?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi thấy em đâm chéo mũi kiếm sang bên, không chịu đâm vào giữa ngực tôi, tôi liền biết ngay là em đã có lòng yêu tôi rồi.

Chỉ Nhược giả bộ hờn giận, hai má đỏ bừng, rồi đáp:

– Nếu sớm biết có ngày hôm nay, thì lúc ấy thiếp cứ đâm trúng ngay vào trái tim của công tử thì bây giờ đỡ phải lôi thôi phiền phức như thế này, và sau này cũng không bị công tử hà hiếp hay bị công tử chọc tức nữa.

Vô Kỵ ghì chặt lấy hai cánh tay nàng và nói tiếp:

– Từ giờ trở đi, tôi chỉ có thương mến em thêm, chứ đâu dám hà hiếp em, nhưng không biết hai vợ chồng chúng ta có trở về Trung thổ được không? Chúng ta đã lấy nhau, hai người kết thành một khối rồi thì khi nào tôi lại chọc tức em nữa.

Chỉ Nhược quay đầu nhìn mặt chàng giây phút rồi hỏi tiếp:

– Nếu thiếp làm sai lầm việc gì mà thất lễ với công tử, chẳng hay công tử có đánh mắng và chém giết thiếp không?

Chỉ Nhược quay mặt lại, mặt của nàng chỉ cách mặt Vô Kỵ có vài tấc thôi, nên khi nàng nói, hơi thở của nàng thơm như mùi hoa lan, khiến chàng không sao cầm lòng được, liền đưa môi khẽ hôn vào má nàng một cái và khẽ đáp:

– Người nhu mì văn vẻ hiền thục như em thì khi nào em còn lầm lỡ việc gì mà để cho tôi phải trách mắng.

Chỉ Nhược vuốt tóc của Vô Kỵ và nói tiếp:

– Dù là thánh hiền cũng có lúc lầm lỡ, huống chi là em. Thiếp mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, không có người dạy bảo, thế nào mà chả có lúc hồ đồ.

– Dù em có lầm lỡ việc gì đi chăng nữa, tôi cũng chỉ dùng lời lẽ để khuyên bảo mà thôi.

– Công tử quyết không thay lòng đổi dạ chứ? Và cũng không bao giờ ra tay giết thiếp đấy chứ?

Vô Kỵ khẽ hôn trán nàng một cái nữa và nhẹ nhàng an ủi tiếp:

– Em chớ có nghĩ vơ vẫn nữa, không bao giờ có chuyện như thế đâu.

– Công tử phải hứa ngay với thiếp để thiếp yên lòng.

– Ðược, tôi sẽ không bao giờ thay đổi tâm tính và chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện giết em.

Chỉ Nhược ngước nhìn đôi mắt chàng, rồi nói tiếp:

– Thiếp cấm công tử cười hì hì hà hà như vậy, công tử phải nói đứng đắn mới được.

Vô Kỵ vừa cười và đáp:

– Không hiểu trong đầu óc nho nhỏ của em đang nghĩ gì thế?

Chàng vừa nói vừa nghĩ thầm:

– Có lẽ vì ta quyến luyến cùng một lúc Triệu Minh, Tiểu Siêu và biểu muội, nên nàng tưởng ta là người đa tình mới không yên trí, nhưng từ giờ trở đi, làm gì có chuyện đó xảy ra nữa?

Nghĩ đoạn, chàng nghiêm nét mặt lại, trang trọng nói tiếp:

– Chỉ Nhược, em là vợ cưng của tôi, trước kia tôi có đa tình thực, nhưng mong em đừng nghĩ chuyện đó nữa, từ nay trở đi, tôi quyết không thay lòng đổi dạ nữa. Dù em có làm lầm lỗi điều gì, tôi cũng không trách mắng em đến nửa lời.

– Vô Kỵ đại ca, đại ca là nam nhi đại trượng phu, nên giữ lời hứa hôm nay nhé.

Nàng vừa nói vừa chỉ lên mặt trăng và nói tiếp:

– Có mặt trăng kia làm chứng cho chúng ta.

– Phải, em nói rất phải, trăng trên trời tức là nhân chứng của chúng ta đấy.

Chàng vẫn ôm chặt Chỉ Nhược trong lòng ngửng mặt nhìn trăng tròn và nói tiếp:

– Chỉ Nhược, tại suốt đời bị nhiều người lừa dối và bắt nạt, hồi nhỏ vì quá tin người, nên tôi chịu đựng không biết bao nhiêu gian khổ. Bây giờ tôi cũng không nhớ ra đã bị người ta lừa dối hay đánh đập bao nhiêu lần, nhưng tôi chỉ nhớ lúc còn cha mẹ và nghĩa phụ ở trên Băng Hoa đảo, thì không có những người gian trá mưu hại chúng tôi. Lần đầu tiên, khi về đến Trung Nguyên, tôi bị ngay một tên ăn mày đánh lừa, úp chụp cái túi vải lên đầu và bắt tôi đem đi. Tôi có ngờ đâu Triệu cô nương, người cùng sống chết và cùng hoạn nạn với chúng ta, khi chạy tới đảo này, lại bỏ thuốc độc vào thức ăn hại chúng ta.

– Ðại ca không bị như thế thì có lẽ đến giờ chưa hối hận…

Vô Kỵ cảm thấy tương lai rất hạnh phúc, liền nói:

– Chỉ Nhược, em mới thực là người thân thiết vĩnh viễn của tôi, xưa nay em đối đãi với tôi rất tử tế, nếu sau này chúng ta về được tới Trung thổ, em sẽ giúp tôi đề phòng những tiểu nhân xảo trá đó. Tôi có người nội trợ hiền đức như vậy, thật là may mắn vô cùng.

Chỉ Nhược lắc đầu đáp:

– Thiếp là một con bé vô dụng, nhu nhược, bất tài. Mặt mũi lại xấu xí, đần độn thì bằng sao được với Triệu cô nương người thông minh tuyệt đỉnh, ngoài nàng ta ra, lại có cả Tiểu Siêu cũng hơn em nhiều. Ðại ca nên hiểu, Chu cô nương của đại ca chỉ là một đứa tốt và ngu xuẩn thôi. Chẳng lẽ cho tới ngày hôm nay, đại ca chưa biết con bé này tầm thường như thế hay sao?

– Chỉ có cô bé trung hậu hiền đức này mới không lừa dối tôi thôi.

– Vô Kỵ đại ca, thiếp được làm vợ chồng với đại ca, trong lòng sung sướng khôn tả, chỉ mong đai ca đừng vì thấy thiếp ngu dốt vô dụng mà khinh thường hà hiếp thiếp… thiếp thế nào cũng cố hết sức hầu hạ cho đại ca được vừa lòng.

Hai người ngồi bên cạnh bờ bể, mải chuyện trò tình tứ với nhau không biết lúc ấy trời đã sắp tối.

Ngày hôm sau, Vô Kỵ liền dùng Cửu Dương thần công xua đuổi độc tố cho Chỉ Nhược.

Chàng không ngờ Chỉ Nhược lại nhiễm độc rất ít, chàng đoán chừng bữa đó nàng ăn ít nên vết thương mới nhẹ hơn Tạ Tốn.

Nhưng chàng chữa cho nàng đến ngày thứ bảy, bỗng thấy trong người nàng có một luồng âm hàn cản trở, chống lại với Cửu Dương chân khí của mình.

Tuy Chỉ Nhược cố hết sức kiềm chế hơi hàn độc đó lại, nhưng không dễ dàng thâu được Cửu Dương chân khí vào trong người.

Vô Kỵ kinh ngạc vô cùng liền hỏi nghĩa phụ xem sao.

Tạ Tốn ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Ta không hiểu sao hết, nhưng có lẽ nàng đã tập võ công của phái Nga Mi, nên mới có âm hàn khí như vậy.

Vô Kỵ gật đầu cho là phải. Cũng may, nội công của Chỉ Nhược kém chàng rất xa, nên không bao lâu âm hàn khí trong người của nàng đã bị Cửu Dương chân khí của chàng lấn át. Tuy vậy chàng đã phải tốn rất nhiều hơi sức hơn là lúc chữa Tạ Tốn.

Chàng khen Chỉ Nhược rằng:

– Sư phụ của em quả thật là một đại nhân kiệt, nội công của bà truyền thụ cho em là một môn nội công cao thâm nhất trong cửa Phật, bây giờ tôi đã nhận thức ra rồi. Nếu em cứ tiếp tục luyện tập, sau này có thể ngang tài với Cửu Dương thần công của tôi được.

– Ðại ca nói dối thiếp, võ công của phái Nga Mi bằng sao được Cửu Dương thần công và Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp của đại ca.

– Chỉ Nhược, thiên tính của em rất thuần hậu, tuy em chưa học hỏi các môn võ công, nhưng nội công của em đã có căn bản rất vững rồi. Theo lời nói của Thái sư phụ tôi, muốn luyện võ công cho tới mức thật cao siêu thì phải có tư chất riêng mới được, chứ chỉ có chăm chỉ và thông minh không thì không thể nào luyện được tới mức tối cao được. Nghe nói cha của Quách nữ hiệp, tổ sư của môn phái em là Quách Tỉnh đại hiệp cũng vậy, người rất đần độn, nhưng võ công đã luyện tới mức thiên hạ vô địch. Thái sư phụ tôi có nói chính võ công của ông ta chưa chắc đã bằng Quách đại hiệp năm xưa. Nội công của phái Nga Mi của em còn cao siêu hơn nữa. Theo sự nhận xét của tôi thì sau này sự thành công của em còn hơn Diệt Tuyệt sư thái nữa.

Chỉ Nhược liếc mắt nhìn chàng một cái hờn giận nói tiếp:

– Ðại ca muốn lấy lòng thiếp, khỏi phải khen thiếp võ công cao siêu như vậy. Nếu thiếp học được một phần mười của tiên sư, thì thiếp đã mãn ý rồi. Khi nào đại ca truyền thụ Cửu Dương thần công và Càn Khôn Ðại Nã Di cho thiếp, thì lúc ấy thiếp sẽ cảm ơn đại ca liền.

Vô Kỵ suy nghĩ hồi lâu chưa kịp trả lời, thì Chỉ Nhược liền nói tiếp:

– Ðại ca bảo thiếp không đáng là đồ đệ của Trương giáo chủ hay sao?

Vô Kỵ đáp:

– Không, tôi nhận thấy nội công của tôi khác hẳn nội công của em nhiều. Nói trắng ra thì nội công của hai người đường lối khác hẳn nhau. Nếu tôi dạy em, thì thực khó nhất trên đời.

Chỉ Nhược thở dài một tiếng rồi hỏi tiếp:

– Ðại ca không chịu dạy tôi thì thôi, dù không học được võ công cũng không có gì là nguy hiểm hết.

– Không, Cửu Dương thần công của tôi thuộc nội công thuần dương, mà nội công của em học theo phái của Nga Mi lại là thuần âm. Muốn âm dương phối hợp vào trong người mình như thế, trên đời này chỉ có Thái sư phụ của tôi, mới có thể học được cả hai môn nội công khác như thế thôi. Người nào nội công kém một chút mà cố học cả hai môn trái ngược đó, thế nào cũng bị “tẩu hỏa nhập ma”. Chờ sau này nội công của em luyện tới mức thành tài rồi, lúc ấy em có thể học môn Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp của anh liền.

– Thiếp đã nói đùa với đại ca đấy thôi. Sau này thể nào thiếp cũng ở bên cạnh chàng. Như vậy võ công của chàng với võ công của thiép có phân biệt gì nữa đâu. Chắc Cửu Dương thần công của đại ca thể nào cũng khó luyện lặm, dù đại ca có bắt thiếp luyện, thiếp thấy khó chưa chắc đã chịu đâu.

Vô Kỵ nghe thấy nàng nói như vậy khoái chí vô cùng.

Hai người âu yếm bên nhau, nên không cảm thấy thời gian trôi chay mau lâu hay sao. Thoáng cái đã qua được vài tháng, lúc ấy đã Ðông cận Xuân tới, Chỉ Nhược cảm thấy sức lực của mình hoàn toàn khôi phục, nên nàng đoán chắc trong người đã hết độc tố. Hôm đó rất đẹp trời; mấy cây hoa đào ở phía Ðông đã nở rất sai.

Vô Kỵ tỉa mấy cành hoa đào đem cắm ở trước mộ Hân Ly.

Chàng nghĩ đến người em họ đó suốt đời chưa hề được một ngày nào hưởng hạnh phúc hết. Chàng rầu rĩ, bỗng nghe thấy chim hải âu trên mặt bể kêu ríu rít. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, bỗng đằng xa, có một chiếc thuyền buồm đang đi tới.

Chàng mừng rỡ vô cùng, vội lớn tiếng kêu:

– Nghĩa phụ, Chỉ Nhược có chiếc thuyền tới đây nè.

Tạ Tốn và Chỉ Nhược nghe thấy tiếng gọi, liền chạy về phía Vô Kỵ.

Chỉ Nhược với giọng run run hỏi:

– Vô Kỵ đại ca, tại sao có thuyền tới đây như vậy?

Vô Kỵ đáp:

– Lạ thực, chẳng lẽ là thuyền của giặc?

Nửa tiếng đồng hồ sau, chiếc thuyền nọ đã thả neo đậu ở cạnh đảo.

Tiếp theo đó một chiếc thuyền nhỏ bơi vào bờ.

Bọn Vô Kỵ ba người liền chạy ra ngoài bờ bể nghênh đón.

Vô Kỵ thấy các thủy thủ ở trên thuyền đó đều ăn mặc quân phục thủy sư của người Mông Cổ.

Chàng động lòng suy nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ, Triệu cô nương lương tâm cắn rứt, lại quay lại đảo này chăng?

Chàng vừa nghĩ vừa liếc mắt nhìn Chỉ Nhược. Chàng thấy nàng tỏ vẻ lo âu, trống ngực đập mạnh, hiển nhiên nàng có tâm sự gì rất lớn vậy. Giây phút sau chiếc thuyền nhỏ đã ghé vào bờ, liền có năm tên thủy thủ bước vào bờ.

Người đi đầu là một quan quân thủy sư, y vừa lên tới nơi đã cúi đầu vái chào Vô Kỵ và hỏi:

– Ngài có phải là Trương công tử đấy không?

Vô Kỵ đáp:

– Phải, chính tôi đây, chẳng hay trưởng quan là ai đấy?

Người nọ nghe thấy Vô Kỵ đã tự nhận, liền hân hoan hỏi tiếp:

– Tiểu nhân họ Ðạt tên là Túc Ðài, ngày hôm nay Ðạt tôi gặp công tử thật là may mắn vô cùng. Tiểu nhân được lệnh tới đây nghênh đón công tử, và Tạ đại hiệp trở về Trung thổ.

Y chỉ nói với Vô Kỵ và Tạ Tốn hai người, chứ không nhắc nhở đến tên của Chỉ Nhược. Vô Kỵ liền đáp lễ và hỏi:

– Trưởng quan ở nơi xa tới nhọc mệt, chẳng hay ai đã sai như vậy?

Ðạt Túc Ðài vội đáp:

– Tiểu nhân là thủ hạ của thủy sư đô đốc Ðạt Hoa Xích Lỗ, vẫn trú phòng ở tỉnh Phúc Yên. Tiểu nhân thừa lệnh tướng công Ðạt Nhĩ Ðô Tư, tới đây nghênh đón hai vị. Ðạt Nhĩ Ðô Tư chúng tôi đã phái tất cả tám chiếc thuyền ra bể, để tìm kiếm công tử và Tạ đại hiệp, không ngờ tiểu nhân lại lập được công đầu.

Y nói xong có vẻ khoái chí lắm, hiển nhiên là cấp trên của y đã hứa hẹn hễ ai kiếm thấy Vô Kỵ là được trọng thưởng nên y mới có vẻ mặt tươi cười như thế. Vô Kỵ nghe thấy nói tên tướng công Mông Cổ đó rất lạ, chàng chưa hề nghe thấy Triệu Minh nói tới bao giờ. Nhưng chàng đoán chắc những tướng quân Mông Cổ đó thể nào cũng thừa lệnh Triệu Minh đi tìm kiếm mình nên mới hỏi tiếp:

– Trưởng quan có biết tới đây đón tôi để làm chi không?

Ðạt Túc Ðài đáp:

– Ðạt Nhĩ Ðô Tư tướng công dặn bảo, Trương công tử là một vị đại quý nhân, và cũng là một vị anh hùng hào kiệt đương thời. Cho nên bảo tiểu nhân kiếm lấy Trương công tử, thì phải cẩn thận mà hầu hạ tiếp rước. Còn tại sao lại phải đi tới đây nghênh đón công tử về làm gì thì tại hạ không biết, vì chức vụ của tại hạ thấp kém, nên không được tướng công cho hay.

Chỉ Nhược liền xen lời hỏi:

– Có phải Minh Minh Quận chúa ra lệnh cho các người đi đón không?

Ðạt Túc Ðài đáp:

– Tiểu nhân làm gì có phúc đức được gặp Minh Minh Quận chúa như thế.

Chỉ Nhược lạnh lùng hỏi tiếp:

– Tại sao ngươi lại bảo phải có phúc mới được gặp Quận chúa?

Túc Ðài trả lời:

– Minh Minh Quận chúa là đệ nhất mỹ nhân của người Mông Cổ chúng tôi, à không, là đệ nhất mỹ nhân trên thiên hạ thì đúng hơn. Quận chúa văn võ toàn tài, lại là gái cưng của Nhữ Dương Vương. Tiểu nhân làm gì có phước mà được gặp kim diện của Quận chúa chứ.

Chỉ Nhược chỉ dùng giọng mũi kêu hừ một tiếng chứ không nói năng gì nữa.

Vô Kỵ liền nói với Tạ Tốn rằng:

– Nghĩa phụ, nếu vậy chúng ta xuống thuyền ngay đi.

Tạ Tốn liền nói với người Mông Cổ kia:

– Chúng tôi quay trở về sơn động lấy ít đồ đạc rồi trở ra thuyền ngay. Trưởng quan ở đây đợi chờ chúng tôi giây lát nhé.

Ðạt Túc Ðài nói tiếp:

– Ðể tiểu nhân với các thủy thủ khiêng hành lý hộ ba vị cho.

Tạ Tốn vừa cười vừa đáp:

– Chúng tôi làm gì có hành lý mà dám phiền đến quý vị.

Nói xong, Sư vương dắt tay Vô Kỵ và Chỉ Nhược đi ra phía hậu sơn, rồi dừng chân lại nói:

– Triệu Minh bỗng phái người đến đây đón chúng ta, chắc thế nào cũng có âm mưu gì, chúng ta phải thận trọng đề phòng.

Hồi thứ 78

Cái Bang Tụ Họp

Vô Kỵ hỏi:

– Nghĩa phụ thử nghĩ xem, liệu… Triệu Minh nàng có ở trên thuyền không?

Tạ Tốn liền trả lời:

– Nếu tiểu yêu nữ có mặt trên thuyền lại càng dễ xử, chúng ta chỉ cần cẩn thận lúc ăn uống đừng có mắc lừa y thị lần nữa.

Vô Kỵ tiếp lời:

– Vâng, chúng ta nên đem theo cá khô và trái khô ở đây đi. Nhất định không ăn uống gì ở trên thuyền hết.

Tạ Tốn lại nói tiếp:

– Ta đoán chắc Triệu Minh không có ở trên thuyền đâu, nàng cũng muốn bắt chước người Ba Tư bữa nọ, định lừa chúng ta lên trên thuyền, chờ thuyền đi ra giữa biển, sẽ có những thuyền khác của chúng xuất hiện, rồi dùng đại bác bắn chìm thuyền của chúng ta.

Vô Kỵ nghe nói, lưng toát mồ hôi lạnh, với giọng run run hỏi tiếp:

– Chẳng lẽ nàng ta lại có tâm địa độc ác đến như thế hay sao? Nàng chỉ việc bỏ rơi chúng ta ở trên tiểu đảo này, để chúng ta tự sinh tự diệt, suốt đời không về tới Trung thổ là đủ. Vả lại ba chúng ta có điều gì không nên không phải với nàng đâu?…

Tạ Tốn cười nhạt và xen lời nói:

– Con đã tha các cao thủ của sáu đại môn phái ở chùa Vạn Pháp, khi nào y thị quên được mối hận ấy. Hơn nữa, giáo chủ của Minh giáo mất tích, chắc lúc này tất cả người trên người dưới của Minh giáo đang đi tìm kiếm khắp nơi, rồi thế nào mà chẳng tìm kiếm đến cái đảo hoang này, nên chỉ có cách là bắt chúng ta vùi thân dưới đáy bể, như vậy mới thật là cắt cỏ nhổ tận rễ.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Nếu họ dùng đại bác bắn thuyền, như vậy có phải cả Ðạt Túc Ðài và bọn lính Mông Cổ đều chết cả môt lúc hay sao?

Tạ Tốn ha hả cười rồi thở dài đáp:

– Vô Kỵ, con nên biết những người nắm quân quyền trọng trách như thế có bao giờ thương tiếc kẻ dưới đâu. Nếu họ nhân từ như con, thì khi nào nó lại tung hoành bốn bể, quét sạch trăm nước như vậy. Từ xưa tới nay, vị anh hùng lập đại công nào mà chẳng cương quyết hơn người, muốn giết ai là giết ngay. Ðừng nói chút ít quân binh này dù là cha mẹ con cái của chúng, chúng cũng dám hy sinh nốt.

Vô Kỵ ngẩn người ra suy nghĩ hồi lâu rồi nói tiếp:

– Nghĩa phụ nói rất phải.

Xưa nay, chàng cũng biết người Mông Cổ đối với kẻ địch rất tàn nhẫn. Nhưng đối với bộ hạ thì chúng lại thương yêu vô cùng. Bây giờ chàng nghe thấy Tạ Tốn nói như vậy, trong lòng rất lấy làm nản chí. Chàng cảm thấy phen này trở về đến Trung thổ, sẽ thống lãnh các hào kiệt ở Trung Nguyên, xuất quân xua đuổi kẻ địch ra khỏi bờ cõi. Nhưng chàng cũng biết nói đến công việc trị quốc bình thiên hạ không phải là sở trường của mình.

Chỉ Nhược xen lời hỏi:

– Nghĩa phụ, xem chúng ta nên đối xử thế nào thì hơn?

Tạ Tốn hỏi lại Chỉ Nhược:

– Con có liệu kế nào không?

Chỉ Nhược đáp:

– Nếu vậy chúng ta không đi thuyền của kẻ địch. Chúng ta cứ nói với quan quân Mông Cổ rằng chúng ta ở trên đảo này dễ chịu lắm, chứ không muốn trở về Trung thổ.

Tạ Tốn vừa cười vừa nói tiếp:

– Con bé ngu ngốc này, chỉ nghĩ những mưu kế vô dụng. Chúng ta không lên thuyền thì khi nào kẻ địch chịu buông tha chúng ta. Còn nếu chúng ta giết sạch quan quân của chúng đi, thế nào chúng cũng phái hàng chục chiếc thuyền đuổi theo chúng ta, và bắt cho kỳ được. Hiện nay Trung Nguyên còn rất nhiều việc quan trọng, đang đợi Vô Kỵ về phụ trách, chúng ta không thể nào để cho y chết già ở trên đảo này được.

Chỉ Nhược mặt đỏ bừng khẽ đáp:

– Con đàn bà con gái ngu dại không biết gì hết. Vậy xin nghĩa phụ định đoạt cho, chúng con chỉ biết nghe lời của nghĩa phụ thôi.

Tạ Tốn ngẫm nghĩ giây lát rồi nói tiếp:

– Hai con nên như thế này, thế này…

Vô Kỵ và Chỉ Nhược cho kế đó của Tạ Tốn rất hay. Thế rồi ba người đem theo lương khô, khuân xuống chiếc thuyền nhỏ. Vô Kỵ còn tới trước mộ Hân Ly vái lạy một hồi, rồi mới ra đi. Xuống tới thuyền, Vô Kỵ liền xem xét cả khoang trước lẫn khoang sau. Quả nhiên không thấy vết tích của Triệu Minh đâu cả, và những thủy thủ trên thuyền, không có một người nào là có tên tuổi võ công cao siêu cả.

Chiếc thuyền nhổ neo giương buồm xong, chỉ thoáng cái đã đi được mấy chục trượng. Vô Kỵ giơ tay ra, chộp lấy cổ tay của Ðạt Túc Ðài, còn một tay nữa chàng rút luôn thanh đao ở ngang lưng ra, giơ lên kề cổ tên quan Mông Cổ đó và quát hỏi:

– Ngươi sẽ là kẻ nghe mệnh lệnh của ta, và bảo người lái đò cho thuyền chạy về phía Ðông.

Ðạt Túc Ðài giật mình kinh hãi, run run đáp:

– Trương công… tử… Tiểu nhân… không dám mang tội với công tử…

Vô Kỵ lại quát bảo tiếp:

– Ngươi phải nghe ta dặn bảo mà hành sự, nếu trái lệnh ta chém đầu ngươi ngay.

Ðạt Túc Ðài đáp:

– Vâng, vâng…

Y liền ra lệnh cho người lái đò. Người lái đò đành phải nghe theo cho thuyền đi về phía Ðông.

Vô Kỵ lại quát:

– Người Mông Cổ các người định lập mưu hãm hại ta, nhưng ta đã biết quỷ kế của các ngươi. Vậy các ngươi phải mau mau nói rõ cho ta biết mưu kế của các ngươi như thế nào? Mau nói ngay ra đi, nếu nói sai nửa lời, ta giết chết ngay.

Nói xong, chàng giơ hữu chưởng lên, vỗ mạnh vào thành thuyền một cái. Thành thuyền đó bị chàng đánh vỡ một miếng. Các quan nhân Mông Cổ thấy vậy đều giật mình kinh hãi.

Ðạt Túc Ðài vội đáp:

– Công tử minh xét cho, tiểu nhân thừa lệnh quan trên, tới đây đón công tử trở về Trung thổ chứ không có mưu mô gì hết. Tiểu nhân chỉ mong lần được công lao này, được quan trên khen thưởng, chứ không có ý định hãm hại công tử.

Vô Kỵ thấy vẻ mặt của tên quan đó có vẻ thành thật biết y không nói dối chút nào, liền buông tay ra, rồi chàng đi đến mũi thuyền, hai tay kéo hai cái neo sắt lên, mồm thì quát lớn:

– Các ngươi hãy coi rõ đây.

Nói xong, chàng liền tung hai cái neo sắt lên trên không. Các quan binh Mông Cổ thấy vậy, đều kinh hãi thất kinh la lớn. Chớ hai cái neo rớt xuống, Vô Kỵ liền giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra, giơ hai tay lên hất mạnh một cái, hai cái neo sắt ấy lại bay trở lại một lần nữa. Chàng tung hai cái neo ba lần như vậy, mới giơ tay khẽ bắt luôn, rồi để những cái neo sắt ấy xuống boong thuyền.

Người Mông Cổ xưa nay rất phục những người giỏi võ, và có sức khoẻ, nên chúng thấy Vô Kỵ dũng mãnh như vậy, đều coi chàng là thiên thần. Vì vậy chúng đều quỳ xuống vái lạy và nói:

– Trương công tử thần dũng trên thế gian này rất ít có người giỏi bằng. Ngày hôm nay tiểu nhân chúng tôi mới được sáng mắt ra.

Vô Kỵ giở võ công đó ra cho bọn quan binh Mông Cổ xem, khiến cho tên nào tên nấy kính phục. Vì vậy không một tên nào dám mưu phản chàng nữa. Người lái đò tuân theo mệnh lệnh của Vô Kỵ chèo thuyền đi về phía Ðông, đi luôn ba ngày chỉ thấy trời với nước chứ không thấy bờ đâu hết. Tạ Tốn đoán chắc pháo thuyền của Triệu Minh sai khiến thế nào cũng tuần tiễu và canh phòng ở miền duyên hải của hai tỉnh Quảng Ðông và Phúc Kiến, còn thuyền của mình đã đi ra ngoài đại dương, chắc thuyền của Triệu Minh không thể nào gặp được nên tới sáng ngày thứ năm Sư vương mới bảo Vô Kỵ ra lệnh cho người lái đò đi trở lái về phía Bắc. Ði luôn về phía đó hơn hai mươi ngày mọi người đã thấy trên mặt nước có băng nổi, mới biết thuyền đã đi ra Bắc Hải, như vậy Triệu Minh có thông minh và khôn ngoan đến đâu cũng không sao đoán biết được thuyền của mọi người hiện đang đi đâu? Sau đó, Vô Kỵ lại ra lệnh cho người lái đò lái thuyền đi trở lại phía Tây để về Trung thổ. Trong hơn một tháng trời, nhóm Vô Kỵ các người không dám ăn uống thức ăn ở trên thuyền, chỉ ăn lương khô uống nước của mình đem theo, và thỉnh thoảng bắt được cá tươi thì nướng lên làm tiệc. Trưa ngày hôm đó mọi người trông thấy ở phía đằng xa đất liền xuất hiện. Bọn quan binh Mông Cổ đi trên bể đã lâu bỗng trông thấy đất liền biết là sắp về nhà tới nơi, tên nào tên nấy mừng rỡ kêu la. Chiều hôm ấy thuyền đã vào tới bờ, nơi đây là bãi đá, đáy biển rất sâu, thuyền lớn có thể ghé sát vào bờ được.

Tạ Tốn liền nói:

– Vô Kỵ, con hãy lên bờ xem thử nơi đây là địa phương nào?

Vô Kỵ vâng lời liền nhảy lên bờ. Chàng thấy bốn bể đều là những khu rừng xanh biếc, dưới mặt đất lầy lội khó đi. Chàng đi được một quãng, tới khu rừng cây cối um tùm, thấy cây nào cũng cao lớn khôn tả, thân cây phải mấy người ôm mới hết. Chàng phi thân leo lên một cây thật cao, đưa mắt nhìn ra bốn xung quan, thấy bốn bể đều là cây cối, mới hay nơi đây là rừng hoang, chưa có người nào lui tới cả. Chàng định đi thêm một quãng đường nữa, nhưng chàng biết có đi thêm nữa cũng vô ích. Vì vậy chàng quay trở về thuyền, nhưng chưa kịp về tới chỗ đậu thuyền đã nghe thấy tiếng kêu thảm khốc. Chàng nhận ngay ra tiếng kêu đó xuất phát ở trên thuyền vọng tới, chàng giật mình kinh hãi vội giở khinh công ra phi thân đi trở về, và tung mình nhảy ngay lên mũi thuyền. Chàng thấy bảy tám cái xác binh lính Mông Cổ nằm ngổn ngang, từ Ðạt Túc Ðài trở xuống đều bị giết chết hết, còn Tạ Tốn với Chỉ Nhược thì đang ngồi yên đó, chứ chàng không thấy tung tích của kẻ địch đâu hết.

Chàng kinh hãi vội hỏi:

– Nghĩa phụ và em Chỉ Nhược có việc gì không? Kẻ địch đã đi đâu rồi?

– Con hỏi kẻ địch nào thế? Chẳng hay con đã biết kẻ địch rồi chăng?

Vô Kỵ đáp:

– Không phải những người Mông Cổ này…

Tạ Tốn liền xen lời nói:

– Do cha với Chỉ Nhược giết chết đấy.

Vô Kỵ càng kinh ngạc thêm, vội hỏi tiếp:

– Không ngờ bọn người Mông Cổ vừa về tới Trung thổ lại dám mưu mô giết người.

Tạ Tốn vội nói tiếp:

– Chúng không mưu mô giết người đâu, chính cha giết chúng để phi tang, người người này chết hết, Triệu Minh sẽ không biết chúng ta đã về tới Trung thổ. Từ giờ trở đi cô ta ở ngoài sáng chúng ta ở trong bóng tối, muốn kiếm cô ta để trả thù mới dễ hơn.

Vô Kỵ nghe nói, đứng đờ người ra hồi lâu, không sao nói ra được nửa lời. Tạ Tốn thản nhiên hỏi lại chàng rằng:

– Thế nào! Con trách thủ đoạn của cha quá độc ác phải không? Quân binh Mông Cổ là kẻ địch của chúng ta, chúng ta hà tất phải tử tế và nhân từ với chúng làm chi?

Vô Kỵ vẫn không nói năng gì hết, trong lòng nghĩ thầm:

– Những người này vẫn ngoan ngoãn phục dịch và tuân theo mệnh lệnh của mình, chưa có một chút gì lầm lỡ, tuy bảo họ là kẻ địch nhưng giết tuyệt chúng như vậy cũng hơi quá đáng một chút.

Càng nghĩ, chàng càng áy náy vô cùng.

Tạ Tốn nói tiếp:

– Cổ nhân đã dạy “Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu”, mình không giết người, người cũng giết mình. Triệu Minh đối đãi với chúng ta tàn ác như vậy thì chúng ta cũng phải dùng thủ đoạn tàn ác đối với người của y thị chứ.

Vô Kỵ đáp:

– Nghĩa phụ nói rất phải.

Tạ Tốn lại nói tiếp:

– Bây giờ con lấy lửa đốt chiếc thuyền này đi, Chỉ Nhược bới tro xét túi các xác chết để lấy hết vàng bạc và lấy ba con đao sắc bén để phòng thân.

Hai người nghe lời Tạ Tốn mà thi hành. Khi thấy chiếc thuyền đã bốc cháy, mới lần lượt tất cả nhảy lên trên bờ. Thuyền đó rất lớn, cháy đến nửa đêm mới từ từ chìm xuống bể. Vô Kỵ thấy cả thuyền lẫn xác người mất tích hết, liền nghĩ thầm:

– Nghĩa phụ hành sự, tuy hơi quá đáng một chút nhưng dù sao ông cũng là người lão luyện trong giang hồ, quả thật ta còn kém nghĩa phụ xa.

Ba người ngủ tạm trên bờ một đêm, sáng ngày hôm sau mới đi vào trong rừng, tiến thẳng về phía Nam.

Hai ngày sau, ba người mới gặp được bảy tám người thợ hái sâm.

Vô Kỵ hỏi thăm những người đó, mới hay đây là Liêu Ðông ở quan ngoại cách dãy núi Trường Bạch không xa lắm.

Chờ bọn người hái sâm đi khỏi, Chỉ Nhược liền hỏi Tạ Tốn rằng:

– Nghĩa phụ có cần giết hết những người này để diệt khẩu không?

Vô Kỵ lại quát lớn:

– Chỉ Nhược! Em nói gì thế? Những người hái sâm đó có biết chúng ta là ai đâu. Nếu cứ theo lời em thì đi đến đâu gặp ai cũng giết chết hết hay sao?

Chỉ Nhược ngẩn người ra không biết trả lời thế nào cho phải, xấu hổ đến mặt đỏ bừng. Từ khi Vô Kỵ quen biết nàng đến giờ, không bao giờ lớn tiếng quát nàng như vừa rồi. Tạ Tốn liền xen lời, nói:

– Theo nguyên ý của ta thì cũng nên giết chết hết những người hái sâm này đi, nhưng giáo chủ không đang tâm giết chết nhiều người như vậy thì chúng ta mau mau thay đổi quần áo để khỏi lộ tông tích của mình.

Thế rồi ba người rảo bước đi luôn.

Lại thêm ba ngày nữa mới ra khỏi khu rừng đó.

Ði tới một nhà người làm ruộng, Vô Kỵ liền lấy tiền bạc ra mua lại quần áo của người ấy. Nhưng nhà nông đó quá nghèo nàn, chỉ có thể nhường lại cho chàng một cái áo ngắn lông dê cũ thôi.

Ba người lại phải đi đến bảy tám nhà nữa mới mua được ba bộ quần áo dơ bẩn không thể tưởng tượng được.

Xưa nay Chỉ Nhược ưa sạch sẽ, ngửi thấy mùi hôi hám của những bộ quần áo dơ bẩn đó, suýt nữa nàng mửa ngay tại chỗ.

Trái lại, Tạ Tốn rất mừng rỡ vội bảo hai người bôi đất bùn lên mặt cho thật dơ bẩn thêm.

Vô Kỵ nhìn xuống mặt nước để soi xem thấy mình không khác gì một tên ăn mày ở Liêu Ðông. Chàng liền nghĩ thầm:

– Bây giờ dù có gặp mặt Triệu Minh chưa chắc đã nhận ra ta là ai.

Ba người lại tiếp tục đi vô miền Nam, tới một thị trấn lớn, nơi đây là con đường duy nhất, người nào định vào trong quán nội, thể nào cũng phải đi qua.

Ba người liền vào một tửu lầu lớn nhất, Vô Kỵ móc túi lấy mười lạng bạc ra để trên quầy và nói:

– Tôi gửi nén bạc này ở đây, lát nữa chúng tôi ăn nhậu xong sẽ tính toán sau.

Sở dĩ chàng gởi tiền như thế trước là vì sợ người trong tửu lầu thấy mình ăn mặc rách rưới không chịu bán.

Ngờ đâu, người chưởng quầy đó lại cung kính đứng dậy, hai tay cầm nén bạc trao trả cho Vô Kỵ và đáp:

– Quý vị tới tiểu điếm như vậy đã là hân hạnh cho chúng tôi lắm rồi. Quý vị ăn uống một chút ít có nghĩa lý gì, xin quý vị cho phép tiểu điếm chúng tôi thết quý vị một bữa.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng, ngồi xuống xong, mới khẽ hỏi Chỉ Nhược rằng:

– Chúng ta có lộ tung tích gì ra không mà tại sao người chưởng quầy lại không chịu nhận tiền ta như thế?

Chỉ Nhược nhìn kỹ mặt mũi quần áo của ba người, thấy không khác gì ba tên ăn mày thật sự và thấy không có lộ một vết tích gì khả nghi hết.

Tạ Tốn cũng lên tiếng nói:

– Ta nghe giọng nói của người chưởng quầy hình như có vẻ sợ sệt, nếu phải vậy, chúng ta nên cẩn thận lắm mới được.

Sư Vương vừa nói xong, đã nghe thấy cầu thang có tiếng chân người nhộn nhịp và có bảy người bước lên.

Lạ thật! Người nào người nấy cũng đều ăn mặc quần áo ăn mày cả.

Bảy người đó tới một cái bàn cạnh cửa sổ ngồi xuống.

Vô Kỵ liền thấy điếm tiểu nhị cung kính tiến lên chào hỏi và luôn mồm gọi những người đó là đại gia, thiếu gia v. v…

Y coi mấy người ăn mày đó khác gì những quan lớn hay những người nhà giàu.

Chàng thấy những tên ăn mày đó, có tên đeo năm cái túi vải, có tên đeo đến sáu cái, chàng biết chúng đều là những đệ tử có địa vị trong bang phái.

Ðiếm tiểu nhị liền bảo người bếp làm thức ăn và đem rượu lên, nhưng y chưa kịp đem lên thì đã có năm sáu đệ tử khác của Cái Bang tới. Một lát sau đã có trên ba mươi tên ăn mày lần lượt tới.

Lúc này Vô Kỵ mới tỉnh ngộ, thì ra ngày hôm nay Cái Bang tụ họp nơi đây. Người trong tửu lầu lại tưởng bọn chàng ba người cũng là người của Cái Bang, cho nên mới tiếp đãi tử tế vậy là thế.

Chàng liền khẽ nói với Tạ Tốn rằng:

– Nghĩa phụ! Chúng ta nên tránh khỏi nơi đây để khỏi gây thêm phiền phức thì hơn, có lẽ ngày hôm nay người của Cái Bang đến đây không ít đâu.

Ðang lúc ấy, phổ kỵ đưa một đĩa thịt bò lớn, một con gà quay và năm cân rượu trắng tới.

Tạ Tốn đang đói bụng và hơn hai tháng nay chưa được ăn một bữa ngon lành như vậy, nên lão anh hùng vừa ngửi thấy mùi gà thơm đã thèm rỏ dãi rồi và nói:

– Chúng ta cứ lẳng lặng ăn uống cho thật no say rồi đi luôn. Như vậy ta có hãi sợ gì chúng đâu?

Nói xong, Sư Vương liền cầm bát rượu lên uống và gắp thức ăn bỏ vào mồm nhai ngồm ngoàm tức thì.

Tội nghiệp cho Tạ Tốn lưu vong hải ngoại hơn hai mươi năm trời, cho tới ngày hôm nay mới được ăn trở lại một bữa ăn thật ngon và uống một bữa rượu như xưa.

Rượu ấy là một thứ rượu khá mạnh nhưng đối với Sư Vương thì đó là nước lã thôi, chỉ thấy ông ta uống hết bát này lại rót đến bát khác liền.

Khi ăn uống đã khá no say rồi, Sư Vương bỗng khẽ nói:

– Cẩn thận, có hai nhân vật có bản lãnh rất cao siêu đang tới đây. Không ngờ trong Cái Bang lại có những nhân vật tài giỏi như vậy.

Vô Kỵ nghe tiếng chân người lên, liền quay đầu lại nhìn thấy người đi trước, chân trái đi rất mạnh và chân phải lại đi rất nhẹ, còn người đi sau cũng một bước mạnh, một bước nhẹ, nhưng chỉ nghe bước đi của hai người cũng biết võ công của hai người cao siêu lắm rồi.

Hai người đó vừa lên tới trên lầu, tất cả những đệ tử của Cái bang đều đứng ngay dậy. Tạ Tốn giơ tay ra hiệu, rồi cả ba cùng đứng dậy nghênh đón.

Nên rõ, ba người lúc đó ngồi ở góc lầu, bên cạnh mọi người nên không ai chú ý tới, nên khi thấy ai ai cũng đều đứng dậy cả, mà nếu ba người còn ngồi, thì thế nào cũng xảy ra chuyện lôi thôi ngay.

Vô Kỵ thấy người thứ nhất thân hình vừa phải, mặt mũi thanh tú, để râu ba chòm, trông hình dáng của y không khác một tú tài thi rớt. Còn người đi sau, thì mặt ngang râu xồm, thì không khác Châu Xương người hầu của Quan Công. Cả hai người này đều đeo chín cái túi. Thì ra những cái túi của họ đeo trên vai dùng để chứng minh thân phận thôi, chứ túi nhỏ như thế thì làm sao đựng đồ đạc.

Vô Kỵ vừa liếc mắt nhìn hai người đó vừa nghĩ thầm:

– Một trăm năm trước đây, tiếng tăm của Cái bang lừng lẫy khắp giang hồ, ta nghe Thái sư phụ nói, bang chủ Cái bang hồi đó là Hồng Thất Công, một người nhân, hiệp, trung, nghĩa, võ công rất tinh thâm, bất cứ người của bạch đạo hay hắc đạo đều kính phục ông ta vô cùng. Sau đó đến hoàng bang chủ và những bang chủ tiếp theo là những người tài giỏi cả. Ngờ đâu mấy chục năm gần đây, người chủ trì kém xưa nhiều nên tiếng tăm ngày càng thêm sa sút. Hiện giờ bang chủ của Cái bang là Sử Hoa Long, xưa nay rất ít lộ diện trên giang hồ nên không biết y là người như thế nào? Bây giờ hai người này lưng đeo chín cái túi như vậy, ngoài bang chủ ra chắc cũng là người có địa vị cao nhất trong bang. Ngày nọ, người ở trên Linh Xà đảo định cướp giật Ðồ Long đao của nghĩa phụ ta, không biết người đó có liên can đến những người này không?

Mấy chục năm trước đây, Thánh hỏa lệnh của Minh giáo bị Cái bang cướp đi. Minh giáo với Cái bang trở nên như lửa với nước, đôi ba phen Minh giáo định cướp lại Thánh hỏa lệnh đó mà đã gây nên mấy trận đấu chém nhau chí chết. Các nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên đều nhìn nhận Minh giáo là tà ma ngoại đạo, nên hễ gặp lần đấu tranh nào, các bang phái đều ra tay trợ giúp Cái bang. Cho nên lần nào Minh giáo cũng bị bại trận. Lần này, Ðồ Long đao với ỷ Thiên kiếm bị Triệu Minh cướp mất, riêng có sáu chiếc thẻ bài Thánh hỏa lệnh vẫn còn trong túi Vô Kỵ, chưa bị thất lạc. Có lẽ vì Triệu Minh e sợ Vô Kỵ quá mạnh, sau khi uống phải thuốc độc “thập hương nhuyễn cân tán” mà vẫn có thể xuất kỳ giở tài ba ra thì sao? Vì thế mà nàng ta không dám thò tay vào trong người chàng lục soát.

Vô Kỵ thấy người của Cái bang ở trên tửu lầu rất đông đảo, thế lực rất mạnh, nên chàng không dám sơ ý, vội thò tay vào túi rờ mó sáu chiếc thẻ Thánh hỏa lệnh, trong lòng nghĩ thầm:

– Di chúc của Dương Phá Thiên giáo chủ dặn bảo thế nào cũng phải cướp lại được những thẻ Thánh hỏa lệnh này, vậy ta phải cẩn thận lắm đừng để cho Cái bang cướp đi mới được.

Chàng đang nghĩ thì thấy hai trưởng lão chín túi đi tới trước bàn lớn ở giữa tửu lầu ngồi xuống. Trưởng lão mặt như Châu Xương móc túi lấy một cây gậy trúc dài chừng bốn thước ra để trên mặt bàn.

Tất cả đệ tử của Cái bang vừa trông thấy cái gậy đó, đã có già nửa số người quỳ xuống vái lạy và nói:

– Ðệ tử của phái Y tham kiến Trưởng bản Long đầu.

Vô Kỵ vì thấy Cái Bang là đại địch của bổn giáo và còn được nghe thấy Dương Tiêu nói rõ tình hình của Cái Bang cho mình hay, nên chàng mới biết lai lịch của chúng chia ra ¤ Y và Tịnh Y hai phái.

Lúc này chàng thấy những đệ tử của chúng quỳ xuống bái phục đều quần áo rách rưới và dơ bẩn vô cùng mới hay người cầm gậy đó chính là Trưởng bản Long đầu và cũng là thủ lãnh của phái ¤ Y.

Tiếp theo đó, chàng lại thấy một người trông như nhà nho tú tài lấy ra một cái bát mẻ, hai tay bưng lên để trên mặt bàn, những đệ tử sạch sẽ còn lại vội quỳ ngay xuống vái lạy và nói:

– Ðệ tử của phái Tịnh Y tham kiến Trưởng bát Long đầu.

Hai người Long đầu đều giơ tay phải lên hất một cái, và nói:

– Các người đứng dậy đi.

Tất cả đệ tử của Cái Bang đều lần lượt đứng dậy trở về chỗ ngồi.

Vô Kỵ toát mồ hôi lạnh ra, vì bảo chàng đứng dậy nghênh đón Cái Bang trưởng lão cũng không sao, nhưng bắt chàng phải quỳ xuống vái lạy thì không thể được.

May thay lúc ấy, số người của đệ tử Cái Bang quá đông và kẻ đứng người quỳ rất hỗn độn, ba người lại ngồi ở chỗ góc lầu mà hai tên Long đầu thì cứ vênh mặt nhìn lên sàn nhà, không thèm đếm xỉa đến các đệ tử, nên chúng mới không thấy Tạ Tốn, Vô Kỵ, Chỉ Nhược ba người ngồi yên, không quỳ lạy gì hết.

Tuy bọn ăn mày ngồi trong tửu lầu ăn uống, nhưng đa số bọn chúng vẫn không bỏ thói quen thò tay bốc thức ăn và bưng cả bát lên uống nước canh.

Vô Kỵ với Tạ Tốn cố ý lắng tai nghe xem hai Long đầu trưởng lão kia nói những gì. Không ngờ, hai người chỉ nghe thấy hai tên Long đầu vừa ăn vừa mời nhau mà thôi, chứ không hề nói đến việc chính.

Còn lũ ăn mày thì vừa ăn uống, vừa đánh toang (đố nhau kẻ nào thua phải uống rượu), chuốc rượu cười nói ồn ào như đang họp chợ vậy.

Chờ tới khi hai tên Long đầu ăn uống xong, đi xuống dưới lầu thì bọn ăn mày cũng say sưa phè phỡn và tranh nhau xuống lầu mỗi người đi một chỗ.

Chờ bọn ăn mày đi hết, Tạ Tốn mới hỏi Vô Kỵ rằng:

– Vô Kỵ, con thấy những gì?

Vô Kỵ đáp:

– Có rất nhiều nhân vật Cái Bang tụ họp, nhưng con đoán chắc, chúng không phải chỉ tụ họp nơi đây ăn uống no say một bữa là thôi đâu. Chắc thế nào tối hôm nay, chúng cũng kiếm một nơi vắng vẻ, tụ họp và bàn việc kín.

Tạ Tốn gật đầu nói tiếp:

– Theo ý ta, Cái Bang vốn là kẻ thù số một của bổn giáo, bây giờ chúng ta đã bắt gặp chúng ở nơi đây, không thể nào buông tha chúng được. Chúng ta cần phải dò xét xem có phải chúng định mưu mô ám hại bổn giáo lần nữa hay không?

Thế rồi ba người xuống lầu đi tới trước quầy trả tiền, người chưởng quầy ngạc nhiên cương quyết không chịu nhận tiền của ba người.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Cứ xem bọn Cái Bang quấy nhiễu đến nỗi các trà lầu tửu quán đều hoảng sợ không dám nhận tiền, chỉ một điểm này cũng đủ thấy xưa nay chúng hoàn, không coi vương pháp ra gì như thế nào rồi.

Ba người liền đi tới chỗ hẻo lánh, vào trọ khách sạn nhỏ để nghỉ ngơi.

Tuy trong thị trấn có rất nhiều đệ tử của Cái Bang, nhưng xưa nay không có một tên ăn mày nào vào ngủ trọ khách sạn hết, vì vậy ba người mới không sợ gặp phải bọn chúng. Tạ Tốn lại nói với Vô Kỵ:

– Mắt của ta không trông thấy gì nên không tiện đi dò la tin tức, còn Chỉ Nhược võ công không cao siêu, có đi cùng với con cũng không giúp đỡ được gì cả. Chi bằng con đi một mình thì hơn.

Vô Kỵ vâng lời, sau khi nghỉ ngơi chốc lát liền đi ra phố ngay. Chàng đi từ đầu phố đến cuối phố mà không thấy hình bóng một tên Cái Bang nào hết, chàng liền nghĩ thầm:

– “Không đầy nửa tiếng đồng hồ mà bang chúng của Cái Bang đã rút lui khỏi thị trấn này sạch, nhưng chắc chắn chúng chưa đi xa mấy đâu.

Nghĩ đoạn, chàng đi vào một tiệm bán hàng miền nam, trợn to đôi mắt, giơ quyền lên đấm mạnh xuống mặt quầy một cái và quát hỏi:

– Này, bác chưởng quầy, bao nhiêu anh em của ta đi về phương hướng nào thế?

Người chưởng quầy thấy chàng hung ác như vậy lại tưởng là một tên ăn mày dữ tợn của Cái Bang nên không riêng gì y mà cả mấy tên phổ ky khác cũng đều giật mình kinh hãi. Sau có một tên phổ ky táo bạo hơn hết vội chỉ tay về phía Bắc và gượng cười đáp:

– Chúng tôi thấy các bạn hữu của quý bang đều đi cả về phía bắc. Mời đại gia hãy sơi chén nước rồi hãy đi sau.

Vô Kỵ bắt chước giọng của bọn ăn mày, ngang tàng trả lời:

– Không uống. Ai thèm uống nước chè hôi của các ngươi.

Nói xong, chàng quay mình đi ra và bước thẳng về phía Bắc. Nhưng chàng vừa đi vừa cười thầm.

Ra khỏi thị trấn không xa, Vô Kỵ thoáng thấy trong bãi cỏ ở bên cạnh đường có bóng người thấp thoáng, rồi thấy một tên đệ tử của Cái Bang đứng dậy, hình như định tiến lên quát hỏi chàng vậy.

Vô Kỵ giở hết tốc lực ra, người như cái tên nhảy xô đến nơi đó. Tên đệ tử Cái Bang chỉ thấy một cái bóng đen thoáng qua, rồi không thấy gì hết, y nghĩ là mình mắt hoa chứ không có gì hết.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Cái Bang cho người canh gác suốt dọc đường như vậy đủ thấy buổi họp này quan trọng như thế nào.

Nghĩ đoạn chàng liền giở hết tốc độ của khinh công ra chạy về phía Bắc. Hai mắt chàng rất sắc, tha hồ Cái Bang ẩn núp ở bụi cỏ hay sau tảng đá đều bị chàng trông thấy hết. Trái lại, những chòi canh đó lại là mục tiêu chỉ đường cho chàng.

Ði được bốn năm dặm đường, càng đi chàng càng thấy những chòi canh ngầm của chúng càng nhiều và cẩn mật thêm.

Tuy những người đó võ nghệ kém Vô Kỵ rất xa, nhưng ban ngày ban mặt, chàng muốn tránh khỏi tầm mắt của chúng không phải là chuyện dễ. Sau chàng đành phải tránh con đường cái quan mà đi đường tắt ở trong rừng. Chàng thấy có một con đường nhỏ đi thẳng lên một cái miếu thật lớn ở trên núi. Chàng biết Cái Bang thế nào cũng tụ họp ở trong đó nên vội chạy thẳng về phía đông bắc rồi quay về phía Tây. Chàng đi vòng như vậy để tránh tầm mắt của Cái Bang, rồi chàng mới tiến tới gần ngôi miếu. Chàng thấy trên cửa miếu có một tấm bảng đề bốn chữ “Di Lạc thần miếu” thật lớn. Ngôi miếu này trông rất trang nghiêm và không kém hùng vĩ.

Chàng vừa ngắm nhìn, vừa nghĩ thầm:

– Có lẽ phen này những nhân vật trọng yếu của Cái Bang tới dự gần hết. Nếu ta trà trộn vào trong đám đông thế nào cũng bị chúng phát giác mất.

Nghĩ đoạn, chàng ngắm nhìn xung quanh một vòng thấy trong sân, trước đại điện bên trái có một cây cổ thụ, bên phải có một cây bách cổ thụ.

Cả hai cành lá đều rườm rà, và cao hơn nóc điện nhiều nhất là cây thông rậm rạp có thể ẩn náu ở đó được. Thế rồi chàng đi vòng ra sau miếu, phi thân lên mái nhà, bò tới góc điện, khẽ nhảy một cái, tựa như một làn khói bay thẳng lên đỉnh cây thông.

Chàng núp ở trên một cành cây thật lớn rồi ngó về phía sau, trong lòng nghĩ thầm: “May thực!”.

Lúc ấy tình hình ở trong điện như thế nào, chàng đều trông rõ hết.

Chàng thấy ở dưới đất trong Ðại Hùng Bảo Ðiện, bang chúng của Cái Bang ngồi ở hai bên đen nghịt, có ba bốn trăm người là ít. Những người đó đều nhìn cả vào phía trong nên không ai hay biết Vô Kỵ đã nhảy lên cây thông. Trong điện có năm cái thảm bồ đoàn bỏ trống hình như để chờ ai tới thì phải. Cuộc họp tới ba bốn trăm người mà không có tiếng động nào hết, trái hẳn với trên tửu lầu, họ ăn uống ồn ào như cái chợ. Vô Kỵ lại nghĩ tiếp:

– Cái Bang nổi danh mấy trăm năm Gần đây bang phái của họ tuy suy đồi một chút, nhưng thành tích năm xưa của họ dù sao vẫn không mất mát được, còn sự ồn ào ở trên tửu lầu, đó là thói quen của họ thôi. Cứ xem tình hình bây giờ thì đủ thấy trưởng lão trong bang của chúng chấp pháp vẫn còn nghiêm cẩn lắm.

Chàng thấy giữa Ðại Hùng Bảo Ðiện có bày một pho tượng Di Lạc, phanh áo để lộ cái bụng to tướng ra, há to miệng cười trông rất hiền lành.

Chàng đang ngắm pho tượng đó thì nghe thấy phía sau vách có một người quát lớn:

– Trưởng bát Long đầu tới!

Bọn ăn mày ở trong điện vội đứng cả dậy, hai tay buông xuôi trông rất cung kính. Trưởng bát Long đầu hình dáng như tú tài, tay cầm cái bát mẻ từ từ bước ra đứng ở phía bên phải.

Sau đó, người nọ quát tiếp:

– Trưởng bản Long đầu tới!

Mọi người liền thấy một người ăn mày già, thân hình bé nhỏ gầy gò, trông vẻ mặt uể oải ở bên trong bước ra. Tay cầm một miếng trúc nứt vỡ, nhưng bước đi của người này lẹ lắm.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ tiếp:

– Khinh công của y cao siêu thật, có thể ngang với hòa thượng túi vải của bổn giáo, chỉ kém Vi Bức Vương nửa mức thôi.

Chàng lại nghe thấy người nọ lớn tiếng nói tiếp:

– Truyền công Trưởng lão tới!

Lần này là một người ăn mày già, râu tóc bạc phơ nhưng sợi tóc nhỏ như sợi tơ, bay phất phới trước gió, vẻ mặt của y lại kỳ lạ vô cùng, như cười mà không phải cười, như khóc mà không phải khóc, khó mà tả ra được vẻ mặt quái dị đó.

Người ăn mày già này đi tay không, theo thân hình, bộ pháp của y thì không sao biết được là có võ công cao siêu hay không.

Bốn người ấy lôi cái thảm bồ đoàn xuống phía dưới ngồi, chỉ để lại một cái ở giữa rồi họ cùng chắp tay chào và đồng thanh nói:

– Xin mời bang chủ đại giá!

Vô Kỵ nghe nói rùng mình nghĩ thầm:

– Bang chủ của Cái Bang hiện giờ là Kim Ngân Chưởng Sử Hỏa Long, người trong võ lâm không ai được gặp mặt y bao giờ nên không ai biết y là người như thế nào.

Lúc ấy tất cả những đệ tử của Cái Bang ở trong Ðại Hùng Bảo Ðiện đều đứng dậy vái chào, một lúc lâu mới thấy sau bình phong có tiếng chân người đi rồi có một người cao lớn ra.

Vô Kỵ thấy người đó cao bảy thước, thân hình vạm vỡ vô cùng, vẻ mặt hồng hào, có vẻ như là một vị quan lớn vậy. Tay y cầm hai viên thiết cầu, cứ xoe đi xoe lại nên có tiếng kêu “loong coong” hoài. Y mặc quần áo tuy không lịch sự cho lắm, nhưng không phải là quần áo của người ăn mày.

Y vừa đi tới giữa điện đứng yên thì tất cả đệ tử của Cái Bang đều đồng thanh lớn tiếng nói:

– Tọa hạ đệ tử tham kiến bang chủ hạ giá!

Sử Hỏa Long, bang chủ của Cái Bang xua tay một cái và lớn tiếng nói:

– Miễn lễ! Các tiểu tử đều mạnh giỏi đấy chứ?

Tất cả những đệ tử của Cái Bang đều đồng thanh đáp:

– Chúc bang chủ mạnh giỏi!

Chờ Sử Hỏa Long đến ngồi vào cái thảm bồ đoàn ở chính giữa, mọi người mới dám ngồi xuống.

Sử Hỏa Long quay đầu lại nói với Trưởng bát Long đầu rằng:

– Chú em họ Lâm. Chú hãy đem chuyện Kim Mao Sư Vương với thanh đao Ðồ Long nói cho anh em đây nghe đi!

Vô Kỵ nghe thấy nói tới Kim Mao Sư Vương với Ðồ Long đao liền chăm chú lắng tai nghe.

Trưởng bát Long đầu liền đứng dậy vái chào bang chủ trước rồi mới quay đầu lại nói:

– Các vị anh em nhà! Ma giáo với bổn giáo tranh đấu đã ngót sáu mươi năm chúng ta với chúng đã trở nên kẻ thù đời đời. Từ khi lệnh phù Thánh hỏa lệnh của giáo chủ Ma giáo lọt vào tay bổn bang rồi, từ đó đến giờ Ma giáo không sao hơn được bổn bang. Mấy năm gần đây Ma giáo mới bầu được một giáo chủ mới tên là Trương Vô Kỵ, bổn bang có cho người tham gia vụ vây đánh Quang Minh đỉnh đã trông thấy người đó, y chỉ là một thiếu niên vô tri mà thôi. Những kẻ chưa hết hôi sữa, chưa rụng lông măng như vậy thì làm sao làm nổi đại sự cơ chứ? Và y cũng chống cự sao nổi với Sử bang chủ của bổn bang là một người có hùng tài vũ lược như vậy?

Tất cả đệ tử của Cái Bang đều hoan hô vang động như tiếng sấm.

Sử Hỏa Long thấy vậy mặt tỏ vẻ đắc chí vô cùng.

Trưởng bát Long đầu lại nói tiếp:

– Từ khi Ma giáo lập được bang chủ tới giờ, chúng thường chia năm chia bảy tàn sát lẫn nhau, ngờ đâu mấy lúc sau này chúng lại đoàn kết và thống nhất nhau được, nên theo sự nhận xét của tôi thì đó cũng là tâm phúc đại hoạ cho bổn bang đấy. Gần một năm nay, các Ma giáo đã khởi sự ở các nơi, ở miền sông hoài và sông Tứ Thủy có Hàn Sơn Ðồng và Chu Nguyên Chương, miền Lương Hồ có Từ Thọ Huy. Chúng đã đánh bại quân Nguyên mấy bận, chiếm được khá nhiều đất đai. Nghe nói chúng rất thắng thế, nếu quả thực để cho chúng gây được đại sự, đuổi được quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi, cướp được thiên hạ thì lúc ấy mấy mươi vạn anh em của bổn bang chết không có đất mà chôn.

Tất cả đệ tử của Cái Bang nghe nói đều nổi giận, đồng thanh quát lớn:

– Chúng ta quyết không để cho chúng thành sự! Cái Bang thề sống chết với Ma giáo.

Nếu Ma giáo chiếm được thiên hạ thì anh em của bổn bang sẽ chết hết.

Nhất thời, trong miếu các đệ tử của Cái Bang phẫn uất sôi nổi, lớn tiếng kêu la om sòm. Vô Kỵ núp ở trên cây trông thấy vậy nghĩ thầm:

– Không ngờ ta ở hải ngoại mấy tháng mà các anh em đã tạo nên nhiều đại sự như vậy! Lần này Cái Bang lo âu như vậy không phải là không có nguyên nhân! Nhân số của Cái Bang đông đảo như vậy, ta chớ nên coi thường! Nếu chúng ta liên lạc được với chúng để đánh đuổi quân Nguyên thì việc sẽ chóng thành công hơn! Bây giờ thì ta phải làm thế nào cho họ đừng thù hận với chúng ta, rồi hoá thù thành bạn có hơn không.

Trưởng Bát Long đầu chờ các đệ tử dịu xuống rồi mới lại cất tiếng nói tiếp:

Xưa nay Sử Bang chủ vẫn tĩnh dưỡng ở Thôi Tiêu Sơn Trang, ít khi có dịp bước chân vào giang hồ. Bây giờ gặp đại sự như vậy, Bang chủ đành phải ra chủ trì, đó cũng là trời xanh phù hộ cho bổn Bang, nên Trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng mới quen biết với một đệ tử của phái Võ Ðang và lượm được một tin tức và đặc biệt…

Nói tới đó, y liền đổi giọng, lớn tiếng tiếp:

– Trần Trưởng lão xin mời Tống Thiếu Hiệp ra đây gặp mặt các anh em!

Phía sau vách có tiếng trả lời ngay:

– Vâng.

Thế rồi có hai người dắt tay nhau từ bên trong bước ra.

Một người trạc ba mươi. tinh thần sảng khoái chính là Hữu Lượng mà Tạ Tốn đã tha chết ở trên Băng Hỏa Ðảo, còn một người nữa tuổi chừng hai mươi bảy, hai mươi tám. mặt mũi rất xinh đẹp, lưng đeo trường kiếm.

Vô Kỵ vừa trông thấy đã giật mình kinh hãi. Thì ra đó chính là Tống Thanh Thư, con trai của Viên Kiều. Ngày nọ y bị Triệu Minh giam cầm ở chùa Vạn Pháp, sau được Phạm Ðao với Vô Kỵ cứu thoát, ngờ đâu bây giờ lại trà trộn vào bọn Cái Bang như thế! Hai ngời đó đi vào tới trong điện liền chào Hỏa Long trước rồi mới chào Truyền Công Pháp, hai Trưởng lão và Trưởng bát. Sau đó, hai người quỳ đầu lại chắp hai tay chào các đệ tử của Cái bang một vòng.

Trưởng Bát Long Ðầu liền nói tiếp:

– Trần Trưởng lão đem tiền nhân hậu quả của việc đó nói lại cho anh em nghe đi!

Hữu Lượng liền dắt tay Thanh Thư, bước ra mấy bước và nói:

– Các vị, Bang của chúng ta được Tống Thiếu hiệp đến tương trợ, thật là một cơ duyên lớn cho chúng ta. Tống Thiếu hiệp có cho tôi hay rằng: Ðại Ma đầu Kim Mao Sư Vương Tạ Tôn của Ma Giáo đã về tới Linh Xà Ðảo ở Ðông Hải…

Chấp Pháp Trưởng lão bỗng xen lời hỏi:

– Người trong võ lâm tìm kiếm Kim Mao Sư Vương hoài, mấy chục năm liền đều không ai biết được y ở đâu cả, sao Tống Thiếu hiệp bỗng nhiên lại hay được tin này. Lão phu đang muốn thỉnh giáo.

Vô Kỵ đang hoài nghi, thấy Trưởng lão của Cái Bang hỏi như vậy liễn nghĩ thầm:

– Cái tin Tạ Tốn ở Băng Hỏa Ðảo miền Bắc Cực về tới Linh Xà Ðảo rất bí mật, sao Cái Bang lại hay biết nhanh chóng đến thế?

Chàng lại nghe thấy Hữu Lượng nói tiếp:

– Tất cả cơ duyên và mọi sự may mắn đều là đội ơn hồng phúc của Bang chủ hết. Dông Hải có một vị Kim Hoa bà bà sinh trưởng ở ngoài bể nên rất thạo về hàng hải, không hiểu tại sao bà ta lại biết được Tạ Tốn ở trên một hoang đảo tại Bắc Cực, thế rồi bà ta lại tới đón Tạ Tốn về Linh Xà Ðảo. Trên đảo có một đôi vợ chồng trẻ tuổi đang bị giam cầm. Người chồng tên là Vệ Bích, vợ là Võ Thanh Anh đều là đệ tử của một phái võ học ở Ðại Lý. Nhân lúc Kim Hoa bà bà đi Trung Nguyên vắng, đôi vợ chồng ấy giết chết người canh gác rồi đào tẩu luôn. Ngờ đâu họ về tới Sơn Ðông thì ngộ nạn, may nhờ Tống Thiếu hiệp ra tay cứu cho. Vợ chồng y mới nói rõ các tiền nhân hậu quả cho hay nên Tống Thiếu hiệp mới biết Kim Mao Sư Vương đã tới Linh Xà Ðảo.

Chấp Pháp Trưởng lão liền gật đầu và đỡ lời:

– À! Ra là thế đấy!

Chàng lại nghĩ tiếp:

– Vệ Bích với Thanh Anh đều không phải là người đứng đầu năm xưa bọn chúng đã lập kế đánh lừa ta để dễ dò hỏi chỗ ở của nghĩa phụ ta và có lẽ vì thế mà Tía Sam Long Vương dò biết được tin tức của nghĩa phụ ta! Thời bây giờ nói về giỏi bơi lội và thạo hàng hải, có lẽ ít có người bằng được Tía Sam Long Vương nếu không phải bà ta thân hành đi thì còn ai có thể tìm tới Băng Hỏa Ðảo như vậy được! Dù cha mẹ ta có phục sinh cũng chưa chắc đã đi tới nơi, như vậy đủ thấy số trời dun rủi như vậy cũng nên!

Hữu Lượng lại nói tiếp:

– Ðệ với Tống thiếu hiệp là bạn chi giao, sau khi hay được tin đó, liền cùng Quế, Trịnh hai vị đem năm tên đệ tử bảy túi đi Linh Xà đảo định bắt Tạ Tốn để cướp thanh đao Ðồ Long đem hiến cho bang chủ. Không ngờ đại đội Ma giáo cũng tới Linh Xà đảo ngay lúc ấy. Chúng tôi tuy đã kiệt lực tử chiến, kết cuộc quả bất địch chúng! Quế trưởng lão với bốn tên đệ tử bảy túi vì đại bang chủ mà tuẫn nạn. Tình trạng ở trên Linh Xà đảo như thế nào xin Trịnh trưởng lão thưa cùng bang chủ hay đi!

Vô Kỵ thấy Trịnh trưởng lão, người què quặt ở trong đám đông đứng dậy kể lại cuộc chiến đấu với Ma giáo ở trên Linh Xà đảo như thế nào, y không nói chuyện người của Cái Bang vây đánh Tạ Tốn mà y lại nói người của Minh giáo nhiều như thế nào, sau cùng y lại còn nói Hữu Lượng xả thân trượng nghĩa cứu y thoát chết ra sao. Y nói đến nước bọt bay tung và còn bảo bọn Tạ Tốn thấy Hữu Lượng chính khí như vậy cũng phải khen, nên bọn Tạ Tốn không dám ra tay chống cự nữa. Các đệ tử của Cái Bang có mặt ở đấy nghe Trịnh trưởng lão kể xong đều đồng lòng vỗ tay khen ngợi.

Truyền Công trưởng lão bỗng xen lời nói:

– Chú em họ Trần quả thật là trí dũng song toàn, chủ nghĩa khí khái như vậy thật là hiếm có!

Hữu Lượng liền vái chào và đáp:

– Ðệ được bang chủ với các trưởng lão đại ca dạy bảo cho, vì đại nghĩa của bổn bang, đệ dù có phải nhảy vào đống lửa cũng không hề từ chối. Việc nhỏ mọn như vậy, đệ đâu dám nhận lời khen của Trịnh trưởng lão! Các đệ tử của Cái Bang thấy y khiêm tốn như vậy, đã lập được công mà không nhận lấy công của mình nên cả bọn đều kính phục vô cùng!

Vô Kỵ ở trên cây càng nghe càng tức giận, và nghĩ thầm:

– Sao chúng lại vô sỉ đến thế? Rõ ràng là bán bạn cầu sống mà bây giờ lại dám nhận trượng nghĩa cứu người! Nhưng y cũng tài ba khéo giấu giếm thực! Y khéo đến nỗi chính Trịnh trưởng lão cũng không hề hay biết! Như vậy đủ thấy y là một tên gian hùng biết bao!

Nghĩ tới đó chàng lại rùng mình nghĩ tiếp:

– Gian nhân này lắm mưu kế thực! Lúc bấy giờ nghĩa phụ bị y lừa và cả ta cũng bị y lừa nốt, riêng có Triệu cô nương là không bị y lừa dối thôi!… Hà… Triệu cô nương thông minh đa tài, ngờ đâu nhân phẩm lại…

Tiếp theo đó chấp pháp trưởng lão cũng đứng dậy lạnh lùng nói:

– Bổn bang có rất nhiều anh em bị bọn ma đầu của ma giáo giết hại, mối thù này chúng ta phải trả cho kỳ được mới thôi!

Tất cả đệ tử của Cái Bang đều ồn ào nói:

– Chúng ta thề không sống chung với ma giáo, hễ thấy một tên ma giáo nào là giết luôn tên đó liền!

Chấp pháp chưởng lão nói với Hỏa Long rằng:

– Thưa Bang chủ, đệ tử cuả bổn bang đều phẫn uất như vậy, mong bang chủ ra lệnh cho, để tất cả anh em báo thù tuyệt hận.

Hỏa Long cau mày đáp:

– Việc này là một việc rất lớn của bổn bang, ừ, ừ, cần phải bàn tán kỹ lưỡng đã. Trưởng lão hãy bảo các bang chúng tử, các đệ tử bảy túi lui khỏi đại điện này, để chúng ta thương lượng qua rồi hãy tuyên bố cho họ hay sau.

Chấp pháp chưởng lão vâng lời liền quay đầu lại quát bảo các đệ tử rằng:

– Thừa lệnh bang chủ, các đệ tử từ bảy túi trở xuống hãy rút lui ra khỏi đại điện, ở ngoài cửa miếu đợi chờ.

Tất cả đệ tử củaCái Bang đều vâng lời ngay, rồi chúng vái chào Hỏa Long lần lượt lui ra khỏi đại điện.

Trên đại điện chỉ còn lại những đệ tử đeo tám túi trở lên thôi.

Hồi thứ 79

Chạy Trời Không Khỏi Nắng

Hữu Lượng tiến lên một bước cúi mình vái chào:

– Thưa bang chủ, chú em họ Tống này rất có công với bổn bang, nếu bang chủ cho phép thì chú ấy xin gia nhập bổn bang liền. Với thân phận và địa vị của chú ấy, sau này thế nào cũng lập được công lớn cho bổn bang.

Thanh Thư vội đỡ lời:

– Việc này hình như không…

Chàng vừa nói tới chữ không thì Hữu Lượng đã liếc mắt nhìn chàng. Thấy sắc mặt của Hữu Lượng hung ác như vậy, Thanh Thư vội cúi đầu xuống không nói nữa.

Hỏa Long liền đáp:

– Việc này hay lắm. Tống Thanh Thư gia nhập bổn bang hãy tạm ở địa vị đệ tử sáu túi và do Trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng thống lãnh. Vậy Thanh Thư phải tuân theo bang qui của bổn bang và hết sức làm việc cho bổn bang. Nếu sau này có công sẽ được thăng thưởng và có tội sẽ bị phạt ngay.

Thanh Thư nghe nói mặt có vẻ tức giận nhưng lại đè nén ngay.

Rồi chàng tiến lên quỳ lạy Hỏa Long và nói:

– Ðệ tử Tống Thanh Thư xin bái chào bang chủ, cám ơn bang chủ đã ra ơn cho đệ tử giữ địa vị sáu túi.

Nói xong y lại bái kiến các Trưởng lão, các Long đầu.

Chấp Pháp Trưởng lão liền bảo chàng rằng:

– Chú em họ Tống, chú đã ra nhập bổn bang, thì phải chịu đui luật của bổn Bang, sau này dù chú có làm đến người chưởng môn của phái Võ Ðang cũng vẫn phải tuân lệnh của bổn bang này như thường. Chắc chú em cũng biết rõ điều này chứ?

Thanh Thư đáp:

– Vâng!

Chấp Pháp Trưởng lão với giọng nghiêm nghị nói tiếp:

– Bổn bang với phái Võ Ðang tuy cùng là hiệp nghĩa đạo, nhưng dù sao hai bên tôn chỉ vẫn khác nhau. Ngôi chưởng môn của phái Võ Ðang sau này thế nào cũng lọt vào tay của chú. Vậy tại sao chú lại can tâm gia nhập bổn bang, chú phải nói rõ cho chúng tôi hay mới được.

Thanh Thư đưa mặt nhìn Hữu Lượng một cái và đáp:

– Trần Trưởng lão có ơn nghĩa rất lớn với đệ tử, đệ tử rất kính mộ Trần Trưởng lão nên mới đi theo như vậy.

Hữu Lượng vừa nói vừa đỡ lời:

– Nơi đây không có người ngoài chú cứ nói thẳng ra, không sao mà. Người chưởng môn của phái Nga Mi là Diệt Sư thái tạ thế rồi, người chương rmôn mới lại là một thiếu phụ xin đẹp họ Chu tên Chỉ Nhược. Nàng quen biết chú em họ Tồng từ hồi còn nhỏ, hai người lại có hôn với nhau từ trước. Ngờ đâu, nang lại bị đại Ma đầu Trương Vô Kỵ của Ma Giáo bắt mất đem đi hải ngoại. Chú em họ Tống tức giận vô cùng liền vấn kế tôi, chỗ anh em với nhau tôi vỗ ngực nhận lời thề giúp chú ấy cướp lại nàng nọ.

Vô Kỵ càng nghe càng tức giận và nghĩ thầm:

– Người này ăn nói bậy bạ, làm gì có chuyện như thế chứ?

Chàng không sao nín được định tung mình nhảy vào trong điện, trách mắng Hữu Lượng, nhưng rút cuộc chàng phải cố nén lửa giận để nghe tiếp.

Hỏa Long ha hả cười, rồi nói tiếp:

– Từ xưa đến nay anh hùng khó mà qua được quan ải mỹ nhân, như vậy khó trách được chú ấy. Một người là chưởng môn của phái Võ Ðang, một người là chưởng môn của phái Nga Mi, không những môn đăng hộ đối mà lại còn nam tài nữ sắc thật là xứng đôi vừa lứa lắm.

Chấp Pháp Trưởng lão lại lên tiếng hỏi:

– Chú em họ Tống sao không đi cầu Trương Tam Phong Chân nhân với Tống Ðại Hiệp can thiệp cho?

Hữu Lượng đỡ lời:

– Tống Thanh Thư có cho tôi hay gần đây phái Võ Ðang đã có ý bắt tay với Ma giáo, nên Trương Tam Phong với Tống Ðại hiệp không muốn gây với Ma giáo. Bây giờ trong võ lâm Trung Nguyên chỉ có bổn bang mới ngang tài và đối địch nổi với Ma giáo thôi.

Chấp Pháp Trưởng lão gật đầu xen lời nói:

– Phải đấy, muốn diệt được Ma giáo thì phải giết tiểu tử Vô Kỵ trước. Như vậy, chú em họ Tống thế nào chả toại nguyện.

Vô Kỵ ẩn núp trên cây nghĩ lại, năm năm nọ ở trong bãi sa mạc miền Tây Vực, và ở trên Quang Minh Ðỉnh, thái độ của Thanh Thư đối xử với Chỉ Nhược khác lạ như thế nào. Bây giờ chàng đem những chuyện dó ra dẫn chứng mới hay Thanh Thư đã có lòng yêu Chỉ Nhược từ lâu rồi.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Vì một thiếu nữ mà y dám phản bạn sự môn, bất hiếu với cha như vậy, thật không ngờ nhân phẩm của y lại tồi bại đến thế. Huống hồ Chỉ Nhược một lòng yêu ta như vậy, Thanh Thư dù có được Cái Bang giúp đỡ, cũng không thể nào ép buộc được nàng thuận lòng được. Thanh Thư đã có tiếng tăm trên giang hồ từ lâu rồi và được người ngoài ta khen ngợi là mầm non của phái Võ Ðang sau này rất có tương lai. Có ngờ đâu y lại ngu xuẩn đến thế.

Chàng đang nghĩ ngợi và thở than, lại nghe thấy Hữu Lượng lên tiếng nói tiếp:

– Thưa Bang chủ, đệ ở gần đại đô, bắt được một nhân vật trọng yếu của Ma giáo, tên đó rất có liên quan đến sự nghiệp lớn của bổn bang. Vậy xin bang chủ định đoạt cho.

Hỏa Long mừng rỡ nói:

– Mau đưa y ra đây.

Hữu Lượng vỗ tay ba cái rồi nói vọng vào bên trong:

– Dẫn Ma đầu nọ vào đây.

Vô Kỵ nghe thấy có nhân vật trọng yếu của bổn giáo bị Hữu Lượng bắt giữ, trong lòng rất quan tâm, đang lúc ấy chàng lại thấy phía sau điện có bốn tên đệ tử của Cái Bang tay cầm khí giới áp giải một người bị trói buớc ra.

Chàng nhìn kỹ thấy người đó là một thanh nhiên tuổi trạc hai mươi, mặt mũi rất quen thuộc. Chàng chợt nghĩ ra thanh niên này đã có lần gặp mình trong đại hội Minh Giáo ở Hồ Ðiệp Cốc, nhưng chàng không biết tên họ của y.

Thanh niên nọ vẻ mặt hậm hực khi đi qua cạnh Hữu Lượng đột nhiên y nhổ luôn một đống đờm vào mặt tên nọ.

Hữu Lượng vội né mình tránh rồi giơ tay lên tát luôn chàng kia một cái. Mặt chàng nọ sưng vù ngay.

Mấy tên đệ tử của Cái Bang liền đẩy lưng chàng ra một cái và quát mắng.

– Mau quỳ xuống vái lạy Bang chủ đi!

Người nọ lại nhổ luôn một đống nước bọt vào mặt Hỏa Long. Vì chàng đứng gần Hỏa Long và lần này chàng lại nhổ rất mạnh, nên dù Hỏa Long cúi đầu tránh né, vẫn không tránh kịp, chàng nhổ trúng luôn vào trán kêu đến “bộp” một tiếng.

Hữu Lượng đưa chân ra đá té chàng nọ, rồi đứng ở trước mặt Hỏa Long ngăn cản , chỉ tay vào mặt chàng nọ và quát hỏi:

– Người táo gan thật, chẳng lẽ ngươi không sợ chết hay sao?

Chàng nọ mắng chửi lại:

– Lão gia đã bị các ngươi bắt, lão gia quyết tâm không muốn sống nổi.

Trong khi Hữu Lượng che chở thì Hỏa Long đã dùng tay áo lau đống nước bọt trên trán. Nhờ vậy, y mới khỏi mất sỹ diện trước các thuộc hạ.

Hữu Lượng lùi lại hai bước nói với Hỏa Long rằng:

– Thưa Bang chủ, tiểu tử này là cao thủ hạng nhất trong Ma Giáo, võ công của y còn cao siêu hơn cả Tứ Ðại Hộ Giáo Pháp Vương nữa. Chúng ta không nên coi thường y.

Vô Kỵ nghe thấy Hữu Lượng nói như vậy, thoạt tiên chàng rất ngạc nhiên, nhưng chàng liền hiểu ngay sở dĩ Hữu Lượng có ý khoe khoang võ công của chàng nọ như vậy là muốn che xấu cho Bang chủ. Nhưng Hỏa Long là Bang chủ của Cái Bang mà tránh không khỏi đống nước bọt đó, kể cũng vô lý thật. Ðồng thời y bị nhục như vậy, mặ không lộ vẻ tức giận chút nào, trái lại còn kinh hoảng và cuống quýt là khác hình như lo sợ người ta phát hiện một bí mật trọng đại gì đó. Vô Kỵ đoán chắc bên trong thế nào cũng có ẩn tình gì đây.

Chấp Pháp Trưởng lão lên tiếng:

– Chú em họ Trần, người này là ai thế?

Hữu Lượng đáp:

– Người này họ Hàn, tên là Lâm Nhi, con trai của Sơn Ðồng.

Vô Kỵ gật đầu nghĩ thầm:

– Phải rồi, khi y tới dự đại hội ở Hồ Ðiệp Cốc, lúc nào cũng đứng cạnh cha y, nhưng y không nói chuyện với ta, nên ta mới không nhớ ra tên họ y?

Chấp Pháp Trưởng lão mừng rỡ nói tiếp:

– Ủa, y là con trai của Lâm Ðồng đấy à? Chú em họ Trần phen này công lao của chú lớn lắm. Thưa Bang chủ, mấy năm gần đây Hàn Sơn Ðồng đánh bại quân Nguyên mấy trận liến, nên tiếng tăm của chúng rất lừng lẫy, đại tướng thủ hạ của y như Chu nguyên Chương, Từ Ðạt, Thường Xuân các người đều là những nhân vật lợi hại của Minh giáo. Chúng ta bắt được thằng nhỏ làm con tin không sợ Hàn Sơn Ðồng không nghe lệnh của bổn Bang nữa.

Hàn Lâm Nhi lớn tiếng chửi:

– Các người đừng có nằm mơ nữa, cha ta là người anh hùng hào kiệt khi nào chịu những kẻ vô sỉ như các người uy hiếp? Cha ta chỉ nghe lệnh của một mình Trưởng giáo chủ thôi. Cái bang các người đừng mơ ước tranh bá hùng với Minh giáo chúng ta. Các ngươi không tự lượng chút nào. Bang Chủ của Cái Bang các ngươi không đáng xách dép cho Giáo chủ ta.

Hữu Lượng cười khúc khích đáp:

– Chú em họ Hàn, chú khen Trương Giáo chủ của quý giáo anh hùng lắm phải không? Tất cả anh em chúng tôi ở đây cũng ngưỡng mộ lắm, muốn gặp mặt cụ ấy một phen chẳng hay chú em có vui lòng giới thiệu ta với quý Giáo chủ không?

Hàn Lâm Nhi là người thực thà nhân hậu. Y không biết Hữu Lượng dụng kế lừa y để dò hỏi sự tình cho nên y liền đáp:

– Trương Giáo chủ phụ trách việc lớn của bổn giáo, anh em trong bổn giáo ít khi được gặp cụ ta. Như vậy làm sao mà có thì giờ tới đây gặp các ngươi được chứ?

Hữu Lượng vừa cười vừa nói tiếp:

– Theo những người trên giang hồ nói thì Vô Kỵ đã bị bắt và bị xử trảm ở Ðại Ðô rồi, vậy chú em ở đây nói dóc như thế làm chi nữa?

Hàn Lâm Nhi cả giận quát lớn:

– Ngươi không được nói bậy như vậy, khi nào quân Mông Cổ bắt nổi Trương Giáo Chủ của ta, dù thiên binh vạn mã vây chặt, Giáo chủ ta cũng ra vào như thường. Trương Giáo chủ đi Ðại Ðô là để cứu sáu nhân vật của sáu đại môn phái chứ có bị xử trảm gì đâu, ngươi chớ có nói bậy.

Hữu Lượng không tức giận gì cả, khúc khích cười như thường và trả lời tiếp:

– Nhưng người trên giang hồ đều nói như thế, chính tôi đây cũng không tin. Nhưng tại sao nửa năm nay chỉ nghe thấy trong Minh Giáo có Hàn Sơn Ðông, Từ Thọ Huy, Chu Nguyên Chương, Lưu Phúc, Thông, Bành, Danh, hòa v. v.. chứ không nghe thấy ai nói tới Trương Vô Kỵ hết. Như vậy đủ thấy y đã chết rồi chứ không sai.

Hàn Lâm Nhi mặt đỏ bừng, gân xanh nổi đầy trán, lớn tiếng quát tháo:

– Cha ta với Từ Thọ Huy các người đều thừa lệnh Giáo Chủ hành sự, vậy cha ta với các người so sánh với Trương Giáo Chủ sao được? Thế nào cũng có một ngày Trương Giáo Chủ ở hải ngoại về và cho các ngươi biết võ công lợi hại của cụ như thế nào?

Hữu Lượng gật đầu nói tiếp:

– À, thế ra Trương Giáo Chủ đi hải ngoại đấy, có lẽ Trương Giáo Chủ đi đón nghĩa phụ của y là Kim Mao Sư vương phải không?

Lâm Nhi nghe nói, biết ngay là lỡ lời, mồm cứ há hốc, không sao ngậm lại và cũng không sao nói nên lời.

Hữu Lượng lại ung dung nói tiếp:

– Võ công của Trương Vô Kỵ kể cũng khá đấy, nhưng bộ mặt của y trông rất non yếu, có người đã coi tướng cho y rồi, bảo y không thể sống tới đầu năm nay…

Y vừa nói tới đó thì cây Cổ Bách ở ngoài sân liền khẽ rung động một cái, nhưng người trong điện không ai biết gì cả.

Vô Kỵ chợt nghe thấy sau cành cây rung động đó có mấy tiếng thở rất nhẹ, nhưng người ấy lại nín lại được ngay, chàng liền nghĩ thầm:

– Thế ra trên cây Cổ Bách này cũng có người đang núp, người này còn tới trước ta nhiều. Vậy tại sao ta không hay biết gì cả, đủ thấy võ công của người này cao minh lắm.

Chàng vừa nghĩ vừa đưa mắt qua những cành lá, thấy áo của người nọ màu xanh, mới hay người đó ẩn núp rất khéo và màu áo lại cùng màu với thân cây, nếu mắt chàng không sắc thì không sao phát giác được.

Hàn Lâm Nhi lại giận dữ nói tiếp:

– Trương Giáo chủ là người nhân đức, ông trời thế nào cũng phù hộ cho ông ta sống đến trăm tuổi.

Hữu Lượng thở dài một tiếng rồi trả lời:

– Nhưng lòng người ở trên đời khó mà đo lường lắm. Nghe nói y ở hải ngoại bị kẻ gian, dùng kế bắt trói trao cho chiều đình xử trảm. Sự thực câu chuyện như thế nào cũng chẳng có gì là lạ hết, vì ai đã gặp mặt Vô Kỵ rồi cũng đều bảo y không thể sống tới hai mươi bốn tuổi.

Y đang thao thao bất tuyệt thì bỗng trên cây Cổ Bách có ánh sáng lấp lánh, và có một người phi thân xuống đất, mồm quát lớn:

– Trương Vô Kỵ ở đây, ai dám bảo ta chết non chết yểu thế nào?

Người đó chưa nói dứt đã nhảy vào trong điện.

Trưởng lão đang đứng ở trước cửa điện liền giơ hai tay ra định chộp cổ người đó, nhưng người đó lẹ làng vô cùng, chỉ né mình một cái đã tránh được liền.

Vô Kỵ nhận ra người đó mặc xanh, đầu đội khăn vuông trông rất tao nhã, mặt trắng như ngọc, hai mắt trong suốt, chính là Triệu Minh, ăn mặc giả trai chứ không phải là ai xa lạ.

Vô Kỵ đột nhiên thấy Triệu Minh hiện ra giật mình khing hãi, trong lòng vừa tức giận vừa ngạc nhiên, vừa yêu lại vừa mừng. Chàng không sao trấn tĩnh được ủa một tiếng, nhưng may lúc ấy tất cả những người trong cái bang đang chăm chú nhìn Triệu Minh, nên không ai nghe thấy, Hữu Lượng gặp Vô kỵ một lần từ hồi còn nhỏ, nhưng từ đó tới giờ, thời gian cách biệt đã quá lâu, nên y không sao nhớ được mặt mũi của chàng.

Sau đó ở trên Linh Xà Ðảo, y có gặp Vô Kỵ và Triệu Minh lần thứ hai nhưng lúc ấy Vô Kỵ và Triệu Minh dán râu giả cải trang làm người của Cự Kim Bang, vì thế mặt thật của chàng như thế nào y không thể nhớ ra được.

Còn Sử Hỏa Long và các người khác chưa gặp chàng bao giờ thì làm sao biết mặt chàng ra sao? Chúng chỉ nghe nói Giáo chủ của Minh giáo là một thiếu niên tuổi trạc hai mươi, võ côngông rất cao.

Vừa rồi chúng thấy Triệu Minh tránh được thế chộp của Trưởng lão, thân pháp rất lanh lẹ, quả thật là cao thủ nhất hạng nên chúng đã tin đến bốn thành rồi.

Nhưng Hữu Lượng thấy mặt nàng đẹp quá, tuổi quá trẻ, giọng nói lại lanh lảnh, khác hẳn giáng điệu của Vô Kỵ mà người trên giang hồ đồn đại, nên y mới hoài nghi liền quát hỏi:

– Trương Vô Kỵ chết từ lâu kia rồi, sao lại có tên giả mạo này ra đây vậy?

Triệu Minh giận dữ đáp:

– Vô Kỵ còn sống sót hẳn hoi sao ngươi chửi rủa hoài như thế. Trương Vô Kỵ hồng phúc tề thiên, sống lâu muôn tuổi, khi các ngươi chết tận chết tuyệt, ông ta vẫn còn sống tám mươi năm nữa.

Vô Kỵ nghe thấy giọng của nàng rất bi đát, hình như là nàng bị lương tâm cắn rứt vì đã bỏ mình ở trên hoang đảo, nhưng chàng lại nghĩ lại:

– Con người thâm độc và nhẫn tâm như nàng thì còn lương tâm đâu nữa mà cắn rứt! Vô Kỵ ơi sao ngươi vẫn vòn luyến tiếc nàng mãi như thế làm chi?

Hữu Lượng lại hỏi tiếp:

– Ngươi là ai thế?

Triệu Minh đáp:

– Ta là Trương Vô Kỵ, giáo chủ của Minh Giáo, sao ngươi lại dám bắt anh em thủ hạ của ta? Có mau tha cho y không, có việc gì thì cứ nói với ta đây.

Bỗng nghe thấy một người bên cạnh nói:

– Triệu Minh, người khác thì không biết cô nương chứ Thanh Thư này thì biết rõ cô lắm, người khác không biết Vô Kỵ chứ Thanh Thư này thì biết rõ lắm. Thưa Bang chủ, thiếu nữ này chính là Minh Minh Quận chúa, con gái của Nhữ Dương Vương, thủ hạ của nàng có rất nhiều cao thủ, chúng ta nên đề phòng mới được.

Chấp pháp Trưởng lão liền huýt còi miệng một cái, mồm thì quát lớn:

Mau dẫn các anh em ra ngoài miếu nghênh chiến, đề phòng kẻ địch tấn công vào trong này.

Trưởng lão vâng lời đi luôn.

Chỉ trong nháy mắt, Ðông, Tây, Nam, Bắc bốn phương đều có tiếng hò hét của đệ tử Cái Bang. Triệu Minh thấy thanh thế của chúng hùng hậu như vậy, mặt cũng phải biến sắc, liền vỗ tay một cai có hai người ở đầu tường nhảy xuống tức thì.

Hai người đó chính là Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách và Hạt Bút ông.

Chấp pháp trưởng lão liền quát lớn:

– Mau bắt lấy mấy tên này.

Y vừa nói dứt lời, có bốn tên đệ tử bảy túi, chia nhau xông lại vây đánh Lộc, Hạt nhị lão. Huyền Minh song lão, võ công rất kỳ lạ, chỉ đấu có ba thế đã đánh cho bốn tên đệ tử kia bị thương liền.

Truyền Công trưởng lão râu tóc bạc phơ, liền đứng dậy múa chưởng xông đến tấn công Hạt Bút Ông.

Chưởng đó của y rất mạnh, phát những tiếng gió kêu vù vù. Vô Kỵ ở trên cây trông thấy rõ, nhận ngay ra thế chưởng của Truyền Công trưởng lão là thế Kiến Long tại điền trong pho Giáng Long thập bát chưởng.

Năm xưa, Tạ Tốn truyền thụ chàng ở trên Băng Hỏa đảo mấy thế chưởng cũng có một giống thế chưởng này. Nhưng vì chàng chưa biết rõ ý nghĩa của chưởng pháp nên lúc xử dụng không được giống lắm. Chàng không ngờ lão ăn mày già này lại biết thế chưởng tuyệt kỹ của Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công như thế.

Hạt Bút Ông biết chưởng pháp của địch rất lợi hại, liền giở hết công lực của mình ra, dùng thế Huyền Minh thần chưởng thuộc về chí âm chí như.

Cả hai đều học tập mấy chục năm võ công, đều đã luyện tới mức chín thành công lực, nên cả hai đều ngang tài nhau.

Truyền Công trưởng lão liền thấy có một hơi lạnh truyền vào gan bàn tay, cứ truyền theo cánh tay, mà chảy lên đầu.

Còn Hạt Bút Ông cũng thấy huyết khí trong người đảo lên, liền kinh hãi thầm và trợn trừng mắt lên nhìn đối phương, y thấy Truyền Công trưởng lão mặt tỏ vẻ đau đớn, hai mắt đỏ ngầu như máu, và đang vận công chống đỡ lại hơi lạnh vừa bị truyền vào người. Y mừng rỡ nghĩ thầm:

– Ta còn tưởng ngày hôm nay gặp một kình địch, thì ra tài ba của y còn kém ta nửa mức.

Vì vậy y không đợi chờ đối phương vận công xưa đuổi được hơi âm độc ra ngoài, đã tiến lên một bước, giơ chưởng lên tấn côngông thêm một thế nữa. Chưởng lực của y đi tới đâu là hơi lạnh bao trùm tới đó và phạm vi bao trùm đó rất lớn rộng, nên đối phương chỉ còn một cách là giơ tay lên chống đỡ chớ không sao tránh né được. Bất đắc dĩ Truyền Công trưởng lão phải giở thế Giáng Long thập bát chưởng ra để chống đỡ tiếp. Chưởng lực của hai người tuy có phân biệt cương như, nhưng công lực thì ngang nhau, chưởng pháp của Truyền Công chưởng lão do Hồng Thất Công truyền thụ cho, thuộc về võ học thuần quang minh chính đại, còn Huyền Minh thần chưởng thì bên trong nó bao hàm một luồng âm độc hàn khí.

Truyền Công trưởng lão đối chưởng với Hạt Bút Ông, vì ngang sức nhau nên không thua thiệt gì hết, những mỗi khi đối chưởng xong, y phải vận công xưa đuổi chất hàn độc ra ngoài. Y phải làm như thế, hao công lực rất nhiều cho nên đấu chưởng xong thế thứ ba thì y đã có vẻ kém hẳn đối phương.

Về phía Lộc Trượng Khách lão múa cây lộc giác trượng, một mình ứng đối với Chấp Pháp trưởng lão và Trưởng bát Long đầu, nhất thời hai vbên không phân thắng bại. Trưởng bát Long đầu thấy mặt Truyền Công trưởng lão đỏ ngầu và cứ lùi bước lia lịa, trong lòng kinh hãi thầm, liền nghĩ:

– Truyền Công trưởng lão đã học được mười hai chưởng của pho Giáng Long thập bát chưởng, công lực cái thế và cũng là đệ nhất cao thủ của bổn Bang, tại sao y lại địch không nổi lão già kia?

Y thấy Truyền Công trưởng lão đấu tới chưởng thứ bảy, hơi thở đã hồng hộc, râu bay phấp phới, có vẻ bị đánh bại đến nơi.

Tuy y biết xưa nay Truyền Công trưởng lão đấu với ai, không thích đồng bọn ra tay giúp, nhưng với hoàn cảnh hiện tại nếu mình không trợ chiến thì Truyền Công trưởng lão thế nào cũng bị giết chết và sẽ bị mất đi một anh tài.

Nghĩ đoạn, y liền múa cây gậy trúc xông vào, nhắm chân của Hạt Bút Ông quét ngang một cái, bổng pháp của y tuy chưa thần diệu bằng đả cẩu bổng pháp của Hồng Thất Công, nhưng các đệ tử của Cái Bang chưa ai học được Bổng pháp như y.

Nhờ có Trưởng bản Long đầu tham chiến, Truyền Công trưởng lão mới có cơ hội nghỉ ngơi đôi chủ và cũng nhờ vậy mới chống nổi Hạt Bút Ông.

Khi Huyền Minh nhị lão nhảy xuống dưới đất, Triệu Minh đã định rút lui.

Ngờ đâu Hữu Lượng đã rút trường kiếm ra ngăn cản.

Khi ở chùa Vạn Pháp, Triệu Minh đã học được những võ công tinh tuý của sáu đại môn phái, nên nàng đưa tay về phía sau đâm “soẹt, soẹt, soẹt” ba kiếm, một kiếm đầu là Hoa Sơn kiếm pháp, thứ hai là Côn Luân kiếm pháp và kiếm thứ ba là kiếm pháp tuyệt học của phái Không Ðộng.

Tiếp theo thế kiếm thứ tư của nàng đâm ra lại là Giáng Ma của thức của phái Nga Mi. Hữu Lượng thấy vậy kinh hãi vô cùng, không sao chống đỡ nổi.

Triệu Minh liền múa kiếm, nhằm ngực Hữu Lượng đâm. Nàng thấy kiếm đó sắp đâm thủng ngực đối thủ bỗng nghe thấy kêu “cong” một tiếng. Thì ra phía bên trái có một thanh kiếm đâm tới gạt kiếm của nàng sang bên.

Người đâm thế kiếm đó chính là Tống Thanh Thư.

Mọi người đại chiến trên đại điện, Vô Kỵ ẩn núp ở trên cây cổ thụ trông thấy rất rõ, chàng thấy Thanh Thư gở Võ Ðang kiếm pháp ra, vừa vững chắc vừa ác độc, chứng tỏ Thanh Thư đã học được hết chân truyền của Tống Viễn Kiều.

Ngoài ra lại còn có Hữu Lượng là đệ tử phái Thiếu Lâm, ở cạnh trợ giúp, nên Triệu Minh tuy học được rất nhiều thế kiếm tuyệt diệu thật nhưng phải địch với hai, mà đối thủ lại là đệ tử có võ rất cao cường của Thiếu Lâm và Võ Ðang, nên càng kéo dài thời gian bao nhiêu càng bất lợi cho nàng bấy nhiêu.

Vô Kỵ lo âu nghĩ:

– Tại sao nàng chỉ sử dụng một thanh kiếm tầm thường như thế thôi. Nếu nàng đem Ỷ Thiên kiếm ra thì thể nào cũng chém gãy được kiếm của hai kẻ địch và thoát khỏi vòng vây ngay.

Chàng thấy quần áo của nàng ta rất mỏng, thân hình ẻo lả, phía đằng sau chỗ ngang lưng, nếu có giấu ỷ Thiên kiếm thì thế nào cũng trông thấy ngay, nên chàng càng lo âu thêm và tự trách thầm:

– Vô Kỵ ơi, Vô Kỵ, tiểu yêu nữ này là hung thủ giết hại biểu muội của ngươi, nếu y thị có bị Thanh Thư giết chết đi chăng nữa, cũng tựa như tên nọ báo hộ thù cho em họ mình, hà tất ngươi phải lo âu cho y thị như thế làm chi, quyến luyến y thị làm chi? Như vậy ngươi không những có lỗi với em họ mà còn có lỗi với nghĩa phụ và Chỉ Nhược nữa.

Mọi người ở trên đại điện đấu thêm một hồi nữa, bên Cái Bang lại có thêm người nhẩy vào vòng.

Còn bên Triệu Minh thì không có ai nhảy vào cứu viện hết.

Lộc Trượng Khách thấy tình thế quá nguy ngập, liền lớn tiếng kêu gọi:

– Quận chúa nương nương, chú Hạt Bút Ông chiến mãi mà vẫn chưa đắc thắng, chi bằng chúng ta hãy lui ra ngoài sân, rồi thừa cơ mà đào tẩu thì hơn.

Triệu Minh đáp:

– Phải, tên họ Trần này nói xấu Trương công tử, y rủa Trương công tử chết yểu và bất đắc kỳ tử, vì thế ta không sao nhịn được, vậy trước khi rút lui, các ngươi phải diệt tên ấy đi mới được.

Huyền Minh nhị Lão đều đồng thanh:

– Xin tuân lệnh, nương nương hãy rút lui trước đi, xin giao tiểu tử đó cho tôi.

Triệu Minh lại tiếp:

– Hàn Lâm Nhi là người rất trung thành với Trương công tử, các ngươi phải nghĩ cách cứu y ra khỏi chốn này mới được.

Lộc Trượng khách đáp:

– Mời nương nương cứ đi trước, còn việc cứ người thì cứ để anh em chúng tôi tuỳ cơ ứng biến.

Trong khi bị cường địch vây đánh như thế mà ba người còn bàn tán rút lui và cứu người, hình như không coi kẻ địch ra gì vậy.

Trong khi mọi người đang đấu kịch liệt như vậy, Sử Hỏa Long Bang chủ của Cái bang đứng ở góc điện, không nói năng gì hết.

Truyền Công, Chấp Pháp nhị trưởng lão nghe Triệu Minh nói Huyền Minh nhị lão nói như vậy, liền ra lệnh cho đệ tử bao vây chặt chẽ không cho ba người này tẩu thoát.

Ðột nhiên, Lộc Trượng Khách và Hạt Bút Ông đánh mạnh đẩy lui mấy đối thủ, rồi chạy tới chỗ Hỏa Long đang đứng.

Sự thể biến chuyển một cách đột ngột và nhanh kỳ lạ.

Võ công của Hỏa Long có cao siêu đến đâu cũng khó chống nổi khi nhị lão cùng tấn công một lúc.

Ngờ đâu Hữu Lượng thấy Triệu Minh nói chuyện với nhị lão, biết trước nhị lão cũng lấy tiến làm thoái cho nên y đã đi vòng tới cạnh Sử Hỏa Long trước.

Vì vậy chưởng lực của nhị lão chưa đánh tới, y đã đẩy vai Sử Hỏa Long một cái thật mạnh. Tên Bang chủ ấy bị đẩy bắn về phía sau tượng Di Lặc.

Chưởng lực của nhị lão cũng vừa tấn công tới, nên chỉ nghe thấy kêu “bộp” một tiếng, tượng Phật to lớn như thế mà đã lung lay như sắp đổ.

Hạt Bút Ông lại tiến lên một bước, đánh bồi một chưởng nữa, tượng Phật cao hai trượng liền ngã ngay.

Bọn đệ tử Cái bang đều kinh hãi vừa kêu la vừa chạy tán loạn để tránh né.

Nhân lúc đệ tử của Cái bang chạy loạn xạ, Triệu Minh đã nhảy ra giữa sân rồi.

Thanh Thư với Trưởng bản Long đầu, kẻ múa kiếm người múa gậy tung mình đuổi theo. Bỗng nhiên trong cửa miếu có ba chiếc gậy phi ra, nhằm chân Triệu Minh quét tới.

Triệu Minh đang mải chống đỡ đường kiếm và gậy của Trưởng bản Long đầu, nên nàng chỉ tránh nổi hai chiếc gậy thôi, còn chiếc gậy thứ ba thì trúng ngay vào mắt cá bên chân trái của nàng, làm nàng không sao đứng vững liền té lăn ra đất liền.

Thanh Thư xoay đầu kiếm lại, giơ cán kiếm lên, nhắm sau ót nàng đánh xuống, định đánh nàng chết giấc để bắt sống.

Thanh Thư thấy cán kiếm của mình chỉ còn cách nửa thước là đánh trúng đầu Triệu Minh, thì bỗng chiếc gậy trúc ở trong tay Trưởng bản Long đầu đưa tới gạt kiếm y sang bên.

Rồi y lại thấy một bóng người phi lên nhảy ra ngoài bờ tường luôn.

Y quay người hỏi Trưởng bản Long đầu rằng:

– Tại sao Trưởng lão lại buông tha y thị như vậy?

Trưởng bản Long đầu giận dữ đáp:

– Tại sao ngươi lại gạt gậy trúc của ta trước?

Thanh Thư cải lại:

– Chính Trưởng lão đã dùng gậy gạt cán kiếm của tôi ra trước mà, bây giờ còn nói như vậy…Còn cãi vã làm chi, mau đuổi theo đi.

Thế rồi hai người nhảy ra ngoài tường. Chúng thấy ở góc tường có một đệ tử bẩy túi bị quật gãy xương chân, không sao bò dậy được.

Trưởng bản Long đầu vội tiến lại hỏi:

– Yêu nữ đó đào tẩu về phía nào thế?

Bên ngoài tường có bảy tám tên đệ tử canh gác quanh đó đồng thanh đáp:

– Chúng con không thấy gì hết và không thấy một người nào nhảy ra bên ngoài cả.

Trưởng bản Long đầu càng tức giận thêm, liền quát lớn:

– Vừa rồi rõ ràng có người ở bên trong nhảy ra, bộ các ngươi mù hết rồi sao?

Một tên đệ tử mang sáu túi vội đỡ đệ tử bảy túi bị què kia dậy và đáp:

– Vừa rồi chúng con chỉ thấy đại ca này nhẩy ra thôi, chớ ngoài ra không thấy ai hết.

Trưởng bản Long đầu vội giơ tay lên gãi đầu và hỏi người đệ tử bảy túi rằng:

– Tại sao ngươi nhảy ra ngoài tường làm chi?

Ðệ tử bảy túi đó nghẹn ngào đáp:

– Con… bị người ta ném ra ngoài này, không hiểu yêu nữ ấy dùng yêu pháp quái dị gì mà ném con mạnh như vậy?

Trưởng bản Long đầu quay lại nhìn Thanh Thư, vẻ mặt giận dữ và nói tiếp:

– Vừa rồi ngươi dùng cán kiếm gạt gậy trúc của ta để làm chi? Ngươi mới nhập bổn bang mà đã định phản bội ư?

Thanh Thư vừa kinh hãi vừa tức giận đáp:

– Ðệ tử đang định dùng cán kiếm đập vào đầu con yêu nữ thì Trưởng lão đã dùng gậy trúc gạt kiếm của đệ tử sang bên, nên yêu nữ mới đào tẩu được, sao Trưởng lão còn nói thế?

Trưởng bản Long đầu lại càng tức giận thêm:

– Nói bậy nào. Ta gạt cán kiếm của ngươi sang bên để làm chi? Ta ở trong bổn Bang mấy chục năm , gây nên bao nhiêu công trạng mới được thăng chức Trưởng bản này, chẳng lẽ ta còn phản Bang mà trợ giúp người ngoài hay sao? Ta hãy hỏi ngươi, tại sao ngươi không dùng mũi kiếm đâm y thị mà lại xoay ngược đầu kiếm như thế? Ngươi giả bộ làm ra như thế phải không? Hừ hừ, mắt lão gia này có hoa đâu, ngươi giấu giếm ta sao được?

Thanh Thư ở trong phái Võ Ðang tuy chỉ là đệ tử đời thứ ba, nhưng các môn hạ của Võ Ðang đều biết y là người chưởng môn trong tương lai, nên cả Liên Châu và Tòng Khê sư thúc của y cũng phải kiêng nể.

Xưa nay, không bao giờ nói nặng y nửa lời. Không ngờ y bị Hữu Lượng kiềm chế, bất đắc dĩ phải gia nhập Cái bang như vậy, y là người quen kiêu ngạo, tuy biết địa vị của Trưởng bản Long đầu cao hơn y là người mới gia nhập Cái Bang nhiều, nhưng việc này rõ ràng là lỗi ở Trưởng lão, nhưng y nhất định không chịu nhịn liền lên tiếng cãi lại ngay:

– Bảo tôi phản bội phải không? Long đầu đại ca không nên nói bậy như vậy. Ðại ca trách đệ tử như vậy phải có bằng chứng mới được chứ. Vừa rồi đệ tử dùng cán kiếm gõ mạnh xuống, rõ ràng đại ca dùng gậy trúc gạt ra, chẳng lẽ dưới thanh thiên bạch nhật không có ai trông rõ sao?

Trưởng bản Long đầu nghe thấy Thanh Thư nói như vậy rõ ràng đổ oan cho y và còn bảo y buông tha Triệu Minh chứ không phải y, nên y vừa nghe xong, liền nổi giận quát to:

– Tiểu tử này, mi không biết tôn kính người già cả, có phải ngươi ỷ thanh thế của phái Võ Ðang mà làm bộ tịch như thế phải không?

Nói xong, y liền múa gậy nhắm đầu Thanh Thư đánh luôn, trong khi tức giận, sức của y mạnh vô cùng.

Thanh Thư cũng không sao nhịn được, liền giơ tường kiếm lên chống đỡ, không hiểu trong chiếc gậy trúc có gì mà cứng rắn lạ thường nên trường kiếm của Thanh Thư không sao chặt gẫy nổi, trái lại y còn thấy hổ khẩu tay hơi đau nhức.

Lúc này y mới biết công lực của Trưởng bản Long đầu thâm hậu và mạnh hơn mình nhiều.

Trưởng bản Long đầu bị trường kiếm của Thanh Thư gạt ngang gậy mình một cái, cũng thấy cánh tay hơi tê tái, nên y cũng kinh hãi, liền quát tiếp:

– Họ Tống kia, mi dám phạm thượng gây loạn như vậy. Có phải mi là gian tế của kẻ địch phái tới đây dò xét không?

Nói xong, y lại tấn công luôn bổng thứ hai.

Trong miếu đột nhiên có một người xông ra giơ kiếm gạt luôn cây gậy trúc sang bên và nói:

– Long đầu đại ca xin chớ nổi giận như vậy.

Người đó không là ai xa lạ mà chính là Trần Hữu Lượng, trưởng lão mang tám túi. Trưởng lão Long đầu tức giận đến thở hồng hộc và đáp:

– Chú em họ Trần mau lại đây làm trọng tài cho ngu huynh.

Hữu Lượng hỏi:

– Tiểu yêu nữ Triệu Minh đâu rồi?

Trưởng bản Long đầu chỉ mặt Thanh Thư và đáp:

– Chính y đã buông tha yêu nữ ấy đấy.

Thanh Thư vội cãi:

– Không, chính Long đầu đại ca đã buông tha y thị.

Hai người đang cãi vã thì Huyền Minh nhị lão đã ở trong miếu phi thân ra, đưa mắt nhìn bốn chung quanh, không thấy Triệu Minh đâu cả.

Nhị lão biết Quận chúa nương nương đã thoát thân rồi, liền cười ha hả, múa chưởng tấn công luôn, liền có bốn tên đệ tử của Cái bang bị đánh té lăn ra đất tức thì.

Chờ tới khi Truyền Công trưởng, Chấp pháp trưởng lão và Trưởng bản Long đầu đuổi theo ra thì Lộc Trượng Khách và Hạt Bút Ông hai người đã bỏ đi xa rồi.

Chỉ nghe thấy tiếng cười hi hi của hai người ở ngoài xa hơn hai dặm vọng lại.

Trưởng bản Long đầu càng tức giận thêm, tiếng quát tháo kêu như sấm động:

– Tất cả mọi người mau đuổi theo đi.

Hữu Lượng liền đỡ lời:

– Thôi, Long đầu đại ca nên đề phòng kẻ địch còn mai phục ngầm quanh đây.

Trưởng bản Long đầu mới tỉnh ngộ, liền giật mình kinh hãi và nghĩ thầm:

– Tại sao ta hồ đồ đến thế? Riêng hai lão già đó đã làm đảo lộn hết cả Cái bang của chúng ta và có rất nhiều người chết chóc và bị thương rồi. Ta bây giờ một mình đuổi theo thì làm sao mà địch nổi chúng?

Nghĩ đoạn, y tỏ vẻ cảm ơn Hữu Lượng ngăn cản như vậy, và nhờ đó mới đỡ giận Thanh Thư phần nào.

Nên rõ công lực của Huyền Minh nhị lão lợi hại khôn lường, vừa rồi nhị lão đại náo miếu Di Lặc đã khiến cho tất cả đệ tử của Cái bang đều kinh hồn mất vía.

Tuy nhiên chỉ hai anh em nhị lão, nếu còn ở lại đấu thêm thì tất nhiên cũng quả bất địch chúng.

Nhưng Cái bang không biết đối phương thực hư ra sao, nên chúng mới tưởng tượng đối phương còn có một nhóm cao thủ nữa đang mai phục bên ngoài.

Chấp pháp trưởng lão sau đó kiểm điểm các đệ tử bị tử thưởng, thấy có tất cả mười một người bị Huyền Minh nhị lão giết chết, có bảy người bị thương nặng.

Khi thần tượng Di Lặc đổ xuống lại có tới bảy tám người bị đè nữa.

Chấp pháp trưởng lão liền phái người tới cứu chữa cho các đệ tử bị thương, và ra lệnh cho Trưởng bản Long đấu đem theo các đệ tử của phái Tịnh Y đi tìm kiếm tung tích của kẻ địch ở chung quanh về sau miếu, hễ có cái gì khác lạ thì báo động cho mọi người biết ngay.

Hãy nói Triệu Minh, quý vị có biết nàng đi đâu không?

Thì ra Vô Kỵ thấy nàng bị Trưởng bản Long đầu và Thanh Thư vây đánh, sau cùng còn bị một gậy trúc của một đệ tự Cái bang đánh trúng mắt cá mà té ngã, Thanh Thư lại xoay đầu kiếm nhằm sau ót nàng đánh xuống, nếu để cho y đánh trúng cán kiếm đó, dù đánh nhẹ nàng cũng bị chết ngất, còn như nếu y đánh mạnh thì nàng sẽ toi mạng chứ không sai.

Nên chàng không kịp nghĩ ngợi gì hết, vội từ trên không tung mình nhảy xuống, giở ngay Càn Khôn Ðại Na Di tâm pháp ra, ở phía sau đẩy luôn chiếc gậy trúc của Trưởng bản Long đầu, khiến đầu gậy kia hất trường kiếm của Thanh Thư sang bên.

Càn Khôn Ðại Na Di tâm pháp của chàng đã thần diệu khôn tả. Ðồng thời mấy tháng nay ở trên đảo vô cùng vô nghệ, chàng lại đem bí quyết của Thánh hỏa lệnh mà Tiểu Siêu đã dịch ra nghiên cứu, khiến hai thứ tâm pháp và thần công thần diệu đó, kết hợp với nhau, võ công của chàng lại càng quái dị hơn võ công của ba sứ giả Ba Tư đã sử dụng và còn cao minh gấp mười là khác.

Lúc càng đột nhiên sử dụng võ công quái dị đó, tuy đối thủ là Trưởng bản Long đầu và Tống Thanh Thư lợi hại như vậy mà cũng không hay biết được.

Trưởng bản Long đầu lại tưởng Thanh Thư gạt gậy trúc của mình sang bên còn Thanh Thư thì rõ ràng thấy gậy của Trưởng bản Long đầu giơ ra gạt cây kiếm của mình. Nhân lúc hai địch thủ đang kinh hãi thì Vô Kỵ đã dùng tay trái chộp lấy cổ một tên đệ tử bẩy túi ném luôn ra ngoài tường, khiến Trưởng bản Long đầu và Tống Thanh Thư càng không hoài nghi. Chúng thấy có một bóng người vượt qua, nên chúng cho rằng Triệu Minh đã đào tẩu đi rồi, vì vậy chúng mới đuổi theo ra bên ngoài.

Vô Kỵ chờ chúng đi khỏi liền ung dung ẳm Triệu Minh lên và giở khinh công tuyệt đỉnh ra nhảy lên trên nóc điện.

Lúc ấy khinh công của chàng luyện tới mức xuất thần nhập hoá, tay ẳm một người mà vẫn đi nhanh như chim bay. Lúc ấy là buổi chiều, dưới thanh thiên bạch nhật, dù vật nhỏ đến đâu cũng không ẩn mình được, nhưng các đệ tử của Cái bang đã ùa theo Trưởng bản Long đầu và Tống Thanh Thư đuổi theo ra ngoài cổng miếu nên chẳng ai hay biết gì hết.

Lại nói trong lúc hiểm nguy, Triệu Minh bỗng thấy có người ra tay cứu mình và người mình lại bị một cánh tay rất mạnh ôm chặt. Rồi nàng lại thấy mình tựa như lơ lửng trên mây, lướt đi trên đỉnh miếu. Nàng quay đầu lại nhìn, dưới ánh sáng mặt trời trông thấy rõ mặt người giúp mình rất đẹp mới hay người đó chính là Trương Vô Kỵ.

Nàng không dám tin là sự thực, liền trợn tròn xoe đôi mắt lên nhìn và hỏi:

– Có phải là công tử đó không?

Vô Kỵ vội đưa tay lên bịt mồm nàng lại. Chàng ngó bốn chung quanh thấy tả hữu trước sau miếu đều có đầy đệ tử của Cái bang. Muốn cứu Triệu Minh thoát thân không khó, nhưng chàng biết rõ Cái bang đang mưu đồ đối phó Minh Giáo và Tống Sư ca của phái Võ Ðang lại gia nhập Cái bang, nếu không dọ thám rõ sự thể mà bỏ đi ngay thì thực đáng tiếc. Chàng lại thấy Thanh Thư với Trưởng bản Long đầu đang cãi nhau, Trưởng bản mặt đã lộ hung quang, nên chàng đoán chắc trong Cái bang thế nào cũng có rất nhiều kẻ nham hiểm, chưa biết chừng Thanh Thư sẽ bị chúng giết chết. Huống hồ Hàn Lâm Nhi lại là người rất trung thành với Minh Giáo, mình càng cần phải cứu y thoát nạn mới được. Tiếp theo đó chàng thấy trong đại điện cát bụi bay mù mịt.

Chàng vội nghĩ thầm:

– Chi bằng ta mạo hiểm lẻn vào trong tìm chỗ ẩn nấp có hơn không?

Nghĩ đoạn, chàng liền nhảy về phía trước đi về phía mái hiên, hai chân móc chặt mái hiên, đu người xuống bên dưới, rồi chàng đạp mạnh hai chân một cái, người chàng đã phi vào trong pho tượng Phật ở bên trái liền.

Chàng thấy Sử Hỏa Long, Truyền Công Chấp Pháp trưởng lão và mọi người đều đuổi theo ra ngoài cửa miếu cả rồi.

Trong điện chỉ còn mấy tên đệ tử của Cái bang đang bị thương bởi tượng Phật đè lên. Còn Hàn Lâm Nhi thì không biết chúng đã đem y đi đâu, chàng đưa mắt nhìn bốn chung quanh tìm kiếm mãi, không tìm ra được chỗ nào tiện cho mình ẩn núp cả.

Triệu Minh vội chỉ tay lên một cái trống to, trống đó đặt ở trên một cái giá gỗ lớn, cách mặt đất hơn trượng. Phía trước trống đó có một cái chuông thật lớn.

Vô Kỵ thấy Triệu Minh chỉ tay như vậy liền tỉnh ngộ, vội rón rén đi tới phía sau cái trống. Rồi tung mình nhảy lên giơ ngón tay trỏ ra vạch vào mặt cái trống một cái. Chỉ nghe thấy tiếng kêu “soạt” rất khẽ, mặt trống đã rách một đường dài.

Chàng dùng chân trái đâm vào cái xà ngang của giá gỗ, rồi dùng ngón tay trỏ rạch ngang mặt trống một cái nữa. Thế là mặt trống đó rách thành hình chữ nhật. Chàng ẳm Triệu Minh, lẹ làng chui luôn vào trong cái trống đó. Trong lòng trống đầy những bụi bặm.

Vô Kỵ ngửi toàn mùi hôi mốc nhưng lại xen lẫn mùi thơm tho từ da thịt của Triệu Minh phát ra.

Cái trống ấy tuy lớn, nhưng hai người núp bên trong không sao trở mình được.

Triệu Minh tựa vào người chàng, hơi thở rất nhẹ, nhưng trong lòng lại kích động vô cùng.

Lúc này trong lòng Vô Kỵ yêu và giận xung đột nhau, chàng có nhiều lời muốn trách mắng và hỏi nàng ta, nhưng khổ nỗi, hoàn cảnh không cho phép, vì hễ lên tiếng nói là đệ tử của Cái Bang hay biết liền, nhưng chàng cảm thấy người của Triệu Minh tựa vào lòng mình, đầu nàng lại ngã vào vai trái và tóc nàng cứ cọ vào má chàng luôn luôn.

Chàng bỗng giật mình kinh hãi và nghĩ thầm:

– Ta ra tay cứu nàng như vậy đã là không nên không phải rồi sao bây giờ lại âu yếm với nàng như thế?

Nghĩ xong, chàng liền giơ tay lên dùng sức đẩy vào đầu nàng một cái, không cho đầu nàng tựa vào vai mình nữa.

Triệu Minh thấy chàng ta hắt hủi mình như vậy, tức giận vô cùng, liền dùng khủyu tay thúc mạnh vào hông chàng một cái.

Vô Kỵ mượn sức đánh sức, đẩy sức lực của nàng bắn trở lại, Triệu Minh bị sức mạnh đó hất trở lại, đau đớn chịu không nổi, suýt tý nữa thì la lớn rồi.

Vô Kỵ đoán thế nào nàng cũng kêu, nên đã giơ tay ra bịt mồm nàng lại.

Ðang lúc ấy thì hai người nghe thấy bên dưới có tiếng chấp pháp trưởng lão nói:

– Thưa bang chủ, kẻ địch đã đào tẩu mất tích, thuộc hạ bất lực, chưa bắt được chúng đem về cho bang chủ xét xử, xin bang chủ giáng tội cho.

Hỏa Long đáp:

– Cho miễn, võ công của địch rất cao siêu, ai ai cũng đều trông thấy rõ hết, chấp pháp trưởng lão chớ nên tự khiêm như vậy.

Chấp pháp trưởng lão lại nói tiếp:

– Cám ơn bang chủ.

Tiếp theo đó, hai người lại nghe thấy Trưởng bản Long đầu báo cáo Tống Thanh Thư đã thả kẻ địch đào tẩu.

Thanh Thư cũng lên tiếng cãi vã mỗi người nói một câu, khiến tình thế trong điện trở nên gay cấn vô cùng.

Hỏa Long ngẫm nghĩ giây lát, rồi hỏi:

– Chú em họ Trần trông thấy thực tình lúc bấy giờ ra sao?

Hữu Lượng đáp:

– Thưa bang chủ, Trưởng bản Long đầu, vốn dĩ là nguyên lão củ bổn bang, tất nhiên lời nói của Long đầu không sai chút nào. Còn chú em họ Tống đây thành tâm tham gia bổn bang, và yêu nữ họ Triệu lại là kẻ thù của chú ấy, như vậy chú ấy không khi nào lại buông tha cho y thị. Theo ý kiến ngu đệ thì võ công của yêu nữ đó rất quái dị có lẽ y thị đã mượn sức đánh sức, lấy gậy của Long đầu đại ca gạt kiếm của chú em họ Tống sang bên. Trong lúc hỗn loạn, hai bên đều không trông thấy rõ nên mới có sự hiểu nhầm như vậy.

Vô Kỵ khen ngợi và thầm nghĩ:

– Trần Hữu Lượng quả thật là nhân kiệt, y không trông thấy rõ sự việc xảy ra mà đã đoán được tám chín thành như vậy!

Chàng lại nghe thấy Hỏa Long nói tiếp:

– Chú em họ Trần nói rất có lý, hai chú em đều hết mình vì bổn bang cả, khỏi cần tổn thương hòa khí với nhau bởi một chuyện nhỏ nhặt như thế.

Trưởng bản Long đầu hậm hực nói tiếp:

– Dù y…

Hữu Lượng không đợi y nói dứt đã xen lời nói:

– Chú em họ Tống, Long đầu đại ca là người đức cao vọng trọng, dù đại ca có trách chú lầm lỗi chăng nữa, chú cũng phải thành tâm thụ giáo. Chú mau mau xin lỗi Long đầu đại ca đi.

Thanh Thư bất đắc dĩ phải tiến lên vái chào một lạy và cất tiếng nói:

– Long đầu đại ca, vừa rồi tiểu đệ thất lễ xin đại ca lượng thứ cho.

Trưởng bản Long đầu trong lòng bực tức khôn tả nhưng không thể nào phát khùng được, đành phải dùng giọng mũi lên “hừ” một tiếng, rồi trả lời:

– Thôi đừng nói nữa.

Hồi thứ 80

Như Hờn Như Oán

Lời nói của Hữu Lượng mới nghe thì ai cũng cho là đổ lỗi hết cho Thanh Thư, nhưng sự thật thì câu nào cũng có trách Long đầu không nên không phải.

Y nói Triệu Minh lấy gậy của Long đầu đại ca gạt kiếm của Thanh Thư sang bên. Y lại nói Long đầu đại ca đức cao vọng trọng là có ý đại ca đã khiển trách sai lầm thì chú cũng phải thành tâm mà nhận lỗi đi.

Các trưởng lão trong Cái Bang nghe đều hiểu hết. Nhưng mấy năm gần đây, Hữu Lượng là một người được bang chủ kiêng nể hơn hết, việc gì Hỏa Long cũng đều nghe lời y cả, vì vậy không ai dám nói thêm nữa.

Hỏa Long lại lên tiếng hỏi:

– Chú em họ Trần, vừa rồi yêu nữ đến đây phá rối là con gái của Nhữ Dương vương đây à? Ma giáo là kẻ thù của triều đình, khi chúng ta nói đến tiểu ma đầu Trương Vô Kỵ của Ma giáo, tại sao quận chúa nương nương lại một mực bênh vực y như thế?

Hữu Lượng ngẫm nghĩ hồi lâu chưa kịp trả lời, thì Trưởng bản Long đầu đã xen lời nói:

– Tôi thấy quận chúa nương nương nước mắt chảy quanh, vẻ mặt hậm hực, khi chú em họ Trần thoá mạ giáo chủ của Ma giáo. Khi quận chúa nương nương đứng cạnh đó, nghe thấy như thế mặt liền tỏ vẻ như bị người ta mắng chửi anh và cha mẹ nàng vậy, nên tôi lấy làm thắc mắc về vấn đề đó.

Thanh Thư liền đỡ lời:

– Thưa bang chủ, việc này tiểu đệ rõ hết.

Hỏa Long liền hỏi:

– Chú em họ Tống biết chuyện gì cứ nói đi.

Thanh Thư liền nói:

– Tuy việc gì Ma giáo cũng đương đầu với triều đình, nhưng Triệu Minh quận chúa lại rất yêu Vô Kỵ. Vì nàng mong lấy được Vô Kỵ nên việc gì nàng cũng hết sức che chở cho y.

Quần hào của Cái Bang nghe thấy Thanh Thư nói như vậy, liền kêu “ủa” một tiếng, vì không ai ngờ được là Triệu Minh lại mê Vô Kỵ đến thế.

Vô Kỵ ở trong cái trống lớn, nghe thấy như vậy, trống ngực đập rất mạnh và trên óc nghĩ thầm:

– Có thật không, lời nói của y có thật không?

Triệu Minh quay đầu lại hai mắt trợn trừng nhìn chàng. Trong cái trống đó tuy tối om, nhưng mắt của Vô Kỵ sắc hơn người, chàng trông thấy rõ mắt của Triệu Minh đang lộ liễu đầy vẻ tình tứ.

Chàng cảm động liền ôm lấy nàng định hôn nàng một cái.

Ðột nhiên chàng nghĩ đến cảnh thảm khốc của Hân Ly, bao nhiêu tình yêu của chàng bỗng biến thành thù hận, tay phải của chàng vội nắm chặt lấy cánh tay của Triệu Minh bóp chặt một cái. Với công lực của chàng lúc này chàng chỉ khẽ bóp một cái, Triệu Minh đã không chịu nổi, nàng cảm thấy mặt mũi tối tăm suýt chết giấc được.

Nàng không sao nhịn được, liền định bắt chước Hân Ly mắng chửi Vô Kỵ:

– Tiểu quỷ chết non chết yểu này độc ác thật.

Cũng may nàng cố kiềm chế lửa giận nên không nói ra tiếng, nhưng nước mắt đã nhỏ xuống như mưa rồi. Nước mắt của nàng cứ nhỏ ròng xuống cánh tay của Vô Kỵ nhưng Vô Kỵ vừa thay đổi tâm trạng, nên không sao làm chàng cảm động được, gương mặt vẫn lầm lầm lì lì.

Hai người lại nghe thấy Hữu Lượng lên tiếng hỏi:

– Sao chú lại biết rõ như vậy, có thật có chuyện quái lạ như thế không?

Thanh Thư hậm hực đáp:

– Tiểu tử Vô Kỵ mặt mũi tầm thường không có vẻ gì anh tuấn cả. Nhưng y chỉ được một ít tà thuật của Ma giáo, nên có rất nhiều thiếu nữ bị sa vào tròng của y mà không hay.

Chấp pháp chưởng lão gật đầu xen lời nói:

– Phải, trong Ma giáo những quân dâm tà quả thật có tà thuật hái hoa đó, cũng như đệ tử Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi chẳng hạn. Nàng ta cũng bị tà thuật của Dương Tiêu trong Ma giáo làm cho say mê, nên rốt cục mới bị thân bại danh liệt như vậy. Cha của Vô Kỵ là Trương Thúy Sơn cũng bị con gái của Bạch Mi Ưng Vương dùng yêu thuật làm cho say mê. Còn Minh Minh quận chúa, tôi chắc cũng trúng phải tà pháp hái hoa của tiểu ma đầu họ Trương rồi, vì thế mà thất thân với y. Chắc nàng thấy ván đã đóng thuyền, gạo đã thổi thành cơm nên đành can tâm truỵ lạc thế.

Quần hào của Cái Bang nghe nói đều gật đầu cho là phải. Truyền Công trưởng lão tức giận vô cùng vội lên tiếng nói:

– Những quân vô loại trên giang hồ đó, ai cũng có bổn phận phải giết chết cho bằng được, nếu không phụ nữ trong thiên hạ sẽ bị mất hết trinh tiết, và sẽ có không biết bao nhiêu bị toi mạng bởi tên tiểu dâm tặc ấy.

Vô Kỵ tức đến chân tay run lẩy bẩy, vì cho tới ngày nay, chàng vẫn còn là trai tân, chỉ từ khi Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi chửi chàng là dâm tặc, thì từ đó có nhiều người bắt chước, chửi chàng như vậy, thật là nỗi niềm oan ức chàng không biết bày tỏ cùng ai. Bây giờ chàng lại nghe thấy tên Long đầu của Cái Bang ấy bảo Triệu Minh thất thân với mình và ván đã đóng thành thuyền vân… vân, chàng lại càng tức giận, rồi đột nhiên giật mình kinh hãi và nghĩ thầm:

– Triệu cô nương với ta ôm ấp nhau, ẩn núp trong cái trống này nhỡ chúng hay biết thì mối oan này không thể nào rửa được nữa.

Chàng nghe thấy Truyền công Trưởng lão nói tiếp:

– Chu Chỉ Nhược, Chu cô nương của phái Nga Mi cũng đã lọt vào tay của tiểu dâm tặc, chắc bây giờ trinh tiết của nàng cũng khó mà bảo tồn được. Chú em họ Tống, việc này chú khỏi phải bận lòng làm chi, thể nào chúng tôi cũng giúp chú cướp lại người vợ cưng. Chúng tôi quyết không để cho câu chuyện của Hiểu Phù tái diễn nữa đâu.

Chấp pháp Trưởng lão cũng xen lời nói:

– Ðại ca nói rất phải, năm xưa phái Võ Ðang bảo vệ không nổi Hân Lợi Hanh, ngày hôm nay, họ bảo vệ không nổi Thanh Thư. Vì vậy chú em họ Tống mới gia nhập bổn bang. Nếu chúng ta không giúp chú ấy hoàn thành tâm nguyện này thì chú ấy về Võ Ðang làm chưởng môn có hơn không, hà tất phải tới đây làm đệ tử sáu túi của bổn bang làm chi?

Cái Bang quần hào đều lớn tiếng cổ vũ, ai ai cũng bảo, thề phải giết cho được dâm tặc Trương Vô Kỵ và giúp Thanh Thư cướp lại được vợ mới thôi.

Nghe chúng nói như vậy, Triệu Minh liền rỉ tai Vô Kỵ khẽ nói:

– Tiểu dâm tặc này đáng chết lắm.

Lời nói của nàng như hờn như giận, vừa yêu thương, vừa ngưỡng mộ, khiến lòng Vô Kỵ rung động và mê man ngay.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Nếu nàng không gian trá hiểm độc giết chết biểu muội của ta, thì thể nào ta cũng cưới nàng làm vợ, sống đời đời với nàng cũng không sao.

Chàng vừa nghĩ tới đó đã nghe thấy Thanh Thư ở bên ngoài cám ơn quần hào của Cái Bang.

Chấp pháp Trưởng lão là người tinh tế liền lên tiếng hỏi:

– Dâm tặc ấy mê Minh Minh quận chúa như thế nào, chú có biết không?

Thanh Thư đáp:

– Những chi tiết bên trong, người ngoài làm sao mà biết rõ được. Ðệ chỉ biết lúc ấy Minh Minh quận chúa thống lãnh các võ sĩ của triều đình lên núi Võ Ðang bắt thái sư phụ của đệ tử, và khi nàng trông thấy mặt của dâm tặc một cái là ngoan ngoãn rút lui luôn. Nhờ vậy, tai hoạ lớn của Võ Ðang mới thoát khỏi. Tam sư thúc Dư Ðại Nham của tiểu đệ, hai mươi năm trước bị người đánh gãy tay què chân cũng nhờ được Minh Minh quận chúa tặng thuốc cho dâm tặc mới cứu khỏi.

Chấp pháp Trưởng lão xen lời nói:

– Phải rồi, thiết nghĩ xưa nay phái Võ Ðang vẫn là cái gai của triều đình, nếu Minh Minh quận chúa không say mê dâm tặc thì không bao giờ nàng lại tặng thuốc giúp kẻ địch như thế. Nếu vậy, tuy dâm tặc nhân phẩm không được chính trực, nhưng đối với thái sư phụ, sư thúc, sư bá, nó vẫn còn đôi chút tình hương hỏa.

Thanh Thư lại nói tiếp:

– Vâng, tôi chắc y cũng không đến nỗi hoàn toàn vong bản đâu.

Hữu Lượng lại đỡ lời nói:

– Thưa bang chủ, đệ tử nghe thấy chú em họ Tống nói, đệ đã nghĩ ra được một kế này có thể làm cho tiểu dâm tặc ấy phải ngoan ngoãn vâng lời ngay. Và còn khiến được tất cả giáo chúng của Ma giáo đều phải nghe lệnh của bổn bang nữa.

Hỏa Long mừng rỡ hỏi:

– Chú em họ Trần đã có diệu kế như vậy thì mau nói ra cho mọi người nghe đi.

Hữu Lượng đáp:

– Nơi đây nhiều tai mắt quá, tuy tất cả là anh em nhà thật, nhưng vẫn sợ tiết lộ cơ mật.

Lúc ấy trong đại điện tiếng nói đã dứt, chỉ nghe thấy tiếng chân người đi thôi.

Vô Kỵ đoán chắc những đệ tử khác của Cái Bang phải rút lui ra ngoài điện mà trong điện chỉ còn lại có mấy vị thủ lãnh của chúng thôi.

Giây phút sau, chàng lại nghe thấy có tiếng người nói:

– Việc này không thể để thổ lộ nửa câu ra bên ngoài được, chú em họ Tống, hai vị Long đầu đại ca, chúng ta hãy khám xét trước sau điện này một lần xem có ai nghe trộm không?

Tiếp theo đó chàng chỉ nghe thấy có hai tiếng kêu “soẹt, soẹt” rất khẽ, chàng biết hai vị Long đầu đã nhảy lên trên mái nhà, còn Hữu Lượng với Thanh Thư ra trước sau điện, chia nhau khám xét.

Chúng khám cả phía trước sau tượng thần, các xó xỉnh sau những tấm màn treo ở trên bàn thờ.

Riêng có cái trống là chúng không khám xét tới thôi.

Vô Kỵ thấy vậy khen phục thầm đầu óc của Triệu Minh quả thật thông minh vì trong điện này ngoài cái trống lớn này ra, quả thật không có một chỗ nào trốn tránh kín đáo cho bằng.

Bốn người đó khám xét xong mới quay vào giữa điện, Hữu Lượng khẽ nói:

– Việc này cần phải nhờ vả đến chú Thanh Thư.

Thanh Thư ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao lại cần đến tôi?

Hữu Lượng đáp:

– Theo kế của đệ, Trưởng bản Long đầu đại ca làm ơn chế hộ mấy gói “ngũ độc thất tâm tán” rồi giao cho chú Thanh Thư đem lên núi Võ Ðang, ngấm ngầm cho vào thức ăn thức uống để cho Trương chân nhân với các vị hiệp sĩ của phái Võ Ðang ăn uống. Chúng ta ở dưới núi tiếp ứng, sau khi Trương chân nhân và các người kia uống phải thuốc đó rồi, chúng ta liền lên núi bắt trói họ luôn. Lúc ấy ta muốn uy hiếp thế nào, tiểu tặc Trương Vô Kỵ chẳng phải nghe theo.

Hỏa Long lên tiếng khen ngợi trước:

– Diệu kế! Diệu kế!

Chấp pháp Trưởng lão cũng lớn tiếng khen ngợi:

– Kế này rất hay, “ngũ độc thất tâm tán” của bổn bang rất lợi hại. Nếu bỏ vào thức ăn thức uống để đầu độc Vô Kỵ thì rất khó vì Ma giáo của chúng đề phòng nghiêm mật lắm, còn để cho chú Thanh Thư đầu độc thì thế nào cũng thành công vì chú ấy là đệ tử của phái Võ Ðang, không ai dám phòng bị chú ấy cả…

Thanh Thư trù trừ một hồi rồi nói:

– Việc này…, việc này… muốn đệ đầu độc giết hại gia phụ… đệ không thể nào ra tay được…

Hữu Lượng vội khuyên bảo:

– Ngũ độc thất tâm tán” của bổn bang đây chỉ làm cho người ta tạm thời thần trí mê mẩn thôi chứ không có hại đến thân thể và cũng không làm người ta chết đâu. Lệnh tôn Tống đại hiệp là người nhân hiệp đại nghĩa, xưa nay chúng tôi kính phục lắm, khi nào chúng tôi lại dám giết hại ông ta như vậy.

Thanh Thư vẫn không chịu nhận lời, chỉ trả lời rằng:

– Ðệ gia nhập bổn bang thể nào cũng bị thái sư phụ với gia phụ khiển trách. Vả lại việc bất hiếu và phạm thượng như thế, đệ không dám nhận lời đâu.

Hữu Lượng lại khuyên bảo tiếp:

– Chú Thanh Thư, sao chú lại nghĩ vẫn vơ như thế? Người làm việc lớn không thể nào nghĩ đến tiểu tiết được. Cổ nhân đã dạy đại nghĩa diệt thân, đời nào cũng có, huống hồ tôn chỉ của chúng ta là đối phó Ma giáo. Bắt giữ các đại hiệp của Võ Ðang chỉ là một phương sách để kiềm chế tiểu tặc Trương Vô Kỵ đấy thôi.

Thanh Thư hỏi tiếp:

– Nếu tiểu đệ làm xong việc này sẽ bị người trên giang hồ chửi rủa, đệ còn mặt mũi nào sống trên thế gian này nữa?

Hữu Lượng lại nói tiếp:

– Vừa rồi tại sao tôi lại bảo các vị trưởng lão từ tám túi trở xuống phải ra khỏi đại điện như vậy? Tại sao chúng ta lại phải khám xét hết phía trước phía sau? Ðó là vì sợ việc này tiết lộ ra bên ngoài. Chú Thanh Thư! Sau khi chú bỏ thuốc độc rồi, chú cũng phải giả bộ làm như mê man, chúng tôi sẽ trói chú với thái sư phụ cùng Tống đại nhân và các sư thúc của chú rồi giam vào một nơi, như vậy không còn ai nghi ngờ chú nữa. Ngoài bảy người ở đây ra thì trên đời không còn có người thứ tám hay biết chuyện này, chúng tôi chỉ có phục chú là một hảo hán có thể đảm đang được việc lớn chứ có ai dám cười chú đâu?

Thanh Thư ngẫm nghĩ giây lát rồi ngập ngừng đáp:

– Bang chủ với Trần đại ca có lệnh sai bảo, đệ tử đâu dám từ chối! Hơn nữa tiểu đệ mới gia nhập bổn bang, tất nhiên phải thừa cơ lập công, dù có phải nhảy vào nước lửa đi chăng nữa, cũng không sao dám từ chối. Nhưng người ta sống ở trên đời phải lấy hiếu nghĩa làm căn bản. Nếu bảo tiểu đệ ám hại gia phụ thì tiểu đệ không thể nào dám làm việc đó.

Truyền thống của Cái Bang xưa nay tôn sùng nhất chữ hiếu nên mấy tên trưởng lão của Cái Bang thấy chàng nói như vậy, không ai dám cưỡng bách chàng nữa.

Hữu Lượng bỗng cười nhạt một tiếng rồi nói tiếp:

– Kẻ dưới phạm người trên, đó là một hành động tối kỵ trong võ lâm chúng ta, khỏi cần chú Thanh Thư nói rõ, tôi cũng đã thừa hiểu điều đó. Nhưng không hiểu chú Thanh Thư gọi Mạc Thanh Cốc Mạc thất hiệp là thế nào nhỉ? Không hiểu vai vế của y cao hơn chú hay là vai vế của chú cao hơn y?

Thanh Thư không trả lời, một hồi lâu chàng bỗng lên tiếng:

– Ðược! Nếu vậy tiểu đệ xin tuân lệnh, nhưng các vị phải cam đoan không được làm cho gia phụ bị tổn thương mảy may nào hết mới được. Và cũng không ai được làm nhục nhã gia phụ, bằng không tiểu đệ đành chết chứ nhất quyết không chịu nhận lời làm việc bất hiếu này.

Hỏa Long, Hữu Lượng các người mừng rỡ vô cùng.

Mọi người liền đồng thanh nói:

– Tất nhiên việc này chúng tôi phải nhận lời chú, đã xưng hô với chúng tôi là anh em, thì lẽ tất nhiên Tống đại hiệp là tôn trưởng của chúng tôi. Dù chú không nói, chúng tôi cũng phải tận lòng đối xử với lệnh tôn như bề con cháu…

Vô Kỵ nghe nói trong lòng hồ nghi vô cùng, liền nghĩ thầm:

– Từ nãy đến giờ, Tống sư ca không chịu nhận lời mà hễ Hữu Lượng nói tới Mạc thất sư thúc thì Tống sư ca lại không dám từ chối nữa, chắc bên trong thể nào cũng có duyên cớ gì đây. Vậy ta phải kiếm Mạc thất sư thúc tức khắc để hỏi thì biết rõ liền.

Chàng lại nghe thấy Chấp pháp Trưởng lão với Hữu Lượng các người thì thầm bàn tán về việc sau khi quần hào trên Võ Ðang trúng độc rồi thì người của Cái Bang lên tiếp ứng như thế nào. Và cứ Hữu Lượng nói gì Hỏa Long lại khen ngợi:

– Hay lắm! Hay lắm.

Trưởng bản Long đầu nói:

– Lúc này là mùa đông, “ngũ độc” nằm phục ở dưới mặt đất, tiểu đệ phải đi ngay núi Trường Bạch để đào, chậm lắm là một tháng, nhanh lắm là hai mươi ngày là đã về được rồi. Những độc vật nằm dưới băng tuyết, chất độc của nó không có mùi vị nên lúc uống vào khó mà hay biết được, đối phó với những tay cao thủ hạng nhất phải dùng những độc vật ấy mới tốt.

Chấp pháp Trưởng lão cũng lên tiếng:

– Chú Hữu Lượng và chú Thanh Thư đi cùng Trưởng bản Long đầu lên Trường Bạch sơn để đào “ngũ độc”, còn chúng tôi xuống miền nam trước. Một tháng sau, chúng ta gặp nhau ở Lão Hà khẩu. Ngày hôm nay là mồng tám tháng chạp, chúng ta nhất định đến ngày mùng tám tháng giêng sẽ gặp nhau. Còn Hàn Lâm Nhi đang ở trong tay chúng ta, tên ấy rất có lợi cho chúng ta, vậy xin Trưởng bản Long đầu để ý canh gác đừng để cho Ma giáo cướp mất và chúng ta cần phải chia từng bọn một mà đi, như vậy mới tránh được tai mắt của kẻ địch.

Thế rồi mọi người đều lần lượt từ biệt bang chủ; Trưởng bát Long đầu với Hữu Lượng, Thanh Thư ba người đi về phía bắc trước.

Giây lát sau, bang chúng của Cái Bang lần lượt giải tán hết. Miếu Di Lạc lại trở lại vắng vẻ như trước.

Vô Kỵ chờ bọn Cái Bang đi khỏi, liền ở trong trống nhảy ra.

Triệu Minh cũng nhảy theo, nàng như mừng như hờn, lườm Vô Kỵ một cái.

Vô Kỵ liền giận dữ nói:

– Hừ! Thế mà cô còn vác mặt đến gặp tôi nữa à?

Triệu Minh sầm nét mặt, hỏi lại:

– Công tử nói gì? à không! Tôi có điều gì không nên không phải với Trương giáo chủ thế?

Vô Kỵ lại quát mắng tiếp:

– Cô nương lấy trộm ỷ Thiên kiếm với Ðồ Long đao tôi không trách điều đó, cô nương bỏ rơi tôi trên hoang đảo tôi cũng không phiền, nhưng cô nương hạ độc thủ giết chết Hân cô nương thì tôi không thể nào tha thứ được. Thật là trên thiên hạ này hiếm thấy một người đàn bà nào độc ác như thế…

Nói tới đó, chàng không sao nén được lửa giận, liền tiến lên tát Triệu Minh bốn cái. Triệu Minh muốn tránh né cũng không kịp. Hai má bị tát đến sưng vù lên.

Nàng vừa đau vừa tức giận, nước mắt tuôn xuống như mưa, vừa nức nở vừa hỏi lại:

– Giáo chủ bảo tôi lấy trộm ỷ Thiên kiếm với Ðồ Long đao, chẳng hay ai đã trông thấy tôi lấy trộm nào? Ai bảo tôi đã giết hại Hân cô nương, gọi người đó ra đây đối chất đi.

Vô Kỵ càng tức giận thêm, lớn tiếng nói tiếp:

– Ðược! Ðể tôi cho cô nương xuống dưới âm ty đối chất với nàng ta.

Chàng vừa nói vừa giơ tay lên thộp cổ Triệu Minh và bóp luôn.

Triệu Minh sắp nghẹt thở đến nơi, liền giơ một ngón tay phải lên điểm ở trước ngực Vô Kỵ. Nhưng chàng có Cửu Dương thần công hộ thân nên Triệu Minh không làm gì nổi chàng.

Giây phút sau nàng ngất đi.

Vô Kỵ nghĩ đến Hân Ly, định bóp cho nàng chết hẳn đi, nhưng bây giờ trông thấy nàng tội nghiệp như vậy, chàng lại không nỡ liền buông lỏng tay ra.

Triệu Minh té luôn về phía sau, đầu va vào mặt đá đến “cộp” một tiếng.

Một lát sau, nàng hồi tỉnh thấy Vô Kỵ đang trợn mắt nhìn mình, mặt tỏ vẻ lo âu.

Chàng thấy nàng hồi tình, mới thở nhẹ một tiếng, nàng liền hỏi:

– Giáo chủ nói Hân cô nương đã qua đời rồi ư?

Vô Kỵ lại nổi giận, quát mắng:

– Bị cô chém mười bảy mười tám nhát kiếm như vậy… nàng sống sao nổi.

Ai?… Ai bảo tôi chém nàng mười bảy mười tám nhát kiếm… Có phải Chu cô nương nói không?

– Chu cô nương không bao giờ nói xấu người trong lúc vắng mặt. Cô ta không trông thấy, không bao giờ vu khống cho cô đâu.

– Thế có phải Hân cô nương tự nói cho Giáo chủ không?

– Hân cô nương không nói được, từ trước kia rồi, mà trên hoang đảo chỉ có năm người chúng ta thôi. Nếu không phải cô chém cô ta, thì không lẽ là nghĩa phụ tôi hay là tôi? Hay là Hân cô nương tự chém mình chăng? Hừ, tôi biết lắm. Cô nương sợ tôi cưới cô em họ đó, nên mới hạ độc thủ chứ gì? Tôi nói thật cho cô biết, nàng ta chết cũng thế, mà sống cũng vậy, tôi đã coi nàng như là vợ của tôi rồi.

Triệu Minh cúi đầu nghĩ ngợi một hồi lâu lại nói tiếp:

– Tại sao Giáo chủ lại về được Trung Thổ.

– Ðó là nhờ ở lòng tốt của cô, cô phái thủy sư tới đảo đón tôi. Cũng may, nghĩa phụ tôi không thật thà như tôi, nên chúng tôi mới không mắc phải gian kế của cô. Cô phái pháo thuyền đợi chờ ở trên bờ bể để dùng đại bác bắn chìm thuyền của chúng tôi, nhưng cô đã mất công mà không ăn thua gì.

Triệu Minh giơ hai tay lên ôm hai má sưng húp ngẩn người ra nhìn Vô Kỵ, trông mặt nàng rất đáng thương.

Chàng liền thở dài một tiếng, nhưng chàng đã trấn tỉnh ngay được vội quay đầu đi, rồi đột nhiên dậm chân một cái và nói:

– Ta thề phải trả thù cho biểu muội, chỉ tại ta nhu nhược vô dụng mà ngày hôm nay không ra tay được. Cô độc ác như vậy, thế nào cũng có một ngày gặp lại tôi.

Nói xong, chàng liền bước nhanh ra ngoài cửa miếu tức thì.

Chàng đi được mười mấy trượng đã thấy Triệu Minh đuổi theo và lớn tiếng hỏi:

– Trương giáo chủ, giáo chủ đi đâu thế?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi đi đâu thì việc gì đến cô.

– Tôi có lời muốn hỏi Tạ đại hiệp nói với Chu cô nương, công tử làm ơn đưa tôi đi gặp hai người ấy.

– Thôi, cô đừng đi mang cái chết vào người nữa, vì nghĩa phụ tôi không nương tay như tôi đâu.

– Tuy nghĩa phụ của công tử độc ác thật, nhưng không bao giờ hồ đồ như công tử. Hơn nữa, dù Tạ đại hiệp có giết tôi, công tử cũng báo được thù cho biểu muội, như vậy có phải là công tử đã giải được một niềm tâm sự rồi không?

– Tôi hồ đồ cái gì, tôi không muốn cô gặp nghĩa phụ tôi.

– Trương Vô Kỵ, tiểu tử hồ đồ kia ơi, có phải công tử không nỡ trông thấy tôi bị giết mà không cho tôi đi gặp Tạ đại hiệp không?

Thấy nàng nói đúng tâm sự của mình Vô Kỵ mặt đỏ bừng vội đáp:

– Ðừng có nói lôi thôi nữa, cô hay làm những việc bất nghĩa như vậy thế nào cũng bị chết. Tốt hơn hết, cô càng xa lánh chúng tôi bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Ðừng để cho tôi gặp mặt lại, nhỡ tôi nóng tiết, tôi sẽ giết cô liền.

Triệu Minh từ từ bước lên, đi tới gần chàng và nói tiếp:

– Tôi thể nào cũng phải đi hỏi rõ Chu cô nương và Tạ đại hiệp xem. Tôi không dám vắng mặt mà nói xấu người, vậy tôi đến gặp hai vị ấy hỏi cho minh bạch đã.

Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, chàng lại hỏi:

– Cô định hỏi gì nghĩa phụ tôi và Chu cô nương.

Triệu Minh đáp:

– Lát nữa công tử sẽ hiểu, tôi không sợ nguy hiểm mà công tử lại sợ hay sao?

– Ðó là cô nương đòi đi nhé, nhỡ nghĩa phụ tôi hạ độc thủ, tôi muốn cứu cũng không được đâu.

– Khỏi cần công tử phải lo âu hộ tôi.

– Ai lo âu hộ cô, người ta chỉ muốn cô chết ngay thì đúng hơn.

– Nếu vậy ra tay đi.

Vô Kỵ nhổ một đống nước miếng xuống đất không đếm xỉa đến nàng, Triệu Minh cũng rảo cẳng đuổi theo.

Hai người sắp đi đến Trấn Ðiện, Vô Kỵ bỗng ngừng bước quay lại hỏi:

– Triệu cô nương! Tôi đã nhận lời làm giúp cô ba việc: việc thứ nhất là đi kiếm đao Ðồ Long cho cô, việc này coi như đã làm rồi. Còn hai việc nữa, tôi chưa làm, nếu bây giờ cô đi theo tôi gặp nghĩa phụ thể nào cô cũng bị chết chứ không sai. Vậy cô không nên đi nữa, chờ khi nào tôi làm xong cho cô hai việc ấy, cô hãy đi gặp nghĩa phụ tôi cũng chưa muộn.

Triệu Minh tủm tỉm cười và nói tiếp:

– Bây giờ công tử đang tìm kiếm một lý do để cứu chết cho tôi, tôi biết lắm. Trong lòng công tử không nỡ giết tôi chứ gì?

– Dù tôi không nhẫn tâm đi chăng nữa thì đã sao nào?

– Tôi rất mừng vì từ trước tới nay tôi vẫn chưa rõ công tử có thật tâm với tôi không, nhưng bây giờ tôi đã biết rồi.

– Triệu cô nương, tôi van cô, cô nên đi một mình thì hơn.

– Không, thế nào tôi cũng phải gặp Tạ đại hiệp mới được.

Vô Kỵ đành phải đi trở về khách điếm, tới cửa phòng của Tạ Tốn giơ hai tay lên gõ hai tiếng và kêu gọi:

– Nghĩa phụ!

Ngờ đâu chàng gọi mấy tiếng, không nghe thấy Tạ Tốn trả lời. Chàng thử đẩy cửa khoá, thấy cửa khoá trái, trong lòng hoài nghi vô cùng, vội đẩy mạnh một cái, hai cánh cửa mở toang luôn. Quả nhiên, Tạ Tốn không có ở trong đó. Chàng thấy hai cánh cửa sổ hé mở. Chàng lại sang phòng Chỉ Nhược cũng không thấy nàng ta đâu cả, bọc áo vẫn còn để nguyên.

Chàng liền lẩm bẩm tự nói:

– Chẳng lẽ hai người đã gặp kẻ đại địch rồi chăng?

Chàng lại gọi phổ ky lại hỏi, phổ ky lại đáp:

– Cháu không thấy hai người đó đi ra và cũng không nghe thấy tiếng cãi vã gì cả.

Chàng hơi an tâm và nghĩ thầm:

– Chắc hai người nghe thấy động tịnh rồi đuổi theo tung tích của địch cũng nên.

Nghĩ đoạn, chàng lại xem xét cửa sổ và hai phòng của hai người, thấy không có vẻ gì khác lạ cả, bèn quay trở về phòng mình.

Triệu Minh liền hỏi:

– Sao công tử không thấy Tạ đại hiệp, trong lòng lại có vẻ hân hoan như thế?

Vô Kỵ đáp:

– Cô đừng nói bậy, tôi có hân hoan bao giờ đâu.

– Chả lẽ tôi lại không trông thấy sắc mặt của công tử hay sao?

Vô Kỵ không thèm trả lời lại nàng, sang giường Tạ Tốn nằm và nghĩ ngợi.

Triệu Minh bắc cái ghế ngồi cạnh chàng và hỏi:

– Tôi biết công tử sợ Tạ đại hiệp giết tôi. Cũng may ông ta không có ở đây, nhờ vậy, công tử mới đỡ khó xử. Tôi biết trong lòng công tử vẫn không nỡ giết tôi.

Vô Kỵ giận giữ quát hỏi:

– Không nỡ giết cô thì sao nào?

– Tôi thích thú lắm.

– Tại sao cô cứ đôi ba phen lại ra tay hại tôi như vậy, chẳng lẽ cô lại đang tâm đến thế sao?

Triệu Minh đỏ bừng mặt khẽ đáp:

– Phải, trước kia tôi định tâm giết chết công tử thật, nhưng từ khi gặp gỡ nhau ở Lục Dương trang rồi, thì tôi không có ý định đó nữa và tôi xin thề, từ đó tới giờ, nếu tôi có lòng định hại công tử thì trời chu đất giệt, vạn kiếp không thể đầu thai lên làm người được.

Vô Kỵ thấy nàng thề nặng như vậy liền hỏi tiếp:

– Thế tại làm sao, cô vì một đao một kiếm mà đang tâm bỏ tôi ở lại trên đảo hoang như thế?

– Nếu công tử cứ vu cho tôi như vậy, thì tôi biết cãi làm sao, đành phải chờ Tạ đại hiệp và Chu cô nương về đây, rồi bốn chúng ta cùng đối chất, mới có thể rõ được ai ngay, ai gian.

– Cô khéo ăn khéo nói lắm, nhưng chỉ có thể lừa được một mình tôi, chứ không thể nào lừa được nghĩa phụ và Chu cô nương đâu.

– Tại sao công tử lại đang tâm để cho tôi lừa dối, vì công tử vẫn yêu tôi phải không?

– Phải, thì sao?

– Tôi sung sướng lắm.

Vô Kỵ thấy nàng cười tít mắt lại, trông rất khêu gợi, chàng không dám nhìn nữa, vội quay đầu đi.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Tôi ẩn núp ở trên cây một ngày liền nên bây giờ thấy đói bụng lắm. Rồi nàng gọi phổ ky vào đưa cho một nén vàng nhỏ cho tên đó, bảo đi làm ngay một mâm cơm thượng đẳng tới. Phổ ky thấy thoi vàng đo liền hầu hạ hai người rất chu đáo.

Một lát sau, đã có một mâm tiệc đem lên.

Vô Kỵ liền đề nghị:

– Chúng ta hãy chờ nghĩa phụ, các người về rồi cùng ăn nhé.

– Tạ đại hiệp về tới đây thì tôi làm gì còn tính mạng nữa, hãy để cho tôi ăn no đã, để lát nữa chết cũng không phải làm con ma đói.

Vô Kỵ thấy thái độ và cử chỉ của nàng không có vẻ gì là sợ sệt hết.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Tôi còn có vàng ở trong túi, lát nữa Tạ đại hiệp về vẫn có thể bảo phổ ky làm thêm món khác.

– Tôi không dám ăn chung với cô, nhỡ ăn phải “thập hương nhuyễn cân tán” thì sao?

Triệu Minh sầm nét mặt và nói:

– Công tử không ăn thì thôi, công tử đói bụng đừng có trách tôi đấy nhé.

Nói xong, nàng ngồi vào ăn một mình.

Vô Kỵ vào trong bếp lấy mấy cái bánh bao ra, ngồi cách xa chỗ Triệu Minh ăn.

Còn mâm cơm của Triệu Minh thì món nào cũng thịt bày la liệt trên bàn.

Triệu Minh ăn được một hồi, bỗng nước mắt cứ nhỏ ròng xuống bát cơm, nàng gượng và thêm mấy miếng nữa rồi nằm gục xuống bàn nức nở khóc.

Nàng khóc một hồi, lau chùi nước mắt xong, trong lòng hình như đã nhẹ nhõm hơn trước, mới nhìn ra cửa sổ nói:

– Một tiếng đồng hồ nữa, trời sẽ tối, không hiểu bây giờ Hàn Lâm Nhi bị giải đi dâu, nếu mà để cho y bị mất tích thì khó mà giải cứu đấy.

Vô Kỵ nghe nói giật mình, vội đứng dậy đáp:

– Phải đấy, bây giờ tôi phải đi cứu chú em họ Hàn trước.

– Không biết xấu hổ, người ta có nói chuyện với mình đâu mà cũng tiếp lời.

Vô Kỵ thấy nàng bỗng hờn, bỗng thẹn, bỗng vui, bỗng buồn, nên chàng vừa giận vừa yêu, không biết đối xử như thế nào cho phải.

Chàng vừa nghĩ vừa ăn nốt ba cái bánh bao rồi đi ra ngoài phòng.

Triệu Minh liền hỏi:

– Ðể tôi đi cùng với ông.

– Tôi không khiến cô nương đi với tôi.

– Tại sao?

– Cô là hung thủ giết chết biểu muội của tôi, khi nào tôi lại đi cùng với kẻ thù như thế?

– Thôi được, công tử cứ đi đi.

Vô Kỵ đi ra tới cửa phòng bỗng quay lại hỏi:

– Thế cô nương ở lại đây làm chi?

– Tôi ở đây chờ nghĩa phụ của công tử về để bảo cho ông ta biết là công tử đã đi cứu Hàn Lâm Nhi rồi.

– Nghĩa phụ của tôi ghét kẻ thù lắm, khi nào chịu tha chết cho cô?

– Nếu quả thật như vậy, đó là số mệnh của tôi phải chịu như thế, biết làm sao được.

– Chi bằng cô nương hãy lánh mặt chốc lát, chờ tôi trở về rồi hãy nói sau.

– Tôi biết đi đâu mà tránh né bây giờ?

– Thôi được, cô đi cùng với tôi để cứu Hàn Lâm Nhi rồi cùng trở về đây đối chất vậy.

Triệu Minh thấy chàng ta nhận lời, liền cười và nói:

– Ðây là công tử bảo tôi đi với, chứ không phải là tôi cứ theo đâu nhé.

– Cô là yêu tinh của số kiếp tôi, hễ gặp cô là tôi xui liền.

– Công tử hãy chờ tôi giây lát nhé.

Nói xong, nàng đóng cửa lại, một hồi lâu mở ra, thì ra nàng mới thay quần áo, mặc y phục phụ nữ, lịch sự.

Vô Kỵ không ngờ trong bọc áo của nàng đem theo lại có những trang sức quý trọng như vậy liền nghĩ:

– Thiếu nữ này nhiều mưu kế lắm và nàng hành sự rất lạ lùng, khiến người ta không sao tưởng tượng được.

Triệu Minh thấy chàng đứng ngẩn người ra, liền hỏi:

– Công tử đứng ngẩn người ra nhìn tôi làm chi, bộ áo này có đẹp không?

– Ðẹp lắm. Nhưng mặt đẹp như hoa nở, mà lòng lại giống rắn rít.

Triệu Minh ha hả vừa cười vừa đáp:

– Cám ơn Trương giáo chủ đã ban khen cho như vậy. Trương giáo chủ cũng nên đi thay một bộ áo lành lặn và dễ coi một chút đi.

Vô Kỵ có vẻ hờn giận đáp:

– Tôi mặc quần áo rách rưới từ hồi còn nhỏ, nếu cô hiềm tôi ăn mặc lam lũ thì đừng đi với tôi nữa.

– Công tử khó tính thật, tôi chỉ muốn xem công tử mặc bộ quần áo dễ coi một tí để xem hình dáng công tử ra sao đấy thôi. Ðại ca chờ tiểu muội giây lát để tiểu muội đi mua quần áo cho đại ca, bọn ăn mày thể nào cũng đi trên đường cái quan, chúng ta chỉ rảo bước thêm một bước là đuổi kịp chúng liền.

Nàng không chờ Vô Kỵ trả lời đã vội đi ra cửa liền.

Vô Kỵ ngồi trên giường tự trách là không sao thoát khỏi bàn tay của Triệu Minh, lúc nào cũng bị nàng ta đùa giỡn. Rõ ràng chính nàng ta đã giết hại em họ mình bây giờ mình lại chuyện trò cười đùa với nàng ta. “Vô Kỵ ơi, Vô Kỵ ơi, ngươi không phải là nam nhi trượng phu nữa. Ngươi còn mặt mũi nào dám làm giáo chủ của Minh giáo và sai bảo quần hùng nữa”

Chàng đợi mãi không thấy Triệu Minh về mà trời đã tối sầm, liền nghĩ thầm:

– Sao ta cứ ở đây đợi chờ nàng làm chi, ta không biết một mình đi cứu Hàn Lâm Nhi hay sao?

Nhưng chàng lại nghĩ lại:

– Nếu nàng mua quần áo về nhỡ bắt gặp nghĩa phụ, bị nghĩa phụ đánh cho vỡ sọ chết ngay thì sao?

Nghĩ tới đó chàng giật mình kinh hoảng thế rồi lại ngồi xuống, đứng lên và lại ngồi xuống hoài. Và chàng cứ nghĩ vơ vẫn cho tới khi nghe tiếng chân người đi đến gần và mũi ngửi thấy mùi thơm mới quay đầu lại nhìn.

Vô Kỵ liền nói:

– Chờ cô nương lâu quá, thôi khỏi cần thay áo nữa, mau đuổi kịp kẻ địch đi.

Triệu Minh mỉm cười đáp:

– Chờ bấy nhiêu lâu rồi, chờ thêm một lát đã sao nào. Tôi mua hai con ngựa rồi, đêm nay chúng ta có thể đi ngay được.

Nói xong, nàng cởi cái bọc áo lấy bộ quần áo và giầy rất mới ra đưa cho Vô Kỵ, nói tiếp:

– Nơi đây là một thị trấn nhỏ, kiếm mãi mới mua được bộ quần áo rất tầm thường này.

Vô Kỵ nghiêm nét mặt lại đáp:

– Triệu cô nương, có phải cô nương muốn tôi tham danh phú quý về với triều đình phải không? Thôi, cô nên dẹp ý nghĩ ấy đi. Tôi Trương Vô Kỵ đường đường là một cháu của Ðại Hán, dù có phong cho tôi làm vương tước đi chăng nữa, tôi cũng không thể đầu hàng Mông Cổ được.

Triệu Minh nghe nói xong, thở dài một tiếng rồi đáp:

– Trương giáo chủ thử xem bộ quần áo này là đồ Mông Cổ hay là đồ của Hán nào?

Nói xong, nàng đưa bộ áo lông sóc cho chàng xem, Vô Kỵ nhìn kỹ lại thì quả thật là quần áo Hán liền gật đầu.

Triệu Minh liền quay mình lại rồi nói:

– Ðại ca thử xem tiểu muội là quận chúa Mông Cổ hay là một người thiếu nữ Hán thường?

Vô Kỵ ngượng vô cùng, vì lúc này chàng thấy quần áo của nàng ta quá lịch sự, không nghĩ đến quần áo của Mông, Hán khác nhau, bây giờ nghe nàng nhắc nhở mới nhìn kỹ. Quả là nàng ăn mặc theo lối người Hán hẳn hoi, chàng thấy hai má nàng đỏ bừng, mắt hơi đẫm lệ, trông lại càng đẹp thêm.

Lúc này chàng mới hiểu dụng ý của nàng liền nói:

– Cô nương…

Triệu Minh khẽ đáp:

– Ðại ca không nỡ giết tôi, như vậy tôi nhận thấy đầy đủ lắm rồi. Bất cứ đại ca là Nguyên hay là Hán, tôi cũng không quản ngại. Ðại ca là người Hán mà tôi là người Mông Cổ thì tôi cũng là người Hán nốt. Vô Kỵ đại ca, trong lòng em lúc nào cũng chỉ nghĩ có một mình đại ca thôi. Như vậy đại ca là người tốt hay người xấu, là vua hay ăn mày em cũng coi đại ca như một.

Vô Kỵ nghe nàng nói xong, cảm động vô cùng.

Một lúc sau, chàng mới hỏi lại:

– Có phải cô nương giết chết biểu muội tôi vì ghen đấy không? Hay là vì sợ ta lấy nàng làm vợ?

Triệu Minh lớn tiếng đáp:

– Tôi giết Hân cô nương, đại ca tin hay không thì tuỳ đại ca, tôi biết thế thôi.

– Triệu cô nương, cô nương có lòng với tôi như vậy người không phải là gỗ đá, sao không biết rõ? Nhưng ngày hôm nay, câu chuyện đó xảy ra như thế rồi, cô nương hà tất phải giấu giếm tôi như thế làm chi nữa?

– Trước kia tôi cứ tưởng đại ca là người thông minh khôn ngoan, việc làm cũng thẳng hơn người, ngờ đâu việc đời lại trái hẳn. Ðại ca này, ngày hôm nay chúng ta không nên đi nữa, hãy ở lại đây chờ Tạ đại hiệp, tôi cũng sang phòng Chu cô nương chờ đợi.

– Tại sao?

– Ðại ca khỏi phải cần hỏi tại sao, việc Hàn Lâm Nhi, đại ca cũng khỏi phải quan tâm tới, tôi bảo đảm thế nào cũng cứu được thoát nạn thì thôi.

Nói xong, nàng đi ra khỏi phòng sang bên phòng Chỉ Nhược đóng cửa ngủ luôn.

Vô Kỵ không hiểu nàng ta dụng ý gì cứ nằm tựa lưng trên giường nghĩ hoài, sau chàng đột nhiên nghĩ:

– Chả lẽ nàng đã đoán biết ta đã đính hôn với Chỉ Nhược rồi chăng, vì thế nàng thấy giết một mình em họ ta vẫn chưa đủ. Bây giờ lại định dụng kế giết hại nốt Chỉ Nhược chăng? Hay là Huyền Minh nhị lão rời khỏi miếu Di Lặc xong, liền đến khách điếm này ám hại Chỉ Nhược và nghĩa phụ ta chăng?

Nghĩ đến Huyền Minh nhị lão, chàng lại kinh hoảng.

Nên rõ võ công của Lộc Trượng Khách với Hạt Bút ¤ng quá mạnh, dù Tạ Tốn hai mắt chưa mù cũng chỉ đấu ngang tay với một trong hai người bọn chúng mà thôi.

Nghĩ tới đó, chàng nhảy phắt người lên, vội đi ra ngoài phòng, tới trước cửa phòng Triệu Minh, lên tiếng gọi:

– Triệu cô nương, Huyền Minh nhị lão thủ hạ của cô đi đâu rồi?

Triệu Minh ở trong phòng đáp:

– Có lẽ chúng thấy tôi thoát thân nên đã trở về quan nội rồi, và duổi xuống miền Nam rồi.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Có thực không?

– Nếu đại ca không tin lời nói của tôi thì hà tất phải hỏi tôi làm chi.

Vô Kỵ không biết nói năng ra sao, vẫn đứng ngẩn người ở bên ngoài, Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Nếu tôi nói cho đại ca hay là tôi đã phái Huyền Minh nhị lão tới đây giết hại Tạ đại hiệp và người yêu của đại ca là Chu cô nương thì đại ca có tin không?

Lời nói đó của nàng trúng ngay tâm sự của Vô Kỵ, vì vậy chàng liền phi thân lên đá tung cửa phòng, trán lộ gân xanh run run nói:

– Cô… cô…

Triệu Minh thấy thái độ của chàng như vậy mới hoảng sợ, mới hối hận vừa rồi mình đã nói đùa như thế. Nên nàng vội nói tiếp:

– Tôi nói đùa đại ca thế thôi, đại ca tưởng thật à?

Vô Kỵ trố mắt nhìn nàng rồi từ từ hỏi:

– Cô không sợ đến khách sạn gặp nghĩa phụ tôi, và luôn mồm nói và đòi đối chất với ông ta, như vậy là cô đã biết rõ hai người đã chết rồi phải không? Và cũng biết họ không còn ở trên đời này nữa phải không?

Nói xong chàng liền tiến lên hai bước tới gần Triệu Minh, hai người chỉ cách nhau chừng ba thước thôi.

Lúc này chàng chỉ cần giơ chưởng lên đánh một cái là nàng nọ chết liền. Triệu Minh nhìn thẳng đôi mắt chàng rồi nghiêm nghị hỏi:

– Trương Vô Kỵ, tôi nói với đại ca câu này, bất cứ việc gì cũng vậy, phải mắt mình trông thấy mới có thể tin được. Chứ không nên nghe ai nói, và cũng đừng có nghĩ vớ nghĩ vẫn. Ðại ca muốn giết tôi thì cứ việc ra tay đi, nhưng lát nữa nghĩa phụ đại ca về tới đây thì trong lòng đại ca nghĩ sao?

Vô Kỵ định thần lại giây lát rồi tự hổ thẹn thầm và đáp:

– Nếu nghĩa phụ tôi được bình yên vô sự về tới đây thì còn gì hay bằng nữa. Tôi cấm cô nương không được đem sự sống chết của nghĩa phụ tôi ra nói bông nói đùa nữa.

Triệu Minh gật đầu đáp:

– Phải, tôi không nên nói bông nói đùa như thế, từ giờ trở đi tôi không nói đùa như thế nữa.

Vô Kỵ thấy nàng ta đã nhận lỗi trong lòng nguôi giận liền mỉm cười đáp:

– Tôi cũng lỗ mãng thật, xin lỗi cô nhé!

Nói xong chàng trở lại phòng Tạ Tốn.

Ðêm hôm đó hai người chờ thâu đêm suốt sáng, hai người không thấy Tạ Tốn và Chỉ Nhược quay về.

Vô Kỵ càng lo âu thêm, chàng ăn qua loa một chút điểm tâm, rồi cùng Triệu Minh bàn định.

Triệu Minh cau mày nghĩ ngợi một hồi rồi nói:

– Lạ thực, tôi đã nghĩ rồi, vùng quanh đây chỉ có bằng chứng của Cái Bang xuất hiện thôi, chứ không thấy một người nào khác giang hồ ló mặt cả. Chi bằng chúng ta đuổi theo bọn Hỏa Long, các người xem sao, rồi dò la tin tức các người vậy.

– Phải, chỉ có cách ấy thôi.

Thế rồi hai người trả tiền phòng và dặn người trưởng quầy nếu Tạ Tốn và Chỉ Nhược về thì bảo họ ở lại tửu điếm đợi chờ.

Tên phổ ky liền dắt hai con ngựa ra cho hai người.

Vô Kỵ thấy con ngựa vừa cao vừa mạnh khoẻ, biết ngay là ngựa tốt liền khen ngợi vô cùng.

Triệu Minh thấy chàng khen ngợi như vậy liền nhẩy lên trên lưng ngựa luôn.

Hai người cưỡi hai con ngựa phóng ra khỏi luôn Trấn điện và chạy thẳng về phía Nam. Người ngoài thấy hai người ăn mặc lịch sự, cưỡi ngựa Mông Cổ tuyệt đẹp, họ lại tưởng đôi vợ chồng trẻ tuổi của nhà quan gì đấy, nên ai nấy đều đưa mắt ngắm nhìn hai người không ngớt.

Hai người phóng thêm một ngày đã đi được hơn hai trăm dặm.

Nghỉ ngơi một đêm, sáng hôm sau hai người lại đi tiếp.

Hồi thứ 81

Lòng Lang Dạ Thú

Lúc ấy sắp tới giữa ngọ, gió Bắc ở phía sau thổi tới ào ào, mây đen trên trời càng ngày càng dầy đặc. Hai người lại phóng thêm được hai mươi dặm nữa, mưa tuyết đã lác đác rơi xuống. Suốt dọc đường Vô Kỵ rất ít chuyện trò với Triệu Minh, đi tới chiều tối hai con ngựa đã mỏi mệt, nhưng quanh đó không thấy có nhà cửa nào hết.

Vô Kỵ với Triệu Minh hoang mang vô cùng, sau chàng liền hỏi với nàng ta rằng:

– Triệu cô nương biết làm sao bây giờ đây, nếu tiếp tục đi nữa hai con vật sẽ chết mệt mất?

Triệu Minh cười nhạt đáp:

– Ðại ca hay thực, chỉ biết ngựa chịu không nổi chứ không chịu biết người ra sao cả.

Vô Kỵ thấy nàng trách cứ như vậy hổ thẹn vô cùng liền nghĩ thầm:

– Phải, ta nhờ có Cửu Dương thần công nên mới không thấy mỏi mệt và giá lạnh, ta chỉ mải lo cứu người chứ không để ý đến nàng có chịu nổi giá lạnh hay không? Như vậy ta thực vô ý quá.

Hai người lại đi thêm một quãng đường nữa, bỗng nghe thấy “soẹt” một tiếng, thì ra có một con hoảng ở trong bụi chạy ra. rồi nó chạy vào trong núi.

Chàng liền đề nghị:

– Bây giờ đi bắt con hoaưng đó để tối nay làm bữa cơm vậy.

Nói xong, chàng liền nhảy xuống đất theo những vết chân con hoảng mà đuổi theo vào trong núi.

Không bao lâu chàng đã trông thấy con hoaưng chui vào trong động, chàng giở khinh công tuyệt mức ra nhanh như mũi tên đuổi theo con hoảng đó chạy vào trong hang động liền. Chỉ thoáng cái chàng đã chộp được cổ con thú đó ngay. Con hoảng đó vội quay đầu lại nhe răng định cắn cổ tay chàng. Chàng vội vận sức vào năm ngón tay, chỉ nghe thấy kêu “lách cách” hai tiếng, xương cổ của con thú nọ liền gãy luôn. Chàng hay sơn động đó tuy không lớn lắm, nhưng miễn cưỡng có thể để cho hai người ẩn núp được. Thế rồi chàng xách con hoảng đó quay trở về chỗ Triệu Minh chờ đợi và nói:

– Phía núi đằng xa kia có một cái hang động, chúng ta tạm đến đó nghỉ một đêm, chẳng hay cô nương nghĩ sao?

Triệu Minh gật đầu, bỗng mặt nàng đỏ bừng quay đầu lại dắt ngựa đi trước.

Vô Kỵ cột hai con ngựa vào một gốc cây thông ở phía sau sườn núi để tránh tuyết rồi lại đi nhặt mấy chục cành cây khô đốt lên để sưởi. Hai người thấy trong sơn động sạch sẽ không có một chút phân nào hết, Vô Kỵ nhìn vào bên trong thấy tối đen như mực và còn sâu lắm.

Chàng bèn làm thịt bằng cách lột da con hoaưng ấy lấy tuyết rửa sạch rồi để trên lửa nướng luôn. Triệu Minh cởi áo lông điểu ra để phủ xuống mặt đất nằm, nhờ có những cành cây đốt lên nên hang động ấm áp như mùa xuân. Vô Kỵ ngẫu nhiên quay đầu lại trông thấy mặt Triệu Minh đẹp hơn mọi khi. Hai người nhìn nhau cười khúc khích quên hết cả những sự mệt mỏi vừa rồi. Chờ thịt con hoảng nướng chín rồi hai người xé nó ra làm đôi, mỗi người cầm một cái đùi lên ăn.

Vô Kỵ tựa vào vách động ăn xong rồi nói:

– Chúng ta ngủ thôi.

Triệu Minh tủm tỉm cười cũng ngồi tựa lưng vô vách nhắm mắt lại nghỉ ngơi.

Vô Kỵ ngửi thấy mùi thơm ở người nàng xông ra khẽ mở mắt lên nhìn, chàng thấy mặt nàng đẹp như hoa nở, chỉ muốn chạy lại hôn nàng một cái thôi. Nhưng chàng cố kìm chế không dám nghĩ vơ vẫn như thế nữa, vội nhắm mắt lại ngủ luôn.

Ngủ đến nửa đêm chàng thấy xa xa có tiếng vó ngựa vọng tới, chàng giật mình thức tỉnh lắng tai nghe. Chàng đã nhận biết rõ tất cả bốn người cưỡi bốn con ngựa từ phía đông nam đi sang phía Bắc này, chàng liền ngó ra ngoài cửa Ðông thấy trời mưa tuyết chuyển động, liền nghĩ thầm:

– Ðêm khuya mưa tuyết to như vậy còn có ai có việc gì khẩn cấp lắm.

Chàng lại nghe thấy tiếng vó ngựa đã tới gần và ngừng ngay lại. Một lát sau, tiếng vó ngựa lại nổi lên nhưng càng gần thêm, hiển nhiên những người đó đang đi thẳng tới hang động chỗ mình núp.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi nghĩ tiếp:

– Hang động này ở phía sau núi rất ẩn khuất nếu không phải do con hoaưng đưa đường thì ta làm sao mà kiếm thấy được. Sao bây giờ lại có người biết mà tới đây thế?

Chàng thắc mắc vô cùng, nhưng sực tỉnh ngộ ngay và nghĩ tiếp:

– Phải rồi, khi chúng ta tới đây, có để lại vết chân ở trên mặt tuyết, tuy mưa tuyết vẫn liên miên nhưng không sao lấp hết được.

Lúc này Triệu Minh cũng thức tỉnh liền khẽ hỏi:

– Kẻ địch đã tới đây à? Tuy chúng ta không sợ chúng, nhưng cũng nên tránh chúng thì hơn và để xem chúng là hạng người nào? Chẳng hay đại ca nghĩ sao?

Vô Kỵ đáp:

– Chúng ở phía Nam tới.

Triệu Minh vừa hồ nghi và nói tiếp:

– Nếu vậy thì lạ thật.

Nói xong nàng vội nhặt tuyết ở bên ngoài vào lấp tắt đống lửa.

Lúc ấy tiếng vó ngựa đã ngừng hẳn và còn nghe thấy bốn người đi thẳng về phía hang động nữa. Không bao lâu, họ đã đi tới chỗ cách cửa động mấy chục trượng.

Vô Kỵ liền nói:

– Thân pháp của bốn người này nhanh lắm, hiển nhiên họ là những người có võ công rất cao.

Lúc này hai người muốn đi ra ngoài động tránh né, nhưng hai người biết nếu ra như vậy, ắt bị bốn người kia trông thấy.

Trong lúc Vô Kỵ đang vô kế khả thi, có vẻ luống cuống thì Triệu Minh đã nắm tay chàng kéo đi giật lùi vào bên trong. Hang động ấy càng vào sâu bao nhiêu càng hẹp bấy nhiêu, nhưng khi hai người lùi vào hơn một trượng thì đường bỗng quẹo ngang.

Hai người vừa tới chỗ quẹo đó thì đã nghe thấy ngoài động có người lên tiếng nói:

– Ủa, nơi đây lại có hang động nữa!

Nghe tiếng nói đó rất quen thuộc, Vô Kỵ nhận ngay ra đó là tiếng của Tứ sư thúc Trương Tòng Khê. Chàng vừa kinh hãi vừa mừng lại nghe thấy một người khác lên tiếng:

– Dấu hiệu của Thất đệ ghi lại chỉ thẳng vào nơi đây, chưa biết chừng y đã tới sơn động này cũng nên.

Vô Kỵ lại nhận ra được người này là Lục hiệp Hân Lợi Hanh. Chàng định lên tiếng kêu gọi, thì Triệu Minh đã giơ tay bịt mồm chàng và rỉ tai khẽ nói:

– Ðại ca đi với tôi để cho các người đó trông thấy thì ngượng biết bao.

Vô Kỵ nghĩ cũng phải, vẫn biết mình và Triệu Minh tuy quang minh lỗi lạc và rất đứng đắn nhưng một đôi thanh niên nam nữ cùng ngủ ở trong một sơn động, thì dù mình nói sao các sư thúc, sư bá cũng không thể nào tin được. Huống hồ Triệu Minh là quận chúa của triều đình Nguyên đã bắt giam Tòng Khê, Lợi Hanh và các người ở chùa Vạn Pháp rồi, và các người lại còn bị nàng làm nhục nữa, nên lúc này để nàng gặp phải sao cho tiện. Vì vậy chàng nghĩ thầm:

– Chi bằng ta đợi Tứ sư thúc các người ra khỏi nơi đây rồi, ta sẽ chia tay Triệu cô nương rồi một mình đuổi theo các sư thúc, sư bá, như vậy mới đỡ khó xử hơn.

Chàng đang nghĩ lại nghe thấy Liên Châu lên tiếng:

– Ủa, sao nơi đây lại có một đống cành thông vừa đốt qua. ủa, lại có cả lông da và cả vết máu của con hoảng nữa.

Lại một người khác nói:

– Không hiểu tại sao tối nay trống ngực tôi cứ đập rất mạnh, tôi chỉ mong thất sư đệ được bình yên thôi.

Vô Kỵ nhận ngay ra tiếng nói của người này là tiếng của Tống Viễn Kiều. Lúc này chàng mới hay Viễn Kiều, Liên Châu, Tòng Khê và Lợi Hanh bốn người cùng xuất mã đi tìm kiếm Mạc Thanh Cốc, nghe lời nói của họ thì hình như Thanh Cốc đã gặp phải cường địch, nên cả bốn đều tỏ vẻ lo âu.

Tòng Khê vừa cười vừa nói tiếp:

– Ðại sư ca thương thất sư đệ nhất, lại cứ tưởng chú ấy như hồi còn nhỏ chưa biết gì hết, sự thật mấy năm gần đây, tiếng tăm của Mạc thất hiệp đã lừng lẫy khắp nơi rồi, chứ có như xưa nữa đâu. Dù gặp cường địch, một mình y cũng có thể đối phó nổi.

Lợi Hanh tiếp:

– Tôi không lo cho thất sư đệ mà chỉ ngại cho Vô Kỵ thôi, vì bây giờ không biết thằng nhỏ ấy ở đâu. Hiện giờ nó là giáo chủ của Minh giáo càng trèo cao càng té đau, thể nào chả có người định hãm hại nó, vẫn biết võ công của nó cao siêu thật, nhưng nó phải nỗi quá trung hậu, không biết lòng người gian trá ra sao, chỉ sợ nó lại sa vào tròng của kẻ gian cũng nên.

Vô Kỵ nghe thấy Lục sư thúc nói như vậy, cảm động vô cùng và nghĩ:

– Các vị sư thúc, sư bá đối đãi với ta ân thâm tình trọng như vậy, ta không biết lấy gì mà báo đền cho phải.

Chàng đang nghĩ thì Triệu Minh rỉ tai chàng khẽ nói:

– Tôi là kẻ gian hiện giờ đại ca đang sa vào tròng của tôi, đại ca có biết không?

Lúc ấy Viễn Kiều lại lên tiếng:

– Thất đệ lên miền Bắc tìm kiếm Vô Kỵ hình như đã tìm kiếm thấy manh mối gì rồi, nhưng y ở khách điếm tại Thiên Tân Vệ vội vàng để lại tám chữ mà không viết rõ thêm, như vậy, mới khiến chúng ta khó đoán ý nghĩa của y định nói gì.

Tòng Khê đỡ lời:

– Chú ấy viết: “Môn hộ hữu biến, kích tu thanh lý”, chẳng lẽ trong phái Võ Ðang của chúng ta lại có môn hạ đệ tử nào phản trắc chăng? Hay là Vô Kỵ nó…

Nói tới đó, Tứ hiệp không tiện nói tiếp và câu cuối cùng hình như nghẹn ngào không sao nói được nữa.

Lợi Hanh cũng nói:

– Ðệ chắc Vô Kỵ nó không dám làm những việc bại hoại đến môn phái của chúng ta đâu, đệ dám tin chắc là như vậy.

Tòng Khê lại tiếp:

– Tôi chỉ sợ yêu nữ Triệu Minh quả lợi hại mà Vô Kỵ thì còn ít tuổi bồng bột mà ham mê nữ sắc, nên tôi chỉ sợ nó lại giống cha nó, rồi đi tới chỗ thân bại danh liệt…

Thế rồi bốn người không nói năng gì cả cùng thở dài một tiếng. Tiếp theo đó Vô Kỵ và Triệu Minh lại nghe thấy tiếng quẹt đá lửa, tiếng cành thông cháy kêu “lốp bốp” mới hay bốn người đang đốt củi để sưởi. ánh sáng lửa chiếu vào phía sau động, từ chỗ ẩn núp của hai người, Vô Kỵ vẫn có thể trông thấy rõ mặt của Triệu Minh, chàng thấy mặt nàng ta như oán như giận, chắc nàng ta tức vì lời nói của Tòng Khê vừa rồi, chàng bỗng giật mình và nghĩ thầm:

– Lời của Tứ sư thúc cũng có lý, mẹ ta không làm một việc gì xấu xa cả mà phải liên luỵ đến cho ta như thế. Triệu cô nương này đã giết biểu muội, làm nhục Thái sư phụ và sư thúc sư bá, như vậy nàng làm sao bằng được mẹ ta?

Nghĩ tới đó, trống ngực chàng đập rất mạnh, rồi chàng lại nghĩ tiếp:

– Nếu bị các người trông thấy ta với Triệu cô nương ở đây thì dù có cả nước một con sông hoàng Hà cũng không rửa sạch hiềm nghi này.

Chàng lại nghe thấy Viễn Kiều với giọng run run, nói:

– Tứ đệ, ngu huynh vẫn có một nghi vấn nung nấu trong lòng mà không tiện nói ra. Nếu nói ra chỉ sợ Thất sư đệ với Ngũ đệ đã khuất núi.

Tòng Khê từ từ hỏi:

– Có phải đại ca lo ngại Vô Kỵ hạ độc thủ giết hại Thất đệ đấy không?

Viễn Kiều không trả lời, tuy Vô Kỵ không trông thấy thân hình người sư bá đó, nhưng chàng cũng đoán biết sư thúc trả lời sư bá bằng cái gật đầu rồi.

Chàng lại nghe Tòng Khê nói tiếp:

– Vô Kỵ tính nết thuần hậu, theo lý ra, không khi nào có dám làm như vậy, nhưng đệ chỉ lo tính nết của Thất đệ hơi lỗ mãng một chút, dồn Vô Kỵ không chịu nổi, khiến nó không biết xử trí thế nào, lại thêm gian nữ Triệu Minh ở cạnh dàn xếp gian kế, đặt điều thị phi để khiêu khích. Hà, lòng người khó đoán thực và thế sự cũng không ai có thể hay biết trước. Từ xưa đến nay, anh hùng khó qua được ải mỹ nhân, chỉ mong Vô Kỵ không đến nỗi hồ đồ như chúng ta tưởng tượng thôi.

Lợi Hanh xen lời nói:

– Ðại ca, Tứ đại ca nói những chuyện bâng quơ như thế làm chi, như vậy có khác người chỉ lo trời đổ không? Chưa chắc Thất đệ đã gặp phải hung hiểm gì.

Viễn Kiều lại nói:

– Nhưng ngu huynh thấy thanh trường kiếm của Thất đệ vẫn đeo luôn trong người, quả thật khiến ngu huynh giật mình hoảng sợ ăn ngủ không yên.

Liên Châu cũng xen lời nói:

– Việc này cũng khó hiểu thực, chúng ta là người luyện võ không bao giờ vứt bừa bãi khí giới của mình như vậy. Hơn nữa thanh kiếm này là thanh kiếm của sư phụ tặng cho y, có thể nói là kiếm còn thì người còn, còn kiếm mất thì…

Nói tới đây Nhị hiệp không dám nói tiếp nữa. Vô Kỵ nghe nói Thanh Cốc bỏ rơi thanh trường kiếm của sư phụ truyền cho, bốn vị sư thúc sư bá lại có ý nghi ngờ mình, nên chàng vừa lo âu vừa tức giận.

Ðột nhiên trong động có một mùi thơm rất nồng bốc ra, mùi thơm ấy lại xen thêm cả mùi hôi của dã thú nữa, hình như trong động rất sâu, nếu không phải lúc này trong đó đang có dã thú ẩn núp thì thế nào cũng có dã thú đi qua. Chàng sợ Viễn Kiều và các người hay biết, nên không dám cử động. Tay nắm lấy tay Triệu Minh, chàng lại sợ va chạm phải những tảng đá nhô ra, cho nên tay trái cứ đưa về phía trước, nhưng đi được ba bước lại quẹo một cái, rồi chàng bỗng đụng phải một vật gì mềm nhũn. Hình như là thân hình của một người vậy.

Chàng giật mình kinh hãi, và bỗng nghĩ thầm:

– Bất cứ người này là địch hay là bạn, chỉ hơi lên tiếng một tí là đại sư bá các người hay biết liền.

Chàng vội dùng tay trái điểm luôn vào năm chỗ yếu huyệt của kẻ địch, rồi bắt lấy cổ tay, nhưng chàng thấy tay của đối thủ lạnh ngắt, biết người đó đã tắc thở đã lâu. Nhờ có một chút ánh sáng, chàng ngắm nhìn mặt người đó thì thấy cái xác đó không phải là ai xa lạ mà chính là Thất sư thúc Mạc Thanh Cốc.

Chàng kinh hãi vô cùng và cũng không nghĩ tói chuyện bị Tống Viễn Kiều phát giác, vội ôm ngay xác của Thất hiệp chạy ra ngoài. Nhờ có ánh sáng hơn một chút, chàng mới thấy rõ là Mạc Thanh Cốc chứ không phải là ai khác nữa. Nhưng chàng thấy mặt Thất hiệp không có một chút sắc máu nào hết, hai mắt vẫn mở to trông lại càng kinh hãi thêm. Chàng vừa đau đớn vừa tức giận, ngẩn người ra như tượng gỗ. Chàng lại đi thêm mấy bước.

Bọn Viễn Kiều các người nghe thấy tiếng động, Liên Châu liền quát lớn:

– Bên trong có người!

Chàng vừa nói xong, cả bốn anh em cùng rút trường kiếm ra liền. Vô Kỵ kêu khổ thầm và nghĩ:

– Ta đang aưm xác của Thất sư thúc mà lại ẩn thân ở nơi đây như vậy thì tội thí sư thúc này, không thể nào rửa sạch được.” Chàng nghĩ tới Thanh Cốc đối xử với mình tử tế như thế nào, bây giờ trông thấy Thất hiệp bị giết một cách thảm khốc như thế, chàng lại đau đớn thêm, chỉ thoáng cái đầu óc chàng rối loạn vô cùng.

Triệu Minh nhanh trí khôn hơn chàng nhiều, vội tung mình nhảy ra bên ngoài, rồi “soẹt, soẹt, soẹt” đâm luôn bốn kiếm. Nàng sử dụng toàn những thế kiếm trí mạng của phái Nga Mi, nhằm tứ hiệp của phái Võ Ðang đâm tới. Tứ hiệp vội giơ kiếm lên chống đỡ, phi thân lên mình ngựa. Nàng còn thuận tay đâm luôn Tòng Khê một kiếm nữa rồi đá vào bụng ngựa một cái. Con ngựa bị đau cất vó phi thật nhanh.

Triệu Minh may mắn thoát hiểm, nhưng thấy trên lưng đau nhức, mắt nổi đom đóm lửa và hơi thở càng khó thêm. Ðó là nàng đã bị trúng phải một thế phi chưởng của Liên Châu. Nàng phục ở trên lưng ngựa, thần trí mê man, như vậy thấy công lực của Liên Châu thâm hậu. Chưởng ấy tuy chưa đánh trúng thực sự, nhưng nàng cũng bị thương thật sự rồi. Tiếp theo đó nàng nghe thấy tứ hiệp đuổi theo sau liền.

Nàng nghĩ thầm:

– Ta càng chạy xa bao nhiêu, chàng càng dễ thoát thân bấy nhiêu, bằng không mối oan của chàng không sao rửa sạch được. Cũng may họ bốn người đều đuổi theo ta hết, không có một người nào nghĩ ra trong động còn có người khác nữa.

Nàng nghe thấy tiếng chân của bốn người càng lúc càng gần, liền dùng kiếm đâm vào hông ngựa một cái, con ngựa đau quá không chịu nổi, liền tăng tốc lực phi như bay.

Vô Kỵ thấy Triệu Minh bỗng xô ra như vậy, ngạc nhiên vô cùng sau chàng mới nghĩ ra là nàng muốn dùng kế điệu hổ ly sơn để cứu mình thoát thân. Chàng liền ôm xác của Thanh Cốc ra khỏi động. Lúc ấy chàng mới hay Triệu Minh cùng tứ hiệp Võ Ðang chạy về phía Ðông. Chàng liền chạy luôn về phía Tây. Ði được hơn hai dặm, liền giấu cái xác của Thanh Cốc vào một tảng đá lớn. Xong đâu đấy, chàng liền quay trở lại bên cạnh đường cái, nhảy lên một cây cổ thụ, mãi một hồi lâu mà trống ngực của chàng vẫn còn đập. Chàng nghĩ đến cái chết thảm thương của Thanh Cốc, nước mắt liền nhỏ ròng ròng và nghĩ thầm:

– Sao phái Võ Ðang của ta lại lắm tai nạn đến thế, không hiểu hung thủ giết chết Thất sư thúc là ai?

Nửa tiếng đồng hồ sau, chàng lại nghe thấy tiếng vó ngựa của ba con ngựa đi từ phía Ðông Nam về phía Bắc, nhờ có ánh sáng tuyết phản chiếu, chàng đã trông thấy Viễn Kiều, Liên Châu mỗi người cưỡi một con, còn Lợi Hanh với Tòng Khê thì cưỡi chung một con.

Chàng nghe thấy Liên Châu nói:

– Yêu nữ ấy bị tôi đánh trúng một chưởng cả người lẫn ngựa rớt xuống thung lũng, chắc nó khó sống được.

Tòng Khê liền đỡ lời:

– Ngày hôm nay chúng ta mới rửa được sự tủi nhục ở chùa Vạn Pháp và mới đỡ bực mình đôi chút. Nhưng tại sao y thị lại núp trong động như thế? Thực ra là việc đời rất kỳ ảo, không ai có thể biết trước được.

Lợi Hanh cũng xen vào nói:

– Tứ ca thử đoán xem y thị ẩn núp trong động một mình làm chi?

Tòng Khê đáp:

– Khó đoán lắm, giết chết được yêu nữ vẫn không mừng. Bây giờ mà tìm thấy được Thất sư đệ mới là điều đáng mừng.

Bốn người càng đi càng xa, nên họ nói gì Vô Kỵ không thể nghe được nữa. Chờ bốn người đi thật xa rồi Vô Kỵ mới nhẩy xuống đất.

Chàng theo vết chân ngựa chạy về phía Ðông, vừa đi vừa nóng lòng sốt ruột vô cùng và nghĩ thầm:

– Tuy nàng xảo trá độc ác thật, nhưng lần này nàng đã hy sinh tính mạng để cứu ta. Nếu vì ta mà mất mạng thì ta… ta… ta…. ta…

Chàng càng nghĩ càng rảo chân bước mau thêm chỉ trong thoáng cái, chàng đi được bốn năm dặm đường rồi. Khi tới một sườn núi cao chót vót, trên mặt tuyết vẫn còn một đống máu tươi, cạnh đó có rất nhiều dấu chân, chỗ mép núi có một tảng đá lớn bị lăn xuống, bên dưới vẫn còn lại dấu vết hẳn hoi. Chàng đoán Triệu Minh phi ngựa tới đây rồi cả người lẫn ngựa rớt xuống chứ không sai.

Chàng vội cúi đầu kêu gọi:

– Triệu cô nương! Triệu cô nương!

Chàng gọi luôn bốn năm tiếng, nhưng không thấy có tiếng trả lời, chàng càng lo âu thêm lại ngó nhìn xuống bên dưới, thấy là một cái thung lũng rất sâu vì đêm tối nên chàng không sao thấy đáy thung lũng, sườn núi lại rất dốc, chàng không thể nào đi xuống bên dưới được. Nhưng Vô Kỵ nóng lòng cứu người, không quản ngại nguy hiểm liền thò chân xuống để tuột xuống dưới. Chàng thấy xuống tới ba bốn trượng thì người chàng rớt càng nhanh, vội giơ mười ngón tay ra vận sức cắm sâu vào vách núi. Nhờ vậy người chàng mới ngừng lại được giây lát, rồi chàng lại thuận thế tiếp tục cho tuột xuống như trước. Như vậy năm sáu lần mới xuống được đáy thung lũng, chàng thấy chỗ dẫm chân mềm nhũn vội nhảy ra bên ngoài tránh né. Chàng liền định thần nhìn kỹ mới hay đó là cái xác con ngựa chết và thấy Triệu Minh vẫn nằm trên mình ngựa, hai tay ôm chặt lấy cổ ngựa, chàng vội giơ tay rờ vào mũi nàng thấy hãy còn hơi thở, nhưng người nàng lạnh ngắt như đã chết mất rồi. Chàng hơi yên chí, vội bước sang bên một bước, ngờ đâu chân chàng lún xuống ngay, chàng mới hay tuyết ở nơi đó rất dày lên tận ngang lưng, vì thế rất khó đi. Cũng may dưới thung lũng tối om, tuyết chưa bị tan lại thêm Triệu Minh chưa rời khỏi mình ngựa, khi té xuống thêm bên dưới, nhờ có thân mình ngựa đỡ cho nên con ngựa chết ngay mà nàng chỉ chết giấc mà thôi.

Chàng thăm mạch biết nàng tuy bị thương khá nặng nhưng chưa đến nỗi mất mạng. Thế rồi chàng aưm nàng ta vào lòng, hai tay nắm chặt lấy hai bàn tay của nàng để vận công chữa thương.

Vô Kỵ rất tinh thâm về y đạo, thần công lại thâm hậu. Vết thương của Triệu Minh bị chưởng đánh trúng đó tuy khá nặng, nhưng chưởng ấy lại là chưởng của phái Võ Ðang nên chỉ trong nửa tiếng đồng hồ nàng đã lại tỉnh dần.

Vô Kỵ lại dồn Cửu Dương chân khí vào người nàng, hơn một tiếng đồng hồ nữa, trời đã sáng dần, Triệu Minh khạc ra một đống máu bầm rồi khẽ hỏi:

– Họ đi cả rồi à? Họ có trông thấy đại ca không?

Vô Kỵ thấy nàng quan tâm đến việc của mình như vậy, cảm động vô cùng, vội đáp:

– Các người không trông thấy tôi. Cô… cô có thấy đau không?

Chàng một mặt nói, một mặt truyền chân khí sang người nàng, còn nàng thì cứ nhắm mắt lại, tuy chân tay mỏi mệt nhưng trong người đã thấy rất khoan khoái. Cửu Dương chân khí ở trong người nàng chạy mấy vòng rồi, nàng mới quay đầu lại vừa khuyên bảo Vô Kỵ:

– Ðại ca nghỉ ngơi chốc lát đi. Tôi đã thấy mạnh nhiều rồi.

Vô Kỵ giơ hai cánh tay ra ôm ngang lưng nàng, má phải của chàng kề sát vào má trái của nàng và nói:

– Cô nương đã cứu cho tôi khỏi bị tai tiếng, còn hơn cứu tôi thoát chết mười lần, càng khiến tôi cảm động và nhớ ơn thêm.

Triệu Minh khúc khích cười và tiếp lời:

– Tôi là tiểu yêu nữ, vừa gian trá vừa ác độc, tôi không cần gì tiếng tăm hết mà chỉ cần tính mạng thôi.

Ðang lúc ấy thì trên sườn núi có tiếng người nói vọng xuống:

– Con yêu nữ đáng chết ấy quả thực nó chưa chết, tại sao mi dám giết chết Mạc thất hiệp của chúng ta, hãy mau mau xưng ra đi.

Vô Kỵ đã nhận ra tiếng của người đó là tiếng của Liên Châu, chàng càng kinh hãi thêm, không hiểu tại sao bốn vị sư thúc sư bá đã đi rồi mà còn quay trở lại.

Triệu Minh liền nói:

– Ðại ca đừng có quay đầu lại, đừng để họ trông thấy mặt.

Tòng Khê cũng lên tiếng hỏi:

– Tặc yêu nữ, mi mà không trả lời, chúng ta sẽ lăn đá xuống bây giờ.

Triệu Minh ngẩng đầu nhìn lên, quả thấy Viễn Kiều bốn người, tay đang giơ cao một tảng đá định ném xuống.

Nếu cả bốn người cùng ném xuống một lúc thì nàng với Vô Kỵ thể nào cũng chết toi, nhiều vội rỉ tai Vô Kỵ khẽ nói:

– Công tử hãy xé một mảnh áo lông úp lên mặt, rồi aưm tôi đào tẩu ngay đi.

Vô Kỵ nghe lời, liền xé một mảnh áo lông úp lên trên mặt, thắt nút ở phía sau gáy rồi đội mũ úp chụp lên trên trán, chỉ để lộ hai mắt thôi.

Thì ra Võ Ðang tứ hiệp đuổi theo Triệu Minh, thấy nàng rớt xuống đáy thung lũng nhưng bốn người hành hiệp giang hồ, kiến thức quảng bác, đoán chắc Triệu Minh là một quận chúa cao quý như vậy, không khi nào lại dám đi xa một thân một mình mà không có hộ vệ như thế, nên bốn người giả bộ cưỡi ngựa chạy đi thật xa, đi được vài dặm liền buộc ngựa vào một gốc cây, rồi rón rén quay trở lại tìm kiếm. Trước hết tứ hiệp vào trong sơn động châm đuốc để đi sâu vào bên trong, đi vào đến trong hang động bốn người thấy xác chết của hai con hoảng mình như bị dã thú cắn xé nên thịt và máu be bét, nhưng mùi thơm vẫn chưa ngớt, bốn người tìm kiếm thêm nữa không thấy gì cả, lại trông thấy vết chân của Vô Kỵ để lại, liền theo vết chân đó mà đi tìm kiếm, quả nhiên nhìn thấy xác của Thanh Cốc, nhưng tay chân của chàng ta đã bị dã thú cắn nát. Bốn người càng tức giận thêm.

Lợi Hanh liền quỳ xuống khóc lóc.

Liên Châu vừa chùi nước mắt vừa nói:

– Yêu nữ Triệu Minh tuy võ công cao siêu thực, nhưng một mình y thị không thể nào giết chết được Mạc thất đệ. Lục đệ hãy tạm nén cơn đau đớn, bây giờ chúng ta cần phải tìm kiếm hung thủ, rồi nhất nhất giết sạch để báo thù cho Thất đệ.

Tòng Khê cũng lên tiếng:

– Chúng ta ẩn núp cạnh hang động, chờ cho trời sáng, thủ hạ của yêu nữ thế nào cũng quay lại tìm kiếm.

Trong các anh em của chư hiệp Võ Ðang chỉ có Tòng Khê là người túc trí đa mưu nhất, nên ai ai cũng phải nghe kế của chàng, vì vậy cả ba người kia đều nín khóc và tìm kiếm những tảng đá lớn ở hai bên hang động để ẩn thân đợi chờ. Bốn người chờ tới trời sáng mà vẫn không thấy thủ hạ của Triệu Minh tìm tới nên mới quay trở lại chỗ Triệu Minh té ngã để xem xét lại. Bốn người văng vẳng nghe thấy tiếng nói ở bên dưới vọng lên liền cúi đầu nhìn xuống xem, mới hay có một người đàn ông ăn mặc lịch sự ôm chặt Triệu Minh trong lòng.

Lúc ấy bốn người mới biết Triệu Minh chưa chết, trong bụng giận dữ định dùng đá ném chết Triệu Minh với người đàn ông kia.

Thung lũng hình như một cái giếng sâu, bốn bên đều là vách đá, riêng có phía Tây Bắc là có một con đường nhỏ hẹp ra vào được thôi.

Tòng Khê lại quát bảo:

– Bớ hai con chó nhà Nguyên kia, chúng bây hãy mau đi lối đường hẻm kia mà lên trên này, nếu trì hoãn chúng ta sẽ ném chết luôn.

Vô Kỵ thấy tứ sư bá tưởng lầm mình là người Mông Cổ chắc tại mình mặc quần áo quá lịch sự mà nên, nhưng chàng đưa mắt nhìn xung quanh thấy dưới thung lũng không có một nơi nào có thể ẩn núp được, nếu Tứ hiệp ném đá xuống thực, thì mình còn may mắn nhảy nhót tránh né nổi, nhưng còn Triệu Minh thì khó mà sống được, nên chàng nghĩ đành phải vâng theo lời nói của Tứ hiệp mà di lên, tới đâu hay đấy vậy.

Thế rồi chàng ẳm Triệu Minh đi theo đường hẻm từ từ bò lên, chàng cố ý làm ra vẻ võ công thấp kém, đi vài bước lại té một cái, hơn nữa đường hẻm đó rất khó lên, chàng lại giả bộ mệt mỏi thở hồng hộc. đi được nửa tiếng đồng hồ lại giả vờ ngã té mười hai hay mười tám lần, sau mãi mãi mới lên tới được đất bằng. Chàng định lên khỏi thung lũng là sẽ aưm Triệu Minh chạy liền ngay. Với khinh công của chàng lúc này dù có aưm theo một người, Tứ hiệp cũng chưa chắc đuổi theo kịp, nhưng Tòng Khê rất thông minh, thấy thái độ mệt nhọc và té ngã của chàng không giống những người yếu kém và mệt mỏi thực sự, nên đã báo cho ba người kia hay mỗi người đứng ra một góc, cầm bốn thanh kiếm chỉ thẳng vào người chàng. Mũi kiếm chỉ cách người chàng có nửa thước thôi.

Viễn Kiều hậm hực hỏi:

– Quân tặc Mông Cổ kia, mi dùng da lông cừu che lấy mặt quỷ như vậy, tưởng có thể thoát chết hay sao? Ai đã giết Mạc thất hiệp của phái Võ Ðang, các ngươi khôn hồn thì mau xưng ra, bằng không ta sẽ chems hai người ra làm muôn mảnh, rồi mổ bụng các ngươi để tế em ta nữa.

Triệu Minh nghe nói thở dài và bảo Vô Kỵ rằng:

– A Lỗ Bất Hoa tướng quân, bây giờ câu chuyện đã xảy ra như vậy rồi, thì tướng quân nên nói cho họ hay đi.

Nói rồi, nàng rỉ tai Vô Kỵ nói thầm:

– Ðại ca dùng võ công của Thánh hỏa lệnh đi.

Ðáng lẽ Vô Kỵ không muốn dùng áp lực của Thánh hỏa lệnh đối với bốn vị sư bá sư thúc như vậy, nhưng hoàn cảnh bắt buộc, nếu không đào tẩu thì xấu hổ và ngượng biết bao, vì vậy chàng đột nhiên nghiến răng giơ người Triệu Minh lên ném luôn vào người Lợi Hanh, mồm thì nói xí xa xí xố, rồi chàng lộn người một vòng giơ tay ra chộp Tòng Khê. Lợi Hanh kinh hãi thuận tay đỡ lấy Triệu Minh, ngẩn người ra giây lát rồi điểm luôn vào yếu huyệt vứt nàng ra ngoài xa. Trong thời gian đó, Vô Kỵ đã sử dụng võ công quái dị của Thánh hỏa lệnh, tay đấm Viễn Kiều, chân đá Liên Châu, đầu húc Tòng Khê và tay đưa về phía sau cướp luôn trường kiếm của Lợi Hanh. Mấy thế công của chàng vừa nhanh, vừa quái dị, khiến Võ Ðang tứ hiệp cuống cả tay lên không biết phải chống đỡ thế nào cho phải.

Ngày nọ ở trên đảo Linh Xà, Vô Kỵ có võ công cao cường như thế mà địch không nổi hai sứ giả của Ba Tư vì họ biết võ công ghi trên Thánh hỏa lệnh, huống hồ lúc này chàng đã thuộc hết toàn bộ võ công ghi trên Thánh hỏa lệnh, lại mạnh hơn Lưu Vân tam sứ mấy bội thì Võ Ðang tứ hiệp làm sao mà chống đỡ nổi, cho nên đấu được hơn hai mươi hiệp, võ công của chàng càng kỳ ảo khôn lường thêm, làm cho Tứ hiệp mỗi lúc một bị dồn vào thế bí.

Triệu Minh nằm ở trên mặt tuyết lớn tiếng kêu gọi:

– A Lỗ Bất Hoa tướng quân, nam tử người Hán cứ tưởng mình là tài ba lắm, ngay hôm nay cho họ nếm thử môn vật lộn võ công cổ truyền của Mông Cổ chúng ta.

Tòng Khê cũng la lớn:

– Chúng ta nên dùng Thái cực quyền để bảo vệ bằng không thế quyền của quân Thát Ðát kỳ lạ lắm.

Bốn người liền thay đổi quyền pháp sử dụng luôn vào Thái cực quyền để bảo vệ, nhờ vậy, họ mới hết sơ hở, Vô Kỵ đột nhiên ngồi phịch xuống đất giơ hai quyền lên cứ đấm vào ngực mình lia lịa. Võ Ðang tứ hiệp bình sinh đã gặp gỡ không biết bao nhiêu là cường địch và kiến thức rất nhiều quái thế, ngay đên cả Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp là võ công kỳ lạ nhất trong võ học mà họ cũng đã được trông thấy rồi, chỉ riêng có người Mông Cổ này ngồi xuống đất tự đấm vào ngực của mình như vậy là họ chưa trông thấy lần nào thôi. Bốn người đã thu trường kiếm và giở Thái cực quyền ra thủ giữ rồi. Bây giờ họ thấy Vô Kỵ giở võ công quái dị như vậy, liền ngẩn người ra. Viễn Kiều, Liên Châu, Tòng Khê ba người lại rút trường kiếm ra nhắm người của Vô Kỵ đâm luôn. Còn kiếm của Lợi Hanh thì đã bị Vô Kỵ cướp và vứt đi rồi, nên chàng thấy bên người có cột thanh kiếm của Thanh Cốc cũng vội rút thanh kiếm đó ra xông lại đánh Vô Kỵ luôn. Vô Kỵ liền giơ chân ra quét ngang vào cả mặt cả người Tứ hiệp. Ðó cũng là một thế võ ghi trong Thánh hỏa lệnh, thế võ ấy gọi là Phi Xa Cuốn Thương Ðội. Thì ra Sơn Trung lão nhân, khi ở Ba Tư đã dùng thế này đá cát vàng để tấn công đội thương gia cưỡi lạc đà, vì chúng là bọn giặc Ba Tư cứ giả bộ làm khách thương để cướp những khách thương khác. Chúng hễ thấy có đội khách thương khác xa xa đi tới là ngồi xuống đất đấm ngực kêu khóc bù lu bù loa. Các khách thương thấy vậy thế nào cũng tới gần hỏi han. Thế là Sơn Trung lão nhân đá cát bay tung lên, làm mù mịt cả mắt bọn khách thương rồi lại còn múa khí giới tấn công tiếp nữa. Chỉ trong thoáng cái mấy chục tên khách thương đã bị đổ máu ở bên bãi cát vàng, xác nằm ngổn ngang ngay. Thế đó quả thực thâm độc vô cùng. Bây giờ Vô Kỵ dùng thế này đá tung tuyết ở trên mặt đất công hiệu cũng như đá cát vậy! Trông thoáng cái, Võ Ðang tứ hiệp liền bị mịt mù hai mắt không trông thấy gì cả. Tuy vậy bốn người ứng biến rất nhanh chóng, vội nhảy lui về phía sau, nhưng Vô Kỵ còn nhanh hơn đã vội nhảy lại ôm chặt lấy hai chân của Liên Châu lăn trên mặt đất một vòng thuận tay điểm luôn ba nơi yếu huyệt của Nhị sư bá của chàng.

Tiếp theo đó chàng lại tung mình nhảy lên không lộn một vòng, lúc rớt xuống dùng đầu gối quỳ ngay vào đỉnh đầu của Lợi Hanh mà còn va đụng vào hai nơi yếu huyệt trên đỉnh đầu của người sư thúc ấy. Lợi Hanh chết giấc ngã lăn xuống đất tức thì. Viễn Kiều phi thân chạy lại cứu viện. Vô Kỵ vội ngồi về phía sau, dùng lưng thúc luôn vào người sư bá đó. Viễn Kiều xoay kiếm đâm không kịp, vội giơ tay trái lên nhắm đầu đánh xuống, nhưng tay của Tống đại hiệp chưa kịp đánh xuống thì ngực đã tê tái. Thì ra đã bị Vô Kỵ điểm trúng hai nơi yếu huyệt rồi. Tòng Khê thấy vậy kinh hãi vô cùng, vì trong bốn anh em chỉ còn lại có một mình mà thôi. Nhưng tình nghĩa anh em, Tứ hiệp nhất quyết không chịu thoát thân một mình, liền múa kiếm chạy lại đâm “xoẹt xoẹt” ba thế. Vô Kỵ thấy Tứ sư bá đang lúc nguy nan mà hộ pháp vẫn chắc, kiếm thế không hề loạn xạ chút nào, mà ba kiếm này lại lợi hại vô cùng, thế kiếm nào cũng giữ đúng gia pháp của Võ Ðang nên chàng cũng phải khen ngợi thầm và nghĩ:

– Võ công của Võ Ðang thật lợi hại khác thường, nếu ta không được những võ công quái dị này mà muốn hạ nổi bốn vị sư thúc sư bá không phải là chuyện dễ.

Nghĩ đoạn, chàng đột nhiên quay đầu thành từng vòng tròn một. Tòng Khê cứ đứng yên và cũgn không đưa mắt nhìn cái đầu đang quay của chàng, chỉ múa kiếm xông lại tấn công ngực chàng thôi. Chàng vội cúi đầu xuống hình như định dùng đầu để đỡ kiếm của Tòng Khê vậy. Nhưng chàng bỗng ngã sấp người đâm bổ về phía trước liền. Thế là bốn nơi yếu huyệt ở bụng và đùi trái của Tứ hiệp bị điểm luôn và cũng bị chàng đẩy ngã lăn ra đất liền. Vô Kỵ biết bốn nơi yếu huyệt dó chỉ có thể làm cho hai chân tê không cử động được thôi, chàng vội giơ hai tay ra điểm thêm hai nơi yếu huyệt ở trên lưng người sư thúc đó thì bỗng thấy Tòng Khê rú lên kêu một cách thảm khốc, hai mắt trợn ngược, mình run lẩy bẩy chân tay co rúm, rồi ngã lăn ra chết luôn.

Vô Kỵ kinh hãi vô cùng nghĩ thầm:

– Vừa rồi ta điểm mấy yếu huyệt đó rất nhẹ tay, chẳng những không thể chết được mà bị thương nhẹ cũng không. Chẳng lẽ Tứ sư bá có bệnh cũ, rồi đột nhiên gặp phải đả kích này, nên mới chí mạng như thế chăng?

Chàng càng nghĩ càng toát mồ hôi lạnh ra, liền giơ tay sờ vào mũi Tòng Khê coi có còn thở hay không, ngờ đâu Tòng Khê đã giơ tay trái lên lật luôn miếng da che mặt Vô Kỵ rồi hai người cùng nhìn mặt nhau và ngẩn người ra.

Một lát lâu, Tòng Khê mới lên tiếng nói:

– Giỏi lắm, Vô Kỵ! Ra là mi!… Thực không uổng chúng ta đối đãi với mi như vậy.

Giọng nói của Tứ hiệp đã nghẹn ngào, mặt chứa đầy vẻ tức giận, nước mắt nhỏ dòng xuống hai má, không sao nói ra được những sự uất hận và đau lòng. Thì ra, y tự biết địch không nổi đối phương, nhưng tự nghĩ chết mà không trông thấy mặt kẻ địch thì làm sao cam tâm được, cho nên y mới giả bộ chết, rồi lật miếng da che mặt của Vô Kỵ ra coi. Phần thì thật thà, phần thì quá quan tâm đến Tứ sư bá, Vô Kỵ mới không phòng bị như vậy. Lúc này trong lòng chàng còn đâu khổ hơn là bị lăng trì.

Người cứ ngẩn ra như tượng gỗ một hồi lâu mới nói được:

– Tứ sư bá, không phải cháu, không phải cháu… Thất sư thúc, không phải cháu… không phải cháu… không phải cháu giết… Thất sư thúc đâu.

Tòng Khê ha hả cười và nói tiếp:

– Hay lắm! Mi mau giết tất cả chúng ta đi! Ðại ca, Nhị ca, Lục đệ các người đều trông thấy rõ tên Mông Cổ này không phải là ai cả mà chính là Vô Kỵ chúng ta vẫn thương vẫn mến.

Viễn Kiều, Liên Châu, Lợi Hanh không cử động được nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, cả ba đều ngẩn người và trợn mắt nhìn Vô Kỵ. Lúc này Vô Kỵ chỉ muốn nhặt ngay trường kiếm lên đâm vào cổ một nhát cho rảnh.

Triệu Minh bỗng lớn tiếng nói:

– Trương Vô Kỵ, đại trượng phu chịu nhịn nhất thời oan uổng đã sao nào? Việc đời thế nào cũng có một ngày sáng tỏ, quý hồ đại ca cứ kiếm ra được hung thủ giết chết Mạc thất hiệp báo thù cho ông ấy, như vậy đại ca mới không phụ lòng thương yêu của Võ Ðang thất hiệp đã thương đại ca bấy lâu nay.

Vô Kỵ nghe nói, giật mình đến thót một cái, chàng cảm thấy lời nói của Triệu Minh rất có lý vội hỏi lại:

– Vậy chúng ta phải làm như thế nào?

Nói xong, chàng đến trước mặt Triệu Minh xoa bóp cho nàng một hồi và giải huyệt cho nàng nữa.

Triệu Minh nói giọng êm dịu an ủi chàng rằng:

– Ðại ca! Ðừng tức bực làm chi. Trong Minh giáo có nhiều cao thủ như thế và thủ hạ của tôi cũng có nhiều người tài trí lắm, như vậy thế nào cũng bắt được tên hung thủ mà trả thù cho Mạc thất hiệp.

Tòng Khê lớn tiếng xen lời nói:

– Trương Vô Kỵ! Nếu mi còn có đôi chút lương tâm thì mau mau giết bốn chúng ta đi. Vì chúng ta không thể nào trông mi với yêu nữ âu yếm với nhau như vậy được!

Vô Kỵ mặt tái mét quả thực chàng không biết làm thế nào cho phải.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Chúng ta hãy đi cứu Hàn Lâm Nhi trước, rồi quay trở lại cứu nghĩa phụ của đại ca, dọc đường tiện thể điều tra xem hung thủ giết Mạc thất thúc là ai, còn do thám xem ai là hung thủ giết biểu muội của đại ca nữa!

Vô Kỵ hỏi lại:

– Cô nương nói… nói gì thế?

Triệu Minh lạnh lùng đáp:

– Có phải đại ca giết chết Mạc thất thúc không? Tại sao bốn vị sư thúc, sư bá của đại ca lại cứ bảo rằng đại ca giết hại Thất sư thúc? Vậy có phải là đại ca đã giết Thất sư thúc không và có phải là tôi đã giết Hân Ly không? Tại sao đại ca lại cứ vu oan cho tôi như thế? Chẳng lẽ chỉ có một mình đại ca đổ oan cho người khác mà cấm người khác đổ oan cho đại ca hay sao?

Mấy lời của nàng tựa như sét đánh ngang tai, lúc này Vô Kỵ mới biết những người bị hàm oan đau khổ như thế nào, nên chàng nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ Triệu cô nương cũng bị hàm oan như ta chăng?

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Ðại ca điểm huyệt bốn vị sư bá, sư thúc như vậy, chẳng hay các vị ấy có thể tự giải huyệt được không?

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Ðây là võ công kỳ môn của Thánh hỏa lệnh, bốn vị sư thúc sư bá không thể nào tự giải huyệt lấy được! Nhưng mười hai tiếng đồng hồ sau, không cần giải huyệt cũng có thể tự cử động được.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Nếu vậy chúng ta hãy đưa bốn vị vào trong sơn động rồi chúng ta rời khỏi nơi đây ngay. Trước khi chưa tìm ra được hung thủ, đại ca không thể nào gặp bốn vị này được.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Trong hang núi có dã thú, có những con hoaưng ra vào luôn, chính xác của Mạc sư thúc cũng bị dã thú cắn nát.

Triệu Minh thở dài và hỏi tiếp:

– Xem chừng đại ca đã loạn hết trí óc rồi, cái gì cũng không nghĩ ra hết. Trong bốn vị chỉ còn có một vị hai tay cử động được và cầm kiếm ở trong tay thì dã thú gì cũng không thể xâm phạm các vị ấy được.

Vô Kỵ liền tỉnh ngộ nói:

– Phải đấy! Phải đấy!

Thế rồi, chàng aưm Tứ hiệp của phái Võ Ðang lên, đặt vào phía sau một tảng đá lớn để tránh gió tuyết. Bốn vị đại hiệp cứ mắng chửi luôn mồm. Vô Kỵ nước mắt đẫm lệ, nhưng không dám trả lời gì cả.

Triệu Minh lại tiếp:

– Bốn vị đều là cao thủ trong võ lâm mà sao không chịu hiểu một tý sự ký gì cả. Nếu Mạc thất hiệp bị Vô Kỵ giết hại thì bây giờ y đã giết bốn vị để bít miệng, như vậy có khó gì đâu? Chẳng lẽ y đang tâm giết được Thất hiệp mà y lại không giết chết được bốn vị hay sao? Nếu bốn vị còn mắng chửi như thế nữa thì Triệu Minh tôi sẽ tặng cho mỗi vị một cái bạt tai liền! Tôi là yêu nữ âm độc hiểm ác, nói được là làm được. Ngày hôm nọ ở trong chùa Vạn Pháp nể mặt Trương công tử nên đối với các vị mới đặc biệt lễ phép như vậy. Các tay cao thủ của các môn phái kia, ai ai cũng bị tôi chặt đứt một cánh tay, nhưng đối với Võ Ðang thì Triệu Minh tôi đối đãi rất lễ phép và chu đáo.

Viễn Kiều các người nghe thấy nàng nói như vậy đều ngẩn người ra nhìn nhau.

Tuy nhiên họ vẫn nhận định chính Vô Kỵ đã giết chết Mạc Thanh Cốc. Nhưng họ lại sợ Triệu Minh ra tay đánh người thật, vì đại trượng phu đành chịu chết chứ không chịu nhục, nếu bị tiểu yêu nữ đánh mấy cái tát thì có phải là sỉ nhục biết bao không? Triệu Minh thấy sắc mặt của bốn người, biết là họ đang nghĩ gì rồi, nàng liền mỉm cười nói với Vô Kỵ:

– Ðại ca! Hãy dắt ngựa của chúng ta tới đây để thồ bốn người đi về sơn động.

Vô Kỵ do dự một hồi rồi đáp:

– Thôi! Ðể tôi ẳm mấy vị ấy đi vậy!

Triệu Minh đã biết ý nghĩ của Vô Kỵ rồi, liền cười nhạt nói tiếp:

– Võ công của đại ca cao siêu đến đâu cũng không thể ẳm bốn người cùng một lúc được! Có phải đại ca sợ đi ra dắt ngựa thì tôi ở đây giết hại các vị hay không? Thế ra đại ca vẫn không tin tôi, thôi được, để tôi đi dắt ngựa cho đại ca ở đây canh gác vậy!

Vô Kỵ thấy nàng nói trúng tâm sự của mình nên mặt chàng đỏ bừng, quả thật chàng không dám giao phó tính mạng của bốn vị sư bá cho một thiếu nữ mà chàng vẫn chưa hiểu rõ tính nết của nàng đó ra sao? Vì vậy chàng liền đáp:

– Phiền cô nương đi dắt ngựa vào đây hộ vậy để tôi ở đây canh gác bốn vị sư thúc sư bá cho!

Triệu Minh cười nhạt nói tiếp:

– Dù đại ca có tốt bụng và ân cần đến đâu, người ta vẫn không tin đại ca kia mà! Bầu nhiệt huyết của đại ca, người chỉ cho là lòng lang dạ thú thôi. Ðại ca có biết thế hay không?

Nói xong, nàng quay mình đi ra dắt ngựa luôn!

Vô Kỵ ngồi ngẫm nghĩ lời nói của nàng, nhận thấy nàng bảo sư thúc sư bá mình vẫn còn nghi ngờ mình và còn bảo mình nay còn nghi ngờ nàng, chàng nhìn theo Triệu Minh đi ra thật xa, bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa nhộn nhịp ở phía Bắc đi về phía Nam, rõ ràng có hai người đi trước, một người sau.

Hồi thứ 82

Hành Tung Của Sư Vương

Triệu Minh cũng nghe thấy tiếng vó ngựa, liền nói:

– Có người tới đây!

Vô Kỵ liền vẫy tay gọi nàng.

Triệu Minh vội chạy đến sau tảng đá lớn, nằm phục cạnh Vô Kỵ.

Nàng trông thấy nửa người của Liên Châu thò ra bên ngoài, liền kéo Nhị hiệp vào phía sau tảng đá.

Liên Châu giận dữ quắc mắt nhìn nàng và nói:

– Ðừng có đụng vào người của ta!

Triệu Minh vừa cười vừa nói tiếp:

– Tôi cứ lôi kéo ông đấy! Ông có làm gì nổi tôi nào?

Vô Kỵ vội quát mắng:

– Triệu cô nương! Không được vô lễ với sư bá tôi như thế!

Triệu Minh thè lưỡi ra một cái rồi lại nhìn Liên Châu làm bộ mặt nhăn nhó để giễu cợt. Ðang lúc ấy thì đã có một người cưỡi ngựa chạy tới gần.

Hai người cưỡi ngựa theo sau cũng chạy nhanh như bay.

Hai bọn cách nhau độ hai ba chục trượng, người chạy trước càng tới càng gần.

Vô Kỵ đã nhanh mắt trông thấy người đó, khẽ nói:

– Là Tống Thanh Thư đấy!

Triệu Minh vội đỡ lời:

– Mau ngăn cản y đi!

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi lại:

– Làm chi?

Triệu Minh đáp:

– Ðại ca khỏi cần hỏi rõ! Ðại ca quên ở trong điện Phật Di Lặc, y nói những gì à?

Vô Kỵ nghe nàng nói xong, rồi cúi xuống nhặt một hòn băng to bằng đầu ngón tay, búng ra bên ngoài kêu đến xoẹt một tiếng, trúng ngay vào chân trước con ngựa mà Thanh Thư đang cưỡi. Con ngựa đau quá quỵ ngay xuống.

Thanh Thư nhanh chân nhảy ra ngoài nên mới khỏi bị té ngã, rồi y vội lôi kéo con ngựa đứng lên, nhưng chân con ngựa đã gãy, nó chỉ đứng lên một cái quỵ ngay xuống.

Thanh Thư thấy hai người ở phía sau càng đuổi càng gần, vội bỏ ngựa chạy lại đằng này.

Vô Kỵ lại nhặt lại một viên băng nữa giơ lên búng ngay vào yếu huyệt ở chân phải của Thanh Thư.

Còn Triệu Minh thì nhanh tay điểm luôn vào yếu huyệt câm của bốn anh em Viễn Kiều, nhờ vậy mới kịp thời ngăn cản không để cho họ lên tiếng kêu gọi.

Mọi người bỗng nghe thấy Thanh Thư kêu ồ lên một tiếng rồi té lăn ra mặt tuyết. Vì liên tiếp hai lần bị cản trở nên hai người đuổi theo mới bắt kịp.

Vô Kỵ nhìn kỹ mới hay hai người đó là Trần Hữu Lượng với Trưởng bát Long đầu của Cái bang.

Chàng ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Hai người này cùng đi núi Trường Bạch để tìm độc vật làm thuốc mê, tại sao bây giờ lại một hai chạy đuổi tới đây như vậy?

Nghĩ tới đó, chàng suy tính giây lát lại nghĩ tiếp:

– Phải rồi, chắc Tống đại ca lương tâm cắn rứt không làm chuyện bất nhân bất nghĩa ấy, cũng may gặp được ta, để ta cứu ngay một phen mới được.

Hữu Lượng với Trưởng bát Long đầu nhảy xuống ngựa.

Chúng tưởng Thanh Thư vì cưỡi ngựa đã lâu nên đuối sức mà té như thế. Nhưng chúng đoán chắc võ nghệ của chàng rất cao siêu tuy bị thương nhưng chỉ bị thương nhẹ, vì vậy chúng vừa chạy tới gần đã vội rút khí giới ra, dí luôn vào người chàng.

Vô Kỵ lại búng một hạt băng ra, nhằm Hữu Lượng bắn tới.

Nhưng Triệu Minh đã nhanh tay rung động cánh tay chàng, chàng vội quay đầu nhìn lại. Triệu Minh vội chỉ vào tai mình, rồi lại chỉ về phía Thanh Thư, ý của nàng là hãy nghe họ nói gì đã.

Quả nhiên, Trưởng bát Long đầu giận dữ nói:

– Họ Tống kia! Ðang đêm khuya, ngươi im lặng đào tẩu đi đâu, có phải ngươi muốn đi báo tin cho cha ngươi biết không?

Y cầm một thanh bát quái đao, vừa nói vừa đưa đi đưa lại trước đầu Thanh Thư làm ra bộ định chém xuống vậy.

Viễn Kiều thấy vậy lo âu cho con mình bị nguy hiểm, muốn quát tháo nhưng không sao la được, vì cứng miệng.

Vô Kỵ ngẫu nhiên quay đầu lại thấy mặt sư bá tỏ vẻ lo âu van lơn vì vậy chàng liền gật đầu ra hiệu:

– Bác cứ yên tâm, cháu không để cho Tống đại ca bị thương đâu.

Nhưng trong lòng chàng lại thầm nghĩ:

– Ơn cha mẹ thương con thật là trời cao đất dầy, đại sư bá tức giận lắm chỉ muốn chém ta ra làm muôn mảnh, nhưng bây giờ ông ta biết Tống đại ca sắp bị nguy hiểm đến nơi, lại tỏ vẻ van lơn ta, nhưng nếu đại sư bá bổn thân không bị nguy hiểm thì chắc ông ta không chịu lép vế mà van lơn như vậy đâu.

Nghĩ tới Thanh Thư có người lo cho và thương yêu như vậy mà mình lại là đứa trẻ mồ côi, chàng thấy tủi thân.

Chàng lại nghe thấy Thanh Thư nói tiếp:

– Tôi không phải đi báo tin cho cha tôi biết đâu.

Trưởng bát Long đầu lại hỏi tiếp:

– Bang chủ phái ngươi theo ta đi núi Trường Bạch hái thuốc, tại sao không cho ta hay biết trước mà lại bỏ đi như thế?

Thanh Thư đáp:

– Long đầu đại ca, đại ca có cha có mẹ như tôi, tại sao đại ca lại cứ bắt ép tôi giết hại cha tôi như thế làm một việc cầm thú như vậy?

Trưởng bát Long đầu lại quát tiếp:

– Ðó là ngươi quyết ý trái lệnh của Bang chủ phải không? Ngươi có biết hình phạt cho người phản bang như thế nào không?

Thanh Thư lại trả lời:

– Tôi là người có tội, đáng lẽ tôi không muốn sống nữa, mấy ngày hôm nay hễ nhắm mắt thì thấy mặt Thất sư thúc đến bắt tôi đền mạng, oan hồn sư thúc hiện lên quây quần lấy tôi. Trưởng bát Long đầu đai ca, chém chết tôi đi, như vậy tôi lại càng cám ơn đại ca là khác.

Trưởng bát Long đầu liền giơ cao thanh bát quái đao lên quát:

– Ðược, nếu ngươi muốn vậy để ta giúp cho.

Hữu Lượng cũng xen lời nói:

– Long đầu đại ca, chú em họ Tống đã không chịu làm, mà giết y cũng vô ích, thôi chúng ta để cho y đi đi.

Trưởng bát Long đầu ngạc nhiên hỏi:

– Hiền đệ bảo tha y ư?

Hữu Lượng đáp:

– Phải, y đã giết sư thúc của y là Mạc Thanh Cốc, tất nhiên sẽ có người trong môn phái của ta giết hại y. Những kẻ bất nghĩa này, chém chết y cũng chỉ dơ bẩn đao của chúng ta thôi.

Bữa nọ, ở trong miếu Di Lặc, Vô Kỵ đã nghe thấy Hữu Lượng và Thanh Thư nói đến chuyện Mạc Thanh Cốc, với những cầu bề dưới phạm bề trên v. v… nhưng lúc ấy chàng không nghi ngờ Thanh Thư dám phạm thượng đến thế. Ngờ đâu Thanh Cốc lại bị chết trong tay y thật. Bốn sư huynh đệ Viễn Kiều, tuy bị tảng đá che lấp, không trông thấy gì, nhưng tai đã nghe thấy rõ ràng, cả bốn đều chấn động vô cùng.

Duy có Triệu Minh đã đoán biết trước, nên nàng bĩu môi tỏ vẻ khinh thị.

Mọi người lại nghe thấy Thanh Thư với giọng run rẩy nói tiếp:

– Trần đại ca, đại ca đã thề nặng là không bao giờ tiết lộ câu chuyện bí mật này ra, nếu đại ca không nói gì thì cha tôi biết làm sao được?

Hữu Lượng tủm tỉm cười và đáp:

– Chú chỉ nhớ được lời thề của tôi, nhưng chú lại quên mất lời thề độc của chú. Chú bảo từ giờ trở đi việc gì cũng theo tôi chỉ bảo hết, mà bây giờ chú lại hủy lời ước trước, có phải là tôi không giữ chữ tín đâu?

Thanh Thư ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói tiếp:

– Ðại ca bảo tôi bỏ thuốc độc vào thức ăn uống để cho Thái sư phụ và sư bá, sư thúc của tôi ăn phải, thì tôi đành chết, chứ không chịu. Chi bằng đại ca rút kiếm ra giết tôi ngay đi.

Hữu Lượng lại hỏi tiếp:

– Chú Thanh Thư, cổ nhân đã dạy, kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Chúng tôi có bắt chú giết cha, diệt tổ đâu, chỉ bảo chú cho ít thuốc mê để cho các người mê đi chốc lát thôi. ở trong miếu Di Lặc chú chẳng đã nhận là gì?

Thanh Thư vội đáp:

– Không, không, tôi chỉ nhận lời bỏ thuốc mê thôi, nhưng Trưởng bát Long đầu lại cứ bắt tôi đi tìm những sâu bọ rất độc để làm thuốc độc giết người. Như vậy có phải là làm thuốc mê đâu?

Hữu Lượng từ từ thâu trường kiếm lại và nói tiếp:

– Chu cô nương của phái Nga Mi đẹp như tiên nữ, trên thế gian này không có người nào đẹp bằng nàng ta, chẳng lẽ chú cam tâm để cho nàng ta lọt vào tay tiểu tử Vô Kỵ kia hay sao? Lo thật, ngày nọ trong đêm khuya, chú lẻn vào trong phòng ngủ của các nữ đệ tử phái Nga Mi để xem trộm bị Thất sư thúc của chú gặp rồi đuổi theo chú, nên mới có trận tỷ võ ở Thạch Thương và mới có tấn bi kịch cháu giết chú xảy ra. Ðó là tại sao? Ðó chỉ là vì Chu cô nương nhu mì, đa tình là gì? Nhưng việc đã trót thì phải cho trót, ngựa đã vào đường hẻm không sao quay đầu lại được. Tôi tiếc thay cho chú, vì công việc đã thành chín phần rồi, chỉ còn một phần nữa là xong xuôi thôi.

Thanh Thư lảo đảo mấy cái mới đứng dậy được giận dữ quát mắng:

– Hữu Lượng đại ca, đừng có dùng lời ngon lẽ ngọt ấy àm dồn ép tôi nữa, tối hôm ấy tôi bị Mạc thất thúc đuổi kịp, tôi địch không nổi chú ta, tôi đã làm bại hoại thanh danh của Võ Ðang dù có chết trong tay ông ta cũng đành chịu. Ngờ đâu đại ca lại ra tay trợ giúp tôi làm chi? Tôi đã trúng phải quỷ kế của đại ca, cho nên mới phải thân bại danh liệt và không thể tự cứu được.

Hữu Lượng vừa cười vừa đỡ lời:

– Hay lắm, hay lắm, lưng Mạc Thanh Cốc bị đánh một chưởng Chấn thiên thiết chưởng, chưởng đó là chú đánh hay là tôi đánh? Tối hôm đó tôi ra tay cứu chú thoát chết để giữ cho chú khỏi mất thanh danh, làm như vậy là tôi lầm phải không? Chú Thanh Thư ơi, tôi với chú kết giao với nhau một phen, việc quá khứ chúng ta không cần nhắc tới nữa làm chi. Việc chú giết sư thúc, tôi xin giữ kín, quyết không tiết lộ nửa câu cho ai hay cả, nhưng núi cao đường còn dài, chúng ta sau này thế nào cũng có ngày tái ngộ.

Thanh Thư thấy đối phương chịu rút lui một cách êm ả như vậy, hoài nghi vô cùng, vội hỏi lại:

– Trần… Trần đại ca… đại ca… sẽ đối phó với tôi ra sao?

Hữu Lượng vừa cười vừa đáp:

– Tôi chả đối phó ra sao hết. Tôi cho chú xem một vật này, đây cái này chú có biết là cái gì không?

Vô Kỵ với Triệu Minh ẩn núp ở sau tảng đá nghe lỏm, lúc ấy hai người muốn ló đầu ra nhòm để xem Hữu Lượng lấy vật gì ra cho Thanh Thư xem, nhưng hai người không dám nhô ra, vì sợ đối phương trông thấy, nên lại thôi.

Rồi hai người lại nghe thấy Thanh Thư kêu “ủa” một tiếng và nói tiếp:

– Ðây… đây là cái cà rá sắt của người chưởng môn của phái Nga Mi và cũng là vật của Chu cô nương, tại sao… đại ca lại lấy được thế?

Vô Kỵ nghe xong, cũng rùng mình và nghĩ thầm:

– Lúc ta chia tay với Chỉ Nhược, rõ ràng ta trông thấy chiếc cà rá sắt đó, sao bây giờ lại lọt vào tay Hữu Lượng được? Có lẽ y làm giả để đánh lừa Thanh Thư chăng?

Chàng lại nghe thấy Hữu Lượng cười nhạt một tiếng và nói:

– Chú cứ nhìn kỹ xem nó giả hay thực?

Một lát sau Thanh Thư mới lên tiếng nói tiếp:

– Khi ở Tây Vực, tôi lãnh giáo võ công của Diệt Tuyệt sư thái, có thấy cái cà rá trên tay bà ta giống y như cái này vậy.

Chỉ nghe thấy tiếng kêu “koong” một tiếng, đó là tiếng của hai thứ kim khí va chạm nhau. Hữu Lượng lại nói:

– Nếu vật này là giả tạo thì dùng kiếm chặt sẽ gẫy làm đôi liền. Ðây chú xem, trong cà rá có khắc bốn chữ “Lưu Di Tường Nữ”. Như vậy không còn là giả nữa chứ? Ðúng là Thiết chỉ hoàn , di vật của Quách Tường nữ hiệp, tổ sư của phái Nga Mi đấy.

Thanh Thư lại đỡ lời:

– Trần đại ca, đại ca lấy ở đâu ra chiếc cà rá này thế? Còn Chu cô nương hiện giờ ở đâu?

Hữu Lượng lại mỉm cười rồi đáp:

– Trưởng bát Long đầu, chúng ta đi đi thôi, nay trong Cái Bang chúng ta không có người này nữa.

Vô Kỵ và Triệu Minh nghe thấy tiếng chân của hai người đi về phía Bắc, Thanh Thư vội kêu gọi:

– Trần đại ca, hãy trở lại đây, có phải Chu cô nương đã lọt vào tay đại ca rồi không. Hiện giờ cô ấy còn sống hay đã chết rồi…

Hữu Lượng quay trở lại, mỉm cười, đáp:

– Phải, hiện giờ Chu cô nương đang ở trong tay của chúng tôi, mặt cô ấy đẹp thật, tôi trông thấy cũng phải thương. Hữu Lượng tôi đến giờ chưa có gia thất, nếu tôi xin Bang chủ gả cô nương cho tôi chắc thế nào Bang chủ cũng nhận lời.

Thanh Thư ú ớ một hồi, hình như bị cái gì chận cổ, không nói lên lời.

Hữu Lượng lại tiếp:

– Ðáng lẽ quân tử không bao giờ cướp sở hữu của người, vì Chu cô nương với Thanh Thư đã gây nên đại hoạ tày trời, khi nào Hữu Lượng tôi vì nhan sắc mà làm mất nghĩa khí của anh em chúng ta? Nhưng bây giờ chú là kẻ có tội và phản Bang rồi thì hai chúng ta cũng ơn đoạn, nghĩa tuyệt. Như vậy tôi không cần gì phải giữ nghĩa khí với chú nữa, có phải thế không?

Thanh Thư cúi đầu ngẫm nghĩ, trong lòng mâu thuẫn vô cùng.

Vô Kỵ đưa mắt liếc nhìn Viễn Kiều thấy có hai hàng lệ nhỏ ròng, đủ thấy ông ta đau đớn biết bao.

Ðang lúc ấy Thanh Thư nói tiếp:

– Trần đại ca, chỉ vì đệ hồ đồ nhất thời mà nên, mong hai vị lượng thứ cho. Bây giờ đệ xin vái chào hai vị, để hai vị xá tội cho đệ.

Hữu Lượng ha hả cười đáp:

– Ừ, thế mới phải chứ, thế mới là chú em tốt của chúng tôi chứ. Tôi xin vỗ ngực đảm bảo cho chú. Quý hồ chú chịu đem thuốc mê lên núi Võ Ðang, lẳng lặng bỏ vào trong nước trà để cho mọi người uống. Tôi cam đoan với chú tính mệnh lệnh tôn đại nhân không nguy hiểm chút nào. Và giai nhân Chu Chỉ Nhược thế nào cũng thành thê thất của chú. Chúng ta đã có Trương Tam Phong và Võ Ðang thất hiệp trong tay thì không lo gì Vô Kỵ không nghe chúng ta. Cho tới khi Cái Bang kiềm chế được Minh giáo đuổi được quân Mông Cổ cướp được thiên hạ, Bang chủ của chúng ta đều là khai quốc công thần và được vinh thê ấm tử, khỏi nói cả lệnh tôn đại nhân thế nào cũng được nhờ vả chú.

Thanh Thư gượng cười nói tiếp:

– Cha tôi không ưa danh lợi và tôi cũng chỉ mong cha tôi không giết tôi là tôi mãn nguyện lắm rồi.

Hữu Lượng lại tiếp:

– Trừ khi lệnh tôn là đại nhân của thần tiên mới biết được chuyện quá khứ vị lai, bằng không làm sao mà biết được sự bí mật đó? Chú Thanh Thư, vừa rồi chú té ngã nên chân bị thương? Nào lại đây, chúng ta cùng cưỡi một ngựa, đi tới thị trấn ở đằng trước rồi mua ngựa cho chú.

Thanh Thư đáp:

– Tại tôi chạy vội vàng quá, nên vấp phải một tảng băng, số tôi xui thực, lại va trúng yếu huyệt ở dưới chân, thật là chuyện lạ, sao lại có nhiều sự gặp gỡ kỳ lạ đến thế?

Thì ra lúc Trương Vô Kỵ dùng sức ném hạt băng đó Thanh Thư chỉ để ý đến Trưởng bản Long đầu và Hữu Lượng ở phía sau đuổi theo, nên y không ngờ đằng trước có người ném lén như vậy mà cứ tưởng là mình lỡ chân, nên mới va phải yếu huyệt như vậy. Ví dụ chúng ta đây, thỉnh thoảng để khuỷu tay vào góc bàn cũng thấy tê tái, những trường hợp ngẫu nhiên đó rất thường.

Hữu Lượng vừa cười và đáp:

– Có xui xẻo gì đâu, phải nói chú diễm phúc tề thiên mới đúng vì số của chú đáng có người vợ đẹp nếu chú không ngẫu nhiên va chạm mà té như vậy thì chúng tôi làm sao đuổi kịp chú được. Rồi nếu chú cứ chấp nê hoài, không chịu tỉnh ngộ, về phần chú, tất nhiên là sẽ bị thân bại danh liệt mà còn làm hỏng cả đại sự của chúng tôi nữa, như vậy có phải Chu cô nương vừa thơm vừa đẹp kia sẽ phải theo Hữu Lượng này suốt đời không? Nếu quả thực như thế thì thực là một bông hoa đẹp cắm lên bãi cứt trâu mất, có phải không chú Thanh Thư, hà hà…

Lời nói của y là lời nói đùa, nhưng bên trong bao hàm sự uy hiếp rất lợi hại.

Thanh Thư kêu “hừ” một tiếng, vội đỡ lời:

– Trần đại ca, không phải là đệ không biết nếp tẻ gì cả, tin hay không là tuỳ ở đại…

Hữu Lượng không đợi chờ Thanh Thư nói xong, đã cướp lời nói luôn:

– Có phải chú muốn gặp mặt Chu cô nương không? Chuyện ấy dễ lắm, bây giờ Bang chủ với các Trưởng lão đều ở Lư Long. Chu cô nương cũng theo mọi người ở tại đó, chúng ta cứ đến Lư Long là gặp luôn. Chờ đại sự ở núi Võ Ðang xong, người anh này thế nào cũng giúp chú lo việc cưới xin để chú được toại nguyện. Và chú sẽ suốt đời cám ơn Hữu Lượng đại ca này, hà, hà, hà…

Thanh Thư vội hỏi:

– Vâng, nếu vậy chúng ta đi ngay Lư Long, Trần đại ca này, sao Chu cô nương lại… lại theo bổn bang như thế?

Hữu Lượng vừa cười vừa đáp:

– Ðó là công lao lớn của Long đầu đại ca. Hôm đó Trưởng bản Long đầu với Trưởng bản long đầu ở trên tửu lầu uống rượu thấy có ba người lạ mặt trà trộn vào trong. Sau sai người điều tra mới hay trong đó có Chu cô nương người đẹp như hoa nở. Trưởng bản Long đầu liền phái người đi mời cô ta đến. Chú cứ yên tâm, Chu cô nương bình yên vô sự không tổn thương một tý gì đâu.

Vô Kỵ liền kêu khổ thầm và nghĩ:

– Thế ra hôm đó ở trên tửu lầu chúng đã nhận biết mà ta không hay gì cả, nếu lúc ấy nghĩa phụ không mù loà thì ông ta thể nào cũng biết rõ. Nhưng không hiểu nghĩa phụ có được bình yên vô sự không?

Chàng để ý không thấy Hữu Lượng nhắc nhở đến nghĩa phụ cả, mà chỉ nghe y nói tiếp:

– Chu cô nương với chú thành hôn xong, thế là Nga Mi với phái Võ Ðang phải nghe lệnh Cái Bang, còn phái Thiếu Lâm ở trong tay tôi rồi. Lại thêm Cái Bang với Minh giáo thanh thế lớn lao như vậy, chỉ cần đánh đổ người Mông Cổ thì giang sơn loè loẹt này hì hì… liền đổi vua chúa.

Hữu Lượng nói mấy câu đó có vẻ đắc chí lắm hình như là Cái Bang đã sắp được thiên hạ rồi, mà y sắp lên ngôi báu vậy. Trưởng bát Long đầu với Thanh Thư đều theo y cười hì hì mấy tiếng, Hữu Lượng nói tiếp:

– Chúng ta đi thôi. Chú em họ Tống, Mạc thất hiệp ở gần đây, xác của y giấu trong hang động cách đây không xa phải không? Chú chạy tới đây ngựa bỗng vấp ngã, có lẽ oan hồn của Mạc thất hiệp hiển thánh chăng? Hà hà…

Thanh Thư nghe thấy Hữu Lượng nói mấy câu đó hoảng sợ đến rợn tóc gáy, rồi quay mình khấp khểnh chạy luôn.

Chờ ba người đi thật xa, Vô Kỵ vội chạy đến giải huyệt cho Viễn Kiều bốn người, và quỳ xuống vái lạy rồi nói:

– Sư bá, sư thúc vì sự hiềm nghi, cháu không biết biện bạch ra sao cho phải, nên mới phải thất lễ với quý vị như thế. Xin quý vị cứ phạt cháu thật nặng đi.

Viễn Kiều thở dài một tiếng, nước mắt ứa ra, ngẩng mặt nhìn lên trời không nói năng gì cả. Liên Châu vội đỡ Vô Kỵ và nói:

– Chúng ta thân như cốt nhục, những chuyện đó khỏi cần nói làm chi, thật không ngờ Thanh Thư… Thanh Thư. Hà, nếu chúng ta không mắt thấy tai nghe thì có ai dám tin?

Viễn Kiều rút trường kiếm ra và nói:

– Thế ra Thất đệ bắt gặp tiểu súc sinh Thanh Thư… tiểu súc sinh ấy… nhìn trộm phòng ngủ của các nữ hiệp của phái Nga Mi nên Thất đệ mới đuổi theo súc sinh để quét sạch cửa ngõ cho bổn phái. Ba vị sư đệ, và cháu Vô Kỵ, chúng ta hãy đuổi theo ngay đi, để ta ra tay giết chết tên súc sinh đó.

Nói xong, đại hiệp liền giở khinh công ra đuổi theo Thanh Thư liền.

Tòng Khê vội kêu gọi:

– Ðại ca hãy ngừng chân lại, việc gì cũng nên bàn tính trước thì hơn.

Viễn Kiều không nghe, cứ xách kiếm chạy như bay.

Vô Kỵ vội đuổi theo, chỉ nhảy nhót mấy cái đã đến trước mặt Viễn Kiều và giơ tay ra ngăn cản rồi cúi đầu vái lạy và nói:

– Ðại sư bá, Tứ sư bá có lời muốn nói với sư bá, Tống đại ca nhất thời bị người ta lừa gạt, sau này, thế nào cũng biết hối cải, đại sư bá muốn khiển trách Tống đại ca lúc nào chả được, việc gì cứ phải lúc này.

Viễn Kiều nức nở khóc và tiếp:

– Thất đệ, Thất đệ… đại ca đây thật không nên không phải với đệ lắm.

Ðột nhiên, đại hiệp quay người lại, xoay đầu kiếm cứa luôn vào cổ, Vô Kỵ thấy vậy cả kinh dùng Càn Khôn Ðại Nã Di thủ pháp cướp luôn trường kiếm đó. Nhưng hơi chậm một chút nên mũi kiếm đã rạch một đường khá dài ở trên cổ của Viễn Kiều rồi.

Lúc ấy Liên Châu các người cũng đuổi tới, Tòng Khê vội khuyên:

– Ðại ca, Thanh Thư đã làm việc đại nghịch bất đạo ấy người trong Võ Ðang không ai có thể tha thứ được, nhưng việc quét rửa bổn phái là nhỏ, việc dân chúng mới thật là lớn. Chúng ta không nên vì việc nhỏ mà làm lỡ mất việc lớn.

Viễn Kiều trợn tròn hai mắt đáp:

– Chú, chú nói việc quét sạch cửa ngõ của bổn môn là nhỏ à? Tôi… đẻ đứa con phản nghịch ấy…

Tòng Khê vội đỡ lời:

– Nghe lời nói của Hữu Lượng thì Cái Bang còn muốn mượn tay Thanh Thư mưu hại tôn sư và chúng ta để kiềm chế các đại môn phái trong võ lâm sang đoạt giang sơn. Sự sa nguy của sư tôn là một việc lớn của bổn môn, sự hoạ phúc của dân chúng với võ lâm lại càng lớn hơn nữa. Cháu Thanh Thư làm nhiều việc bất nghĩa như vậy, không sớm thì chầy thế nào cũng bị báo oán, cho nên theo ý đệ bây giờ chúng ta cần phải bàn việc trước tiên.

Viễn Kiều nghe y nói có lý, hậm hực bỏ kiếm vào bao và nói tiếp:

– Ðại ca bằng lòng rồi đệ muốn làm như thế nào cứ việc lên tiếng sai bảo đi.

Lợi Hanh lấy thuốc cứu thương ra băng bó cho đại hiệp.

Tòng Khê liền nói tiếp:

– Cái Bang định hại ngầm chúng ta mà sư phụ của chúng ta chưa hay biết gì, chúng ta phải trở về núi Võ Ðang ngay để báo tin cho sư phụ hay. Tuy Hữu Lượng nó định nhờ Thanh Thư đầu độc, nhưng tên gian đồ ấy nhiều quỷ kế lắm, chưa biết chừng chúng đã ra tay trước, vậy việc này cần nhất là chúng ta chia người phụ trách bảo vệ sư tôn. Vì hiện giờ sư tôn tuổi tác quá cao, nếu bây giờ có chuyện xảy ra thì thật là tội, chúng ta chết một vạn lần không chuộc lại được.

Nói xong, y trợn trừng mắt nhìn Triệu Minh đứng ở đằng xa.

Vì Tứ hiệp nghĩ đến chuyện nàng mưu hại Trương chân nhân năm xưa, nên Tứ hiệp hậm hực và tức giận vô cùng.

Viễn Kiều toát mồ hôi lạnh ra, với giọng run run đáp:

– Phải, phải, vì tôi quá nóng lòng đuổi theo giết tên nghịch tử mà quên cả sư phụ, tôi thực hồ đồ quá.

Ðại hiệp là người rất trực tính, nói xong liền thúc giục mọi người:

– Chúng ta đi mau.

Tòng Khê liền nói với Vô Kỵ rằng:

– Vô Kỵ, việc cứu Chu cô nương thì cháu tự đi làm lấy, xong việc, mong cháu trở về núi Võ Ðang tụ họp một phen.

Vô Kỵ đáp:

– Xin tuân lệnh sư bá dạy bảo.

Tòng Khê khẽ nói tiếp:

– Triệu cô nương này có tính nết như sài lang, cháu nên cẩn thận lắm mới được. Thanh Thư là cái gương của cháu, nam nhi đại trượng phu chớ nên bị nữ sắc mê hoặc.

Vô Kỵ mặt đỏ bừng, gật đầu vâng lời.

Sau đó, Võ Ðang Tứ hiệp với Vô Kỵ đưa xác của Thanh Cốc chôn sau một tảng đá lớn.

Năm người khóc lóc một hồi, rồi Viễn Kiều bốn người lên ngựa đi trước.

Triệu Minh từ từ đi tới trước mặt Vô Kỵ và hỏi:

– Tứ sư bá của đại ca bảo đại ca phải cẩn thận, kẻo bị yêu nữ này mê hoặc và Thanh Thư là cái gương soi sáng đây, có phải thế không?

Vô Kỵ mặt đỏ bừng, vừa cười vừa đáp:

– Sao cô nương biết? Chẳng lẽ cô nương là thần phong nhĩ chăng?

Triệu Minh kêu “hừ” lên một tiếng rồi hỏi lại:

– Tôi chắc Tống đại hiệp các người sau này thế nào cũng nghĩ lại không trách cứ Thanh Thư có lòng ác độc, trái lại còn trách chị Chỉ Nhược là hồng nhan hoạ thủy, đã làm hủy một đời thiếu hiệp của Võ Ðang đi, có phải thế không? Lòng người đàn ông nào cũng đều thế cả. Chỉ giỏi trách người, chứ không bao giờ chịu trách mình hết.

Vô Kỵ cũng nhận thấy lời nói của nàng có lý, nhưng cũng cãi lại:

– Ðại sư bá các người đều là những quân tử sáng suốt và biết lẽ phải, không bao giờ trách cứ bừa như thế đâu.

Triệu Minh cười nhạt và nói tiếp:

– Càng là người quân tử, càng hay trách bậy người.

Ngừng giây lát, nàng vừa cười vừa nói tiếp:

– Thôi, mau cứu Chu cô nương của đại ca đi. Bằng không để nàng lọt vào tay Thanh Thư thì đại ca nguy tai lắm đấy.

Vô Kỵ hổ thẹn vô cùng liền đỡ lời:

– Tại sao tôi lại nguy tai?

Hai người theo vết chân ngựa mà đi tìm kiếm một mạch chạy thẳng vào tới quan nội.

Vì nhớ nghĩa phụ và cũng nhớ Chỉ Nhược nữa, Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Nếu Cái Bang định lợi dụng nghĩa phụ ta để kiềm chế Minh giáo như vậy nghĩa phụ quả thật đã lọt vào tay Cái Bang rồi. Tất nhiên chúng không dám đả thương nghĩa phụ ta đâu, nhưng thế nào cũng bị nhục chứ không sai. Còn Chỉ Nhược là người nhu mì hiền hậu như thế, gặp phải Hữu Lượng gian trá và Thanh Thư vô sỉ, nếu nàng bị áp bức quá, tức nhiên nàng không sao tránh khỏi cái chết được.

Nghĩ tới đó, chàng chỉ hận không có hai cánh mà bay về tới Lư Long ngay.

Tối hôm ấy, hai người ngủ trọ trong một khách điếm.

Hai con ngựa của hai người tuy là ngựa rất tốt nhưng chạy ngót một ngày trời như vậy, chúng đã mệt nhoài cả rồi.

Khi tới khách điếm vì quá mệt nó không sao ăn uống được nữa.

Vô Kỵ nằm ở trên giường càng nghĩ càng lo âu, chàng lẳng lặng đi tới trước cửa sổ của căn phòng Triệu Minh lắng tai nghe, thấy nàng thở rất điều hòa và đang ngủ say.

Ngẫm nghĩ giây lát, chàng liền ra ngoài mượn bút mực viết lại mấy chữ cho nàng, bảo vì việc khẩn cấp phải đi luôn đêm nay mới kịp làm xong công việc, thể nào cũng có dịp gặp lại nhau. Viết xong, chàng tới trước cửa sổ, khẽ mở cửa nhảy vào bên trong để tờ giấy đó lên mặt bàn, rồi nhảy ra bên ngoài, giở khinh công tuyệt mức đi về phía Nam luôn. Thế rồi cứ đêm thì chàng giở khinh công ra đi, ngày thì cưỡi ngựa, mua hết con ngựa này đến con ngựa khác, và ngày sau chàng đã đến Lư Long liền.

Tuy mấy ngày chàng chưa được ngủ, nhờ có nội lực hơn người, nên chàng không thấy mỏi mệt gì hết.

Ðáng lẽ chàng đi nhanh như vậy, giữa đường phải gặp Hữu Lượng và Thanh Thư mới phải, nhưng chàng có biết đâu chính tối hôm chàng giở khinh công ra đi đêm, thì Hữu Lượng, Thanh Thư với Trưởng bát Long đầu ngủ trong khách sạn, nên chàng không tìm thấy là thế.

Lư Long là một trọng trấn ở tỉnh Hà Bắc, đời nhà Ðường nơi đó là chỗ trú tiết của Tiết Lộ sứ.

Chàng đi khắp các phố to, phố nhỏ, trà lầu tửu quán, nhưng lạ thật không thấy một tên ăn mày nào cả.

Chàng không lấy thế làm buồn mà lại còn mừng là khác, liền nghĩ thầm:

– Một thành lớn như vậy mà tuyệt đối không có một tên ăn mày nào, đủ thấy việc này không phải là việc tầm thường. Hữu Lượng bảo Cái Bang đến tụ họp, chắc lời nói của y không sai, sở dĩ tháng này không có một tên ăn mày nào cả là vì chúng đã đi tham kiến Bang chủ hết rồi. Chỉ cần tìm thấy chỗ tụ hợp của chúng là ta có thể dò biết được nghĩa phụ với Chỉ Nhược bị Cái Bang bắt đi rồi không?

Thế rồi, chàng ở trong thành đi khắp mọi nơi quan sát nhưng không thấy tung tích của chúng đâu cả. Sau chàng lại đến các thôn trang ở lân cận tìm kiếm không thấy gì hết. Ðến chiều tối hôm đó, chàng vẫn chưa tìm thấy chỗ họp của Cái Bang nóng lòng vô cùng, tới lúc này chàng mới nhận thấy cái hay cái giỏi của Triệu Minh và tự nghĩ thầm:

– Nếu có nàng ở cạnh ta, thì ta đâu đến nỗi thúc thủ vô kế khả nghi như thế này.

Chàng đành phải vào một khách sạn lớn để nghỉ ngơi, cơm nước xong, chàng ngủ giây lát đến canh hai, liền phi thân lên mái nhà đi khắp mọi nơi để xem có động tĩnh gì không?

Chàng ngó mặt nhìn tứ phía, bỗng thấy góc Ðông Nam có một cái lầu chọc trời.

Trên lầu đó có ánh sáng loé ra, chàng liền nghĩ thầm:

– Nhà này nếu không phải là nhà của quan lớn thì cũng là của người giàu có, như vậy có liên can gì đến Cái Bang đâu…

Ngờ đâu chàng chưa nghĩ xong đã thấy một bóng người thấp thoáng ở cửa lầu nhảy ra, hình bóng của người đó nhanh vô cùng, chỉ thoáng cái là mất dạng liền, nếu mắt chàng không sắc bén thì không sao trông thấy kịp.

Chàng liền nghĩ tiếp:

– Chẳng lẽ có lục lâm hào khách nào đến kiếm ăn nhà phú hộ này chăng? Thân pháp của người này nhanh thật, y thế nào cũng là cao thủ hạng nhất, ta đang lúc nhàn rỗi, thử theo y xem sao.

Thế rồi chàng liền chạy tới cạnh toà nhà đồ sộ đó, chỉ nhún chân một cái đã nhảy qua bờ tường liền.

Chàng đột nhiên thấy phía trước mặt sáng choang và nghe thấy tiếng người nói:

– Trần trưởng lão cũng nhiễu sự thật, rõ ràng nói đúng ngày mồng tám tháng giêng tất cả mọi người tụ họp ở Lao Hà Khẩu này bây giờ lại cho người báo tin bảo chúng ta đợi chờ ở đây. Trưởng lão không phải là Bang chủ, muốn nói gì bắt người ta phải theo như thế, thật là vô lý quá.

Vô Kỵ mừng rỡ vô cùng, vì nghe thấy tiếng nói của người đó rất quen thuộc, đúng là người của Cái Bang.

Vô Kỵ liền rón rén đi tới khách sảnh ở cạnh vườn hoa vì chàng nghe thấy tiếng nói trong đó vọng ra.

Khi tới gần chàng nghe thấy Sử Hỏa Long, bang chủ Cái Bang nói rằng:

– Trần trưởng lão, người túc trí đa mưu, ông ta đã bắt được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Tạ Tốn là người đã mất tích hơn hai mươi năm nay, mà người trong võ lâm ai ai cũng muốn bắt được y. Chỉ nói một việc đó, người trong bổn bang không ai bằng được trưởng lão và người trong võ lâm đã có người nào làm được như thế không?

Vô Kỵ vừa nghe nói vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, chàng biết nghĩa phụ của mình quả thật đã lọt vào tay Cái Bang, bây giờ chỉ còn cách cứu ra thôi. Chàng lại biết trong Cái Bang không có một tay cao thủ nào lợi hại hết, nên chàng biết việc cứu nghĩa phụ không khó khăn gì. Thế rồi, ngó qua lỗ hổng cửa sổ nhìn vào bên trong, chàng thấy Sử Hỏa Long, ngồi ở giữa Truyền Công chấp pháp hai trưởng lão Trưởng bản Long đầu và ba trưởng lão tám túi ngồi bên dưới. Còn có một người béo, tuổi trạc trung niên ăn mặc quần áo rất xa hoa, trông như một thân hào, nhưng trên vai đeo sáu cái túi vải.

Thấy vậy Vô Kỵ gật đầu nghĩ thầm:

– Phải rồi, thế ra đại tài chủ ở thị trấn Lư Long lại là đệ tử của Cái Bang, bọn ăn mày này tụ họp ở nhà đại tài chủ nhưn thế thì còn ai nghi ngờ gì nữa.

Chàng lại nghe thấy Hỏa Long nói tiếp:

– Nếu Trần trưởng lão đã cấp tốc cho người về báo chúng ta đợi chờ ở Lư Long thì chắc phải có việc gì, bây giờ chúng ta mưu đồ đại sự cần phải cẩn thận lắm mới xong.

Trưởng bản Long đầu liền đỡ lời:

Bang chủ minh giám, quần hào trên giang hồ tìm Tạ Tốn là muốn cướp được đao Ðồ Long, là muốn làm võ lâm chí tôn. Bây giờ bảo đao không có trong người Tạ Tốn, chúng tôi đã dỗ ngọt mọi cách, mà y cũng không chịu nói bảo đao ở đâu. Như vậy chúng ta thấy bắt được một tên mù suông thôi, ngày ngày phải mời y ăn nhậu như thế có lợi ích gì nào? Theo ý đệ tử, cứ dùng cực hình xem y có chịu nói hay không?

Hỏa Long xua tay đáp:

– Không được, không được, làm như thế chưa biết chừng hỏng hết là khác. Chúng ta hãy đợi chờ Trần trưởng lão về rồi tính sau.

Trưởng bản Long đầu có vẻ hậm hực bất bình và hình như trách Bang chủ việc gì cũng nghe lời Hữu Lượng vậy.

Hỏa Long lấy một lá thư ra đưa cho Trưởng bản Long đầu và nói:

– Chú em họ Phùng đi ngay Hào Châu, đưa lá thư này của tôi trao cho Hàn Sơn Ðông bảo cho y biết con y hiện nay đang ở đây được bình yên vô sự, chỉ cần y chịu đầu hàng bổn bang thì Bang chủ sẽ biệt đãi y ngay.

Trưởng bản Long đầu đáp:

– Thiết nghĩ việc rất thường này, Bang chủ sai ai đi chả được hà tất phải gọi tới đệ tử đi như thế?

Hỏa Long có vẻ giận và nói:

– Chú em họ Phùng, nửa năm nay bọn Hàn Sơn Ðông thế lực rất lớn, nghe nói bộ hạ của y như Chu Nguyên Chương, Từ Ðạt, Thường Ngộ Xuân có vẻ anh dũng lắm. Vậy đưa lá thư này đi, bảo y về quy hàng bổn bang, cần phải có người khéo ăn khéo nói như hiền đệ để xem y có chịu quy hàng thật hay không, hơn nữa cũng muốn dò biết xem quân đội của y thực ra sao. Vì vậy, trách nhiệm này nặng nề lắm có phải là tầm thường đâu sao hiền đệ lại bảo đó là chuyện nhỏ được.

Trưởng bản Long đầu không nói năng gì hết liền đáp:

– Xin tuân lệnh Bang chủ dặn bảo.

Nói xong, y vái chào Hỏa Long rồi đi luôn…

Vô Kỵ nghe thêm, chỉ thấy chúng bàn đến sau này Minh giáo, Thiếu Lâm, Võ Ðang, Nga Mi các phái về hàng rồi, Cái Bang sẽ hưng thịnh như thế nào, oai phong như thế nào v. v… Nhưng chàng nhận thấy dã tâm của Hỏa Long còn kém Hữu Lượng. Theo lời nói của y, thì y chỉ cần Cái Bang độc bá giang hồ, xưng hùng võ lâm là đủ, chứ không nghĩ tới việc cướp giang sơn, tôn xưng vua chúa gì cả.

Vô Kỵ nghe được một hồi có vẻ chán ghét và nghĩ thầm:

– Chắc nghĩa phụ và Chu cô nương đang bị giam giữ ở đây, ta hãy đi cứu hai người ra trước rồi cho bọn ăn mày nói khoác này một bài học mới được.

Nghĩ đoạn, chàng liền tung mình nhảy lên trên cành cây, nhìn xuống bên dưới, chàng chỉ cần xem nơi nào có đệ tử của Cái Bang canh phòng cẩn mật nhất là chàng đoán chắc nơi đó, thế nào cũng là chỗ giam cầm nghĩa phụ của chàng.

Vừa lúc đó chàng ngó về phía tay phải liền thấy nơi đó có một cái lầu cao và có mười mấy tên đệ tử của Cái Bang tay cầm khí giới đi lại canh chừng.

Chàng khẽ nhảy xuống bên dưới đến gần cái lầu cao đó, núp sau một tảng đá, chờ hai tên đệ tử của Cái Bang đi qua, liền tung mình lên nhảy tới phía chân tường của cái lầu đó. Chàng giở khinh công bích hổ du tường (con mối bò tường) leo lên phía trên mà không một ai hay biết cả. Chàng thấy trên lầu đèn đuốc sáng choang, chàng không muốn là kinh động bọn chúng trước khi kiếm thấy Tạ Tốn và Chỉ Nhược, nên chàng cứ nằm phục ở ngoài cửa sổ để xem bên trong có động tĩnh gì không.

Một lát sau, chàng không thấy trong lầu có tiếng động gì hết, ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Sao trong lầu không có một người nào thế này, chẳng lẽ những tay cao thủ núp mai phục nơi đây, lại có thể mãi mãi không thở hít như thế?

Chàng lại nghe thêm một lát nữa, vẫn không nghe thấy tiếng thở tiếng hít gì cả, chàng liền cậy cửa sổ ló đầu vào bên trong, thấy cây nến để trên bàn đã cháy già nửa. Trong phòng không có bóng người nào. Chàng thấy trên lầu có ba cái phòng liền, phòng phía Ðông không có người, chàng sang phòng phía Tây ở ngoài cửa sổ ngó vào. Trong phòng này, đèn lửa còn sáng hơn phòng bên phía Ðông, trên bàn bầy đầy bát đũa của bảy tám người, rượu ở trong chén vẫn chưa uống, thức ăn còn bỏ dở, hình như những người ở đây vừa ăn uống xong đã đi khỏi, còn phòng giữa tối đen như mực không có một tí ánh sáng nào cả.

Chàng khẽ đậy cửa phòng thử xem, thấy bên trong cài then không vào được liền khẽ gọi:

– Nghĩa phụ có ở trong đó không?

Chàng không thấy ai trả lời liền nghĩ thầm:

– Chắc nghĩa phụ ta không có ở đây đâu, nhưng tại sao Cái Bang lại canh gác nơi đây nghiêm ngặt đến thế. Thế là nghĩa lý gì, chẳng lẽ chúng định làm cái trò thực thực hư hư để lừa dối ta chăng?

Ðang lúc ấy chàng đột nhiên ngửi thấy có mùi máu tanh xông lên mũi và mùi tanh ở trong phòng giữa bốc ra, chàng giật mình kinh hãi vội để tay lên cánh cửa, dùng nội công khẽ đẩy mạnh một cái. Chỉ nghe thấy kêu “cắc” một tiếng rất khẽ, then cửa gẫy làm đôi, chàng liền thò tay vào trong đỡ lấy cái then để cho then khỏi rơi xuống gây tiếng động.

Chàng bước luôn vào bên trong, bỗng chân vướng phải một cái gì mềm nhũn. Hình như đó là cái thân người, chàng vội cúi xuống rờ mó. Người đó đã tắt thở, nhưng mới chết không lâu. Chàng thấy người đó bé nhỏ, biết ngay không phải Tạ Tốn, nên chàng cũng yên trí. Chàng lại bước thêm một bước nữa và lại vấp phải xác của hai người nữa. Chàng liền dùng ngón tay đục thủng lỗ ván để cho ánh sáng đèn bên ngoài ló vào. Nhờ có ánh sáng đó, chàng đã thấy dưới đấy có bảy tám cái xác nằm ngổn ngang nhưng toàn là đệ tử của Cái Bang hết. Những xác đó đều chết bởi nội thương rất nặng. Chàng nhấc một tên lên, vạch áo ra xem, thấy ngực tên đó có một dấu vết quyền hẳn hoi đúng là bị quyền lực của Thất thương quyền đánh phải.

Chàng mừng rỡ và nghĩ thầm:

– Thế ra nghĩa phụ ta đã giở thần oai ra đánh chết lũ này rồi bỏ đi.

Chàng tìm kiếm trong phòng một hồi, thấy trên góc tường có khắc một ngọn lửa, đó là nhãn hiệu của Minh giáo, chàng lại nghĩ tiếp:

– Không biết tại sao nghĩa phụ lại bị Cái Bang bắt giữ, có phải tại ông ta không trông thấy gì, nên mới trúng phải quỷ kế của Cái Bang chăng. Nếu chúng không dùng thuốc mê thì dùng dây thừng hoặc dùng lưới cá để bắt ông ta ra bằng lối nào, lạ thật.

Chàng quay đầu lại nhìn, thấy trên ván cửa có một vết máu như có người phun vào đó vậy, bên ngoài lại có một dấu bàn tay lờ mờ, chàng ngẫm nghĩ giây lát, liền hiểu ngay ý nghĩa ra sao rồi.

Chàng nghĩ thầm:

– Nghĩa phụ để lại một người không giết ngay, bảo người ấy chờ mình ra khỏi bên ngoài rồi cài then cửa lại hộ và sau đó nghĩa phụ dùng Thất thương quyền phát bên ngoài vào đánh chết người ấy nốt. Nhưng vì cách tấm ván nên chưởng lực không đều đặn nên người nọ không chết ngay mà thổ huyết ra trước. ừ phải rồi, vừa rồi ta thấy một cái bóng đen thấp thoáng, chắc người đó là nghĩa phụ ta thoát thân…

Nhưng chàng lại nghĩ tiếp:

– Tuy bóng đen ấy chạy khá nhanh thực, nhưng ta trông thấy y thấp bé chứ không to lớn vạm vỡ như nghĩa phụ của ta. Vậy người ấy là ai thế?

Chàng chạy ra ngoài phòng, núp ở cạnh cửa ngó xuống bên dưới thấy đệ tử Cái Bang vẫn đi tuần rất cẩn mật, và hình như chúng không biết một tí gì về tai biến ở trên lầu vậy, cho nên chàng lại nghĩ tiếp:

– Bọn đệ tử Cái Bang chết hết không lâu, chắc nghĩa phụ ta đi cách đây không xa, ta hà tất phải nghĩ vơ nghĩ vẫn làm chi, chi bằng ta đuổi theo nghĩa phụ hỏi thăm thì biết liền. Rồi hai cha con ta lại quay trở lại đây đánh cho chúng một phen long trời lở đất để cho chúng biết thủ đoạn của Minh giáo chúng ta lợi hại như thế nào.

Nghĩ tới đó chàng cảm thấy hăng say.

Lúc trước chàng thấy bóng đen đi về phía Tây Nam, chàng liền tung mình nhảy theo về phía đó. Chàng nhảy lên một cành cây cao, rồi nhún chân mượn sức đu một cái, người đã nhảy lên trên đầu tường.

Chàng cúi xuống nhìn xem xét thấy trên đầu tường có hai vết chân nho nhỏ, đúng là vết chân của đàn bà, chàng ngạc nhiên vô cùng nghĩ tiếp:

– Lạ thật, sao cái bóng đen ta vừa trông thấy lại là đàn bà được? Trong võ lâm có người đàn bà nào có khinh công cao siêu đến thế? Diệt Tuyệt sư thái đã chết. Tía Sam Long Vương của phái Côn Luân chưa chắc có khinh công cao siêu như thế được, còn Chỉ Nhược với Triệu cô nương lại còn kém hơn, ngoài những người đó ra, ta chưa hề thấy một người đàn bà nào gọi là có tài nghệ cao siêu cả.

Nhưng lúc ấy chàng sợ không đuổi kịp Tạ Tốn, nên không còn thì giờ nghĩ ngợi nữa, vội giở khinh công đuổi theo về phía Tây Nam. Chàng chạy theo đại lộ đuổi được mấy dặm, đến một con đường rẽ tìm kiếm ở những gốc cây, quả nhiên thấy một tảng đá có dấu hiệu ngọn lửa, chỉ vào một con đường nhỏ ở phía Tây Nam, chàng cả mừng nghĩ thầm:

– Hành tung của nghĩa phụ đã rõ, chỉ lát nữa ta sẽ được gặp liền.

Các ám hiệu liên lạc chỉ dẫn của Minh giáo, chàng đã được Dương Tiêu nói cho hay, bây giờ chàng trông thấy dấu hiệu ngọn lửa đó tuy chỉ có mấy nét thôi, nhưng thấy nét nào cũng sâu sắc, chàng biết không phải là người thường có thể vẽ nổi, nếu không phải Tạ Tốn, người văn võ toàn tài như thế, thì người trong Minh giáo ít có ai vẽ được.

Hồi thứ 83

Ðại Náo Cái Bang

Vô Kỵ không còn hoài nghi gì nữa, vội theo con đường nhỏ đó đuổi tiếp. Chàng đuổi đến Dịch Sa Hà, trời đã sáng tỏ, vào trong tiệm cơm ăn qua loa cho đỡ đói, rồi lại tiếp tục đi về phía Tây.

Khi đi tới thị trấn Bảng Tử, thấy ở chân tường có vẽ một cái dấu hiệu ngọn lửa nữa, chỉ thẳng vào một ngọn nhà thờ tổ đã đổ nát.

Chàng mừng rỡ nghĩ thầm:

– Chắc nghĩa phụ ta ẩn núp ở trong này cũng nên, để ta vào bên trong xem.

Chàng tới gần, thấy tấm bảng treo trên cửa đề “Ngụy Thị Tôn Từ” bốn chữ lớn.

Chàng vừa đi vào đến bên trong đã nghe thấy có tiếng người ồn ào, chàng thấy đại sảnh có một lũ con cháu nhà họ Ngụy ăn mặc nghèo nàn, rách rưới đang ngồi quây quần đánh bạc với nhau.

Người làm thấy chàng ăn mặc sang trọng lại tưởng là khách đánh bạc giàu tiền đã tới, liền tủm tỉm cười, chạy lại nghênh đón và hỏi:

– Mời công tử vào chơi vài ván, thể nào công tử cũng thắng, vơ hết tiền của họ chứ không sai.

Nói xong, y quay lại nói với những người kia rằng:

– Các người mau nhường chỗ cho công tử và ai nấy đem sẳn tiền ra đánh lớn đi để công tử ôm tiền về phủ.

Vô Kỵ cau mày lại, vì chàng thấy những con bạc không có một người nào là trong giang hồ hết liền lên tiếng kêu gọi:

– Nghĩa phụ, nghĩa phụ, nghĩa phụ có ở đây không?

Một lúc lâu chàng không thấy ai trả lời, lại hỏi thêm mấy câu nữa.

Một tên côn đồ thấy chàng không phải đi đánh bạc mà lại cứ kêu la om sòm như vậy, liền trả lời chàng rằng:

– Con ngoan ngoãn của ta ơi, cha già ở đây, con mau lại đây đánh mấy ván bạc đi.

Mọi người nghe thấy tên nọ nói như vậy, liền lớn tiếng cười ồ.

Vô Kỵ liền hỏi tên làm cái:

– Bạn có thấy một người cao lớn vạm vỡ tóc vàng, hai mắt đã mù vào đây không?

Tên nọ thấy chàng đến đây tìm người chớ không phải là đánh bạc, trong lòng đã chán nản rồi, liền vừa cười vừa đáp:

– Lạ thật, làm gì có người mù tới đây đánh bạc chứ, trừ phi người mù đó đã chán đời rồi.

Vô Kỵ kiếm nghĩa phụ không thấy, trong lòng đã tức giận, lại nghe thấy hai tên nọ ăn nói vô lễ, làm nhục đến nghĩa phụ mình, nên chàng cả giận bước lên một bước, mỗi tay nắm lấy một tên, xách lên và khẽ đưa về phía trước một cái. Cả hai bị tung lên trên mái nhà tức thì. Hai tên ấy tuy chưa bị thương, nhưng đã hãi sợ đến kêu la om sòm như heo bị chọc tiết vậy.

Chàng vội đẩy mọi người ra, cầm lấy hai nén bạc trên bàn và nói:

– Ðại gia cho mượn xài chơi trước.

Nói xong, chàng bỏ hai nén bạc vào túi và đi ra khỏi nhà.

Bọn côn đồ hoảng sợ đứng ngẩn người ra, không dám đuổi theo.

Chàng lại tiếp tục đi về phía Tây Nam không bao lâu lại thấy có dấu hiệu ngọn lửa. Chàng lại tiếp tục đi về phía dấu hiệu đó.

Tới chiều tối, chàng đã đi Phong Nhuận, nơi đó là một thành lớn ở phía Bắc tỉnh Hà Bắc, chàng theo dấu hiệu chỉ tới trước một nhà tường sơn trắng, cửa sơn đen.

Chàng thấy hai cái vòng đóng ở trên cửa bóng nhoáng, bên trong tường, những cây mai đang đua nở. Ðó là nhà của một người tao nhã, nên chàng vội cầm cái vòng đồng ấy lên khẽ gõ ba tiếng. Không bao lâu chàng đã nghe có tiếng chân rất nhẹ ở trong đi ra, và cánh cửa đen kêu “kẹt” một tiếng mở ra liền.

Cửa vừa hé mở, chàng dã nghe thấy mùi hương xông lên mũi, thì ra người mở cửa đó là một con thị tỳ, mặc áo da lông cừu màu phấn hồng. Thị tỳ vừa trông thấy chàng đã bịt miệng cười và hỏi:

– Sao lâu thế mới thấy công tử tới. Chị tôi nhớ công tử lắm đấy, mời công tử mau vào xơi nước đi.

Nói xong, nàng lại lườm chàng một cái, rồi cười khúc khích.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng vội hỏi lại:

– Sao cô bé lại biết tôi, chị cô là ai?

Thị tỳ vừa cười vừa đáp:

– Công tử đã biết lại còn làm bộ hỏi, thôi đừng có đóng tuồng với tôi nữa, mau vào đi không có công tử thì chị tôi lo đến ốm người đi mất.

Nói xong, nàng ta giơ tay ra nắm lấy tay phải của Vô Kỵ kéo rong.

Vô Kỵ ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Sao nàng làm như quen ta đã lâu rồi như vậy?

Nhưng chàng lại nghĩ:

– À phải rồi, chắc Chỉ Nhược ở nhờ đây, biết ta thế nào cũng theo dấu hiệu mà tìm kiếm tới, cho nên mới sai thị tỳ này ra nghênh đón cũng nên. Hà, lâu ngày không gặp nhau, thế nào Chỉ Nhược chả nhớ nhung ta đến gầy ốm đi.

Chàng càng nghĩ càng khoái chí, liền theo tiểu hoàn đi vào phía trong, qua một lối đi nhỏ trên phủ đá sỏi. Rồi lại xuyên qua một cái sân mới đến một cái phòng ngang.

Vào trong phòng, chàng thấy bàn ghế… đều có phủ đệm gấm, than trong lò đang cháy hồng, quả thật ấm áp vô cùng, trên kỷ nhỏ thấp một lư hương và trên một cái kỷ khác để một cái đàn tỳ bà.

A hoàn nọ liền quay mình đi ra, không bao lâu đã bưng một cái khay vào, trong khay có đựng sáu đĩa điểm tâm, một ấm nước trà.

Con bé rót nước đưa vào tay Vô Kỵ, rồi khẽ bóp cổ tay chàng một cái, chàng thấy vậy cau mày nghĩ thầm:

– Con a hoàn này sao vô lễ đến thế?

Nhưng nể mặt Chỉ Nhược, chàng không tiện trách mắng con nhỏ mà chỉ hỏi:

– Tạ lão gia đâu, Chu cô nương hiện ở đâu?

A hoàn vừa cười vừa đáp:

– Công tử hỏi Tạ lão gia làm chi, có phải ghen đấy không? Chị tôi sắp ra ối chà, xem công tử chưa chi đã nóng tính đến thế. Công tử thật không có lương tâm chút nào, đã tới đây kiếm chị tôi mà lại nhớ Chu cô nương và Vương cô nương nữa.

Vô Kỵ nghe nói ngẩn người ra hỏi tiếp:

– Cô không được nói bậy, cô nói gì thế?

A hoàn nọ lại bịt mồm cười quay đi mà đi ra luôn.

Một lát sau chàng nghe thấy có tiếng đồ trang sức va chạm nhau kêu “kính coong” một hồi, chàng đã thấy a hoàn nọ đỡ một thiếu nữ, tuổi chừng hai mươi ba, hai mươi bốn bước vào.

Nàng rất trắng trẻo đôi mày vẽ cong, trông cũng khá đẹp, bên mép lại chấm một nốt ruồi giả trông cũng có vẻ phong lưu lắm.

Nàng vừa ra tới nơi đã tiến lại và hỏi:

– Tướng công quý tính danh là chi, sao hôm nay lại có thì giờ đến ngồi chơi như thế…

Nàng vừa nói vừa để tay lên vai Vô Kỵ.

Vô Kỵ mặt đỏ bừng, vội tránh sang bên và nói:

– Tôi họ Trương, chẳng hay có một ông già họ Tạ, với một cô họ Chu đến đây không?

– Tướng công muốn hỏi Chu Thiêm Thiếm thì đến nhà Bách Ðào Cư, chứ Lê Hương viện này làm gì có Chu Thiêm Thiếm.

Vô Kỵ nghe nói mới tỉnh ngộ, và mới hay đây là xóm bình khang. Chàng liền quay người đi ra cửa.

A hoàn nọ đuổi theo kêu gọi, nhưng chàng xua tay, vứt lại một nén bạc đã cướp được của bọn côn đồ, rồi rảo cẳng đi luôn.

Ðêm hôm đó, chàng vào một khách sạn nghỉ trọ, vừa nằm ở trên giường vừa suy nghĩ:

– Sao nghĩa phụ ta lại vào chỗ đánh bạc và tới xóm bình khang như vậy…

Chàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Sáng sau, chàng ở ngoài thành Phong Nhuận lại tìm thấy dấu hiệu của Minh giáo chỉ về phía Tây. Chàng theo dấu hiệu đi hết Tam Hà lại đến Hương Hà mà không thấy tung tích chi cả. Nhưng chàng cứ tiếp tục theo dấu hiệu chạy luôn mấy ngày hết huyện này sang huyện khác, vòng một vòng thật lớn, rốt cục lại chạy về tới Lư Long.

Lúc này lòng chàng đã bình tĩnh trở lại và nghĩ thầm:

– Nếu kẻ địch du ta đi Quảng Ðông, Vân Nam, Quý Châu thì sao? Cũng may bây giờ được trở về Lư Long.

Nghĩ đoạn, chàng vào tửu lầu ăn một bữa no say, mua một cái áo dài trắng, lấy bút son vẽ một dấu hiệu ngọn lửa rất lớn, quyết ý nhân danh giáo chủ của Minh giáo đường đường tới Tổng đường của Cái Bang. Chàng đi tới nhà người tài chủ nọ, thấy hai cánh cửa chưa đóng chặt, liền đẩy mạnh một cái, hai cánh cửa mở tung ra, và bay vào bên trong đụng vỡ cái cống lớn nuôi cá vàng kêu “loong coong” mấy tiếng.

Chàng còn chưa nguôi giận, lớn bước đi vào, vừa đi vừa kêu gọi:

– Bang chúng của Cái Bang hãy nghe ta nói đây, mau mau gọi Sử Hỏa Long ra yết kiến ta.

Mười mấy tên đệ tử bốn túi và năm túi của Cái Bang đang đứng trong sân, thấy hai cánh cửa bỗng nhiên bay tung, giật mình kinh hãi, sau thấy một thiếu niên áo trắng xông vào, liền đồng thanh hò hét, chạy ra quát hỏi:

– Ngươi là ai mà dám vào đây quấy nhiễu như vậy?

Vô Kỵ giơ hai cánh tay lên hất một cái, mấy tên đệ tử của Cái Bang, như mấy bó rơm, bắn tung sang hai bên, đụng phải những cánh cửa sổ ở phía sau, những khung cửa đó đều vỡ tan tành.

Vô Kỵ đi qua đại sảnh vung chưởng lên đánh vào cánh cửa giữa kêu đến “bùng” một tiếng. Cửa giữa lại bay tung liền. Trong khách sảnh có bầy một mâm cỗ.

Hỏa Long ngồi ở giữa, những thủ lãnh của Cái Bang ngồi chung quanh. Chúng thấy bên ngoài có tiếng ồn ào, cho người ra xem, ngờ đâu Vô Kỵ đã vào tới nơi. Chàng nắm lấy ngực một tên bảy túi ném luôn vào người Sử Hỏa Long.

Tài chủ đang ngồi ở phía dưới bàn tiếp Hỏa Long, bỗng thấy đệ tử bảy túi ở bên ngoài bay tới, vội giơ tay ra ôm lấy. Tuy y đã ôm được, nhưng sức mạnh cũng kéo y suýt ngã. Y cố gượng để chống đỡ, người lảo đảo lui về phía sau bảy tám bước, đụng vào cái cột lớn, mới ngừng lại được.

Tất cả những đệ tử của Cái Bang có mặt tại đó đều kinh hãi vô cùng.

Vô Kỵ vào tới nơi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, thì ra chàng đã trông thấy Chỉ Nhược ngồi sát cánh Thanh Thư ở phía bên phải bàn.

Chàng trố mắt nhìn Chỉ Nhược không biết nói sao cho phải.

Còn Chỉ Nhược thấy chàng cũng la lớn:

– Vô Kỵ đại ca.

Nàng vừa đứng dậy, thì thấy người lảo đảo và ngã quỵ ngay xuống.

Vô Kỵ thấy vậy kinh ngạc vô cùng tiến lên cúi xuống ẳm nàng, nhưng người chàng chưa kịp đứng thẳng lên lưng đã bị đánh bốp một cái. Thì ra chàng bị Thanh Thư đánh trúng một chưởng và lại bị tên cao thủ của Cái Bang đánh trúng một quyền nữa.

Nhưng lúc ấy chàng đã vận Cửu Dương thần công ra khắp người, quyền và chưởng của Thanh Thư và đệ tử Cái Bang kia, đều bị bắn trở lại hết. Chàng liền ung dung ẳm Chỉ Nhược nhảy ra ngoài sân vừa chạy chàng vừa hỏi:

– Nghĩa phụ đâu?

Chỉ Nhược đáp:

– Tôi… tôi… bị chúng điểm trúng yếu huyệt, mất hết võ công rồi.

Vô Kỵ vẫn quan tâm đến Tạ Tốn hỏi:

– Nghĩa phụ tôi đâu?

Chỉ Nhược đáp:

– Không biết, tôi bị chúng bắt tới đây. Từ lúc bị bắt tới giờ không biết nghĩa phụ đâu cả.

Vô Kỵ liền xoa bóp khủy tay khủy chân cho nàng và đặt nàng xuống ngờ đâu, thủ pháp điểm huyệt Cái Bang rất đặc biệt, nên chàng không sao giải được cho nàng, nên chàng vừa đặt nàng xuống, nàng lại ngã quỵ ngay.

Các đệ tử của Cái Bang vội chạy đến trước sân, Hỏa Long vội chắp tay chào vào hỏi:

– Các hạ có phải là Trương giáo chủ của Minh giáo đó không?

Vô Kỵ thấy đối phương là Bang chủ của một môn phái, nên chàng cũng chắp tay đáp lễ và đáp:

– Không dám. Tại hạ tự tiện xông vào tổng đường của quý Bang, mong Bang chủ thứ lỗi cho.

Hỏa Long lại nói tiếp:

– Mấy năm gần đây tiếng tăm của Trương Giáo chủ lừng lẫy giang hồ, tại hạ ngưỡng mộ vô cùng, ngày hôm nay được trông thấy võ công của các hạ, mới hay danh bất hư truyền, tại hạ thật bái phục.

– Tại hạ tới đây rất lỗ mãng mong Bang chủ đừng có chê cười. Nghĩa phụ của tại hạ là Kim Mao Sư Vương hiện giờ ở đâu, Bang chủ làm ơn mời ông ta ra hộ.

Hỏa Long mặt đỏ bừng, cười ha hả rồi đáp:

– Trương Giáo Chủ sao lại vu khống cho chúng tôi như vậy. Chúng tôi có hảo ý mời Tạ Sư Vương đến ở vài ngày, không ngờ ông ta không từ biệt mà đã rút lui. lại còn đánh cho tám đệ tử của chúng tôi bị thương nặng. Không hiểu món nợ sau này quý giáo sẽ thanh toán với chúng tôi ra sao?

Vô Kỵ ngẩn người ra nghĩ thầm:

– Quả thật tám tên đệ tử của Cái Bang đã bị nghĩa phụ ta dùng Thất thương quyền đả thương rồi. Xem ra nghĩa phụ ta không có ở đây thật, nhưng bây giờ ông ta đã đi đâu thế?

Nghĩ đoạn, chàng liền hỏi:

– Thế còn Chu cô nương này thì sao? Cô ta có điều gì thất lễ với quý Bang mà quý Bang giam cô ta ở đây?

Hỏa Long vừa cười vừa đáp:

– Người ta bảo Trương Vô Kỵ của Minh giáo võ công tuy cao cường, nhưng lại là một tên ma đầu rất bướng bỉnh quả thật không sai.

Vô Kỵ sầm nét mặt hỏi tiếp:

– Tôi bướng ở chỗ nào?

– Chu cô nương này là người của phái Nga Mi, nàng là lãnh tụ của một danh chính phái có liên can gì đến quỹ giào là một bằng môn tà đạo đâu. Chú em Thanh Thư đây là người của phái Võ Ðang, chàng ta với Chu cô nương mới thật là xứng đôi vừa lứa. Hai người dắt tay nay đi qua đây. Cái Bang chúng tôi mới hai người vào xơi chén rượu nhạt, sao Giáo Chủ lại bỗng dưng nhảy vào đây can thiệp, như vậy có thật buồn cười không.

Vô Kỵ bèn hỏi tiếp:

– Nếu bảo Chu cô nương là khách quý của quý Bang, sao nàng ta lại bị điểm huyệt, không thể nào đứng vững được?

Hỏa Long ngạc nhiên không biết trả lời ra sao cho phải, Hữu Lương liền ha hả cả cười đỡ lời:

– Chu cô nương đang ngồi đấy uống rượu chuyện trò vui vẻ, ai bảo cô ta bị điểm huyệt nào? Cái Bang và Nga Mi giao hảo với nhau xưa nay, sao Trương Giáo Chủ lại vu khống như vậy, không sợ thiên hạ trên giang hồ cười chê sao.

Vô Kỵ cười nhạt và nói tiếp:

– Theo lời nói của bạn thì Chu cô nương tự điểm huyệt của mình chứ không phải bị người ta điểm huyệt phải không?

Hữu Lượng đáp:

– Ðiều đó không có gì làm bằng cớ hết, nhưng ai ai cũng trông thấy Trương Giáo chủ vừa nhảy tới giở trò phi lễ, ãm luôn Chu cô nương đi. Chu cô nương dãy dụa không chịu, thế rồi chính Giáo chủ đã thuận tay điểm huyệt cô ta. Trương Giáo Chủ, ai chả biết anh hùng không sao qua nổi ãi mỹ nhân và lòng hiếu sắc người nào mà chẳng có. Nhưng trước mắt mọi người đông đảo như thế này, Trương Giáo Chủ lại cầm lòng không được như vậy, thật là mất hết địa vị của một Giáo chủ?

Vô Kỵ liền hỏi Chỉ Nhược:

– Tôi… tôi…

Nàng chỉ nói được mấy tiếng tôi rồi ngã lăn ra đất chết giấc liền.

Các đệ tử của Cái Bang liền kêu la ồn ào:

– Ma đầu của Minh giáo bức dâm không được đã giết người rồi.

Vô Kỵ nghe nói cả giận tiến lên, xông lại phía Hỏa Long.

Trưởng bản Long đầu với Chấp Pháp Trưởng lão song song tiến lên ngăn cản chàng.

Trưởng bản Long đầu cầm gậy quét ngang, Chấp Pháp trưởng lão tay phải cầm móc gang, tay trái cầm thiết quài.

Hai người ba môn khí nhắm người Vô Kỵ đánh tới.

Vô Kỵ rú lên một tiếng, sử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di Tâm pháp khiến móc của Chấp pháp Trưởng lão gạt gậy Trưởng bản Long đầu, còn thiết quài của tên nọ thì đánh luôn vào hông của tên kia?

Truyền công Trưởng lão giơ kiếm lên đâm luôn, mồm thì la lớn:

– Tiểu tử này võ công quái dị lắm, mọi người phải cẩn thận mới được.

Nói xong y đâm luôn ba kiếm, đều nhắm ba nơi yếu huyệt ở ngực và bụng của Vô Kỵ tấn công.

Vô Kỵ thấy thể công của đối phương lợi hai như vậy liền khen ngợi:

– Kiếm pháp cao siêu thật.

Chàng vội né mình tránh, giơ tay trái ra điểm vào yếu huyệt ở đùi của Truyền công Trưởng lão. Truyền công Trưởng lão liền xoay kiếm nhằm đầu ngón tay của chàng đâm luôn. Tuy thế kiếm của y rất lợi hại, nhưng đâm sao trúng nổi chàng. Chỉ thoáng cái, ba Trưởng lão của Cái Bang đã đấu với Vô Kỵ được hơn hai mươi hiệp.

Hữu Lượng đột nhiên lớn tiếng:

– Mau, bày trận “sát cẩu” ra.

Hai mươi cao thủ của Cái Bang liền vây Vô Kỵ vào giữa, chúng hoặc hát bài ca Liên Hoa Lạc của những ăn mày thường ca, hoặc rên rỉ kêu la hoặc lớn tiếng nói: “Lạy bà cho tôi xin chén cơm miêng cháo…”, hoặc giơ quyền lên đấm vào ngực mình vân vân…

Vô Kỵ thấy chúng quái dị như vậy, liền ngẩn người ra, nhưng chàng hiểu ngay ý định của chúng liền. Chàng biết chúng làm như thế cốt để cho mình loạn tâm thần đó thôi. Truyền Công trưởng lão liền quát lớn:

– Hãy khoan!

Nói xong, y lui về phía sau hai bước, giơ kiếm lên ngang hông.

Chấp Pháp trưởng lão với Trưởng Bản long đầu nhảy lùi ra bày thành trận “sát cẩu”, nhưng chúng vẫn không xông vào tấn công.

Truyền Công trưởng lão liền nói với Vô Kỵ rằng:

– Vẫn biết chúng tôi lấy người đông địch với người ít như thế này, dù có thắng cũng không oanh liệt gì. Nhưng người trong Cái Bang chúng tôi đây kho người nào địch nổi giáo chủ cả, bắt buộc chúng tôi phải phá luật lệ của võ lầmz mà giở trận thế này ra đối phó.

Vô Kỵ mỉm cười đáp:

– Khéo nói! Khéo nói lắm.

Truyền Công trưởng lão nói tiếp:

– Chúng tôi người nào cũng có khí giới trong tay, mà giáo chủ thì tay không, như vậy, chúng tôi thắng thế nhiều quá. Vậy giáo chủ dùng khí giới gì, xin cho biết chúng tôi xin dâng lên ngay.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Trong Cái Bang chỉ có Truyền Công trưởng lão này là người có đôi chút nghĩa khí mà thôi.

Nghĩ đoạn, chàng liền đáp:

– Những khí giới Cái Bang không có một môn nào hợp tay của tại hạ hết. Vả lại, tại hạ đấu với quý vị hà tất phải dùng đến đao thương làm chi, khi nào tại hạ dùng đến khí giới thì tại hạ tự kiếm lấy.

Nói xong, chàng nhảy luôn vào trong trận giơ hai tay lên đè và đầu vai của Hữu Lượng và Thanh Thư, và chỉ thoáng cái đã cướp được khí giới của hai người liền, rồi lại nhảy ra ngoài trận ngay. Chàng ra ngoài và trong như vậy mà không hề đụng tới vạt áo của hai người mốt tên Bang chúng của Cái Bang.

Các đệ tử của Cái Bang đang kinh hãi thì đã nghe thấy chàng lớn tiếng nói:

– Trận này của quý Bang chỉ giết chó được thôi, chứ muốn giáng long phục hổ thì không ăn thua gì đâu.

Nói xong, chàng dồn sức vào hai thân kiếm, chỉ nghe tiếng kêu “lắc rắc” mấy tiếng, hai thanh kiếm đõ đã gẫy ra làm đôi.

Trưởng Bản long đầu thấy vậy liền la lớn:

– Chúng ta cùng xông lên tấn công đi.

Y vừa nói vừa múa gậy xông lại, tấn công vào ngực Vô Kỵ. Vô Kỵ thấy mọi người tấn công mình tới tấp như vậy liền giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra, chỉ trong thoáng cái chàng đã cướp hết khí giới của hai mươi mốt tên đệ tử của Cái Bang và ném cả hai mươi mốt con dao đó lên xà ngang, dao nào cũng cắm sâu đến ngập cán.

Hữu Lượng bỗng lớn tiếng nói:

– Trương Vô Kỵ, người có chịu ngừng tay không?

Vô Kỵ quay người lại nhìn, thấy y dí kiếm vào sau lưng Chỉ Nhược để kiểm chế mình, chàng liền cười nhạt đáp:

– Hơn một trăm năm nay, hễ nói Minh giáo, Cái Bang là họ đều công nhận Minh giáo đứng đầu các giáo, Cái Bang đứng đầu các Bang. Các vị xử sự như vậy không sợ làm mất oai danh của lão anh hùng Hồng Thất Công hay sao?

Truyền Công trưởng lão liền nổi giận bảo Hữu Lượng rằng:

– Trần trưởng lão mau buông Chu cô nương ra, chúng ta còn đấu một phen với Trương Giáo chủ nữa. Chúng ta dở hết toàn lực của bổn Bang ra mà địch không nổi một mình Giáo chủ của Minh giáo hay sao. Nếu vậy thì còn mặt mũi nào làm người nữa.

Hữu Lượng vừa cười vừa đáp:

– Ðại trượng phu đành đấu trí, chứ không đấu sức. Vô Kỵ ngươi còn không chị thúc thủ để đợi trói hay sao?

Vô Kỵ cả cười đáp:

– Thôi được, ngày hôm nay để Vô Kỵ ta thử nhận thức oai phong của Cái Bang xem sao.

Chàng đột nhiên lui về phía sau hai bước và lộn ngược một vòng, lúc hạ chân xuống thì vừa cởi ngay lên trên lưng của Hỏa Long. Chàng để bàn tay phải lên trên đỉnh đầu của Bang chủ, tay trái thì nắm lấy kinh mạch ở phía sau cổ. Chàng sử dụng võ công ghi trên Thánh hỏa lệnh, nên mới bắt cóc được tên Bang chủ của Cái bang một cách dễ dàng như vậy. Chàng cỡi trên vai Hỏa Long tựa như trẻ con đùa giỡn vậy, tuy trông không đẹp, nhưng đã kềm chế hết các yếu huyệt ở trên đỉnh của đỉnh môn, vì vậy chàng không muốn nhảy xuống đất nữa, sợ có gì khác xảy ra sẽ bất lợi cho mình.

Bang chúng của Cái bang thấy Bang chủ của mình bị bắt giữ đồng thanh kinh hãi kêu la, vì chúng chỉ sợ Vô Kỵ ấn mạnh một cái là Bang chủ của chúng vỡ sọ chết tốt ngay. Chúng tuy kinh hãi như vậy, nhưng không có cách gì ra tay cứu được Bang chủ của chúng hết, nên tên nào tên ấy chỉ yên lặng trố mắt ra nhìn Vô Kỵ với Hỏa Long mà thôi.

Ðang lúc ấy trên mái nhà bỗng có tiếng đàn sáo rất du dương vọng xuống. Có một điều lạ là tiếng nhạc đó bỗng Ðông bỗng Tây, không ai biết hẳn ở nơi nào vọng tới. Ngay cả Vô Kỵ cũng thắc mắc vô cùng, đang lúc ấy Hữu Lượng bỗng lên tiếng nói:

– Chẳng hay cao nhân ở phương nào giáng lâm Cái bang, nếu là quần ma của Minh giáo thì cứ việc hiện thân ra, hà tất phải giả bộ ma quỉ như thế làm chi.

Mọi người lại nghe thấy có ba tiếng đàn kêu “tinh, tang, tang” rồi bỗng thấy bốn thiếu nữ mặc áo trắng ở hai bên mái hiên nhảy xuống dưới sân, người nào người nấy đều cầm một chiếc giao cầm. Ðờn đó chỉ ngắn và hẹp bằng nửa chiếc thất huyền cầm mà thôi, nhưng cũng có đủ bảy dây hẳn hoi. Theo sau bốn thiếu nữ đó là bốn thiếu nữ áo đen, tay cầm trường tiêu, tiêu của họ dài gấp đôi tiêu thường. Bốn thiếu nữ đó cũng đứng sang bốn góc. Thế là bốn trắng bốn đen đứng cả ở bốn phương. Vừa đứng yên, tám thiếu nữ liền đánh đàn và thổi sáo ngay, tiếng nhạc nghe rất du dương và tao nhã.

Ðang lúc ấy có một thiếu nữ phủ sa vàng, tay trái dắt một con bé trạc mười hai, mười bà tuổi nhảy xuống. Thiếu nữ nọ, tuy tuổi hai bảy hai tám, nhưng dung nhan tuyệt trần, chỉ phải nỗi sắc mặt nhợt nhạt, trái lại thì con bé xấu xí vô cùng, mũi hếch lên trời, mồm rộng, hai cái răng cửa nhô ra ngoài trông rất hung ác. Con nhỏ một tay nắm tay thiếu nữ ka, một tay cầm cái gậy trúc xanh.

Bang chúng của Cái bang thấy thiếu nữ ấy bước vào liền chú ý cả vào cái gậy trúc xanh, chứ không ai để ý đến mặt con bé cả.

Vô Kỵ thấy mình cỡi trên vai Hỏa Long ở trước mặt các thiếu nữ như thế trông rất khó coi, nhưng chàng thấy mũi kiếm của Hữu Lượng vẫn dí vào sau lưng của Chỉ Nhược, nên chàng không dám nhảy xuống dưới đất. Chàng bỗng thấy tất cả những bang chúng Cái bang đều chú ý vào cây gậy trúc vô cùng. Chàng liền ngắm nhìn cái gậy, thấy gậy đó xanh biếc và bóng nhoáng, hình như đã được rất nhiều người rờ mó qua, nên mới bóng nhoáng như thế. Ngoài ra, chàng không thấy gậy đó có gì khác lạ hết.

Thiếu nữ áo vàng đưa đôi mắt lạnh lùng và lóng lánh, nhìn mọi người một vòng sau mới chăm chú nhìn vào mặt Vô Kỵ rồi dùng giọng lạnh lùng nói:

– Trương Giáo chủ đã lớn tuổi như vậy, không chịu đi làm việc chính nghĩa lại ở đây đùa giỡn như vậy.

Lời nói của nàng ta có vẻ khiển trách nhưng lại rất thân mật nhìn như chị cả dạy bảo người em vậy. Chàng xấu hổ mặt đỏ bừng, liền lên tiếng cãi lại:

– Trần trưởng lão của Cái bàng đã dùng thủ đoạn đê hèn, kiềm chế người đồng bọn của tôi, tôi đành phải bắt giữ Bang chủ của chúng.

Mỹ nữ đó lại mỉm cười hỏi tiếp:

– Giáo chủ bắt Bang chủ của người ta làm ngựa cỡi như vậy chả khoái một chút hay sao? Tôi ở Trường An tới nghe người ta nói Giáo chủ Minh giáo là một tiểu ma đầu, bây giờ mới được gặp mặt, hà, hà, hà..

Nàng ta vừa nói vừa khẽ lắc đầu mấy cái tỏ vẻ không vui, Hỏa Long đột nhiên la lớn:

– Vô Kỵ tiểu dâm tặc, có mau mau xuống đất hay không?

Nói xong, y giơ tay lên định hất đùi của Vô Kỵ xuống nhưng khổ nỗi, kinh mạch phía sau cổ của y đã bị đối phương nắm chặt, người và chân tay không còn một chút hơi sức nào cả. Vô Kỵ thấy Hỏa Long chửi mình là tiểu dâm tặc ở trước mặt mọi người đông đảo như vậy, vừa xấu hổ vừa tức giận, liền vận nội công dồn sang cổ tay của Hỏa Long. Hỏa Long liền cảm thấy mình mẩy tê tái, khó chịu không sao nhịn được liền la lớn:

– Ối chà, ối chà.

Rồi rên rỉ kêu la hoài.

Bang chúng của Cái bang thấy Vô Kỵ vô lễ như vậy và lại thấy bang chủ của mình hèn nhát đến thế, đều tức hận vô cùng, vì trước mặt đông đảo như vậy mà Hỏa Long lại kêu đau và rên rỉ như thế thì còn gì là một anh hùng hảo hán nữa.

Ðừng nói y là Bang chủ của một môn phái lớn mà dù là một đệ tử thường của Cái bang cũng không bao giờ chịu cúi đầu rên rỉ trước kẻ địch như vậy.

Hữu Lượng thấy vậy vội lên tiếng:

– Vô Kỵ, ngươi buông Bang chủ ra, ta sẽ thâu kiếm lại ngay.

Nói xong y liền bỏ kiếm vào bao. Sở dĩ y hành động trước là vì y tin chắc Vô Kỵ thế nào cũng buông tha Hỏa Long ngay.

Quả nhiên, Vô Kỵ vừa nói một câu: “Ðược lắm” thì người chàng đã nhảy xuống đứng cạnh Chỉ Nhược liền. Nhưng chàng thấy Chỉ Nhược lông mày cau có, mặt mũi tỏ vẻ uể oải tựa như vừa chết giấc xong mới thức tỉnh dạy vậy.

Chàng thấy nàng ta tội nghiệp như vậy vội đỡ nàng ngồi trên một chiếc ghế da.

Hữu Lượng quay lại nói với mỹ nữ áo vàng:

– Chẳng hay cô nương giáng lâm có điều gì muốn chỉ giáo thế? Và có thể cho chúng tôi được biết quý tính đại danh là gì không?

Thiếu nữ áo vàng tuy tuổi đã lớn, nhưng vẫn mặc phục trang khuê nữ và lại có tám thiếu nữ đi hầu trông rất quý phái, nên trong lòng y nghĩ mãi mà không nghĩ ra được nàng ta là ai. Ðồng thời, y lại thấy cái gậy trúc ở trong tay của con bé xấu xí, chính là tính vật của Bang chủ của Cái bang, không hiểu tại sao lại lọt vào tay con bé ấy như vậy?

Thiếu nữ áo vàng lạnh lùng hỏi:

– Hỗn Nguyên Phích Lịch Thủ Thành Khôn ở đâu, mời y ra đây tương kiến.

Vô Kỵ nghe thấy cái tên Thành Khôn trong lòng kinh ngạc vô cùng.

Nhưng Hữu Lượng đã biến sắc mặt, chỉ giây phút thôi, y lại giữ vẻ trấn tĩnh được liền, lạnh lùng đáp:

– Hỗn Nguyên Phích Lịch Thủ Thành Khôn nào? Có phải là sư phụ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đấy không, nếu vậy cô nương nên hỏi Trương Giáo chủ mới phải chớ.

Thiếu nữ lại cười nhạt hỏi tiếp:

– Các hạ là ai?

– Tại hạ họ Trần, biệt tự là Hữu Lượng, Trưởng lão tám túi của Cái bang.

Thiếu nữ chẩu môi hướng về phía Hỏa Long và hỏi tiếp:

– Tên này là ai? Trông bề ngoài thì oai phong như thế mà sự thật thì tầm thường, người ta mới trừng trị chút xíu như vậy mà đã kêu là om xòm, thật chả can đảm chút nào.

Bang chúng của Cái bang nghe thấy thiếu nữ nói như vậy đều hổ thẹn vô cùng, ai nấy đều đưa mắt nhìn Hỏa Long vẻ khinh miệt và tức giận.

Hữu Lượng vội đỡ lời:

– Ðây là Sử bang chủ của bổn bang, vì ốm đau mới khỏi nên mới yếu ớt như thế, cô nương là khách ở xa tới, chúng ta nhường nhịn ba thành, nếu cô còn nói bậy nói bạ đừng trách chúng tôi thất lễ.

Thiếu nữ áo vàng thấy thái độ của Hữu Lượng rất hung hăng mà vẫn thản nhiên vô cùng, liền bảo một thiếu nữ áo đen đứng ở vị trí gần đó rằng:

– Tiểu Thúy, mi hãy trả lá thư lại cho y.

Thiếu nữ áo đen tên là Tiểu Thúy vội vâng lời. Nàng liền móc túi lấy một lá thư ra để trong tay. Chỉ thoáng nhìn, Vô Kỵ đã trông thấy trên bao thơ viết:” Kính gủi Minh giáo Hàn đại gia Sơn Ðông” vòn một hàng chữ viết ở bên dưới “Cái bang Sử kính gởi”.

Trưởng bản Long đầu trông thấy lá thư đó mặt tím bầm lại, lên tiếng mắng chửi:

– Tiện tỳ, thì ra mi ở giữa đường đã đùa giỡn lão gia và còn lấy trộm lá thư này nữa.

Nói xong, y múa thiết bảng định xông lên tấn công, Tiểu Thúy cười khúc khích nói:

– Buồn cười thật, một người lớn tuổi như vậy mà giữ không nổi một lá thư, thật không xấu hổ chút nào.

Nói xong, nàng ta ném luôn lá thư về phía Trưởng bản Long đầu, chỉ thấy lá thư tà tà bay tới.

Hai người đứng cách nhau hơn ba trượng, lá thư như vậy mà thiếu nữ lại ném được đi xa như thế, đủ thấy nội công nàng ta lợi hại thế nào.

Lạ thật, lá thư bay đến chỗ Trưởng bản Long đầu cách ba thước thì đột nhiên ngoặt sang trái, rớt xuống kêu đến “bộp” một tiếng.

Trưởng bản Long đầu giơ tay ra chộp thì bị hụt, y ngạc nhiên vô cùng, đang định cúi xuống nhặt thì Vô Kỵ đã vén tay áo đưa một luồng gió mạnh ra dồn cho lá thư đó bay tung lên, rồi giở Càn Khôn Ðại Nã di thần công ra khua động thành gió, lá thư đã bay trở lại và rớt vào trong bàn tay chàng liền.

Người khác không hiểu sao chàng lại bắt được lá thư như vậy, lại tưởng chàng có pháp thuật nên ai nấy đều hoảng sợ vô cùng.

Ðêm nọ, Vô Kỵ đã được thấy Hỏa Long sai Trưởng bản Long đầu đem thư đi gặp Hàn Sơn Ðông và dùng Hàn Lâm Nhi để uy hiếp bắt buộc Sơn Ðông phải hàng Cái bang. Lúc nãy chàng lại nghe thấy Tiểu Thúy đối đáp với Trưởng bản Long đầu như vậy nên chàng đã hiểu ngay và đoán chắc những thiếu nữ áo trắng áo đen này đã đùa giỡn Trưởng bản Long đầu ở giữa đường và còn lấy trộm lá thư này, nên y mới phải quay trở lại Lư long, nhưng chàng lại nghĩ Trưởng Bản Long đầu võ nghệ cao cường như thế mà tại sao bây giờ mới hay biết người đùa giỡn và lấy trộm thư là thiếu nữ áo đen này, đủ thấy bọn thiếu nữ áo trắng áo đen này tinh khôn và có võ nghệ cao cường như thế nào, và những thiếu nữ áo trắng áo đen này thế nào cũng dưới quyền điều khiển của thiếu nữ áo vàng chứ không sai. Vì vậy chàng rất có thiện cảm với nàng ta.

Hồi thứ 84

Gian Mưu Bại Lộ

Vô Kỵ rờ mó cái cà rá sắt ở trên tay nàng và nói tiếp:

– Bữa nọ tôi trông thấy cái cà rá lọt vào tay Hữu Lượng trong lòng lo âu vô cùng, chỉ sợ cô bị kẻ gian hà hiếp nhục nhã. Tôi chỉ muốn mọc ngay đôi cánh bay đến cạnh cô. Sao chúng lại chịu trả cho cô cái cà rá này?

– Tống Thanh Thư thiếu hiệp của phái Võ Ðang trả cho tôi đấy.

Vô Kỵ nghe thấy Chỉ Nhược nói đến Thanh Thư liền hồi tưởng lại ngay cảnh nàng ngồi sát cánh với Thanh Thư nhậu nhẹt ở trên khách sảnh của Cái Bang, nên chàng vội hỏi:

– Thanh Thư có tử tế với cô không?

Chỉ Nhược nghe tiếng nói của chàng hơi khác lạ vội hỏi lại:

– Sao đại ca hỏi như thế?

– Không có gì cả, tôi chỉ thấy cô nói với Tống sư ca là tôi hỏi như thế thôi. Sự thật là Tống sư ca đối với cô cũng nặng tình thật. Anh ấy phản phái, nghịch cha, thí sư thúc hại sư tổ tất cả cũng chỉ vì cô mà thôi.

Chỉ Nhược ngẩng đầu lên nhìn vành trăng mới mọc, rồi bằng một giọng u oán, đáp:

– Nếu đại ca đối xử với tôi bằng một nửa Tống thiếu hiệp tôi cũng mãn nguyện lắm rồi.

– Tất nhiên tôi không thể si tình như Tống sư ca được và muốn bảo tôi vì cô mà làm ra những trò bất hiếu bất nghĩa ấy, tôi cũng không thể nào làm được.

– Phải, vì tôi thì đại ca không thể được nhưng vì Triệu cô nương thì chắc đại ca không từ chối phải không? Cũng như chuyện đại ca đã thề nặng ở trên hoang đảo là thế nào cũng phải giết chết yêu nữ để báo thù cho Hân cô nương, nhưng đại ca vừa thấy mặt nàng là quên hết lời thề ngay.

– Chỉ Nhược, nếu tôi điều tra ra chính Triệu cô nương lấy trộm thanh đao Ðồ Long với ỷ Thiên kiếm và giết chết biểu muội của tối, thì tôi nhất định không tha thứ cho nàng. Nhưng nàng quả thật thanh bạch và bị ngờ oan, thì tôi làm sao mà đang tay giết một người vô tội như thế được. Biết đâu sự thề thốt của tôi trên hoang đảo chẳng là thề lầm.

Chỉ Nhược ngẫm nghĩ chứ không nói năng gì.

Vô Kỵ vội hỏi:

-Có phải tôi đã nói lầm đấy không?

Chỉ Nhược đáp:

– Không, tôi nghĩ lại khi ở trên bảo thất tại chùa Vạn Pháp, tôi cũng có thề nặng với sư phụ, tôi chỉ hận, khi hứa thân với đại ca trên hoang đảo, không chịu nói lời thề nặng đó cho đại ca hay.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội hỏi lại:

– Cô… đã thề nặng với lệnh sư đó?

– Lúc ấy tôi thề với sư phụ tôi rằng, nếu sau này tôi lấy anh, thì cha mẹ tôi dưới âm ty sẽ không được yên, sư phụ tôi hoá thành ma quỷ ngày đêm đến ám ảnh tôi, còn con cháu của tôi với đại ca thì nếu là trai thì đời đời làm nô lệ, là gái thì đời đời làm đĩ điếm.

Nghe mấy câu thề ác độc ấy, Vô Kỵ liền chân tay và mình mẩy run lẩy bẩy, một lát sau mới nói được:

– Chỉ Nhược, lời thề sẽ không linh nghiệm đâu vì sư phụ của cô cứ yên trí Minh giáo là một Ma giáo chuyên môn làm bậy và tưởng tôi là một dâm tặc gian tà vô sỉ, cho nên mới ép cô thề như vậy, nếu bà ta biết rõ hết chân tình thì không bao giờ lại bỏa cô thề nặng như thế đâu.

Chỉ Nhược nước mắt nhỏ ròng xuống hai má và đỡ lời:

– Nhưng sư phụ tôi… bà ta đã không biết rõ…

Nói xong nàng ngã vào lòng Vô Kỵ nức nở khóc hoài.

Vô Kỵ vuốt ve tóc nàng an ủi rằng:

– Sư phụ của cô ở dưới âm ty hay chuyện cũng không trách cứ cô đâu vì tôi có phải là dâm tặc, gian tà vô sỉ như sư phụ cô tưởng đâu.

Chỉ Nhược ôm lấy lưng chàng đáp:

– Bây giờ đại ca không phải là hạng người như thế nhưng sau này bị Triệu Minh dụ dỗ, chưa biết chừng… chưa biết chừng sẽ gian tà vô sỉ ngay!

Vô Kỵ chìa ngón tay ra khẽ búng vào mặt nàng một cái:

– Cô cũng khinh thường tôi như thế phải không, chẳng lẽ chồng của cô cũng là hạng người như thế này hay sao?

Chỉ Nhược ngẩng mặt lên, nước mắt đã nhỏ dòng xuống má, nhưng đó là nàng cười ra nước mắt chứ không phải là khóc!

Nàng lại nói tiếp:

– Không biết xấu hổ! Ðại ca đã là chồng của thiếp rồi sao? Nếu đại ca đây còn đẩy đưa với con tiểu yêu Triệu Minh thì thiếp nhất định không thèm lấy đại ca nữa… Ai dám đảm bảo là đại ca không giống Thanh Thư, vì một thiếu nữ mà đã tạo nên không biết bao nhiêu trò ti tiện!

Vô Kỵ cúi đầu xuống hôn nàng một cái rồi vừa cười vừa nói tiếp:

-Ai bảo cô em tôi là một tiên nữ hạ trần, chúng tôi phàm phu tục tử cầm lòng sao nổi, đó cũng chỉ tại cha mẹ cô đã sinh trưởng được một người con gái quá đẹp để làm hại lũ đàn ông chúng tôi!

Ðột nhiên, sau một cây cổ thụ ở cách đó chừng hai trượng có hai tiếng cười nhạt khì khì.

Vô Kỵ đang ôm Chỉ Nhược ở trong lòng ngạc nhiên vô cùng, liền quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một cái bóng người thấp thoáng mấy cái đã đi xa liền.

Chỉ Nhược tung mình nhảy lên, mặt nhợt nhạt với giọng run run nói:

– Triệu Minh! Thế ra nó vẫn cứ theo sau chúng ta hoài!

Vô Kỵ nghe thấy hai tiếng cười nhạt đã nhận ngay tiếng cười của thiếu nữ, nhưng chàng không dám quyết định đó là Triệu Minh, nên chàng chần chừ hỏi:

– Có thật là nàng ta hay không? Nàng ta theo dõi chúng ta làm chi?

Chỉ Nhược giận dữ đáp:

– Nó thích đại ca, đại ca còn giả bộ không biết, có lẽ các người đã hẹn trước với nhau và làm ra cái trò quỷ đó để đùa giỡn tôi.

Vô Kỵ kêu oan uổng hoài!

Chỉ Nhược nghĩ đi nghĩ lại một hồi nước mắt cứ nhỏ dòng liên tiếp.

Vô Kỵ giơ tay trái lên khẽ ôm lấy thân nàng, ta phải thì chùi nước mắt cho nàng, rồi dùng giọng dịu dàng nói:

– Sao bỗng dưng lại khóc thế này? Nếu tôi mà có hẹn Triệu Minh thì trời tru đất diệt! Cô em thử nghĩ xem, nếu tôi yêu nàng ta mà lại biết nàng ta ở gần đây thì có khi nào lại tỏ tình yêu như điên như rồ với cô em như hồi nãy? Như vậy có phải là cố ý để cho nàng ta khó chịu hay sao?

Chỉ Nhược nhận thấy lời nói của chàng rất phải, liền thở dài một tiếng và nói:

– Vô Kỵ đại ca! Trong lòng tôi lúc này khó mà bình tĩnh được!

Vô Kỵ hỏi lại:

– Tại sao thế?

– Tôi vẫn không quên được lời thề trước mặt sư phụ và chắc thế nào Triệu Minh cũng không chịu để yên cho tôi, bất cứ bằng võ công hay bằng mưu kế tôi đều thua nàng ta xa!

– Tôi sẽ tận tâm tận lực bảo vệ cho cô em được chu toàn, nếu nàng ta dám đụng đến sợi tóc của người vợ yêu dấu của tôi thì nhất định không để yên cho nàng ta đâu!

– Nếu không may tôi chết vì tay nàng thì thôi, chỉ trách cho số mệnh tôi hẩm hiu nhưng tôi sợ nhất là đại ca bị nó mê hoặc, tin lời ngon lẽ ngọt của nó, rồi bị lọt vào tròng của nó mà về giết tôi thì lúc ấy có chết cũng không đành lòng!

– Cô em đừng quá lo âu như vậy! Trên đời này có biết bao nhiêu người định ám hại tôi, có lỗi với tôi, tôi đều không giết, như vậy, có khi nào tôi lại đi giết cô em yêu quý của tôi cho được!

Nói xong, chàng cởi áo ra, để lộ cái sẹo bị kiếm đâm cho Chỉ Nhược xem rồi vừa cười vừa nói tiếp:

– Kiếm này do em đâm phải không? Em càng đâm tôi bao nhiêu thì tôi lại càng yêu cô em bấy nhiêu!

Chỉ Nhược giơ tay lên rờ rờ vào cái sẹo đó tỏ vẻ thương tiếc, đột nhiên mặt nhợt nhạt, nói tiếp:

– Ác giả ác báo, chắc sau này thể nào đại ca cũng sẽ dùng kiếm đâm chết tôi, nhưng tôi sẽ không ân hận chút nào.

Vô Kỵ giơ tay ra ôm nàng vào lòng và nói tiếp:

– Chờ chúng ta tìm thấy nghĩa phụ, thế nào cũng nhờ nghĩa phụ đứng làm chủ hôn cho chúng ta! Rồi chúng ta đứng ngồi đều không rời khỏi nhau cho tới già, tới chết cũng vậy, quý hồ cô em có lòng yêu mến tôi chân thực thì cô em có đâm thêm vài kiếm nữa tôi cũng không dám mắng nửa lời! Như vậy cô em đã bằng lòng chưa?

Chỉ Nhược dí má vào ngực nóng hổi của chàng, vừa nhận thấy hơi da thịt của đàn ông, nàng khẽ đáp:

– Chỉ mong đại ca là người đại trượng phu, lời nói có tín nghĩa, không chóng quên câu chuyện ngày hôm nay, thế thôi!

Hai người âu yếm nhau hồi lâu, cho tới khuya, thấy lạnh, cả hai mới dắt tay nhau trở về khách điếm ngủ. Sáng ngày hôm sau, hai người cùng Hàn Lâm Nhi lại tiếp tục đi về phía Nam.

Suốt dọc đường không thấy tung tích của Triệu Minh đâu hết.

– Không bao lâu ba người đã đi tới Ðại Ðô. Lúc vào thành, trời đã sâm sẩm tối, thấy cả thành nam nữ đều quét rửa phố xá sạch sẽ, nhà nào nhà nấy đều bày một bàn hương án ở trước cửa, Vô Kỵ với Chỉ Nhược hai người vào trọ khách sạn, hỏi người phổ ky nơi đây có việc gì như thế?

Người phổ ky đó liền đáp:

– Khách quan ở xa mới tới không biết chuyện đấy thôi! Kể cũng may mắn cho khách quan thực! Ngày mai là ngày đại du hoàng thành đấy!

Vô Kỵ hỏi lại:

– Cái gì lại gọi là đại du hoàng thành thế?

Phổ ky đáp:

– Ở đây cứ mỗi năm một lần, hoàng thượng đại du hoàng thành một ngày. Ngày mai đã tới kỳ đại du đó! hoàng thượng sẽ đi tới chùa Khánh Thọ vái lễ, mấy vạn nam nữ đóng những tuồng tích cổ đi du hành dài hơn ba mươi trượng, thực là vui vẻ khôn tả! Tối hôm nay khách quan nên ngủ sớm để sáng mai dậy sớm đi ra ngoài cửa Ngọc Ðức Ðiện chiếm lấy một chỗ ngồi, nếu khách quan may mắn thì sẽ được trông thấy hoàng thượng, hoàng hậu, Thứ phi, Thái tử, Công chúa… đủ cả! Khách quan thử nghĩ xem, chúng ta là dân chúng, nếu không ở kinh sư này thì làm gì có phúc được trông thấy nhà vua như vậy?

Hàn Lâm Nhi nghe nói bực mình vô cùng vội quát mắng:

– Nhận giặc làm cha! Quân Hán gian vô sỉ kia! Vua Thát Ðát hay hớm gì mà xem chúng?

Phổ ky trợn to hai mắt rồi chỉ tay vào mặt chàng nói tiếp:

– Sao… sao… người lại nói thế? Người ăn nói như vậy không sợ bị chém đầu hay sao?

Hàn Lâm Nhi lại nói tiếp:

– Ngươi là người Hán. Quân Thát Ðát giết hại chúng ta thảm khốc như vậy, ngươi lại còn gọi chúng là hoàng thượng, quả thực ngươi không có một tí cốt cách gì hết.

Phổ ky thấy Lâm Nhi hung hăng như vậy, quay mình định đi ra.

Chỉ Nhược đã giơ tay lên, chỉ một cái đã điểm trúng ngay yếu huyệt ở sau lưng y, và nói:

– Ðể cho người này đi ra thế nào cũng phiền phức lắm, và không bao lâu thế nào cũng có quan binh tới đây gây sự chứ chẳng không?

Nói xong nàng đá tên phổ ky đó vào gầm giường, rồi vừa cười vừa nói tiếp:

– Hãy để cho y nhịn đói vài giờ, khi nào chúng ta đi mới thả y ra!

Một lát sau người trưởng quầy ở bên ngoài lớn tiếng gọi:

– A Phúc! A Phúc! Cứ ở trong ấy nói dông, nói dài làm gì mãi thế? Có mau ra đổ nước rửa mặt cho khách ở trong phòng mười cho ta không?

Hàn Lâm Nhi không nhịn được cười liền vỗ bàn kêu gọi:

– Mau đem cơm rượu vào đây, đại gia đói lắm rồi!

Một lát sau tên phổ ky khác đem cơm rượu vào, mồm cứ lẩm bẩm nói:

– Chắc A Phúc nó lại lẻn đi hoàng thành xem đốt cây bông rồi! Thằng nhỏ ấy lười biếng và ham chơi thật!

Sáng sớm ngày hôm sau, Vô Kỵ vừa ngủ dậy đã thấy vô số nam nữ ăn mặc thật lịch sự kéo nhau đi thẳng về phía Bắc.

Người nào người ấy đều hể hả vui thú như ngày Tết vậy!

Chỉ Nhược cũng ra ngoài cửa đứng xem và nói:

– Chúng ta cũng kéo nhau đi xem đi!

Vô Kỵ đáp:

– Tôi đã đánh nhau với bọn võ sĩ của Nhữ Dương Vương rồi, chỉ sợ chúng nhận ra cái mặt tôi thì phiền phức lắm! Chi bằng chúng ta hãy cải trang trước, rồi mới đi xem thì hơn!

Thế rồi chàng cùng Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi ba người hoá trang làm ba kẻ nhà quê, lấy nước bùn ra bôi lên mặt và tay rồi theo mọi người đi thẳng về phía hoàng thành.

Lúc ấy là cuối giờ Mẹo đầu giờ Thìn, nội ngoại hoàng thành người đông như kiến cỏ, không có chỗ mà chen chân.

Vô Kỵ giơ hai cánh tay về phía trước để mở đường, rút cuộc ba người đi tới dưới mái hiên người khán giả và chen được ba chỗ đứng.

Không bao lâu đã nghe thấy có tiếng thanh la ở từ đằng xa vọng tới.

Người nào người ấy đều giương cổ lên nhìn, tiếng thanh la càng gần dần tiếp theo đó có một trăm lẻ tám người đều mặc áo quần xanh tay trái cầm thanh la lớn, tay phải cầm dùi gõ.

Một trăm lẻ tám cái thanh la cùng bị gõ một lúc, tiếng kêu làm đinh tai nhức óc mọi người. Ðội thanh la đi qua rồi đến đội trống ba trăm sáu mươi người.

Sau cùng mới đến đội người Hán thổi bát âm, người Tây Vực thổi kèn, người Mông Cổ thổi tù và.

Ðội nào ít nhất cũng có đến hàng trăm người, đội nhiều lại đến hơn ngàn! Nhạc đội đi qua rồi mới đến hai lá cờ bằng đoạn rất lớn. Một lá trên đề: “An Bang Hộ Quốc”. Một lá nữa đề: “Chấn Tà Phục Ma” trước sau hai lá cờ đó đều có hơn hai trăm tinh binh Mông Cổ hộ vệ. Chúng đều cưỡi ngựa trắng, cầm khí giới sáng quắc, trông rất oai phong!

Dân chúng vừa thấy đội kỵ binh này đi tới đã lên tiếng hoan hô liền!

Hai lá cờ lớn đi qua chẳng bao lâu, thì đột nhiên bên phía Tây nơi chỗ đông người một vệt sáng thấp thoáng, thì ra ánh sáng đó là ở hai loạt phi đao chiếu tới. Thì ra hai loạt phi đao đó đang nhằm cán cờ kia bắn tới, mỗi loạt phi đao đó chừng bảy lưỡi. Bảy lưỡi phi đao đó đều cắm vào cán cờ nọ cùng một lúc. Cán cờ tuy lớn thực, nhưng chịu sao nổi bảy lưỡi phi đao, liền gãy ngay, và lá cờ từ trên không đổ xuống tức thì. Chỉ nghe thấy những tiếng kêu la thảm khốc, có mười mấy người bị cán cờ đè lên!

Dân chúng đứng xem quanh đó cũng kêu la om sòm bỏ chạy toán loạn. Sự việc xảy ra đột ngột, Vô Kỵ với các người cũng ngạc nhiên vô cùng.

Hàn Lâm Nhi đang định lên tiếng khen ngợi thì bỗng thấy một bàn tay mềm mại bịt luôn mồm chàng, thì ra Chỉ Nhược vừa kịp ra tay, không để cho chàng lên tiếng khen ngợi như thế! Tức thì lúc đó mấy trăm tên lính Mông Cổ cầm khí giới đều xông lại đâm chém những người quấy rối.

Vô Kỵ thấy mười bốn thanh phi đao ném vừa rồi, vừa mạnh vừa nhanh hiển nhiên là do những tay cao thủ trong võ lâm đã ra tay. Nhưng vì bị những người đứng xem ngăn cản nên chàng không trông thấy rõ người đó là ai.

Một lát sau chàng đã thấy lính Mông Cổ lôi bảy tám người ở đám đông ra.

Những người dó vừa bị lôi vừa kêu la, nhưng họ chưa kêu được hai tiếng thì đã bị quân Mông Cổ chém chết ngay tại chỗ.

Loạn xạ một hồi xong, phía sau tiếng nhạc lại thổi lên rồi lại có những đôi người làm trò tung dao nuốt lửa và các thứ trò nhào lộn của Tây Vực khiến dân chúng đứng xem hai bên đều khen ngợi không ngớt!

Hình như họ đã quên baưng đi tấm thảm kịch vừa xảy ra vậy!

Sau đó, bỗng có một tiếng thanh la vỡ nổi lên, rồi có một chiếc xe có hai con ngựa gầy gò kéo chạy tới.

Xe đó tới gần, Vô Kỵ đã thấy rõ liền giật mình kinh hãi. Thì ra, trong xe có một người tóc vàng xoã xuống vai, hai mắt nhắm nghiền ngồi xếp bằng tròn ở trên sập, người đó giả dạng giống hệt Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, còn một thiếu nữ đứng cạnh tay bưng nước ân cần hầu hạ, tuy mặt không đẹp bằng Chỉ Nhược, nhưng quần áo nàng ta đang mặc thì giống hệt như quần áo của Chỉ Nhược vậy!

Lâm Nhi liền thất thanh nói:

– Chu cô nương! Sao người này giống cô nương thế?

Chỉ Nhược chỉ kêu hừ một tiếng chứ không quay đầu trở lại trả lời, Vô Kỵ quay đầu trở lại nhìn thấy nàng tỏ vẻ tức giận, chàng vội giơ tay ra nắm tay nàng. Cả hai không sao đoán ra được cái xe này giả dạng Tạ Tốn với Chỉ Nhược để làm chi?

Tiếp theo đó lại có một chiếc xe nữa cũng giả dạng Tạ Tốn với Chỉ Nhược như vậy! Nhưng xe này người đóng Chỉ Nhược lại đột nhiên giơ hai ngón tay ra điểm luôn vào phía sau lưng Tạ Tốn một cái, Tạ Tốn giả liền kêu “ủa” một tiếng rồi té lăn xuống dưới chân sạp.

Chỉ Nhược giả liền đưa chân đạp lên người y, giơ kiếm lên định giết.

Dân chúng thấy vậy liền lớn tiếng khen ngợi:

– Hay! Hay! Giết y đi!…

Ðến xe thứ ba cũng có hai người ăn mặc giả Tạ Tốn và Chỉ Nhược, nhưng xe này lại có thêm sáu bảy tên bang chúng của Cái Bang đang giả bộ bắt giữ Tạ Tốn và Chỉ Nhược. Lúc này Vô Kỵ hoài nghi vô cùng biết xe này thể nào cũng do Triệu Minh sai người làm giả như thế! Chắc nàng biết mình với Chỉ Nhược tới Ðại Ðô nên mới làm như vậy để làm nhục Chỉ Nhược một phen. Chàng vội cúi người, nhặt sáu viên đá nhỏ rồi dùng móng tay bắn mù luôn mắt phải của sáu con ngựa đang kéo ba xe đó.

Sáu con ngựa chỉ hí lên được một tiếng đã ngã gục chết tốt.

Ba cái xe hoa đó cũng lật nhào theo, những người đóng các vai ở trên xe đều ngã lăn ra đất.

Ngoài đường lại loạn xạ một hồi.

Nhân lúc ấy Vô Kỵ lại nhặt sáu viên đá nhỏ giấu trong tay áo mà ném ra.

Chỉ Nhược cắn môi khẽ nói:

– Vô Kỵ đại ca, yêu nữ làm nhục tôi… tôi…

Nói tới đó, nàng đã nức nở không sao nói được lên tiếng.

Vô Kỵ thấy tay nàng lạnh ngắt người run lẩy bẩy, vội an ủi rằng:

– Chỉ Nhược, con nhãi ấy bậy thật, trò gì cũng nghĩ ra được. Thôi cô em đừng lý tới nó nữa, chỉ cần tôi một lòng một dạ thương em là đủ. Người ngoài dù ly gián đến thế nào tôi cũng không tin đâu.

Trong khi hai người chuyện trò thì quân Mông Cổ đã tới đàn áp dân chúng, lôi ngựa chết và gỡ xe ra. Một chiếc xe hoa ở đằng sau chạy tới liền. Vì nghĩ lại chuyện xảy ra hồi nãy, Vô Kỵ với Chỉ Nhược không còn tâm trí gì xem các trò vui nữa.

Ðột nhiên dân chúng đồng thanh kêu lên:

– Hoàng thượng tới đấy, hoàng thượng tới đấy.

Họ đang nói thì từ xa có một chiếc kiệu phủ nhiễu vàng rất lớn do ba mươi hai tên cẩm y thị vệ khiêng. Vô Kỵ chú ý nhìn thấy nhà vua Mông Cổ mặt mũi tiều tuỵ, tuy hai má hơi hồng nhưng hai mắt lõm vào, đủ thấy y vì tửu sắc quá nhiều mà người uể oải không còn chút tinh thần nào. hoàng Thái tử cưỡi ngựa theo sau. Thái tử này còn có một chút anh khí, lưng đeo cây trường cung bọc vàng khảm ngọc, Lâm Nhi rỉ tai Vô Kỵ khẽ nói:

– Giáo chủ sao không nhảy lên dùng chưởng đánh chết tên Thát Ðát này đi để diệt hoạ lớn cho thiên hạ?

Vô Kỵ trầm ngâm không kịp trả lời thì Lâm Nhi lại nói tiếp:

– Dù tên vua Thát Ðát còn rất nhiều cao thủ bảo vệ, chúng chưa chắc đã cản nổi cái đánh của Giáo chủ.

Bỗng có một người đứng bên trái Vô Kỵ lên tiếng nói:

– Không nên, không nên, lấy tàn bạo mà thay đổi tàn bạo như thế chưa chắc đã là thượng sách.

Vô Kỵ, Lâm Nhi và Chỉ Nhược nghe nói đều giật mình kinh hãi, vội quay đầu lại nhìn. Thấy người đó là một thầy lang tuổi trạc năm mươi, lưng đeo túi thuốc, tay phải cầm gậy đánh hổ, duỗi thẳng mười móng tay để ở trước ngực làm dấu hiệu ngọn lửa của Minh giáo.

Y vừa thấy Vô Kỵ các người quay lại nhìn đã khẽ nói:

– Bành Doanh Ngọc bái kiến giáo chủ, giáo chủ bình yên vô sự, tất cả giáo chúng đều mừng rỡ khôn tả, chứ không riêng gì hòa thượng tôi.

Vô Kỵ cả mừng vội hỏi lại:

– Ủa? Thế ra người là Bành…

Bành hòa thượng hoá trang rất khéo, đứng cạnh Vô Kỵ đã lâu mà Vô Kỵ ba người không hay biết tí gì.

Bành Doanh Ngọc lại khẽ nói tiếp:

– Không thể diệt trừ vua của Thát Ðát được đâu và chỗ này cũng không phải là nơi trò chuyện.

Vô Kỵ biết y là người giàu kiến thức xưa nay, nên nghe thấy nói như vậy chàng liền gật đầu không nói năng gì, chỉ giơ tay phải ra nắm chặt lấy tay của Bành hòa thượng, trong lòng mừng rỡ khôn tả. hoàng đế với thái tử đi khỏi, lại tới ba nghìn thiết giáp ngự lâm quân, theo sau ngự lâm quân là hàng nghìn hàng vạn dân chúng người nào người ấy tỏ vẻ vui mừng. Bốn người liền chen vào đám đông theo dân chúng đi ra ngoài điện Ngọc Ðức, thấy nơi đó có bảy cái lầu kết hoa, nóc vàng, cao chót vót. Ngoài lầu, ngự lâm quân tay cầm roi mây xua đuổi những người tới gần xem. Dân chúng tuy đông thật, nhưng Vô Kỵ bốn người chen vào rất dễ, không bao lâu đã tới trước mấy cái lầu kết hoa đó liền. Lầu hoa ở giữa cao hơn hết, trong đó vua ngồi trên ghế rồng tại nơi chính giữa, hai bên có hai vị hoàng hậu, đều là hai phụ nữ tuổi trạc trung niên thân hình mập mạp. hoàng thái tử ngồi phía bên trái, bên phải có một thiếu nữ tuổi trạc hai mươi, mình mặc nam bào, chắc nàng ta là công chúa. Vô Kỵ mắt nhìn thấy trong lầu kết hoa thứ hai ở bên trái, có một thiếu nữ mình mặc áo lông điêu, cổ đeo đầy những hạt châu, vẻ mặt tươi cười, mắt nhìn tả nhìn hữu, trông rất xinh đẹp. Người đó chính là Triệu Minh, người ngồi ghế giữa của lầu đó là một vương gia râu dài tướng mạo rất oai nghiêm, chàng đoán chắc người đó thế nào cũng là Nhữ Dương Vương Sát Hãn Ðặc Mục Nhĩ, cha của Triệu Minh, còn Khố Khố Ðặc Mục Nhĩ anh của Triệu Minh thì đi lại trong lầu trong, hình dáng của y rất hung hăng và dữ tợn.

Chỉ Nhược trông thấy hai vị hoàng hậu đó ngẩn người ra nhìn không dám đi tới gần, một tên ngự lâm quân giơ roi lên nhằm đầu nàng đánh xuống.

Vô Kỵ vội giơ tay phải lên bắt lấy đầu roi giật một cái, tên nọ ngã lộn vòng.

Chàng hất ngã tên nọ rồi lẻn ngay vào trong đám đông biến mất.

Lúc ấy các Phiên tăng đang bày Thiên Ma đại trận ở trước mặt vua Mông Cổ. Trận đó biến hoá khôn lường, dân chúng đang khen ngợi, tiếng vỗ tay và tiếng khen ngợi của mọi người vang động như tiếng sấm kêu.

Chỉ Nhược ngắm nhìn Triệu Minh một hồi, rồi thở dài một tiếng và nói:

– Chúng ta đi về thôi.

Bốn người liền trở về khách điếm.

Vô Kỵ hỏi Doanh Ngọc có biết tin tức của Tạ Tốn không?

Doanh Ngọc vừa ở Hoài Tứ đến nên không biết Tạ Tốn về tới Trung Nguyên, y chỉ cho Vô Kỵ hay Nguyên Chương, Từ Ðạt, Ngộ Xuân các người đã lập được rất nhiều công trạng, nên tiếng tăm của Minh giáo đã lẫy lừng hơn trước.

Hàn Lâm Nhi vội xen lời hỏi:

– Bành đại sư, vừa rồi chúng tôi định xông lại chém chết vua của Mông Cổ, tại sao đại sư lại ngăn cản?

Doanh Ngọc lắc đầu đáp:

– Vua Mông Cổ là một hôn quân, y giúp chúng ta rất nhiều, ta giết y làm chi?

Hàn Lâm Nhi ngạc nhiên hỏi lại:

– Vua Mông Cổ vô đạo như vậy, chỉ khổ dân chúng, tại sao đại sư lại bảo y giúp chúng ta rất nhiều?

Doanh Ngọc lại trả lời tiếp:

– Chú em không biết đấy thôi, vua Mông Cổ dùng Phiên tăng làm loạn triều chính, lại sai Giả Lỗ đào sông hoàng Hà, làm cho trời giận người oán. Sở dĩ mấy năm nay chúng ta thắng nổi quân Mông Cổ là nhờ dân chúng thù oán người Mông Cổ mà giúp đỡ cho, bằng không, quân ô hợp của chúng ta làm sao địch nổi quân thiện chiến như Mông Cổ. Hơn nữa nhà vua hồ đồ ấy không biết dùng trung thần, như Nhữ Dương Vương điều binh khiển tướng giỏi như vậy mà y không biết trọng dụng lại sợ Nhữ Dương Vương cướp ngôi báu của y, nên y không những tước binh quyền người trung thần đó, mà lại còn hạn chế hoạt động của Nhữ Dương Vương, mà y chỉ quen dùng những quan binh hèn nhát, chuyên môn nịnh hót thôi. Nhờ vậy, chúng ta mới thắng trận, và như thế y chẳng giúp chúng ta là gì.

Lúc này Lâm Nhi mới tỉnh ngộ, gật đầu lia lịa.

Doanh Ngọc lại nói tiếp:

– Nếu chúng ta giết chết tên hôn quân này, thái tử sẽ lên ngôi và vua mới của chúng có đần độn đến đâu cũng không bao giờ hồ đồ như người cha, mà nếu y lại biết dùng những quan binh thiện chiến thì có phải đại sự chúng ta hỏng hết không?

Lâm Nhi tự vả miệng mấy cái và tự mắng:

– Mi khốn nạn thật, từ giờ trở đi còn dám nói bậy nói bạ như thế không?

Thấy y trực tính như vậy, ai nấy đều cười ồ.

Mọi người lại nói đến chuyện nếu việc khởi nghĩa thành công, thì thế nào cũng tôn Vô Kỵ làm vua. Vô Kỵ có ý cương quyết phản đối.

Chỉ Nhược liền biến sắc mặt và xen lời nói:

– Giáo chủ của Minh giáo làm vua, có gì là lạ nào. Năm xưa nếu việc làm của cha tôi thành công thì cha tôi chả trở nên nhà vua là gì?

Doanh Ngọc cũng lên tiếng:

– Phải, năm xưa Chu sư huynh thành công thì bây giờ Chu cô nương đã là vị công chúa rồi.

Chỉ Nhược cười nhạt nói tiếp:

– Hừ, quận chúa Nhữ Dương Vương thì có gì lạ nào, thế mà người lại cứ coi trọng nàng ta, đưa mắt nhìn không chớp, nếu tôi là đàn ông thì tôi lấy công chúa của vua, như vậy làm phò mã chả hơn làm chồng của quận chúa hay sao?

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược nói như vậy, ngượng vô cùng và nghĩ thầm:

– Có lẽ hôm nay ta nhìn trộm Triệu cô nương bị nàng trông thấy nên nàng mới nói như vậy. Nhưng đó cũng là tại nàng yêu ta mà nên.

Bốn người chuyện trò một hồi, và sau khi dùng cơm xong, Vô Kỵ liền nói:

– Tôi với Bành đại sư đi ra ngoài phố dò thám tin tức của nghĩa phụ.

Chàng sợ Lâm Nhi trực tính hơi tý gây hoạ, nên dặn Lâm Nhi rằng:

– Chú em họ Hàn, tối hôm nay cùng Chỉ Nhược đừng đi đâu đấy nhé.

Thế rồi Vô Kỵ với Doanh Ngọc một người đi về phía Tây, một người đi về phía Ðông và hẹn nhau canh hai sẽ gặp lại. Vô Kỵ ra khỏi điếm đi thẳng về phía Tây nghe thấy người đi xem hội lên tiếng nói nhau rằng:

– Minh giáo nổi loạn ở phía Nam, ngày hôm nay đức Thánh Quan đang được rước ngoài đường bỗng hai mắt lộ sát khí, chắc phản tặc thế nào cũng bị tiêu diệt chứ không sai.

Người thứ hai lại nói:

– Minh giáo có Di Lặc bồ tát bảo hộ cho, có lẽ phen này đức Thánh Quan sẽ đại chiến với Phật Di Lặc cũng nên…

Vô Kỵ biết chúng là ngu dân, nên chàng không để ý nghe, liền rảo bước đi đến một chỗ khác vắng vẻ. Chàng ngẩng đầu lên nhìn mới hay mình đã đi tới trước tửu điếm mà ngày nọ chàng đã cùng Triệu Minh uống rượu, chàng giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Sao ta bỗng dưng lại đi tới đây như thế? Hay là trong lòng ta vẫn không thể dứt được Triệu cô nương chăng?

Chàng thấy cửa điếm hé mở, bên trong vắng tanh. Chần chờ giây lát, chàng liền đẩy cửa đi vào, thấy một tên phổ ky đang ngồi trên quầy ngủ gật. Chàng lại tiến vào trong hồi đường. Chàng thấy trên một cái bàn vuông cho góc tường có thắp một cây nến nhỏ nửa lu nửa sáng, cạnh bàn có một người đang ngồi quay mặt vào trong. Bàn ấy chính là bàn mà chàng cùng Triệu Minh đã ngồi nhậu nhẹt với nhau. Chàng thấy ngoài vị khách quay mặt vào tường kia, thì trong hậu đường không còn một người thứ hai nữa. Chàng ngạc nhiên vô cùng, lững thững đi tới gần cái bàn có thắp nến đó. Người nọ nghe thấy tiếng chàng, liền đứng phắt dậy, quay mặt trở lại nhìn, trước ánh sáng nến lập loè, Vô Kỵ trông thấy rõ mặt người đó, mới hay nàng ta là Triệu Minh. Nàng với Vô Kỵ hai người đều không ngờ gặp gỡ nhau ở nơi đây, nên cả hai cùng đồng thanh kêu “ủa” một tiếng.

Triệu Minh khẽ hỏi:

– Ðại…. ca, tại sao lại tới đây như vậy?

Giọng nói của nàng run, hiển nhiên trong thâm tâm nàng khích động vô cùng, Vô Kỵ đáp:

– Tôi nhân lúc nhàn rỗi đi qua không ngờ…

Chàng vừa nói vừa tới gần, mới hay phía trước mắt Triệu Minh có bày sẳn một bộ bát đũa.

Chàng liền hỏi tiếp:

– Còn ai nữa thế?

Triệu Minh mặt đỏ bừng, đáp:

– Không có ai cả, lần trước tôi với đại ca ở đây nhậu nhẹt, đại ca ngồi ở trước mặt tôi, cho nên tôi mới gọi phổ ky gọi thêm một đôi đũa và một cái chén là thế.

Vô Kỵ nghe nàng nói như vậy cảm động vô cùng, chàng thấy trên bàn có bốn món ăn y như những món mà đầu tiên chàng gặp nàng ở đây, nàng đã dặn phổ ky làm như vậy, lúc này chàng mới nhận thấy lòng nàng thương mình như thế nào, không sao nhịn được, chàng liền giơ tay ra nắm lấy Triệu Minh và mồm thì khẽ kêu gọi:

– Triệu cô nương!

Triệu Minh liền đáp:

– Tôi rất ân hận là đã sống trong một gia đình vương giả của người Mông Cổ, mà lại còn là kẻ đối địch của đại ca…

Ðột nhiên chàng nghe thấy ngoài cửa sổ có hai tiếng cười nhạt “hừ, hừ” và có một vật gì bay vào kêu đến bộp một tiếng, ném tắt ngọn nến khiến trong tiệm tối đen như mực.

Vô Kỵ với Triệu Minh nghe tiếng cười nhạt đó biết ngay là Chỉ Nhược, nên cả hai đều bàng hoàng không biết đối phó ra sao, đuổi cũng không nên, mà ở lại cũng không phải. Ðồng thời lại nghe tiếng ở trên mái nhà có tiếng chân đi rất nhẹ mới biết Chỉ Nhược chạy như gió và biến mất rồi.

Triệu Minh liền khẽ nói:

– Ngày hôm đó, tôi núp đằng sau cây, nghe thấy đại ca với nàng đàm tình thuyết ái với nhau tôi chỉ muốn giết ngay nàng tại chỗ. Tôi chỉ hận cha mẹ tôi sinh tôi ra ở thế gian này làm chi. Hôm đó tôi cũng cười nhạt hai tiếng, bây giờ nàng cũng trả lời bằng hai tiếng cười nhạt. Nhưng… nhưng tại sao đại ca không nói nửa lời để cho tôi vui lòng?

Vô Kỵ có vẻ ăn năn vội đáp:

– Triệu cô nương, theo lẽ tôi không nên tới đây và cũng không nên tái kiến cùng cô nương, vì tim tôi đã gởi gắm cho người rồi, tôi không nên làm cho cô phiền não và đau khổ thêm. Cô thân quý như ngọc như ngà, tôi một tên quê mùa cục mịch, thực không xứng sánh duyên với cô, mong cô quên tôi đi thì hơn.

Triệu Minh cầm tay chàng khẽ vuốt cái sẹo ở trên mu tay và trả lời:

– Ðây là vết thương mà tôi đã cắn đại ca, dù võ công của đại ca có cao siêu đến đâu cũng không sao xoá được cái sẹo này. Vậy cái sẹo ở trên tay của đại ca mà không xoá nhòa được thì thử hỏi cái sẹo trong tim đại ca có xoá nhòa được không?

Ðột nhiên, nàng giơ hai cánh tay ra ôm chặt lấy cổ Vô Kỵ, rồi hôn một cách rất nồng nàn, trong lúc Vô Kỵ mơ mơ màng màng, như say như mê thì Triệu Minh dùng sức cắn mạnh môi chàng một cái, bật máu tươi ra. Tiếp theo đó lại đẩy mạnh vai chàng một cái, rồi tung mình nhảy ra ngoài cửa sổ, vừa đi vừa nói vọng lại:

– Ðại ca là tiểu dâm tặc, tôi hận đại ca lắm lắm…

Hồi thứ 85

Ðêm Ðộng Phòng Hoa Chúc

Vô Kỵ rờ mó cái cà rá sắt ở trên tay nàng và nói tiếp:

– Bữa nọ tôi trông thấy cái cà rá lọt vào tay Hữu Lượng trong lòng lo âu vô cùng, chỉ sợ cô bị kẻ gian hà hiếp nhục nhã. Tôi chỉ muốn mọc ngay đôi cánh bay đến cạnh cô. Sao chúng lại chịu trả cho cô cái cà rá này?

– Tống Thanh Thư thiếu hiệp của phái Võ Ðang trả cho tôi đấy.

Vô Kỵ nghe thấy Chỉ Nhược nói đến Thanh Thư liền hồi tưởng lại ngay cảnh nàng ngồi sát cánh với Thanh Thư nhậu nhẹt ở trên khách sảnh của Cái Bang, nên chàng vội hỏi:

– Thanh Thư có tử tế với cô không?

Chỉ Nhược nghe tiếng nói của chàng hơi khác lạ vội hỏi lại:

– Sao đại ca hỏi như thế?

– Không có gì cả, tôi chỉ thấy cô nói với Tống sư ca là tôi hỏi như thế thôi. Sự thật là Tống sư ca đối với cô cũng nặng tình thật. Anh ấy phản phái, nghịch cha, thí sư thúc hại sư tổ tất cả cũng chỉ vì cô mà thôi.

Chỉ Nhược ngẩng đầu lên nhìn vành trăng mới mọc, rồi bằng một giọng u oán, đáp:

– Nếu đại ca đối xử với tôi bằng một nửa Tống thiếu hiệp tôi cũng mãn nguyện lắm rồi.

– Tất nhiên tôi không thể si tình như Tống sư ca được và muốn bảo tôi vì cô mà làm ra những trò bất hiếu bất nghĩa ấy, tôi cũng không thể nào làm được.

– Phải, vì tôi thì đại ca không thể được nhưng vì Triệu cô nương thì chắc đại ca không từ chối phải không? Cũng như chuyện đại ca đã thề nặng ở trên hoang đảo là thế nào cũng phải giết chết yêu nữ để báo thù cho Hân cô nương, nhưng đại ca vừa thấy mặt nàng là quên hết lời thề ngay.

– Chỉ Nhược, nếu tôi điều tra ra chính Triệu cô nương lấy trộm thanh đao Ðồ Long với ỷ Thiên kiếm và giết chết biểu muội của tối, thì tôi nhất định không tha thứ cho nàng. Nhưng nàng quả thật thanh bạch và bị ngờ oan, thì tôi làm sao mà đang tay giết một người vô tội như thế được. Biết đâu sự thề thốt của tôi trên hoang đảo chẳng là thề lầm.

Chỉ Nhược ngẫm nghĩ chứ không nói năng gì.

Vô Kỵ vội hỏi:

-Có phải tôi đã nói lầm đấy không?

Chỉ Nhược đáp:

– Không, tôi nghĩ lại khi ở trên bảo thất tại chùa Vạn Pháp, tôi cũng có thề nặng với sư phụ, tôi chỉ hận, khi hứa thân với đại ca trên hoang đảo, không chịu nói lời thề nặng đó cho đại ca hay.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội hỏi lại:

– Cô… đã thề nặng với lệnh sư đó?

– Lúc ấy tôi thề với sư phụ tôi rằng, nếu sau này tôi lấy anh, thì cha mẹ tôi dưới âm ty sẽ không được yên, sư phụ tôi hoá thành ma quỷ ngày đêm đến ám ảnh tôi, còn con cháu của tôi với đại ca thì nếu là trai thì đời đời làm nô lệ, là gái thì đời đời làm đĩ điếm.

Nghe mấy câu thề ác độc ấy, Vô Kỵ liền chân tay và mình mẩy run lẩy bẩy, một lát sau mới nói được:

– Chỉ Nhược, lời thề sẽ không linh nghiệm đâu vì sư phụ của cô cứ yên trí Minh giáo là một Ma giáo chuyên môn làm bậy và tưởng tôi là một dâm tặc gian tà vô sỉ, cho nên mới ép cô thề như vậy, nếu bà ta biết rõ hết chân tình thì không bao giờ lại bỏa cô thề nặng như thế đâu.

Chỉ Nhược nước mắt nhỏ ròng xuống hai má và đỡ lời:

– Nhưng sư phụ tôi… bà ta đã không biết rõ…

Nói xong nàng ngã vào lòng Vô Kỵ nức nở khóc hoài.

Vô Kỵ vuốt ve tóc nàng an ủi rằng:

– Sư phụ của cô ở dưới âm ty hay chuyện cũng không trách cứ cô đâu vì tôi có phải là dâm tặc, gian tà vô sỉ như sư phụ cô tưởng đâu.

Chỉ Nhược ôm lấy lưng chàng đáp:

– Bây giờ đại ca không phải là hạng người như thế nhưng sau này bị Triệu Minh dụ dỗ, chưa biết chừng… chưa biết chừng sẽ gian tà vô sỉ ngay!

Vô Kỵ chìa ngón tay ra khẽ búng vào mặt nàng một cái:

– Cô cũng khinh thường tôi như thế phải không, chẳng lẽ chồng của cô cũng là hạng người như thế này hay sao?

Chỉ Nhược ngẩng mặt lên, nước mắt đã nhỏ dòng xuống má, nhưng đó là nàng cười ra nước mắt chứ không phải là khóc!

Nàng lại nói tiếp:

– Không biết xấu hổ! Ðại ca đã là chồng của thiếp rồi sao? Nếu đại ca đây còn đẩy đưa với con tiểu yêu Triệu Minh thì thiếp nhất định không thèm lấy đại ca nữa… Ai dám đảm bảo là đại ca không giống Thanh Thư, vì một thiếu nữ mà đã tạo nên không biết bao nhiêu trò ti tiện!

Vô Kỵ cúi đầu xuống hôn nàng một cái rồi vừa cười vừa nói tiếp:

-Ai bảo cô em tôi là một tiên nữ hạ trần, chúng tôi phàm phu tục tử cầm lòng sao nổi, đó cũng chỉ tại cha mẹ cô đã sinh trưởng được một người con gái quá đẹp để làm hại lũ đàn ông chúng tôi!

Ðột nhiên, sau một cây cổ thụ ở cách đó chừng hai trượng có hai tiếng cười nhạt khì khì.

Vô Kỵ đang ôm Chỉ Nhược ở trong lòng ngạc nhiên vô cùng, liền quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một cái bóng người thấp thoáng mấy cái đã đi xa liền.

Chỉ Nhược tung mình nhảy lên, mặt nhợt nhạt với giọng run run nói:

– Triệu Minh! Thế ra nó vẫn cứ theo sau chúng ta hoài!

Vô Kỵ nghe thấy hai tiếng cười nhạt đã nhận ngay tiếng cười của thiếu nữ, nhưng chàng không dám quyết định đó là Triệu Minh, nên chàng chần chừ hỏi:

– Có thật là nàng ta hay không? Nàng ta theo dõi chúng ta làm chi?

Chỉ Nhược giận dữ đáp:

– Nó thích đại ca, đại ca còn giả bộ không biết, có lẽ các người đã hẹn trước với nhau và làm ra cái trò quỷ đó để đùa giỡn tôi.

Vô Kỵ kêu oan uổng hoài!

Chỉ Nhược nghĩ đi nghĩ lại một hồi nước mắt cứ nhỏ dòng liên tiếp.

Vô Kỵ giơ tay trái lên khẽ ôm lấy thân nàng, ta phải thì chùi nước mắt cho nàng, rồi dùng giọng dịu dàng nói:

– Sao bỗng dưng lại khóc thế này? Nếu tôi mà có hẹn Triệu Minh thì trời tru đất diệt! Cô em thử nghĩ xem, nếu tôi yêu nàng ta mà lại biết nàng ta ở gần đây thì có khi nào lại tỏ tình yêu như điên như rồ với cô em như hồi nãy? Như vậy có phải là cố ý để cho nàng ta khó chịu hay sao?

Chỉ Nhược nhận thấy lời nói của chàng rất phải, liền thở dài một tiếng và nói:

– Vô Kỵ đại ca! Trong lòng tôi lúc này khó mà bình tĩnh được!

Vô Kỵ hỏi lại:

– Tại sao thế?

– Tôi vẫn không quên được lời thề trước mặt sư phụ và chắc thế nào Triệu Minh cũng không chịu để yên cho tôi, bất cứ bằng võ công hay bằng mưu kế tôi đều thua nàng ta xa!

– Tôi sẽ tận tâm tận lực bảo vệ cho cô em được chu toàn, nếu nàng ta dám đụng đến sợi tóc của người vợ yêu dấu của tôi thì nhất định không để yên cho nàng ta đâu!

– Nếu không may tôi chết vì tay nàng thì thôi, chỉ trách cho số mệnh tôi hẩm hiu nhưng tôi sợ nhất là đại ca bị nó mê hoặc, tin lời ngon lẽ ngọt của nó, rồi bị lọt vào tròng của nó mà về giết tôi thì lúc ấy có chết cũng không đành lòng!

– Cô em đừng quá lo âu như vậy! Trên đời này có biết bao nhiêu người định ám hại tôi, có lỗi với tôi, tôi đều không giết, như vậy, có khi nào tôi lại đi giết cô em yêu quý của tôi cho được!

Nói xong, chàng cởi áo ra, để lộ cái sẹo bị kiếm đâm cho Chỉ Nhược xem rồi vừa cười vừa nói tiếp:

– Kiếm này do em đâm phải không? Em càng đâm tôi bao nhiêu thì tôi lại càng yêu cô em bấy nhiêu!

Chỉ Nhược giơ tay lên rờ rờ vào cái sẹo đó tỏ vẻ thương tiếc, đột nhiên mặt nhợt nhạt, nói tiếp:

– Ác giả ác báo, chắc sau này thể nào đại ca cũng sẽ dùng kiếm đâm chết tôi, nhưng tôi sẽ không ân hận chút nào.

Vô Kỵ giơ tay ra ôm nàng vào lòng và nói tiếp:

– Chờ chúng ta tìm thấy nghĩa phụ, thế nào cũng nhờ nghĩa phụ đứng làm chủ hôn cho chúng ta! Rồi chúng ta đứng ngồi đều không rời khỏi nhau cho tới già, tới chết cũng vậy, quý hồ cô em có lòng yêu mến tôi chân thực thì cô em có đâm thêm vài kiếm nữa tôi cũng không dám mắng nửa lời! Như vậy cô em đã bằng lòng chưa?

Chỉ Nhược dí má vào ngực nóng hổi của chàng, vừa nhận thấy hơi da thịt của đàn ông, nàng khẽ đáp:

– Chỉ mong đại ca là người đại trượng phu, lời nói có tín nghĩa, không chóng quên câu chuyện ngày hôm nay, thế thôi!

Hai người âu yếm nhau hồi lâu, cho tới khuya, thấy lạnh, cả hai mới dắt tay nhau trở về khách điếm ngủ. Sáng ngày hôm sau, hai người cùng Hàn Lâm Nhi lại tiếp tục đi về phía Nam.

Suốt dọc đường không thấy tung tích của Triệu Minh đâu hết.

– Không bao lâu ba người đã đi tới Ðại Ðô. Lúc vào thành, trời đã sâm sẩm tối, thấy cả thành nam nữ đều quét rửa phố xá sạch sẽ, nhà nào nhà nấy đều bày một bàn hương án ở trước cửa, Vô Kỵ với Chỉ Nhược hai người vào trọ khách sạn, hỏi người phổ ky nơi đây có việc gì như thế?

Người phổ ky đó liền đáp:

– Khách quan ở xa mới tới không biết chuyện đấy thôi! Kể cũng may mắn cho khách quan thực! Ngày mai là ngày đại du hoàng thành đấy!

Vô Kỵ hỏi lại:

– Cái gì lại gọi là đại du hoàng thành thế?

Phổ ky đáp:

– Ở đây cứ mỗi năm một lần, hoàng thượng đại du hoàng thành một ngày. Ngày mai đã tới kỳ đại du đó! hoàng thượng sẽ đi tới chùa Khánh Thọ vái lễ, mấy vạn nam nữ đóng những tuồng tích cổ đi du hành dài hơn ba mươi trượng, thực là vui vẻ khôn tả! Tối hôm nay khách quan nên ngủ sớm để sáng mai dậy sớm đi ra ngoài cửa Ngọc Ðức Ðiện chiếm lấy một chỗ ngồi, nếu khách quan may mắn thì sẽ được trông thấy hoàng thượng, hoàng hậu, Thứ phi, Thái tử, Công chúa… đủ cả! Khách quan thử nghĩ xem, chúng ta là dân chúng, nếu không ở kinh sư này thì làm gì có phúc được trông thấy nhà vua như vậy?

Hàn Lâm Nhi nghe nói bực mình vô cùng vội quát mắng:

– Nhận giặc làm cha! Quân Hán gian vô sỉ kia! Vua Thát Ðát hay hớm gì mà xem chúng?

Phổ ky trợn to hai mắt rồi chỉ tay vào mặt chàng nói tiếp:

– Sao… sao… người lại nói thế? Người ăn nói như vậy không sợ bị chém đầu hay sao?

Hàn Lâm Nhi lại nói tiếp:

– Ngươi là người Hán. Quân Thát Ðát giết hại chúng ta thảm khốc như vậy, ngươi lại còn gọi chúng là hoàng thượng, quả thực ngươi không có một tí cốt cách gì hết.

Phổ ky thấy Lâm Nhi hung hăng như vậy, quay mình định đi ra.

Chỉ Nhược đã giơ tay lên, chỉ một cái đã điểm trúng ngay yếu huyệt ở sau lưng y, và nói:

– Ðể cho người này đi ra thế nào cũng phiền phức lắm, và không bao lâu thế nào cũng có quan binh tới đây gây sự chứ chẳng không?

Nói xong nàng đá tên phổ ky đó vào gầm giường, rồi vừa cười vừa nói tiếp:

– Hãy để cho y nhịn đói vài giờ, khi nào chúng ta đi mới thả y ra!

Một lát sau người trưởng quầy ở bên ngoài lớn tiếng gọi:

– A Phúc! A Phúc! Cứ ở trong ấy nói dông, nói dài làm gì mãi thế? Có mau ra đổ nước rửa mặt cho khách ở trong phòng mười cho ta không?

Hàn Lâm Nhi không nhịn được cười liền vỗ bàn kêu gọi:

– Mau đem cơm rượu vào đây, đại gia đói lắm rồi!

Một lát sau tên phổ ky khác đem cơm rượu vào, mồm cứ lẩm bẩm nói:

– Chắc A Phúc nó lại lẻn đi hoàng thành xem đốt cây bông rồi! Thằng nhỏ ấy lười biếng và ham chơi thật!

Sáng sớm ngày hôm sau, Vô Kỵ vừa ngủ dậy đã thấy vô số nam nữ ăn mặc thật lịch sự kéo nhau đi thẳng về phía Bắc.

Người nào người ấy đều hể hả vui thú như ngày Tết vậy!

Chỉ Nhược cũng ra ngoài cửa đứng xem và nói:

– Chúng ta cũng kéo nhau đi xem đi!

Vô Kỵ đáp:

– Tôi đã đánh nhau với bọn võ sĩ của Nhữ Dương Vương rồi, chỉ sợ chúng nhận ra cái mặt tôi thì phiền phức lắm! Chi bằng chúng ta hãy cải trang trước, rồi mới đi xem thì hơn!

Thế rồi chàng cùng Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi ba người hoá trang làm ba kẻ nhà quê, lấy nước bùn ra bôi lên mặt và tay rồi theo mọi người đi thẳng về phía hoàng thành.

Lúc ấy là cuối giờ Mẹo đầu giờ Thìn, nội ngoại hoàng thành người đông như kiến cỏ, không có chỗ mà chen chân.

Vô Kỵ giơ hai cánh tay về phía trước để mở đường, rút cuộc ba người đi tới dưới mái hiên người khán giả và chen được ba chỗ đứng.

Không bao lâu đã nghe thấy có tiếng thanh la ở từ đằng xa vọng tới.

Người nào người ấy đều giương cổ lên nhìn, tiếng thanh la càng gần dần tiếp theo đó có một trăm lẻ tám người đều mặc áo quần xanh tay trái cầm thanh la lớn, tay phải cầm dùi gõ.

Một trăm lẻ tám cái thanh la cùng bị gõ một lúc, tiếng kêu làm đinh tai nhức óc mọi người. Ðội thanh la đi qua rồi đến đội trống ba trăm sáu mươi người.

Sau cùng mới đến đội người Hán thổi bát âm, người Tây Vực thổi kèn, người Mông Cổ thổi tù và.

Ðội nào ít nhất cũng có đến hàng trăm người, đội nhiều lại đến hơn ngàn! Nhạc đội đi qua rồi mới đến hai lá cờ bằng đoạn rất lớn. Một lá trên đề: “An Bang Hộ Quốc”. Một lá nữa đề: “Chấn Tà Phục Ma” trước sau hai lá cờ đó đều có hơn hai trăm tinh binh Mông Cổ hộ vệ. Chúng đều cưỡi ngựa trắng, cầm khí giới sáng quắc, trông rất oai phong!

Dân chúng vừa thấy đội kỵ binh này đi tới đã lên tiếng hoan hô liền!

Hai lá cờ lớn đi qua chẳng bao lâu, thì đột nhiên bên phía Tây nơi chỗ đông người một vệt sáng thấp thoáng, thì ra ánh sáng đó là ở hai loạt phi đao chiếu tới. Thì ra hai loạt phi đao đó đang nhằm cán cờ kia bắn tới, mỗi loạt phi đao đó chừng bảy lưỡi. Bảy lưỡi phi đao đó đều cắm vào cán cờ nọ cùng một lúc. Cán cờ tuy lớn thực, nhưng chịu sao nổi bảy lưỡi phi đao, liền gãy ngay, và lá cờ từ trên không đổ xuống tức thì. Chỉ nghe thấy những tiếng kêu la thảm khốc, có mười mấy người bị cán cờ đè lên!

Dân chúng đứng xem quanh đó cũng kêu la om sòm bỏ chạy toán loạn. Sự việc xảy ra đột ngột, Vô Kỵ với các người cũng ngạc nhiên vô cùng.

Hàn Lâm Nhi đang định lên tiếng khen ngợi thì bỗng thấy một bàn tay mềm mại bịt luôn mồm chàng, thì ra Chỉ Nhược vừa kịp ra tay, không để cho chàng lên tiếng khen ngợi như thế! Tức thì lúc đó mấy trăm tên lính Mông Cổ cầm khí giới đều xông lại đâm chém những người quấy rối.

Vô Kỵ thấy mười bốn thanh phi đao ném vừa rồi, vừa mạnh vừa nhanh hiển nhiên là do những tay cao thủ trong võ lâm đã ra tay. Nhưng vì bị những người đứng xem ngăn cản nên chàng không trông thấy rõ người đó là ai.

Một lát sau chàng đã thấy lính Mông Cổ lôi bảy tám người ở đám đông ra.

Những người dó vừa bị lôi vừa kêu la, nhưng họ chưa kêu được hai tiếng thì đã bị quân Mông Cổ chém chết ngay tại chỗ.

Loạn xạ một hồi xong, phía sau tiếng nhạc lại thổi lên rồi lại có những đôi người làm trò tung dao nuốt lửa và các thứ trò nhào lộn của Tây Vực khiến dân chúng đứng xem hai bên đều khen ngợi không ngớt!

Hình như họ đã quên baưng đi tấm thảm kịch vừa xảy ra vậy!

Sau đó, bỗng có một tiếng thanh la vỡ nổi lên, rồi có một chiếc xe có hai con ngựa gầy gò kéo chạy tới.

Xe đó tới gần, Vô Kỵ đã thấy rõ liền giật mình kinh hãi. Thì ra, trong xe có một người tóc vàng xoã xuống vai, hai mắt nhắm nghiền ngồi xếp bằng tròn ở trên sập, người đó giả dạng giống hệt Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, còn một thiếu nữ đứng cạnh tay bưng nước ân cần hầu hạ, tuy mặt không đẹp bằng Chỉ Nhược, nhưng quần áo nàng ta đang mặc thì giống hệt như quần áo của Chỉ Nhược vậy!

Lâm Nhi liền thất thanh nói:

– Chu cô nương! Sao người này giống cô nương thế?

Chỉ Nhược chỉ kêu hừ một tiếng chứ không quay đầu trở lại trả lời, Vô Kỵ quay đầu trở lại nhìn thấy nàng tỏ vẻ tức giận, chàng vội giơ tay ra nắm tay nàng. Cả hai không sao đoán ra được cái xe này giả dạng Tạ Tốn với Chỉ Nhược để làm chi?

Tiếp theo đó lại có một chiếc xe nữa cũng giả dạng Tạ Tốn với Chỉ Nhược như vậy! Nhưng xe này người đóng Chỉ Nhược lại đột nhiên giơ hai ngón tay ra điểm luôn vào phía sau lưng Tạ Tốn một cái, Tạ Tốn giả liền kêu “ủa” một tiếng rồi té lăn xuống dưới chân sạp.

Chỉ Nhược giả liền đưa chân đạp lên người y, giơ kiếm lên định giết.

Dân chúng thấy vậy liền lớn tiếng khen ngợi:

– Hay! Hay! Giết y đi!…

Ðến xe thứ ba cũng có hai người ăn mặc giả Tạ Tốn và Chỉ Nhược, nhưng xe này lại có thêm sáu bảy tên bang chúng của Cái Bang đang giả bộ bắt giữ Tạ Tốn và Chỉ Nhược. Lúc này Vô Kỵ hoài nghi vô cùng biết xe này thể nào cũng do Triệu Minh sai người làm giả như thế! Chắc nàng biết mình với Chỉ Nhược tới Ðại Ðô nên mới làm như vậy để làm nhục Chỉ Nhược một phen. Chàng vội cúi người, nhặt sáu viên đá nhỏ rồi dùng móng tay bắn mù luôn mắt phải của sáu con ngựa đang kéo ba xe đó.

Sáu con ngựa chỉ hí lên được một tiếng đã ngã gục chết tốt.

Ba cái xe hoa đó cũng lật nhào theo, những người đóng các vai ở trên xe đều ngã lăn ra đất.

Ngoài đường lại loạn xạ một hồi.

Nhân lúc ấy Vô Kỵ lại nhặt sáu viên đá nhỏ giấu trong tay áo mà ném ra.

Chỉ Nhược cắn môi khẽ nói:

– Vô Kỵ đại ca, yêu nữ làm nhục tôi… tôi…

Nói tới đó, nàng đã nức nở không sao nói được lên tiếng.

Vô Kỵ thấy tay nàng lạnh ngắt người run lẩy bẩy, vội an ủi rằng:

– Chỉ Nhược, con nhãi ấy bậy thật, trò gì cũng nghĩ ra được. Thôi cô em đừng lý tới nó nữa, chỉ cần tôi một lòng một dạ thương em là đủ. Người ngoài dù ly gián đến thế nào tôi cũng không tin đâu.

Trong khi hai người chuyện trò thì quân Mông Cổ đã tới đàn áp dân chúng, lôi ngựa chết và gỡ xe ra. Một chiếc xe hoa ở đằng sau chạy tới liền. Vì nghĩ lại chuyện xảy ra hồi nãy, Vô Kỵ với Chỉ Nhược không còn tâm trí gì xem các trò vui nữa.

Ðột nhiên dân chúng đồng thanh kêu lên:

– Hoàng thượng tới đấy, hoàng thượng tới đấy.

Họ đang nói thì từ xa có một chiếc kiệu phủ nhiễu vàng rất lớn do ba mươi hai tên cẩm y thị vệ khiêng. Vô Kỵ chú ý nhìn thấy nhà vua Mông Cổ mặt mũi tiều tuỵ, tuy hai má hơi hồng nhưng hai mắt lõm vào, đủ thấy y vì tửu sắc quá nhiều mà người uể oải không còn chút tinh thần nào. hoàng Thái tử cưỡi ngựa theo sau. Thái tử này còn có một chút anh khí, lưng đeo cây trường cung bọc vàng khảm ngọc, Lâm Nhi rỉ tai Vô Kỵ khẽ nói:

– Giáo chủ sao không nhảy lên dùng chưởng đánh chết tên Thát Ðát này đi để diệt hoạ lớn cho thiên hạ?

Vô Kỵ trầm ngâm không kịp trả lời thì Lâm Nhi lại nói tiếp:

– Dù tên vua Thát Ðát còn rất nhiều cao thủ bảo vệ, chúng chưa chắc đã cản nổi cái đánh của Giáo chủ.

Bỗng có một người đứng bên trái Vô Kỵ lên tiếng nói:

– Không nên, không nên, lấy tàn bạo mà thay đổi tàn bạo như thế chưa chắc đã là thượng sách.

Vô Kỵ, Lâm Nhi và Chỉ Nhược nghe nói đều giật mình kinh hãi, vội quay đầu lại nhìn. Thấy người đó là một thầy lang tuổi trạc năm mươi, lưng đeo túi thuốc, tay phải cầm gậy đánh hổ, duỗi thẳng mười móng tay để ở trước ngực làm dấu hiệu ngọn lửa của Minh giáo.

Y vừa thấy Vô Kỵ các người quay lại nhìn đã khẽ nói:

– Bành Doanh Ngọc bái kiến giáo chủ, giáo chủ bình yên vô sự, tất cả giáo chúng đều mừng rỡ khôn tả, chứ không riêng gì hòa thượng tôi.

Vô Kỵ cả mừng vội hỏi lại:

– Ủa? Thế ra người là Bành…

Bành hòa thượng hoá trang rất khéo, đứng cạnh Vô Kỵ đã lâu mà Vô Kỵ ba người không hay biết tí gì.

Bành Doanh Ngọc lại khẽ nói tiếp:

– Không thể diệt trừ vua của Thát Ðát được đâu và chỗ này cũng không phải là nơi trò chuyện.

Vô Kỵ biết y là người giàu kiến thức xưa nay, nên nghe thấy nói như vậy chàng liền gật đầu không nói năng gì, chỉ giơ tay phải ra nắm chặt lấy tay của Bành hòa thượng, trong lòng mừng rỡ khôn tả. hoàng đế với thái tử đi khỏi, lại tới ba nghìn thiết giáp ngự lâm quân, theo sau ngự lâm quân là hàng nghìn hàng vạn dân chúng người nào người ấy tỏ vẻ vui mừng. Bốn người liền chen vào đám đông theo dân chúng đi ra ngoài điện Ngọc Ðức, thấy nơi đó có bảy cái lầu kết hoa, nóc vàng, cao chót vót. Ngoài lầu, ngự lâm quân tay cầm roi mây xua đuổi những người tới gần xem. Dân chúng tuy đông thật, nhưng Vô Kỵ bốn người chen vào rất dễ, không bao lâu đã tới trước mấy cái lầu kết hoa đó liền. Lầu hoa ở giữa cao hơn hết, trong đó vua ngồi trên ghế rồng tại nơi chính giữa, hai bên có hai vị hoàng hậu, đều là hai phụ nữ tuổi trạc trung niên thân hình mập mạp. hoàng thái tử ngồi phía bên trái, bên phải có một thiếu nữ tuổi trạc hai mươi, mình mặc nam bào, chắc nàng ta là công chúa. Vô Kỵ mắt nhìn thấy trong lầu kết hoa thứ hai ở bên trái, có một thiếu nữ mình mặc áo lông điêu, cổ đeo đầy những hạt châu, vẻ mặt tươi cười, mắt nhìn tả nhìn hữu, trông rất xinh đẹp. Người đó chính là Triệu Minh, người ngồi ghế giữa của lầu đó là một vương gia râu dài tướng mạo rất oai nghiêm, chàng đoán chắc người đó thế nào cũng là Nhữ Dương Vương Sát Hãn Ðặc Mục Nhĩ, cha của Triệu Minh, còn Khố Khố Ðặc Mục Nhĩ anh của Triệu Minh thì đi lại trong lầu trong, hình dáng của y rất hung hăng và dữ tợn.

Chỉ Nhược trông thấy hai vị hoàng hậu đó ngẩn người ra nhìn không dám đi tới gần, một tên ngự lâm quân giơ roi lên nhằm đầu nàng đánh xuống.

Vô Kỵ vội giơ tay phải lên bắt lấy đầu roi giật một cái, tên nọ ngã lộn vòng.

Chàng hất ngã tên nọ rồi lẻn ngay vào trong đám đông biến mất.

Lúc ấy các Phiên tăng đang bày Thiên Ma đại trận ở trước mặt vua Mông Cổ. Trận đó biến hoá khôn lường, dân chúng đang khen ngợi, tiếng vỗ tay và tiếng khen ngợi của mọi người vang động như tiếng sấm kêu.

Chỉ Nhược ngắm nhìn Triệu Minh một hồi, rồi thở dài một tiếng và nói:

– Chúng ta đi về thôi.

Bốn người liền trở về khách điếm.

Vô Kỵ hỏi Doanh Ngọc có biết tin tức của Tạ Tốn không?

Doanh Ngọc vừa ở Hoài Tứ đến nên không biết Tạ Tốn về tới Trung Nguyên, y chỉ cho Vô Kỵ hay Nguyên Chương, Từ Ðạt, Ngộ Xuân các người đã lập được rất nhiều công trạng, nên tiếng tăm của Minh giáo đã lẫy lừng hơn trước.

Hàn Lâm Nhi vội xen lời hỏi:

– Bành đại sư, vừa rồi chúng tôi định xông lại chém chết vua của Mông Cổ, tại sao đại sư lại ngăn cản?

Doanh Ngọc lắc đầu đáp:

– Vua Mông Cổ là một hôn quân, y giúp chúng ta rất nhiều, ta giết y làm chi?

Hàn Lâm Nhi ngạc nhiên hỏi lại:

– Vua Mông Cổ vô đạo như vậy, chỉ khổ dân chúng, tại sao đại sư lại bảo y giúp chúng ta rất nhiều?

Doanh Ngọc lại trả lời tiếp:

– Chú em không biết đấy thôi, vua Mông Cổ dùng Phiên tăng làm loạn triều chính, lại sai Giả Lỗ đào sông hoàng Hà, làm cho trời giận người oán. Sở dĩ mấy năm nay chúng ta thắng nổi quân Mông Cổ là nhờ dân chúng thù oán người Mông Cổ mà giúp đỡ cho, bằng không, quân ô hợp của chúng ta làm sao địch nổi quân thiện chiến như Mông Cổ. Hơn nữa nhà vua hồ đồ ấy không biết dùng trung thần, như Nhữ Dương Vương điều binh khiển tướng giỏi như vậy mà y không biết trọng dụng lại sợ Nhữ Dương Vương cướp ngôi báu của y, nên y không những tước binh quyền người trung thần đó, mà lại còn hạn chế hoạt động của Nhữ Dương Vương, mà y chỉ quen dùng những quan binh hèn nhát, chuyên môn nịnh hót thôi. Nhờ vậy, chúng ta mới thắng trận, và như thế y chẳng giúp chúng ta là gì.

Lúc này Lâm Nhi mới tỉnh ngộ, gật đầu lia lịa.

Doanh Ngọc lại nói tiếp:

– Nếu chúng ta giết chết tên hôn quân này, thái tử sẽ lên ngôi và vua mới của chúng có đần độn đến đâu cũng không bao giờ hồ đồ như người cha, mà nếu y lại biết dùng những quan binh thiện chiến thì có phải đại sự chúng ta hỏng hết không?

Lâm Nhi tự vả miệng mấy cái và tự mắng:

– Mi khốn nạn thật, từ giờ trở đi còn dám nói bậy nói bạ như thế không?

Thấy y trực tính như vậy, ai nấy đều cười ồ.

Mọi người lại nói đến chuyện nếu việc khởi nghĩa thành công, thì thế nào cũng tôn Vô Kỵ làm vua. Vô Kỵ có ý cương quyết phản đối.

Chỉ Nhược liền biến sắc mặt và xen lời nói:

– Giáo chủ của Minh giáo làm vua, có gì là lạ nào. Năm xưa nếu việc làm của cha tôi thành công thì cha tôi chả trở nên nhà vua là gì?

Doanh Ngọc cũng lên tiếng:

– Phải, năm xưa Chu sư huynh thành công thì bây giờ Chu cô nương đã là vị công chúa rồi.

Chỉ Nhược cười nhạt nói tiếp:

– Hừ, quận chúa Nhữ Dương Vương thì có gì lạ nào, thế mà người lại cứ coi trọng nàng ta, đưa mắt nhìn không chớp, nếu tôi là đàn ông thì tôi lấy công chúa của vua, như vậy làm phò mã chả hơn làm chồng của quận chúa hay sao?

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược nói như vậy, ngượng vô cùng và nghĩ thầm:

– Có lẽ hôm nay ta nhìn trộm Triệu cô nương bị nàng trông thấy nên nàng mới nói như vậy. Nhưng đó cũng là tại nàng yêu ta mà nên.

Bốn người chuyện trò một hồi, và sau khi dùng cơm xong, Vô Kỵ liền nói:

– Tôi với Bành đại sư đi ra ngoài phố dò thám tin tức của nghĩa phụ.

Chàng sợ Lâm Nhi trực tính hơi tý gây hoạ, nên dặn Lâm Nhi rằng:

– Chú em họ Hàn, tối hôm nay cùng Chỉ Nhược đừng đi đâu đấy nhé.

Thế rồi Vô Kỵ với Doanh Ngọc một người đi về phía Tây, một người đi về phía Ðông và hẹn nhau canh hai sẽ gặp lại. Vô Kỵ ra khỏi điếm đi thẳng về phía Tây nghe thấy người đi xem hội lên tiếng nói nhau rằng:

– Minh giáo nổi loạn ở phía Nam, ngày hôm nay đức Thánh Quan đang được rước ngoài đường bỗng hai mắt lộ sát khí, chắc phản tặc thế nào cũng bị tiêu diệt chứ không sai.

Người thứ hai lại nói:

– Minh giáo có Di Lặc bồ tát bảo hộ cho, có lẽ phen này đức Thánh Quan sẽ đại chiến với Phật Di Lặc cũng nên…

Vô Kỵ biết chúng là ngu dân, nên chàng không để ý nghe, liền rảo bước đi đến một chỗ khác vắng vẻ. Chàng ngẩng đầu lên nhìn mới hay mình đã đi tới trước tửu điếm mà ngày nọ chàng đã cùng Triệu Minh uống rượu, chàng giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Sao ta bỗng dưng lại đi tới đây như thế? Hay là trong lòng ta vẫn không thể dứt được Triệu cô nương chăng?

Chàng thấy cửa điếm hé mở, bên trong vắng tanh. Chần chờ giây lát, chàng liền đẩy cửa đi vào, thấy một tên phổ ky đang ngồi trên quầy ngủ gật. Chàng lại tiến vào trong hồi đường. Chàng thấy trên một cái bàn vuông cho góc tường có thắp một cây nến nhỏ nửa lu nửa sáng, cạnh bàn có một người đang ngồi quay mặt vào trong. Bàn ấy chính là bàn mà chàng cùng Triệu Minh đã ngồi nhậu nhẹt với nhau. Chàng thấy ngoài vị khách quay mặt vào tường kia, thì trong hậu đường không còn một người thứ hai nữa. Chàng ngạc nhiên vô cùng, lững thững đi tới gần cái bàn có thắp nến đó. Người nọ nghe thấy tiếng chàng, liền đứng phắt dậy, quay mặt trở lại nhìn, trước ánh sáng nến lập loè, Vô Kỵ trông thấy rõ mặt người đó, mới hay nàng ta là Triệu Minh. Nàng với Vô Kỵ hai người đều không ngờ gặp gỡ nhau ở nơi đây, nên cả hai cùng đồng thanh kêu “ủa” một tiếng.

Triệu Minh khẽ hỏi:

– Ðại…. ca, tại sao lại tới đây như vậy?

Giọng nói của nàng run, hiển nhiên trong thâm tâm nàng khích động vô cùng, Vô Kỵ đáp:

– Tôi nhân lúc nhàn rỗi đi qua không ngờ…

Chàng vừa nói vừa tới gần, mới hay phía trước mắt Triệu Minh có bày sẳn một bộ bát đũa.

Chàng liền hỏi tiếp:

– Còn ai nữa thế?

Triệu Minh mặt đỏ bừng, đáp:

– Không có ai cả, lần trước tôi với đại ca ở đây nhậu nhẹt, đại ca ngồi ở trước mặt tôi, cho nên tôi mới gọi phổ ky gọi thêm một đôi đũa và một cái chén là thế.

Vô Kỵ nghe nàng nói như vậy cảm động vô cùng, chàng thấy trên bàn có bốn món ăn y như những món mà đầu tiên chàng gặp nàng ở đây, nàng đã dặn phổ ky làm như vậy, lúc này chàng mới nhận thấy lòng nàng thương mình như thế nào, không sao nhịn được, chàng liền giơ tay ra nắm lấy Triệu Minh và mồm thì khẽ kêu gọi:

– Triệu cô nương!

Triệu Minh liền đáp:

– Tôi rất ân hận là đã sống trong một gia đình vương giả của người Mông Cổ, mà lại còn là kẻ đối địch của đại ca…

Ðột nhiên chàng nghe thấy ngoài cửa sổ có hai tiếng cười nhạt “hừ, hừ” và có một vật gì bay vào kêu đến bộp một tiếng, ném tắt ngọn nến khiến trong tiệm tối đen như mực.

Vô Kỵ với Triệu Minh nghe tiếng cười nhạt đó biết ngay là Chỉ Nhược, nên cả hai đều bàng hoàng không biết đối phó ra sao, đuổi cũng không nên, mà ở lại cũng không phải. Ðồng thời lại nghe tiếng ở trên mái nhà có tiếng chân đi rất nhẹ mới biết Chỉ Nhược chạy như gió và biến mất rồi.

Triệu Minh liền khẽ nói:

– Ngày hôm đó, tôi núp đằng sau cây, nghe thấy đại ca với nàng đàm tình thuyết ái với nhau tôi chỉ muốn giết ngay nàng tại chỗ. Tôi chỉ hận cha mẹ tôi sinh tôi ra ở thế gian này làm chi. Hôm đó tôi cũng cười nhạt hai tiếng, bây giờ nàng cũng trả lời bằng hai tiếng cười nhạt. Nhưng… nhưng tại sao đại ca không nói nửa lời để cho tôi vui lòng?

Vô Kỵ có vẻ ăn năn vội đáp:

– Triệu cô nương, theo lẽ tôi không nên tới đây và cũng không nên tái kiến cùng cô nương, vì tim tôi đã gởi gắm cho người rồi, tôi không nên làm cho cô phiền não và đau khổ thêm. Cô thân quý như ngọc như ngà, tôi một tên quê mùa cục mịch, thực không xứng sánh duyên với cô, mong cô quên tôi đi thì hơn.

Triệu Minh cầm tay chàng khẽ vuốt cái sẹo ở trên mu tay và trả lời:

– Ðây là vết thương mà tôi đã cắn đại ca, dù võ công của đại ca có cao siêu đến đâu cũng không sao xoá được cái sẹo này. Vậy cái sẹo ở trên tay của đại ca mà không xoá nhòa được thì thử hỏi cái sẹo trong tim đại ca có xoá nhòa được không?

Ðột nhiên, nàng giơ hai cánh tay ra ôm chặt lấy cổ Vô Kỵ, rồi hôn một cách rất nồng nàn, trong lúc Vô Kỵ mơ mơ màng màng, như say như mê thì Triệu Minh dùng sức cắn mạnh môi chàng một cái, bật máu tươi ra. Tiếp theo đó lại đẩy mạnh vai chàng một cái, rồi tung mình nhảy ra ngoài cửa sổ, vừa đi vừa nói vọng lại:

– Ðại ca là tiểu dâm tặc, tôi hận đại ca lắm lắm…

Hồi thứ 86

Ðại Hội Hào Châu

Hàn Lâm Nhi thấy Vô Kỵ với Bành Doanh Ngọc đi khỏi, liền nói với Chỉ Nhược rằng:

– Chu cô nương nên nghỉ sớm thì hơn.

Y không dám nói thêm nửa lời, vội quay trở về phòng mình liền.

Chỉ Nhược mỉm cười, vội hỏi:

– Hàn đại ca sợ tôi hay sao? Sao không dám ngồi trước mặt tôi trong chốc lát như thế?

Lâm Nhi mặt đỏ bừng đáp:

– Không… không…

Nhưng y mới trả lời được hai chữ, đã rảo chân chạy luôn về phòng mình, cài chặt then lại, trống ngực đập rất mạnh, định thần giây lát rồi mới nằm lên trên giường, nhưng vừa nằm xuống y đã thấy hình bóng đẹp như hoa nở của Chỉ Nhược hiện ra trước mặt và tai lại vẳng nghe thấy tiếng nói thỏ thẻ của nàng, rất êm ái và mềm mại, nên y nghĩ thầm:

– Sau này Chu cô nương trở thành giáo chủ phu nhân, ta sẽ theo cạnh giáo chủ, trung thành và chăm chỉ làm việc, cố hết sức lập công trạng. Chu cô nương thế nào cũng vui lòng mà bảo ta rằng: “Hàn đại ca, phen này đại ca vất vả lắm”. Lúc ấy Lâm Nhi này mới thực không uổng sống ở trên đời.

Y nằm ở trên giường, nghĩ vơ nghĩ vẫn, ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe thấy cửa phòng có mấy tiếng gõ rất khẽ.

Y vội ngồi dậy và hỏi:

– Ai đó?

Chỉ Nhược bên ngoài trả lời:

– Tôi đây, đại ca mở cửa đi, tôi có vài lời muốn nói với đại ca đây.

Lâm Nhi vội trả lời:

– Dạ… dạ…

Thế rồi y để nguyên chân đất mà chạy ra mở cửa, y thấy Chỉ Nhược hai mắt đỏ và sưng húp, sắc mặt lạ thường, liền giật mình kinh hãi, vội hỏi:

– Chu cô nương, làm…

Y ngừng lời ngay vì không dám nói tiếp, giây phút sau, y bỗng nghĩ ra một kế, chạy luôn ra bên ngoài và nói:

– Ðể tôi đi lấy nước rửa mặt cho cô nương.

Một lát sau, chàng vẫn hai chân đi đất, Chỉ Nhược thấy vậy, gượng cười một tiếng, dùng tay chống má, ngẩn người ra nhìn ngọn nến.

Lâm Nhi lại nói tiếp:

– Cô nương, rửa mặt đi…

Chỉ Nhược vẫn không nói năng gì cả, chỉ lắc đầu thôi, rồi nước mắt nhỏ ròng xuống má. Lâm Nhi thấy vậy hoảng sợ đến đờ người ra, buông xuôi hai tay đứng cạnh đó. Y không biết tại sao bi thảm đến thế, và cũng không biết nàng đến phòng mình để làm gì. Hai người để yên lặng, bỗng có tiếng “bốp” rất khẽ, ngọn lửa trên cây nến nổ tung, người của Chỉ Nhược run cầm cập, lúc ấy nàng mới thức tỉnh, khẽ thở dài một tiếng rồi đứng ngay dậy.

Lâm Nhi lớn tiếng hỏi:

– Chu cô nương ai làm cho cô buồn thế, cô cứ cho biết, tôi sẽ rút dao ra tấn công tên đó liền. Cô nói đi, người đó là ai thế?

Chỉ Nhược rầu rĩ lắc đầu đi ra ngoài, và trở về phòng mình. Hình như nàng có tâm sự gì muốn nói với ai vậy, nên nàng vừa vào trong phòng được giây phút lại bước ra ngay khiến Lâm Nhi cứ ngơ ngác, không hiểu tại sao nàng lại có thái độ lạ lùng đến thế. Rồi y cứ đứng ngẩn người ra, vò đầu dập ngực luôn luôn. Y tự biết mình là người thô lỗ, không hiểu tâm sự người đàn bà, nên đành đứng yên, không biết nói năng sao cho phải. Bỗng y nghe từ đằng xa trống đổi canh vừa nổi lên ba tiếng “tung, tung, tung” liền nghĩ thầm:

– Sao khuya thế này mà giáo chủ vẫn chưa về?

Y lại lên giường nằm ngủ, đang lúc mơ mơ màng màng, thì bỗng nghe thấy có tiếng kêu “đùng đùng”. Y nhận ra hình như phòng bên phía Ðông có ghế rớt xuống mặt đất vậy. Phòng đó chính là phòng của Chỉ Nhược đang ở. Y vội chạy luôn ra bên ngoài. Dưới ánh sáng trăng, y thấy trên cửa của Chỉ Nhược có cái bóng đen lơ lửng trên không.

Y giật mình kinh hãi lớn tiếng kêu người:

– Chu cô nương! Chu cô nương!

Y vừa kêu gọi, vừa đưa tay lên đẩy cửa. Thấy cửa phòng đóng chặt, y dùng sức hút mạnh một cái, cửa bắn tung ra, rồi vội vào bên trong thắp sáng ngọn nến lên. Y liền thấy Chỉ Nhược thòng cổ vào sợi dây treo lơ lửng trên sàn nhà. Y hoảng đến mất hồn vía dùng sức kéo đứt dây đó, rồi đặt Chỉ Nhược lên giường, sờ tay lên mũi, thấy nàng đã tắt thở, vội lớn tiếng kêu gọi:

– Chu cô nương, Chu cô nương, sao cô nương lại dại dột, giở cái trò hạ sách này ra thế?

Y càng gọi, tiếng nói của y càng nghẹn ngào, sau cùng y không gọi ra tiếng nữa, thì bỗng ngoài cửa phòng có người lên tiếng hỏi:

– Hàn đại ca, có việc gì đến thế?

Người đó vừa hỏi vừa bước vào, và người đó chính là Vô Kỵ chứ không phải ai xa lạ. Chàng thấy cảnh tượng ấy không khác nào sét đánh ngang tai. Hai tay run run, chàng vội cởi sợi dây thừng ở cổ nàng ra, và sờ lên ngực nàng thử xem. May mắn thay, tim nàng vẫn còn đập yếu ớt, chàng mừng rỡ vô cùng, vội nói:

– Không việc gì đâu, có thể cứu chữa được.

Thế rồi chàng xoa bóp huyệt đạo ở sau lưng và bụng dưới nàng mấy cái, đồng thời còn dồn Cửu Dương chân khí sang người nàng nữa.

Chỉ trong chốc lát, Chỉ Nhược đã khóc oà lên liền.

Lâm Nhi thấy vậy cả mừng, vội nói:

– Hay lắm, hay lắm, Chu cô nương đã sống lại rồi.

Chỉ Nhược mở mắt trông thấy Vô Kỵ vừa khóc vừa trách mắng:

– Ðại ca còn lý đến tôi làm gì nữa, để mặc cho tôi chết có hơn không?

Nàng bỗng thấy môi trên của Vô Kỵ có máu ứ, lại càng tức thêm liền giơ tay ra tát mạnh vào chàng một cái.

Lâm Nhi giật mình kinh hãi và nghĩ thầm:

– Chết chưa, sao Chu cô nương lại đánh giáo chủ như thế?

Nhưng y lại coi Chỉ Nhược như một thiên thần, nên nhất thời y cảm thấy đầu óc bối rối không biết nói như thế nào cho phải.

Rồi đột nhiên có người khẽ vỗ vai chàng hai cái.

Y vội quay đầu lại nhìn, mới hay người đó là Bành Doanh Ngọc, liền mừng rỡ và nói:

– Bành đại sư đã về đấy à? Mau lại đây khuyên Chu cô nương đi.

Doanh Ngọc vừa cười vừa đáp:

– Khuyên cái gì? Chúng ta ra ngoài kia đi.

Lâm Nhi vội nói tiếp:

– Không, không được đâu, nhỡ hai người đánh nhau thì Chu cô nương làm sao đánh lại?

Doanh Ngọc cười ha hả và nói tiếp:

– Chú em này hồ đồ thực, chẳng lẽ hai chúng ta giúp Chu cô nương để đánh lại Trương giáo chủ hay sao? Tôi nói cho chú biết giáo chủ địch không nổi Chu cô nương đâu.

Nói xong, hòa thượng đưa mắt ra hiệu rồi kéo Lâm Nhi ra ngoài phòng. Anh chàng quê mùa ngốc nghếch vẫn còn quay đầu lại nhìn tỏ vẻ lo âu vô cùng.

Chỉ Nhược thấy vậy không sao nhịn được, liền cười khì một tiếng rồi lại gục đầu nức nở khóc.

Vô Kỵ ngồi bên cạnh giường an ủi:

– Chỉ Nhược, cô nương chớ hiểu lầm, không phải là tôi hẹn với cô ta tới đó đâu, chỉ ngẫu nhiên gặp gỡ cô ta đấy thôi.

Chỉ Nhược vừa khóc vừa đáp:

– Tôi không tin, tôi không tin, từ giờ trở đi, tôi không còn tin lời của đại ca nữa.

Vô Kỵ biết mình có lỗi, nhưng sự thực lại oan uổng, bây giờ chàng có nói thế nào chăng nữa thì Chỉ Nhược cũng chẳng tin. Chàng cúi đầu xuống định hôn nàng, nhưng Chỉ Nhược vội quay đi và lớn tiếng quát mắng:

– Thôi đừng có động đến tôi nữa.

Vô Kỵ vội nắm chặt lấy hai tay nàng, không để cho nàng cử động, rồi cúi đầu hôn luôn vào má nàng một cái. Chỉ Nhược cũng nguôi cơn giận dần.

Vô Kỵ nhận thấy mình với nàng tuy đã đính hôn rồi, nhưng chưa kết thành vợ chồng. Ðêm khuya ở trong một phòng như vậy, tuy không bậy bạ nhưng cũng bất tiện nên chàng vội thề độc với nàng rồi định đi ra, nhưng Chỉ Nhược vẫn không tin cứ khóc hoài. Sau nàng vừa khóc vừa hai tay bịt mặt và nói:

– Tôi biết số phận tôi hẩm hiu, tôi không dám oán trách đại ca đâu.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Lúc chúng ta còn nhỏ, cả hai ta đều đau đớn khổ sở, quân Mông Cổ ở trong nước chúng ta, tác oai tác quái, nên ai ai cũng bị khổ bị đau hết. Sau này chúng ta kết thành vợ chồng, đuổi quân Mông Cổ ra khỏi đất nước, lúc ấy chúng ta chỉ có sung sướng chứ không đau khổ như bây giờ đâu.

Chỉ Nhược ngửng đầu lên, nghiêm nét mặt nói:

– Tôi biết đại ca thực lòng thương yêu tôi, nhưng con yêu nữ Triệu Minh nó cứ dụ dỗ đại ca hoài. Không phải là đại ca đa tình mà lại là tại tôi không xứng làm phu nhân của đại ca đấy thôi. Hà, tôi chỉ muốn chết quách đi cho rảnh, ngờ đâu Hàn Lâm Nhi lại ngớ ngớ ngẩn ngẩn, ra tay cứu tôi, tôi chỉ có can đảm chết một lần thôi, chứ không có can đảm chết lần thứ hai nữa. Bây giờ tôi… muốn bắt chước sư phụ cắt tóc đi tu, như vậy là người chưởng môn của phái Nga Mi chúng tôi rốt cuộc cũng không có một người nào lấy chồng cả.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Thế là nghĩa lý gì, có phải cô em tức hận Triệu cô nương đã vu khống cô giết hại nghĩa phụ tôi phải không?

Chỉ Nhược nhìn thẳng vào mắt chàng và hỏi lại:

– Ðại ca có tin không?

– Tất nhiên tôi không tin.

– Ðại ca không tin thì hay lắm, chẳng lẽ ai cũng không tin cả hay sao?

– Nếu vậy… chớ tại sao?

Chỉ Nhược nghiến răng mím môi và trả lời:

– Chỉ vì… chỉ vì.

Nàng nói hai câu chỉ vì, rồi bỗng quay lưng đi mới dám nói tiếp:

– Vô Kỵ đại ca, đại ca cứ coi như là không thấy tôi bao giờ cả, từ nay đừng có nhớ đến con người bạc mệnh này nữa. Anh lấy Triệu cô nương cũng được hoặc lấy người khác cũng thế. Tôi… tôi cũng không can thiệp tới nữa.

Ðột nhiên nàng dậm chân một cái, người đã xuyên phi thẳng lên nóc nhà liền.

Vô Kỵ thấy vậy ngạc nhiên và nghĩ thầm:

– Không ngờ thân pháp và dáng điệu của nàng vừa nhanh vừa đẹp đến thế, khinh công như vậy cao siêu thực.

Chàng không kịp nghĩ ngợi đến vấn đề đó, liền nhảy theo ra đuổi ngay. Chàng thấy Chỉ Nhược chạy về phía Ðông, chàng chỉ nhảy nhót ba cái đã đuổi kịp nàng và đưa tay ra ngăn cản. Chỉ Nhược không kịp thâu đà chân lại, liền ngã quay vào lòng chàng. Chàng giơ hai cánh tay ra ôm chặt vào lòng, nơi đấy là trên bờ một con sông nhỏ ở trong nội thành của Kinh đô. Chàng liền đặt nàng lên một tảng đá, rồi cả hai cùng ngồi sát cạnh nhau.

Vô Kỵ giọng rất nhu mì, khẽ nói:

– Chỉ Nhược, chúng ta hai vợ chồng đã thành một khối, em có việc gì nan giải thì cũng như việc của tôi vậy, cứ việc nói ra để đại ca này giải quyết cho. Hà tất cô em cứ phải tấm tức trong lòng mãi như vậy?

Chỉ Nhược vừa khóc vừa trả lời:

– Tôi… bị người ta hãm hiếp… thân này không còn thanh bạch, bụng tôi đã có nòi giống của nghiệp chướng, như vậy… còn kết vợ chồng với đại ca sao được?

Vô Kỵ thấy nàng nói như vậy không khác gì trời tạnh mà nghe thấy tiếng sấm, nên chàng cứ ngồi thừ ra, không nói năng được nửa lời.

Chỉ Nhược từ từ đứng dậy nói tiếp:

– Số của tôi như thế, biết làm sao được, thôi đại ca đừng nhớ đến tôi nữa rồi dần dần sẽ quên tôi đi liền, có khó gì đâu. Vô Kỵ vẫn ngồi ngẩn người ra như trước, nhiều không tin lời nói của Chỉ Nhược là thật. Chỉ Nhược thở dài một tiếng và quay mình đi luôn. Chàng vội đứng dậy nắm lấy tay nàng, giọng run run hỏi tiếp:

– Có phải… có phải tên giặc Tống Thanh Thư không?

Chỉ Nhược gật đầu ứa nước mắt và đáp:

– Trong khi ở Cái Bang, tôi bị chúng điểm huyệt, nên không còn hơi sức để chống cự.

Vô Kỵ ôm chặt lấy nàng và nói tiếp:

– Việc này có phải lỗi tự cô em đâu, việc đã rồi, dù có tức giận cũng vô ích. Chỉ Nhược, càng thấy cô em không may mắn như vậy tôi càng yêu thương cô em thêm. Từ nay trở đi chúng ta trở về hoài Tứ báo cáo cho tất cả anh em bổn giáo hay tôi sẽ thành hôn với cô em liền. Còn đứa trẻ… trong bụng cô em coi như là của tôi, như vậy cô em không còn bị tai tiếng gì nữa.

– Ðại ca hà tất phải an ủi như vậy, tôi đã là người mất trinh rồi, làm sao làm được giáo chủ phu nhân cơ chứ?

– Cô… coi tôi thường quá, Vô Kỵ là một hào kiệt chứ có phải là một tiểu nhân đâu mà lại có ý nghĩ thiển cận như thế, dù cô em có dại dột, lỡ bước lỡ làng, Vô Kỵ này cũng không chấp nhất, huống hồ đó là một sự tai bay vạ gió.

Chỉ Nhược cảm động nói tiếp:

– Vô Kỵ đại ca, có thực đại ca đối xử với thiếp tử tế như thế không, thiếp… chỉ sợ đại ca đánh lừa thiếp thôi.

– Tôi tử tế với cô em hay không, sau này cô em sẽ rõ.

Chỉ Nhược vội gục đầu vào ngực chàng, cảm động đến ứa nước mắt ra, mãi một hồi lâu mới lên tiếng nói được:

– Vậy đại ca hãy cho thiếp uống thuốc để đẩy cái nòi giống oan nghiệt này ra.

– Không nên, việc phá thai không những có tội mà lại rất ảnh hưởng đến sức khoẻ của cô em.

Nói tới đó, chàng liền nghĩ thầm:

– Nàng bị bắt vào Cái Bang, trước sau không đầy một tháng sao nàng lại biết đã mang thai rồi? Chưa biết chừng nàng nghĩ vớ nghĩ vẫn cũng nên.

Nghĩ đoạn, chàng vội nắm lấy cổ tay nàng để xem mạch, thấy nàng không có triệu chứng gì là mang thai cả, nhưng nghĩ đến việc ấy, chàng không dám hỏi thêm nữa, tuy y thuật của chàng rất cao siêu. Nhưng chàng chỉ chuyên môn chữa thương cứu độc thôi, chớ phụ khoa thì không biết mấy, chàng đang suy nghĩ thì Chỉ Nhược lại nói tiếp:

– Nếu đứa con là gái thì cũng không sao, chứ nó là con trai sau này mà được như nguyện vọng, đại ca được lên làm vua chẳng lẽ lấy đứa con hoang đó làm thái tử hay sao? Theo ý thiếp thì nên cho nó ra để khỏi di hoạ sau này.

– Cô em đừng nhắc nhở đến hai chữ hoàng đế nữa, tôi là một kẻ quê mùa thất phu không bao giờ có ý định dòm ngó đến ngôi báu ấy đâu. Hơn nữa tôi không muốn cô em nhắc nhở tới chuyện đó nữa vì để cho các sư huynh sư đệ nghe thấy, lại tưởng tôi ham mê phú quý thì người nào người ấy đều chán nản, công việc của chúng ta sẽ hỏng hết ngay.

– Thiếp có muốn đại ca làm hoàng đế đâu, nhưng số trời đã định thì dù đại ca có từ chối cũng không được. Ðại ca đối xử với thiếp tử tế nư vậy, thiếp thế nào cũng cố sức đền bù lòng tốt của đại ca. Thiếp tuy là một thiếu nữ yếu ớt, nhưng gặp dịp may, thiếp có thể giúp đại ca làm được vua liền. Cha thiếp không may bị thất bại, bị kẻ địch giết chết, số của thiếp không được làm công chúa nhưng biết đâu số của thiếp được làm hoàng hậu.

Vô Kỵ thấy nàng ta nói một cách khẩn khoản như vậy, liền vừa cười vừa đáp:

– Hoàng hậu chưa chắc đã tôn trọng bằng người trưởng môn của phái Nga Mi. Thôi được, ngày mai chúng ta còn phải lên đường xin mời hoàng hậu của trẫm hãy hồi cung trước để sửa soạn.

Thế là bao nhiêu mày sầu sương thảm đều bị bay tan bằng một cái cười của hai người. Sáng sớm ngày hôm sau, Vô Kỵ dặn Doanh Ngọc tiếp tục ở lại kinh đô thêm ba ngày nữa để dọ thám tin tức của Tạ Tốn rồi chàng cùng Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi đi xuống miền Nam trở về Hoài Tử ngay.

Khi đi tới tỉnh Sơn Ðông đã thấy suốt dọc đường quân Mông Cổ bại trận, bỏ cả khí giới, mũ mãng và áo giáp mà cắm đầu chạy.

Vô Kỵ các người phải tránh đường mà đi. Sau gặp một tên lính đang chạy chơ vơ một mình, chàng liền túm cổ y xét hỏi mới biết Hàn Sơn Ðông ở hoài Bắc đã thắng luôn mấy trận lớn, đánh cho quân Nguyên thất bại liên miên.

Vô Kỵ cùng các người thấy vậy mừng rỡ vô cùng vội rảo cẳng đi luôn.

Vừa tới biên giới tỉnh Sơn Ðông và hoài Bắc đã thấy nơi đây thuộc dưới quyền chỉ huy của Minh giáo.

Trong nghĩa quân, có người nhận ra được Hàn Lâm Nhi vội về soái phủ báo tin ngay. Khi Vô Kỵ sắp đi tới Hào Châu, Hàn Sơn Ðông đã biết Vô Kỵ tới, liền dặn Nguyên Chương, Từ Ðạt, Ngộ Xuân, Ðằng Dư, Khang hòa các tướng ra tận ngoài xa ba mươi dặm để nghênh đón. Mọi người cách biệt lâu ngày, bây giờ được trùng phùng nên ai nấy đều vui vẻ vô cùng. Sơn Ðồng thiết tiệc và thân chinh rót rượu mời giáo chủ uống.

Chỉ Nhược khi cưỡi ngựa theo Vô Kỵ vào thành thấy nghĩa quân và dân chúng ra đón rước, tuy không hoa lệ huy hoàng như vua và hoàng hậu được đón rước ở đại lộ, nhưng nàng cũng cảm thấy vẻ vang và an ủi lắm rồi.

Tối hôm đó, trong thành Hào Châu, đâu đâu cũng có tiệc tùng để mừng giáo chủ giáng lâm.

Sơn Ðồng nghe thấy con mình kể lại chuyện bị Cái Bang bắt giữ và nhờ giáo chủ cứu giúp như thế nào y cám ơn Vô Kỵ luôn mồm.

Vô Kỵ ở trong thành nghỉ ngơi vài ngày. Dương Tiêu, Phạm Dao, Thiên Chính Dã Vương, Thiết Quang đạo nhân, Nói Không Ðược, Chu Ðiện, Ngũ hành kỳ, các Trưởng kỳ sứ hay tin đều lần lượt tới Hào Châu để gặp giáo chủ, vì vậy trong thành ngày nào cũng có tiệc tùng không ngớt.

Vài ngày sau, Bức Vương Nhất Tiếu với Doanh Ngọc cũng tới nốt.

Vô Kỵ hỏi đến tin Tạ Tốn thì không ai hay biết cả, riêng có Nhất Tiếu nói với chàng rằng:

– Thuộc hạ gặp Trưởng bản Long đầu của Cái Bang ở Hà Bắc, thuộc hạ thấy y định hại bổn giáo nên mới đùa giỡn y một phen. Có lẽ Cái Bang cũng chưa biết tới Kim Mao Sư Vương bị ai bắt. Vì lúc ấy thuộc hạ chưa biết Tạ huynh đã về tới Trung Nguyên, bằng không thể nào cũng tới Cái Bang dò xét liền.

Vô Kỵ lại kể cho mọi người hay Tạ Tốn bị Cái Bang bắt cóc rồi sau mất tích luôn. Dương Tiêu, Phạm Dao, Thiên Chính các người đều là những kẻ đa mưu túc trí, nhưng họ nghĩ đi nghĩ lại mà không ai nghĩ ra được một kế nào hết.

Phạm Dao bỗng lên tiếng nói:

– Không hiểu thiếu nữ áo vàng kia là người như thế nào, chưa biết chừng tìm ra được nàng ta sẽ biết được hành tung của Tạ huynh ngay.

Thiên Chính cũng lên tiếng nói:

– Người vẽ dấu hiệu khiến giáo chủ chạy quanh một vòng lớn chắc thế nào cũng có liên can đến việc biệt tích của Kim Mao Sư Vương.

Quần hào tuy kiến thức rộng, nhưng không ai nghĩ ra được thiếu nữ áo vàng đó là ai cả. Nhưng ai ai cũng khuyên Vô Kỵ nên khoan tâm và cùng nói rằng:

– Theo lời lẽ và hành sự của thiếu nữ áo vàng đó thì nàng ta không có ác ý gì với giáo chủ cả, nếu Kim Mao Sư Vương mà lọt vào tay nàng ta thì cũng bình yên vô sự. Xem như vậy, chắc thiếu nữ ấy chỉ muốn biết thanh đao Ðồ Long ở đâu thôi, chứ không định tâm phản lại chúng ta và giết hại Kim Mao Sư Vương đâu.

Vô Kỵ thấy mọi người nói như vậy mới yên tâm phần nào, chàng liền phái Ngũ hành kỳ đi các nơi dò xét. Tuy đại thắng mấy trận, nghĩa quân của Minh giáo cũng tổn thất rất nặng, nên phải nghỉ đợi ba tháng để chỉnh đốn lại lực lượng và chiêu mộ tân binh, không có thì giờ khởi quân để đại chiến với quân Nguyên vội, Doanh Ngọc nói chuyện Chỉ Nhược tự tử cho mọi người nghe.

Tuy không ai hiểu tại sao nàng lại tự tử như thế, nhưng người nào cũng nói chắc là không thoát khỏi chữ ghen!

Còn Phạm Dao các người biết Vô Kỵ vẫn còn yêu Triệu Minh, nếu để giáo chủ của Minh giáo kết hôn với quận chúa của Mông Cổ thì thế nào cũng phản ứng đến đại sự kháng Nguyên phục quốc, tai hại rất lớn. Vì những lẽ trên, nên ai ai cũng khuyên Vô Kỵ sớm kết duyên với Chỉ Nhược.

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược đã mang bầu nên việc này không thể trì hoãn được liền nhận lời ngay. Thế rồi Hân Thiên Chính chọn ngày hoàng đạo là mười lăm tháng ba sẽ làm lễ thành hôn cho hai người. Người của Minh giáo hay tin đó đều mừng rỡ hết sức, lúc bấy giờ thanh thế của Minh giáo thật là oai trấn thiên hạ, đâu đâu cũng có tin thắng trận gửi về. Hỉ tin của giáo chủ kết hôn truyền ra, các nhân sĩ của võ lâm đem đến mừng đông như kiến cỏ. Phái Côn Luân và Không Ðộng, tự cho mình là danh môn chính phái và xưa nay có hiềm thù với Minh giáo, nhưng sau khi được Vô Kỵ ra tay cứu giúp ở chùa Vạn Pháp tại Kinh đô từ đó trở đi, không riêng gì hai môn phái ấy mà các môn phái khác cũng đều bỏ hết ân oán cũ, không thù hằn Minh giáo nữa, vì vậy môn phái nào cũng có đem lễ vật tới mừng.

Chỉ Nhược là chưởng môn của phái Nga Mi, nên chưởng môn của các phái khác cũng sai người đem lễ vật đến mừng nốt. Trương Tam Phong của phái Võ Ðang tuy không thân chinh tới mừng, nhưng cũng có đích bút viết bốn chữ “giai nhi giai phụ” vào sau một cuốn Thái cực quyền kinh rồi sai Tống Viễn Kiều, Dư Liên Châu, Hân Lợi Hanh ba đệ tử mang đi mừng.

Lúc ấy Bất Hối đã kết hôn với Lợi Hanh rồi cũng theo chồng đi Hào Châu.

Vô Kỵ vừa tiến lên thỉnh an.

Chàng lớn tiếng kêu gọi nàng Bất Hối:

– Lục sư Thẩm.

Bất Hối xấu hổ vô cùng, mặt đỏ bừng, nắm lấy tay chàng và nghĩ đến chuyện xă.

Trong lòng nàng vừa mừng rỡ vừa thương cảm.

Vô Kỵ sợ Hữu Lượng, Thanh Thư chưa nguôi lòng giận, thừa cơ tới hãm hại, liền phái Nhất Tiếu làm tạ lễ đi Võ Ðang.

Vô Kỵ còn kể lại chuyện Thanh Thư định giết hại Thanh Cốc và Trương Tam Phong như thế nào, kể cả cho Nhất Tiếu hay và dặn Nhất Tiếu khi lên tới núi Võ Ðang bái kiến Trương Tam Phong xong nếu gần gũi Ðại Nham với Tòng Khê luôn, đề phòng bị gian mưu của Hữu Lượng. Chàng còn dặn Nhất Tiếu ở lại đó cho đến khi Viễn Kiều các người quay trở về Võ Ðang rồi hãy cáo biệt.

Nhất Tiếu nghe Vô Kỵ nói việc đó do Hữu Lượng với Thanh Thư tạo nên, tức giận đến mặt xám xanh, hậm hực đỡ lời:

– Từ khi tuân lệnh giáo chủ dẫn dụ, Nhất Tiếu tôi không dám hút máu người nữa, nhưng lần này tôi gặp hai tên gian tặc ấy thế nào cũng phải hút máu chúng tới khi chúng khô héo chỉ còn da với xương mới thôi.

Vô Kỵ vội khuyên bảo:

– Với Hữu Lượng Vi huynh cứ việc thuận tay diệt trừ đi. Còn Thanh Thư là người con duy nhất của sư bá tôi và cũng là người trưởng môn vị lai của phái Võ Ðang, cứ để yên cho phái Võ Ðang tự quét sạch cửa ngõ lấy, chúng ta không nên đụng vào người y, để khỏi mất cảm tình với đại sư bá của tôi.

Nhất Tiếu vừa cười vừa nhận lời rồi từ biệt đi luôn.

Ðến hôm mùng mười tháng ba các nữ hiệp của phái Nga Mi đã đem lễ vật tới Hào Châu.

Ðinh Mẫn Quân nhờ người đem lễ vật tới mừng chớ nàng ta không tới.

Các người của Minh giáo từ trên chí dưới đều thay đổi quần áo mới. Nơi lễ tơ hồng lập ở trong khách sảnh đó trang hoàng lịch sự vô cùng.

Hân Thiên Chính là chủ hôn bên đàng trai, Thường Ngộ Xuân là chủ hôn bên đàng gái. Thiết Quan đạo nhân là tổng tuần thành phố Hào Châu, bố trí các đệ tử trong giáo phái đi tuần tiễu và khám xét các nơi phòng kẻ trà trộn vào phá bĩnh. Khang hòa thống lĩnh tinh binh của nghĩa quân đóng ở ngoài thành để bảo vệ.

Trưa hôm đó, phái Thiếu Lâm và phái Hoa Sơn cũng phái người mang lễ vật đến mừng. Quá giờ Thân một khắc đã tới giờ hoàng đạo, pháo hiệu liền nổi lên, Dương Tiêu với Phạm Dao dẫn các khách đến mừng vào trong đại sảnh.

Rồi Tán lễ sinh lớn tiếng tán lễ.

Lợi Hanh với Hàn Lâm Nhi làm rể phụ đi cùng Vô Kỵ ở bên trong bước ra. Tiếng bát âm cử lên, tám nữ hiệp trẻ tuổi của phái Nga Mi làm dâu phụ cùng Chỉ Nhược ở bên trong bước ra ngoài đại sảnh.

Ðàn ông ở bên trái, đàn bà bên phải.

Cô dâu chú rể đứng sát nhau.

Tán lễ sinh liền lớn tiếng nói:

– Vái trời.

Vô Kỵ với Chỉ Nhược đang quỳ xuống cái thảm đỏ trải ở dưới đất vái lạy, bỗng nghe thấy ngoài cửa có một tiếng thánh thót quát bảo:

– Hãy khoan!

Chỉ thấy bóng xanh thấp thoáng một cái, một thiếu nữ áo xanh đứng sừng sững ở giữa sân tủm tỉm cười.

Nàng ta chính là Triệu Minh.

Quần hào vừa trông thấy mặt Triệu Minh đều hò hét quát tháo ầm ĩ.

Cao thủ của Minh giáo với các đại môn phái đã đau đớn khổ sở với nàng rất nhiều, họ không ngờ bây giờ một mình nàng lại dám đột nhập vào chốn này.

Những người hơi nóng tính một chút, định nhảy xổ ra đánh nàng.

Dương Tiêu thấy vậy vội giơ hai cánh tay ra quát lớn một tiếng:

– Hãy khoan!

Rồi Tả sứ nói tiếp với mọi người:

– Ngày hôm nay là ngày đại hỷ của giáo chủ với người trưởng môn phái Nga Mi, Triệu cô nương giáng lâm để mừng, như vậy cô ta là khách của chúng ta. Quý vị hãy nể mặt phái Nga Mi và Minh giáo chúng tôi, xếp chuyện cũ sang một bên trước và không được vô lễ với Triệu cô nương.

Nói xong, y đưa mắt ra hiệu cho Bành Doanh Ngọc với Nói Không Ðược.

Hai người hiểu ý liền vội vòng ra phía hậu đường để điều tra xem Triệu Minh đưa theo bao nhiêu tay cao thủ tới.

Dương Tiêu thấy hai người đi rồi, liền tiến lên nói với Triệu Minh rằng:

– Mời Triệu cô nương lại đây để xem hôn lễ, lát nữa tại hạ còn kính cô nương ba chén rượu nhạt.

Triệu Minh mỉm cười đáp:

– Tôi có mấy lời muốn nói riêng với Trương giáo chủ, nói xong tôi sẽ đi ngay, hẹn đến ngày khác sẽ quấy nhiễu sau.

Dương Tiêu lại nói tiếp:

– Triệu cô nương, có chuyện gì chờ hành lễ xong nói cũng được mà.

– Nếu chờ đến khi hành lễ xong thì đã muộn rồi.

Dương Tiêu với Phạm Dao đưa mắt nhìn nhau một cái.

Hai người đã biết ngày hôm nay nàng tới đây là để phá bĩnh, dù sao cũng phải nghĩ cách ngăn nàng ngay mới được, nếu không đám cưới này sẽ mất vui đi.

Dương Tiêu tiến lên hai bước và nói:

– Ngày hôm nay tân chủ phải tận lễ, thế nào cũng xin cô nương giữ ý cho.

Y đã quyết định, nếu Triệu Minh còn phá quấy nữa thì y sẽ ra tay điểm luôn vào yếu huyệt, kiềm chế không cho nàng nói nữa.

Ngờ đâu Triệu Minh lại nói với Phạm Dao:

– Khổ đại sư người định ra tay đánh tôi, đại sư có giúp tôi không?

Phạm Dao cau mày lại đáp:

– Thưa Quận chúa, trên đời này có nhiều việc không sao được hoàn toàn như ý muốn của mình, nên ta không thể bướng bỉnh được đâu.

Triệu Minh vừa cười vừa lẩm bẩm nói tiếp:

– Tôi cứ thích bướng bỉnh đấy.

Nói xong, nàng quay đầu lại nói với Vô Kỵ:

– Trương Vô Kỵ, ngươi là giáo chủ của Minh giáo, chẳng lẽ nam nhi đại trượng phu nói rồi lại nuốt lời hay sao?

Vô Kỵ thấy Triệu Minh tới, trái tim trong lồng ngực đập mạnh chỉ mong Dương Tiêu chống chế hộ mình, khuyên nàng rời khỏi nơi đây ngay. Chàng đang mong mỏi thì lại nghe Triệu Minh lên tiếng hỏi như vậy, nên đành phải miễn cưỡng trả lời:

– Có bao giờ tôi nuốt lời đâu.

Triệu Minh lại hỏi:

– Bữa nọ tôi cứu Hân lục thúc của giáo chủ thoát chết, giáo chủ có nhận lời giúp tôi ba việc và không được trái lệnh một việc nào có phải thế không?

Vô Kỵ đáp:

– Phải, việc thứ nhất, cô nương bảo tôi mượn đao Ðồ Long cho cô nương xem, không những cô đã được xem mà còn lấy trộm bảo đao đó đi là khác. Mấy chục 5 nay, người trên giang hồ, ai ai cũng muốn biết rõ thanh bảo đao Ðồ Long võ lâm chí tôn ấy hiện đang ở đâu, bây giờ mọi người nghe thấy nói thanh đao ấy đã lọt vào tay Triệu Minh rồi, nên ai nấy đều xôn xao bàn tán làm ồn cả khách sảnh lên.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Bảo đao Ðồ Long hiện đang ở trong tay ai, sự thực chỉ có một mình Kim Mao Sư vương Tạ đại hiệp biết thôi. Nếu giáo chủ không tin cứ đi gọi Tạ đại hiệp sẽ biết lời tôi nói thực hay hư liền.

Tạ Tốn đã về Trung Nguyên, đa số võ lâm quần hào không hay biết tin này, nghe thấy Triệu Minh nhắc nhở Kim Mao Sư vương mọi người đang ồn ào liền yên lặng ngay, Vô Kỵ vội hỏi:

– Hiện giờ nghĩa phụ tôi ở đâu, mong cô nương cho tôi biết tin đi, vì ngày đêm tôi nhớ nhung ông ta hoài.

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Tôi yêu cầu giáo chủ làm ba việc, đã nói trước là không được vi phạm đến nghĩa đạo của võ lâm. Giáo chủ đều phải tuân theo làm đủ ba việc đó cho tôi. Việc mượn đao Ðồ Long để xem, tuy chưa làm đến nơi đến chốn, nhưng dù sao tôi cũng được trông thấy bảo đao đó rồi. Sau bảo đao bị mất trộm, điều này tôi không thể trách cứ giáo chủ được. Việc thứ nhất coi như giáo chủ đã làm xong rồi, bây giờ tôi lại muốn giáo chủ làm giúp cho tôi việc thứ hai.

Trương Vô Kỵ, trước mặt các anh hùng hào kiệt ở đây, người không thể nói mà không giữ lời được.

– Chẳng hay cô nương muốn tôi làm việc gì thế?

Dương Tiêu vội xen lời nói:

– Triệu cô nương, có việc gì định nhờ đến giáo chủ của tệ giáo thì phải hẹn ước ngày giờ trước, quý hồ điều đó không làm trái với đạo nghĩa trong võ lâm, không nói Trương giáo chủ cũng phải nhận lời, mà tệ giáo từ trên chí dưới, ai cũng phải tận tâm kiệt lực giúp vào việc đó cho cô nương. Lúc này Trương giáo chủ vời tẩu phu nhân đang làm lễ tơ hồng, việc khác phải xếp sang một bên trước, xin cô nương đừng có nói nhiều để cản trở giờ hoàng đạo nữa.

Y nói tới những câu cuối cùng, giọng nói nghiêm khôn tả.

Ngờ đâu Triệu Minh vẫn ung dung như thường, hình như nàng rất coi thường vị Quang Minh tả sứ của Minh giáo tiếng tăm đã lừng lẫy giang hồ vậy.

Nàng thấy Dương Tiêu nói như thế liền uể oải đáp:

– Việc của tôi cũng quan trọng hơn, không thể trì hoãn giây phút nào hết.

Nói xong, nàng đột nhiên tiến lên mấy bước, đi tới trước mặt Vô Kỵ kiễng chân lên, rỉ tai chàng khẽ nói:

– Việc thứ hai của tôi đây là bắt buộc giáo chủ ngày hôm nay không được động phòng hoa chúc với Chu cô nương.

Vô Kỵ ngẩn người ra giây lát và hỏi lại:

– Tại sao?

– Ðấy là việc thứ hai, còn việc thứ ba, bao giờ tôi nghĩ ra, tôi sẽ nói với giáo chủ sau.

Mấy lời nói của nàng rất khẽ, nhưng Chỉ Nhược, Viễn Kiều và Lợi Hanh và tám nữ hiệp của phái Nga Mi làm phù dâu nghe thấy rõ hết.

Ai nấy đều biến sắc, tám hiệp nữ của phái Nga Mi tuy không đem theo khí giới nhưng người nào cũng nắm chặt lấy quyền lại để đợi chờ, nếu Triệu Minh còn nói thêm những lời vô lễ làm nhục đến người trưởng môn của phái Nga Mi thì họ ra tay đánh đập Triệu Minh liền.

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Xin lỗi cô nương, việc này tôi không thể tuân theo được.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Thế giáo chủ đã nhận lời rồi, bây giờ định nuốt lời hay sao?

– Chúng ta đã nói trước là việc đó không trái đạo hiệp nghĩa mới được. Tôi với Chu cô nương đã có hôn ước kết thành phu thê nếu theo lời cô nương thì có phải là trái với đạo nghĩa không?

– Nếu giáo chủ thành hôn với nàng ta mới thực là bất hiếu bất nghĩa. Lúc đi du ngoạn hoàng thành tại đại lộ, chẳng lẽ giáo chủ chẳng trông thấy nghĩa phụ của giáo chủ bị ai ám hại hay sao?

Vô Kỵ không sao nén được lửa giận, liền lớn tiếng đáp:

– Triệu cô nương, ngày hôm nay kính cô là khách, đã nhường nhịn cô ba thành rồi, nêu cô nương còn ở đây nói bậy như thế nữa thì đừng có trách.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Việc thứ hai này giáo chủ nhất định không chịu nghe tôi mà làm phải không?

Vô Kỵ đã bắt đầu chịu nhũn nghĩ đến nàng thân là một Quận chúa mà không sợ tai tiếng, đến đây trước mặt quần hào yêu cầu ta phế bỏ hôn nhân, đủ thấy nàng ta si tình ta như thế nào. Vì vậy mà giọng nói của chàng cũng dịu dần và nói tiếp:

– Triệu cô nương, việc đã xảy ra như vậy, tôi cũng mong cô nương nên… nên bỏ qua đi thì hơn. Thiết nghĩ tôi là một người quê mùa cục mịch thì làm sao… làm sao…

Nói tới hai chữ làm sao này, chàng không biết nói như thế nào nữa cho phải.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Ðược, giáo chủ thử nhìn xem cái này là cái gì thế?

Nàng giơ bàn tay phải ra, chìa tới trước mặt Vô Kỵ, không biết Vô Kỵ trông thấy cái gì trên bàn tay nàng, nhưng mọi người chỉ thấy chàng giật mình kinh hãi, người và chân tay run lẩy bẩy rồi đáp:

– Ðây… đây là tôi…

Triệu Minh vội nắm bàn tay lại, bỏ vật đó vào trong túi rồi tiếp:

– Chẳng hay giáo chủ có chịu làm giúp việc thứ hai cho tôi không, tuỳ ở giáo chủ đây, tôi không cưỡng ép đâu.

Nói xong, nàng quay người thẳng ra ngoài cửa.

Không ai biết trong tay Triệu Minh có gì mà tại sao Vô Kỵ vừa trông thấy đã kinh hoảng mất hết tinh thần đến thế.

Chỉ Nhược bị cái mão phụng quan có những tua hạt trai lòng thòng ở phía trước và có một miếng nhiễu điều phủ lên nữa, nàng chỉ nghe thấy Vô Kỵ với Triệu Minh đối đáp thôi chứ không trông thấy hai người là gì, và tất nhiên nàng cũng không trông thấy tay của Triệu Minh cầm gì rồi.

Vô Kỵ nói với theo:

– Triệu… Triệu cô nương hãy dừng bước.

Triệu Minh quay đầu lại hỏi:

– Giáo chủ có muốn theo thì phải đi ngay bây giờ, bằng không cứ ở lại đây làm lễ tơ hồng với cô dâu đi. Nam nhi đại trượng phu làm việc gì cũng phải quyết định mới được chứ cứ chần chờ như thế sẽ mang hận suốt đời đấy.

Nàng chỉ lớn tiếng nói có mấy câu đó thôi. Thế là chân không ngừng bước, đã đi thẳng ra ngoài cửa lớn liền.

Vô Kỵ lại gọi với tiếp:

– Triệu cô nương hãy khoan, hà tất cô nương phải nóng nảy như thế, hãy ở lại bàn tán qua đã.

Chàng thấy Triệu Minh đã rảo bước đi, vội đuổi theo kêu gọi tiếp:

– Ðược, tôi xin nghe lời cô, ngày hôm nay không thành hôn vội.

Triệu Minh nghe chàng nói như vậy, liền ngừng chân lại và trả lời:

– Nếu vậy giáo chủ nên theo tôi mà đi ngay đi.

Vô Kỵ đuổi theo hai bước, nhưng chàng lại quay đầu lại nhìn, thấy Chỉ Nhược vẫn đứng yên ở đó, chàng phân vân khó xử vô cùng đang định quay lại giải thích cho nàng ta hay để nàng khỏi thắc mắc nhưng chàng lại thấy Triệu Minh quay người đi thẳng rồi. Chàng thấy việc trước mắt đây quá khẩn cấp lắm, cần phải cương quyết và định đoạt ngay mới được, nên chàng đành để Chỉ Nhược đứng trơ trọi ở đó mím môi đuổi theo Triệu Minh ngay.

Vô Kỵ vừa đuổi ra tới cửa lớn thì đột nhiên thấy bên cạnh mình có một bóng hình thấp thoáng và thấy một người đuổi theo tới phía sau Triệu Minh, trong tay áo hồng, thò một chiếc tay nho nhỏ ra.

Năm ngón tay nhằm sau ót Triệu Minh đâm luôn. Sự việc xảy ra đột ngột và nhanh như điện chớp, người ra tay đó chính là cô dâu Chu Chỉ Nhược.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Thế võ này lợi hại thực, không hiểu Chỉ Nhược học ở đâu ra mà có miếng võ thần bí như thế?

Chàng thấy năm ngón tay của nàng đã bao trùm đỉnh đầu của Triệu Minh rồi.

Tuy Triệu Minh đã học được các môn võ học tuyệt diệu của các môn phái, nhưng không sao giải thoát nổi mối nguy hiểm của năm ngón tay kia đang cùng chộp xuống. Nếu năm ngón tay của Chỉ Nhược cắm xuống thì đầu óc của Triệu Minh sẽ bị thủng liền.

Vì vậy mà Vô Kỵ không kịp suy nghĩ gì cả, nhún chân một cái đã đến gần hai người, giơ tay ra nắm lấy mạch môn của Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược liền dùng khủyu tay trái thúc tới, kêu đến “bộp” một tiếng, khủyu tay của nàng đã thích trúng vào giữa ngực của Vô Kỵ, Cửu Dương thần công trong người Vô Kỵ tự động bốc lên, làm giảm mất sức lực của cái thúc đó.

Tuy vậy chàng vẫn thấy khí huyết trong người rạo rực và chân hơi loạng choạng.

Phạm Dao trông thấy sự thể nguy cấp, nghĩ tới tình xưa nghĩa cũ của cố chủ, liền xông lại múa chưởng, đẩy mạnh vào vai của Chỉ Nhược một cái.

Chỉ Nhược giơ tay lên khẽ phẩy một cái, tay nàng khéo léo vô cùng đã phất trúng yếu huyệt ở cổ tay của Phạm Dao liền.

Bị phất trúng yếu huyệt, Phạm Dao liền thấy bản thân tê tái, không sao ra tay tấn công tiếp được nữa. Nhưng nhờ vậy mà cản trở được thế công của Chỉ Nhược và Triệu Minh đã tiến lên được nửa bước, thoát khỏi nguy hiểm, nhưng tay của Chỉ Nhược vừa chộp trúng vai nàng chỗ gần cổ.

Vô Kỵ thấy năm ngón tay của Chỉ Nhược cắm sâu vào vai bên phải của Triệu Minh, liền kều “ủa” một tiếng và giơ chưởng lên đẩy Chỉ Nhược lui về phía sau.

Tuy bị mão phụng quan và tấm nhiễu điều che mắt Chỉ Nhược nghe tiếng gió động cũng biết Vô Kỵ đã ra tay đẩy mình, nàng lại xoay hữu chưởng lại, chém luôn vào cổ tay của Vô Kỵ.

Sự thực Vô Kỵ không muốn giết hại hay đả thương Chỉ Nhược, chỉ vì thấy nàng ra tay vừa lợi hại vừa độc ác muốn giết chết Triệu Minh tại chỗ, bất đắc dĩ, chàng phải giơ tay ra chống đỡ và khuyên can thôi.

Không ngờ Chỉ Nhược người không cử động chân không xê dịch, hai tay đã đỡ luôn ba thế võ rất nguy hiểm liền.

Vô Kỵ giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra mới chống đỡ nổi tám thế công và thế thủ đó, chỉ trong chớp nhoáng đã qua liền.

Quần hào có mặt nơi đại sảnh, ai cũng im hơi lặng tiếng, kinh hãi đến ngẩn người ra. Triệu Minh bị thương nặng, ngã lăn ra đất, nắm lỗ hổng ở trên vai, máu chảy ra như suối, làm đỏ cả nửa cái áo của nàng.

Chỉ Nhược đột nhiên thâu tay lại, không tấn công nữa và lên tiếng nói:

– Trương Vô Kỵ, người bị yêu nữ mê hoặc, đang tâm bỏ tôi mà đi.

Vô Kỵ đáp:

– Chỉ Nhược tôi xin hiền muội hãy lượng thứ nỗi khổ tâm của tôi, cuộc hôn ước của chúng ta không bao giờ Vô Kỵ tôi cắt đứt đâu, chỉ xin trì hoãn lại vài ngày mà thôi.

Chỉ Nhược lạnh lùng trả lời:

– Nếu đại ca đi thì đừng có hòng trở về nữa, tôi chỉ mong đại ca sau này đừng có hối hận.

Triệu Minh nghiến răng mím môi đứng lên, rồi đi thẳng ra ngoài, vết thương ở trên vai nàng vẫn chảy máu tươi ra, nhỏ dòng trên mặt đất.

Tuy quần hào đã được mục kích nhiều chuyện lạ ở trên giang hồ, nhưng ngày hôm nay mới được trông thấy hai thiếu nữ tranh chồng, gây đổ máu trong phòng cưới.

Cô dâu bị khăn nhiễu che mặt mà còn đả thương được tình địch, cho nên ai nấy đều giật mình kinh hoảng, không nói được nửa lời.

Vô Kỵ dậm chân một cái, rồi trả lời Chỉ Nhược tiếp:

– Nghĩa phụ đối với tôi ơn nặng như núi Thái Sơn, tình sâu như biển cả, Chỉ Nhược, Chỉ Nhược mong hiền muội tha thứ cho ngu huynh.

Nói xong chàng quay người đuổi theo Triệu Minh ngay. Hân Thiên Chính, Liên Châu, Viễn Kiều không hiểu gì cả, nên không ai dám ngăn cản hết.

Chỉ Nhược bỗng giơ tay lên rứt khăn phủ đầu rơi xuống đất và lớn tiếng nói:

– Quý vị thân bằng cố hữu đều trông thấy, đó là do chàng phụ tôi trước chứ không phải là do tôi phụ chàng. Từ nay trở đi, Chỉ Nhược với Trương Vô Kỵ ân đoạn nghĩa tuyệt rồi.

Nói xong, nàng cởi cả cái mũ phụng quan xuống, thuận tay vò nát những trân châu ở trên phụng quan biến thành bột vụn rớt cả xuống mặt đất. Nàng lại nói tiếp:

– Tôi, Chu Chỉ Nhược, nếu không rửa được mối nhục ngày hôm nay thì thề sẽ như những hạt châu này.

Thiên Chính, Viễn Kiều, Dương Tiêu đang định tiến lên khuyên van, định bảo nàng hãy chờ Vô Kỵ trở về, hỏi rõ đầu đuôi ra sao rồi sẽ định liệu sau.

Nhưng Chỉ Nhược đã xé luôn cả cái áo thêu đầy hoa vàng ra làm hai mảnh, vứt xuống dưới đất, rồi tung mình nhảy lên cao.

Chỉ thấy nàng xoay mình một cái rất đẹp, thân hình đã lên trên nóc nhà liền. Dương Tiêu, Thiên Chính các người đuổi theo nhảy lên trên mái nhà thì thấy nàng rất nhẹ nhõm, tựa như một đám mây đỏ, đang bay phất phới về phía Ðông và đi mất.

Khinh công của nàng cao siêu tuyệt mức, có lẽ không kém gì cả Vi Nhất Tiếu.

Dương Tiêu các người đuổi không kịp, chỉ đứng ngẩn người ra giây lát rồi nhảy xuống bên dưới, quay trở vào đại sảnh. Thế là đám cưới đang vui mừng như vậy, thoáng cái đã thành gió bay tan hết.

Giáo chúng của Minh giáo từ trên xuống dưới đều mất hết sĩ diện, người nào người ấy đều rầu rĩ vô cùng, ngay cả quần hào đến mừng vào dự tiệc cũng mất thú nốt. Các người xôn xao ước đoán, không ai hiểu Triệu Minh đã đưa vật gì cho Vô Kỵ xem, mà khiến Vô Kỵ phải sợ hãi, rồi vội vàng đuổi theo nàng đến thế.

Những người nghe thấy lời nói Vô Kỵ thì đoán chắc việc này có liên can rất lớn tới Tạ Tốn, nhưng nội dung ra sao thì không một ai biết hết cả.

Các nữ hiệp của phái Nga Mi khẽ bàn tán vài câu rồi hậm hực cáo từ rút luôn.

Thiên Chính cứ xin lỗi luôn mồm và nói thế nào cũng sẽ dẫn Vô Kỵ lên núi Nga Mi để trịnh trọng xin lỗi và tiếp tục cử hành lại cuộc hôn lễ không nên vì việc nhỏ mọn này mà hai bên mất lòng với nhau.

Hồi thứ 87

Ngàn Dặm Phó Nạn

Các nữ hiệp của phái Nga Mi chỉ ậm ừ gật đầu rồi cáo từ chia nhau đi để kiếm Chu Chỉ Nhược.

Một lũ con gái vừa đi vừa mắng chửi đàn ông vô tình bạc nghĩa om sòm cả lên.

Thì ra cái mà Triệu Minh nắm trong tay đưa cho Vô Kỵ xem chỉ là mấy sợi tóc vàng thôi chứ không có gì lạ hết.

Vô Kỵ vừa trông thấy đã nhận ngay ra đó là tóc của Tạ Tốn.

Nên biết cách luyện công của Tạ Tốn khác hẳn với những người khác vì lý do bản chất cùng hình dáng của Sư Vương cũng khác người nốt. Vì thế sau tuổi trung niên, tóc dài của Sư Vương chuyển thành màu vàng chóe, khác hẳn màu tóc của người bên Tây Vự cả, nên Vô Kỵ vừa trông thấy đã nhận ra liền.

Chàng thấy Triệu Minh đã cắt được mấy sợi tóc của Tạ Tốn thì chắc nghĩa phụ của mình thế nào cũng bị nàng giam giữ rồi, bằng không nàng thể nào cũng biết chỗ của Tạ Tốn. Chàng coi Tạ Tốn y như thân sinh của mình vậy nên chàng vừa thấy mấy sợi tóc vàng đó liền coi trên thiên hạ không còn có việc gì quan trọng hơn là phải giải cứu ngay nghĩa phụ mình ra khỏi chốn hiểm nguy.

Chàng biết Triệu Minh đã cầm được trong tay mấy sợi tóc này rồi, nếu chàng còn tiếp tục làm lễ tơ hồng với Chu Chỉ Nhược thể nào nàng cũng tức giận mà bỏ đi giết Tạ Tốn ngay. Bỏ đi như vậy rất bất lợi cho chàng nhưng trước mặt quần hùng chàng không thể giảng giải cho Chu Chỉ Nhược hay được. Trong những thân khách dự tiệc ở đây, ngoài người của Minh Giáo và phái Võ Ðang ra thì ai ai cũng muốn giết cho được Tạ Tốn mới hả dạ. Họ chẳng để báo thù cho những người bị Tạ Tốn giết hại năm xưa thì cũng vì muốn cướp cho được thanh bảo đao Ðồ Long. Cho nên Vô Kỵ thấy Triệu Minh chạy đi, dù biết theo nàng chàng sẽ có lỗi rất lớn với Chu Chỉ Nhược, chàng vẫn quyết đuổi theo Triệu Minh vì rốt cuộc chàng vẫn coi tính mạng của nghĩa phụ là hơn.

Chàng vừa ra tới cửa lớn đã thấy Triệu Minh cố hết sức chạy cho thật nhanh, máu tươi trên vai nàng nhỏ dòng suốt dọc đường. Chàng hít hơi lấy sức nhảy luôn về phía trước mấy trượng, vượt qua đầu Triệu Minh và nói:

– Triệu cô nương, đừng có bắt ép tôi phải làm con người bất nghĩa để cho anh hùng thiên hạ thóa mạ.

Triệu Minh bị thương rất nặng, thoạt tiên còn nhịn hơi, cố chịu đựng mà chạy được một quãng như vậy, nay nghe Vô Kỵ nói như thế liền đáp:

– Ðại… ca…

Nàng mới nói được hai chữ đó thì chân khí đã tiết ra hết, không sao gắng gượng được nữa ngã nhào xuống đất liền.

Vô Kỵ vội cúi mình xuống đỡ nàng nói:

– Cô nương hãy cho tôi biết hiện giờ nghĩa phụ tôi đang ở đâu? !

Triệu Minh thều thào đáp:

– Ðại ca… mau… đem tôi… đi cứu Tạ lão tiền bối! Ði…tôi… sẽ… chỉ… đường cho…

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Chẳng hay nghĩa phụ tôi có bị nguy hiểm tới tính mạng không?

Triệu Minh vẫn thều thào như trước:

– Nghĩa phụ của… đại ca… bị lọt… vào… vào tay… Thành…Khôn…

Trương Vô Kỵ nghe hai chữ Thành Khôn, giật mình đánh thót một cái, hoảng sợ đến mất hết hồn vía.

Lúc này chàng đã biết ngày nọ trên Quang Minh Ðỉnh Thành Khôn giả bộ chết chứ không phải y chết thực. Chàng biết võ công của y rất cao siêu, người lại đa mưu lắm kế, hơn nữa y với Tạ Tốn lại có thâm thù rất lớn với nhau. Bây giờ Tạ Tốn lọt vào tay y, không cần nói cũng biết Kim Mao Sư Vương thế nào cũng bị nguy hiểm rồi.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Một mình.. đại ca… đi không…ăn thua gì đâu…nên gọi Dương Tiêu và mọi người… đi theo!

Nàng vừa nói vừa chỉ về hướng Tây.

Ðột nhiên nàng ngửa đầu về phía sau và ngất đi liền.

Vô Kỵ nghĩ đến lúc này nghĩa phụ mình đã lọt vào tay kẻ tử thù, chắc thế nào cũng bị đánh đập đau đớn khổ sở lắm nên lòng chàng nóng như lửa đốt. Chàng vội ẳm Triệu Minh lên, xé áo băng bó vết thương cho nàng rồi vẫy tay gọi một tên giáo đồ Minh Giáo đứng gần đó dặn bảo:

– Mi mau thưa với Dương tả sứ bảo tả hữu lập tức dẫn mọi người theo ta đi về phía Tây! Mi bảo ta có việc cần kíp lắm nghe!.

Tên giáo đồ vâng lời, chạy đi báo cáo ngay.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Ðến nhanh phút nào hay phút ấy, việc đời khó mà đoán trước được, chưa biết chừng chỉ đến chậm nửa khắc là không sao cứu kịp nghĩa phụ.

Nghĩ đoạn, chàng vội ẳm Triệu Minh, rảo cẳng chạy tới trước cổng thành, bảo tướng sĩ canh gác tại đó dắt cho chàng một con ngựa khỏe rồi phải thân lên, thúc ngựa chạy về phía Tây luôn.

Chàng phóng ngựa đi được mấy dặm thấy người của Triệu Minh cứ lạnh giá dần. Chàng vội nắm lấy huyệt mạch môn ở cánh tay nàng thử xem, thấy mạch của nàng ta đập rất yếu, chàng kinh hoảng vô cùng vội cởi mảnh áo băng bó ở trên vai nàng ra để xem vết thương. Chàng thấy đầu vai nàng có năm lỗ thủng do ngón tay đâm sâu tới tận xương. chung quanh vết thương đều bầm đen hết. Hiển nhiên nàng đã trúng phải chất độc cực mạnh.

Chàng kinh hãi và nghi ngờ thêm:

– Chu Chỉ Nhược là đệ tử phái Nga Mi tại sao lại biết sử dụng những võ công âm độc như thế này?

Thế võ của nàng rất ác độc và còn lợi hại hơn cả Diệt Tuyệt sư thái trước kia nữa. Như vậy ta thực không hiểu chút nào!

Chàng nhận thấy nếu không cấp cứu ngay, chất độc trong người tan ra Triệu Minh thế nào cũng chết liền.

Lúc này chàng đang mặc quần áo chú rể, có đem theo thuốc đâu, như vậy biết lấy gì để chữa Triệu Minh cho được.

Chàng suy nghĩ giây lát liền xuống ngựa, tay vẫn ẳm Triệu Minh chạy thẳng lên trên núi ở phía bên trái đường.

Lên tới nơi chàng đưa mắt tìm kiếm xem có thứ thảo dược nào khử được chất độc không. Nhưng tìm mãi cũng không thấy một vị thuốc nào để chữa cho Triệu Minh cả.

Chàng đang nóng lòng sốt ruột, trống ngực đập rất mạnh, đi qua hết ngọn núi này tới qua ngọn núi khác.

Bỗng nhiên chàng thấy một cây hoa nhỏ có bốn năm bông hoa nhỏ mầu hồng mọc cạnh một cái thác nước nhỏ. Hoa đó chính là một diệu dược khử độc.

Chàng mừng rỡ vô cùng, khẽ dặt Triệu Minh xuống, vượt qua hai khe núi rồi đi tới thác nước kia. Nhưng giữa lúc chàng đang cúi mình hái hoa thì bỗng nghe thấy phía sau có tiếng của một thiếu nữ quát lớn:

– Ngừng tay lại! Hãy ngừng tay lại!

Chàng liền quay đầu lại nhìn thấy có ba thiếu nữ đang đứng ở phía bên kia khe núi, một người dong dỏng cao, mình mặc quần áo đạo cô.

Chàng nhận ngay ra nàng ta là Tĩnh Tuệ, đệ tử của phái Nga Mi. Hai thiếu nữ mặc áo huyền kia cũng là đệ tử của phái Nga Mi nhưng chàng không biết tên họ của hai người ấy.

Chàng chỉ thấy Tĩnh Tuệ tay cầm trường kiếm, vẻ mặt giận dữ đang quát tháo:

– Trương Giáo Chủ ở đây làm gì thế!?

Vô Kỵ đưa tay chớp luôn một cái đã hái luôn được ba bông hoa. Chàng sợ chậm trễ sẽ không cứu được Triệu Minh.

Chàng vội bỏ luôn mấy bông hoa đó vào mồm nhai ngấu nghiến rồi ú ớ hỏi:

– Tĩnh Tuệ sư thái có mang theo Phật Quang khử độc đơn đi không?

Phật Quang khử độc đơn là khử độc thánh dược của phái Nga Mi công hiệu hơn mấy bông hoa đó rất nhiều. Ðệ tử của phái Nga Mi hạ sơn hành đạo, trong người lúc nào cũng đem theo vừa dùng để cứu người vừa để phòng thân.

Tĩnh Tuệ liền hỏi lại:

– Tôi có thì thế nào? Không thì sao?

– Triệu cô nương này đang trúng phải chất độc rất mạnh, xin sư thái bố thí cho ba viên linh đơn để cứu nàng ta thoát mạng.

Tĩnh Tuệ trợn ngược đôi lông mày lên quát lớn:

– Yêu nữ là hung thủ giết chết sư phụ tôi. Ðệ tử của phái Nga Mi, ai ai cũng hận y thị, chỉ muốn lột da và ăn thịt y thị mới hả giận. Hừ hừ, y thị trúng phải chất độc rất nặng đó là tội của y thị phải chết đến ni. Trương Giáo Chủ, tôi hỏi Giáo Chủ câu này: Ngày hôm nay là ngày đại mừng của trưởng môn chúng tôi với Giáo Chủ tại sao chỉ vì yêu nữ này đột nhiên tới nơi, mê hoặc Giáo Chủ, khiến Giáo Chủ aÜm nó rời khỏi lễ đường bỏ mặc trưởng môn của chúng tôi ở lại đó. Như vậy Giáo Chủ có còn coi phái Nga Mi chúng tôi ra gì đâu!?

Vô Kỵ lại cúi đầu vái chào lần nữa và nói tiếp:

– Tĩnh Tuệ sư thái, việc cứu người rất quan trọng, quả thực tôi có điều khó nói khổ tâm riêng, mong sư thái lượng thứ cho. Lòng tôi yêu Chỉ Nhược đánh chết cũng không thay đổi, có trời đất chứng giám cho!

Tĩnh Tuệ nghe thấy chàng nói: “Việc cứu người rất quan trọng”, nàng ta lại tưởng Vô Kỵ nói cứu Triệu Minh chứ có ngờ đâu câu đó chàng ám chỉ Tạ Tốn.

Cho nên nàng ta lại càng tức giận thêm, lớn tiếng trả lời:

– Lúc bấy giờ đang yên đang lành hẳn hoi chứ yêu nữ có bị thương gì đâu? Mà Giáo Chủ có muốn cứu y thị đi chăng nữa cũng phải chờ lễ t hồng với trưởng môn chúng tôi xong cũng chưa muộn mà. Hừ, Giáo Chủ chỉ được cái khéo nói nhưng lừa chúng tôi sao được!

Vô Kỵ biết đối phương hiểu lầm, và cứ dây dưa mãi, chất độc lan ra thế nào Triệu Minh cũng bị toi mạng. Vì vậy chàng không nói gì thêm với Tĩnh Tuệ, quay lại chỗ Triệu Minh, vén miếng vi lên xem thương thế rồi đắp mấy bông hoa đã nhai nát vào miệng vết thương rồi mới băng bó lại.

Chỉ vì nói chuyện với Tĩnh Tuệ, trì hoãn một chút mà vết thương của Triệu Minh càng đen và sưng thêm.

Chàng kinh hãi nghĩ thầm:

– Nếu Triệu Minh vì vết thương này mà chết, ta sẽ đau đớn biết bao. Vả lại nếu không có nàng, ta biết đi đâu để tìm nghĩa phụ cùng ác tặc Thành Khôn. Nhỡ nghĩa phụ ta bị Thành Khôn hạ độc thủ, ta không kịp ra tay cứu như vậy có phải là thành mối hận thiên cổ không!

Chàng vừa nghĩ vừa run rẩy dịt thuốc cho Triệu Minh. Bỗng nhiên chàng thấy sau ót có tiếng gió động và kiếm đâm tới. Chàng khẽ giơ tay trái lên, kéo một cái, ba ngón tay chàng đã đè nằm lên trên mũi kiếm, vừa đẩy vừa lướt đã hóa giải được thế kiếm của Tĩnh Tuệ rồi. Chàng gỡ thế kiếm đó, không hề quay đầu lại nhìn chút nào, chỉ nghe tiếng gió động mà ra tay, đủ thấy võ công chàng đã luyện tới mức xuất quỷ nhập thần như thế nào.

Tĩnh Tuệ thấy thế kiếm lợi hại mà đối phương chỉ dùng ba ngón tay đã hóa giải được liền, định ra tay tấn công lần nữa, ngờ đâu sức dư của thế hóa giải của đối phương vẫn chưa hết nên người nàng bị đẩy lui về phía sau ba bước lảo đảo suýt ngã.

Nàng vừa kinh hãi vừa tức giận, biết mình không địch nổi Vô Kỵ, nhưng việc ngày hôm nay nhục nhã quá, không sao nhijn nổi.

Triệu Minh ở trước mặt lại là kẻ thù đã giết chết sư phụ nàng.

Các đệ tử phái Nga Mi đã thề độc thế nào cũng giết chết cho được Triệu Minh. Bây giờ thấy kẻ thù bị thương, nằm mê man bất tỉnh trước mặt nàng chỉ cần làm thế nào để Vô Kỵ không ra tay cứu chữa nàng kia kịp, khỏi cần dùng đao kiếm cũng báo được thù.

Vì vậy nàng mới lên tiếng nói tiếp:

– Kha sư muội, Ðu sư muội, chúng ta cùng tiến lên đi!

Hai thiếu nữ áo huyền liền rút trường kiếm ra khỏi bao, cùng tấn công Vô Kỵ tức thì. Vô Kỵ gượng cười hỏi:

– Ba vị với tôi không thù oán gì cả, ba vị hà tất cứ phải bắt ép tôi mãi như thế làm gì?

Chàng vừa nói vừa phẩy tay trái, dùng Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra gặp thế nào gỡ thế ấy, hóa giải thế kiếm của ba người một cách dễ dàng, còn tay phải của chàng tiếp tục rịt thuốc vào vết thương cho Triệu Minh.

Bọn Tĩnh Tuệ ba người quây quần bên cạnh chàng mà tấn công như vũ bão, nhưng tha hảồ cho họ ra tay nhanh đến đâu cũng không sao đâm trúng được vào vạt áo của đối thủ.

Họ thấy tấn công Vô Kỵ không ăn thua gì, Tĩnh Tuệ liền quát lớn một tiếng, xoay mũi kiếm lại đâm luôn vào mình Triệu Minh đang nằm ở dưới đất.

Vô Kỵ thấy vậy kêu “hự” một tiếng dùng ngón tay giữa búng một cái, kêu đến “coong” một tiếng.

Tĩnh Tuệ liền cảm thấy hổ khẩu tay đau nhứcả, thanh kiếm ở trong tay bị bắn tung lên trên trời kêu “cắc” một tiếng, gãy làm đôi, ri xuống đất cách xa Vô Kỵ chừng hơn trượng.

Tĩnh Tuệ mất khí giới, liền dùng ngón tay chằm tử huyệt ở phía sau lưng Vô Kỵ điểm luôn.

Vô Kỵ thấy nàng ta hạ độc thủ, trong lòng bực mình nghĩ thầm:

– Ngươi cản trở ta cứu người lại định ra tay đánh chết ta nữa ư?

Nghĩ đoạn chàng xoay tay trái, dùng hai ngón tay nắm ngay lấy cổ tay của nàng ta rồi giật mạnh một cái.

Tĩnh Tuệ bị bắn tung ra ngoài xa, té lăn xuống đất liền. Hai nữ ni kia thấy sư tỷ của mình bị đánh bại liên tiếp, hoảng sợ đến không dám tiến lên tấn công tiếp nữa. Vô Kỵ rịt xong thuốc cho Triệu Minh thấy hơi thở của nàng ta còn yếu ớt và nhất là quầng đen ở xung quanh vết thương càng lúc càng lan rộng ra nên chàng biết thứ hoa này không đủ sức giải chất độc trong người nàng.

Chàng bèn quay lại nói với Tĩnh Tuệ sư thái tiếp:

– Tĩnh Tuệ sư thái là đệ tử cửa Phật, bao giờ cũng để lòng từ bi lên trên hết, xin sư thái ban cho ba viên thuốc , Vô Kỵ tôi sữa suốt đời cám ơn vô cùng!

Tĩnh Tuệ giận dữ đáp:

– Giáo Chủ cứu yêu nữ này thoát chết nó sẽ là đại thù địch của phái Nga Mi chúng tôi. Từ giờ trở đi, Chu trưởng môn với Giáo Chủ ân đoạn nghĩa tuyệt không có cách gì cứu vãn được nữa!

Thiếu nữ họ Du cứ muốn khuyên Vô Kỵ vài lời, nhưng thấy sư tỷ mình cạnh đó, nàng không dám lên tiếng.

Lúc này nàng không nhởn được nữa, đánh bạo xen lời nói:

– Trương Giáo Chủ với Chu sư tỷ cứ thương yêu nhau như thế có hơn không, hà tất phải vì con yêu nữ này mà cứ thế.. cứ thế… Thôi Giáo Chủ nên quay trở về ngay, cùng Chu sư tỷ…

Nàng chỉ nói được có mấy câu đó mà mặt đỏ bừng không sao nói tiếp được nữa.

Vô Kỵ thấy cô bé ấy ăn nói như vậy, tuy không hiểu hết ý nhưng thấy vẻ mặt nàng ta rất thành tâm, trong lòng cũng hơi cảm động vội đáp:

– Cám ơn cô nương nhưng tôi không thể nào trông thấy Triệu cô nương sắp chết mà không ra tay cứu được!

Lúc ấy chàng thấy vết thương của Triệu Minh càng ngày càng đen liền nói tiếp:

– Cô nương, cô làm ơn bố thí cho tôi ba viên thuốc Phật Quang khử độc đơn đi! Trương Vô Kỵ tôi thế nào cũng báo đền cô nương rất hậu!. Thiếu nữ họ Ðu thấy chàng khẩn khoản như vậy, động lòng thương định móc túi lấy ba viên thuốc, nhưng khi nàng trông thấy Tĩnh Tuệ mặt lộ sát khí, trong lòng lại hoảng sợ, tay cầm thuốc rồi mà vẫn không dám rút ra khỏi túi.

Tĩnh Tuệ liền quát lớn:

– Du sư muội đã quên mối thù lớn của ân sư rồi hay sao? Nếu sư muội mà tặng đơn dược cho y, sư tỷ sẽ đánh chết sư muội ngay tại chỗ liền!

Vô Kỵ nổi giận quát lớn:

– Cô nương không tặng cho người ta thì thôi, hà tất phải ngăn cản như thế!

Tĩnh Tuệ rất sợ võ công của Vô Kỵ vội giơ hai chưởng lên trước ngực rồi cứ lui bước một, mồm thì kêu gọi hai người sư muội kia rằng:

– Kha sư muội, Du sư muội, chúng ta đi thôi!

Nàng ta tỏ vẻ khiếp sợ, định đào tẩu, nhưng chính vì thế mà khiến cho Vô Kỵ nẩy lòng ra tay cướp thuốc.

Chàng trợn ngược đôi lông mày lên và nói tiếp:

– Tĩnh Tuệ sư thái, tôi cần cứu người trên hết, nếu sư thái không tặng thì đừng trách tại hạ vô lễ!

Nói xong, chàng tiến tới gần Tĩnh Tuệ.

Tĩnh Tuệ giơ chưởng lên một cái, chưởng phải ở dưới chưởng trái xuyên qua chằm mặt chàng tấn công luôn.

Vô Kỵ khẽ né mình sang bên, chờ chưởng của nàng ta đánh lướt qua má của mình rồi mới đột nhiên giơ tay lên trên điểm luôn vào yếu huyệt ở vai trái nàng ta.

Tĩnh Tuệ thấy nửa người trên bị kiềm chế vội phải chân phải lên đá.

Vô Kỵ để mặc cho chân nàng đá trúng vào đùi mình, không tránh né gì cả. Trái lại chàng dùng nội lực phản công lại sức mạnh của đối phương.

Tĩnh Tuệ liền cảm thấy yếu huyệt bên chân phải có luồng hơi nóng truyền vào làm cho toàn thân tê tái không sao cử động được.

Thiếu nữ họ Du liền van lơn:

– Xin Trương Giáo Chủ đừng…đừng đả thương sư tỷ nữa!

Vô Kỵ đáp:

– Tôi không đả thương cô ta đâu, mong cô nương lấy đơn dược trong túi ra tặng cho tôi đi!

Tĩnh Tuệ liền quát lớn:

– Du sư muội, đệ tử của phái Nga Mi chúng ta thà chết chứ không khuất phục! Ngươi cứ thử động đến ta xem!

Vô Kỵ thấy thiếu nữ nọ do dự mà lúc này Triệu Minh lại sắp chết đến nơi chàng không còn nghĩ đến tục lệ nam nữ thụ thụ bất thân liền thò tay vào trong túi của Tĩnh Tuệ móc linh đơn ra.

Tĩnh Tuệ liền nhổ luôn một đống nước bọt vào mặt chàng, chàng vội quay đầu né tránh tay chàng đã lấy được ba cái lọ sứ nhỏ ra rồi.

Giữa lúc ấy thiếu nữ họ Kha múa kiếm đâm vào sau lưng chàng.

Vô Kỵ né người tránh, nhưng thế kiếm của nàng ta rất mạnh chàng chỉ sợ nàng ta không kịp kìm lại có thể đâm luôn vào Tĩnh Tuệ thôi.

Chàng vội đưa tay phải lôi kéo một cái, đẩy mũi kiếm của nàng ta sang bên.

Nhưng ba lọ thuốc ở tay phải của chàng đã vô ý đụng phải miếng xương tỳ bà ở vai trái Tĩnh Tuệ.

Chàng giật mình kinh hãi vội thu tay lại, không dám nhìn mặt Tĩnh Tuệ nữa.

Chàng vội mở nút ba lọ thuốc đó ra xem lọ nào là thuốc giải độc, lấy luôn ra ba viên bỏ vào mồm nhai nát, mớm một nửa vào mồm Triệu Minh còn một nửa thì đắp lên vai nàng.

Xong đâu đấy chàng nghĩ thầm:

– Nàng trúng độc nặng như vậy, chỉ sợ ba viên thuốc này không đủ cứu chữa thôi.

Nên chàng bỏ luôn cả ba lọ vào túi nói:

– Xin lỗi nhé!

Rồi chàng giải huyệt cho Tĩnh Tuệ và ẳm Triệu Minh chạy về phía tây.

Mới chạy được mấy bước chàng đã nghe tiếng thiếu nữ họ Du thất thanh:

– Sư tỷ chớ nên…

Vô Kỵ quay đầu lại nhìn đã thấy một luồng sáng xanh lấp loáng, mới hay Tĩnh Tuệ đã cầm kiếm bằng tay trái giơ lên tự chém vào miếng xương tỳ bà của mình.

Chỉ thoáng cái máu tươi đã phun ra đầy đất.

Người Tĩnh Tuệ loạng choạng nhưng nàng không té ngã liền.

Chàng cả kinh biết vừa rồi mình chỉ sơ ý chạm phải người nàng một chút mà nàng đã cho là bị sỉ nhục tự chém vai như vậy rôi.

Chàng nhanh tay điểm luôn bẩy tám yếu huyệt của Tĩnh Tuệ để cho máu khỏi tuôn ra nữa.

Tĩnh Tuệ quát tháo:

– Ma giáo ác tặc bước đi ngay!

Ðang lúc đó ở đằng xa có tiếng còi kêu liên tiếp.

Thiếu nữ họ Kha cũng lấy một cái còi trúc ra để thổi trả lời những tiếng còi kia.

Vô Kỵ biết đó là những ám hiệu gọi nhau của phái Nga Mi nên chàng quay đầu lại nhìn đã thấy bẩy tám người phải thân lại.

Chàng nghĩ thầm:

– Người tiếp viện của phái Nga Mi đã tới, chắc Tĩnh Tuệ không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa đâu. Nhưng nếu ta ở lại đây gặp lũ thiếu nữ này lại càng phiền phức thêm.

Nghĩ đoạn chàng liền ãm Triệu Minh quay người chạy như bay. thiếu nữ họ Kha không dám đuổi theo chàng. Chàng sợ gặp phải các đệ tử phái Nga Mi nên cứ chạy đường tắt chứ không dám theo đại lộ. Chàng chạy được hơn ba mươi dặm thì bỗng nghe thấy tiếng Triệu Minh kêu “hự, hự” hai tiếng.

Nàng đã tỉnh lại khẽ hỏi:

– Tôi… tôi còn sống đấy à?

Vô Kỵ thấy thuốc giải độc có công hiệu trong lòng hớn hở vừa cười vừa hỏi:

– Hiền muội thấy sao?

Triệu Minh đáp:

– Tôi chỉ thấy trên vai ngứa lắm. Hà! Môn võ công này của Chu cô nương lợi hại thực!

Vô Kỵ khẽ đặt nàng xuống xem lại vết thương thấy khoảng đen đã nhạt dần và mạch của nàng cũng đã đập mạnh hơn trước nhiều. Chàng ngắm nhìn nàng giây lát biết đơn dược này không đủ sức hút hết chất độc trong người nàng ta liền cúi đầu dùng mồm hút chất độc ra cho nàng. Chàng vừa hút vừa nhổ, thấy chất độc đó tanh hôi khôn tả, muốn buồn nôn buồn mửa liền.

Triệu Minh thấy chàng thương mình như vậy giơ tay lên vuốt tóc chàng, thở dài nói:

– Vô Kỵ đại ca đã nghĩ ra nguyên ủy của nó chưa?

Vô Kỵ hút hết chất độc cho Triệu Minh xong vội đi tới cạnh suối súc miệng rồi mới quay lại ngồi xuống cạnh nàng và hỏi:

– Nguyên ủy gì thế?

Triệu Minh đáp:

– Chu cô nương là đệ tử một danh môn chính phái, tại sao lại biết những võ công tà đạo âm độc như thế?

– Tôi cũng ngạc nhiên lắm, không hiểu ai đã dạy cho nàng những pho võ công tà môn như vậy?

– Chắc lại tiểu tặc nào của Ma Giáo dạy nàng chứ còn ai vào đây nữa?

Ma đầu trong Ma Giáo tuy nhiều thật, nhưng không ai biết thứ võ công ấy cả. Chỉ có Thanh Dực Bức Vương hút máu người và Vô Kỵ hút máu độc hộ người là hơi giống nhau thôi.

– Ngày hôm nay tôi làm ngăn trở cả cuộc động phòng hoa trúc của đại ca, chẳng hay đại ca có trách cứ tôi không?

Không hiểu sao lúc này Vô Kỵ trong lòng cảm thấy hoan hỷ, ngoài sự lo âu về Tạ Tốn ra chàng cảm thấy còn dễ chịu hơn lúc đang làm lễ tơ hồng với Chu Chỉ Nhược. Nhưng chàng thừa nhận là bằng để cho Triệu Minh phá đám cuộc hôn nhân như thế thì chàng không dám thừa nhận nên chàng đành phải trả lời Triệu Minh:

– Tất nhiên tôi phải trách cứ hiền muội chứ. Sau này khi nào cô nương làm lễ tơ hồng với một phò mã nào, lúc ấy tôi thế nào cũng đến phá bĩnh một phen chứ không khi nào để cho cô nương được bình yên làm cô dâu đâu!

Triệu Minh mặt đang nhợt nhạt bỗng xấu hổ, đỏ bừng lên ngượng ngùng đáp:

– Ðại ca đến phá bĩnh tôi sẽ dùng kiếm đâm chết đại ca liền!

Vô Kỵ bỗng thở dài một tiếng tỏ ra rầu rộ nhưng không nói năng gì cả.

Triệu Minh thấy vậy vội hỏi:

– Tại sao đại ca lại thở dài như thế?

– Không biết vị phò mã nào tu tâm tích đức các kiếp trước mà kiếp này lại có phúc được kết hôn với cô em của tôi như vậy!

– Bây giờ đại ca bắt đầu tu tâm tích đức cũng chưa muộn mà!

Vô Kỵ nghe nói mình đáng thót một cái vội hỏi:

– Hiền muội nói gì thế?

Triệu Minh mặt đỏ bừng chỉ cúi đầu xuống chứ không sao trả lời được.

Nói đến đây cả hai không tiện nói tiếp.

Nghĩ ngợi giây lát Vô Kỵ lại tiếp tục rịt thuốc cho Triệu Minh rồi ãm nàng lên đi về phía tây. Triệu Minh tựa đầu vào vai chàng, má nàng áp sát má chàng.

Mũi chàng liền ngửi thấy mùi phấn vừa thảm vừa ngọt, tay lại ôm thân hình mềm mại của nàng.

Chàng không thể cầm lòng được bỗng cảm thấy thần trí hồn phách đang như bay bổng lơ lửng trên không vậy.

Nếu không phải vì việc đi cứu Tạ Tốn thì có lẽ chàng chỉ đi từng bước một, quanh quẩn ở trong rừng núi này suốt năm suốt tháng.

Sáng sớm ngày hôm sau, hai người đã đi tới một thị trấn nhỏ. Vì Triệu Minh hãy còn rất yếu ớt không sao cưỡi được ngựa như thường được nên Vô Kỵ chỉ mua một con ngựa để hai người cùng cưỡi chung.

Ði như vậy năm ngày sau mới tới biên giới tỉnh Hà Nam.

Ngày hôm đó hai người đang đi bỗng thấy đằng trước cát bụi bay tung, hơn một trăm người đang cưỡi ngựa phóng tới, người nào người nấy đều mặc giáp trụ.

Vô Kỵ nhận ngay họ chính là quân lính Mông Cổ nên vội tránh sang bên để bọn người đó đi qua.

Bọn lính Mông Cổ thấy Vô Kỵ ăn mặc lịch sự, trong lòng lại ẳm một thiếu nữ nên chúng không để ý tới mà cứ phóng như bay đi qua chàng.

Hơn trăm kỵ binh ấy vừa đi qua thì cách sau chúng chục trượng lại có một đội kỵ binh nữa. Nhưng đội kỵ binh này không được chỉnh tề như đội trướcả, kẻ đi trước , người đi sau, chỗ thì tụm năm tụm ba, chỗ lại thưa thớt chỉ có một hai người.

Vô Kỵ liếc mắt nhìn liền kêu khổ thầm chỉ mong chúng không nhận ra mình.

Thì ra chàng đã trông thấy thần tiễn bát hùng, bộ hạ của Triệu Minh cũng có mặt trong đội kỵ binh này. Không phải chàng sợ gì chúng, nhưng chàng không muốn dây dưa sinh sự làm mất thời gian của mình.

Bọn người đó chỉ có hơn hai mươi người, khi chúng đi qua cạnh hai người vì Vô Kỵ với Triệu Minh cùng quay mặt đi nên thần tiễn bát hùng không hay biết hai người là ai cả.

Chờ cho bọn người đó qua rồi, Vô Kỵ mới quay đầu lại nhìn đang định đi tiếp thì bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa kêu “lộp cộp” rất lạ là chỉ thoáng cái đã thấy ba người cưỡi ngựa nhanh như điện chớp phải tới.

Ba con ngựa cùng phải tới đó, con đi giữa màu trắng, người cưỡi nó mặc áo cẩm bào đội mão vàng, tay cầm roi dài. Còn hai người kia không phải ai xa lạ mà chính là Lộc Trượng Khách và Hạt Bút Ông.

Vô Kỵ đang định quay người đi thì Lộc Trượng Khách đã trông thấy chàng liền vội lớn tiếng kêu gọi:

– Quận chúa nương nương chớ lo âu, kẻ cứu giá đã tới đây.

Hạt Bút Ông hú lên một tiếng hú thật dài. tiếng hú đó vọng đi rất xa. Bọn thần tiễn bát hùng nghe tiếng hú đó đều quay ngựa lại liền.

Thế là Vô Kỵ bị bao vây ngay ở giữa, chàng ngẩn người ra đưa mắt nhìn Triệu Minh vẻ mặt muốn nói rằng: “Cô thật khéo sắp đặt, phục binh để vây bắt tôi phải không? ”

Nhưng chàng thấy mặt Triệu Minh cũng tỏ vẻ lo âu như mình nên chàng mới biết là mình trách lầm, trong lòng liền thấy khoan khoái vô cùng.

Chàng chỉ cần biết Triệu Minh không định ám hại mình thì dù hoàn cảnh có nguy hiểm đến đâu chàng cũng không sợ, vẫn có thể đối phó được hết.

Chàng đang suy nghĩ thì nghe Triệu Minh đã lên tiếng hỏi bọn người Mông Cổ mặc áo bào rằng:

– Ðại ca, không ngờ lại gặp được đại ca ở đây, cha có mạnh giỏi không?

Vô Kỵ nghe thấy nàng gọi người đó là đại ca mới để ý nhìn chàng thanh niên cưỡi con ngựa trắng.

Chàng nhận ra đó chính là Khố Khố Ðặc Mục Nhộ, anh ruột của Triệu Minh, tên Hán là Vương Bảo Bảo.

Vô Kỵ đã gặp y hai lần nhưng chàng chỉ chăm chú tới Huyền Minh nhị lão chứ không lưu tâm lắm đến chàng thanh niên võ công không được cao siêu này.

Vương Bảo Bảo vừa trông thấy em gái mình vừa kinh hãi vừa mừng rỡ.

Còn Vô Kỵ thì y không nhận ra nên y cau mày hỏi:

– Cô em.. cô em…

– Ðại ca, em bị kẻ địch ám toán, trên người bị độc thương may được Trương công tử đây ra tay cứu viện, bằng không ngày hôm nay không được trông thấy mặt đại ca nữa.

Lộc Trượng Khách liền rỉ tai nói cho Vương Bảo Bảo:

– Thưa Tiểu Vương Gia, người này chính là Trương Vô Kỵ, Giáo Chủ của Ma Giáo đấy!

Vương Bảo Bảo nghe tiếng Vô Kỵ đã lâu, bây giờ y lại tưởng Triệu Minh bị chàng kiềm chế bắt ép phải nói với mình như vậy chứ sự thực không phải được Vô Kỵ ra tay cứu giúp nên y giơ tay lên phẩy một cái Huyền Minh nhị lão đã phải thân tới trước mặt Vô Kỵ, cách chừng năm thước.

Ðồng thời bốn người trong bọn thần tiễn bát hùng giương cung lên nhằm sau lưng Vô Kỵ mà bắn.

Vương Bảo Bảo liền nói với Vô Kỵ rằng:

– Trương Giáo Chủ, các hạ là Giáo Chủ một giáo phái, là hào kiệt khét tiếng võ lâm, sao hà hiếp xá muội, một thiếu nữ yếu ớt như vậy. Chẳng lẽ Giáo Chủ không sợ người ta chê cười cho hay sao?

– Biết điều thì bỏ em tôi xuống ngay! Ngày hôm nay tôi sẽ tha chết cho!

Triệu Minh nghe thấy Vương Bảo Bảo nói như vậy vội đỡ lời:

– Sao đại ca lại nói như thế? Trương công tử có n với tiểu muội thực, tại sao đại ca lại nói hai chữ hà hiếp làm chi?

Vương Bảo Bảo lại càng tin em mình bị bắt ép phải nói ra như vậy, nên lớn tiếng nói tiếp:

– Trương Giáo Chủ võ công cao cường đến đâu cũng khó mà địch nổi bốn tay, mau mau buông em gái tôi ra. Ngày hôm nay chúng ta hai bên không xâm phạm nhau. Vương Bảo Bảo này là người rất biết giữ chữ tờn chứ không phải như những kẻ khác đâu. Trương Giáo Chủ đừng có nghi ngờ gì nữa!

Vô Kỵ nghe nói nghĩ thầm:

– Vết thương của Triệu cô nương rất nặng, theo ta đi xa ngàn dặm như vậy khó mà lành mạnh được. Bây giờ đã gặp được anh nàng ở nơi đây, ta để cho nàng theo người anh về thì hơn. Tất nhiên nàng về tới Vương phủ thế nào chả có danh y cứu chữa cho, vậy còn hơn là bắt nàng đi theo mình như vậy hay sao!

Nghĩ đoạn chàng liền nói với Triệu Minh:

– Triệu cô nương, lệnh huynh định đón cô nương về đấy. Chúng ta chia tay ở đây vậy, cô nương chỉ cần cho tôi biết hiện giờ nghĩa phụ tôi ở đâu là tôi tự biết đi cứu ngay. Một ngày kia chúng ta sẽ tái ngộ với nhau!

Nói tới đây chàng cũng rầu rĩ thầm, biết rõ mình với nàng là người Hán Mông khác nhau, lại còn là quân với dân nữa. Hơn nữa hai bên đang có thù oán thì làm sao mà kết hợp với nhau được. Tuy vậy trước khi chia tay chàng cũng tỏ ra quyến luyến.

Không ngờ Triệu Minh nói ngay:

– Suốt dọc đường sở dĩ tôi không nói rõ Tạ đại hiệp hiện giở ở đâu cho đại ca hay là vì tôi có thâm ý riêng. Tôi chỉ nhận lời đưa đại ca đi tìm kiếm Tạ đại hiệp chứ tôi có nhận lời nói cho đại ca biết đâu!

Vô Kỵ nghe nói ngẩn người ra giây lát rồi đáp:

– Vết thương của cô nương rất nặng, cứ theo tôi đi đây đi đó như vậy, thật không tiện chút nào. Chi bằng cô nương hãy cùng lệnh huynh trở về kinh đô trước thì hơn!

Triệu Minh có vẻ ương ngạnh nói:

– Nếu đại ca bỏ rơi tôi thì đại ca không biết được chỗ Tạ đại hiệp đâu! Mấy ngày hôm nay tôi đã lành mạnh dần. Ði dường như vậy lại thấy khỏe hơn, nếu bây giờ bắt tôi trở về Vương phủ thì có lẽ tôi buồn đến chết mất.

Vô Kỵ liền nói với Vương Bảo Bảo:

– Tiểu Vương Gia làm ơn khuyên lệnh muội đi!

Vương Bảo Bảo nghe nói ngạc nhiên vô cùng nhưng y vẫn hiểu lầm và đáp:

– Hì, hì! Giả bộ đóng tuồng đóng kịch như thế làm chi? Giáo Chủ để bàn tay đè lên trên yếu huyệt em gái tôi, rồi dặn cô ta phải nói theo lời Giáo Chủ thì thế nào cô ta chả phải theo!

Vô Kỵ nhảy phắt lên, hạ chân xuống đất.

Hai người trong nhóm thần tiễn bát hùng lại tưởng chàng ra tay đánh lén Vương Bảo Bảo nên chúng liền buông tên chằm yếu huyệt lớn phía sau Vô Kỵ bắn tới.

Muốn biểu diễn tài ba cho đối phương xem, Vô Kỵ vội giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra, giơ tay trái lên hua một cái, hai mũi tên nọ quay đầu bắn trở lại hai tên đó ngay. chỉ nghe thấy hai tiếng “rắc rắc”, hai cái cung của chúng đã bị bắn gãy làm đôi. Nếu như hai tên đó không tránh nhanh thì đã bị thương nặng rồi. Hai mũi tên ấy bắn gãy hai chiếc cung rồi mà vẫn chưa hết đà còn bay ra ngoài xa, cắm xuống đất, đuôi tên còn rung động hoài.

Mọi người thấy rõ võ công của chàng lợi hại như vậy, ngoài Huyền Minh nhị lão ra, từ Vương Bảo Bảo trở xuống ai nấy đều biến sắc mặt.

Vô Kỵ đứng cách xa Triệu Minh nói tiếp:

– Triệu cô nương hãy về Vương phủ mà dừng thương đi, chúng ta sẽ tái ngộ một ngày gần đây!

Triệu Minh lắc đầu đáp:

– Các thày lang ở trong Vương phủ không cao minh bằng đại ca đâu! đại ca đã trót thì trét, xin chữa cho tiểu muội lành mạnh hẳn đi!

Vương Bảo Bảo thấy Vô Kỵ đã cách xa em gái mình rồi mà em mình vẫn một mực đòi theo y đi, trong lòng vừa kinh hãi vừa hoảng sợ liền nói với Huyền Minh nhị lão:

– Cảm phiền hai vị bảo hộ cho xá muội!

Huyền Minh nhị lão liền vâng lời, đi tới cạnh ngựa của Triệu Minh.

Triệu Minh lớn tiếng nói:

– Lộc, Hạc hai vị tiên sinh! Quả thực tôi có việc cần phải đi cùng Trương Giáo Chủ đang thấy thế cô sức yếu, vậy phiền hai vị đi cùng với chúng tôi một thể. Chẳng hay hai vị có vui lòng không?

Huyền Minh nhị lão đưa mắt nhìn Vương Bảo Bảo một cái và nói:

– Xưa nay ma đầu của Ma Giáo hành sự rất tà quái. Quận chúa nương nương không nên giao dịch với chúng như vậy. Nên theo Tiểu Vương Gia về Vương phủ là hơn.

Triệu Minh cau mày nói:

– Có phải bây giờ hai vị chỉ biết nghe lời anh tôi mà không nghe lời tôi phải không?

Lộc Trượng Khách gượng cười đáp:

– Sao Quận chúa lại nói thế! Tiểu Vương Gia có thương Quận chúa thì mới khuyên như vậy. Ðó là lời vàng ngọc đấy, mong Quận chúa đừng có hiểu lầm!

Triệu Minh dùng giọng mũi “hừ” một tiếng rồi nói với Vương Bảo Bảo:

– Ðại ca! Tôi đi lại trên giang hồ là được cha cho phép hẳn hoi, đại ca khỏi phải lo cho tôi. Tôi tự biết giữ lấy thân thể của mình, đại ca gặp cha làm ơn hỏi thăm giùm tôi.

Vương Bảo Bảo biết cha mình rất cưng cô em gái hắn. Sự thực y cũng không muốn bắt ép nàng như thế đâu, nhưng bây giờ thấy nàng một thân một mình đi theo Giáo Chủ Ma Giáo như thế dù sao y cũng không yên tâm. Nhưng y bỗng thấy nàng gượng quay đầu ngựa cho chạy về hướng tây, y vội giơ tay ra ngăn cản và nói:

– Hiền muội, cha sắp tới rồi đấy, cô hãy đợi chờ giây lát, thưa qua với cha rồi hãy đi cũng chưa muộn!

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Cha tới thì tôi không đi được nữa! Ðại ca, tôi không chen vào việc của đại ca thì đại ca cũng không nên lý đến việc của tôi làm chi!

Vương Bảo Bảo lại đưa mắt nhìn ngắm Vô Kỵ một hồi, thấy chàng rất anh tuấn và giọng nói của Triệu Minh lại có vẻ yêu thương Vô Kỵ lắm cho nên y nghĩ thầm:

– Minh Giáo nổi loạn tạo phản là những quân phản nghịch lớn nhất của triều đình. Ngờ đâu em gái mình lại bị tên ma đầu này mê hoặc. như vậy tai họa này lớn lắm.

Nghĩ tới đó, y liền giơ tay trái lên phất một cái, mồm thì quát lớn:

– Các người mau bắt lấy tên ma đầu này cho ta trước!

Lộc Trượng Khách múa lộc trượng, Hạt Bút Ông múa song bút hóa thành một đạo hào quang và hai luồng hắc khí chằm người Vô Kỵ chụp xuống. Công lực của Huyền Minh nhị lão thâm hậu hơn cả Hân Thiên Chính và Tạ Tốn. Huyền Minh nhị lão hợp sức tấn công, từ xưa tới nay ít khi có chuyện lạ như thế bao giờ.

Vô Kỵ không dám khinh thường, liền cẩn thận đối phó. Triệu Minh biết võ công của hai ông già đó rất lợi hại, còn võ công của Vô Kỵ tuy cao cường thực nhưng một địch hai lại tay không, chỉ sợ thua đối phương nên nàng lớn tiếng nói:

– Huyền Minh nhị lão, nếu đả thương Trương Giáo Chủ tôi sẽ thưa với cha, không tha thứ cho hai người đâu!

Vương Bảo Bảo nổi giận đáp:

– Loạn thần tặc tử, ai cũng có quyền giết hết. Huyền Minh nhị lão cứ việc giết tên ma đầu đó đi.

– Nếu giết được y, tôi với Lão Vương Gia thế nào cũng có trọng thưởng!

Nói tới đó, y ngừng giây lát rồi lại nói tiếp:

– Lộc tiên sinh, nếu thắng được tiểu ma đầu, Tiểu Vương Gia này còn biệt tặng thêm cho tiên sinh bốn mỹ nữ để tiên sinh được hài lòng.

Hai anh em một người ra lệnh giết, một người không cho phép đả thương kẻ địch khiến Huyền Minh nhị lão không biết sử trí như thế nào cho phải.

Lộc Trượng Khách liếc mắt ra hiệu cho sư đệ và khẽ nói:

– Chúng ta bắt sống!

Vô Kỵ đột nhiên giở võ công ghi trên thánh hỏa lệnh ra, chỉ thấy người chàng hơi nghiêng, cánh tay phải cong cong, dã ở vào một vị trí không thể tưởng tưởng được, quay người đánh tới Lộc Trượng Khách một cái tát cực mạnh, kêu đánh “bốp” một tiếng. Miệng chàng quát lớn:

– Ngươi cứ thử bắt xem!

Lộc Trượng Khách đột nhiên bị tát đến nổ đom đóm mắt như vậy, vừa kinh hãi vừa tức giận, nhưng du sao y cũng là danh thủ hạng nhất tâm thần không hề náo loạn tí nào. y liền múa tít ngay lộc trượng khiến Vô Kỵ không sao hạ nổi y.

Triệu Minh giơ roi ngựa lên quất một cái thúc ngựa chạy luôn.

Vương Bảo Bảo cũng múa roi ngựa đánh luôn một cái, cái roi của y đánh trúng ngay vào mắt con ngựa của Triệu Minh. Con ngựa đau đớn chịu không nổi, hờ lên một tiếng dài, đứng chồm lên hai chân. Bởi vết thương chưa khỏi hẳn Triệu Minh yếu ớt vô cùng nên suýt bị ngã ngựa. nàng tức giận vô cùng, vội hỏi:

– Có thực đại ca định ra tay ngăn cản tôi đấy không?

Vương Bảo Bảo đáp:

– Dù sao ngày hôm nay cô cũng phải ngoan ngoãn nghe lời anh, anh xin khất bữa khác xin lỗi cô em lại vậy!

– Ngày hôm nay, nếu đại ca còn cản tôi sẽ có một người chết oan liền. Trương Giáo Chủ từ nay trở đi sẽ ghét hận tôi. Em gái của đại ca sẽ… không thể nào sống sót được!

– Sao em lại nói năng như thế! Trong Vương phủ có rất nhiều cao thủ, họ có thể bảo vệ cô rất chu toàn. Ðừng nói tiểu ma vưng không đả thương được cô mà y muốn gặp cô cũng khó nốt.

– Tôi chỉ sợ không được gặp lại Trương Giáo Chủ thôi, nếu không được gặp tôi cũng không muốn sống nữa!

Người Mông Cổ rất thật thà, có gì nói nấy chứ không bao giờ dấu điếm cả. Thấy người anh cứ cản trở mình hoài Triệu Minh mới phải đem tâm sự của mình nói trắng ra anh ta hay.

Vương Bảo Bảo nghe xong càng tức giận thêm:

– Cô hồ đồ thực! Cô là vương tộc của người Mông, cành vàng lá ngọc như thế lấy làm sao được một tên dã man, một con chó bần tiện. Nếu chuyện này để cho cha biết, thế nào cha cũng tức chết được.

Nói xong, y giơ tay lên phất một cái liền có ba tay cao thủ khác tiến lên vây đánh Vô Kỵ.

Lúc ấy Vô Kỵ với Huyền Minh nhị lão đã cùng vận thần công ra đối địch. Sức mạnh của đôi bên sắc như đao kiếm, trong khoảng mấy trượng vuông đều bị chưởng phong của ba người bao trùm. Mấy tay cao thủ kia không sao xen vào đánh giúp được.

Triệu Minh liền lớn tiếng kêu gọi:

– Trương công tử muốn cứu được nghĩa phụ thì phải cứu tôi ra khỏi đây trước đã!

Vương Bảo Bảo thấy em mình cứ khăng khăng đòi theo kẻ địch như vậy, y chỉ sợ người cha hỏi tới, biết trả lời ra sao. Nên y vội vươn cánh tay ra định ôm luôn ngang lưng nàng đặt lên trên ngựa của mình rồi thúc ngựa chạy luôn.

Võ công của Triệu Minh vốn dĩ cao siêu hơn Vương Bảo Bảo nhiều nhưng bây giờ nàng bị thương nặng mới khỏi được phần nào, chân tay yếu ớt, không thể nào kháng cự được liền há mồm gọi to:

– Trương công tử cứu tôi, Trương công tử cứu tôi!

Vô Kỵ thấy vậy giở mười thành công lực đánh luôn hai chưởng đẩy Huyền Minh nhị lão bắn lui về phía sau ba bước rồi chàng giở khinh công tuyệt đỉnh ra, khẽ nhún mình một cái người đã tới phía sau ngựa của Vương Bảo Bảo liền.

Huyền Minh nhị lão với các tay cao thủ khác định đuổi theo quây lấy chàng đánh để cho Tiểu Vương Gia thoát thân, nhưng khi năm người đuổi kịp, chàng liền quay người lại đánh mấy chưởng. Mấy chưởng này đều thuộc trong pho Giáng Long Thập Bát Chưởng pháp. Tuy chàng học chưởng pháp này chưa tới chỗ tinh diệu nhưng có Cửu Dương Thần Công xen vào nên mỗi mộtả chưởng đánh ra Huyền Minh nhị lão đều phải tránh né tức thì chứ không dám giơ chưởng lên chống đỡ. Chàng tấn công luôn ba lần như thế đã đuổi tới sau ngựa của Vương Bảo Bảo rồi. Chàng tung mình nhảy lên trên không, giơ tay ra túm lấy cổ tên tiểu vưng gia đó, đồng thời ngấm ngầm sử dụng Cẩm Nã Huyệt Thủ Pháp nên Vương Bảo Bảo vừa bị chàng túm phải người đã mềm nhũn, phải buông Triệu Minh ra ngay. Chỉ thoáng cái, người của y đã bị Vô Kỵ ném về phía Lộc Trượng Khách liền.

Lộc Trượng Khách sợ y bị thương vội giơ tay ra đón đỡ.

Vô Kỵ liền ẳm Triệu Minh rời khỏi lưng ngựa chạy thẳng vào rừng ở bên trái đường tức thì.

Hạt Bút Ông với các tay cao thủ khác vừa kêu la vừa quát tháo đuổi theo luôn. Nhưng dường lối trong rừng đó vừa cao vừa khó đi. Nhị lão vốn sở trường về khinh công nhưng so với các tay ho thủ ở Trung Nguyên thì nhị lão còn kém những tay bậc nhất xa vì vậy bọn cao thủ cùng đuổi theo với nhị lão còn đi nhanh hơn.

Vô Kỵ nhặt luôn mấy hòn đá, quay lại ném vào bọn người đuổi theo. Có hai tên bị chàng ném trúng nơi hiểm yếu liền ngã xuống đất liền. Nhượng tên khác thấy vậy giật mình kinh hãi, tuy trước mặt Tiểu Vương Gia chúng không dám ngừng bước nhưng chúng cũng không dám theo sát Vô Kỵ như trước nữa mà dần dần hạ tốc độ.

Vương Bảo Bảo trông thấy Vô Kỵ ẳm Triệu Minh càng chạy càng xa không thể nào đuổi theo kịp được nữa liền lớn tiếng mắng chửi và quát bảo thủ hạ:

– Bắn tên! Bắn tên!…

Rồi chính y cũng dương cung bắn một phát vào phía sau lưng Vô Kỵ.

Tuy sức bắn của y rất mạnh nhưng vì Vô Kỵ đã đi quá xa nên mũi tên đó chỉ cách chàng hơn trượng đã rơi xuống đất rồi.

Triệu Minh ôm chặt lấy cổ Vô Kỵ biết bọn người kia không thể nào đuổi kịp được nữa. Lúc này nàng mới thấy yên và nói với Vô Kỵ:

– Cũng may tôi biết trước nên không nói cho đại ca biết chỗ của Tạ đại hiệp ở đâu, bằng không thì tiểu ma đầu vô lương tâm này đâu có khi nào chịu ra tay cứu tôi như thế này!

Vô Kỵ đi vòng qua một cái eo núi, chân chàng không ngừng bước vừa cười vừa hỏi:

– Cô nói cho tôi rồi cô về Vương phủ dưỡng thương có phải là tốt đẹp biết bao nhiêu không, hà tất phải mất lòng người anh đi theo tôi để phải chịu khổ sở như thế này!

– Tôi đã sớm quyết trí đi theo đại ca chịu khổ rồi thì dù sớm hay muộn thế nào tôi cũng làm phiền lòng anh tôi. Tôi chỉ sợ đại ca không cho phép tôi thôi, chứ đại ca bằng lòng thì dù khổ đến đâu tôi cũng chịu đựng được.

Vô Kỵ biết rằng nàng ta rất thương yêu mình, nhưng chàng thường nghĩ chẳng qua đó chỉ là mối tình ưa thích nhất thời thôi chứ chàng có ngờ đâu Triệu Minh lại coi rẻ phú quý vinh hoa đến thế.

Nàng không cho mình là một Quận chúa cao quý mà chịu đi theo chàng, tình nguyện cam khổ như vậy thật là hiếm có.

Nghĩ vậy chàng liền cúi đầu xuống khẽ hôn nàng một cái.

Triệu Minh đỏ bừng mặt, cảm động đến ngất đi luôn.

Vô Kỵ là người giỏi về y học biết nàng không bị sao, trong lòng lại càng cảm động thêm. đột nhiên chàng sực nghĩ:

– Chu Chỉ Nhược đối đãi với ta tử tế bằng nàng sao.

Hồi thứ 88

O Bế Người Yêu

Triệu Minh chết giấc một hồi rồi tỉnh lại, trông thấy Vô Kỵ hình như đang suy nghĩ chuyện gì liền lên tiếng hỏi:

– Ðại ca nghĩ gì thế? Có phải đang nghĩ đến Chu cô nương đấy không?

Vô Kỵ gật đầu đáp:

– Tôi nghĩ tôi cũng có nhiều cái không nên không phải với nàng ta, phụ lòng nàng ta lắm!

– Thế đại ca có ăn năn hối hặn gì không?

– Khi tôi làm lễ tơ hồng với nàng, nghĩ đến cô nương đau lòng ghê lắm , bây giờ cô ở trong lòng tôi thì tôi lại nghĩ tới nàng ta cho nên lương tâm mới bị cắn rứt như vậy!

– Theo lời nói của đại ca thì đại ca yêu tôi hơn phải không?

– Nói thực cho nàng biết, với cô tôi vừa yêu vừa hận, với Chu Chỉ Nhược tôi vừa kính trọng vừa sợ hãi.

– Ha!Ha! Tôi đành để cho đại ca đối với tôi vừa yêu vừa sợ còn đối với nàng kia thì đại ca vừa yêu vừa hận.

– Bây giờ khác hẳn, tôi đối với cô nương vừa hận vừa sợ. Hận là vì cô đã chia cắt mối lương duyên mỹ mãn của tôi, sợ là sợ cô không chịu thường lại cho tôi!

– Thường cái gì?

– Ngày hôm nay cô phải hứa lấy tôi để thường lại buổi động phòng hoa chúc đó!

Triệu Minh đỏ bừng mặt lên và đáp:

– Không! Không! Việc này phải nói với cha tôi trước đã… và phải đợi tôi xin lỗi anh tôi để nhờ anh ấy nói giúp, như vậy… như vậy mới…

– Nếu cha cô nhất định không chịu nghe thì sao?

– Lúc ấy tôi đành phải theo tên tiểu ma đầu làm tiểu ma bà chứ sao!

Vô Kỵ vênh mặt quát lớn:

– Yêu phụ to gan thật! Dám theo dâm tặc Trương Vô Kỵ này tạo phản làm loạn như vậy đáng chịu tội gì!

Triệu Minh cũng vênh mặt lên đáp:

– Tội này đáng phạt hai người ở trên đời làm một đôi vợ chồng sung sướng cho đến bách niên giai lão, sau khi chết xuống âm ty phải giam vào mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp cũng không được đầu thai!

Hai người nói đến đây cùng ha hảả cười thì bỗng nhiên nghe phía đằng trước có tiếng người nói:

– Thưa Quận chúa nương nương, tiểu tăng đã đợi chờ ở đây từ lâu.

Tiếng nói của người đó rất thanh thoát và lớn đến nỗi rung động cả khoảng núi rừng đó. Hiển nhiên nội công của y thâm hậu vô cùng.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi ngừng bước lại. Thấy sau khoảng núi có ba tên phiên tăng bước ra, một người mặc áo đỏ, một người mặc áo vàng, còn người thứ ba rất nhỏ bé mặc áo vàng kim.

Phiên tăng mặc áo đỏ chắp hai tay vái lạy chào hỏi:

– Tiểu tăng thừa lệnh Vương Gia đến đây nghênh đón Quận chúa về phủ!

Triệu Minh không nhận ra được ba tên phiên tăng đó, tỏ vẻ ngơ ngác vội hỏi:

– Ba vị ở đâu tới, sao tôi chưa gặp ba vị bao giờ thế?

Phiên tăng áo đỏ liền đáp:

– Tiểu tăng tên Mã Hãn Pháp.

Y chỉ phiên tăng áo vàng kim nói:

– Vị này là Khấu Tôn Giả , sư bá của tiểu tăng.

Y lại chỉ phiên tăng áo vàng giới thiệu tiếp:

– Vị này là Mã Hãn Thành, sư huynh của tiểu tăng. Ba chúng tôi vừa ở Tây Thiên Trúc tới vào giúp việc trong Nhữ Vương Vương phủ, nhưng lại gặp lúc Quận chúa đi vắng nên bây giờ mới được bái kiến Quận chúa là thế.

Nói xong, cả ba người đều chắp tay vái chào nàng.

Vô Kỵ vội cau mày nghĩ ngợi:

– Công lực của người mặc áo đỏ này đã có tiếng là lợi hại rồi, nay lại có thêm sư huynh và sư bá của y nữa. Ta địch với ba người chưa chăc đã nổi mà lại phải ãm thêm một người như thế này!

Triệu Minh liền lên tiếng hỏi ba tên phiên tăng kia rằng:

– Các người đợi chờ ở đây làm chi?

Mã Hãn Thành không nói năng chi cả, chỉ giơ một con chim bồ câu trắng ở trên tay lên. Triệu Minh biết đây là huynh trưởng mình đã dùng bồ câu để báo tin cho cha mình hay. bây giờ nàng bị ba người này đón bắt chắc tất cả những cao nhân thủ hạ của cha nàng đã được lệnh xuất binh, đi khắp nơi để đón bắt nàng về chứ không riêng gì ba phiên tăng này đâu.

Nàng quay mặt lại, thấy Vô Kỵ có vẻ lo âu liền rỉ tai chàng khẽ nói:

– Ba hòa thượng này khó đối phó lắm phải không?

Vô Kỵ gật đầu.

Ngẫm nghĩ giây lát Triệu Minh đã nghĩ ra được một kế, liền rỉ tai Vô Kỵ:

– Bây giờ để tôi nói rõ chỗ của Tạ đại hiệp cho đại ca nghe, nhưng sau này đại ca có phụ tôi hay không tùy ở lương tâm của đại ca!

Vì nàng nghĩ nên để Vô Kỵ một mình thoát thân thì dễ như trở bàn tay. Nàng không thể vì mối tình riêng mà làm lụy đến Tạ Tốn được.

Nhưng lúc này Vô Kỵ lại không nỡ chia tay với nàng nên chàng đáp:

– Hiền muội khỏi lo âu, chúng ta cứ xông qua nơi đây đã rồi hãy tính toán sau!

Chàng thấy đường đất rất chật hẹp, bên trái là vực sâu thăm thẳm còn bên phải là núi cao chót vót chỉ có một cách là xông qua ba tên phiên tăng này mới mong đi thoát được.

Chàng đang suy nghĩ thì nghe Mã Hãn Pháp lên tiếng nói:

– Quận chúa đang bị thương Vương Gia lo âu lắm có dặn tiểu tăng đến đây nghênh giá Quận chúa về!

Y tuy là người của Thiên Trúc nhưng hán ngữ nói rất thành thụ cả, còn Khấu Tôn Giả và Mã Hãn Thành thì không nói nữa.

Khấu Tôn Giả mồm nhọn, má hóp, cúi đầu nhắm mắt tựa như đang nhập định vậy. Còn Mã Hãn Thành thì ừn ngự cả, phình bụng trông rất hùng tráng.

Triệu Minh liền hỏi tiếp:

– Hiện giờ cha tôi ở đâu?

Mã Hãn Pháp đáp:

– Vương Gia hiện đang ở dưới núi đứng chờ và chỉ muốn được trông thấy vết thương của cô con gái cưng ra sao.

Triệu Minh vừa cười vừa nói tiếp:

– Tiếng Hán của ngươi khá lắm. Thôi được, Trương công tử chúng ta đi thôi!

Nàng đang định đi theo chúng rồi trên đường đến một chỗ nào thuận tiện sẽ tìm dường đào tẩu.

Trên đường núi chật hẹp như thế này thì quả thật Vô Kỵ không sao thi thố tài năng được. Ngờ đâu Mã Hãn Pháp đã lấy một cái túi vi ở trên vai xuống, tung ra trước gió một cái. Túi đó đã biến thành một cái vòng, y cầm một đầu còn một đầu do Mã Hãn Thành cầm.

Mã Hãn Pháp cung kính nói với Triệu Minh:

– Mời Quận chúa ngồi kiệu!

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Tôi không ưa ngồi kiệu đâu! Tôi chỉ thích Trương công tử ẳm thôi!

Vô Kỵ biết nói “nhiều sự bại sư” liền lớn tiếng đi thẳng luôn về phía trước.

Ba tên này đã nhận được lệnh qua chim câu truyền tin nên chúng biết rằng Vô Kỵ là một kinh hoàng địch rất lợi hại.

Mã Hãn Thành liền dùng khủyu tay thúc luôn vào ngực Vô Kỵ.

Vô Kỵ vội tung mình nhảy qua đầu của Khấu Tôn Giả. Nhưng chàng cảm thấy có một luồng gió lạnh tấn công vào hạ bộ mình.

Chàng vội giơ tay trái ra, bổ xuống để đấu chưởng với Khấu Tôn Giả. Chàng bổng cảm thấy hơi lạnh thoắt biến thành hơi nóng hổi. Thì ra chưởng phoảng của Khấu Tôn Giả chỉ trong thoáng cái đã biến đổi, đang âm thành dương liền, thật là kỳ ảo khôn lường. chưởng pháp cao như thế này ở Trung Thổ chưa có ai luyện được như thế.

Vô Kỵ luyện được Cửu Dương Thần Công cũng là do Ðạt Ma Sư Tổ ở Thiên Trúc truyền tới. Chàng nghe thấy Mã Hãn Pháp nói là từ Thiên Trúc tới trong lòng đã hơi khiếp sợ không dám khinh thường nên chưởng này chàng đã sử dụng tới tám thành công lực.

Khấu Tôn Giả bỗng kêu “hự” một tiếng rồi lui phía sau ba bước.

Vô Kỵ liền mượn chưởng lực của y mà bắn mình xuống núi cách chỗ phiên tăng chừng bảy tám trượng. Chàng vẫn ẳm Triệu Minh cắm đầu chạy thẳng về phía trước. Sau khi đối chưởng với nhau rồi, chàng đã biết công lực của Khấu Tôn Giả còn kém mình một mức. Chưởng pháp của đối phương tuy kỳ diệu nhưng vẫn thua Càn Không Ðại Nã Di của mình. Chàng nhận thấy nếu đấu thật sự thì mình vẫn có thể thắng đối phương. Chàng vừa đi vừa nghe thấy tiếng kêu gọi xì xà xì xồ của ba tên phiên tăng.

Chàng đoán chắc chúng vẫn đuổi theo ở phía sau và khinh công của chúng cũng lợi hại lắm nên chúng mới đuổi được sát như vậy. Nhưng nội lực của Vô Kỵ rất hùng mạnh, tuy ẳm Triệu Minh trong lòng mà chân chàng vẫn đi nhanh khôn. Không bao lâu, chàng đã bỏ xa ba tên phiên tăng liền. Chàng thấy chúng không đuổi kịp được nữa đang định đường ngang lối tắt để tránh né thì bỗng nghe thấy tiếng tù và thổi “tu tu”. Có hơn ba mươi tên lính Mông Cổ tay cầm cung tên đứng chắn ở phía trước mặt đang chạy tới cản đường. Hai bên sườn núi cũng đột nhiên có rất nhiều quan binh Mông Cổ xuất hiện lăn gỗ đá xuống tấn công. Tuy vậy chúng vẫn không dám đả thương Triệu Minh. Chúng chỉ mong làm sao cản được hai người nên tên nỏ, gỗ đá chỉ lăn và bắn xuống ở phía xa chứ không đụng chạm vào người Vô Kỵ.

Vô Kỵ thấy đường phía trước mặt không đi được, vội chạy thẳng lên trên sườn núi ở phía bên trái thì lại nghe thấy tiếng thanh la kêu ” coòng coòng”.

Cờ đỏ ở trên đỉnh núi bay phấp phới và ở đó cả một bầy cung thủ đứng dàn hàng ngang đợi sẳn. Thì ra bốn mặt đều có phục binh, chàng đã bị bao vây ở giữa. Nếu chỉ có mình chàng thì chàng có thể mạo hiểm xông pha thoát khỏi được, nhưng vì còn phải aÜm Triệu Minh dù sao chân tay cũng không được lanh lợi, nhỡ nàng trúng phải một mũi tên hay một viên đạn vào nơi yếu huyệt thì có phải là ôm hận suốt đời không? Chàng suy nghĩ giây lát rồi quyết tâm chạy ngược trở lại. Ði được nửa dặm đã thấy ba tên phiên tăng đang phải thân tới.

Chàng đặt Triệu Minh xuống đất quát lớn:

– Muốn sống thì tránh đường, bằng không chớ trách ta ra tay vô tình!

Khấu Tôn Giả tiến lên một bước giơ song chưởng lên dùng thế Bải Sơn chưởng đẩy tới. Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Ðến nước này phải lấy mạnh chế yếu. Dù ta có đẩy chúng rớt xuống vực cũng đành chứ biết làm sao bây giờ !

Nghĩ đoạn, chàng liền giơ tả chưởng lên đẩy một cái đẩy sức mạnh của đối phương bắn trở lại.

Khấu Tôn Giả liền la lớn:

– A mễ! A mễ hông!

Hình như y niệm thần chú hoặc mắng chửi.

Triệu Minh không chịu được cũng la lớn:

– Mi mới là a mễ, a mễ hông!

Khấu Tôn Giả loạng choạng lùi về phía sau ba bước.

Mã Hãn Thành và Mã Hãn Pháp hai tên phiên tăng giơ chưởng lên dí vào lưng của Khấu Tôn Giả để đẩy y trở lại.

Khấu Tôn Giả vẫn dùng chưởng thức cũ lại đẩy một thế Bãi Sơn chưởng tới.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Ngày hôm nay ta đem Triệu Minh vượt qua khỏi vòng vây còn phải dùng sức ở nhiều ni. Ta hà tất phải thi sức với chúng ở đây cho tổn chân lực làm gì.

Nghĩ đoạn, chàng lại dùng Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra để làm mất sức đối phương. Không ngờ ngón tay của chàng vừa đụng vào chưởng của đối phương đã thấy tay của đối phương hút chặt tay mình như nam châm hút sắt vậy.

Khấu Tôn Giả lại la lớn:

– A mễ! A mễ hông!

Vô Kỵ dằn tay hai lần mà không sao thoat đành phải dùng Cửu Dương Thần Công phản kích lại.

Chàng không sao đẩy được Khấu Tôn Giả mà đã thấy Mã Hãn Thành và Mã Hãn Pháp hai người dùng cả hai tay đẩy vào lưng Khấu Tôn Giả.

Ba tên phiên tăng lồng lộn, sáu con mắt tròn xoe như đổ lửa, trông mặt mũi chúng rất dữ tợn.

Vô Kỵ sực nghĩ:

– Ta nghe Thái sư phụ nói võ công của Thiên Trúc có một thứ gọi là Binh Thể vận công, dùng sức của nhiều người để đối phó với một người. Ba tên này ắt dùng thứ công này để đối phó với chưởng của ta, như vậy phen này không dễ gì thắng chúng đâu.

Chàng chỉ sợ quân đuổi theo lại tới nơi cho nên phải tốc chiến tốc thắng chứ không dám đấu lâu với chúng. Chàng liền rú lên một tiếng tăng thêm một thành công lực vào hai tay. Ba tên phiên tăng liền toát mồ hôi ngay. Trên đầu chúng có một làn khói trắng bốc lên rồi đột nhiên Mã Hãn Pháp phun luôn một dòng máu tươi.

Lạ thực, y đã phun máu như thế tất nhiên đã bị nội thương rất nặng nhưng Vô Kỵ lại thấy sức của đối phương còn mạnh hơn trước một thành.

Chàng liền dồn chân khí trong người sang mạnh hơn nữa.

Mã Hãn Thành mặt đỏ bừng phun luôn một tia máu. Dòng máu của y phun trúng ngay cổ tên Khấu Tôn Giả và sức của chúng lại càng mạnh hơn trước nhiều.

Vô Kỵ phải lùi về phía sau hai bước để gim bớt năm thành công lực của đối phương rồi mới vận sức phản công lại.

Ba tên phiên tăng cảm thấy chống đỡ không nổi. Mã Hãn Thành và Mã Hãn Pháp mình mẩy bắt đầu lắc lư, suýt tý nữa thì ngã.

Khấu Tôn Giả lại phun ra một tia máu bắn thẳng vào mặt Vô Kỵ.

Vô Kỵ vội né tránh, ngực chàng liền bị chưởng lực của đối phương đè tới. Chàng cảm thấy như bị một cái búa lớn, nặng vạn cân đánh trúng ngự cả, thấy khí huyết ở đơn điền rạo rực lên và hình như cũng muốn phun máu ra cho dễ chịu. Chàng không ngờ nội lực của ba tên phiên tăng này lại quái dở đến thế. Cứ phun một tia máu ra thì sức lực lại tăng mạnh lên một thành. Nhưng chàng trông thần sắc của chúng, biết sức lực của cũng chúng sắp kiệt đến nơi mình chỉ cần chịu đựng thêm giây lát nữa thì chúng tất sẽ thua liền. Chàng liền định thần, vận Cửu Dương Thần Công ra liền nghe thấy “bộp” một tiếng. Mã Hãn Pháp đã phải quỳ một chân xuống đất nhưng chưởng của y vẫn không rời khỏi lưng Khấu tôn Giả.

Vô Kỵ đang mừng rỡ bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chân người lẹ làng bước tới và có một người giơ chưởng đánh tới phía sau lưng chàng.

Chàng giật mình kinh hãi, vội đưa tả chưởng đánh luôn về phía sau định hóa giải chưởng lực của địch.

Không ngờ Càn Không Ðại Nã Di tâm pháp của chàng lấy Cửu Dương Thần Công làm căn bản mà lúc này chàng đang phải dốc toàn lực ra đối phó với ba tên phiên tăng ở phía trước nên chỉ còn đánh ra được hai thành công lực để dối phó với kẻ địch đánh lén tới phía sau.

Chàng liền cảm thấy có một luồng hơi lạnh truyền qua bàn tay chạy thẳng sang. Nửa người trên của chàng liền run lẩy bẩy. Chàng biết đồng thời không sao chống đỡ nổi bốn tên cao thủ tấn công từ hai mặt cùng một lúc được nên thân hình chàng lảo đảo một cái đã ngã gục xuống.

Triệu Minh thấy vậy thất kinh la lớn:

– Lộc tiên sinh hãy ngừng tay!

Thì ra người tấn công lén Trương Vô Kỵ ở phía sau chính là Lộc Trượng Khách. Y đã dùng Huyền Minh Thần Chưởng đánh lén chàng.

Triệu Minh liền nhảy sổ tới lấy thân hình che cho Vô Kỵ và quát lớn:

– Ai dám ra tay nữa nào!

Lộc Trượng Khách đang định bồi thêm một chưởng kết liễu luôn tính mạng của kẻ địch số một của đời mình thì y thấy Quận chúa đứng ra ngăn cản đành phải ngừng tay ngay. Y liền rú một tiếng thật dài tỏ vẻ đã đắc thắng đồng thời gọi đồng bọn tới.

Rú xong y quay lại nói với Triệu Minh rằng:

– Quận chúa nương nương, Vương Gia chỉ mong nương nương về phủ chứ không có gì khác. người này là phản tặc đại nghịch bất đạo, Quận chúa hà tất phải không bế y như thế làm chi!

Triệu Minh định mắng cho Lộc Trượng Khách một lời nhưng nàng sợ mắng như thế sẽ làm cho y tức giận thì Vô Kỵ càng bị nguy hiểm thêm nên nàng đành phải nhởn mà đỡ Vô Kỵ dậy.

Một lát sau tiếng chuông ngựa đang vang tới và có ba người phải thẳng tới.

Ba người đó là Hạt Bút Ông và cha con Nhữ Dương Vương.

Nhữ Dương Vương cau mày lại hỏi:

– Triệu Minh, sao con lại không chịu nghe lời anh con, cứ ở đây quấy rối như thế làm chi!

Triệu Minh ứa nước mắt ra đáp:

– Cha sai người bắt nạt con như thế này sao?

Nhữ Dương Vương tiến lên mấy bước giơ tay ra định kéo nàng, nàng đã nhanh tay rút luôn một con dao găm ở trong lòng ra dí ngay lên ngực mình và nói tiếp:

– Nếu cha không cho phép con thì ngày hôm nay con xin chết ở trước mặt cha liền!

Nhữ Dương Vương hoảng sợ lui về phía sau vài bước và hỏi tiếp:

– Có chuyện gì con cứ nói, hà tất phải làm như thế!

Triệu Minh giơ tay lên cởi miếng vi băng bó trên vai lộ ra ngay nắm cái lỗ sâu hoắm bị ngón tay đâm thủng. Lúc ấy độc đã hết nhưng vết thương chưa lành, máu mủ vẫn còn bê bết nên trông rất kinh hoảng khủng.

Nhữ Dương Vương thấy con mình bị thương nặng như vậy đau lòng và thương con vô cùng liền hỏi:

– Tại sao thế? Tại sao thế? Sao con lại bị thương nặng như vậy?

Triệu Minh liền chỉ ngay Lộc Trượng Khách và nói:

– Người này lập tâm bất lương định hãm hiếp con. Con thà chết không chịu y… liền chộp hai vai con như thế. Xin cha bênh vực cho con!

Lộc Trượng Khách hoảng sợ đến mất mật vội cãi:

– Tiểu nhân dù táo gan đến đâu cũng không dám làm… làm gì có việc ấy!

Nhữ Dương Vương trợn trừng mắt lên dùng giọng mũi “hừ” một tiếng rồi quát lớn mắng:

– Mi táo gan thực! Câu chuyện Hàn Cơ ta đã khoan hồng không tra cứu rồi, bây giờ lại dám xúc phạm đến cả con gái ta nữa. Quân bay đâu bắt lấy nó!

Lúc ấy các võ sĩ tùy tòng của Nhữ Dương Vương đã đến đủ, nghe thấy Vương Gia quát bảo bắt lấy Lộc Trượng Khách, dù chúng biết Lộc Trượng Khách rất lợi hại nhưng cũng có đến bốn người tiến tới gần phạm nhân.

Lộc Trượng Khách vừa kinh hãi vừa tức giận nghĩ thầm:

– Dù sao cha con họ cũng thương nhau hơn. Quận chúa tức giận ta như vậy mà cổ nhân đã dạy: ” Sơ bất gián thân”.

Thêm nàng lại là người đa mưu lắm kế, ta cãi làm sao nổi”.

Y liền phất chưởng một cái đẩy lui ngay bốn tên võ sĩ rồi thở dài nói:

– Sư đệ! Chúng ta đi thôi!

Hạt Bút Ông còn đang chần chừ thì Triệu Minh đã lên tiếng nói tiếp:

– Hạt tiên sinh là người tốt, không phải là người hiếu sắc như sư huynh của tiên sinh. Tiên sinh mau mau bắt sư huynh rồi cha tôi sẽ thăng quan cho tiên sinh và còn trọng thưởng nữa!

Huyền Minh nhị lão võ công trác tuyệt nhưng chỉ vì ham công danh mà đem thân là cao thủ thượng thặng như thế vào trong phủ làm tôi đòi cho người sai khiến. Hạt Bút Ông vẫn biết sư huynh mình là kẻ hiếu sắc ham dâm, khi nghe Triệu Minh nói như thế trong lòng y cũng đã tin tới bẩy tám phần. Ðồng thời hai chữ quan lộc càng làm động lòng y. Nhưng y với Lộc Trượng Khách là anh em đồng môn, xưa nay rất thân nhau nên nhất thời y không dám ra tay vội.

Lộc Trượng Khách thấy vậy vẻ mặt rầu rĩ run run nói:

– Sư đệ muốn thăng quan phát tài thì cứ việc đến đây bắt ta đi!

Hạt Bút Ông thở dài đáp:

– Sư ca! Chúng ta đi thôi!

Thế rồi y cùng Lộc Trượng Khách sát cánh đi luôn.

Huyền Minh nhị lão oai trấn kinh sư, các võ sĩ trong Nhữ Vương phủ coi chúng như người trời vậy nên không ai dám ngăn cản chúng hết.

Dù Nhữ Dương Vương có quát tháo luôn mồm các võ sĩ của y chỉ giơ bộ giơ tịch đuổi vờ thôi. Nhờ vậy Huyền Minh nhị lão mới ung dung đi xuống núi.

Nhữ Dương Vương lại nói với Triệu Minh:

– Minh Minh, con đã bị thương rất nặng nên theo cha về phủ điều trị đi!

Triệu Minh chỉ Vô Kỵ rồi đáp:

– Trương công tử thấy Lộc Trượng Khách hà hiếp con liền ra tay cứu giúp. Ðại ca không hiểu gì cả lại bảo Trương công tử là phản tặc làm loạn. Thưa cha, con đang có một việc đang cùng Trương công tử làm, khi nào xong con sẽ cùng Trương công tử tới gặp cha!

Nhữ Dương Vương nghe lời con gái biết nàng quyết định lấy Trương Vô Kỵ, nhưng theo lời Vương Bảo Bảo thì biết Vô Kỵ là Giáo Chủ Ma Giáo. Lần này Nhữ Dương Vương rời khỏi kinh đô xuống miền nam để điều binh khiển tướng đối phó với Ma Giáo phản tặc ở hòai Tử và Giang Nam. Như vậy khi nào y chịu để con gái theo Vô Kỵ đi. Vì vậy y lại hỏi tiếp:

– Theo lời anh con nói người này là Giáo Chủ của Ma Giáo, có thực vậy không!?

Triệu Minh đáp:

– Ðại ca cứ hay nói bậy! Cha thử xem, Trương công tử bấy nhiêu tuổi đầu thì làm sao làm thủ lãnh của bọn phản tặc cho được!

Nhữ Dương Vương thấy Vô Kỵ tuổi chỉ độ hai mươi, hai mốt, sau khi bị thương sắc mặt lại càng tiều tụy thêm mất cả vẻ anh tuấn. Trông chàng không có vẻ gì của một đại cao thủ có thể thống lãnh mấy trăm ngàn quân. Nhưng xưa nay y vẫn biết con gái mình gio hoạt đa mưu túc kế, lại nghĩ Ma Giáo làm hại dân hại nước nên dù người này không phải là Giáo Chủ Ma Giáo chăng nữa y cũng phải là một nhân vật trọng yếu trong Ma Giáo không thể buông tha được nên y liền nói tiếp:

– Hãy đưa y vào trong thành dò hỏi kỹ lừng đã! Nếu quả thực y không phải là người của Ma Giáo ta sẽ thăng thưởng liền!

Y nói như vậy là đã nể con gái lắm, và cũng không muốn để con gái làm nũng trước mặt mọi người.

Bốn tên võ sĩ vâng lời liền đi tới gần thì Triệu Minh đã lớn tiếng khóc lóc và hỏi lại rằng:

– Có thực cha muốn con chết ngay tại chỗ không?

Nàng nói xong, lại đưa dao găm lên, đâm luôn vào giữa ngực nửa tấc , máu tuôn ra, nhuộm đỏ cả vạt áo nàng.

Nhữ Dương Vương kinh hãi vội nói:

– Minh Minh, con chớ làm như thế!

Triệu Minh vừa khóc vừa đáp:

– Thưa cha, con gái bất hiếu của cha đã ngấm ngầm kết thành vợ chồng với Trương công tử rồi.

Hiện giờ trong bụng con đã có máu thịt của anh ấy, nếu cha định giết chết anh ấy thì chi bằng con chết trước là hơn!

Nàng vừa nói xong không riêng gì Nhữ Dương Vương và cả Vương Bảo Bảo giật mình kinh hãi mà cả Vô Kỵ cũng ngạc nhiên vô cùng. Tuy chàng biết nàng cố hết sức che chở cho mình nhưng chàng cũng không ngờ nàng lại đặt điều nói dối cha và anh như thế. Nhữ Dương Vương nghe nàng nói như vậy dậm chân xuống đất hỏi lại:

– Con nói thực hay là nói chơi?

Triệu Minh liền trả lời:

– Chuyện xấu hổ như vậy, nếu không phải là sự thực con đâu dám thốt ra trước mặt mọi người như thế, không những con bị người ta khinh thở mà còn làm nhục cả cha anh nữa. Thôi bây giờ cha cũng coi như không có đứa con gái này mà tha cho con, để chúng con ra đi!

Nhữ Dương Vương hai tay cứ rứt râu liên tục, mồ hôi lạnh ở trên trán toát ra như tắm. Y điều binh khiển tướng phá địch chỉ quyết định bằng một lời thôi. Nhưng ngày hôm nay gặp phải chuyện rắc rối của con gái cưng y đành thúc thủ, không biết sử trí ra sao cho phải.

Vương Bảo Bảo thấy vậy vội xen lời nói:

– Em với Trương công tử đều bị thương, bây giờ hãy theo cha về cho danh y chạy chữa trước rồi cha sẽ đứng ra chủ hôn cho hai người, danh chính ngôn thuận. Cha cũng được một người con rể anh hùng, như vậy chẳng hay hơn sao?

Lời của Bảo Bảo rất có lý, nhưng Triệu Minh biết ngay đó chỉ là kế hoãn binh. Nếu Vô Kỵ lọt vào tay cha anh mình rồi thì chàng thế nào cũng mất mạng ngay. Chưa biết chừng chàng còn bị đưa lên đại đô chém đầu để thở chúng nữa nên nàng vội nói:

– Thưa cha, chuyện đã xẩy ra như vậy, tục ngữ có câu “Thuyền theo lái, gái theo chồng” dù có sống hay chết con cũng phải mang Trương công tử đi. Cha với anh có mưu kế gì cũng không dấu được con đâu. Bây giờ chỉ có hai đường, nếu cha tha chết cho chúng con thì từ nay đừng nghĩ đến con và tha cho vợ chồng con đi ngay, bằng không cha muốn giết cũng dễ lắm!

Nhữ Dương Vương nổi giận nói tiếp:

– Minh Minh, con hãy nghĩ kỹ lại! Con theo phản tặc này đi thì từ nay không còn là con của cha nữa!

Triệu Minh khó sử vô cùng, sự thật nàng cũng không muốn bỏ gia đình và nghĩ cha anh mình thế nào trong lòng cũng đau như cắt nhưng nàng chỉ chần chừ một lát là Vô Kỵ sẽ mất mạng ngay.

Bây giờ chỉ có cách là cứu mạng người yêu ra khỏi chốn này cả, sau này sẽ xin cha và anh lượng thứ cho vậy.

Vì vậy nàng liền nói với Nhữ Dương Vưng:

– Thưa cha và thưa đại ca, tất cả mọi việc đều do Minh Minh không nên không phải hết. Cha và đại ca… tha thứ cho…

Nhữ Dương Vương thấy con mình cương quyết như vậy mới hối hận ngày trước quá nuông chiều con để cho nàng đi lại giang hồ nên mới xy ra những việc vô số này. Y biết tính Triệu Minh bướng bỉnh quen rồi, hễ đè nén quá thì nàng sẽ tự tử liền nên y thị dài một tiếng, rỏ nước mắt nói tiếp:

– Minh Minh, nên giữ gìn lấy thân thể, cha đi đây… Việc gì con cũng phải cẩn thận mới được!

Triệu Minh gạt nước mắt, gật đầu, không dám ngửng đầu lên nhìn cha nữa.

Nhữ Dương Vương quay mình lại từ từ đi khỏi.

Tả hữu liền dắt ngựa tới cho cưỡi nhưng y như không thấy gì và cũng không lên ngựa nốt.

Y đi được mấy trượng thì đột nhiên quay lại hỏi tiếp:

– Minh.Minh, vết thương của con có sao không, trong người có mang theo tiền bạc gì không?

Triệu Minh ngậm lệ gật đầu.

Nhữ Dương Vương liền bảo tả hữu:

– Ðưa hai con ngựa của ta cho Quận chúa!

Tả hữu vệ sĩ vội dắt hai con ngựa đến cho Triệu Minh rồi chúng bảo vệ cho Nhữ Dương Vương xuống núi luôn.

Còn Khấu Tôn Giả cùng hai vị Thiên Trúc phiên tăng thì uể oi ngồi phịch xuống đất, không sao đứng lên được cho nên sáu tên.võ sĩ phải hai người dìu một, đưa ba người theo Nhữ Dương Vương xuống núi.

Một lát sau, mọi người đã đi khuất hẳn, trên đường núi chỉ còn lại hai người.

Vô Kỵ liền ngồi xếp bằng tròn xuống, vận thần công để đẩy hơi hàn khí độc do Lộc Trượng Khách đánh trúng hồi nãy trong người ra.

Sở dĩ chàng bị thương nặng như vậy là vì trong lúc đấu với ba phiên tăng, không để phía sau mới bị Lộc Trượng Khách đánh trộm. Chàng vận Cửu Dương chân khi vận chuyển khắp người ba lần, thổ ra một đống huyết bầm mới thấy dễ chịu.

Chàng thấy Triệu Minh lo âu liền khẽ bảo:

– Triệu cô nương, cô đã chịu khổ cực với tôi lắm!

Triệu Minh đáp:

– Nơi đây chỉ còn có đại ca với tôi thôi, vậy đại ca còn gọi tôi là Triệu cô nương làm chi? Tôi không phải là người của triều đình nữa và cũng không phải là Quận chúa rồi. Ðại ca… trong thâm tâm của đại ca có còn coi tôi là yêu nữ nữa không?

Vô Kỵ từ từ hỏi tiếp:

– Tôi lại hỏi cô nương một câu này, cô nương phải nói thực cho tôi biết, tiểu muội của tôi là Hân Ly bị ai lấy kiếm rạch mặt như thế? Có phải cô đã ra tay hạ độc thủ như vậy không?

Triệu Minh đáp:

– Không phải!

– Thế ai đã hạ độc thủ cô ấy?

– Tôi không thể nói cho đại ca biết được! Khi nào đại ca gặp Tạ đại hiệp thì ông ta sẽ kể rõ chuyện đó cho đại ca biết liền.

– Sao nghĩa phụ của tôi lại biết rõ chuyện này?

– Bây giờ nội thương của đại ca chưa lành mạnh, hỏi nhiều chỉ thêm loạn tâm trí thôi. Bây giờ tôi chỉ biết nói với đại ca rằng khi nào đại ca điều tra rõ ràng và có bằng cớ hẳn hoi chứng thực tôi đã giết hại Hân cô nương thì lúc ấy khỏi cần đại ca ra tay, tôi sẽ tự tử trước mặt đại ca liền!

Vô Kỵ nghe thấy Triệu Minh nói dứt khoát như vậy chàng không thể nào không tin liền trầm ngâm suy nghĩ một hồi rồi hỏi tiếp:

– Như vậy chắc là trong bọn thủ hạ trên chiếc thuyền của Minh Giáo Ba tư kia có cao thủ lén lút làm. Chính hắn đã dở tà pháp trong lúc đêm khuya làm mọi người mê man rồi giết hại tiểu muội của tôi và lấy trộm đi Ỷ Thiên Kiếm cùng đao Ðồ Long đi. Nếu như vậy thì khi kiếm thấy nghĩa phụ có lẽ chúng ta phải đi Ba Tư tìm kiếm và cũng là để thăm Tiểu Siêu nữa.

Triệu Minh bịt mồm nén cười đỡ lời:

– Ðại ca muốn gặp Tiểu Siêu thì cứ việc đi, làm gì mà phải đặt ra nhiều nguyên nhân làm chi. Tôi khuyên đại ca đừng nghĩ ngợi vẫn như thế nữa. Ðại ca mau mau chữa khỏi vết thương để chúng ta đi Thiếu Lâm Tự ngay, đó mới là việc chính của chúng ta đấy.

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Lên Thiếu Lâm Tự làm chi?

– Cứu Tạ đại hiệp.

– Nghĩa phụ tôi ở trên Thiếu Lâm Tự ư? Tại sao nghĩa phụ tôi lại ở đó?

– Nguyên nhân ra sao tôi cũng không biết rõ lắm nhưng cứ biết hiện giờ Tạ đại hiệp đang ở chùa Thiếu Lâm. Ðó là sự thực, không sai một li một tý nào cả. Tôi nói thực cho đại ca hay, thủ hạ của tôi có một tu sĩ cạo đầu làm hòa thượng đi tu ở Thiếu Lâm Tự. Tin này là do y cho hay đấy.

– Hừ, lợi hại thực!

Chàng nói ba chữ này không biết là khen thủ đoạn của Triệu Minh hay ám chỉ tình thế cực kỳ nguy hiểm. Nhưng chàng vừa nói xong câu đó thì vì suy nghĩ quá nhiều động đến vết thương nên không sao nhởn được liền thổ ngay ra một đống máu tươi.

Triệu Minh thấy vậy vội khuyên bảo:

– Ðã bảo đại ca đừng nên lo nghĩ nhiều mà đại ca cứ không nghe. Thôi tôi không nói chuyện với đại ca nữa!

Vô Kỵ lại ngồi xuống dựa lưng vào núi định tĩnh tâm điều dừng thương nhưng dù cố gắng đến đâu đầu óc chàng cũng không thể nào trấn tĩnh được.

Chàng lại lên tiếng hỏi tiếp:

– Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm bị nghĩa phụ tôi dùng Thất Thưng quyền đánh chết vì vậy môn hạ của phái Thiếu Lâm đã thề phải trả thù cho được mối thù này. Bây giờ nghĩa phụ tôi đã lọt vào tay chúng thì làm gì còn sống được nữa!

– Ðại ca khỏi phải lo âu làm chi, có một vật có thể cứu được nghĩa phụ khỏi chết.

– Vật gì thế?

– Ðồ Long bảo đao.

Vô Kỵ chỉ nghĩ ngợi giây lát đã hiểu ngay. Ðồ Long bảo đao có tiếng là võ lâm chí tôn, phái Thiếu Lâm đã là lãnh tụ võ lâm mấy trăm năm liền đối với thanh bảo đao này hẳn càng muốn chiếm cho được. Vì muốn có được thanh bảo đao đó tất nhiên họ không đời nào chịu giết Tạ đại hiệp một cách nhanh chóng như thế. Thể nào chúng cũng phải làm cho đại hiệp nhục nhã mới hã dạ.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Tôi nghĩ muốn cứu Tạ đại hiệp chỉ có một cách là hai chúng ta ngấm ngầm ra tay là tốt hơn hết.

Anh hùng của Minh Giáo đông đo thực nhưng đem đội đại binh mã đến vây đánh Thiếu Lâm Tự, chúng thấy địch không nổi thì thế nào cũng giở hạ sách ra là đem Tạ đại hiệp thủ tiêu ngay.

Vô Kỵ thấy nàng ta suy nghĩ chu đáo như vậy cảm động vô cùng vội đỡ lời:

– Minh muội nói rất phải!

Lần đầu tiên nàng thấy Vô Kỵ gọi mình là Minh muội nàng cảm thấy khoan khoái vô cùng, nhưng nàng lại sực nghĩ tới gia đình và tình thân hữu thì lại đau lòng vì phen này nàng đã bỏ họ mà đi thì sau này thật khó lòng mà trở về được.

Vô Kỵ vừa trông thấy sắc mặt của nàng đã biết nàng đang rầu rĩ về việc gì rồi nhưng chàng không biết dùng lời lẽ gì để khuyên giải liền nghĩ thầm:

– Nàng đã trao phó tấm thân ngọc ngà cho ta, ta thật không biết dùng cách gì để đền đáp lại mối tình thâm này? Ta đã có hôn ước với Chu Chỉ Nhược thì ta làm sao mà phụ người vợ chưa cưới ấy được. Hà bây giờ ta hãy cứ nghĩ cách cứu nghĩa phụ ra trước còn mối tình nhi nữ hãy tạm gác sang một bên vậy.

Chàng gượng đứng lên nói:

– Chúng ta đi thôi!

Triệu Minh thất sắc mặt của chàng rất nhợt nhạt mới hiểu chàng bị thương rất nặng liền cau mày lại khẽ hỏi tiếp:

– Cha tôi thương và cưng tôi lắm, chắc không làm gì tôi đâu. Nhưng đại ca của tôi, tôi đoán chừng chỉ hai tiếng nữa thế nào cũng cho người đuổi bắt chúng ta trở lại cho mà xem.

Vô Kỵ gật đầu cho lời nói của nàng là phải. Chàng thất Vương Bảo Bảo hành sự rất cương quyết và y là một nhân vật rất lợi hại tất nhiên y không khi nào lại buông tay đâu. Hiện giờ cả hai người đều bị thương rất nặng nếu đi Thiếu Lâm Tự thế nào cũng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy chàng bàng hoàng không biết làm gì cho phải bây giờ.

Triệu Minh lại nói:

– Vô Kỵ đại ca, chúng ta hãy mau mau rời khỏi chốn nguy hiểm này trước đã, xuống tới chân núi hãy quyết định tiếp sau!

Vô Kỵ gật đầu uể oi đi ra dắt hai con ngựa tới nhưng khi định leo lên ngựa thì chàng cảm thấy trước ngực đau nhức không sao lên được.

Triệu Minh cắn răng mím môi dùng tay phải đẩy mạnh chàng lên trên mình ngựa. Nhưng vì dùng sức quá mạnh, vết thương của nàng lại rỉ máu tươi ra ngay.

Nàng cũng gượng leo lên mình ngựa ngồi ở phía sau Vô Kỵ.

Ðáng lẽ Vô Kỵ phải đỡ nàng bây giờ trái lại nàng lại đỡ Vô Kỵ.

Hai người thở một hồi mới thúc ngựa cho chạy còn con ngựa kia thì cột ở đằng sau yên cho nó chạy theo.

Hai người cưỡi chung một ngựa thủng thẳng đi xuống núi.

Triệu Minh đoán chắc cha nàng sẽ không thay đổi ý kiến nhưng anh nàng tuy trước mặt cha không dám nói gì thế nào cũng phái người đuổi theo rượt bắt chứ không sai. Vì vậy khi hai người xuống tới chân núi liền đi theo đường cái quan và quay về phía Ðông mà đi để tránh gặp Vương Bảo Bảo, anh nàng.

Ði được một lát, hai người lại quay sang một con đường nhỏ.

Lúc này hai người mới hơi yên tâm và đoán chắc dù Bảo Bảo có sai người rượt đuổi chăng nữa cũng chưa chắc đã biết mà theo và con đường nhỏ này. Chỉ cần chịu đựng được tới lúc trời tối hẳn vào trong rừng rậm thì không còn sợ hãi gì nữa.

Ngờ đâu hai người đang đi bỗng nghe thấy đằng sau có tiếng vó ngựa, hình như có hai người cưỡi ngựa đuổi tới vậy.

Triệu Minh kinh hãi vô cùng ôm chặt lấy lưng Vô Kỵ nói:

– Anh tôi tới nhanh quá. Số mạng của chúng ta hẩm hiu thực! Rốt cuộc chúng ta vẫn không thể thoát khỏi bàn tay ác độc của anh ấy. Vô Kỵ đại ca để em theo anh ấy về vưng phủ, nghĩ cách yêu cầu cha cứu giúp cho chúng ta được tái hồi. Dù sao trời đất còn rộng không bao giờ phụ bạc đại ca đâu!

Vô Kỵ gượng cười đáp:

– Lệnh huynh chưa chắc đã chịu tha cho tôi đâu!

Chàng vừa nói tới đây thì hai người cưỡi ngựa đã phải tới sau chỗ cách hai người chừng mấy trượng.

Triệu Minh giật cưng ngựa tránh sang bên đường và rút sẳn dao găm ra. Nàng đã quyết rồi, nếu có thể năn nĩ được thì nàng sẽ cố thoát thân còn nếu anh nàng nhất định giết hại Vô Kỵ thì nàng với người yêu sẽ cùng chết ngay tại chỗ. Hai người đó chạy tới cạnh Vô Kỵ và Triệu Minh rồi mà chúng vẫn không ngừng chân. Hai tên đó là hai tên binh sĩ Mông Cổ. Khi đi cạnh hai người chúng chỉ liếc mắt nhìn một cái rồi lại vội vàng đi luôn. Triệu Minh vừa lên tiếng nói được một câu “Cám ơn trời đất, thì ra chỉ là hai tên lính thường thôi chứ không phải là người của anh tôi sai đuổi theo…” thì hai tên lính Mông Cổ ấy đã dừng ngựa rồi từ từ quay lại.

Một tên râu ria xồm xoàm lớn tiếng hỏi luôn:

– Bớ hai tên mãng tử kia, lấy trộm ngựa này của ai thế?

Nghe giọng nói của hắn Triệu Minh biết chúng đã thèm thuồng hai con ngựa tốt của cha mình tặng cho.

Hai con ngựa đó nguyên là của Nhữ Dương Vương dùng, không những thần tuấn vô cùng lại thêm yên vàng, bàn đạp bạc nữa, đẹp đẽ khôn tả.

Người Mông Cổ vốn dộ ưa thích ngựa nhất, hai tên này thấy ngựa đẹp như thế sao mà ch động lòng tham.

Triệu Minh nghĩ thầm: “Ngựa này tuy là của cha ta tặng cho thực nhưng hai tên ác tặc mà thở cưng ra tay cướp thì cũng đành phải cho chúng chứ biết làm sao đây”.

Nghĩ đoạn, nàng liền dùng tiếng Mông Cổ đáp liền:

– Các người là bộ hạ của vị nào thế, sao dám vô lễ với ta như vậy?

Tên lính Mông Cổ ấy nghe thấy ngẩn người ra hỏi lại:

– Tiểu thư là ai thế?

Chúng thấy hai người ăn mặc lịch sự cưỡi hai con ngựa quý lại thêm tiếng Mông của Triệu Minh nói rất thạo nên chúng không dám làm bậy ngay.

Triệu Minh đáp:

– Chúng ta là con của tướng quân Hoa Nhi Bất Xích, đi đường gặp giặc đánh cướp. Hai anh em ta đang bị thương đây.

Hai tên lính đưa mắt nhìn nhau một cái rồi lớn tiếng cả cười.

Tên râu sồm lớn tiếng nói tiếp:

– Ðã trót thì phải trét, chúng ta hãy cứ ra tay giết con nhãi này trước rồi sẽ nói chuyện sau.

Nói xong, y rút đơn đao ra thúc ngựa lại nhằm đầu Vô Kỵ chém luôn.

Triệu Minh cả kinh vội quát mắng:

– Các ngươi làm gì thế, ta thưa cùng tướng quân hay, lúc ấy các người sẽ bị tứ mã phanh thây liền.

Tứ mã phanh thây là một hình phạt rất nặng của quân đội Mông Cổ lúc bấy giờ. Hình phạt ấy tàn nhẫn khôn tả , nhưng tên lính râu xồm không sợ thì chớ lại còn cười hích hích rồi nói tiếp:

– Hoa Nhi Bất Xích đánh không nổi phản quân Minh Giáo mà còn chém bừa bãi thuộc hạ và đánh đập binh lính chúng ta. Ngày hôm qua quân đội đã nổi loạn, cha của các ngươi đã bị chém nát nhừ. Bây giờ chúng ta gặp hai tiểu cẩu các ngươi thì còn gì khoái cho bằng.

Nói xong, y lại múa đao chém luôn.

Triệu Minh giật cương ngựa nhảy vọt qua để tránh thế đao đó.

Tên lính nọ đang định đuổi theo chém tiếp thì tên lính trẻ tuổi đã vội quát bảo hắn:

– Ðừng giết cô bé đẹp như hoa ấy, chúng ta hãy cùng nhau hưởng sung sướng lát đã!

Tên râu xồm đáp:

– Hay lắm! Hay lắm!

Triệu Minh nghe thấy chúng nói như vậy liền nghĩ ngay ra một kế. Nàng vội nhảy xuống ngựa nhảy sang bên đường đào tẩu luôn.

Hai tên lính Mông hiếu sắc đó cũng xuống ngựa đuổi theo.

Triệu Minh bỗng kêu “ối chà” một tiếng rồi ngã lăn ra đất.

Tên lính râu xồm nhảy tới định ôm lấy lưng nàng.

Triệu Minh dùng ngay khủyu tay thúc luôn vào yếu huyệt ở giữa ngực của hắn.

Tên lính đó không lờp kêu một tiếng đã ngã lăn ra đất liền.

Tên thứ hai không thấy rõ người bạn đã bị Triệu Minh đánh lén nên y cũng nhảy tới bắt chước tên kia định ôm lấy Triệu Minh.

Triệu Minh lại dùng thế võ trước thúc trúng luôn vào yếu huyệt của tên thứ hai này.

Thế là nàng không tốn một chút sức nào đã đánh ngã một lúc hai tên lính Mông Cổ. Vì bị thương rất nặng lại phải đi vất vả như thế này nên nàng tuy không tổn hơi sức mà cũng vẫn thở hồng hộc, mồ hôi lạnh tuôn ra như tắm.

Nàng gượng dậy đỡ Vô Kỵ xuống ngựa và quát bảo hai tên lính đó rằng:

– Hai tên cẩu tặc này dám phạm thượng làm loạn như vậy, bây giờ hai đứa bay muốn sống hay muốn chết?

Hai tên lính Mông bị điểm huyệt xong cảm thấy bán thân bất toại, hai tay tên tái không sao cử động được chỉ có dưới chân có chút cảm giác thôi nhưng cũng đau nhức khó chịu vô cùng. Chúng lại tưởng Triệu Minh sẽ giết chúng ngay nhưng bây giờ thấy nàng nói như vậy mới biết có hy vọng sống sót nên chúng vội nói tiếp:

– Xin cô nương tha chết cho, không phải anh em tiểu nhân ra tay giết hại Hoa Nhi Bất Xích tướng công đâu.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Ðược, nếu hai mi tuân theo ta việc này thì ta sẽ tha cho cẩu mạng của hai đứa mi!

Hai tên lính Mông vội trả lời:

– Chúng tôi xin tuân mạng!

Triệu Minh chỉ hai con ngựa của mình nói tiếp:

– Hai người mau cưỡi hai con ngựa này đi về phía Ðông, trong một ngày một đêm phải chạy ít nhất ba trăm dặm. Chạy càng nhanh càng tốt, không được làm hỏng việc!

Hai tên lính Mông ngẩn người ra nhìn nhau, chúng không ngờ nàng lại bảo chúng làm công việc dễ dàng như thế.

Tên râu xồm vội nói:

– Thưa cô nương, dù có gan tày trời, tiểu nhân cũng không dám tái…

Triệu Minh vội ngắt lời y nói tiếp:

– Việc này khẩn cấp lắm, các ngươi mau lên ngựa đi ngay. Nếu giữa đường có ai hỏi thì các ngươi cho biết là hai con ngựa này mua ở trong chợ chứ không được tả hình dáng của hai ta, nghe chưa!

Hai tên Mông Cổ vẫn bán tín bán nghi nhưng chúng thấy Triệu Minh thúc giục luôn mồm liền nghĩ thầm: “Việc này dù có gian trá gì ở bên trong còn hơn là bị nàng ta đâm chết tại chỗ”.

Nghĩ đoạn, chúng liền cáo lỗi rồi tập tễnh đi tới ngựa.

Chúng thấy dưới bàn chân đau nhức như muôn vàn cái kim châm nhưng vẫn cố chịu đựng leo lên ngựa. Chàng hai chỉ sợ Triệu Minh thay lòng đổi dạ lại gọi chúng trở lại thì nguy to nên. mới đi được hơn mười trượng chúng liền thúc ngựa chạy hết tốc lực liền. Vô Kỵ thấy vậy thị dài nói:

– Minh muội quả là trí kế vô song, thủ hạ của lệnh huynh thấy hai con ngựa này thế nào cũng đoán chắc chúng ta đi về phía Ðông. Vậy bây giờ chúng ta đi về hướng nào?

Triệu Minh đáp:

– Tất nhiên là chúng ta phải đi về phía Tây Nam.

Thế rồi hai người leo lên hai con ngựa của hai tên lính Mông Cổ để lại.

Hai người không đi bằng đường chính mà cứ xuyên qua cánh đồng tiến thẳng về phía tây nam. Suốt dọc đường chỉ toàn là gai góc và sỏi đá lởm chởm.

Hai con ngựa bị gai và đá làm sướt hết cả chân, máu tươi chy ra rất nhiều. Vì vậy mỗi tiếng đồng hồ chúng chi đi được hai mươi dặm là cùng.

Lúc ấy trời đã sắp tối, bỗng thấy trong khe núi có một làn khói bốc lên.

Vô Kỵ mừng rỡ nói:

– Phía đằng trước thế nào cũng có người ở. Chúng ta mau tới đó xin ở trọ đi!

Triệu Minh gật đầu.

Hai người liền đi tới chỗ có khói bốc lên mới hay nơi đó là một ngôi miếu.

Hai người liền xuống ngựa, xoay chúng về hướng Tây rồi nhặt cành gai quất luôn vào mông chúng mấy cái. Hai con ngựa bất thình lình bị đánh đau cất vó chạy luôn.

Triệu Minh đi đến đâu cũng bày đặt nghi trận. Mục đích của nàng là đánh lạc hướng bộ hạ của Vương Bảo Bảo. Dù không có ngựa việc đào tẩu sẽ khó khăn nhưng nàng cũng không quản ngại. Nàng chỉ cần đi được bước nào hay bước ấy thôi.

Hai người dìu nhau đi bước một tới trước cửa miếu.

Hai người thấy căn miếu này cũng đàng hoàng lắm, trên cửa có treo một tấm biển lớn đề: “Trung Mục Thần Miếu”. Triệu Minh liền giơ tay gõ luôn ba tiếng.

Bỗng nghe bên trong có tiếng rất âm thầm vọng ra:

– Là người hay là ma? Ðến đây định gửi xác phải không?

Nghe thấy tiếng nói của người đó Vô Kỵ biết ngay là của người có nội công rất thâm hậu nên trong lòng kinh hãi liền đưa mắt cho Triệu Minh.

Hồi thứ 89

Hòa Thượng Giả Trang

Triệu Minh chưa kịp ngỏ ý thì đã nghe thấy tiếng cửa kêu “kèn kẹt” rồi mở ra liền. Chỉ nghe tiếng cửa kêu cũng biết cánh cửa này ít khi mở ra đóng vào. Phía sau cánh cửa xuất hiện một bóng người.

Lúc ấy trời đã chập choạng tối mà người đó lại đứng sau cánh cửa sấp bóng nên không sao trông thấy rõ mặt chỉ thấy đầu y bóng loáng thì biết là một hòa thượng thôi.

Vô Kỵ liền lên tiếng hỏi:

– Anh em tại hạ giữa đường gặp cường đạo, thân mang thương tích định xin ngủ nhờ một đêm. Xin đại sư rủ lòng từ bi cho phép chúng tôi được ngủ nhờ một đêm.

Người nọ kêu lên một tiếng, với giọng nham hiểm trả lời:

– Người ta đi tu xưa nay không giúp ai hết, không thể cho hai người ở trọ được.

Nói xong, y định đóng cửa lại Triệu Minh vội kêu gọi:

– Giúp người, người lại giúp mình, biết đâu chẳng có cái hay!

Hòa thượng nọ vội hỏi:

– Hay ở chỗ nào?

Triệu Minh giơ tay lên cởi chiếc bông tai có nạm hạt châu xuống. Hạt châu ở trên bông tai nàng to bằng đốt ngón tay út, vừa lấy xuống đã thấy có ánh sáng lấp lánh liền. Triệu Minh vội đưa chiếc hoa tai đó cho hòa thượng nọ.

Hòa thượng ngắm chiếc bông tai một hồi rồi lại nhìn hai người một lúc nữa mới lên tiếng nói:

– Thôi được, giúp người, người giúp mình!

Nói xong, y né người sang bên.

Triệu Minh liền đỡ Vô Kỵ bước vào.

Hòa thượng ấy liền dẫn hai người xuyên qua đại điện rồi tới dãy nhà ngang ở phía Ðông và nói:

– Hai người ở trong phòng này!

Phòng đó không có đèn lửa, tối om như mực.

Ði tới cạnh giường Triệu Minh giơ tay ra lần mò thấy trên giường chỉ có một cái chiếu ngoài ra không có một cái gì khác cả.

Ðang lúc ấy bên ngoài bỗng có tiếng nói rất lớn:

– Xích tứ đệ dẫn ai vào đấy?

Hòa thượng trả lời:

– Có hai người khách đến xin ngủ trọ.

Y vừa nói vừa bước chân ra khỏi cửa phòng liền.

Triệu Minh gọi với theo:

– Sư phụ làm ơn bố thí cho hai bát cơm một đĩa rau dưa gì đó…

Hòa thượng nọ lại đáp:

– Người đi tu ăn của thập phương không bố thí.

Nói xong y đi luôn.

Triệu Minh giận dữ nói tiếp:

– Hòa thượng này thực, chắc đại ca đói lắm phải không? Dù sao chúng ta cũng phải kiếm cái gì ăn mới được.

Ðột nhiên ngoài sân có tiếng chân người đi lại.

Hai người thấy có chừng bảy tám người tất cả.

Tiếp theo đó có ánh sáng thấp thoáng, cửa phỏng đã bị người đẩy ra.

Hai hòa thượng cầm hai ngọn nến đi trước bước vào chiếu thẳng vào mặt Vô Kỵ và Triệu Minh.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn lại thấy tám hòa thượng tất cả, cao có, thấp có nhưng mặt người nào cũng đều hung ác vô cùng.

Một lão hòa thượng lên tiếng hỏi Triệu Minh:

– Trên người của các người còn bao nhiêu vàng bạc châu báu nữa hãy mau đưa ra đây!

Triệu Minh lại hỏi:

– Ðưa ra để làm chi?

Hai thí chủ có cả duyên tới đây, vừa đúng lúc miếu chúng tôi sắp sửa cúng lớn để trùng tu lại cửa miếu và tô lại tượng. Hai vị có bao nhiêu vàng bạc cứ đem ra đây bố thí đi. Nếu hai vị tiếc của mà không đem ra thất lễ với Bồ Tát thì phiền lắm đó!

Triệu Minh nổi giận hỏi lại:

– Quý vị cưỡng bách như thế có khác gì cường đạo không?

Lão hòa thượng lại trả lời:

– Xin lỗi! Xin lỗi! Tám anh em chúng tôi chuyên nghề cường khấu giết người phóng hỏa cướp của là lẽ thường. Gần đâu bị Ma Giáo dồn ép làm cho chúng tôi không có chỗ nương thân đành phải ci trang làm hòa thượng vào đây lánh nạn. Hai vị thí chủ có duyên mới đem thân vào đây. Thực là may mắn cho anh em chúng tôi lắm, lắm!

Vô Kỵ với Triệu Minh nghe thấy hòa thượng ấy nói như vậy đều giật mình kinh hãi. Không ngờ tám tên hòa thượng này lại là đạo tặc cải trang.

Lão hòa thượng ấy dám nói trắng trợn như vậy tất nhiên là đã định tâm giết hại hai người rồi.

Lại một hòa thượng lên tiếng cười hô hô nói:

– Nữ thí chủ khỏi phải lo sợ, tám hòa thượng cường đạo chúng tôi đang thiếu một phu nhân áp miếu. Cô nương xinh đẹp như thế này thật không khác gì Phật Bà Quan Âm hạ phàm. Hay lắm! Hay lắm!

Triệu Minh móc túi lấy bảy tám thoi vàng và một chuỗi hạt châu để lên trên bàn và nói:

– Tài vật của anh em chúng tôi ở cả trên đây rồi. Anh em chúng tôi cũng là người trong võ lâm, quý vị nên nghĩa khí của giang hồ.

Lão hòa thượng vừa cười vừa nói tiếp:

– Hai quý vị đều là người trong võ lâm! Cang hay thêm, chẳng hay hai vị ở trong môn phái nào thế?

Triệu Minh đáp:

– Chúng tôi là đệ tử của phái Thiếu Lâm.

Lúc ấy phái Thiếu Lâm là một môn phái to lớn nhất trong võ lâm, Triệu Minh chỉ mong tám tên hòa thượng đó dù không phải là đệ tử ngoại hệ của Thiếu Lâm thì trong thân hượu của chúng thế nào mà ch có người liên quan đến phái Thiếu Lâm. Không ngờ nàng vừa nói xong tám tên cường đạo đó liền ha hả cười đáp:

– Là đệ tử phái Thiếu Lâm càng hay thêm. Chúng ta địch không nổi lão hòa thượng của Thiếu Lâm Tự thì vừa vặn hai đứa nhãi này tới đây để cho chúng ta đánh đập cho hả giận.

Nói xong, chúng cùng giơ tay lên định kéo cổ tay Triệu Minh.

Nàng vội rụt tay lại, hòa thượng đó liền kéo hụt ngay.

Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, mình với Triệu Minh lại đang bị thương nặng khó mà đối địch nổi, chợt nghĩ mấy năm nay đã gặp bao nhiêu cao thủ có tên tuổi trong võ lâm chẳng lẽ ngày hôm nay lại bị toi mạng trong tay mấy tên giặc cỏ hay sao? Nhưng dù sao cũng không thể để yên cho bọn chúng làm nhục Triệu Minh như vậy nên chàng khẽ bảo Triệu Minh:

– Minh muội hãy núp ở phía sau tôi! Ðể tôi đối phó với tám tên giặc cỏ này cho.

Triệu Minh có rất nhiều mưu kế nhưng trong hoàn cảnh này cũng đành thúc thủ.

Nàng lại lên tiếng hỏi bọn chúng:

– Các người là ai?

Lão hòa thượng đáp:

– Chúng ta là phản đồ của Thiếu Lâm Tự bị đuổi ra ngoài chùa. Gặp người môn phái khác chúng ta còn nương tay nể nang chứ gặp đệ tử phái Thiếu Lâm chúng ta thế nào cũng phải giết mới được.

Cô bé kia, đáng lẽ chú em của lão định lấy cô em làm phu nhân áp miếu nhưng bây giờ biết cô là thuộc hạ Thiếu Lâm bắt buộc chúng ta phải hãm hiếp trước rồi sẽ giết sau. Không thể để cho người nào sống sót cả.

Vô Kỵ trầm giọng nói:

– Ðược lắm, các người là môn hạ của ác tăng Viên Chân phải không?

Lão hòa thượng kêu “ủa” một tiếng rồi hỏi lại:

– Lạ thực, sao người này lại biết rõ như vậy?

Triệu Minh vội đỡ lời:

– Chúng tôi đang định đi lên chùa Thiếu Lâm để gặp Hữu Lượng đại ca và bầu cử Viên Chân đại sư làm phương trượng của chùa.

– Thiện tai, Thiện tai, ngã phật Như Lai, độ ách đại thiên…

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Phải, chúng ta nên để tâm hợp sức cùng nhau hoàn thành thiện cử này.

Nàng vừa nói xong mấy lời đó tám hòa thượng kia liền ha hả cười. Thì ra chúng quả thực là người của Viên Chân và Hữu Lượng do Hữu Lượng giới thiệu vào chùa làm môn hạ của Viên Chân. Tám người này đều xuất thân là lục lâm tho khấu, mỗi người có một tài riêng. Võ công của chúng cũng đã khá lại được Viên Chân chỉ bảo thêm nên càng lợi hại hơn trước. Mấy năm gần đây, Viên Chân muốn cướp ngôi phương trượng của chùa nên đi tứ xứ thâu nhân tài, nhưng vì giới luật của Thiếu Lâm Tự rất nghiêm, mỗi khi thâu nhận đệ tử đều bị giám chùa tra hỏi kỹ lừng, biết rõ lai lịch rồi mới cho gia nhập nên Viên Chân không sao toại nguyện được. Về sau Hữu Lượng hiến cho y một kế, chỉ nhận đệ tử bái sư thôi chứ không vào chùa để chờ dịp may tới cùng nổi loạn cướp ngôi. Võ công của Viên Chân rất cao thâm thì chỉ ra tay một cái thì bọn giang hồ hào sĩ đều kính phục liền.

Nhượng nhân vật võ lâm xưa nay vẫn ngừng mộ oai danh của phái Thiếu Lâm và lại thấy võ công của Viên Chân cao siêu như vậy nên ai ai cũng muốn được làm đồ đệ của y. Trong số đó cũng có vài người không muốn làm phản bổn môn, định tiết lộ âm mưu thì đều bị y diệt trừ ngay nên việc làm của y lâu nay không bị bại lộ là thế. Vừa rồi tên hòa thượng nói: “Thiện tai, Thiện tai, ngã phật Như Lai, độ ách đại thiên” là nói một câu ám hiệu của chúng khi gặp nhau. Người trong hội thì phải đáp: “Hoa khai kiến Phật tâm tức Bồng”.

Triệu Minh là người rất khôn ngoan nghe thấy lão hòa thượng đó đã tự nhận là đệ tử của Viên Chân, nàng liền đoán biết Viên Chân có ý muốn cướp ngôi Phương Trượng rồi. Nhưng họ định ám hiệu với nhau như vậy thì nàng làm sao biết được, cho nên nàng đã trả lời lầm như thế.

Một hòa thượng béo lùn liền nói với hòa thượng lớn tuổi kia:

– Phú đại ca, con nhỏ này vừa nói tới việc bầu sư phụ chúng ta làm Thiếu Lâm Phưng Trượng, không hiểu tại sao chúng lại biết được rõ tin này. Việc này quan trọng lắm, chúng ta phải hỏi cho ra lẽ mới được!

Tám người ấy tuy đã cắt tóc đi tu làm hòa thượng nhưng chúng vẫn gọi nhau là đại ca và nhở ca, không thoát được thói quen trong võ lâm.

Vô Kỵ nghe thấy chúng cùng cười biết ngay Triệu Minh đã lỡ lời rồi nhưng khốn nỗi mình bị thương nặng không sao hoạt động được, như vậy đối địch thế nào được chúng. Trong lúc nguy cấp chàng vội định thần và gượng tụ khí nhưng chỉ thấy trong người nóng hổi, chân khí không theo ý muốn của mình mà vận hành các kinh mạch.

Ðúng lúc ấy lão hòa thượng đã giơ năm ngón tay như năm cái vuốt của con chim ương chằm Triệu Minh vồ luôn. Triệu Minh không có hơi sức chống đỡ đành phải lui về phía sau giường tránh né.

Còn Vô Kỵ thì ngồi xếp tròn, vận công luyện khí chỉ mong khôi phục được hai ba thành công lực, như vậy cũng đủ đối phó với tám tên ác tặc này rồi.

Hòa thượng béo lùn thấy Vô Kỵ trước mặt bọn chúng mà vẫn còn ngồi vận khí, làm bộ làm tịch như vậy cho nên y tức giận vô cùng liền quát mắng:

– Tiểu tử không biết sợ chết gì cả! Ðể lão gia cho mi lên trên trời tây trước cho khỏi vướng chân vướng tay chúng ta.

Nói xong, y giơ cánh tay phải lên, khớp xưng của y kêu “lắc cắc” và trong tay áo của y hình như có hơi phồng lên. Rồi y múa quyền chằm giữa ngực Vô Kỵ đấm luôn. Triệu Minh thấy vậy lo âu vô cùng thất thanh kêu la.

Ngờ đâu hòa thượng béo lùn đó vừa đấm xong một quyền cánh tay phải của y đã mềm nhũn buông xuôi xuống. Y trợn tròn xoe đôi mắt nhìn Vô Kỵ đang ngồi yên một chỗ không cử động chút nào.

Lão hòa thượng giật mình kinh hãi, giơ tay lên kéo một cái ngờ đâu lão hòa thượng béo lùn liền té lăn ra đất. Hóa ra y đã chết tốt rồi.

Bảy hòa thượng kia thấy vậy vừa kinh hãi vừa tức giận cùng đồng thanh la lớn:

– Tiểu tử này có yêu tà pháp thuật chăng?

Thì ra Vô Kỵ không thể tụ chân khí để đả thương được nhưng Cửu Dương Thần Công ở trong người chàng vẫn không hề mất mát. Cho nên hòa thượng béo lùn vừa đánh trúng vào yếu huyệt của chàng thì Cửu Dương Thần Công tuy không đủ sức tấn công địch nhưng dư sức bảo vệ thân thể chàng. Vì vậy quyền lực của đối phương đánh tới đều bị phản hồi lại hết. Hơn nữa sức mạnh của đối phương đánh vào người chàng còn kích động Cửu Dương Thần Công ở bên trong phát ngược trở ra làm cho sức phản hồi tăng gấp đôi sức đánh tới. Như vậy tên hòa thượng béo đó làm sao chịu đựng nổi nên mới chết tốt như thế. Hòa thượng già rộng kiến thức hơn biết ngay đó là mượn sức địch đánh địch nên y không đánh vào ngực chàng mà cứ đánh vào hai tay chàng. Y định đánh gãy hai tay của chàng trước rồi mới đánh vào nội tạng sau. Ngờ đâu hai tay y vừa đánh trúng hai tay Vô Kỵ thì Cửu Dương Thần Công ở trong người chàng lại đã phản chấn ngay. Tên hòa thượng già liền bị đẩy bắn về phía sau nhanh như một mũi tên. Chỉ nghe thấy kêu “lách cách” một tiếng thật lớn. Cửa sổ đã bị người của y đập phải vỡ tan tành. Người của y bắn ra ngoài, đâm vào cây hòe trong sân vỡ sọ chết tốt.

Khi lão hòa thượng bị bắn ra ngoài sân, mấy tên hòa thượng kia vẫn chưa biết y sống chết ra sao lập tức có ba hòa thượng khác sông lại tấn công Vô Kỵ luôn.

Một tên tấn công vào thái dương huyệt, một tên giơ tay móc mắt chàng còn tên thứ ba thì phải thân đá vào đơn điền chàng. Chỉ thấy chàng cúi đầu tránh cho hai mắt để cho tay của đối phương đâm vào trên lông mày của mình thôi còn mặc cho chúng tha hảồ đánh đập vào mọi nơi. Chỉ nghe thấy mấy tiếng kêu “lộp bộp, lách cách, ối chà” mấy hòa thượng đã bị Cửu Dương Thần Công phản hồi chết liền. Tên hòa thượng sau vì sức đá quá mạnh nên chân phải của y bị gãy làm đôi. Cũng nhờ cú đá đó trúng ngay vào đơn điền chàng mà chân khí của chàng mới đả thông được các kinh mạch bị thương.

Vô Kỵ mừng rỡ nghĩ thầm:

– Tiếc thay ác tăng chết sớm quá, bằng không để y đã thêm mấy cái vào đơn điền ta nữa thì công lực của ta đã sớm khôi phục. Chỉ cần điều dừng mươi ngày hay nửa tháng là lành mạnh liền.

Tám hòa thượng đã chết năm còn lại ba tên hoảng sợ đến kinh hồn bạt vía. Chúng tranh nhau chạy ra ngoài cửa. Tới bên ngoài chúng mới hay lão hòa thượng già cũng đã chết cạnh gốc cây chúng lại càng thêm sợ hãi. Chúng bèn chạy ra ngoài miếu không thấy Vô Kỵ đuổi theo chúng mới ngừng chân lại bàn tán.

Một tên nói:

– Chắc tên tiểu tử này thế nào cũng có tà pháp!

Tên thứ hai nói:

– Tôi xem không phải là tà pháp. Chắc có nội công cao siêu, phản lại đả thương địch nhân đấy thôi.

Tên thứ ba vội đáp:

– Nhưng dù sao bây giờ chúng ta cũng phải nghĩ cách trả thù cho mấy người anh em kia mới được.

Tuy ba tên này ngày thường tác oai tác quái luôn nhưng chúng cũng có đôi chút nghĩa khí giang hồ. Vì tám tên đã thề đồng sanh đồng tử quyết không phụ lòng nhau. Tuy chúng có lòng quyết tử nhưng biết địch không nổi Vô Kỵ nên sau khi thương lượng một hồi một tên bỗng nói:

– Có lẽ tên tiểu tử đó bị thương rất nặng bằng không tại sao y không đuổi theo chúng ta?

Tên thứ hai mừng rỡ nói:

– Phải đấy, có lẽ y không đi lại được, nên anh em chúng ta đánh đập y, y chỉ dùng nội lực phản kích thôi. Chúng ta dùng khí giới đâm y, chẳng lẽ y là xưng đồng da sắt mà chịu nổi ư?

Ba tên bàn bạc xong, một tên liền kiếm cây trường mâu, một tên cầm dao còn tên thứ ba cầm kiếm, quay lại trong miếu.

Chúng vào tới phòng Vô Kỵ thấy Vô Kỵ vẫn ngồi yên chỗ cũ, trông có vẻ rất mệt nhọc, người cứ lắc lư hoài hình như muốn té ngã vậy.

Triệu Minh ngồi cạnh, tay cầm khăn cứ lau hoài mồ hôi trán cho Vô Kỵ.

Ba tên ác tăng đó đưa mắt ra hiệu cho nhau, nhưng rốt cuộc không có tên nào dám xông vào hết.

Sau cùng một tên lớn tiếng gọi:

– Tiểu tử hôi hám kia, có gan thì ra đây đấu với lão gia ba trăm hiệp nào!

Tên thứ hai cũng lên tiếng mắng chửi:

– Tiểu tử có tài ba gì, chỉ biết dùng yêu thuật giết hại người thôi. Ðó là những trò hạ lưu của giang hồ, thủ đoạn đê tiện không xứng đáng.

Ba tên ác tăng, mỗi tên mắng chửi một câu mà cũng không thấy Vô Kỵ trả lời và bước xuống giường gì cả nên chúng càng táo bạo hơn.

Lời lẽ chửi rủa của chúng càng thậm tệ hơn. Chúng lôi cả mười tám đời tổ tiên của Vô Kỵ ra mà chửi. Chúng còn chửi Triệu Minh là một nữ đại ma đầu dâm loạn nhất thiên hạ.

Vô Kỵ với Triệu Minh không tức giận tí nào vì lúc này hai người không sợ ba tên ấy quay trở lại tầm thù mà là sợ chúng hoảng sợ bỏ đi báo cho Thành Khôn hay thì hai người sẽ chết liền.

Vô Kỵ biết vết thương của mình phải điều dừng trên mười ngày mới khỏi được.

Lúc này khỏi cần Thành Khôn chỉ những tay cao thủ tùy tùng hạng nhì của y như Hữu Lượng chẳng hạn cũng giết nổi Vô Kỵ với Triệu Minh rồi.

Hai người sau khi bị thương nặng phải trốn tránh để khỏi bị Vương Bảo Bảo đuổi bắt, bây giờ lại phải phòng bị bè đảng của Thành Khôn đánh đập.

Trước sau đều có người tập kích như thế thì hai người sống sót sao nổi.

Vì vậy hai người thấy ba tên ác tăng quay trở lại không hề lo sợ mà còn mừng thầm là khác.

Vô Kỵ liên tiếp bị năm ác tăng tấn công làm cho Cửu Dương Thần Công chân khí trong người chàng dần dần ngưng tụ lại.

Dù lúc trước chàng tự vận hành mãi mà vẫn không có thể vận sức được. Tuy bây giờ chàng vẫn chưa có thể vận sức đánh địch được nhưng trong lòng không còn kinh hãi như trước nữa.

Ðột nhiên “bùng” một tiếng đã có một tên ác tăng cầm trường mâu chân đa túng cửa phòng nhảy vào bên trong.

Triệu Minh thấy vậy la lớn:

– Ối chà!

Nàng vội cầm dao găm đưa cho Vô Kỵ.

Vô Kỵ lắc đầu không đỡ lấy con dao mà chỉ nghĩ thầm:

– Tay ta không có hơi sức nào nữa, dù có khí giới cũng không địch nổi, mà thân ta là xương thịt thì làm sao chống đỡ nổi khí giới của chúng.

Chàng chưa nghĩ xong thì tên nọ đã múa trường mâu đâm tới trước ngực chàng rồi. Thế mâu của hắn đâm nhanh lắm nhưng ý nghĩ của Triệu Minh còn nhanh hơn. Nàng vội thò tay vào trong lòng Vô Kỵ lấy ra một thanh Thánh Hỏa Lệnh để luôn lên ngực Vô Kỵ để đỡ mũi trường mâu bén nhọn kia. Tất nhiên như vậy Vô Kỵ không bị thương chút nào, trái lại Cửu Dương Thần Công ở trong người chàng lại có thể nhờ đó mà phản công lại. Chỉ nghe thấy một tiếng “ôi”. Tiếng kêu chưa kịp dứt lời thì tên thứ hai đã múa đơn đao bổ xuống đầu Vô Kỵ rồi.

Triệu Minh sợ một chiếc Thánh Hỏa Lệnh không đủ sức chống đỡ thanh đao đó liền để luôn hai chiếc lên trên đầu Vô Kỵ, che chở cho chàng.

Lại nghe thấy “coong” một tiếng thanh đao đó đã bắn ngược trở lại đập chết tên nọ liền. Tuy nhiên ngón tay út của Triệu Minh cũng bị lưỡi đao của y chặt đứt một đốt.

Trong lúc nguy cấp nàng không thấy đau đớn gì cả.

Tên hòa thượng thứ ba tay cầm kiếm vừa vào tới của, thấy hai tên đồng bọn cùng toi mạng một lúc. Tuy y tức giận vô cùng nhưng không còn can đảm xông lên tấn công nữa nên y chỉ thết lớn một tiếng rồi quay người chạy luôn.

Triệu Minh vội nói:

– Không thể để cho y đào tẩu được!

Nàng liền cầm luôn một thanh Thánh Hỏa Lệnh nhằm người y. Tuy nàng nhắm rất trúng nhưng vì tay không có sức nên Thánh Hỏa Lệnh đó chưa tới đích đã rớt xuống đất liền. Vô Kỵ liền ôm lấy người Triệu Minh khẽ nói:

– Minh muội, ném thêm cái nữa đi!

Chàng vừa nói vừa vận chân khí ở trước ngực truyền dồn sang người nàng.

Triệu Minh liền giơ hai tay lên ném nốt thanh Thánh Hỏa Lệnh thứ hai.

Lúc ấy ác tăng đã chạy thêm được hai bước nữa và đang định núp vào sau một bức bình phoảng bằng gạch.

Nhưng chiếc Thánh Hỏa Lệnh thứ hai này tốc độ nhanh vô cùng đã xuyên luôn người y từ sau lưng sang trước ngực mà vẫn chưa hết đã cắm luôn vào bức bình phong đó.

Sau khi ném xong Thánh Hỏa Lệnh đó Vô Kỵ và Triệu Minh cũng chết giấc luôn.

Trong ngôi miếu hoang chỉ có trăng thanh gió lạnh ngó người chứ không có một tiếng động nào khác.

Một lát sau Triệu Minh thức tỉnh trước, đưa tay sờ mũi Vô Kỵ.

Hô hấp của chàng tuy rất yếu nhưng được cái là đều đặn và khá dài.

Nàng gượng đứng lên đỡ Vô Kỵ lên trên sập để chàng gối lên một cái xác chết rồi nàng cũng ngồi ở ngay cạnh đống xác đó nghỉ ngơi.

Một lát sau Vô Kỵ tỉnh, mở mắt ra gọi ngay:

– Minh muội đâu rồi?

Triệu Minh tủm tỉm cười rồi hai người ôm lấy nhau.

Lần này trước sau giết chết bảy ác tăng không tốn chút sức nào nhưng khi ném chiếc Thánh Hỏa Lệnh để giết tên thứ tám cả hai người đều bị tổn thương nguyên khí rất nặng. Vì vậy đêm hôm đó cả hai đều nằm yên trên đống xác để chờ sức lực hồi lại.

Vô Kỵ xé một vạt áo ra băng bó cho ngón tay bị đứt của Triệu Minh rồi cả hai ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Ðến trưa ngày hôm sau hai người mới tỉnh giấc.

Cả hai ngồi vận khí điều dừng một hồi đã thấy tinh thần phấn chấn hơn trước nhiều liền gượng đứng dậy nhưng thấy bụng đói vô cùng.

Vô Kỵ liền lần mò xuống bếp, thấy trên bếp lò có một nồi cơm một nửa đã cháy thành than, chỗ còn lại cũng đã khê nồng.

Chàng bốc vài miếng ăn thử rồi xới một chén đem ra ngoài phòng cho Triệu Minh.

Triệu Minh vừa cười vừa nói:

– Tình cảnh ngày hôm nay so với trong tửu điếm tại kinh đô thế nào?. Tôi thấy ở đây sung sướng hơn nhiều!

Triệu Minh lại tiếp:

– Tình cảnh bi đát của chúng ta lúc này thật chỉ có trời đất biết, đại ca biết chứ không thể kể cho một ai nghe được.

Hai người cả cười rồi bốc bát cơm khê ăn, lại thấy ngon hơn cả sơn hào hải vị là khác. Một bát chưa ăn xong thì bỗng nghe thấy phía đằng xa ở trên núi đã có tiếng vó ngựa phải trên đá “lộp cộp”.

Triệu Minh va Vô Kỵ đều ngẩn người ra nhìn nhau, hai trái tim cùng đập mạnh. Tai của hai người đã nghe rõ có hai con ngựa đang phải tới.

Hai con ngựa đến tới cửa miếu thì dừng lại.

Tiếp theo hai người lại thấy có tiếng vòng cửa kêu bốn tiếng.

Một lát sau nữa Vô Kỵ khẽ hỏi Triệu Minh rằng:

– Biết làm sao bây giờ?

Chàng vừa nói dứt lời đã thấy ngoài cửa có tiếng người gọi:

– Thượng Quan tam ca! Tôi Tần Ngũ Lão đây.

Triệu Minh liền nói:

– Nếu chúng phá cửa vào chúng ta cứ giả bộ làm người chết rồi tùy cơ ứng biến.

Hai người liền nằm phục xuống, cạnh mấy cái xác, mặt úp xuống đất.

Hai người vừa nằm xong thì đã nghe thấy có tiếng phá cửa.

Chỉ nghe tiếng cửa vỡ cũng đủ biết sức lực người phá không phải tầm thường.

Triệu Minh sực nghĩ ra được một kế liền khẽ bảo Vô Kỵ:

– Ðại ca mau nằm phục ở cửa để cản lối của chúng!

Vô Kỵ gật đầu liền bò đến ngay cạnh cửa.

Tiếp theo đó hai người đã nghe tiếng thất thanh của hai người nọ và còn nghe thấy cả tiếng rút khí giới của chúng nữa.

Hai người đoán chúng đã vào tới sân, trông thấy mấy cái xác nên đều kinh hãi và rút khí giới ra để phòng bị.

Tiếp theo đó có tiếng một người khẽ nói:

– Cẩn thận! Hãy coi chừng địch nhân ám toán!

Người thứ hai liền quát lớn:

– Bọn nào tài giỏi thì cứ việc ra đây quyết chiến với lão một phen, hà tất phải lén lén lút lút trong đó làm chi! Như thế mà đòi làm anh hùng sao?

Tiếng nói của người đó rất mạnh, trung khí rất sung sức.

Y quát hỏi mấy tiếng, không thấy ai trả lời vội nói tiếp:

– Có lẽ bọn giặc đã đi xa rồi cũng nên.

Người có giọng khàn khàn vội nói với người ấy rằng:

– Ði khám xét mọi nơi xem sao! Cẩn thận trúng kế của địch đấy!

Tần Ngủ Lão nói tiếp:

– Thọ lão đệ đi sang khám bên phía đông đi, để ngu huynh khám phía Tây cho.

Người họ Thọ thấy hai người chết ở trong sân rất rùng rợn nên hoảng sợ trả lời:

– Có lẽ kẻ địch nhiều lắm, chúng ta nên đi cùng nhau thì hơn.

Tần Ngũ Lão chưa kịp trả lời thì người họ Thọ đã kêu “ủa” một tiếng và giơ tay lên chỉ về phòng phía Ðông lắp bắp:

– Trong… bên trong có người chết…

Hai người liền đi về phía đó, tới cạnh cửa, thấy trong căn phòng nhỏ có tới bảy tám xác người chết, nằm ngổn ngang.

Tần Ngũ Lão táo gan hơn tên họ Thọ nhưng cũng phải hoảng sợ nên lên tiếng hỏi:

– Tám anh em ở trong Trung Mục Thần Miếu này đều bị giết chết hết. Không biết ai đã ra tay hạ độc thủ thế?

Người họ Thọ đáp:

– Tần Ngũ ca, chúng ta mau trở về chùa báo tin cho sư phụ biết đi!

Tần Ngũ Lão ngẫm nghĩ giây lát rồi nói tiếp:

– Sư phụ bảo chúng ta cần phải mau mau đem những thiếp này đi ngay để kịp mời họ đến dự Ðồ Sư Anh Hùng hội vào ngày tiến Ðoan Ngọ. Nếu để lỡ việc này thì tội của chúng ta lớn lắm đấy.

Vô Kỵ nghe thấy “Ðồ Sư Anh Hùng hội” năm chữ hơi suy nghĩ giây lát đã hiểu ra liền, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vừa tức giận. Nhượng ý niệm đó làm chàng rối trí.

Chàng nghĩ thầm:

– Sư phụ chúng phát thiếp đi mời người tới dự Ðồ Sư Anh Hùng hội, chắc là họ triệu tập thiên hạ anh hùng đến xem chúng chém giết nghĩa phụ mình. Như vậy trước tết Ðoan Ngọ này tính mạng của sư phụ ta không hề hấn gì. Nhưng ta thân làm Giáo Chủ của Minh Giáo mà không bảo vệ nổi cho nghĩa phụ để cho nghĩa phụ lọt vào tay kẻ gian, chịu khổ, chịu nhục. Ta thật bất hiếu bất nghĩa vô cùng.

Chàng càng nghĩ ngợi càng tức giận, chỉ muốn lập tức chém chết hai tên ác tăng này ngay nhưng lại sợ chúng tẩu thoát mà mình lại không đủ hơi sức đuổi theo. Nên chàng đành phải đợi chờ cho chúng vào phòng rồi chặn đường không cho chúng rút rồi lại dùng sức phản hồi của Cửu Dương Thần Công để diệt chúng. Không ngờ hai tên ác tăng đó thấy trong phòng ngổn ngang xác chết, mùi tanh hôi xông lên tận mũi, không dám bước vào trong phòng mà cứ đứng ngoài bàn tán.

Tên họ Thọ nói:

– Việc này không phải việc nhỏ, dù sao anh em chúng ta cũng cứ phải báo cho sư phụ biết thì hơn!

Tần Ngũ Lão nói:

– Hay là thế này vậy, chúng ta chia nhau hành sư. Ngu huynh đi phát thiếp còn lão đệ thì quay về Thiếu Lâm Tự thưa cùng sư phụ.

Người họ Thọ chỉ sợ lúc đi đường gặp phải cường địch nên trù trừ chưa lên tiếng trả lời. Tần Ngũ Lão liền nổi giận nói tiếp:

– Tùy lão đệ lựa chọn đấy, lão đệ muốn đi đưa thiếp cũng được.

Tùy Ngũ ca dặn bảo, thôi tiểu đệ đi về núi thưa cùng sư phụ vậy.

Hai người quyết định xong, định đi ra ngoài thì Triệu Minh cựa mình và rên rỉ mấy tiếng. Tần, Thọ hai người giật mình kinh hãi liền quay đầu lại nhìn.

Chúng thấy Triệu Minh cử động từ từ xoay người lại mới hay nàng là một thiếu nữ.

Tần Ngũ Lão ngạc nhiên hỏi:

– Thiếu nữ này là ai thế?

Y vừa nói vừa bước chân vào trong phòng.

Tên họ Thọ rất nhát gan, nhưng vì thấy Triệu Minh là một thiếu nữ lại bị thương rất nặng dường như sắp chết nên y mới không hoảng sợ gì nữa mà theo Tần Ngũ Lão đi vào.

Y giơ tay ra định sờ vào vai Triệu Minh liền nghe thấy tiếng Vô Kỵ ho một tiếng. Hai tên nọ đột nhiên nghe thấy tiếng ho quay lại nhìn thấy Vô Kỵ ngồi dậy, hai mắt lim dim, xếp chân bằng tròn vận khí chữa thương, mặt dính đầy máu trông rất kinh khủng.

Chúng kinh hãi vô cùng, người họ Thọ liền la lớn:

– Nguy tai! Ðây là quỷ nhập tràng cũng nên. Tần Ngũ ca phải cẩn thận mới được!

Nói xong, y liền nhảy lên giường trước.

Tần Ngũ Lão cũng la lớn:

– Quỷ nhập tràng kia, đừng có tác oai tác quái làm chi, họ Tần này không sợ mi đâu!

Nói xong, y liền múa ngay đơn đao, chằm đầu Vô Kỵ bổ xuống.

Vô Kỵ đã cầm sẳn hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh, thấy đối phương vừa múa đao chém xuống liền để luôn chiếc Thánh Hỏa Lệnh đó lên đầu.

Chỉ nghe “coong” một tiếng lưỡi đao chém trúng Thánh Hỏa Lệnh bị bắn ngược trở lại nện đúng đầu Tần Ngũ Lão.

Ðầu y vỡ tan, óc phọt ra tung tóe, chết tốt.

Tên họ Thọ tay cầm thanh quỷ đầu đao cứ run lẩy bẩy, muốn chém Vô Kỵ nhưng lại không dám.

Vô Kỵ chỉ đợi y chém tới là dùng sức Cửu Dương Thần Công chân khí phản trấn lại. Nhưng thấy y hoảng sợ không dám ra tay lại có y định nhảy qua cửa sổ hoặc xông ra lối cửa lớn để tháo chạy. Nếu y không đụng đến người Vô Kỵ thì không sao đả thương y được.

Triệu Minh thấy tên đó mãi không ra tay, trong lòng cũng hơi lo âu nghĩ thầm: “Không ngờ tên tiểu quỷ này lại nhát gan đến thế, không dám ra tay tấn công Vô Kỵ đại ca. Nếu bây giờ y vứt đao đào tẩu có lẽ chúng ta không làm gì nổi y”.

Nàng lại thấy tên ấy run sợ đến hai hàm răng run lập cập rồi đột nhiên có tiếng “coong” thì ra đao của y đã rơi xuống đất.

Vô Kỵ liền lên tiếng:

– Mi có gan thì lại đây chém ta một đao hay đánh ta một quyền đi.

Người nọ đáp:

– Tiểu…tiểu nhân không dám… không dám đánh đại nhân đâu!

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Vậy mi thử đá ta một cái xem sao!

Người nọ lại đáp:

– Tiểu nhân…càng không dám…

Vô Kỵ nổi giận:

– Sao mi lại tầm thường đến thế. lát nữa mi còn chết thảm khốc hơn thế này nhiều. Mau lại đây chém ta hai nhát đao đi., nếu ta thấy sức của ngươi, chưa biết chừng ta tha chết cho cũng nên.

Người họ Thọ lắp bắp:

– Dạ… dạ…

Y nhặt thanh quỷ đầu đao lên nhưng thấy Tần Ngũ Lão chết thảm khốc như thế liền nghĩ thầm:

– Kẻ địch thần thông quảng đại, đã luyện tới mức không cần nghĩ ngợi cũng có thể giết người được rồi, chi bằng ta van xin y tha chết cho thì hơn.

Nghĩ đoạn, y liền quỳ xuống vái lạy Trương Vô Kỵ và nói:

– Xin lão gia tha chết cho! Xin lão gia tha chết cho!

Triệu Minh tức giận vô cùng kêu “hừ” một tiếng rồi nói:

– Không ngờ trong võ lâm lại có người hèn mạt như mi!

Người nọ đáp:

– Dạ…dạ…tiểu nhân hèn hạ thực!

Y không dám ra tay, Vô Kỵ thực vô kế khả thi.

Sau cùng chàng nghĩ ra được một cách liền quát lớn:

– Lại đây!

Người nọ vâng lời, bò ngay lại trước mặt chàng nhưng vẫn quỳ như trước.

Vô Kỵ liền giơ tay ra để hai ngón tay lên hai mắt của y và quát bảo:

– Bây giờ ta hãy khoét hai mắt của mi trước!

Tuy tay chàng không có sức lực nhưng dù sao đôi mắt là chỗ mềm nhất trên cả thể, chỉ dùng sức khẽ ấn vào một cái cũng móc được liền.

Trong lúc nguy cấp, người nọ không kịp nghĩ ngợi đã vội giơ tay lên dùng sức đẩy mạnh một cái.

Vô Kỵ liền dùng luôn sức của đối phương đưa tay xuống bên dưới điểm luôn hai nơi yếu huyệt ở dưới vú tên họ Thọ rồi khẽ đẩy một cái.

Tên nọ thấy mình mẩy tê tái ngã lăn ra đất liền.

Y liền lớn tiếng van lơn:

– Lão gia tha chết cho tiểu nhân! Lão gia tha chết cho tiểu nhân! Triệu Minh biết Vô Kỵ điểm huyệt đối phương có thể tạm thời kiềm chế được địch rồi. Nhưng chỉ nửa tiếng đồng hồ sau người nọ không cần có người giải huyệt cho cũng tự khỏi, lúc ấy sẽ phiền phức lắm. Tuy vậy nàng nghĩ còn nhiều việc phải tra hỏi tên đó không tiện giết đối phương ngay nên hỏi:

– Mi đã bị đại gia kia điểm trúng tử huyệt, biết chưa! Mi thử hít một hơi xem có phải ở bên trái hông bị đau nhức vô cùng không?

Người nọ nghe theo lời nàng liền hít hơi thử xem, quả nhiên thấy chỗ xưng hông trái bị đau đớn thật. Sự thật ra lúc ấy yếu huyệt của y bế tắc , nhưng y không biết được điều đó nên cứ van lơn.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

– Muốn tha chết cho mi không khó, nhưng phải liên tục dùng kim châm. Châm vào các yếu huyệt cho mi trong vòng nửa tháng mi mới khỏi chết được.

Người nọ vái lại đáp:

– Quý hồ cô nương cứu tiểu nhân thoát chết thì dù làm trâu ngựa, tiểu nhân cũng xin để cho cô nương tự tiện sai bảo. Cô nương đã ra lệnh tiểu nhân không dám trái lệnh chút nào.

Triệu Minh cười khúc khích và nói tiếp:

– Thật là lần đầu tiên ta mới thấy một nhân vật giang hồ như ngươi. Thôi cũng được ngươi đi nhặt một viên gạch lại đây!

Người nọ vâng lời ngay, lết người ra ngoài nhặt gạch.

Vô Kỵ khẽ hỏi:

– Minh muội sai y đi lấy gạch để làm chi?

Triệu Minh vừa cười vừa nói:

– Sơn nhân đây đã có diệu kế!

Người nọ bưng viên gạch cung kính đem tới trước mặt Triệu Minh.

Triệu Minh liền lấy chiếc kim thoa ở trên đầu xuống châm vào một yếu huyệt ở trên vai của y và nói:

– Trước hết ta phải dùng kim châm giải các đường kinh hoảng mạch của ngươi ra để tử khí của tử huyệt khỏi xông lên ócả, bằng không thì không còn cách gì cứu chữa nữa. Nhưng không biết vị đại gia kia có chịu tha chết cho ngươi không?

Người nọ đưa mắt nhìn Vô Kỵ tỏ vẻ van lơn.

Y thấy Vô Kỵ gật đầu thì mừng rỡ vô cùng vội nói:

– Thưa cô nương, vị đại gia này đã nhận lời rồi, cô nương mau mau ra tay châm giải huyệt cho tiểu nhân đi!

Triệu Minh hỏi tiếp:

– Thế mi có sợ đau không?

– Tiểu nhân chỉ sợ chết chứ không sợ đau.

– Ðược lắm! Mi hãy dùng viên gạch này gõ mạnh một cái vào đầu kim thoa này!

Người nọ nghĩ thầm:

– Kim thoa cắm vào vai chỉ da thịt là bị thương thôi chứ có nguy hiểm gì đâu ?

Thế rồi y không hề cau mày gì hết, giơ hòn gạch lên gõ luôn một cái và đầu kim.

Mũi kim ấy cắm sâu luôn vào huyết bàn huyệt. Y không thấy đau đớn gì cả trái lại còn thấy dễ chịu là khác cho nên y càng tin tưởng Triệu Minh thêm cứ luôn mồm cám ơn. Triệu Minh lại bảo y rút kim ra châm luôn vào bẩy nơi yếu huyệt khác cho y.

Vô Kỵ mỉm cười nói:

– Ðược rồi! Ðứng dậy đi!

Nên biết rõ y bị điểm huyệt như vậy trong mười ngày chỉ cần chạy hơi nhanh là trong một trăm dặm sẽ tắt thở mà chết ngay. Nếu y đào tẩu thế nào cũng hết sức chạy cho thật nhanh nên Triệu Minh mới phải dùng kế đó để giết y. Như vậy mới khỏi bị lộ hành tung của hai người.

Triệu Minh lại ra lệnh:

– Mi đi lấy hai chậu nước lại đây cho chúng ta rửa mặt, rồi xuống bếp làm cơm ngay. Nếu mi muốn chết cứ việc bỏ thuốc độc vào cơm canh để chúng ta ba người cùng chết cũng không sao.

Người nọ đáp:

– Tiểu nhân không dám! Tiểu nhân không dám!

Thế là Vô Kỵ với Triệu Minh bỗng dương được một tên đầy tớ trung thành.

Triệu Minh hỏi tên họ của y mới hay y họ Thọ tên Nam Sơn biệt hiệu là Vạn Thọ Cương. Nhưng cái tên hiệu ấy là do bạn y chế nhạo tính nhút nhát của y mà ban cho. Tên đó có nghĩa là suốt đời không sợ bị người nào đánh chết nữa. Y theo mấy người đến làm môn hạ của Viên Chân. Thấy y kém căn bản, tính tình lại nhát như cáy nên Viên Chân chỉ sai làm những việc vặt chứ chưa hề dạy cho y một miếng võ nào cả.

Bị Triệu Minh điểm huyệt, Nam Sơn vẫn chưa mất hơi sức nên tha hồ cho Triệu Minh sai bảo việc gì y cũng chịu khó làm.

Y đem mấy cái xác vào trong vườn chôn rồi gánh nước rửa sạch những vết máu.

Có một điều tuy không biết tý võ công gì nhưng y làm thức ăn rất giỏi.

Vô Kỵ cứ khen ngợi những món ăn của y hoài.

Chờ Nam Sơn làm xong mọi việc Vô Kỵ mới hỏi y về tin tức của Ðồ Sư Anh Hùng hội. Y không dám dấu điếm nửa lời nhưng tiếc thay y chỉ là một tên làm việc vặt nên không biết được tờ gì quan trọng cả. Y chỉ biết buổi đại hội này do Không Văn và Không Trí hai vị đại sư đứng tên phát thiếp mời võ lâm quần hùng cùng các vị anh hùng của các môn phái trên thiên hạ đến tết Ðoan Ngọ tới tập trung ở Thiếu Lâm Tự để bàn việc cần. Vô Kỵ bảo Nam Sơn đưa thiếp mời cho mình. Chàng thấy có mời Phù Trần Tử, Cổ Tòng Tử, Qui Tạng Tử…mấy vị kiếm khách của phái Ðiểm Thương ở tỉnh Vân Nam tới dự đại hội. Các kiếm khách của phái Ðiểm Thương nổi danh đã lâu nhưng ẩn cư ở tận miền nam tinh Vân Nam, xưa nay rất ít đi lại với nhân sĩ của võ lâm Trung Nguyên.

Vô Kỵ thấy lần này phái Thiếu Lâm mời tới cả phái Ðiểm Thương như vậy đủ thấy buổi đại hội ấy sẽ có không biết bao nhiêu là tân khách và quy môi cũng bao la khôn cùng. Phái Thiếu Lâm là phái lãnh tụ các môn phái khác, lại do hai vị thần tăng đích thân đứng mời như vậy thì người được mời dù bận việc đến đâu cũng phải tới dự.

Vô Kỵ lại thấy trên thiếp chỉ viết đơn gin có mấy dòng như sau thôi: “Xin mời quý bạn đúng ngày tết Ðoan Ngọ tới Thiếu Lâm Tự xơi chén rượu mừng với chúng tôi!”

Chàng không thấy viết mấy chữ “Ðồ sư” gì cả liền hỏi Nam Sơn:

– Tại sao Tần Ngũ Lão lại gọi là “Ðồ Sư Anh Hùng hội” như thế?

Nam Sơn có vẻ đắc chí đáp:

– Chắc Trương đại gia chưa biết tin này cũng nên. Sư phụ của chúng tôi có bắt được một nhân vật rất có tên tuổi tên là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Phen này phái Thiếu Lâm chúng tôi hãnh diện được giết chết Kim Mao Sư Vương ở trước mặt tất cả anh hùng hào kiệt trên thiên hạ nên đại hội ấy mới gọi là Ðồ Sư Anh Hùng hội là thế.

Cố nén lửa giận, Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Thế vị Kim Mao Sư Vương ấy là nhân vật như thế nào? Chẳng hay chú có trông thấy không? Sao sư phụ của chú lại bắt nổi ông ấy về như vậy? Hiện giờ ông ta bị giam cầm ở đâu?

– Vị Kim Mao Sư Vương ấy ư? ối chà! Ông ta lợi hại lắm, cao bằng hai tiểu nhân, cánh tay to bằng bắp dùi của tiểu nhân. Không nói cái gì khác, chỉ nguyên đôi mắt của ông ta thôi sao mà dữ tợn và oai phong thế! Bất cứ ai cứ trông thấy đôi mắt ấy một cái là cũng đủ mất hồn vía rồi. Như vậy ông ta khỏi cần đánh kẻ địch cũng đã bị thua rồi…

Thấy tên nọ nói khoác quá như vậy Vô Kỵ và Triệu Minh cùng đưa mắt nhìn nhau vì Tạ Tốn đã đui mù rồi thì còn có mắt hung tợn làm sao được.

Hai người lại nghe thấy y nói tiếp :

– Sư phụ chúng tôi đấu với ông ta bẩy ngày bẩy đêm liền mà vẫn chưa phân thắng bại. Sau cùng sư phụ chúng tôi tức giận quá liền mang môn võ công oai trấn thiên hạ là ” Cầm Phong Phục Hổ Công” ra mới thu phục được ông ấy. Bây giờ sư phụ chúng tôi giam giữ ông ta ở trong thạch động phía sau hậu sơn và phải dùng tám sợi dây gang mới trói nổi…

Càng nghe càng tức giận, Vô Kỵ liền quát lớn:

– Ta hỏi ngươi điều gì ngươi cứ theo đúng sự thật mà nói. Nếu ngươi còn nói bậy như thế nữa ta sẽ giết luôn. Kim Mao Sư Vương đã đui mù sao ngươi lại bảo hai mắt của ông ta hung tợn lắm…

Nam Sơn biết Vô Kỵ đã hay lời nói của y chỉ là bịa đặt nên y vội đáp:

– Dạ…dạ. Có lẽ tiểu nhân đã trông lầm.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Chẳng hay ngươi đã được trông thấy tận mắt ông ta chưa? Mặt mũi của Tạ Tốn như thế nào? Ngươi thử tả cho ta nghe?

Sự thật Nam Sơn đâu đã được trông thấy Tạ Tốn bao giờ. y biết phen này không thể nói khoác được nữa đồng thời y lại sợ bị mất mạng nên vội đáp:

– Quả thật tiểu nhân không dám nói dối hai vị. Nhượng chuyện đó là do các vị sư huynh kể lại cho tiểu nhân nghe chứ tiểu nhân chưa bao giờ được trông thấy Kim Mao Sư Vương bao giờ.

Hồi thứ 90

Ðồ Sư Ðại Hội

Vô Kỵ chỉ cần biết nơi giam giữ Tạ Tốn ở đâu thôi, nhưng chàng hỏi đi hỏi lại mà Nam Sơn chỉ biết có như trên nên chàng đoán chắc việc bí mật và quan trọng như thế này khi nào Viên Chân lại để cho một tên tiểu tốt hay biết đến nên chàng mới thôi không hỏi y nữa. Hơn nữa từ giờ đến tết Ðoan Ngọ còn hơn một tháng thì đủ thời giờ cho mình dưỡng thương và ung dung đi cứu viện.

Ba người ở trong miếu Trung Mục mấy ngày bình yên vô sự, không thấy Thiếu Lâm Tự cho người liên lạc gì cả.

Tới ngày thứ tám Triệu Minh đã lành mạnh bẩy tám phần rồi, Vô Kỵ cũng thấy chân khí trong người đã có thể lưu thông được dần, chân tay bắt đầu có sức lực. Nếu lúc này kẻ địch có tới tuy chàng chưa đủ sức đả thương chúng thì cũng đủ sức đào tẩu được rồi. Nam Sơn rất tận tâm, không dám có ý định phản bội chút nào.

Triệu Minh cười nói:

– Vạn Thọ Nam Cương, tuy ngươi không có căn bản để học võ công nhưng làm quản gia thì lại là nhân tài thượng thặng đấy!

Nam Sơn gượng cười đáp:

– Cô nương dạy rất phải!

Lại thêm mười ngày nữa, vết thương của Vô Kỵ và Triệu Minh đã lành mạnh hẳn.

Hàng ngày được ăn toàn những món ăn ngon lành của Nam Sơn làm cho, da mặt hai người đã hồng hào, tinh lực rất dồi dào.

Vô Kỵ liền bàn với Triệu Minh làm thế nào để lên chùa Thiếu Lâm cứu Tạ Tốn.

Triệu Minh đề nghị:

– Phương pháp tốt nhất là điểm huyệt tên Nam Sơn này rồi phái y tới chùa Thiếu Lâm do thám, nhưng khốn nỗi tên này võ công tầm thường quá. Nhỡ để Thành Khôn với Hữu Lượng biết thì mưu kế của hai người sẽ bại lộ, hỏng hết đại sự. Chi bằng thế này vậy, hai chúng ta tới chân núi Thiếu Lâm Tự trước rồi tùy cả mà ứng biến. Nhưng chúng ta phải cải trang đi mới được.

Vô Kỵ vội hỏi:

– Hóa trang để làm gì? Chẳng lẽ cạo trọc đầu làm hòa thượng với ni cô hay sao?

Triệu Minh mặt đỏ bừng hờn giận đáp:

– Thế mà đại ca cũng đòi nghĩ mưu kế. Một tiểu hòa thượng giắt một tiểu ni cô ban ngày đi lại lại như vậy thì còn ra gì thể thống nữa?

Vô Kỵ vừa cười vừa nói tiếp:

– Hay là chúng ta giơ dạng thành một đôi vợ chồng nhà nông đến chân núi Thiếu Thất cầy cấy, đốn củi vậy. Giả dạng thành anh em không được hay sao mà đại ca cứ đòi giả dạng làm vợ chồng như thế? Nhỡ Chu Chỉ Nhược cô nương trông thấy có phải bên vai trái em lại bị thủng thêm năm cái lỗ nhỏ nữa không?

Vô Kỵ cười khì một tiếng không tiện nói tiếp nữa.

Sau chàng lại dò hỏi Nam Sơn về tình hình ở bên trong Thiếu Lâm Tự như thế nào. Cuối cùng chàng nói:

– Hiện giờ ngươi bị điểm trúng tử huyệt mà chúng ta mới giải huyệt được có bẩy tám thành thôi.

Nhưng trong đời này ngươi phải ở tận miền Nam mới được, chứ ngươi hễ thấy băng tuyết nhiễm lạnh là chết liền. Vậy bây giờ ngươi phải đi ngay xuống miền nam, ở những nơi càng nóng càng tốt, bằng không chỉ một chút gió lạnh ngươi cũng bị mạo cảm ho hen, lúc ấy sẽ vô cùng nguy hiểm.

Nói xong, chàng xoa bóp cho y một hồi, giả là giải cả tử huyệt cho y nữa.

Nam Sơn tưởng thật, vái chào hai người ra khỏi cửa miếu tiến thẳng về miền Nam ngay. Quả nhiên suốt đời y cử ở những miền man di tại miền Nam, cẩn thận giữ gìn không để cho bị gió lạnh, nhờ vậy sau này y sống mãi tới tận đời vua Kiến Văn nhà Minh mới mất.

Hai người chờ Nam Sơn đi xa rồi mới nổi lửa đốt luôn miếu Trung Mục cho tới khi cháy thành đống gạch vun mới lên đường.

Hai người đi được hơn mười dặm liền tới một nhà nông gia, mua lại hai bộ quần áo rồi vào trong rừng thay luôn, còn quần áo cũ của hai người thì chôn ngay xuống đất. Hai người từ từ đi thẳng tới chân núi Thiếu Thất.

Hai người đi cách Thiếu Lâm Tự chừng bẩy tám dặm, trên đường đã gặp ba hòa thượng ở trong chùa rồi.

Triệu Minh liền nói:

– Chúng ta không thể tiến thêm được nữa!

Hai người thấy gần đó có hai căn nhà, ngoài cửa có một cồn đất trồng rau và có một ông già quê mùa đang tưới ra.

Triệu Minh liền nói tiếp:

– Chúng ta xin ở nhờ nhà ông già này đi!

Vô Kỵ tiến lại gần lên tiếng hỏi:

– Thưa lão trượng, anh em chúng tôi đi đường mệt mỏi, xin lão trượng ban cho một bát nước uống để giải khát.

Ông già làm như không nghe thấy gì cả, cứ tiếp tục tưới rau như thường.

Vô Kỵ lại nói thêm một lần nữa, ông già ấy vẫn không trả lời.

Bỗng có một tiếng kẹt cửa, cánh cửa ngôi nhà lá mở toang ra.

Một bà lão tóc bạc phơ bước ra vừa cười vừa trả lời:

– Ông lão nhà tôi vừa điếc lại vừa câm, chẳng hay quan khách muốn dậy bảo gì thế?

Vô Kỵ đáp:

– Cô em gái của tôi đi đường mỏi mệt quá, không sao đi tiếp được cho nên chúng tôi muốn vào đây, xin hai cụ bát nước cho đỡ khát.

Bà cụ liền trả lời:

– Mời hai người cứ vào đây!

Hai người theo bà cụ vào bên trong. Thấy trong nhà quét dọn sạch sẽ, cả bàn ghế cũng được lau chùi rất sạch. Bà cụ tuy mặc quần áo vải thô sơ sài nhưng cũng sạch sẽ vô cùng.

Triệu Minh trong lòng mừng rỡ thầm, uống xong ngụm nước liền lấy ra một nén bạc rồi vừa cười vừa nói:

– Thưa cụ! Anh cháu đem cháu về nhà bà ngoại, trong khi đi đường cháu bị trẹo chân không sao tiếp tục đi được nữa. Tối hôm nay muốn xin cụ cho ở nhờ một đêm, sáng mai chúng cháy lại lên đường ngay.

Bà cụ đáp:

– Ngủ nhờ một đêm thì không sao, khỏi cần đưa tiền bạc cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ có một phòng, một cái giường. Dù vợ chồng tôi có nhường chiếc giường đó cho cô cậu chăng nữa, cô cậu cũng không sao ngủ chung được. Hì Hì! Cô bé kia cứ nói thật cho già nghe đi! Có phải cô lén trốn cha mẹ theo người yêu đi phải không?

Triệu Minh thấy bà già nói đúng tâm sự của mình, mặt liền đỏ bừng nghĩ thầm: “Bà cụ này sành tâm lý thật. Nghe giọng nói của bà ta hình như bà cụ này không phải là nhà nông thường”.

Nghĩ đoạn, nàng ngắm bà cụ thêm một hồi. Nàng thấy bà cụ tuy lưng còng, nhưng bước đi rất lẹ làng.

Hai mắt tuy lim dim nhưng vẫn có ánh sáng tia ra. Chưa biết chừng bà ta lại là người có võ công cao siêu là khác.

Triệu Minh cũng tự biết Vô Kỵ ăn mặc còn giống nhà nông chứ mình thì mặt mũi, cử chố, lời nói, thái độ không có một điểm nào là giống người quê mùa hết.

Vì vậy nàng liền rỉ tai bà cụ khẽ nói:

– Thưa cụ, cụ đoán đúng lắm! Cháu cũng không dám dấu cụ nữa. Ðại ca đây quen biết cháu từ hồi còn nhỏ, cha cháu hiềm nỗi nhà anh ấy nghèo hèn, không g cho. Mẹ cháu thấy cháu cứ đòi tự tử nếu không lấy được anh ấy mới cho phép cháu theo anh ta…chạy ra đây…Mẹ cháu nói phải ở trốn bên ngoài đôi ba năm chờ có con cái rồi hãy về nhà sau.

Nàng vừa kể, mặt đỏ bừng, vừa liếc nhìn Vô Kỵ, đôi mắt chứa đầy tình tứ.

Nàng lại nói tiếp:

– Nhà cháu ở trên thành cũng gọi là có chút danh tiếng. Cha cháu làm ở trong triều, nếu chúng cháu bị người ta bắt được thì sẽ mang họa tày trời. Thưa cụ, cụ làm ơn đừng nói cho ai biết nhé!

Bà cụ cười ha hả, gật đầu mấy cái rồi đáp:

– Hồi già còn trẻ cũng là một người phoảng lưu như cháu vậy. Thôi được, cháu cứ yên tâm, già sẽ nhường căn phòng cho hai vợ chồng trẻ ở tạm. Nơi đây cách đại đo hàng ngàn dặm, cam đoan với cô bé là không có ai theo tới đâu, mà dù có người theo dõi cô em tới đây làm khó dễ ta cũng không để yên cho chúng đâu.

Bà cụ thấy Triệu Minh đẹp đẽ, nhu mì, vừa gặp mặt đã nói hết nỗi lòng mình cho bà ta hay nên bà cụ liền có thiện cảm với nàng liền quyết chí ra tay trợ giúp.

Bà cụ lại muốn giúp hai người thành vợ chồng nữa nên mới nhường phòng như vậy. Triệu Minh nghe thấy bà cụ nói mấy lời như vậy, biết ngay bà ta là người trong võ lâm. Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm không xa, không hiểu bà ta với phái Thiếu Lâm là bạn hay là thù. Vì vậy nàng vẫn hết sức dè dặt, không dám lộ chút tung tích nào cả.

Thế rồi nàng quỳ xuống vái lạy và nói:

– Cụ làm ơn giúp chúng cháu như vậy, chúng cháu thực cám ơn vô cùng. Ngưu đại ca mau cám ơn bà cụ đi!

Vô Kỵ nghe lời chạy đến vái lạy bà cụ. Bà cụ liền nhường căn phòng của mình cho hai người rồi tự kê một tấm ván ở ngoài snh đường để làm giường.

Triệu Minh kéo Vô Kỵ vào trong phòng kể rõ câu chuyện bịa đặt với bà cụ cho chàng nghe.

Vô Kỵ gật đầu hỏi lại:

– Ông cụ tưới rau hồi nãy bản lĩnh cao siêu hơn bà cụ này nhiều, không biết Minh muội có nhận thấy điều đó không?

Triệu Minh đáp:

– Thế à? Thế mà em không biết tí gì cả đấy!

– Ông ta gánh phân đi rất nhanh mà nước ở bên trong không tròng trành một chút nào đủ thấy nội công của ông ta cao siêu biết bao?

– Thế so sánh với đại ca thì ai hơn ai kém?

– Nào đã thử tài đâu mà biết được?

Chàng vừa cười vừa nói rồi ôm luôn Triệu Minh lên vai giả bộ làm gánh phân.

Triệu Minh cười khúc khích hỏi:

– Ðại ca định ví tôi như thùng phân hay sao?

Bà cụ nghe thấy hai người cười đùa trong lòng không còn hoài nghi gì nữa liền đi ra luôn.

Ðêm hôm đó hai người với hai vợ chồng lão nông phu đó cùng ăn một bàn, thức ăn có gà vịt hẳn hoi.

Vô Kỵ với Triệu Minh thỉnh thoảng giả bộ bóp tay bóp chân nhau làm như một đôi tình nhân bỏ trốn thật vậy.

Bà cụ già thấy vậy chỉ mỉm cười còn ông già làm như không trông thấy gì hết, cứ cúi đầu ăn hoài.

Cơm nước xong xuôi, Vô Kỵ với Triệu Minh vào trong phòng đóng cửa lại.

Trong khi ăn, hai người giả bộ đùa giỡn nhau, ngờ đâu cả hai đều động lòng thật sự. Triệu Minh mặt đỏ bừng khẽ nói:

– Hồi nãy chúng ta giả bộ đấy thôi! Ðại ca đừng có cho là thật đấy nhé!

Vô Kỵ liền ôm nàng vào lòng hôn hít khẽ đáp:

– Nếu chỉ là giả bộ thôi thì đôi ba năm nữa làm sao sinh con đẻ cái được?

Triệu Minh hổ thẹn nói tiếp:

– ủa! Thế ra đại ca núp ở bên ngoài đã nghe lỏm hết những lời tôi nói rồi à?

Tuy với Triệu Minh cười đùa ăn nói rất phóng túng, bây giờ Vô Kỵ cũng nghĩ mình đã có hôn ước với Chu Chỉ Nhược rồi. Chàng chỉ mong cứu xong nghĩa phụ và thành hôn với Chu Chỉ Nhược xong mới dám nghĩ đến chuyện thành hôn với Triệu Minh.

Lúc này chàng đang ôm Triệu Minh trong lòng, tuy thấy trong người rạo rực thật nhưng vẫn biết kìm chế nên hôn nàng xong chàng liền ẳm nàng lên giường đặt nằm xuống rồi chàng ra nằm lên một cái ghế, vận Cửu Dương Thần Công chân khí chạy khắp người hai vòng sau đó mới tựa lưng vào vách ngủ luôn.

Triệu Minh nằm trằn trọc mãi không ngủ được cho tới khi nghe thấy tiếng gà gáy sáng. Ðang mơ mơ màng màng thì bỗng nhiên nàng nghe thấy có tiếng chân đi rất lẹ và chỉ thoáng một cái bóng ngay trước cửa nhà này.

Nàng vội giơ tay ra lay gọi Vô Kỵ.

Ngờ đâu, Vô Kỵ thấy động cũng hay biết và giơ tay lên định lay nàng.

Tay hai người khẽ chạm vào nhau rỗi khẽ nắm chặt lấy.

Bỗng nghe thấy tiếng ngoài của có một tiếng thánh thót vọng vào:

– Vợ chồng họ Ðỗ kia, có chúng ta tới đây, mau mau ra mà chịu chết.

Một lát sau thấy bà cụ ở trong cửa trả lời:

– Có phải Thanh Hải Tam Kiếm đấy không? Vợ chồng chúng tôi ở Sơn Tây xa lánh tới đây là vì sợ hãi Thanh Hải Ngọc Chấn Quang của quý vị đây. Mà người ta khi đã biết lỗi chịu cúi đầu nhận lỗi vái lạy thì kẻ thù cũng tha thứ cho liền, ba vị hà tất phải đuổi tận, giết tuyệt không chịu buông tha cho chúng tôi như thế?

Người ngoài cửa cười ha hả trả lời:

– Nếu hai vị sợ thực sự thì cứ việc quỳ xuống vái lạy ba lạy, anh em Ngọc Chấn Quang chúng ta sẽ xí xóa cho liền.

Chỉ nghe tiếng “lách cách” rồi cánh cửa kêu “kẹt” một tiếng bà cụ liền mời những người đó vào trong nhà.

Người đạo sĩ đi giữa liền hỏi:

– Chẳng hay hai vợ chồng lão định xin lỗi hay định quyết chiến?

Bà cụ chưa kịp trả lời thì ông cụ bên trong đã bước ra. Chỉ thấy xương trong người ông ta kêu như rang lạc. Hiển nhiên ông ta có nội công rất đặc biệt.

Bà cụ cũng múa hai tay rất dẻo như một cô gái độ mười tám, đến đứng cạnh chồng.

Ðạo sĩ nọ lại lên tiếng hỏi:

– Ðỗ tiên sinh, chẳng nói chẳng rằng, có phải khinh Thanh Hải Tam Kiếm chúng tôi không?

Bà cụ vội đỡ lời:

– Chồng tôi già điếc, chẳng nghe thấy gì đâu.

Ðạo sĩ râu ngắn kêu “ủa” một tiếng nói tiếp:

– Ðỗ tiên sinh có tiếng là người nghe tiếng gió cũng có thể biết là ám khí hay vũ khí của đối phương, sao bây giờ lại bị điếc như vậy? Thật đáng tiếc!

Ðạo sĩ đứng bên cạnh rút trường kiếm ra rồi hỏi:

– Sao hai vị không lấy khí giới ra?

Bà cụ liền giơ tay lên, mỗi tay đã có ba thanh đơn đao, dài không đầy nửa thước.

Ông già điếc cũng giơ hai tay lên, trong tay cũng có sáu con đao như vợ vậy.

Chỉ thấy đao ở tay trái ông già lăn sang bên phải còn đao ở phía bên tay phải lăn sang trái. Những ngón tay của ông ta như kết dính với đao, thuần thục vô cùng.

Ba đạo sĩ thấy hai vợ chồng nọ có khí giới đặc biệt như vậy đều giật mình kinh hãi vì họ chưa thấy có ai sử dụng phi đao như thế hết.

Thì ra ông già điếc kia họ Ðỗ, tên là Bách Ðang, vợ là Dịch Tam Nương. Chồng sử dụng tam câu, vợ sử dụng liên tử thương. Vì kết thù với Ngọc Chấn Quang ở Thanh Hải, đôi bên giao chiến mấy lần, có thắng có bại. Sau vợ chồng họ Ðỗ phần thì thấy bên mình ít người, phần vì không muốn dây dưa thù oán nên đã bỏ cả cơ nghiệp đồ sĩ ở Sơn Tây, cao chạy xa bay tới đây. Không ngờ ba lão đạo sĩ này là đệ tử đời thứ ba của Ngọc Chấn Quang là Vân Hạc, đạo sĩ râu ngắn, đạo sĩ béo lùn là Mã Pháp Thông, còn đạo sĩ gầy gò bé nhỏ là Vân Yến cũng vẫn tìm ra. Ba người này kiếm pháp rất cao siêu nên được giang hồ võ lâm ban cho biệt hiệu là Thanh Hải Tam Kiếm.

Mã Pháp Thông thấy vợ chồng họ Ðỗ giở khí giới đặc biệt ra, biết ngay là rất lợi hại liền rút kiếm ra lệnh cho hai người kia cùng tấn công.

Ba lão đạo sĩ liền xông lại, bao vây hai vợ chồng ông già vào giữa.

Vô Kỵ ở trong buồng theo dõi một lúc mà không biết ba lão đạo sĩ dùng bộ pháp gì mà cứ đi xuyên qua xuyên lại giữa hai vợ chồng họ Ðỗ một cách tinh diệu như thế. Vợ chồng ông già liền tựa lưng vào nhau, bốn tay thay đổi nhau múa động mười hai chiếc đao ngắn. Thì ra hai vợ chồng ông già không những có thể lăn đon đao từ tay này sang tay kia mà có thể còn trao đổi sang cho nhau nữa.

Triệu Minh thấy vậy ngạc nhiên hỏi:

– Ðại ca! Họ làm trò phép thuật gì thế?

Vô Kỵ cau mày nhưng không trả lời tiếp tục xem một hồi rồi bỗng nhiên hiểu ra liền trả lời:

– Thì ra y sợ Sư Tử Hống của nghĩa phụ ta nên mới luyện tập môn võ khí này. Nhưng địch sao nổi nghĩa phụ ta?

Triệu Minh ngạc nhiên vô cùng vội hỏi lại thì Vô Kỵ giải thích cho nàng rõ:

– Năm người này tất nhiên đều có thù với nghĩa phụ. Ông già sợ Sư Tử Hống của nghĩa phụ mới tự đâm thủng tai để khỏi nghe thấy gì nữa…

Chàng vừa nói tới đó thì đã thấy Thanh Hải Tam Kiếm liên tiếp tấn công vợ chồng họ Ðỗ nhưng đều bị họ gạt bay ra ngoài hết. Mười hai con đơn đao cứ chạy quanh người họ, bảo vệ một cách rất nghiêm cẩn.

Thanh Hải Tam Kiếm tấn công luôn năm lần thấy không ăn thua gì đành phải dành thế thủ.

Ðỗ Bách Ðang liền tiến lên dùng đon đao đâm luôn vào bụng Mã Pháp Thông. Nhân lúc ông già tiến lên tấn công Vân Hạc và Vân Yến liền thừa thế múa kiếm tấn công vào sau lưng y, nhưng kiếm thế của họ đều bị đon đao của Dịch Tam Nương gạt ra hết. Ðao pháp của hai người này, một công, một thủ, phối hợp rất chặt chẽ nhịp nhàng. Người tấn công cứ việc tấn công, người thủ cứ việc thủ không cần bận tâm gì cả. Pháp Thông bị Bách Ðang tấn công ba đao liền, chân tay cuống quýt lùi lia lịa. Bách Ðang lại càng lăn x vào tấn công nguy hiểm hơn trước nhiều. Vân Hạc thấy vậy liền rú lên một tiếng thật dài thay đổi luôn kiếm cùng Vân Yến. Hai người làm thành một thành kiếm, ngăn cản Bách Ðang ra ngoài ba thước. Tiếp theo đó ba thanh kiếm cùng múa tít, phòng vệ kín đáo khôn tả.

Vô Kỵ cười nhạt một tiếng rỉ tai Triệu Minh:

– Pho đao pháp với kiếm pháp này của chúng đều dùng để đối phó với nghĩa phụ tôi hết. Minh muội thử xem chúng trấn thủ nhiều, tấn công ít, sở trường là thủ hơn công, dù chúng có đấu thêm cả ngày nữa cũng không sao phân thắng bại được.

Quả nhiên năm người đấu mãi vẫn không sao phân thắng bại được.

Mã Pháp Thông đột nhiên la lớn một tiếng: “Hãy khoan!” rồi y nhảy ra ngoài vòng chiến. Bách Ðang cũng lui về phía sau.

Pháp Thông nói:

– Có phải hai vị luyện đao pháp này dùng để đồ sư đấy không? Dịch Tam Nương trả lời:

– Sao ba vị lại lanh tin đến thế?

Pháp Thông nói tiếp:

– Tạ Tốn đã giết chết con của Ðỗ lão tiên sinh, thù này thế nào cũng phải trả cho được. Bây giờ chúng tôi đã dò biết được kẻ thù của lão tiên sinh đang ở chùa Thiếu Lâm, sao lão tiên sinh không sớm kết liễu cho xong đi?

Dịch Tam Nương đáp:

– Ðó là việc riêng của gia đình chúng tôi, không dám phiền đạo trưởng lo âu hộ.

Pháp Thông lại nói tiếp:

– Chuyện của chúng ta, nguyên là chuyện nhỏ, hà tất phải dây dưa với nhau mãi làm gì. Chi bằng chúng ta hóa địch thành bạn, liên kết đi kiếm Tạ Tốn để trả thù, chẳng hay quý vị nghĩ sao?

Dịch Tam Nương liền đáp:

– Quý vị có thù với Tạ Tốn không?

– Không!

– Nếu không có thù với Tạ Tốn, tại sao ba vị lại luyện môn kiếm pháp chuyên khắc chế Thất Thương Quyền để làm chi?

– Tam nương sành thực, sự thật chúng tôi tới đây chỉ muốn mượn thanh đao Ðồ Long để xem thôi.

Tam nương gật đầu dùng mấy tay viết mấy chữ vào gan bàn tay chồng.

Bách Ðang cũng giơ tay ra viết mấy chữ vào gan bàn tay bà.

Hai vợ chồng Bách Ðang nói chuyện với nhau bằng cách ghi chữ lên bàn tay một hồi. Tam Nương liền trả lời ba vị đạo sĩ:

– Thế thì may mắn lắm, chúng ta năm người liên kết, vợ chồng chúng tôi chỉ cần báo thù, dù có toi mạng cũng cam tâm chứ không dòm ngó bảo đao Ðồ Long đâu.

Pháp Thông cả mừng:

– Hay lắm, chúng ta năm người hợp sức tấn công Tạ Tốn.Tam Nương giết người trả thù, chúng tôi cần bảo đao, hai bên đều toại nguyện, khỏi tổn thương hòa khí.

Năm người liền vỗ tay ăn thề, rồi tất cả cùng vào nhà trong uống nước để bàn kế hoạch trả thù cướp đao.

Thanh Hải Tam Kiếm vừa vào tới trong nhà đã để ý tới phòng trong.

Tam Nương thấy vậy liền vừa cười vừa nói:

– Ba vị khỏi phải nghi ngờ, bên trong có một đôi vợ chồng trẻ, không biết võ công gì hết, vừa trốn nhà ra đi đấy.

Pháp Thông là người rất cẩn thận, sợ đôi vợ chồng trẻ ấy tiết lộ tin tức ra bên ngoài nhưng Tam Nương đã nói tiếp:

– Chúng ta đấu với nhau nửa ngày mà vợ chồng họ vẫn ngủ say như chết vậy. Nếu Mã gia không tin, để già này đi gọi ra cho xem.

Nói xong, bà ta định đẩy cửa vào nhưng bên trong đã cài then rồi.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Nếu lúc này ta đánh bại năm tên này sẽ làm mất cả manh mối cứu nghĩa phụ.

Nghĩ đoạn chàng liền ôm chặt lấy Triệu Minh, cả hai đắp chăn giả vờ ngủ.

Lúc ấy Vân Hạc đã dùng sức đẩy gẫy then cửa.

Tam Nương liền cầm nến đi vào, Thanh Hải Tam Kiếm cũng nối gót theo sau.

Vô Kỵ giả bộ mơ mơ màng màng hé mắt ra nhìn Tam Nương.

Pháp Thông dí ngay kiếm vào yết hầu chàng.

Thế kiếm của y vừa nhanh vừa độc.

Vô Kỵ giả bộ kinh hãi kêu “ủa” một tiếng.

Chàng làm như không biết tránh né, lại còn đưa đầu về phía trước.

Pháp Thông vội thu kiếm lại nghĩ thầm:

– Quả thật người này không biết một chút võ công nào cả.

Triệu Minh lại giả bộ kêu khẽ mấy tiếng nhưng vẫn không thức tỉnh cuộn người ôm lấy Vô Kỵ.

Vân Hạc liền lên tiếng:

– Tam Nương nói đúng đấy, chúng ta đi ra thôi!

Chờ năm người đi ra xong, Vô Kỵ liền nhảy xuống guồng ra phía sau cửa nghe lỏm. Chàng nghe Pháp Thông nói:

– Hai vị đã dò ra đích xác Tạ Tốn ở trong chùa Thiếu Lâm rồi ư?

Tam Nương đáp:

– Thiếu Lâm Tự đã phát thiếp mời tất cả anh hùng hào kiệt của các bang phái đến tết Ðoan Ngọ tới chùa dự đại hội đồ sư. Nếu chúng không bắt được Tạ Tốn thì khi nào dám phát thiếp như thế?

Pháp Thông đỡ lời:

– Hai vị đã biết phái Thiếu Lâm sắp đem kẻ thù của hai vị ra giết rồi, vậy Ðỗ lão tiên sinh hà tất phải chọc thủng tai làm điếc như thế làm chi?

Tam Nương cười nhạt đáp:

– Tạ Tốn giết chết đứa con duy nhất của vợ chồng lão thì khi nào vợ chồng già lại để cho người khác giết y. Khi chúng tôi gặp ác tặc họ Tạ đó, già này cũng tự đâm thủng màng tai trước rồi hai vợ chồng cùng đấu trí mạng với y. Từ khi con của chúng tôi chết đến giờ, hai vợ chồng chán nản vô cùng, không còn muốn sống ở trên đời này nên không sợ làm mất lòng phái Thiếu Lâm hay phái Võ Ðang gì hết.

Vô Kỵ nghe nói tới đó, không thấy năm người nói gì thêm nữa vội ghé mắt nhìn qua khe cửa.

Chàng thấy năm người đó đang chấm nước trà viết lên trên bàn để nói chuyện với nhau. Chàng thấy họ cẩn thận như vậy không thể nào dò la nghe ngóng thêm được nữa liền ngồi trên ghế ngủ luôn.

Sáng hôm sau, Tam Nương liền bảo Vô Kỵ:

– Tiểu Tăng ca, ăn cơm đi. Chúng tôi còn phải gánh ba gánh củi đem lên chùa bán. Tiểu ca gánh hộ tôi một gánh có được không? Hòa thượng trong chùa có hỏi tới thì bảo là con của già nhé!

Vô Kỵ đáp:

– Bà dặn sao, tiểu tử xin làm y theo như thế! Quý hồ ông bà cho chúng cháu được ở lại nơi đây để khỏi phải chạy nay đây mai đó, không một ngày nào được yên ổn cả.

Trưa ngày hôm đó Vô Kỵ liền theo ông bà già gánh một gánh củi đi lên chùa Thiếu Lâm. Triệu Minh thì ở lại coi nhà.

Vợ chồng ông già giả bộ đi rất chậm và thở hồng hộc.

Khi vừa tới sơn đình ở ngoài cổng chùa ba người đặt gánh củi xuống ngồi nghỉ ngơi thì đã có hai hòa thượng ở đó rồi nhưng chúng không để ý gì cả.

Tam Nương lấy khăn cột đầu lau chùi mồ hôi cho Vô Kỵ rồi nói:

– Con ngoan ngoãn giúp ta, chắc con mệt lắm phải không?

Vô Kỵ ngửng đầu lên nhìn, thấy nước mắt bà cụ chạy quanh khóe mắt. Chàng mới hay bà già thấy mình động lòng thương con, không nỡ nhẫn tâm làm phật y bà cụ, chàng liền nói:

– Thưa mẹ, con không mỏi mệt gì cả, chắc mẹ mệt lắm thì phải?

Chàng gọi bà cụ là mẹ liền nghĩ đến mẹ mình liền ứa nước mắt ra luôn.

Tam Nương thấy chàng gọi mình là mẹ, nước mắt liền nhỏ dòng xuống, vội cầm cái khăn buộc đầu lên giơ bộ chùi mồ hôi nhưng thật ra là lau nước mắt cho mình và cho Vô Kỵ.

Bách Ðang vội đứng dậy gánh luôn gánh củi rồi ra hiệu cho vợ và Vô Kỵ đi luôn.

Vô Kỵ vội chạy lại dỡ lấy hai bó củi trong gánh của Tam Nương để sang gánh của mình và nói:

– Mẹ này! Chúng ta đi thôi!

Tam Nương thấy Vô Kỵ làm như vậy cảm động vô cùng nên chân đi loạng choạng, không sao tiến bước được nữa.

Vô Kỵ vội quay lại giơ tay ra đỡ.

Một hòa thượng trông thấy vậy nói:

– Thiếu niên này cũng hiếu thảo thật!

Vị hòa thượng thứ hai cũng lên tiếng nói tiếp:

– Bà cụ, có phải gánh củi đem vào chùa đấy không? Mấy ngày hôm nay Phương Trượng đã hạ chỉ pháp, cấm người ngoài vào chùa, các người đừng đi vào nữa!

Tam Nương liền tỏ vẻ phân vân thì hòa thượng thứ nhất đã lên tiếng nói:

– Gia đình nhà quê này, mẹ từ con hiếu, chúng ta đặc cách cho họ vào. Sư đệ hãy đưa họ đi lối cửa sau Hưng Tích Thử (bếp của nhà chùa). Nếu giám chùa biết thì bảo những người này đã đến bán quen rồi. Như vậy cũng không sao đâu.

Người thứ hai đáp:

– Vâng! Giám chùa cấm, không để cho người ngoài vào là để phòng bị những kẻ gian đấy thôi, còn những người trung hiếu thật thà này thì cấm đoán họ làm chi?

Thế rồi hòa thượng ấy dẫn cả ba người đi lối cửa sau vào chùa.

Khi gánh tới phòng chứa củi đã có tăng nhân của Hưng Tích Thử tính tiền nong trả cho ba người liền.

Tam Nương vội nói:

– Chúng ta lại có tiền mua rau ăn mấy ngày rồi. Ngày mai chúng ta đem mấy cân rau vào đây biếu mấy vị sư phụ ăn thử. Rau ấy là rau của chúng tôi biếu mấy vị chứ không phải trả tiền nong gì cả.

Mấy tên hòa thượng nghe thấy bà già nói như vậy đều khoái trí cười tít mắt.

Một hòa thượng bỗng nói:

– Từ nay trở đi các người không được phép lên đây bán củi nữa.

Y nói tới đó liền đưa mắt ngắm nhìn Vô Kỵ một hồi rồi nói tiếp:

– Bổn chùa đang cần một thằng nhỏ gánh nước bổ củi, tiền công mỗi tháng năm chỉ bạc, chẳng hay chú em kia có chịu đi làm không?

Tam Nương cả mừng liền nhận ngay.

Trái lại Vô Kỵ lo âu nghĩ thầm:

– Trong chùa này có quá nhiều người biết ta, nhỡ bị chúng nhận ra thì sao?

Nghĩ đoạn, chàng liền nói với Tam Nương:

– Thưa mẹ, nhà con…

Tam Nương thấy cả hội này rất hiếm có vội an ủi chàng:

– Con cứ yên trí ở lại đây làm việc nghe lời các sư phụ. Vợ con thì mấy hôm nữa mẹ sẽ đưa nó lên thăm con. Lớn như vậy mà cứ không chịu rời khỏi gia đình đi ra ngoài kiếm ăn, chẳng lẽ bây giờ vẫn còn muốn nó cho bú hay sao?

Nói xong, bà ta lại tỏ vẻ âu yếm vuốt tóc chàng mấy cái. Sự thật Vô Kỵ vẫn mong có cả hội như thế này nhưng chỉ e ngại đôi chút thôi.

Sau chàng thấy mấy hòa thượng đứng cạnh đấy khuyên bảo nên giơ miễn cưỡng nhận lời:

– Tốt hơn hết sư phụ cho tôi sáu chỉ một tháng để tôi đưa cho mẹ năm chỉ, còn chỉ thêm kia để mua vải hoa may áo cho vợ tôi…

Ai nấy không sao nhịn được cười.

Tam Nương dặn bảo chàng vài lời rồi cùng Bách Ðang xuống núi luôn.

Vô Kỵ theo người coi Hưng Tích Thử là Tuệ Chi xuống dưới gánh nước bổ củi, dọn than.

Trong khi dọn than chàng lấy tay quệt cho dính than lên mặt, làm lem luốc, đầu tóc rối bù khiến ai trông thấy cũng không sao nhận ra được.

Chàng biết những hòa thượng trong chùa Thiếu Lâm này, ai ai cũng đều có võ công cao siêu hết nên nhất cử nhất động đều cẩn thận hết sức.

Bảy tám ngày sau Tam Nương đem Triệu Minh đến thăm chàng hai lần.

Chàng làm lụng hết sức chăm chỉ nên rất được lòng các hòa thượng.

Chàng dò hỏi mấy hòa thượng làm bếp thì không ai biết Tạ Tốn bị giam ở đâu cả.

Tới ngày thứ chín, chàng nghe thấy có tiếng hò hét ở đằng xa vọng lại. Chàng mới nhảy ra bên ngoài, vào trong rừng liền thấy có mấy người đang đấu với nhau. Nhưng do trời tối quá nên không trông thấy mặt những người đó. Mãi sau, chàng mới nhận ra trong số đó có Thanh Hải Tam Kiếm đấu với ba hòa thượng.

Tam kiếm giở Tam Tài Trận ra ngờ đâu mới đấu thêm được một vài hiệp nữa lại đã có một tên bị giết chết.

Nghe tiếng kêu la, chàng nhận ngay ra người đó là Mã Pháp Thông. Còn lại một người, cánh tay phải bị thương liền bị ba hòa thượng kia bủa vây chặt không sao phản công được.

Liền có một giọng khàn khàn hỏi:

– Phái Thiếu Lâm chúng ta xưa này không có thù oán gì với Thanh Hải Ngọc Châu Quan hết. Tại sao các người trong lúc đêm khuya lại đến đây làm gì?

Người còn lại của Tam Kiếm là Vân Hạo rầu rộ đáp:

– Ba anh em chúng ta bị bại trận, chỉ tại tài kém thôi, khỏi cần hỏi nhiều, muốn giết cứ giết đi!

Giọng khàn khàn cười nhạt hỏi tiếp:

– Các người tới đây vì Tạ Tốn hay vì Ðồ Long đao? Hì! Hì! Chúng ta chưa hề nghe qua Tạ Tốn giết hại một người nào trong Thanh Hải Ngọc Châu Quan hết, như vậy chắc chắn các người đến đây là vì bảo đao? Với tài ba này mà cũng đòi xông lên Thiếu Lâm Tự, thực là coi thường thiên hạ võ lâm quá!

Nhân lúc lão hòa thượng đang nói, Vân Hạc liền tiến lên đâm luôn một nhát kiếm. Lão hòa thượng đó đánh chậm một chút liền bị đâm trúng vào vai trái.

Hai hòa thượng đứng bên cạnh liền múa song đao cùng chém xuống.

Vân Hạc đã bị chém ngay ra làm ba mảnh.

– Ba hòa thượng liền đem xác của Thanh Hải Tam Kiếm trở về chùa.

Vô Kỵ đang định đi theo xem sao bỗng dưng nghe thấy ở bụi cây bên cạnh phía bên phải có tiếng một người hô hấp rất nhẹ nên liền nghĩ thầm:

– Nguy hiểm thật, không ngờ còn có người mai phục ở đây nữa?

Chàng phải nằm yên chờ đợi.

Nửa giờ sau chàng lại nghe thấy có tiếng vỗ tay hai cái trong bụi lau đó.

Ðằng xa cũng có tiếng vỗ tay đáp lại.

Tiếp theo đó liền có sáu hòa thượng ở trong bụi lau nhảy ra cùng quay trở về chùa.

Vô Kỵ chờ sáu người hòa thượng đi khỏi mới rời khỏi chỗ nấp, trở về căn nhà nhỏ ở trong bếp.

Các hỏa công hòa thượng vẫn đang ngủ say, chàng nghĩ thầm:

– Nếu ta không trông thấy thì làm sao biết được chỉ trong nháy mắt Thanh Hải Tam Kiếm đã bị chết thảm ở nơi đây.

Trải qua đêm đó, chàng biết trong chùa phòng bị rất cẩn mật nên chàng cẩn thận hơn.

Hồi thứ 91
Sấm Ðộng Ðiện Chớp

Mấy ngày sau đó có một đêm chàng theo hai hòa thượng đi nhưng về sau biết là họ đi canh phòng vì càng gần ngày tết Ðoan Ngọ bao nhiêu, trong chùa canh phòng càng cẩn mật bấy nhiêu. Cứ một chốc chàng lại thấy hai hòa thượng tuần tiễu đi qua vì vậy chàng đành phải trở về phòng ngủ.

Ba ngày sau, đêm hôm đó trời mưa to, sấm động điện chớp, bốn bề tối đen như mực. Chang mừng rỡ vô cùng nhảy ra khỏi giường đi luôn.

Khi chàng đi tới chỗ ở của Thành Khôn là nơi trước kia chàng bị y hãm hại bỗng nghe có người nói chuyện và nhận ra tiếng của Không Văn đại sư, phương trượng của chùa Thiếu Lâm.

Chàng nghe Không Văn nói:

– Vì Tạ Tốn mà bổn phái trong một tháng nay đã giết chết hai mươi ba người rồi. Như vậy trái với lòng từ bi của nhà Phật. Những người của Minh Giáo như Dương Tiêu, Phạm Dao, Hân Thiên Chính trước sau có sai người đến chùa yêu cầu tha cho Tạ Tốn…

Lúc này Vô Kỵ mới hay ông ngoại mình với Quang Minh nhị sứ mọi người đã hay tin và phái người đến đây yêu cầu Không Văn tha cho nghĩa phụ mình nữa.

Chàng lại nghe Không Văn nói tiếp:

– Tuy ta đã tỏ lời thoái thác rồi nhưng khi nào họ chịu để yên. Hơn nữa Giáo Chủ Minh Giáo là người võ công xuất thần nhập hóa mà vẫn chưa thấy xuất hiện như vậy, chưa biết chừng y núp trong bóng tối điều khiển cũng nên. Y lại là ân nhân của Không Trí sư đệ, chúng ta hiện giờ hãy còn nợ y, nếu y thân hành tới đây yêu cầu thì ta biết trả lời ra sao? Ngày hôm nay ba vị sư thúc đã xét hỏi Tạ Tốn giết hại Không Kiến sư huynh như thế nào nhưng y nhất định không chịu nói. Việc này khó sử thật. Chẳng hay sư đệ, sư điệt có cao kiến gì không?

Chàng liền nghe Thành Khôn đáp:

– Phương Trượng sư thúc quá lo xa đấy thôi! Chúng ta đã có ba vị sư thúc tổ canh gác Tạ Tốn rồi, tiểu điệt dám chắc không sợ mất mát gì hết. Anh hùng đại hội liên quan đến sự hưng thịnh, vinh nhục của phái Thiếu Lâm chúng ta, sư thúc hà tất phải bận tâm đến ân oán nhỏ mọn của bọn Ma Giáo đó. Huống hồ Ma Giáo ngấm ngầm tư thông với triều đình để làm khó dễ sáu đại môn phái.

– Chẳng lẽ sư thúc không hay biết gì về chuyện này hay sao?

Không Văn ngạc nhiên hỏi:

– Có thực không?

Thế rồi Viên Chân kể cho Không Văn nghe Vô Kỵ đang làm lễ tơ hồng với Chu Chỉ Nhược người trưởng môn của phái Nga Mi thì quận chúa của Nhữ Dương Vương đột nhiên tới dắt Vô Kỵ đi luôn ra sao. Quận chúa có một tên bộ hạ rất đắc lực tên là Khổ Ðầu Ðà.

Nói tới đây Viên Chân dừng giây lát rồi nói tiếp:

– Tạ Tốn là nghĩa phụ của Vô Kỵ thế nào Ma Giáo cũng không quản ngại nguy hiểm mà tới đây cứu viện. Chờ đến ngày đại hội đồ sư thì mọi việc sẽ rõ ràng ngay.

Nói tới đó ba người lại bàn tán cách đối phó với những người tới cướp Tạ Tốn.

Viên Chân với Không Trí lại còn định khiêu khích các môn phái chém giết lẫn nhau, chờ bao giờ các hảo thủ của các môn phái bị thương hay mệt mỏi mới ra tay chế phục quần hùng và sẽ danh chính ngôn thuận giữ chức Võ Lâm Chí Tôn, giữ thanh bảo đao Ðồ Long để tế Không Kiến.

Không Trí xen lời nói:

– Bây giờ làm thế nào bắt Tạ Tốn nói ra bảo đao Ðồ Long dấu ở đâu, bằng không Ðồ Sư đại hội này sẽ không có giá trị mà trái lại còn làm mất oai dũng của bổn phái nữa là khác.

Không Văn đỡ lời:

– Sư đệ nói rất phải, chúng ta cần phải ở trong đại hội dương đai lập oai và tuyên bố Ðồ Long đao chí tôn đã trở về với bổn phái trông no thêm. Lúc ấy bổn phái ra hiệu lịnh cho thiên hạ không còn ai không tuân theo nữa.

Tiếp theo đó, Không Trí giao cho Viên Chân nhiệm vụ đi tra hỏi Tạ Tốn, bắt nộp bảo đao thì sẽ tha chết cho.

Viên Chân liền nhận lời đi luôn.

Chờ Viên Chân đi về phía bắc thật xa rồi Vô Kỵ mới đuổi theo.

Chàng thấy đối phương cầm ô giấy, những hạt mưa rơi xuống nghe “lộp bộp”.

Chàng rất ngạc nhiên khi thấy Viên Chân đi thẳng ra sau chùa rồi nhảy qua bờ tường mà đi về phía ngọn núi nho nhỏ.

Khi tới chân núi chàng thấy Viên Chân tay vẫn chỉ cầm cái ô, không cử động gì hết, người đã từ tử thẳng lên. Chàng rảo bước chạy đến nơi đang định lên núi theo thì bỗng có bốn người ẩn núp trong bụi cây nhẩy ra.

Ba người đi trước, một người đi sau, đều đi lên trên đỉnh núi hết. Chàng thấy trên đỉnh núi chỉ có mấy cây thông già, ngoài ra không còn có nhà cửa gì, bốn xung quanh cũng không có người canh gác.

Chàng thấy bốn người đi trước khinh công khá cao siêu nên không dám theo gần, nhưng đồng thời cũng nhận ra trong số đó có một người đàn bà.

Ba người đàn ông mặc quần áo thường chứ không phải là người trong chùa. Sắp lên tới đỉnh núi bốn người đó đi càng thêm nhanh.

Lúc này chàng đã nhận ra trong đó có vợ chồng Hà Thái Sung và Ban Thục Nhàn. Ðang lúc ấy Viên Chân bỗng rú lên một tiếng thật dài rồi quay người lại nhảy xổ vào tấn công bốn người kia ngay.

Vô Kỵ vội nấp vào trong bụi lau cạnh đó và bò sang trái, tới cách đó mấy chục trượng mới dừng chân lại. Chàng nghe thấy có tiếng khí giới va chạm mới hay Viên Chân đã đấu với bốn người nọ. Chàng quay lại nhìn chỉ thấy có hai người đấu với Viên Chân thôi còn hai người kia đã leo lên trên đỉnh.

Chàng vội bò theo lên.

Chàng thấy trên đỉnh núi chỉ có trơ trọi ba cây thông cổ thụ mọc ba góc như hình chữ phẩm vậy.

Chàng cũng không thấy nghĩa phụ mình bị giam ở đâu cả.

Chàng đang ngạc nhiên thì bỗng nghe Ban Thục Nhàn ẩn núp trong bụi lau gần đó lên tiếng nói:

– Chúng ta phải mau mau ra tay. Sát sư đệ với Nam sư đệ chưa chắc đã cầm cự nổi hòa thượng kia đâu.

Thế rồi hai vợ chồng thị liền nhảy tới chỗ ba cây thông.

Vô Kỵ sợ Tạ Tốn ở gần đó bị vợ chồng Thái Sung hạ độc thủ nên không dám sơ ý chút nào, vội bò tới gần xem sao.

Chàng thấy vợ chồng Thái Sung đi tới giữa ba cây thông đó liền rút trường kiếm ra múa động, hình như đang đối địch với ai mà chàng nhìn mãi không thấy kẻ địch đâu hết. Chàng lại bò tới gần mấy bước nữa để nhìn rõ thêm.

Lúc ấy chàng mới hay hai cây thông trước mặt, trên thân cây nào cũng có một hốc như cái động con vừa một người ngồi lọt. Trong mỗi thân cây đều có một hòa thượng ngồi yên trong hốc cây đó.

Còn một cây nữa, vì lưng hốc cây hướng về phía chàng nên chàng không thấy nhưng chàng thấy từ trong cấy đó có một sợi dây đen đánh ra nên đoán chắc thế nào cũng có một hòa thượng nữa.

Ba sợi dây đen đó múa động đánh tới.

Vợ chồng Hà Thái Sung múa kiếm rất nghiêm mật chống đỡ nhưng vì chưa biết đường lối tấn công của địch thủ nên không sao phản công lại được.

Ba sợi dây đó trông rất chậm nhưng thật sự lại rất nhanh mà lại không gây ra một tí tiếng động nào cả. Ðêm hôm khuya cokhoắt, trời lại mưa to như vậy, hành động của ba lão hòa thượng đó tựa như ma quỷ, thật huyền bí vô cùng.

Vợ chồng Thái Sung kêu la, muốn thoát ra khỏi vòng vây mà không sao ra khỏi được. Vô Kỵ kinh ngạc thầm và nhận thấy võ công của ba lão hòa thượng còn cao siêu hơn mình là khác.

Chàng liền nhớ đến lời Không Văn bảo nghĩa phụ mình đã trao cho ba vị thái sư thúc tổ trông giữ nên bây giờ chàng mới biết ba lão hòa thượng này còn là sư thúc của các vị thần tăng của chùa Thiếu Lâm đương thời. Như vậy người nào người nấy đều có bẩy tám mươi năm công lực là ít.

Chàng nghĩ thầm:

– Có lẽ một mình ta địch với ba lão hòa thượng này chưa chắc đã thắng nổi họ?

Chàng đang suy nghĩ và lo âu thì đã thấy Thái Sung bị một sợi dây đánh trúng vào lưng hét lên một tiếng, bắn văng ra ngoài vòng liền, nằm thẳng cẳng không còn cử động gì cả. Chàng đoán có lẽ y đã chết rồi cũng nên.

Thục Nhàn thấy chồng bị đánh chết vừa kinh hãi vừa đau lòng nên sơ xuất một chút đã bị ba sợ dây đen cùng đánh trúng một lúc.

Thế là nàng bị đánh vỡ sọ, gãy hết chân tay, chết tươi, xác liền bị ba sợi dây đó hất ra ngoài liền.

Ở phía dưới Viên Chân vừa đấu vừa lùi trở lên, mồm thì kêu gọi:

– Có giỏi lên đấy mà lĩnh chết!

Người họ Sát với người họ Nam đều là hai tay cao thủ của phái Côn Luân. Chúng biết Viên Chân giở kế dụ địch nhưng không sợ hãi cứ múa kiếm tiến lên.

Viên Chân đấu với hai người đó bấy nhiêu lâu mà vẫn chưa hạ được một người nào cả nên y mới dụ hai người đuổi theo lên tới chỗ ba cây thông. Nhưng khi tới cách ba cây thông chừng mấy trượng hai người đó đột nhiên trông thấy xác của Thái Sung nên cùng ngưng lại. Chúng đang cúi đầu nhìn xuống bỗng có hai sợi dây ở phía sau rất êm ái phi tới, quấn lấy lưng hai người đó và giật tung lên cao một cái. Thế là cả hai bị rơi xuống từ ngọn núi cao mấy trăm trượng xuống chân núi tan xác chết liền. Tiếng kêu la của họ rất thảm thiết khiến người trên đỉnh núi vẫn còn văng vẳng nghe thấy.

Vô Kỵ thấy võ công của ba lão tăng cao siêu như vậy quả thật trong đời chưa hề thấy. Chàng nhận thấy ba lão hòa thượng này còn giỏi hơn Lộc Trượng Khách và Hạt Bút Ông nhiều. Tuy họ chưa thể bằng được Thái sư phụ của chàng nhưng chàng cũng đã có vẻ kinh hãi thầm ba lão hòa thượng đó rồi nên cứ nằm yên trong bụi cỏ không dám cử động chút nào.

Viên Chân liền đá xác của Thái Sung với Thục Nhàn xuống thung lũng.

Xong đâu đó chàng lại thấy y cung kính chào ba lão hòa thượng đó và nói:

– Viên Chân thừa lệnh sư thúc lên đây thỉnh an ba vị thái sư thúc tổ và có mấy lời muốn nói với tên tử tội!

Liền đó có một giọng khô khan lên tiếng:

– Không Kiến sư điệt là người có đức độ, võ nghệ cao siêu rất được ba chúng ta thương yêu. Chỉ mong y làm rạng rỡ phái Thiếu Lâm của chúng ta. Không may y bị chết trong tay kẻ gian này. Ba ta tọa quan mấy chục năm đã không nghĩ tới việc trần tục. Lần này là vì thương tiếc Không Kiến sư điệt mà lên trên đỉnh núi này. Tội của y đáng chết lắm, cứ việc một đao kết liễu tính mạng của y cho xong, hà tất phải phiền phức lôi thôi mất hết cả sự thanh tịnh của ba ta đi!

Viên Chân lại tiếp:

– Thái sư thúc dậy bảo rất phải nhưng nghĩ đến ân sư của Viên Chân tôi bị gian nhân ám hại nhưng một mình gian nhân dù tài ba mấy cũng không giết nổi ân sư. Vì vậy mới giam giữ y tại nơi đây, phiền ba vị thái sư thúc tổ tọa thủ mục đích cũng để dụ đồng đảng của y đến cứu viện. Như vậy mới giết sạch được kẻ thù của ân sư. Hơn nữa muốn bắt y phải giao lại thanh bảo đao Ðồ Long ra để bảo đao khỏi lọt vào tay môn phái khác.

Nghe tới đây Vô Kỵ nghiến răng nghĩ thầm:

– Ác tặc Viên Chân, tội đáng phanh thây xé xác. Y dùng lời lẽ không khéo mời ba vị cao tăng đã mấy chục năm không can thiệp việc đời ra phụ trách việc trông coi nghĩa phụ ta rồi y còn mượn tay ba người này giết sạch những cao thủ của võ lâm nữa!” Lúc ấy chàng lại nghe thấy một lão hòa thượng lên tiếng cho phép Viên Chân được nói chuyện với Kim Mao Sư Vương.

Thế rồi Viên Chân đi tới giữa ba cây thông kia, quỳ xuống, nói vọng xuống:

– Tạ Tốn ngươi đã nghĩ kỹ chưa, chỉ cần ngươi nói rõ bảo đao Ðồ Long giấu ở đâu ta sẽ tha cho ngươi liền.

Vô Kỵ lúc này mới hay nghĩa phụ mình bị giam trong một cái địa lao tại đó. Chàng đang suy nghĩ thì bỗng nghe thấy có lão hòa thượng với một giọng thanh thoát giận dữ quát mắng:

– Viên Chân, người đi tu không được nói dối như thế. Nếu y nói chỗ dấu đao ở đâu chẳng lẽ ngươi chịu buông tha y thật hay sao?

Viên Chân đáp:

– Thái sư thúc tổ minh giám cho, đệ tử thiết nghĩ thù ân sư tuy thâm thật nhưng oai vọng của bổn phái còn quan trọng hơn. Nếu y chịu nói chỗ dấu đao ở đâu thì đệ tử sẽ tha cho y liên. Ba năm sau đệ tử lại đi kiếm y để trả thù cho ân sư!

Lão hòa thượng kia nói tiếp:

– Thôi được, nhưng đệ tử của Thiếu Lâm chúng ta đừng có thất tín với người…

Viên Chân lại nói vọng xuống địa lao:

– Tạ Tốn mi đã nghe lời nói của thái sư thúc ta chưa? Ba vị đã bằng lòng tha cho mi thật đấy!

Bỗng dưới đất có tiếng nói vọng lên:

– Viên Chân, người còn dám vác mặt đến đây nói chuyện với ta hay sao?

Vô Kỵ đã nhận ra giọng nói của nghĩa phụ chàng ngay. Nhưng chàng lại sợ ba vị cao tăng kia nên chàng định chờ Viên Chân đi khỏi sẽ ra nói rõ cho ba lão hòa thượng kia nghe.

Chàng lại nghe thấy Viên Chân nói tiếp:

– Tạ Tốn, ta với mi đều già nua cả rồi, những chuyện ân oán xưa kia nên xí xoá đi. Chẳng bao lâu nữa hai ta cùng chết cả rồi.

Tạ Tốn có vẻ bực mình chờ Viên Chân dứt lời liền đáp:

– Viên Chân hãy bước khỏi đây, ta không muốn nói chuyện với ngươi nữa.

Viên Chân thấy nói mãi Tạ Tốn không nghe nổi giận:

– Vì nể tình nghĩa xưa kia ta không hạ độc thủ đấy thôi. Mi còn nhớ môn Vạn Nghi Toàn Tâm Chỉ của ta ác độc như thế nào không?

Nghe thấy Viên chân nói tới môn chỉ pháp đó Vô Kỵ tức giận vô cùng vì chàng đã nghe Tạ Tốn nói qua. Môn võ công này ác độc lắm, nếu bị ai điểm trúng, trong người như có muôn ngàn con ong, con kiến đục cắn lục phủ ngũ tạng cho đến lúc tắt hơi thở mới thôi. Chàng đinh nhảy ra giết Viên Chân để cứu nghĩa phụ thì đã nghe thấy Viên Chân lạnh lùng nói tiếp:

– Ta để cho mi nghĩ ngợi ba ngày, nêu ba ngày sau mi không chịu nói chỗ dấu bảo đao thì lúc ấy ta sẽ cho mi nếm mùi chỉ pháp đó.

Nói xong y đứng dậy chào ba vị hòa thượng rồi xuống núi liền.

Vô Kỵ chờ y đi xa rồi, đang định nhảy ra kể lể sự tình cho ba lão hòa thượng nghe, đột nhiên chàng thấy không khí ở chung quanh hơi khác lạ như bị ai đánh lén mà không một tí nào.

Chàng giật mình kinh hãi, vội nhảy tung ra ngoài luôn, liền cảm thấy có hai vật rất dài lướt qua mặt chỉ cách chừng nửa thước.

Hai cái roi đó đi rất nhanh mà không có một chút gió động nào cả.

Mới hay đó là hai sợi dây đen của hai trong ba vị cao tăng.

Chàng lần ra ngoài xa hơn trượng nữa lại thấy một sợi dây đen nhằm ngực mình điểm tới. Sợi dây đen này như một cây trường mâu, lại cũng như một cây gậy, thành một khí giới vừa thẳng vừa cứng tấn công tới nhanh vô cùng.

Ðồng thời hai sợi dây đen kia lại ở phía sau quất tới. Lúc trước chàng thấy bốn tay cao thủ của phải Côn Luân chỉ trong nháy mắt đã bị toi mạng dưới ba sợi dây này nên đã biết võ công của ba vị cao tăng này kỳ ảo khôn lường. Lúc này chàng đã bị ba sợi dây đó vây đánh, nguy hiểm khôn tả.

Chàng vội giơ tay trái ra chộp luôn sợi dây ở phía trước đánh tới. Ðang định nhảy sang bên thì sợi dây đó rung động và có một luồng sức mạnh như bạt sơn đảo hải nhằm ngực mình đẩy tới. Nếu bị luồng nội lực đó đánh trúng thì tan xương, tạng phụ nát hết mà chết ngay tại chỗ liền.

Vô Kỵ quả thực rất lợi hại. Chàng vận Cửu Dương thần công vào cánh tay trái rồi xử dụng Càn Không Ðại Nã Di tâm pháp vừa kéo vừa đẩy, người nhẩy như bắn thẳng lên trời.

Ðang lúc ấy trên trời bỗng có ánh sáng trắng lóa mắt và có ba bốn luồng sét nhấp nhoáng.

Chỉ nghe thấy một hòa thượng kêu “ủa” một tiếng hình như ngạc nhiên về tài ba của Vô Kỵ vậy. Mấy luồng sét đó đã chiếu rõ thân hình của Vô Kỵ.

Ba cao tăng ngẩng đầu nhìn lên, không ngờ cao thủ có thần công tuyệt đỉnh đó lại là một thiếu niên quê mùa, mặt mũi lem luốc, nên ba lão hòa thượng càng kinh ngạc thêm.

Tiếp theo đó ba sợi dây đen tựa như ba con rồng mực múa vuốt nhe nanh ở dưới vội lao thẳng lên năm trượng, liền chia ba mặt bao vây lấy người Vô Kỵ liền.

Nhờ có ánh chớp vừa rồi Vô Kỵ cũng trông thấy rõ mặt của ba hòa thượng đó.

Chàng thấy người ngồi ở phía Ðông Bắc mặt đen như chàm, người ngồi ở phía Tây Bắc mặt khô héo như củi và người ngồi ở chính nam thì mặt vàng nhợt nhạt như không có sắc máu.

Cả ba má hõm, mắt sâu, gầy võ như chỉ có xương với da.

Lão hòa thượng mặt vàng chột một mắt trông rất oai dũng.

Vô Kỵ thấy ba sợi dây sắp cuốn lấy mình liền vừa lôi vừa quấn vừa cột, mượn sức của cuộn chúng lại thành một búi. Thế võ ấy của chàng là theo tâm pháp Thái Cực của Võ Ðang do Trương Tam Phong truyền cho, khiến sức lực đối phương quay tròn. Nội lực của ba sợi dây đen đó liền bị chàng lôi, hướng thành một cột tròn. Chỉ nghe trên trời có tiếng sấm rất to, tiếp theo đó có ba tiếng sét vang động làm rung chuyển trời đất, kinh hiểm khôn tả.

Vô Kỵ lại lộn thêm một vòng, chân trái dẫm lên một cành thông, chân phải móc lấy đã đứng yên trên cành thông đó liền.

Ðứng yên rồi chàng liền nói:

– Hậu hợp tiểu bối Trương Vô Kỵ, giáo chủ của Minh Giáo bái kiến ba vị cao tăng.

Nói xong chàng đứng một chân trên cành thông, một chân giơ cao lên chắp tay khom mình cúi chào.

Cành thông theo thế vái của chàng tựa như làn sóng lên xuống đung đưa trông tuyệt đẹp.

Tuy đứng ở trên cao khom mình vái chào mà chàng vẫn không bị lép vế đối phương chút nào.

Ba hòa thượng vội trái tay rung động mạnh một cái, ba sợi dây liền rẽ sang bên luôn. Vừa rồi ba thế cửu thức của ba lão hòa thượng, một thức đều bao hàm mấy chục thế biến hóa.

Ngờ đâu Vô Kỵ đều hóa giải được hết. Mỗi khi hóa giải một thức đều nguy hiểm khôn tả, chỉ sơ xuất một chút là tan xương nát thịt liền.

Thế mà Vô Kỵ vẫn tỏ vẻ ung dung, không coi sự nguy hiểm đó vào đâu cả.

Ba cao tăng từ nhỏ đến giờ chưa hề được gặp một đối thủ cao cường đến vậy cho nên cả ba đều kinh hãi thầm. Nhưng họ có biết đâu Vô Kỵ đã vận dụng hết sức bình sinh ra mới hoá giải nổi ba thế chín thức đó. Trong khi chàng vái lạy, mượn sức cây rung động để ngấm ngầm điều vận chân khí để lấy lại sức.

Võ công của chàng vừa sử dụng bao hàm cả Cửu Dương thần công, Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp lẫn Thái Cực công.

Sau cùng khi lộn một vòng trên không lại là tâm pháp ghi trên Thánh Hỏa lệnh.

Ba Thiếu Lâm cao tăng người nào người nấy đều võ công cao cường nhưng họ không biết qua một thứ nào như thế.

Họ chỉ thấy nội lực của đối phương tựa như Cửu Dương thần công của phái Thiếu Lâm nhưng hùng mạnh và tinh xảo còn hơn cả thần công đó nữa. Tới khi nghe thấy đối phương xưng danh mới hay đó là Minh Giáo Chủ.

Họ đang khâm phục và kinh ngạc bỗng biến sắc mặt và nổi giận liền.

Lão hòa thượng mặt vàng nhợt nhạt với giọng âm thầm hỏi:

– Lão tăng lại tưởng cao nhân ở phương nào giáng lâm tệ tự, không ngờ là ma đầu của Ma Giáo đã tới. Ba anh em bần đạo tọa quan mấy chục năm ở nơi xa cách chùa Thiếu Lâm mấy trăm dặm, không những không lý tới việc của người tục mà ngay cả đại sự của bổn phái cũng không hỏi han tới nốt. Không ngờ ngày hôm nay lại được gặp giáo chủ của Ma Giáo nơi đây thật là hân hạnh vô cùng.

Vô Kỵ nghe thấy ba hòa thượng cứ một giọng ma đầu, ma giáo luôn mồm, hiển nhiên thù hận Minh Giáo khôn tả nên chàng trù trừ không biết có nên kể hết cho ba hòa thượng nghe không.

Chàng lại nghe thấy lão hòa thượng mặt vàng mắt chột lên tiếng:

– Thế còn Dương Giáo Chủ đâu mà ngươi lại là Giáo Chủ?

Vô Kỵ đáp nhanh:

– Dương Giáo Chủ đã tạ thế gần ba mươi năm rồi!

Hòa thượng mặt vàng lặp lại:

– Dương Giáo Chủ đã tạ thế gần ba mươi năm rồi!

Y vừa nói tới đó thì “ủa” lên một tiếng và ngưng bặt không nói tiếp nữa. Trong tiếng kêu đó hàm chứa biết bao thương tâm và thất vọng.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Sao y nghe thấy tin Dương giáo chủ tạ thế lại có vẻ rất khó chịu như thế? Chắc là năm xưa y chơi rất thân với Dương giáo chủ cũng nên? Nghĩa phụ của ta là bộ hạ của Dương giáo chủ, bây giờ ta một mặt gợi lại tình thân, một mặt ta nói rõ nguyên nhân cái chết của Không Kiến và Dương giáo chủ là do Viên Chân gây ra để xem phản ứng của họ ra sao?

Nghĩ đoạn, chàng lên tiếng hỏi:

– Các đại sư quen biết Dương giáo chủ phải không?

Hòa thượng mặt vàng đáp:

– Tất nhiên là quên biết, nếu lão tăng không gặp gỡ Dương Phá Thiên thì đâu đến nỗi thành người một mắt như thế này và ba anh em lão cuộc đời cũng không đến nỗi phải khô khan như thế này đâu!

Mấy lời của hòa thượng đó đã chứa biết bao nhiêu sự đau đớn và oán hận.

Vô Kỵ nghe xong kêu khổ thầm: “Nguy tai! Nguy tai!”

Bây giờ chàng mới hay lão hòa thượng bị chột chắc bị độc thủ của Dương Phá Thiên. Có lẽ thế nên anh em họ mới tọa quan hơn ba mươi năm nay, khổ luyện võ công cũng chỉ để kiếm Dương Phá Thiên trả thù.

Bây giờ họ nghe thấy Phá Thiên đã chết nên mới thất vọng và đau đớn như vậy.

Bỗng nhiên lão hòa thượng mặt vàng rú lên một tiếng rất thanh thoát và nói tiếp:

– Dương Phá Thiên chết, ba anh em ta đành phải kiếm giáo chủ đương thời của ma giáo để trả mối thâm thù đại oán đó vậy. Trương giáo chủ, lão tăng pháp danh là Ðộ ách, sư đệ mặt trắng đây pháp danh là Ðộ Kiếp, sư đệ mặt đen pháp danh là Ðộ Nạn. Không Kiến, Không Tính đề là sư điệt của mấy anh em lão. Cả hai đều bị chết bởi tay của quý giáo như thế, nhưng việc đó anh em lão cũng không muốn truy cứu nữa. Quý Giáo chủ đã tới đây tất không sợ hãi chút nào. Bây giờ chúng ta chỉ có dùng võ công để giải quyết bao nhiêu sự ân oán trong mấy chục năm qua.

Vô Kỵ đáp:

– Tiểu bối tới đây mục đích chỉ muốn cứu nghĩa phụ Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp thôi chứ không có thù hằn gì với quý phái hết. Tuy Không Kiến thần tăng có bị nghĩa phụ của tiểu bối đả thương thật nhưng bên trong có nhiều uẩn khúc lắm. Còn cái chết của Không Tính thần tăng thì không liên can gì đến tệ giáo hết. Ba vị chớ nên nghe lời nói của một người mà phải phân biệt rõ thị phi mới được.

Ðộ Kiếp liền nói:

– Theo lời giáo chủ thì Không Tính bị ai giết thế?

– Theo như sự hay biết của tiểu bối thì Không Tính thần tăng bị võ sĩ của Nhữ Dương Vương Phủ đánh chết.

Ðộ Kiếp hỏi tiếp:

– Các võ sĩ trong Nhữ Dương Vương Phủ do ai chỉ huy?

– Con gái của Nhữ Dương Vương hán danh là Triệu Minh!

– Lão tăng nghe Viên Chân nói thì thiếu nữ đó đã liên kết với quý giáo, phản vua, phản cha đầu hàng Ma giáo, chẳng hay việc đó là thật hay hư?

Lời nói của Ðộ Kiếp dồn dập và thắt chặt đối phương lại.

Vô Kỵ lại là người không biết nói dối nên đáp:

– Phải, hiện giờ nàng đã giác ngộ, bỏ xó tối sang bên sáng.

– Giết Không Kiến là Tạ Tốn, giết Không Tính là Triệu Minh của quý giáo. Triệu Minh lại còn đánh phá Thiếu Lâm Tự, bắt hết tất cả đệ tử của bổn chùa nữa. Còn một việc không thể tha thứ được là làm nhục tới cả pho tượng của Ðạt Ma sư tổ, hại một bên mắt của sư huynh ta. Ba người chúng ta hợp lại, tọa quan ngót một trăm năm đời khô khan bấy nhiêu lâu. Anh em ta không kiếm giáo chủ để thanh toán thì còn kiếm ai đây?

Vô Kỵ thở dài một tiếng và nghĩ thầm:

– Mình đã thừa nhận thu nạp Triệu Minh thì những tội ác của nàng xưa kia mình cũng phải chịu trách nhiệm hết. Còn mối thù cũ của Phá Thiên với Tạ Tốn cho tới ngày nay Ðộ Kiếp nói rất phải, nếu ta không đảm đương thì còn ai vào đây nữa?

Nghĩ đoạn, chàng liền đứng thẳng người dậy, cành cây liền đứng im ngay, không rung động chút nào.

Rồi chàng lớn tiếp đáp:

– Ba vị thiền sư đã nói vậy tiểu bối không còn biết nói làm sao nữa, xin đảm đương hết tất cả tội ác vậy. Còn việc nghĩa phụ của tiểu bối đả thương Không Kiến thần tăng bên trong có nhiều nỗi khổ tâm. Xin ba vị thiền sư hãy tha thứ cho!

Ðộ ách hỏi:

– Ngươi thị cái gì dám đến đây định nói hộ Tạ Tốn. Chẳng lẽ anh em ta không giết nổi ngươi hay sao?

Vô Kỵ thấy không còn cách gì để giảng giải được nữa đành phải liều chí mạng với ba lão hòa thượng một phen vậy nên chàng đáp:

– Tiểu bối một địch ba, tất nhiên không địch nổi ba vị, vậy bây giờ lão thiền sư nào ra tay chỉ giáo cho?

Ðộ Kiếp, lão hòa thượng mặt trắng liền trả lời:

– Chúng ta một đấu một không dám chắc thắng nổi ngươi, nhưng đã là mối huyết hải thâm thù thì không cần phải nói tới quy củ của giang hồ gì hết. Ma đầu kia mau xuống đây chịu chết đi! A Di Ðà Phật!

Y vừa niệm phật xong, Ðộ ách, Ðộ Nạn hai hòa thượng đồng thanh:

– Ngã Phật từ bi!

Thế rồi ba người múa động ba sợi dây đen nhắm Vô Kỵ tấn công tới.

Chàng xuyên qua ba sợi dây nhảy xuống đất đã biến thế đâm bổ xuống Ðộ Nạn. Ðộ Nạn vội dơ tả chưởng lên chống đỡ.

Liền đó một luồng gió mạnh nhằm bụng dưới của Vô Kỵ tấn công luôn. Vô Kỵ xoay người để tránh thế công đó, dùng Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp giải hết sức lực của đối phương.

Ðang lúc ấy hai sợi dây đen của Ðộ Kiếp và Ðộ ách đã song song phi tới. Vô Kỵ lộn thêm nửa vòng nữa mới tránh khỏi thì Ðộ Kiếp đã múa song quyền tấn công rồi. Thế công của y không có tiếng động gì cả.

Vô Kỵ ở giữa ba cây thông, lấy thế gỡ thế, thỉnh thoảng lại phản công lại một chưởng. Chưởng lực của chàng đem theo cả mấy trăm giọt mưa, nhằm Ðộ ách phi tới. Tuy Ðộ ách đã né đầu tránh khỏi chưởng lực của chàng nhưng mặt y vẫn bị hàng chục giọt mưa bắn vào, đau nhức khôn tả. Y liền quát to một tiếng:

– Tiểu tử giỏi thật!

Lão rung động sợi dây đen, quay thành hai vòng ở trên không rồi nhắm đầu Vô Kỵ chụp xuống.

Chàng nhanh như một mũi tên bay, vừa tránh hai vòng đó vừa tấn công Ðộ Kiếp.

Càng đấu , chàng càng kinh hãi, chỉ thấy ba sợi dây đen với ba luồng chưởng lực của dp càng ngày càng kết chặt lại, tựa như có keo dính chặt.

Từ khi chàng học võ đến giờ, chưa hề gặp những tay cao thủ như thế này. Ba lão hòa thượng đó không những võ thế rất điêu luyện mà nội lực thì hùng hậu khôn tả.

Thoạt tiên chàng chỉ dùng bảy thành công lực để chống đỡ và ba thành cl để tấn công. Nhưng đấu tới trên hai trăm hiệp, chàng đã thấy nội lực và chân khí suy giảm dần.

Chàng chỉ còn thủ chứ không sao tấn công được nữa. Ðáng lẽ Cửu Dương Thần Công của chàng, dùng thế nào cũng có thể tận dụng được, càng xử dụng càng mạnh thêm. Nhưng lúc này bị ba hòa thượng vây đánh, thế nào cũng phải dùng rất nhiều lực cho nên dần dần Chàng chỉ thấy hơi sức kém sút hẳn. Tình trạng như thế này Chàng chưa hề gặp phải.

Lại đấu thêm mấy trăm hiệp nữa, chàng nghĩ thầm:

– Nếu cứ đấu như thế này có lẽ ta bị toi mạng mất. Bây giờ ta hãy đào tẩu trước chờ hẹn ước được với ông ngoại, Dương Tả Sứ, Vi Bức Vương, Phạm Hữu Sứ với ta năm người hợp sức lại đấu với họ chắc thế nào cũng thắng. Lúc ấy sẽ cứu nghĩa phụ thoát nạn cũng không muộn.

Thế rồi chàng vội tấn công Ðộ ách ba thế rất nhanh và định nhảy ra ngoài vòng.

Không ngờ ba sợi dây đen của họ quây kín như tường đồng vách sắt vậy.

Mấy lần chàng xông pha định thoát ra đều bị đẩy bắn trở lại. Như vậy không những không sao thoát thân được, trái lại còn bị những sợi dây đó đánh trúng.

Chàng kh nghĩ tiếp:

– Thì ra ba hòa thượng này liền tay như một khối, tâm ý và võ công của họ đều như liền nhau. Trên thế gian này ít có người luyện tới mức đó được!

Chàng có biết đâu ba hòa thượng đó tọa quan hơn ba mươi năm qua thì chỉ chuyên luyện về môn tâm ý tương thông. Một người nghĩ ngợi một việc gì thì hai người kia liền hội ý ngay. Sự linh cảm này nói ra rất huyền diệu nhưng ba người ngồi trong một cái phòng nhỏ, ngồi nhìn nhau trong hơn ba mươi năm chuyên tâm luyện nên tâm ý của họ như một vậy.

Vô Kỵ lại nghĩ tiếp:

– Xem như vậy, dù có ông ngoại ta cùng mọi người tới đây trợ giúp chưa chắc đã thắng nổi vách tường kiên cố do tương ý của họ tổ chức thành. Chẳng lẽ nghĩa phụ ta bị giam giữ nơi đây cho tới ngày chết mà không sao cứu được hay sao?

Chàng chỉ hơi lo âu một chút, tinh thần phân tán trong tích tắc mà đã bị năm ngón tay của Ðộ Kiếp quét trúng. Chàng cảm thấy đau nhức chịu không nổi.

Chàng sực nghĩ tới Tạ Tốn liền nghĩ tiếp:

– Ta có chết cũng không tiếc thân chút nào, nhưng sự oan khuất của nghĩa phụ biết lấy ai giúp ta giải quyết hộ đây. Nghĩa phụ tính rất kiêu ngạo, chắc không khi nào chịu cúi đầu trước kd để biện bạch nỗi oan khuất của mình đâu?

Nghĩ xong chàng liền lớn tiếng nói:

– Ba vị thiền sư, hôm nay tại hạ bị vây ở nơi đây, chưa biết sống chết thế nào và cũng không bao giờ tiếc thân cả, riêng một việc này cần phải làm rõ…

Chàng vừa nói tới đó đã có hai tiếng “vù vù”, hai sợi dây đen đã từ hai bên tấn công tới. Chàng vội gạt dây bên trái, kéo dây bên phải sang hai bên, hóa giải kình lực của chúng rồi nói tiếp:

– Tên họ tục gia của Viên Chân là Hỗn Nguyên Phích Lích Thủ Thành Khôn. Y chính là sư phụ của nghĩa phụ…

Hồi thứ 92

Ngang Tài Ngang Sức

Ba hòa thượng của phái Thiếu Lâm thấy chàng vừa chống đỡ, hóa giải thế công của họ vừa lên tiếng nói như vậy đều sợ hãi võ công và nội lực của chàng. Nhưng họ vẫn cho Vô Kỵ là người của Ma Giáo, một giáo phái độc ác vô song, hơn nữa chàng lại là giáo chủ nên ba lão hòa thượng muốn diệt trừ cho bằng được để tích thêm công đức. Vả lại họ thấy chàng đã xa vào vòng vây rồi nên cả ba không nói nửa lời cứ tấn công liên tiếp. Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Ba vị nên rõ là Thành Khôn chính là sư đệ của Dương Phá Thiên. Y với Dương giáo chủ cùng yêu một người sư muội nhưng rốt cuộc vị sư muội đó lại lấy Dương giáo chủ. Thành Khôn tức giận và ghen tức liền ngấm ngầm kết thù oán với Dương giáo chủ và cả Minh Giáo…

Thế rồi Chàng vừa kể hết sự thể việc Thành Khôn muốn phá tan Minh Giáo, tư thông sư muội khiến cho Dương giáo chủ uất lên mà chết, giả say định cưỡng hiếp vợ Tạ Tốn và giết sạch cả nhà người đồ đệ đó nên buộc Tạ Tốn phải giết loạn xạ trên giang hồ. Rồi y bái kiến Không Kiến thần tăng làm sư phụ để dụ Không Kiến chịu đựng mười ba chưởng của Tạ Tốn nhưng y lại thất tín không ra để cho Không Kiến đại sư ôm hận mà chết vv…

Ðộ ách ba người càng nghe càng kinh hãi.

Những chuyện đó thật không thể tưởng tượng được, mà việc nào cũng hợp tình lý nên sợi dây đen của Ðộ ách đã chậm lại trước tiên.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tiểu bối không biết Dương giáo chủ kết thù oán với Ðộ ách đại sư như thế nào, chỉ sợ bên trong lại có kẻ gian đặt điều thị phi và kẻ đó tiểu bối đoán chắc thế nào cũng là Viên Chân chứ không sai. Ðại sư không tin thì cứ suy sét lại chuyện xưa sẽ biết tiểu bối đúng hay sai liền!

Ðộ ách “ừ” một tiếng rồi ngừng roi, cúi đầu ngẫm nghĩ rồi lẩm bẩm:

– Y nói cũng có lý, lão tăng kết oán với Phá Thiên mà phen đó Thành Khôn giúp ta rất nhiều, sau y còn định vái lão tăng làm sư phụ. Xưa nay lão tăng không thu nạp đồ đệ nên giới thiệu cho Không Kiến sư điệt. Thế ra y còn có ác y xếp đặt trước cả.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Không những thế hiện giờ y còn dòm ngó ngôi trưởng môn chùa Thiếu Lâm nữa. Y thu nhận rất nhiều đồng đảng để âm mưu ám hại Không Văn thần tăng…

Chàng chưa nói dứt lời thì đột nhiên có tiếng kêu “ầm ầm”, một tảng đá tròn rất to lăn đến chỗ ba cây thông.

Ðộ ách quát lớn:

– Ai thế?

Hỏi xong liền múa sợi dây đen, đánh luôn vào tảng đá đó hai cái kêu “bộp bộp”

Ðá vụn vỡ bay tứ tung, sau tảng đá đột nhiên có một bóng người nhảy ra tay cầm thanh đoản đao sáng quắc xông lại đâm vào yết hầu Vô Kỵ.

Sự thể xẩy ra rất đột ngột, Vô Kỵ đang chống đỡ hai sợi dây của Ðộ Kiếp và Ðộ Nạn, không ngờ bên cạnh có người đến đánh lén như vậy.

Trong bóng tối, chàng đã nghe thấy tiếng gió kêu “ào ào”, lưỡi đao đã đâm không cạnh yết hầu rồi. Trong lúc nguy cấp, chàng liền nhảy sang bên.

Chỉ nghe thấy một tiếng “soạt” áo chàng đã bị lưỡi đao đâm rách toạc một miếng trước ngực. Chỉ xê xích một ly nữa là ngực chàng bị đâm thủng rồi.

Người đó đâm không trúng nhưng nhờ có tảng đá che lấp thân hình liền lăn ra khỏi vòng vây của ba sợi dây đen.

Vô Kỵ kêu thầm: “Nguy hiểm thật” rồi chàng quát lớn:

– Thành Khôn ác tặc có gan ra đây đối chất với ta, mi muốn giết người để diệt khẩu phải không?

Tuy chàng không trông thấy rõ mặt người đó nhưng chỉ xem hình dáng người ấy chàng cũng biết y là Thành Khôn rồi.

Ba sợi dây đen của ba vị hòa thượng kia tựa như ba cánh tay thò ngay ra, cuộn tảng đá lớn đó.

Tảng đá nặng hơn nghìn cân ấy bị xách lên cao hất bắn ra ngoài.

Nhưng trong lúc ấy Thành Khôn đã chạy xuống núi rồi.

Ðộ ách lên tiếng hỏi:

– Có phải Thành Khôn không ?

Ðộ Nạn đáp:

– Quả thật là y!

– Nếu y không có tật giật mình thì hà tất…

Vừa nói tới hai chữ “hà tất” đó thì bốn mặt, tám phương đã có lần lượt bẩy tám cái bóng nhẩy ra.

Người đi đầu quát lớn:

– Hòa thượng của Thiếu Lâm uổng là môn đồ của Phật, giết hại bấy nhiêu người không sợ mang tội hay sao? Chúng ta xông lên đi!

Tám người cùng múa khí giới xông lại đánh ba hòa thượng.

Vô Kỵ ngồi giữa ba vị hòa thượng thấy tám người đó có ba người cầm kiếm , còn năm người kia kẻ cầm roi người cầm đao.

Người nào người nấy võ nghệ đều rất cao cường.

Chỉ thoáng cái đã đấu với ba sợ dây đen của ba lão thiền sư liền mấy trăm hiệp.

Vô Kỵ để ý nhìn ba người xử dụng thấy thuật của họ như Thanh Hải Tam Kiếm vậy, nhưng kiếm pháp của họ biến hoá tinh diệu hơn, kình lực cũng hùng mạnh hơn Thanh Hải Tam Kiếm nhiều.

Chàng đoán chắc ba người này thế nào cũng là bề trên của Thanh Hải Tam Kiếm.

Ba người hợp sức tấn công Ðộ ách còn ba người khác vây đánh Ðộ Kiếp, hai người còn lại vây đánh Ðộ Nạn.

Ðộ Nạn tuy chỉ địch hai người thôi nhưng võ công của hai người này lại cao siêu hơn những người kia một mức nên Ðộ Nạn càng đánh càng lép vế dần. Còn Ðộ ách một địch ba vẫn còn dư sức.

Hai bên lại đấu với nhau hơn mười hiệp nữa, Ðộ ách thấy Ðộ Nạn có vẻ luống cuống thỉnh thoảng lại đưa sợ dây của mình sang tấn công hai địch thủ của Ðộ Nạn. Thân hình của hai người đó rất cao, râu đen và dài. Người nào cũng cao tuổi nhưng chân tay rất nhanh nhẹn. Một người xử dụng phán quan bút, một người xử dụng Ðả Huyệt Khuyết, đều là danh thủ điểm huyệt cả.

Ðộ ách với Ðộ Nạn biết hai người này võ công cao cường lắm. Lúc ấy họ ở xa ngoài mấy trượng mà Vô Kỵ cũng cảm thấy gió ở khí giới của họ phát ra đến gần chỗ chàng. Nếu để hai người đó tới gần thì thế công của họ em còn lợi hại thêm. Ba thanh trường kiếm của phái Thanh Hải nhân lúc Ðộ ách ra tay cứu Ðộ Nạn họ lại lấy dj thế thắng liền. Thế là trận chiến đấu biến thành Ðộ Kiếp một địch ba, Ðộ ách với Ðộ Nạn hai địch năm thành ra đôi bên ngang tài nhau bất phân thắng bại.

Vô Kỵ ngạc nhiên và nghĩ thầm:

– Võ công của tám người này đều ngang tài với Vi Bức Vương nhưng hơi kém Diệt Tuyệt sư thái một chút, mà hình như cao siêu hơn Hà Thái Sung nhưng lai lịch của tám người này trừ ba người thuộc phái Thanh Hải ra còn năm người kia thì quả thật ta không hay biết. Ðủ thấy trong thiên hạ có biết bao ngọa hổ, tàng long, bao anh hùng hảo hán mai danh ẩn tích.

Mười một người đấu hơn trăm hiệp, ba hòa thượng Thiếu Lâm thu nhỏ vòng dây đen lại như vậy đỡ tốn sức hơn nhưng lúc tấn công thì kém linh hoạt hơn trước.

Ðôi bên lại đấu thêm mấy chục trượng nữa, ba sợi dây đen của các hòa thượng thu lại chỉ còn độ sáu bẩy thước thôi.

Càng đấu gần bao nhiêu khí giới của hai ông già râu đen kia càng lợi hại thêm vào oai lực cũng mạnh hơn trước nhiều. Họ chỉ tìm sơ hở mà nhẩy xổ tới gần ba lão hòa thượng. Nhưng ba sợi dây của ba hòa thượng càng đấu gần bao nhiêu thì sự phòng vệ của họ càng chặt chẽ bấy nhiêu. Ba sợi dây đó làm thành cái vòng có sức bật rất mạnh cho nên mỗi lần ông già râu đen xông lại tấn công đều bị đánh bật trở ra.

Lúc ấy ba hòa thượng đã liên hợp thành một khối vì vậy trận đấu trở nên ba đấu tám.

Ba vị Thiếu Lâm tăng vừa ác chiến vừa kêu khổ thầm.Họ đấu với tám người kia, dù có đâu lâu thêm cũng không thể nào bại được, họ chỉ cần thâu ngắn sợi dây đen lại tám thước là tổ chức thành Kim Cương Phục Ma quyền liền, thì lúc ấy đừng nói bên địch là tám người, dù là mười sáu hay ba mươi hai người cũng không sao xông vào được.

Nhưng ba hòa thượng hoảng sợ vì trong cái vòng đó có một cường địch ẩn phục, cường địch ấy mới là lợi hại.

Nếu lúc này mà Vô Kỵ ra tay thì thật là nội ngoại cùng tấn công một lúc, ba Thiếu Lâm tăng kia sẽ toi mạng liền.

Ba hòa thượng thấy chàng đang ngồi xếp bằng tròn, hình như đang chờ dịp may, chờ tới khi bên mình với bên địch đấu đến kiệt lực thì chàng ta sẽ ở giữa thâu lợi.

Ba lão hòa thượng định kêu gọi môn hạ đệ tử ở dưới chùa Thiếu Lâm lên cứu viện.Nhưng khốn nỗi, họ không sao mở mồm ra kêu được.

Ðừng nói là kêu, họ chỉ há mồm thở một cái khí huyết trong người đã rạo rực, dù không bị giết chết cũng bị thương nặng liền.

Lúc này ba hòa thượng mới tự trách mình quá tự kiêu tự đại, lúc kẻ địch mới tới không lên tiếng báo cho người của bổn chùa hay, bằng không chỉ cần bảo thủ của Ðạt Ma Ðường hay La Hán Ðường lên tiếp viện là có thể đánh bại được kẻ địch liền.

Vô Kỵ đã thấy rõ tình thế đó, nếu lúc này chàng muốn giết ba lão hòa thượng thì dể như trở bàn tay.Nhưng chàng nghĩ đại trượng phu không nên có những hành vi hèn mạt như vậy, huống hồ là ba hòa thượng này bị Viên Chân lừa dối, chứ tội của họ không đáng chết, mà bầy giờ chàng có giết chết ba hòa thượng này đi chăng nữa, rồi một mình đối phó với tám kẻ địch kia cũng không kém khó khăn.

Chàng thấy trận đấu vẫn chưa sao giải quyết ngay được, liền cúi đầu nhìn xuống, thấy có một tảng đá lớn đè lên trên một cái miệng hầm, chỉ để hở một khe nhỏ cho Tạ Tốn thở và đưa thức ăn xuống.Chàng nhận thấy tảng đá ấy nặng ít nhất cũng trên nghìn cân, một vài người không sao đẩy sang bên nổi tuy nhiên chàng nghĩ chưa chắc đã nặng hơn tảng đá dưới hầm trên Quang Minh đỉnh, chàng yên trí có thể lay chuyển nổi, nhưng phải nỗi mặt bám trơn tuột không có chỗ víu để lấy sức, nên cũng không dể gì đẩy được.

Chàng đang suy tính bỗng nghĩ tới:

– Nếu đôi bên đã phân thắng bại rồi, hay người dưới chân núi lên cứu viện thì ta không còn dịp may để cứu nghĩa phụ thoát nạn nữa?

Nghĩ đoạn, chàng vội bò tới cạnh tảng đá, hai tay ôm lấy và giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra, hơi sức liền tới ngay.

Thế là tảng đá ấy bị chàng từ từ đẩy sang bên liền.

Khi chàng mới đẩy tảng đá sang bên độ nửa thước, đã nghe thấy phía sau lưng có tiếng gió động, thì ra Ðộ Nạn đã giơ chưởng đánh tới liền.

Chàng vội xá lực mượn sức, chỉ nghe thấy kêu “bộp” một tiếng, lưng áo của chàng bị rách ngay một mảnh lớn.

Những mảnh áo rách vụn theo gió bay lên như mấy trăm con bướm bay lượn, nhưng chưởng lực của Ðộ Nạn đã chuyển sang tảng đá, chỉ nghe thấy kêu “bùng” một tiếng, tảng đá đã xê dịch sang bên nửa thước ngay.

Tuy chàng không bị thương nhưng cũng cảm thấy đau nhức đến tận tâm can liền.Vì dùng sức đánh chưởng ấy, Ðộ Nạn đã bỏ trống một khe hổng, nên ông già râu đen liền thừa xông ngay vào trong vòng dây đen.

Ba sợi dây của ba lão tăng chỉ thiên tấn công xa thôi, nên khi ông già râu đen đã xông được vào trong vòng rồi, ba sợi dây ấy không làm gì nổi ông ta nữa.

Ông già ấy liền giơ tay xuống điểm luôn vào yếu huyệt ở vú trái của Ðộ Nạn ngay.Ðộ Nạn vội giơ tay trái lên gạt đi.

Ông già râu đen liền giơ tay trái lên điểm tiếp vào huyệt ở giữa ngực của lão hòa thượng.

Ðộ Nạn kêu nguy:

– Nguy tai!

Ngờ đâu, Nhất Chỉ Thiền điểm huyệt của ông già nọ lại còn lợi hại hơn khi xử dụng Ðả Huyệt Khuết nhiều.Trong lúc nguy cấp lão hòa thượng đành phải buông sợi dây ra, giơ chưởng lên chống đỡ bảo vệ lấy giữa ngực, đồng thời y lại giơ ba ngón tay ra lập tức phản công, tuy y chống đỡ nổi ông già áo đen, nhưng sợi dây đã rơi khỏi tay.

Ông già sử dụng phán quan bút đã xông tới trước mặt rồi, ba sợi dây của ba lão hòa thượng mất một cái vòng, thế là liên kết đã bị phá vỡ một phía.

Ðột nhiên sợi dây đen ở dưới đất bỗng ngóc đầu lên như một con rắn giả bộ chết nhảy lên cắn lại, nhằm trán và đầu của ông già xử dụng phán quan bút mà điểm tới.

Dây chưa tới mà đã có một luồng gió mạnh lấn át khiến cho đối phương ngạt thở rồi.

Ông già đó vội giơ bút lên chống đỡ, dây và bút chạm nhau thực mạnh, ông già cảm thấy hai cánh tay tê tái, cây bút rời khỏi tay rớt xuống đất.

Sợi dây đen kia lại đẩy lui được Thanh Hải tam kiếm ra ngoài xa, vòng Kim Cương phục Ma quyền không những đã khôi phục lại được tình trạng cũ mà còn mạnh hơn trước là khác, ba lão hòa thượng của phái Thiếu Lâm mừng rỡ vô cùng.Ba người nhìn xuống mới hay đầu dây kia đang ở trong tay Vô Kỵ, chàng chưa luyện qua môn võ công Kim Cương phục ma quyền, tuy về tâm lý tương thông động niệm thì sự phối hợp chặt chẽ không thể nào bằng Ðộ Nạn được, nhưng nội lực của chàng thì lại mạnh vô cùng như là bài sơn đảo hải nhằm bốn mặt tám phương mà đẩy lui ra, lại thêm hai sợi dây của Ðộ ách và Ðộ Kiếp cũng nguy hiểm khôn lường.

Ðộ Nạn chỉ chuyên tâm nhứt chí đối phó với ông già râu đen, bất cứ võ công hay nội công đều thắng hơn đối phương một mức.Y ngồi trong hàng cây không đứng dậy, dùng mười ngón tay búng điểm móc, hốt, chỉ trong mấy hiệp đã làm cho ông già áo đen bị lâm nguy.

Ông già thấy bảy người cũng bọn đều bất lợi liền quát lớn một tiếng rồi nhảy ra bên ngoài.

Vô Kỵ liền nhét luôn sợi dây đen vào tay Ðộ Nạn rồi cúi đầu vận Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp đẩy tảng đá kia sang bên phải một chút, cúi xuống dưới hang và nói:

– Nghĩa phụ, con Vô Kỵ đến cứu hơi chậm một chút, chăng hay nghĩa phụ có ra được không?

Tạ Tốn đáp:

– Ta không ra nữa đâu, con mau mau đi ra khỏi đây đi.

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi lại:

– Nghĩa phụ bị người ta điểm trúng yếu huyệt và còn bị xích chặt ở bên dưới có phải không?

Chàng không chờ Tạ Tốn trả lời, liền tung mình nhảy xuống hầm, nước bắn tứ tung, thì ra ở dưới hầm, nước ngập đến lưng và Tạ Tốn bị ngâm nửa người trong nước.

Vô Kỵ đau lòng vô cùng, giơ tay ra ôm lấy Tạ Tốn rồi rờ mó thử chân tay của nghĩa phụ xem, thấy không có xiềng xích gì hết.Chàng lại xoa bóp mấy nơi yếu huyệt, thấy những yếu huyệt của nghĩa phụ không bị điểm gì cả, chàng liền ôm lấy hai cánh tay của Tạ Tốn tung mình nhảy lên, thế là cả hai cũng bay ra khỏi cái hầm đó và ngồi trên một tảng đá lớn, Vô Kỵ liền nói:

– Hiện nay hai bên đang kịch chiến với nhau, lúc này thoát thân rất dễ, nghĩa phụ, chúng ta đi.

Nói xong, chàng nắm lấy tay của Tạ Tốn định đi, nhưng Tạ Tốn cứ ngồi trên tảng đá, hai tay ôm chặt lấy đùi và đáp:

– Con nên biết trong đời ta, ta đã gây không biết bao nhiêu tội mà tội nặng nhất của nghĩa phụ là giết Không Kiến đại sư.Nếu nghĩa phụ lọt vào tay người khác thì thế nào cũng phải chiến đấu cho tới cùng, nhưng hôm nay, ta bị giam giữ ở chùa Thiếu Lâm này, ta cam tâm chịu chết để đền lại tính mạng cho Không Kiến đại sư.

Vô Kỵ vội tiếp lời:

– Nghĩa phụ lỡ tay đả thương Không Kiến đại sư, đó là mưu kế của ác tặc Thành Không bày ra, huống hồ mối thù lớn của nghĩa phụ đã trả được đâu, tội gì nghĩa phụ lại chịu chết dưới tay của Thành Khôn như thế?

Hơn một tháng nay ta ngồi trong hầm, ngày nào cũng nghe ba vị cao tăng niệm phật tụng kinh, nghe thấy tiếng chuông chùa dưới chân chùa vọng lên. Hồi tưởng lại chuyện xưa, ta thấy tay đã nhuộm rất nhiều máu, quả thật ta có chết trăm lần cũng không đền được những tội đó.Hà, nhân quả báo ứng, ta còn gây nên nhiều tội hơn Thành Khôn.Con hãy mặc ta, mau xuống núi ngay đi.

Vô Kỵ càng nghe càng lo âu, liền lớn tiếng nói tiếp:

– Nghĩa phụ không chịu đi, con sẽ cõng nghĩa phụ đi liền.

Nói xong chàng quay người nắm lấy hai tay của Tạ Tốn đưa lên vai cõng luôn.

Lúc ấy trên sườn núi có tiếng người ồn ào và có người lớn tiếng quát tháo:

– Người nào dám đến chùa Thiếu Lâm quấy nhiễu như thế?

Giây phút đã có mấy người đi lên trên núi rồi.

Vô Kỵ ôm lấy hai tay của Tạ Tốn đang định đi, thì bỗng thấy yếu huyệt ở phía sau lưng của mình bị điểm, hai tay không còn sức nữa, đành phải buông ra.

Chàng lo âu suýt khóc thành tiếng, vội gọi Tạ Tốn:

– Nghĩa phụ, hà tất phải chịu khổ như thế?

Tạ Tốn đáp:

– Con ngoan ngoãn của ta, ta đã nói hết những oan ức của ta cho vi cao tăng nghe rồi. Ta đã tạo nên tội nghiệp thì thân ta phải chịu lấy sự báo ứng. Nếu bây giờ con không đi ngay thì mối oán thù của ta, ai sẽ trả thù hộ ta.

Nói đến câu sau cùng thì Kim Mao Sư Vương bỗng đột nhiên quát lớn hơn hết.

Vô Kỵ nghe nói rùng mình một cái, nhưng chàng đã thấy mười mấy hòa thượng chùa Thiếu Lâm đang cầm thiền trượng giới đao xuống tấn công.

Hai bên đấu được mấy hiệp, ông già râu đen xử dụng phán quan bút thấy tình thế như thế biết tiếp tục đấu thêm nữa chỉ có bại chứ không thể nào thắng được. Y thấy sắp thành công đến nơi, lại bị một thiếu niên vô danh làm hỏng công việc, nên y càng nghĩ càng tức giận, lớn tiểng hỏi:

– Xin hỏi thiếu niên kia, quý tính đại danh là gì? Chúng ta Hà Giang, Xích Mật và Bốc Thái muốn biết vị cao nhân nào đã ra tay can thiệp vào việc này thế?

Ðộ ách giơ sợi dây đen lên, xin lỗi đáp:

– Sao Hà Giang Song Sát không biết vị đó là ai ư? Vị đó là Trương giáo chủ của Minh Giáo và cũng là đệ nhất cao thủ của thiên hạ đấy.

Xích Mật, ông già cầm phán quan bút kêu “ủa” một tiếng rồi giắt cây bút nhảy ra ngoài liền.thế rồi bảy người khác cũng theo y rút lui ngay.

Hòa thượng chùa Thiếu Lâm định đuổi theo ngăn cản nhưng võ công của họ kém tám người kia một mực nên đành để cho tám người kia đi luôn.

Ba lão hòa thượng đều nghe thấy lời đối đáp của Tạ Tốn với Vô Kỵ.

Ba người lại nghĩ đến vừa rồi Vô Kỵ không muốn lúc người ta bị nguy ra tay đánh úp, mà chỉ khoanh tay ngồi xem thôi, chứ không giúp ai hết.

Khi Bốc Thái phá được Kim Cương Phục Ma quyền, tấn công đến cạnh người họ, nếu không được Vô Kỵ ra tay cứu, thì cả ba người đã bị chết.

Nghĩ vậy, ba hòa thượng để ba sợi dây xuống, cùng chắp tay vái chào Vô Kỵ và đồng thanh nói:

– Cám ơn đại đức của Trương giáo chủ.

Vô Kỵ vội đáp lễ và trả lời:

– Có gì đâu mà ba vị phải cảm ơn như vậy.

Ðộ ách lại lên tiếng nói:

– Ngày hôm nay lão tăng định để Tạ Tốn theo Trương giáo chủ đi, nhưng anh em lão thừa lệnh phương trượng của bổn chùa, trông coi Tạ Tốn và đã thề nặng trước đức phật nếu còn sống, quyết không bao giờ để Tạ Tốn thoát thân, việc này liên can đến sự vinh nhục hàng ngàn năm danh dự của bổn phái, xin Trương Giáo chủ lượng thứ cho.

Vô Kỵ chỉ hừ một tiếng chứ không trả lời.

Ðộ ách lại tiếp:

– Mối thù chột mắt của lão, ngày hôm nay đã rõ nguyên nhân rồi. Nếu Trương giáo chủ muốn cứu Tạ Tốn thì cứ giáng lâm, chỉ cần đánh bại ba sư huynh đệ của lão tăng là giáo chủ có thể dẫn sư vương đi liền. Giáo chủ muốn gọi thêm người cũng được, hay một đấu với một chúng tôi cũng rất hoan nghênh. Bao giờ chúng tôi cũng chỉ có ba người ứng chiến thôi.

Trước khi Trương giáo chủ tái lâm, chúng tôi xin cam đoan bảo vệ Tạ Tốn được tuyệt đối an toàn, quyết không để cho Viên Chân nhục mạ đến Sư vương nửa lời hay đụng tới một sợi lông sợi tóc.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn Tạ Tốn, thấy nghĩa phụ mình cứ đứng cúi đầu, hình như rất sám hối trước những tội lỗi đã làm xưa kia, không còn một chút oai phong lầm lẫm như trước nữa.

Chàng nước mắt nhỏ giòng và nghĩ thầm:

– Ngày hôm nay dù có đánh nữa ta cũng không thắng nổi bọn họ, ba hòa thượng này đã nói như vậy, nghĩa phụ lại không chịu đi, bây giờ ta chỉ có cách mời ông ngoại, Dương Tả Sứ và Phạm Hữu Sứ đến tái đấu thôi. Nhưng ba sợi dây đen này lợi hại lắm, vừa rồi nếu Ðộ ách không đánh ta một chưởng, và bị ta làm mất kình lực của y đi, thì dù giỏi mấy Bốc Thái cũng không thể nào tấn công vào được.Lần sau có ông ngoại, và Tả, hữu Quang Minh Sứ trợ giúp, không biết có thắng nổi họ không, bây giờ ta chưa biết chắc được.Hà, bây giờ chỉ có một cách đi bước nào hay bước nấy vậy.

Nghĩ đoạn, chàng liền thưa với ba hòa thượng mấy ngày sau sẽ trở lại, rồi chàng ôm lấy lưng Tạ Tốn và nói:

– Nghĩa phụ, con đi đây.

Tạ Tốn gật đầu một cái, đưa tay vuốt tóc chàng và đáp:

– Con khỏi đến đây cứu ta nữa, ta quyết chí không đi rồi, con ngoan ngoãn lắm, mong việc làm gì của con cũng gặp lành hết, như vậy mới không phụ lòng cha mẹ con và ta mong mỏi. Con nên học cha con, chớ nên bắt chước nghĩa phụ.

– Cha với nghĩa phụ đều là anh hùng hảo hán, nhưng cha gặp vận hên, còn nghĩa phụ gặp vận xui đấy thôi. Hai người là đại trượng phu hết và cũng đáng để cho con học tập.

Nói xong, chàng chắp tay cúi đầu vái lậy, chỉ thấy thân hình chàng thấp thoáng một cái đã ra khỏi cái vòng của ba cây thông rồi. Chàng giơ tay chào ba hòa thượng và dở khinh công ra đi luôn.

Chỉ trong thoáng một cái đã mất dạng liền.

Ba hòa thượng kinh hãi nhìn nhau không nói nên lời.

Tuy ba hòa thượng đã biết võ công chàng rất cao siêu, nhưng không ngờ thần diệu đến thế.

Vô Kỵ thấy thân hình đã bại lộ, liền dở một môn võ công ra để cho các hòa thượng Thiếu Lâm hoảng sợ mà đối xử tử tế với Tạ Tốn.

Chàng liền rú thành từng hồi.

Tiếng rú của chàng liên miên bất tuyệt, như con rồng đi trên không vậy. Chàng càng chạy nhanh bao nhiêu, tiếng rú đó càng kêu thêm.

Hơn nghìn tăng chúng ở trong chùa đang nằm ngủ, đều giật mình thức tỉnh, cho tới khi tiếng rú đi thật xa mới xôn xao bàn tán.

Không Văn và các người nghe nói Vô Kỵ đã đến, lại càng lo âu thêm.

Trong khi Vô Kỵ vừa rú vừa chạy thì đột nhiên sau một cây liễu cạnh đường có một người lên tiếng gọi:

– Này.

Tiếp theo đó, một cái bóng đen hiện ra, người đó chính là Triệu Minh.

Vô Kỵ liền ngừng rú và ngừng chân lại, giơ tay ra nắm lấy tay nàng.

Chàng thấy người nàng ướt đẫm, tóc và mặt cũng đầy nước mưa.

Triệu Minh liền hỏi:

– Thế nào? Ðại ca đã đấu với bọn Thiếu Lâm tăng chưa? Tạ đại hiệp có việc gì không, đại ca đã gặp Tạ đại hiệp chưa?

Hai người khoác tay nhau, thủng thẳng đi dưới mưa, Vô Kỵ liền kể lại chuyện hồi nãy cho nàng nghe.

Nghe xong, Triệu Minh bỗng hỏi:

– Ðại ca có hỏi đại hiệp tại sao đại hiệp bị bắt giữ không?

– Tôi chỉ mãi nghĩ cách cứu nghĩa phụ thoát hiểm, nên không hỏi việc nhỏ mọn ấy.

Chàng thấy Triệu Minh thở dài, ngạc nhiên vô cùng.

Triệu Minh liền đỡ lời:

– Việc này đại ca coi thường, nhưng đối với tôi thì quan trọng lắm, thôi được, khi nào cứu Tạ đại hiệp thoát nạn thì hỏi cũng không muộn. Tôi chỉ sợ…

– Sợ cái gì? Lo chúng ta không đủ sức cứu nghĩa phụ thoát nạn hay sao?

– Minh giáo mạnh hơn phái Thiếu Lâm nhiều, muốn cứu Tạ đại hiệp thể nào cũng thành công, nhưng e rằng đại hiệp đã quyết tâm chết để tuẫn nạn Không Kiến thần tăng rồi.

Vô Kỵ cũng lo âu việc đó.

Thế rồi hai người vừa đi vừa trò chuyện trở về căn nhà lá của người họ Ðỗ.

Triệu Minh vừa cười vừa nói:

– Hành tung của đại ca đã lộ rồi, không thể nào giấu được nữa đâu.

Hai người thấy cánh cửa khép hờ, liền đưa tay ra đẩy.

Vô Kỵ rủ nước mưa xong, vừa bước vào thì ngửi thấy bên trong có mùi tanh hôi. Chàng giật mình kinh hãi đưa tay gạt Triệu Minh ra bên ngoài, trong bóng tối liền có một bàn tay thò ra chộp.

Cái chộp đó rất lẹ làng và êm ru, không có tiếng động gì cả. Chờ tới khi chàng hay biết thì năm ngón tay đã đụng đến má, lúc này chàng không kịp tránh né, đành phi chân lên đá vào người đó, người nọ trái tay móc một cái, rồi dùng khủyu tay đánh luôn vào yếu huyệt ở đùi chàng.

Trong bóng tối, thế công của người nọ ác độc khôn tả, chàng nhận thấy nếu mình chỉ tụt chân lại, nhường nhịn họ một cái thì hai mắt mình bị đối phương móc mù liền. Chàng vội giơ tay ra giả bộ chộp. Chàng đoán rất đúng, tay chàng vừa chộp trúng bàn tay trái của đối phương, thì cũng đúng lúc yếu huyệt ở chân chàng bị điểm trúng, chàng không sao đứng vững được, phải quì ngay xuống.

Chàng định thừa thế bẻ gãy luôn tay của đối phương nhưng thấy bàn tay của đối phương vừa nhỏ vừa mềm mại, chàng biết ngay là tay của đàn bà nên thương tình tha cho đối phương, chỉ nhắc tay của người đó hất ra bên ngoài thôi, bỗng có tiếng kêu “bộp”, vai phải của chàng đau nhức vô cùng. Thì ra chàng bị kẻ địch chém trúng một đao.

Người nọ liền nhảy ra ngoài, dơ chưởng đánh luôn vào mặt Triệu Minh, Vô Kỵ biết Triệu Minh không chống đỡ nổi chưởng đó, thế nào cũng bị chết ngay tại chỗ, nên chàng nhịn đau, tung mình nhảy lên chống đỡ chưởng của đối phương.

Chưởng của hai người chạm nhau, nhưng không có một tiếng động nào hết. Thì ra kình lực Dương Cương chưởng của chàng đã bị nội lực âm kình của đối phương hoá giải mất.

Người đó thấy đón đánh không trúng, liền mượn chưởng lực của chàng, thừa thế nhảy luôn ra ngoài mấy trượng. Và chỉ thoáng cái, người nọ đã mất dạng trong bóng tối liền.

Triệu Minh kinh hãi hỏi:

– Ai đó?

Vô Kỵ lấy đa lửa ra châm, nhưng vì ngòi bị ướt, không sao đánh lửa được.

Lúc này chàng mới biết vai mình bị kẻ địch dùng dao găm đâm trúng, con dao vẫn nằm trong vai mình, chàng sợ dao có tẩm thuốc độc, nên không dám rút ra ngay, liền nói:

– Minh muội, mau vào thắp đèn lên đi.

Triệu Minh liền xuống bếp lấy lửa châm vào cái mồi, rồi thắp luôn ngọn đèn dầu lên. Nàng thấy con dao cắm trên vai Vô Kỵ, giật mình kinh hãi.

Nhưng Vô Kỵ đã thấy rõ lưỡi dao đó không có tẩm độc, liền vừa cười vừa trấn an nàng rằng:

– Không sao, chỉ bị ngoại thương thường thôi. Minh muội cứ yên tâm.

Nói xong, chàng dùng ba ngón tay kẹp vào cán dao rút ra luôn.

Chàng quay đầu lại, liền thấy vợ chồng Dịch Tam nương đang chui rúc ở góc nhà. Chàng quên cả cầm máu ở vết thương của mình, vội chạy lại xem mới hay hai người đã chết từ lâu rồi.

Triệu Minh vừa kinh hãi vừa nói:

– Lúc tôi đi tìm đại ca, hai người vẫn mạnh giỏi như thường.

Vô Kỵ gật đầu, chờ Triệu Minh băng bó vết thương cho mình xong, mới cầm con dao găm lên xem. Chàng nhận ngay ra con dao này là của vợ chồng họ Ðỗ.

Chàng lại xem xét lại trong nhà, thấy trên xà nhà, trên cột, trên bàn, dưới đất đều có dao găm cắm lung tung.

Chàng đoán chắc kẻ địch kịch chiến với vợ chồng họ Ðỗ một hồi, chờ vợ chồng ông già ném hết đoản đao rồi, kế kẻ đó mới ra tay hãm hại vợ chồng ông ta.

Triệu Minh kinh hãi thầm, nói tiếp:

– Người này võ công lợi hại thực.

Vô Kỵ nghĩ đến trận đấu trong bóng tối, chỉ đôi ba thế thôi đã nguy hiểm khôn tả. Nếu mình không để ý thì có lẽ hai mắt đã bị đui mù rồi. Không những thế cả mình với Triệu Minh đều bị phơi xác tại chỗ cũng nên. Chàng xem xét xác chết của vợ chồng người họ Ðỗ, thấy xương ngực của hai người bị gẫy hết. Cả xương sườn cũng vậy.Hiển nhiên là bị chưởng lực rất âm độc vầ rất lợi hại đả thương. Chàng nghĩ lại trận đấu lúc nãy lại càng kinh hoảng.

Triệu Minh đột nhiên lên tiếng hỏi:

– Người đó là ai thế?

Vô Kỵ lắc đầu không trả lời, nhưng Triệu Minh hình như đã biết người đó là ai rồi, nên nàng có vẻ hoảng sợ, đứng ngẩn người giây lát, rồi mới ngã vào lòng Vô Kỵ khóc lóc. Hai người cũng đều biết, nếu Triệu Minh không nghe thấy tiếng rú của Vô Kỵ chạy ra nghênh đón thì bây giờ cũng chết chung với vợ chồng họ Ðỗ rồi.

Vô Kỵ an ủi nàng vài câu.

Nàng lại nói tiếp:

– Người đó thù tôi muốn giết tôi, nhưng tội nghiệp vợ chồng họ Ðỗ đã vì tôi mà phải chết oan.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Bây giờ trở đi, Minh muội đừng rời khỏi tôi nhé.

Chàng suy nghĩ giây lát, lại nói tiếp:

– Không đầy một năm trời, sao võ công lại tiến bộ nhanh chóng đến thế được? Trên đời này, có lẽ ngoài tôi ra, không ai có thể bảo vệ được Minh muội an toàn cả.

Sáng ngày hôm sau, Vô Kỵ đào đất chôn hai vợ chồng họ Ðỗ ở ngay cạnh nhà đó, rồi hai người cùng quì xuống vái mấy lạy.

Khi hai người vừa đứng dậy thì bỗng nghe thấy tiếng chuôn ở trong chùa vọng ra, chỉ lắng tai nghe một cái, Vô Kỵ đã biết đó là tiếng chuông báo nguy liền.

Tiếp theo đó, hai người thấy bên phía Ðông có người đốt cây pháo bông màu xanh, ngọn khói bốc lên tận trời. Rồi đến phía Nam có khói màu đỏ, phía tây khói màu trắng, phía bắc khói màu đen và ngoài đằng xa chừng mấy dặm có khói màu vàng.

Năm làn khói ấy bao vây lấy chùa Thiếu Lâm.

Vô Kỵ liền nói:

– Ngũ Hành kỳ của Minh Giáo đã tới cả, đốt báo hiệu như thế là đã quyết tâm đối địch với chùa Thiếu Lâm rồi. Chúng ta mau tới đó ngay đi.

Chàng với Triệu Minh vội vàng thay quần áo và rửa sạch bộ mặt, rồi rảo cẳng chạy về phía chùa.

Hai người đi được mấy dặm thì thấy một đội giáo chúng của Minh giáo mặc quần áo màu trắng, tay cầm cờ nhỏ màu vàng, đang từ từ đi lên trên núi.

Vô Kỵ liền lớn tiếng gọi:

– Nhan kỳ chủ có ở đấy không?

Hậu Thổ Kỳ Nhan Bồn nghe thấy có người kêu gọi tên mình vội quay đầu lại mới hay là Vô Kỵ, mửng rỡ vô cùng, vội tiến lên hành lễ nói:

– Hậu Thổ Kỳ Nhan Bồn tham kiến giáo chủ.

Giáo chúng dưới kỳ của y vội hoan hô reo vang, và cũng nằm phục xuống vái lạy Vô Kỵ.

Thì ra, phen này do Quang Minh tả sứ Dương Tiêu và Quang Minh Hữu Sứ hai người thống lãnh tập hợp hết tay cao thủ trong Minh giáo, rồi cùng đi tới chùa Thiếu Lâm đòi người lại.

Hai người biết thế nào cũng lôi thôi lắm, chưa chừng còn phải đấu một trận rất lớn nữa, hai người liền cho người đi khắp nơi tìm kiếm giáo chủ. Tuy không có người cầm đầu, nhưng thấy sự thể cấp bách, không thể chờ đến tết Ðoan Ngọ được, rồi ngày đó có đủ mặt anh hùng, hào kiệt trong võ lâm thì Minh giáo sẽ trở nên kẻ địch của tất cả các môn phái mất. Mọi người bàn định một phen, đều nhận thấy không sao thưa cùng giáo chủ được, đành phải tạm quyền giáo chủ, hai người thống lãnh các tay cao thủ của bang chúng lên chùa Thiếu Lâm trước tết Ðoan Ngọ chừng mười ngày.

Vô Kỵ an ủi mọi người vài câu và liền đó đã có giáo chúng thổi tù và báo cho những người ở xa biết giaó chủ đã tới.

Một lát sau, Dương Tiêu, Phạm Dao, Thiên Chính, Nhất Tiếu, Hân Dã Vương, Chu Ðiên, Doanh Ngọc, Thiết Quan Ðạo Nhân các người trước sau ở các nơi đến tụ tập. Chỉ trừ giáo chúng của Tứ kỳ chia làm bốn mặt bao vây chùa Thiếu Lâm không dám rời khỏi chòi canh của mình nên không tới được.

Mọi người tham kiến giáo chủ ai nấy đều vui mừng. Dương Tiêu, Phạm Dao xin lỗi Vô Kỵ về tội đã tự tiện lạm quyền đem người đến đây như thế.

Vô Kỵ liền nói:

– Các vị khỏi cần khiêm tốn, tất cả anh em hợp sức tới đây cứu Tạ Pháp Vương đủ thấy nghĩa khí của anh em cao cả như thế nào, bổn nhân rất cảm động mà cám ơn chứ có trách cứ gì ai đâu, mà cũng không một người nào có tội tình gì hết.

Thế rồi chàng kể lại chuyện mình hoá trang làm người nhà quê lẻn vào chùa, rồi tối hôm qua đấu với ba hòa thượng như thế nào, kể qua loa cho mọi người nghe.

Mọi người đều hận Thành Khôn vô cùng.

Chu Ðiên với Thiết Quan Ðạo Nhân liền lớn tiếng mắng chửi ngay.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Ngày hôm nay bổn giáo đường hoàng đến đây đòi phái Thiếu Lâm trả lại người cho chúng ta, tốt hơn hết đừng làm mất hòa khí của hai bên, vạn bất đắc dĩ chúng ta mới ra tay đối địch với người của họ. Mục đích của chúng ta là cứu Tạ Pháp Vương và bắt Thành Khôn thế thôi, không nên giết bừa bãi, để những người vô tội chết oan.

Mọi người đều vâng lời, Vô Kỵ lại nói với Triệu Minh rằng:

– Tốt hơn hết Minh muội nên cải nam trang, đừng để phái Thiếu Lâm nhận diện để sau này khỏi rắc rối thêm.

Triệu Minh vừa cười vừa đỡ lời:

– Nhan đại ca, tôi làm một tên lính dưới cờ đại ca nhé.

Tuy Nhan Bồn không biết nàng là người thế nào của giáo chủ, nhưng thấy giáo chủ gọi nàng là em, và thấy hai người thân mật như vậy liền vâng lời ngay, liền bảo một tên thuộc hạ cởi ngay áo bào khoác lên người Triệu Minh.

Nàng chạy vào trong bụi lấy đất cát bôi cho đen mặt lên, thoáng cái, đã biến thành một người ốm nhom mặt đen trông rất xấu xí.

Thế rồi, bốn bề có tiếng tù và nổi lên, quần hào xếp hàng đi lên núi, trong chùa đã nhận được thiếp của Minh Giáo xin bái sơn rồi, nên Không Trí thiền sư dẫn các tăng chúng đi ra sơn đỉnh nghênh đón.

Không Trí nghe lời dèm pha của Viên Chân, yên chí mọi người bên mình bị Triệu Minh dùng kế bắt đi , nhốt ở kinh đô và chặt gãy ngón tay bắt buộc phải dậy võ công v.v…đều do gian kế của Minh Giáo ngấm ngầm liên kết với Nhữ Dương Vương mà xếp đặt ra.

Sau Vô Kỵ ra tay cứu mọi người là giả bộ làm như vậy để lấy lòng các môn phái, chắc thế nào cũng có âm mưu gì khác, vì vậy mà lúc này Không Trí thấy Minh Giáo đem người đến vây chùa rồi lên núi, nên mặt y trông rất khó coi, chắp tay vái chào Vô Kỵ và các người xong một cái rồi không nói năng gì hết.

Vô Kỵ cũng chắp tay đáp lễ và nói:

– Tệ giáo có một việc muốn nhờ vả quý phái, cho nên chúng tôi mới thân hành lên núi bái kiến Phương trượng thần tăng.

Không Trí gật đầu đáp:

– Xin mời.

Y liền dẫn quần hào đi thẳng vào cửa chùa.

Không Tăng phương trượng nghe thấy Vô Kỵ thân hành đến nơi, không muốn mất lễ phép của võ lâm, cũng dẫn các tăng của Ðại Ma Ðường, La Hán đường và Tàng Kinh Các ra tận cửa chùa để nghinh đón, rồi mời quần hùng vào trong Ðại Hùng bảo điẹn ngồi, chú tiểu liền đem nước ra mời.

Không Văn chào hỏi Vô Kỵ, Dương Tiêu, Thiên Chính các người xong, im lặng ngay, không nói thêm gì nữa.

Vô Kỵ vội lên tiếng:

– Phương trượng thần tăng, chúng tôi đặc biệt đến viếng tam bảo điện là một việc nhờ vả phương trượng nể chúng tôi cùng người võ lâm tha cho Tạ pháp vương của tệ giáo thì ơn đức này chúng tôi thế nào cũng báo đáp.

Không Văn trả lời:

– A di đà phật, chúng tôi là người tu hành, lấy từ bi làm căn bản, đáng lẽ không nên làm khó dễ thí chủ. Không Kiến sư huynh của lão tăng chết trong tay Tạ thí chủ, Trương giáo chủ là người đứng đầu một giáo phái chác cũng biết qui củ của võ lâm đấy chứ?

Vô Kỵ nói:

– Chắc bên trong cũng có duyên cớ gì đây không thể trách cớ Tạ pháp vương được.

Thế rồi chàng kể lại chuyện Không Kiến cam để cho Tạ Tốn đánh với mục đích muốn hoá giải một trận đại oan nghiệt thế nào.

Không Văn các người mới chỉ nghe được một nửa đã niệm phật cung kính đứng dậy ngay.

Không Văn hai mắt đẫm lệ với giọng run run nói:

– Thiện tai, thiện tai. Không Kiến sư huynh có nguyện lớn để làm việc thiện đó, công đức ấy thực không nhỏ.

Có mấy vị hòa thượng đứng cạnh đó khẽ tụng kinh , khiến ai ai cũng kính phục lòng nhân hiệp cao nghĩa của Không Kiến.

Quần hào Minh giáo cũng đồng loạt đứng dậy tỏ vẻ kính ngưỡng.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tạ Pháp Vương lỡ tay đả thương Không Kiến thần tăng, nên sau rất hối hận, nhưng nghĩ lại thủ đoạn của mối tai hoạ này là Viên Chân đại sư của quý chùa.

Chàng không thấy Viên Chân có mặt tại đây liền nói tiếp:

– Xin mời Viên Chân đại sư ra đây để xem ai phải ai trái.

Chu Ðiên cũng xen lời nói:

– Phải đấy, tên giặc đầu sói ấy đã chết ở trên Quang Minh đỉnh, ngờ đâu bây giờ y lại sống lại, cứ lén lén lút lút thế không phải là người quang minh chính đại, vậy có mau ra đây không?

Vì ngày nọ, y bị Viên Chân đánh bại trên Quang Minh Ðỉnh nên bây giờ muốn nhân dịp trả thù lại.

Vô Kỵ thấy vậy ngăn cản:

– Chu tiên sinh không được vô lễ trước mặt Phương trượng đại sư như thế.

Chu Ðiên đáp:

– Tôi chửi tên giặc đầu sói Viên Chân chứ có chửi Phương trượng…

Y biết lỡ lời nên giơ tay lên bịt mồm lại.

Không Trí nghĩ đến cái chết của Không Kiến và Không Tín trong lòng đã phẫn uất khôn tả, bây giờ thấy Chu Ðiên vô lễ như vậy lại càng nổi giận thêm liền xen lời hỏi:

– Thế còn cái chết của Không Tín sư đệ thì Trương giáo chủ giải thích ra sao?

Vô Kỵ đáp:

– Không Tín thần tăng là người hào hiệp, tại hạ rất kính phục, không may đại sư ngộ nạn, tại hạ cũng thương tiếc lắm. Nhưng đó là do gian nhân ám hại chứ không việc gì đến bổn giáo cả.

Không Trí cười nhạt đáp:

– Việc gì Trương giáo chủ cũng thoái thác hết, thế còn chuyện Minh giáo liên hiệp với quận chúa của Nhữ Dương Vương thì sao? Chả lẽ chuyện đó cũng là giả nốt hay sao?

Quận chúa bất đồng ý kiến với anh và cha đã đến đầu thân bổn giáo. Ngày xưa quận chúa có những điều bất kính đối với quý chùa, tại hạ thế nào cũng bảo nàng lên núi bái Phật để tạ tội.

Không Trí quát hỏi tiếp:

– Trương giáo chủ thân là giáo chủ của một giáo phái mà lại ăn nói bậy bạ như vậy, không sợ anh hùng thiên hạ chê cười cho hay sao?

Vô Kỵ nghĩ đến việc Triệu Minh đã bắt cóc hòa thượng và giết chết Không Tín quả thực là không nên, không phải, tuy việc ấy không liên can gì đến Minh giáo nhưng bây giờ nàng ta đã tới nhờ mình che chở, mình không thể khoái thác được. Chàng đang phân vân khó xử thì Thiết Quan đạo nhân đã quát lớn:

– Không Trí đại sư, giáo chủ ta kính người là tiền bối cao tăng, đã nể mặt ngươi rất nhiều rồi. Ngươi vốn không biết tự trọng. Minh giáo là một giáo phái rất trọng tín nghĩa có bao giờ lại nói dối như thế. Ngươi làm nhục giáo chủ không khác gì làm nhục trăm vạn giáo chúng của Minh giáo chúng ta. Dù giáo chủ có khoan hồng cho ngươi, nhưng anh em của Minh giáo cũng không thể nào tha thứ cho ngươi được.

Lúc ấy thanh thế của Minh giáo rất lợi hại, đánh đâu thắng đó và bộ hạ rất nhiều, cho nên đạo sĩ nói có hàng trăm vạn người cũng không ngoa chút nào.

Không Trí cười nhạt nói tiếp:

– Trăm vạn giáo chúng đã sao nào? Chẳng nhẽ định san bằng chùa Thiếu Lâm ra thành bình địa sao? Ma giáo làm nhục chùa Thiếu Lâm từ lâu rồi, chúng ta thất thế bị bắt giữ ở chùa Vạn Pháp, đó là chúng ta chưa học thành tài mà nên. Xưa nay chính tà vẫn không đội trời chung. Hì hì ” Tiêu diệt Thiếu Lâm, hậu hủy Võ Ðang, duy ngã Minh giáo, võ lâm xưng vương” Câu ca dao ấy của Minh giáo oai phong thực.

Vô Kỵ nghe thấy Không Trí nói tới mấy câu ấy, mới sực nhớ năm nọ Triệu Minh cho người tới chùa Thiếu Lâm bắt các nhà sư đi xong, thủ hạ của nàng còn dùng Ðại lực Kim Cương chỉ viết vào sau lưng thạch tượng của Ðạt Ma. Lúc ấy Phạm Dao còn là Khổ Ðầu Ðà núp trong Nhữ Dương Vương phủ, lòng vẫn hướng về Minh giáo, nên y chờ mọi người đi khỏi, lại quay về chùa xoay tượng Ðạt Ma lại, để phá âm mưu của Triệu Minh. Ngờ đâu khi Dương Tiêu tới nơi quay tượng Ðạt Ma lại. Chuyện ấy hòa thượng chùa Thiếu Lâm đều rõ hết.

Vô Kỵ vốn kém ăn kém nói, vả lại nghĩ việc đó cũng do Triệu Minh làm nên, vì vậy, chàng không biết trả lời ra sao cho phải.

Dương Tiêu thấy vậy vội đỡ lời:

– Không Trí đại sư nói vậy thật khiên cho Minh giáo chúng tôi ngạc nhiên vô cùng. Thiết tưởng tôn nhân của giáo chủ chúng tôi là Trương ngũ hiệp của phái Võ Ðang, việc nầy ai ai cũng hay rõ hết. Vậy, chúng tôi có ngông cuồng đến đâu cũng không giám làm nhục tiên nhân của giáo chủ như thế? Hơn nữa chữ viết trên thạch tượng là dùng Kim Cương thủ pháp viết thành, thủ pháp ấy là thần kỹ của quý phái, không bao giờ truyền thụ cho người ngoài cả. Ðại sư là người hiểu hết võ công của các môn phái, tất nhiên phải biết lời nói của tại hạ ngoa hay thực liền. Và anh hùng trên thiên hạ sẽ chê cười ai đại sư cũng hay nốt.

Không Trí nghe Dương Tiêu nói rất có lý, đành chịu không sao trả lời được.

Không Văn là người hiền từ lại biết đại thể hơn, y cũng biết thế lực của Minh giáo hiện nay rất mạnh, nếu hai bên thẳng tay đấu với nhau chỉ sợ ngôi chùa Thiếu Lâm truyền từ nghìn năm trước đến tay mình bị phá tan, như vậy sẽ là tội lớn với bổn phái, cho nên, y vội lên tiếng khuyên bảo:

Các vị cứ nói suông như vậy không ích lợi gì hết. Xin mời quý vị hãy theo bần tăng vào trong Ðạt Ma đường chiêm ngưỡng tượng của tổ sư, biết rõ ai phải ai trái liền.

Vô Kỵ đáp:

– Như vậy rất hay.

Lúc này chàng chợt nghĩ tới Triệu Minh, nhưng biết Triệu Minh trà trộn vào đại đội Hậu Thổ Kỳ, chưa theo mọi người vào đại điện, nên trong lòng hơi an tâm.

Mọi người lần lượt đi theo vào trong Ðạt Ma đường, nơi đây là chỗ tu tâm tích dưỡng của các cao tăng, những tăng chúng vai vế kém và trẻ tuổi hơn không bao giờ được đến đây cả.

Khi mọi người tới nơi, thấy cửa đóng kín, Không Trí liền nói:

– Phương trượng mời các vị thí chủ của Minh giáo tới đây chiêm ngưỡng pháp trượng của sư tổ.

Mọi người đứng chờ giây lát, không thấy bên trong có tiếng động gì hết, người thủ tọa của Ðạt Ma Ðường liền giơ tay khẽ đẩy mạnh cánh cửa một cái.

Chỉ thấy bên trong có chín vị cao tăng đang ngồi trên thảm Bồ Ðoàn nhắm nghiền mắt lại đả tọa, chín người này đả tọa khác nhau chứ không như những người thường, họ hoặc quì hoặc ngồi xổm, hoặc nằm ngủ hoặc khom lưng, có người giơ hai tay, có người co một chân, Vô Kỵ thấy vậy biết ngay mấy vị này đang tu luyện nội công rất thượng thặng của Phật gia, những điệu này là theo các pháp trượng của năm trăm vị La Hán mà biến hoá ra.

Mọi người tới nơi, chín vị cao tăng đó đều làm ra vẻ không nghe thấy và không trông thấy gì cả, cứ ngồi hay đứng nghiêm như tượng gỗ vậy.

Chàng liền nghĩ thầm:

– Ngày nọ ta lên chùa Thiếu Lâm ở Ðạt Ma đường chỉ thấy chín cái bồ đoàn rách nát. Minh muội bắt cóc chín vị cao tăng đó đem vào chùa Vạn Pháp, nhưng không hiểu ngày đó chín vị đi đâu mà ta không thấy một ai hết.

Không Văn, Không Trí cũng làm như không trông thấy chín vị sư ấy vậy, chỉ quì xuống vái lạy thạch tượng của Ðạt Ma tổ sư thôi.

Không Văn liền lên tiếng nói:

– Ðệ tử kinh động đến pháp tượng của Tổ sư, xin tha thứ cho đệ tử.

Lễ xong, y liền dặn mấy người đệ tử cung kính quay thân pháp của tổ sư lại, sáu tên đệ tử vâng lời tiến lên lẳng lặng khấn vái mấy câu, rồi xoay tượng đá nặng hơn hai nghìn cân đó. Tượng đó mới xoay được một nửa, mọi người đều cả kinh la lớn, vì họ thấy thạch tượng đó mặt mũi tai mồm nguyên vẹn hẳn hoi, không có bị suy suyển chút nào.

Lúc ấy không những Không Văn, Không Trí cả kinh mà cả bọn Vô Kỵ cũng ngạc nhiên nốt. Trước đây rõ ràng mọi người đã trông thấy mặt mũi tai của tượng Ðạt Ma đã bị đẽo bằng, và bên trong còn viết mười sáu chữ, tại sao lúc này lại lành lặn không suy suyển chút nào.

Không Trí tiến lên giơ tay rờ mó thấy thạch tượng này là nguyên tảng đá đẽo thành, chứ không phải là đắp lên, mọi người đều ngơ ngác nhìn nhau không sao lên tiếng nổi. Vì thạch tượng nặng hơn hai nghìn cân như thế, ở bên ngoài điêu khắc và đục đẽo xong rồi lặng lặng đem vào trong chùa, đổi pho tượng ở trong chùa ra, công trình này lớn lao biết bao?

Mấy tháng nay chùa Thiếu Lâm canh gác rất nghiêm mật, đừng nói chi cái tượng to lớn như thế, ngay đến một cái bát, một cái chậu đêm ra, đem vào cũng không dễ.

Dương Tiêu thấy các hòa thượng kinh ngạc như vậy, liền chộp lấy dịp may này, lên tiếng luôn:

– Quý chùa phúc trạch thâm hậu, công đức vô lượng, Ðạt Ma lão tổ hiển thánh tự sửa chữa lấy pháp tượng, thật là đáng kính đáng mừng.

Nói xong y liền quì xuống vái lậy pho tượng trước, Vô Kỵ và các người cũng quì xuống vái lậy theo.

Không Văn, Không Trí các hòa thượng đành phải đáp lễ.

Không Văn các người không tin tổ sư hiển thánh thật, nhưng cũng đoán Minh giáo đã làm như vậy, nên ai nấy đều lui cơn giận ngay.

Hồi thứ 93

Ngang Tài Ngang Sức

Không Văn lại nói:

– Thánh tượng đã lành lặn như trước, chúng ta khỏi nhắc nhở đến việc này nữa.

Nói xong, y ra lệnh cho sáu tên đệ tử kia xoay thạch tượng và nói tiếp:

– Tối hôm qua Trương giáo chủ giá lâm đã gặp ba vị sư thúc của bần tăng rồi và Ðộ ách sư thúc có hẹn ước với giáo chủ quý hồ quý giáo phá nổi Kim Cương Phục Ma của ba vị sư thúc thì giáo chủ cứ việc đem Tạ Tốn thí chủ đi, chẳng hay câu chuyện đó có hay không?

Vô Kỵ đáp:

– Phải, nhưng võ công của ba vị cao tăng cao siêu lắm, tối hôm qua tại hạ đã bị đánh bại rồi, đâu còn dám nói là mình tài ba nữa?

Không Văn lại nói tiếp:

– A di đà phật, Trương giáo chủ khiêm tốn lắm, tối hôm qua ba vị sư thúc chúng tôi rất cảm ơn cao nghĩa cả của thí chủ.

Dương Tiêu, Phạm Dao thấy Vô Kỵ nói võ công của nhóm Ðộ ách cao tuyệt, nên họ chỉ muốn gặp gỡ ba vị cao tăng đó ngay.

Thiên Chính cũng lên tiếng:

– Nếu quý vị cao tăng của Thiếu Lâm muốn thử võ công của chúng ta cao thấp ra sao thì giáo chủ cũng nên gượng sức lãnh giáo tuyệt học của phái Thiếu Lâm, chúng ta đên đây vì cứu chú Tạ Tốn mà bắt buộc phải ra tay đấu thế thôi, chứ đâu dám đến quấy nhiễu.

Xưa nay, Vô Kỵ vốn trọng ông ngoại, nghe Thiên Chính nói vậy, liền nói lại với Không Văn rằng:

– Tất cả anh em của bổn giáo, nghe thấy tại hạ khen ngợi ba vị cao tăng, nên ngày hôm nay đều muốn bái kiến.

Không Trí liền giơ tay nói:

– Xin mời.

Nói xong, y liền dẫn quần hào đi vào trong chùa, lên phía hậu sơn ngay.

Giáo chúng của Hồng Thủy Kỳ do Vi Kỳ Sứ Ðường Dương thống lãnh đều ở cả lại dưới chân núi.

Không Văn các người trông thấy, nhưng làm như không trông thấy gì cả, cứ việc tiến lên trên đỉnh núi.

Khi đi tới nơi, Không Văn, Không Trí đi tới ba cây thông, chắp tay vái chào và thưa bẩm.

Ðộ ách liền đáp:

– Mối thù oán của Dương Phá Thiên đã hoá giải rồi, hay lắm, hay lắm. Trương giáo chủ, mời mấy vị cứ ra tay tấn công đi.

Dương Tiêu thấy ba vị hòa thượng đó bé nhỏ và gầy gò, ngồi trong hốc cây tựa như ba cái xác chết vậy. Nhưng giọng nói của họ lớn vô cùng, khiến mọi người đứng quanh đó đều bị đinh tai, nhức óc, đủ thấy nội công của ba lão hòa thượng này cao thâm như thế nào.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Tối qua một mình ta không địch nổi ba người, ngày hôm nay chúng ta có nhiều người, nhưng ùa lên tấn công thì vướng chân vướng tay, phần thì thí nhiều thắng ít, làm mất hết cả oai phong của bổn giáo, chi bằng chúng ta dùng ba người để đối địch thì công bằng hơn.

Nghĩ đoạn chàng liền nói:

– Tối hôm qua, tại hạ đã được kiến thức thần công của ba vị, tại hạ được sáng mắt ra, đáng lẽ không dám ở trước mặt ba vị bêu xấu lần nữa đâu, nhưng Tạ pháp Vương với tại hạ có tình phụ tử, với các anh em lại có nghĩa bạn hữu, chúng tôi dù không tự lượng sức nhưng thể nào cũng phải ra tay cứu Tạ Pháp Vương mới được, nên bây giờ tại hạ muốn mời thêm hai anh em trợ giúp, ba địch với ba để lãnh giáo những thế võ cao siêu của ba vị.

Ðộ ách lạnh lùng nói:

– Trương giáo chủ khỏi cần khiêm tốn như thế, nếu trong quý giáo có một vị nào võ công tương tự như giáo chủ, thì chỉ cần hai người cũng đủ đánh bại ba già này rồi. Nếu lão tăng đoán không nhầm, người mà tài như giáo chủ có lẽ trên đời không có đến người thứ hai, như vậy dù bên quý giáo có thêm vài người cùng liên tay đấu cũng không sao.

Chu Ðiên và Thiết Quan đạo nhân đều đưa mắt nhìn nhau, cho là ba hòa thượng kia quá ngông cuồng, không còn coi anh hùng trên thiên hạ vào đâu nữa. Tuy vậy y vẫn thừa nhận là không bằng giáo chủ, vì vậy mọi người mới bớt hậm hực.

Vô Kỵ lại lên tiếng:

– Tệ giáo tuy là bàng môn tà đạo, không đáng đối địch với quý phái, một môn phái có tên tuổi như thế, nhưng tệ giáo cũng đã sáng lập mấy trăm năm rồi, dù sao cũng có chút ít nhân tài, tại hạ chỉ nhờ may mắn mới giữ được chức giáo chủ này, sự thật nói đến tài học và võ công, còn có nhiều người hơn tại hạ nhiều. Vi Bức Vương làm ơn đưa danh thiếp lên trình cho ba vị cao tăng xem.

Nói xong, chàng ra hiệu cho Vi Bức Vương.Nhất Tiếu liền lấy một tờ danh thiếp ra, trên có viết chữ Vô Kỵ, Dương Tiêu, Thiên Chính cho tới những quần hào tới đến bái sơn, ai ai cũng viết tên trong đó.

Bức Vương biết giáo chủ muốn mình thể hiện khinh công tuyệt thế cho ba người kia xem để họ khỏi coi thường Minh giáo.

Cho nên y vái chào Vô Kỵ một cái, không thấy y quay mình gì cả, chỉ thấy bắn người một cái, như một làn khói, thoáng cái đã đến chỗ ba cây thông.

Rồi lật song chưởng lên một cái, tấm danh thiếp đã bay đến tay Ðộ ách.

Ba sư huynh Ðộ ách thấy khinh công của Nhất Tiếu như vậy cũng phải khen:

– Khinh công cao siêu thât.

Các hòa thượng phái Thiếu Lâm đều vỗ tay khen ngợi.

Ðộ ách tiếp lấy danh thiếp đó, y mới chỉ dùng năm ngón tay nắm vào đầu danh thiếp thôi, mà Nhất Tiếu đã thấy mình mẩy chân tay tê tái rồi, Nhất Tiếu như bị điện giật, người bỗng mềm nhũn suýt ngã, cả kinh vội vận nội công chống lại.

Sau khi Ðộ ách tiếp lấy danh thiếp rồi, Nhất Tiếu mới thấy mất luồng sức lực đó, nên trong lòng cũng phải kính phục nội công của lão hòa thượng.

Y thấy công việc đã hoàn tất, liền lướt trên ngọn cỏ trở về chỗ.

Vô Kỵ , Không Văn, Không Trí thấy vậy cũng nghĩ thầm:

– Khinh công của người này luyện đến mức cao siêu như vậy không phải chuyện dễ.

Ðộ ách lại lên tiếng tiếp:

– Trương giáo chủ đã quyết định ba người ra đấu, vậy ngoài giáo chủ, Vi Bức Vương ra còn vị nào nữa?

Vô Kỵ đáp:

– Bức Vương đã lãnh giáo nội công thần lực của đại sư rồi, bây giờ tại hạ mời Tả hữu Quang Minh sứ giả của Minh giáo ra trợ giúp.

Ðộ ách nghe nói nghĩ thầm:

– “Ðôi mắt của thiếu niên này sắc bén thật, ta mới truyền sức sang thiếp có một chút thôi mà y đã thấy liền. Tả hữu Quang Minh sứ giả là ai thế, chẳng nhẽ hai tên này võ công còn hơn tên họ Vi hay sao?

Y toạ quan lâu năm nên không hề biết tên tuổi của Dương Tiêu, còn Phạm Dao thì mai danh ẩn tích lâu năm nên không ai biết rõ hết.

Dương, Phạm hai người nghe Vô Kỵ nhắc nhở đến tên mình, liền tiến lên một bước vái chào và nói:

– Xin tuân lệnh giáo chủ.

Vô Kỵ liền bảo hai người rằng:

– Ba vị cao tăng xử dụng khí giới mềm, chẳng hay chúng ta nên dùng khí giới gì?

Chắc quý vị cũng biết ba người Vô Kỵ, Dương Tiêu, Phạm Dao xưa nay ra tay đều dùng tay không hết. Nhưng ba người kia không phải tầm thường, nên họ phải dùng tới khí giới mới đối phó được, ba người võ công cao siêu thế thì dùng khí giới nào mà chả được, nhưng Vô Kỵ muốn hỏi thế để tiện cho hai người kia.

Dương Tiêu đáp:

– Xin giáo chủ cứ dặn bảo.

Vô Kỵ nghĩ ngợi giây lát liền nghĩ thầm:

– Hôm qua Hà Giang Song Sát dùng khí giới ngắn đối địch rất thuận lợi.

Chàng liền móc túi lấy sáu cái thánh hỏa lệnh ra đưa cho Dương , Phạm mỗi người hai cái rồi nói:

– Chúng ta lên Thiếu Lâm, không dám mang theo khí giới, đây là vật báu trấn sơn của bổn giáo, chúng ta cứ đem nó ra xử dụng được rồi.

Dương Phạm hai người cúi mình đỡ lấy đang định hỏi cách đối địch, thì Không Trí đột nhiên nói lớn:

– Khổ Ðầu Ðà, chúng ta ở chùa Vạn Pháp đã kết thù oán với nhau, khi nào ta chịu để yên cho ngươi, lão tăng ngày hôm nay không uống phải nhuyễn cân tán, vậy ta với ngươi hãy đấu một phen xem ai hơn ai kém nào.

Phạm Dao nghe xong, cười nhạt nói:

– Tại hạ thừa lệnh giáo chủ đánh phá Kim Cương Phục Ma Khuyện, đại sư muốn báo thù xưa, chờ lão đấu xong trận này đã, rồi lão sẽ tiếp đại sư sau.

Không Trí lại nói tiếp:

– Ngươi không biết tự lượng sức mình mà đối chọi với ba sư thúc của ta, nếu ngươi không chết thì cũng bị thương nặng, như vậy làm sao mà trả được thù.

Phạm Dao vừa cười vừa đáp:

– Lão có chết trong tay lệnh sư thúc chăng nữa thì cũng thế thôi.

Không Trí cười nhạt nói tiếp:

– Trừ các hạ ra, Minh giáo không còn cao thủ nào khác nữa sao? Nếu không có thì thôi cũng được.

Lời nói ấy của y là muốn khiêu khích.

Quần hào của Minh giáo sao lại không hiểu, nhưng nếu chịu nhịn như vậy, thì chả hoá ra để phái Thiếu Lâm khinh miệt hay sao? Nói tới địa vị và danh vọng thì dưới Phạm Dao mới tới Bạch Mi Ưng Vương, Vô Kỵ thấy ông ngoại tuổi già không tiện mời ra đấu, đang định mời Dã Vương ra thay nhưng Thiên Chính đã tiến ra một bước và nói:

– Thưa giáo chủ, thuộc hạ Thiên Chính xin lệnh ra ứng chiến.

Vô Kỵ đáp:

– Ông ngoại tuổi cao như vậy còn xuất mã làm chi nữa, xin mời cậu…

Thiên Chính đáp:

– Ta tuy già thật, nhưng còn kém ba vị cao tăng, phái Thiếu Lâm có những ký túc như thế chẳng nhẽ Minh giáo không có lão tướng sao?

Vô Kỵ biết võ công của ông ngoại rất tinh thông không kém Phạm Dao và con cao hơn cậu nhiều, nếu để cho ông mình xuất trận còn nắm nhiều phần thắng hơn. Cho nên chàng trả lời:

– Thôi được, Phạm Hữu Sứ hãy giữ sức lực để lát nữa lãnh giáo võ công của Không Trí thần tăng vậy, bây giờ mời ông ngoại hãy ra lãnh giáo trước.

Thiên Chính đáp:

– Xin tuân lệnh.

Nói xong, Ưng Vương liền đỡ lấy hai thánh hỏa lệnh từ tay Phạm Dao.

Không Văn phương trượng lớn tiếng nói:

– Thưa ba vị sư thúc. Hân lão anh hùng đây người ta gọi là Bạch Mi Ưng Vương, năm xưa đã sáng lập ra Bạch Mi giáo một mình chống lại với sáu đại môn phái. Còn Dương tiên sinh đây là nhân vật số một của Minh giáo, nội ngoại công đều luyện tới mức thượng thặng. Năm xưa đã có rất nhiều cao thủ của phái Côn Luân, Nga Mi đã bị Dương tiên sinh đánh bại.

Ðộ Kiếp cười gằn mấy tiếng rồi nói:

– Hân hạnh thật, mời quý vị đến xem võ công của đệ tử phái Thiếu Lâm chúng tôi ra sao?

Y vừa nói dứt lời, ba sợi dây đen như ba con rồng quây thành cái vòng ba từng ngay. Tối hôm qua, Vô Kỵ đấu vơi ba hòa thượng trời tối đen như mực, không trông thấy gì cả, chỉ nghe tiếng động ba sợi dây mà nhận ra ở đâu tấn công tới để chống đỡ và né tránh mà thôi.

Lúc này đang ở giữa trưa, mọi vật đều rõ ràng, đến nét nhăn trên mặt ba vị hòa thượng đều trông rõ cả, chàng liền chắp tay vái chào và nói:

– Xin thất lễ.

Nói xong, chàng né mình tấn công luôn, Dương Tiêu phi thân sang bên trái, Hân Chính cũng quát lớn một tiếng, tay phải giơ chiếc Thánh hỏa lệnh lên nằm sợi dây của Ðộ Nạn đánh xuống luôn.

Hai môn khí giới kỳ lạ va chạm nhau, phát ra một tiếng kêu kỳ dị và đinh tai nhức óc, cả hai đều thấy cánh tay rung động và cũng nghĩ thầm:

– Lợi hại thật.

Lúc này cả hai đã biết mình gặp phải đối thủ hiếm có trên đời.

Vô Kỵ cũng nghĩ thầm:

– Kim Cương Phục Ma Khuyên này nghiêm mật lắm, tuy chúng ta ba người liên tay đánh, ít nhất cũng phải đấu đến năm ba trăm hiệp mới thắng nổi, bây giờ trước hết phải làm tiêu hao nội công của ba địch thủ, rồi từ từ tìm ra chỗ trống, như vậy mới mong thắng địch.

Chàng vừa thấy sợi dây đen quấn tới, liền giơ Thánh Hỏa Lệnh ra chống đỡ và dồn Cửu Dương thần công sang.

Thần công trong người chàng càng ngày càng mạnh và liên miên bất tuyệt không bao giờ ngừng, những người xung quanh chỉ thấy có những luồng gió lốc tỏa ra, và những hơi lạnh đẩy tới thôi, nên người nào người nấy đều lùi về phía sau tránh né.

Ðấu thêm được một lúc nữa, ba người đã dồn vòng dây thu lại, chỉ còn hơn trượng thôi. Nhưng vòng dây càng bé bao nhiêu, sức phản công càng mạnh bấy nhiêu.

Ba người hễ tấn công lên được một thước là phải tốn hơi sức gấp trước mấy bội. Dương Tiêu, Thiên Chính càng đấu càng kinh dị, thoạt tiên cục diện là ba đấu với ba, nhưng nửa tiếng đồng hồ sau, thì Dương Hân hai người đã dần dần chịu không nổi, biến thành hai người hợp đấu với một Ðộ Nạn, còn một mình Vô Kỵ đối phó với Ðộ ách và Ðộ Kiếp hai lão hòa thượng.

Võ công của Hân Thiên Chính sở trường về mặt cương, còn Dương Tiêu thì bỗng nhu bỗng cương, biến hóa khôn lường nên chỉ có thế võ của y là đẹp mắt hơn hết. y xử dụng hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh như là người biểu diễn vũ đạo chiếc bên phải bỗng biến thành kiếm, bỗng biến thành đao, thành đoản thương. Còn chiếc bên tay trái của y lại xử dụng như thước sắt, roi gang, thỉnh thoảng y lại dùng hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh gõ vào nhau một cái, phát ra những tiếng “coong” làm loạn tâm thần kẻ địch. Ðấu chưa đầy bốn trăm hiệp y đã xử dụng như hai mươi hai thứ khí giới mà môn nào y cũng chỉ xử dụng hai phó thế thức thôi, như vậy cộng tất cả lại là bốn mươi bốn thế thức.

Không Tài là người học hỏi được mười tám tuyệt kỹ trong bẩy mươi hai môn của phái Thiếu Lâm, Phạm Dao vẫn tự phụ là người đã hiểu hết võ công của thiên hạ nhưng lần này hai người thấy Dương Tiêu biểu diễn như vậy cũng phải khen thầm.

Chu Ðiên xưa nay vẫn không phục Dương Tiêu, đã mấy lần y đấu với vị Tả Sứ ấy rồi nhưng lần nào y cũng cho là Dương Tiêu gặp may mới thắng nổi thế mà lần này y cũng phải phục thầm Dương Tiêu là người tài ba.

Dù Dương Tiêu giở những thế võ kỳ lạ như thế nào, Ðộ Nạn vẫn một mình với sợi dây đối địch hai người, không hề nao núng.

Mọi người thấy trên đầu của Hân Thiên Chính đã có khói trắng bốc lên, mới biết nội lực của Ưng Vương đã phát huy đến cực điểm.

Cái áo dài trắng của lão anh hùng cũng từ từ phồng lên, từ trong người như có hơi thổi ra vậy. Mỗi một bước đi đều có một vết chân in trên mặt đất.

Trận đấu kéo dài gần một tiếng đồng hồ.

Hân Thiên Chính trao Thánh Hỏa Lệnh sang bên tay trái, dùng cả hai chiếc đè lên sợi dây của Ðộ Nạn còn tay phải thì dùng Phích Không chưởng nhắm đối phương tấn công liên tục.

Ðộ Nạn vội giơ tay trái lên, cũng dùng chưởng phản công lại.

Không Văn, Không Trí đứng bên ngoài thấy vậy đều kêu “ủa” một tiếng.

Tiếng kêu đó biểu lộ sự kinh ngạc và thán phục.

Thì ra Ðộ Nạn phản công chưởng đó bằng cách dùng Tiểu Tu Ni chưởng trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Môn chưởng này rất khó luyện và mỗi lần ra chưởng phải xuống tấn, vận khờ mới có thể phát chưởng được. Nhưng bây giờ Ðộ Nạn chỉ giơ tay ra tấn công một cái mà đã xử dụng được Tiểu Tu Ni chưởng liền và tiếp theo đó sợi dây rung động một cái đã chằm Dương Tiêu tấn công luôn.

Nhưng vì lão hòa thượng cùng một lúc dùng Tiểu Tu Ni chưởng đối với chưởng của Hân Thiên Chính nên sức mạnh của sợi dây đen đó đã yếu đi hơn một nửa. Tuy vậy lão hòa thượng vẫn rất khéo léo múa sợi dây đó nhanh như một con rắn lượn.

Ðôi Thánh Hỏa Lệnh của Dương Tiêu không kém biến hóa khiến những người đứng xem cứ nhìn cả vào trận đấu của hai người.

Hân Thiên Chính dồn hết tinh thần và đổ hết hơi sức ra, cứ từng chưởng một mà tấn công sang, chợt tới hai bước chợt lui hai bước.

Bên kia Vô Kỵ một địch hai, thế võ của ba người đấu với nhau rất tầm thường, không có thế nào kỳ dở hết, và trông trận đấu này như đùa giỡn vậy chứ không phải đấu thờ mạng với nhau. Nhưng trận đấu của ba người này còn kịch liệt và hung hiểm hơn của ba người kia nhiều, hễ sơ xuất một chút là bở đối phương đánh chết liền, bằng không cũng bở tẩu hỏa nhập ma, chân tay mình mẩy tê liệt ngay nên chỉ có người trong cuộc mới biết cay, ngọt, bùi, đắng ra sao thôi chứ người đứng xem dù có võ công cao siêu đến đâu cũng không thể nhận thức được.

Sáu người đấu hơn một tiếng đồng hồ và mặt trời đã dần xế bóng về phía Tây.

Lúc này Không Văn, Không Trí, Phạm Dao, Nhất Tiếu, các tay cao thủ hạng nhất đã trông thấy rõ sự được thua của đôi bên rồi.

Khói trắng trên đầu Hân Thiên Chính càng nóng hơn. Ðộ Kiếp ngồi ở trong cái hốc cây, cành cây và là cứ rung động hoài, đủ thấy Ðộ ách với Ðộ Kiếp hai hòa thượng công lực có hơn kém nhau.

Ðến lúc này Ðộ Kiếp đã phải mượn sức lực của thân cây mới chống đỡ nổi Cửu Dương Thần Công của Vô Kỵ. Nếu Hân Thiên Chính chịu đựng không nổi trước thì Minh Giáo thua, nếu Ðộ Kiếp chống đỡ không nổi thì bên Thiếu Lâm bại.

Sáu người ở trong cuộc đều rõ điều ấy.

Hân Thiên Chính tỷ thí chưởng lực của Ðộ Nạn đến hơn ba mươi chưởng xong, lão anh hùng biết mình địch không nổi đối phương nên liền nghĩ thầm:

– Cuộc đấu hôm nay quan trọng nhất là phải cứu được chú em họ Tạ ra. Sự vinh nhục thắng bại của ta có nghĩa lý gì đâu. Huống hồ thua đại cao thủ phái Thiếu Lâm như vậy cũng không phải là mất oai phong của Bạch Mi Ưng Vương này mấy.

Nghĩ đoạn, ông liền tấn công một chưởng, lại lui ra một bước rồi lại tấn công luôn mấy chưởng rồi lại lui ra ngoài mười mấy trượng.

Nhưng Tiểu Tu Ni chưởng của phái Thiếu Lâm rất lợi hại.

Ưng Vương lùi xa một bước thì chưởng lực lại đuổi theo một bước không bao giờ sút kém hết.

Dương Tiêu thấy vậy nghĩ thầm:

– Vị cao tăng của Thiếu Lâm này quả thật lợi hại. Ta đã thay đổi rất nhiều thế võ rồi mà vẫn không làm gì nổi y. Nếu chống đỡ thêm lát nữa có lẽ Hân Thiên Chính chịu đựng không nổi đâu!

Nghĩ đoạn y kẹp hai thanh Thánh Hỏa Lệnh lại, định kẹp chặt lấy sợi dây đen để cùng Hân Thiên Chính đấu với đối phương, như vậy Hân Thiên Chính mới rút được gánh nặng phần nào.

Không ngờ Thánh Hỏa Lệnh vừa kẹp sợi dây đen thì Ðộ Nạn đã tung tay một cái.

Ðầu sợi dây đã ngẩng cao lên, nhằm mặt y tấn công luôn.

Dương Tiêu liền nghĩ ngay ra được một mẹo, vội ném ngay chiếc Thánh Hỏa Lệnh vào trước ngực Ðộ Nạn, hai tay nắm ngay sợi dây, vội kéo ngay ra bên ngoài.

Ðộ Nạn thấy đối phương xử dụng khí giới làm ám khí, kình lực tất phải mạnh lắm nên vội trầm khuỷu tay trái xuống để đè chiếc Thánh Hỏa Lệnh đang hông bắn tới. Ðồng thời người lão chúi xuống bên để tránh chiếc thứ hai nhằm ngực trái bắn tới.

Ngờ đâu chiếc bên dưới y vừa đè xuống thì đột nhiên đổi hướng, kêu vù một tiếng bắn ngay sang bên Ðộ Kiếp.

Thì ra trong sáu người chỉ có Dương Tiêu là người đa mưu túc trí hơn hết và lại rất giỏi về môn ám khí. Trong hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh ấy, y tấn công Ðộ Nạn chỉ là hư thế, mà thật sự lại là để tấn công Ðộ Kiếp nên mới dùng hết nội lực toàn thân ra ném.

Ðộ Kiếp đang giở toàn lực ra chống đỡ Vô Kỵ thấy Ðộ Nạn đối phó với Dương Tiêu, Hân Thiên Chính hai người đã dần dần thắng thế. Y có ngờ đâu Dương Tiêu bỗng nhiên nghĩ ra thế tấn công lén rất quái dị như vậy nên chưa kịp kinh hãi thì thanh Thánh Hỏa Lệnh đã bay tới trước mặt rồi. Y tâm thần rối loạn một chút, vội giơ hai ngón tay lên kẹp chiếc Thánh Hỏa Lệnh đó. Nhưng lúc ấy y đang đấu nội lực với Vô Kỵ, không thể nào phân sức như thế được nên chỉ thoáng cái cây thông mà y đang ngồi đã rung động một cái rất mạnh, lá cây rụng xuống rất nhiều, tựa như một trận mưa lá vậy.

Vô Kỵ đã thấy đối phương để lộ sơ hở rất lớn. Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp của chàng rất thiện nghệ về cách tìm ra sơ hở của địch. Ðối phương dùng trăm kế hòng phòng vệ còn không giữ vượng nổi huống hồ đã tỏ vẻ bại rồi. Kình lực ở năm ngón tay của chàng phát ra có tiếng kêu sì sì tấn công sang bên địch một cách nhanh chóng. Chỉ thoáng cái đã có tiếng kêu “bộp bộp”. Cây thông của Ðộ Kiếp ngồi đã rụng từng cành nhỏ một rơi xuống đất liền.

Ðộ ách thấy tình hình nguy cấp vội đứng ngay dậy và chỉ thoáng cái đã thấy thân hình của lão lướt tới cạnh Ðộ Kiếp. Y liền giơ tay trái lên để trên vai người sư đệ đó.

Ðộ Kiếp được người sư huynh trợ giúp nên mới không bị đánh bại. Nhưng bên kia Ðộ Nạn đấu với Hân Thiên Chính và Dương Tiêu, bở Dương Tiêu kéo mất sợi dây ra bên ngoài còn Ưng Vương thì dùng chưởng rất hùng mạnh cứ lấn át Ðộ Nạn liên tục.

Hai đại cao thủ một kéo một đẩy, hai sức mạnh vừa mạnh vừa tương phản nhau khiên Ðộ Nạn đứng ở giữa chịu trận một cách khó khăn vô cùng nhưng vẫn chưa lộ rõ vẻ thất bại. Mọi người đứng xem ở bên cạnh thấy vậy biết trận đấu này không những sẽ phân biệt rõ thắng bại mà trong sáu đại cao thủ đó ít nhất một nửa sẽ trọng thương mà chết thảm. Trên ngọn núi rộng lớn như thế có mấy chục người đang đứng xem mà không có một tiếng động nào hết. Người nào người nấy hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh ra và cùng lo âu cho số phận của bên mình.

Ðang lúc đó thì dưới hố, chỗ giữa ba cây thông, bỗng có tiếng nói rất nhỏ vang lên:

– Dương Tả Sứ, Hân đại ca, Vô Kỵ con ta! Tạ Tốn tôi người dính đầy máu tanh, đáng lẽ phải chết từ lâu. Ngày hôm nay các người đến đây cứu tôi đối địch với ba vị cao tăng của phái Thiếu Lâm.

Nếu hai bên còn bị tổn thương thêm nữa thì Tạ Tốn này có chết đến một trăm lần cũng không sao chuộc nổi tội lỗi lớn lao ấy. Vô Kỵ, con hãy dẫn các anh em của bổn giáo lui ra ngoài chùa Thiếu Lâm ngay, bằng không ta sẽ tự cắt đứt gân mạch để khỏi tăng thêm tội lỗi.

Tiếng nói đó tuy rất nhỏ nhưng vọng đi rất xa. Những người có mặt trên đỉnh núi đều nghe thấy rõ hết và biết Tạ Tốn đã dùng thần công Sư Tử Hống để nói chuyện với những người trên mặt đất.

Năm xưa, Sư Vương ở trên Vương Bàn Sơn đã dùng môn thần công này làm cho rất nhiều hào sộ của các môn, các phái chết ngay tại chỗ.

Lúc này không phải dùng thần công đó đả thương người nhưng những người đứng xem có võ công hơi kém một chút đã thấy đinh tai nhức óc và biến sắc mặt liền.

Vô Kỵ nghe nghĩa phụ mình không nói thì thôi mà đã nói thì thế nào cũng làm cho kỳ được. Chàng lại biết Sư Vương quyết không vì một mình mình mà để cho bao nhiêu người khác bở tổn thương. Cứ xét tình thế trước mắt đây, nếu đôi bên đấu tới cùng, chàng biết mình không sao nhưng ông ngoại, Dương Tiêu, Ðộ Kiếp Ðộ Nạn thế nào cũng chết chứ không sai.

Chàng đang trù trừ thì đã nghe thấy Tạ Tốn lớn tiếng quát bảo:

– Vô Kỵ, con chưa chịu đi hay sao?

Vô Kỵ đáp:

– Vâng, xin tuân lời dạy của nghĩa phụ!

Chàng lui về phía sau một bước, lớn tiếng nói với ba lão hòa thượng kia rằng:

– Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba vị cao tăng quả thật thần diệu, ngày hôm nay Minh Giáo chúng tôi không có cách nào phá nổi. Ngày sau tại hạ thế nào cũng quay trở lại tái lãnh giáo. Ấng ngoại, Dương Tả Sứ, chúng ta ngừng tay đi!

Nói xong, chàng thâu sức lại trước nhưng dùng nội lực bắn hai sợi dây đen của hai hòa thượng bật trở lại.

Dương Tiêu với Thiên Chính vừa nghe thấy hiệu lệnh của Vô Kỵ đang định thâu tay lại nhưng làm sao mà thu lại một cách dễ dàng như Vô Kỵ được.

Vì nếu hai người thu tay trước thì thế nào cũng bị kình khí của Ðộ Nạn đả thương ngay. Lúc này Ðộ Nạn muốn thôi cũng không được.

Vô Kỵ liền tiến tới trước mặt Hân Thiên Chính giơ hai chưởng ra phất một cái, tiếp luôn chưởng lực của Ðộ Nạn và Hân Thiên Chính từ hai phía tấn công tới, tiếp theo đó chàng giở Thánh Hỏa Lệnh ra đè lên trên đầu dây của Ðộ Nạn. Dây đó đang bở Dương Tiêu kéo căng như dây sắt, cứng như vậy nhưng Thánh Hỏa Lệnh của Vô Kỵ vừa đè lên một cái, dồn Càn Không Ðại Nã Di thần công sang, hóa giải kình lực của hai người, liền mềm nhũn ngay và rơi xuống đất.

Dương Tiêu nhanh tay cướp luôn sợi dây đó. Ðộ Nạn thấy vậy biến sắc mặt định lên tiếng nói thì Dương Tiêu hai tay cầm sợi dây tiến lên nói:

– Xin hoàn lại khí giới của đại sư!

Ðộ Kiếp đã biết thâm ý của y nên vội nhặt hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh ở bên cạnh mình trao trả lại cho Dương Tiêu liền.

Trải qua trận chiến đó, ba vị cao tăng của phái Thiếu Lâm không còn kiêu ngạo như trước nữa. Họ biết nếu còn đấu nữa thì thế nào hai bên cũng tổn thương mà bên mình ba người không sao hơn nổi đối phương nên Ðộ Ách lên tiếng nói:

– Lão tăng bế quan mấy chục năm bây giờ lại được biết các vị hiền hào, lão tăng rất lấy làm hân hạnh. Trương Giáo Chủ, quý giáo anh tài đông đảo như vậy, nhất là Giáo Chủ lại đặc biệt tài ba hơn ai hết, vậy mong các hạ tạo phúc cho nhân gian, ít lắm bỏ những việc vô nhân vô đạo là lão tăng hân hoan lắm rồi!

Vô Kỵ chắp hai tay cúi mình xuống và đáp:

– Ða tạ đại sư đã chỉ giáo cho!

Ðộ ách lại tiếp:

– Ba sư huynh đệ của lão ở đây đợi chờ Giáo Chủ giáng lâm lần thứ ba!

Vô Kỵ đáp:

– Vâng, thế nào tại hạ cũng sẽ quay trở lại lĩnh giáo. Tạ Pháp Vương là nghĩa phụ của tại hạ, ân đức cũng như thân sinh tại hạ vậy!

Ðộ ách thở dài một tiếng, nhắm mắt không nói năng gì nữa.

Vô Kỵ dẫn Dương Tiêu cùng mọi người chắp tay chào Không Văn xuống núi.

Bành Doanh Ngọc liền truyền lệnh xuống núi cho giáo chúng Ngũ Hành Kỳ rút lui, rời khỏi chùa Thiếu Lâm mười dặm.

Giáo chúng Hậu Thổ Kỳ lợp luôn mười mấy cái lều trúc lớn để mọi người nghỉ ngơi.

Vô Kỵ rầu rĩ vô cùng nghĩ thầm:

– Trong bổn giáo không có ai có võ công cao siêu bằng ông ngoại và Dương Tả Sứ, dù có Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu thay thế rốt cục cũng chỉ như ngày hôm nay thôi. Trên thiên hạ này làm sao kiếm cho ra được hai vị giỏi hơn Dương Tiêu, Phạm Dao để phá nổi Kim Cương Phục Ma Khuyên? !

Doanh Ngọc đã đoán ra được tâm sự của chàng liền nói:

– Giáo Chủ đã quên Trương Chân Nhân rồi hay sao?

Vô Kỵ trù chừ một hồi rồi đáp:

– Nếu thái sư phụ tôi xuống núi trợ giúp, liên tay với tôi, tất nhiên phá nổi Kim Cương Phục Ma Khuyên này, nhưng làm thế sẽ để cho phái Thiếu Lâm và phái Võ Ðang hai phái mất lòng nhau, nên tôi sợ Thái sư phụ chưa chắc đã nhận lời. Vả lại Thái sư phụ tôi tuổi đã hơn trăm, võ công đã luyện hết sức thượng thừa, nhưng dù sao cũng quá lớn tuổi rồi.

Ðột nhiên Hân Thiên Chính đứng dậy cười ha hả và nói:

– Nếu Trương Chân Nhân xuống núi thế nào cũng thành công! Hay lắm! Hay lắm!

Nói xong, ông cười gằn mấy tiếng rồi miệng há to, giọng bỗng khàn hẳn.

Quần hùng thấy Ưng Vương vẻ mặt vẫn tươi tỉnh mà cứ đứng yên như vậy đều ngạc nhiên vô cùng. Dương Tiêu lại hỏi:

– Hân huynh thử nghĩ xem, liệu Trương Chân Nhân có xuống núi ra tay trợ giúp không?

Y nói luôn hai lần mà không thấy Hân Thiên Chính trả lời, người cũng không cử động gì hết.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội giơ tay ra, nắm lấy cổ tay ông ngoại bắt mạch thử xem, thì ngờ đâu tâm mạch của lão anh hùng đã chết rồi.

Thì ra vừa rồi, Hân Thiên Chính khổ chiến với Ðộ Nạn đã tiêu tán hết toàn bộ hơi sức, hơn nữa tuổi đã cao, tựa như ngọn đèn đã cạn dầu.

Vô Kỵ đau đớn vô cùng, ôm xác ông ngoại khóc lóc thảm thiết.

Dã Vương cũng chạy lại ôm xác cha khóc, quần hùng nghĩ đến nghĩa khí của đồng giáo ai cũng ứa nước mắt ra.

Tin này đồn ra ngoài, những giáo chúng của Bạch Mi Kỳ đều lớn tiếng khóc lóc hết. Tiếng khóc của mọi người làm chấn động cả sơn cốc.

Minh Giáo bận rộn ma chay cho Hân Thiên Chính luôn mấy ngày, hầu hết các nhân vật của các môn phái đều lục tục lên núi, tới để phúng điếu.

Cả Không Văn, Không Trí cũng thân hành đến phúng và còn phái mười tám hòa thượng tụng kinh siêu độ cho Hân Thiên Chính.

Nhưng những vị hòa thượng đó chỉ tụng được vài câu đã bị Dã Vương cầm gậy đánh đuổi hết.

Chu Ðiên đứng cạnh đó thấy vậy cũng hùa chửi theo:

– Những quân giặc hói đầu Thiếu Lâm kia, các mi chỉ giả nhân giả nghĩa thôi!

Trong mấy ngày đó Vô Kỵ lòng nóng như thiêu, cùng Dương Tiêu, Doanh Ngọc thương lượng trong mấy ngày liền nhưng không nghĩ ra được một cách nào hoàn hảo hết. Triệu Minh nghĩ ra được cách dùng thuốc độc Nhuyễn Cân Tán cho vào thức ăn, nước uống của bọn anh em Ðộ ách ba người.

Nàng lại nói:

– Ðể tôi đi gọi Hạt Bút Ông với Lộc Trượng Khách hai người đến liên hiệp cùng Vô Kỵ đại ca.

Nhưng Vô Kỵ thấy thế đó không hoàn hảo.

Thoáng cái đã đến ngày đoan ngọ, Vô Kỵ liền dẫn quần hào của Minh Giáo vào chùa Thiếu Lâm.

Lúc ấy điện trước điện sau, nhà ngang, nhà dọc của hai bên chùa chật ních những anh hùng hảo hán, vì ai cũng biết anh hùng đại hội phen này là vì Tạ Tốn mà tổ chức.

Mọi người tới dự đó cũng có người là kẻ thù của Tạ Tốn muốn đến đây để báo huyết thù, cũng có người lại muốn cướp thanh bảo đao Ðồ Long để trở thành võ lâm chờ tôn, cũng có người tới đây là để xem trò vui.

Trong chùa cũng phái hơn trăm hòa thượng ra tiếp đãi.

Phái Võ Ðang chỉ có một mình Dư Liên Châu đến thôi.

Vô Kỵ liền tiến lên bái kiến, hỏi thăm sức khỏe của Trương Tam Phong.

Dư Liên Châu khẽ hỏi chàng rằng:

– Hiền điệt có nghe thấy tin gì về Tống Thanh Thư và Hữu Lượng không?

Vô Kỵ kể lại sau khi cách biệt ra sao cho Dư Liên Châu hay đồng thời chàng biết được Hữu Lượng và Tống Thanh Thư hai người không lên núi Võ Ðang quấy nhiễu.

Lần này Viễn Kiều, Tòng Khuê, Lợi Hanh ba người không tới dự được là phải ở lại trên núi Võ Ðang bảo vệ sư phụ và đạo quan.

Dư Liên Châu kể lại cho chàng hay từ khi mắt thấy tai nghe những hành động phản nghịch của con trai rồi, Tống Viễn Kiều rầu rĩ vô cùng, không muốn ăn uống gì hết, người đã gầy ốm hơn trước nhiều.

Nhưng vì không muốn làm đau lòng sư phụ, đại hiệp dấu điếm không dám nói ra.

Vô Kỵ lại tiếp:

– Cháu chỉ mong Tống sư ca biết lỗi, hối cải trở về với đại sư bá, hai cha con đoàn viên thì thật là vạn hạnh.

Dư Liên Châu nói:

– Anh em chúng ta đều là cốt nhục hết. Như vậy chắc bổn môn phái thật là may mắn.

Sau đó anh hùng đến ngày càng đông.

Nhóm Thanh Hải Ðại Kim Khánh mà ngày nọ đã phá Kim Cương Phục Ma Khuyên cũng tới hết.

Phái Hoa Sơn, phái Không Ðộng, phái Côn Luân cũng có phái cao thủ tới dự.

Chỉ có phái Nga Mi là không có người tới dự thôi.

Vô Kỵ chỉ mong Chu Chỉ Nhược thân hành đến để có thể giải thích được câu chuyện không vui bữa nọ nhưng trong lòng chàng vẫn nơm nớp không yên nên chàng lại không dám gặp mặt nàng ta.

Quần hùng của Minh Giáo tụ họp trong một cái điện ngang ở bên Tây Sương chứ không chịu trọ với anh hùng của các môn phái khác vì Minh Giáo có nhiều kẻ thù quá, chỉ sợ chưa đến ngày đại hội mình đã phải cùng các địch thủ đánh nhau tơi bời trước rồi. Sắp đến giờ ngọ, các sư tiếp khách của Thiếu Lâm Tự mời quần hùng xuống một quảng trưòng ở phía bên phải núi.

Quảng trường này là vườn rau của nhà chùa nhưng bây giờ đã san bằng và dựng mấy lều trúc thật lớn, trong lều để đầy những bàn ghế mới, tuy giản dị, nhưng cũng tốn rất nhiều nhân lực và tài lực rồi.

Quần hào theo khách tăng vào, người của nhóm nào có chỗ ngồi riêng của nhóm ấy.

Hồi thứ 94

Tài Ba Chấn Quần Hùng

Các tân khách ngồi xuống xong thì các nhà sư của phái Thiếu Lâm từng lớp một bước ra theo vai vế chữ Viên, chữ Tuệ, chữ Pháp, chữ Tướng, chữ Trang. Sau cùng mới đến Không Trí thần tăng của Ðạt Ma Ðường. Các hòa thượng đi tới chính giữa quảng trường, miệng niệm phật hiệu, rồi nói:

Ngày hôm nay được anh hùng nể mặt mà vui lòng giáng lâm tệ chùa, chùa Thiếu Lâm chúng tôi từ trên xuống dưới đều lấy làm hân hạnh vô cùng. Chỉ vì phương trượng sư huynh bị bệnh, không sao ngồi dậy được để ra đây tương kiến quý vị, cho nên mới sai bần tăng thay mặt ra đây xin lỗi quý vị.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Bữa nọ Không Văn đại sư đến trước linh cữu của ông ngoại ta phúng viếng mà mặt y không có vẻ gì đau ốm hết, vẫn tinh thần sảng khoái như thường, một người có nội công cao thâm như y, không khi nào đột nhiên bị đau ốm được, chẳng lẽ y bị người ta đả thương chăng?

Chàng lại nghe Không Trí nói tiếp:

– Kim Mao sư vương Tạ Tốn gây tai họa cho võ lâm, tai nghiệp rất nặng, lần này chùa chúng tôi may mắn bắt được y, nhưng chúng tôi không muốn xét riêng, nên mới cung kính mời các vị anh hùng hào kiệt trong võ lâm tới đây, để cùng bàn cách xử trí.

Không Trí mặt mũi lúc nào trông cũng ủ rũ như người đau yếu, lúc này y lại nói như người không có tinh thần, hình như y đang lo âu về bệnh tật của Không Văn vậy.

Anh hùng đại hội nầy năm xưa đã cử hành một lần ở Kinh Tỳ Quang, rồi từ đó tới giờ đã hơn một trăm năm rồi chưa có ai tổ chức lại cả, đại hội có thể nói là một việc rất lớn trong giang hồ, nhưng người chủ trì lâm thời lại ngã bệnh, quần hùng đều cảm thấy mất hết hứng thú.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn chung quanh không thấy Viên Chân và Hữu Lượng lộ mặt liền nghĩ thầm:

– Bữa nọ ta đã vạch rõ âm mưu của Viên Chân cho ba vị cao tăng hay, không biết trong chùa đã đem chúng ra xử lý chưa? Không Văn đại sư bỗng cáo ốm, không biết có liên quan đến vụ này không?

Không Trí nói xong, liền chắp tay vái rồi rút lui ngay.

Bỗng thấy ở phía Ðông Nam có một người đang đứng đó, thân hình vạm vỡ bộ râu hoa râm bay phất phới trước gió, tay đang nghịch ba trái thiết đởm.

Người đó chính là Xuyên Ðông lão quyền sư Hạ Trụ.

Chỉ nghe thấy giọng y như tiếng chuông:

– Tạ Tốn tác oai tác quái, bây giờ y đã bị quý phái bắt được, thực là tạo phúc cho võ lâm. Không Văn, Không Trí hai vị thần tăng quả là khiêm tốn, những kẻ ác như thế bắt được là chém ngay một nhát cho xong hà tất phải hỏi người khác làm chi. Ngày hôm nay thiên hạ anh hùng hội họp ở đây, đại hội này của chúng ta gọi là Ðồ Sư đại hội đem Tạ Tốn ra lăng trì một người ăn một miếng thịt, húp một hụm máu của y để trả thù cho các bạn đã chết oan dưới bàn tay độc của y. Như vậy có phải khoan khoái biết bao không?

Thì ra Hạ Trụ có một người anh em bị Tạ Tốn giết chết. Mấy chục năm nay y chỉ muốn kiếm Tạ Tốn để trả thù, nên bây giờ y lên tiếng nói ra như vậy.

Bốn chung quanh đều có mấy chục người phụ họa ngay, ai ai cũng bảo nên đem Tạ Tốn ra giết ngay đi.

Trong lúc mọi người đang cười nói ồn ào, xôn xao, thì bỗng có một giọng rất âm thầm tiếp theo:

– Tạ Tốn là hộ pháp của Minh giáo nếu phái Thiếu Lâm không sợ gây hấn với Minh giáo thì đã sớm đem y ra giết chết rồi, hà tất phải mời chúng ta tới đây để chia bớt trách nhiệm đó làm chi. Hạ lão quyền sư cũng có hơi chút hồ đồ, để lão đệ khuyên Quyền Sư một câu là nên giữ lấy bổn thân mình trước là hơn.

Lời nói đó nghe rất chướng tai, nhưng khi lọt vào tai mọi người thì câu nào câu ấy rõ ràng vô cùng. Ai nấy đều quay về phía có tiếng nói để xem là ai. Nhưng không trông thấy rõ người đó, vì người đó bé và lùn lắm. Lúc nói chuyện lại không chịu đứng, cứ ngồi trong đám đông, cho nên không ai trông thấy rõ mặt mũi của y ra sao cả.

Hạ Trụ liền lớn tiếng hỏi:

– Phải bạn vừa lên tiếng nói đó có phải là chú em họ Tư Ðồ, biệt hiệu là Tuý Bất Tử đó không? Tạ Tốn là kẻ thù giết chết em một đại trượng phu, mình làm mình chịu, xin quý vị cao tăng của phái Thiếu Lâm hãy dắt y ra đây, để lão phu chém giết y, Ma giáo có muốn tầm thù thì cứ việc tới Xuyên Ðông kiếm họ Hà này là được.

Tư Ðồ Thiên Chung lại cười, giọng âm thầm và nói tiếp:

– Hạ đại ca, trên giang hồ ai cũng biết tiếng thanh đao Ðồ Long là võ lâm chí tôn và thanh đao đó lại trong tay Tạ Tốn. Phái Thiếu Lâm đã bắt được Tạ Tốn, khi nào lại không cướp luôn thanh bảo đao ấy? Không Trí đại sư của chúng tôi ơi, đại sư đừng giả bộ như thế nữa làm chi, mau mau đem con đao Ðồ Long ra đây cho mọi người được sáng mắt ra, như vậy là hợp lý hơn. Phái Thiếu Lâm của đại sư hàng nghìn năm nay đứng đầu trong võ lâm rồi, có con đao này không phải là nhiều mà không có cũng không phải là ít. Nói tóm lại võ lâm quý phái vẫn là chí tôn là được rồi.

Thì ra Tư Ðồ Thiên Chung suốt đời chỉ hay đùa bỡn người, không vái sư và cũng không thâu đồ đệ, nay đây mai đó, không thuộc môn phái bang hội nào hết. Bình sinh cũng ít ra tay đấu với người, nên không ai biết võ công của y ra sao. Chỉ biết mỗi lần y lên tiếng là có chuyện chế nhạo người ngay.

Trong quần hùng đã có bảy tám người liên tiếp lên tiếng:

– Lời nói có lý lắm, xin mời phái Thiếu Lâm hãy lấy đao Ðồ Long ra đây cho mọi người được sáng mắt ra.

Không Trí từ từ nói:

– Ðao Ðồ Long không có trong tệ chùa, bần tăng từ thủa nhỏ tới giờ chưa hề trông thấy thanh đao đó bao giờ, không biết trên đời này có con đao ấy thực không?

Quần hùng nghe nói, liền bàn tán xôn xao ngay.

Trên quảng trường tiếng nói ồn ào khôn tả, những người tới dự hội trước kia đều nhận đinh đại hội này thế nào cũng liên quan đến đao Ðồ Long, ngờ đâu Không Trí lại phủ nhận như vậy, ai nấy đều ngạc nhiên vô cùng.

Chín lão hòa thượng mặc áo cà sa màu đỏ, chờ tiếng của quần hùng bớt ồn ào, rồi một trong chín lão hòa thượng đó mới bước lên hai bước, lớn tiếng nói:

– Ðồ Long đao trong tay Tạ Tốn, việc này ai ai cũng hay biết hết. Bổn phái tuy bắt được Tạ Tốn, ngờ đâu đao Ðồ Long lại không có trong người y. Việc này có liên quan đến khí vận võ lâm, nên phương trượng của bổn chùa đã tra xét y rất cặn kẽ. Tạ Tốn bướng bỉnh khôn tả, đành chết chứ không chịu nói. Ðại hội anh hùng hôm nay, thứ nhất là mời quý vị để bàn cách xử trí Tạ Tốn, hai là muốn hỏi thăm quý vị anh hùng có biết hiện giờ con đao Ðồ Long ở đâu không? Vị anh hùng nào biết tin thì xin cho chúng tôi biết ngay.

Quần hào ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám nói nữa.

Tuý Bất Tử với giọng quái dị lên tiếng nói tiếp:

– Hàng trăm năm nay trên võ lâm đồn đại ngoài đao Ðồ Long ra, còn có kiếm ỷ Thiên, nghe nói kiếm đó đang ở trong tay phái Nga Mi, nhưng sau trận đấu trên Quang Minh đỉnh ở Tây Vực thì thanh kiếm đó cũng mất tích nốt. Ngày hôm nay hội này tuy gọi là anh hùng đại hội, nhưng bọn anh thư của phái Nga Mi chẳng lẽ không tới dự hay sao?

Mọi người nghe thấy câu cuối cùng của y đều không nhịn được cười.

Tiếng cười của mọi người chưa dứt bỗng có một khách tăng ở bên ngoài chạy vào, lớn tiếng báo cáo:

– Sử bang chủ của Cái Bang đã dẫn các trưởng lão và các đệ tử của Cái Bang đến dự đại hội.

Nghe thấy ba chữ Sử Bang Chủ, Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng.

Sử Hỏa Long của Cái Bang đã bị Viên Chân giết chết, sao bây giờ lại có Sử Bang chủ nào tới dự đại hội thế.

Không Trí liền nói:

– Mời vào.

Cái Bang là một bang hội lớn nhất trên gian hồ, nên Không Trí không dám mất lòng, thân hành ra đón luôn.

Một lát sau đã có một bọn ăn mày chừng một trăm năm mươi người, quần áo lam lũ đi vào.

Mấy năm gần đây, thanh thế của Cái Bang đã kém sút rất nhiều, nhưng dù sao vẫn là một bang có tiềm lực vững mạnh trên giang hồ, nên quần hùng không ai dám coi thường bang phái này, già nửa số đều đứng dậy nghêng đón.

Mọi người thấy hai người ăn mày già đi trước, Vô Kỵ đã nhận ra hai người đó là Chấp pháp trưởng lão và Truyền Công trưởng lão.

Theo sau hai người là một con bé xấu xí, tuổi trạc mười hai mười ba, mũi ngửng lên trời, mồm rất rộng, để lộ hai cái răng bên ngoài.

Nàng ta chính là Sử Hồng Ngọc, con gái Sử Hỏa Long, tay nàng cầm một chiếc gậy trúc màu xanh, gậy đó là Ðả Cẩu Bổng, tín vật Cái Bang.

Phía sau Sử Hồng Ngọc là Trưởng bản Long Ðầu cùng Trưởng Bát Long Ðầu, rồi mới tời trưởng lão mang tám túi, đệ tử mang bảy túi, đệ tử mang sáu túi, lần này những người của Cái Bang đến dự đại hội, người thấp kém nhất cũng là năm sáu túi.

Không Trí thấy người cầm chiếc gậy tín vật là một con bé, trong lòng hoài nghi, không biết bang chủ là ai, nên nói chuyện với ai cho phải, liền chấp tay, nói chuyện bâng quơ rằng:

– Tăng chúng chùa Thiếu Lâm nghênh đón đại giá của quần hùng Cái Bang.

Các người của Cái Bang cũng chắp tay đáp lễ, Truyền Công trưởng lão lên tiếng nói:

– Sử bang chủ của tệ bang không may đã về chầu trời, các trưởng lão đều quyết lập con gái của bang chủ là Sử Hồng Ngọc cô nương lên làm bang chủ. Vị này là tân Bang chủ của tệ bang đây.

Nói xong y chỉ vào Hồng Ngọc.

Không Trí với quần hùng thấy vậy ngẩn người ra nghĩ thầm:

– Trên giang hồ này vẫn thường nói Minh giáo, Cái Bang, phái Thiếu Lâm. Các giáo môn thì Minh giáo đứng đầu, bang hội thì phải chịu Cái Bang lãnh đạo, còn các môn phái khác thì coi Thiếu Lâm đứng đầu. Minh giáo có Trương Vô Kỵ, một thiếu niên hơn hai mươi tuổi đã khiến cho người ta ngạc nhiên rồi, không ngờ Cái Bang lại bầu một con nhỏ làm bang chủ, nếu không do trưởng lão của Cái bang nói, thì không ai dám tin hết.

Không Trí không muốn phái của mình thiếu lễ phép, cứ chắp tay vái chào và nói:

– Thiếu Lâm môn hạ Không Trí tham kiến Sử Bang chủ.

Sử Hồng Ngọc của vái chào đáp lễ, nhưng mồm ấp úng mãi không sao trả lời được. Truyền Công Trưởng lão đứng bên phải lên tiếng nói thay:

– Bang chủ của tệ bang, tuổi hãy còn trẻ tất cả công việc trong bang tạm do Chấp Pháp trưởng lão hai người xử lý. Không Trí thần tăng là tiền bối đại đức không nên giữ lễ quá như vậy, chúng tôi không dám.

Hai người khiêm tốn vài câu, rồi bọn ăn mày mới vào trong lều trúc ngồi.

Người của Cái Bang đến đông như vậy, nên một lát sau mới xếp xong chỗ, Vô Kỵ thấy có hơn một trăm năm mươi đệ tử của Cái Bang, người nào cũng để tang, mặt tỏ vẻ phẫn uất, có những đệ tử túi đeo ở sau lưng, hình như có vật gì đang lóp ngóp bò bên trong.

Hiển nhiên là họ tới đây có mục đích.

Chàng thấy vậy mừng rỡ vô cùng liền rỉ tai Dương Tiêu:

– Chúng ta đã có một bọn giúp sức khá đông rồi.

Chàng lại thấy Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Trưởng Bát Long đầu dẫn Sử Hồng Ngọc đến trước lều trúc của Minh giáo, Truyền Công trưởng lão chấp tay vái chào và nói:

– Trương giáo chủ, Kim Mao sư vương bị bắt giữ có liên quan rất lớn với tệ giáo, ngày hôm nay chúng tôi dù có bị hy sinh hết cũng phải bảo vệ cho sư vương được an toàn, một là để đền ơn đức của giáo chủ ngày nọ và chuộc lỗi, hai là để báo thù tuyết hận cho Sử bang chủ, Cái Bang chúng tôi đều xin theo mệnh lệnh của giáo chủ.

Vô Kỵ vội đáp lễ và nói:

– Tôi không dám.

Lời nói của Truyền công chưởng lão rất lớn, hình như cố ý nói cho mọi người nghe vậy. Quần hùng nghe thấy Truyền công trưởng lão nói như vậy đều ngạc nhiên và nghĩ thầm:

– Cái Bang với Minh giáo kết thành bè đảng từ bao giờ vậy?

Chỉ có một số ít người ẩn cư ra là không rõ, còn đại đa số cũng biết năm nọ Cái Bang có tham dự cuộc đánh Quang Minh đỉnh hai bên đã quyết chiến một trận, sau cùng người của Cái Bang tấn công lên tới Quang Minh đỉnh, chết chóc gần hết.

Lúc này Truyền Công trưởng lão lại công nhiên tuyên bố toàn bang xin nghe theo lệnh của Trương Vô Kỵ và còn nói tới để báo hậu cho Sử bang chủ nữa, nên ai cũng thắc mắc không hiểu.

Truyền Công trưởng lão nói xong mấy lời đó, các đệ tử của Cái Bang đều lớn tiếng nói:

– Chúng tôi xin cung kính nghe theo mệnh lệnh của Trương giáo chủ, dù có phải leo núi cao nhảy vào vạc dầu, cũng không từ chối.

Truyền công trưởng lão quay mình lại, lớn tiếng nói tiếp:

– Cái bang chúng tôi với Thiếu Lâm xưa nay không có thù oán gì hết. Tệ bang vẫn tôn trọng phái Thiếu Lam là đệ nhất môn phái trong võ lâm, dù có đôi chút hiềm thù, chúng tôi cũng kiềm chế anh em trong bang, không bao giờ dám thất lễ với phái Thiếu Lâm cả. Tệ bang, từ Sử Hỏa Long bang chủ trở xuống rất phục đức cao vọng trọng của bốn vị thần tăng của phái Thiếu Lâm. Bang chủ chúng tôi ẩn cư để dưỡng bệnh, mấy chục năm nay không có lai vãng với ai trên giang hồ, không hiểu sao lại bị cao tăng của phái Thiếu Lâm hạ…

Y nói tới đây, mọi người đều ngạc nhiên, thất thanh kêu “ủa”.

Cả Không Trí cũng ngạc nhiên vô cùng.

Truyền công trưởng lão lại nói tiếp:

– Chúng ta ngày hôm nay tới đây không dám tự cho mình là anh hùng hào kiệt đến dự anh hùng đại hội này. Chúng tôi chỉ yêu cấu Không Văn phương trượng chủ dùm đường sáng cho chúng tôi thôi. Không hiểu cố Sử bang chủ chúng tôi có điều thất lễ gì với Thiếu Lâm mà Thiếu Lâm cao tăng đến tận nơi đuổi tận huyệt, cả phu nhân của chúng tôi cũng bị mất nốt.

Không Trí chắp tay lên ngực nói:

– A di đà phật. Sử bang chủ không may đã từ trần, ngày hôm nay lão tăng lân đầu tiên nghe tin này. Trưởng lão cứ đổ diệt cho đệ tử tệ bang ra tay hành hung, lão tăng chỉ sợ bên trong có sự hiểu lầm gì chăng? Xin trưởng lão cho biết tình hình lúc bấy giờ ra sao?

Truyền công trưởng lão đáp:

– Không Văn, Không Trí hai vị đại sư, phật pháp cao siêu chúng tôi đau dám vu khống, chúng tôi chỉ xin đại sư cho mời một vị cao tăng và một tục gia đệ tử của quý phái ra đây đối chất thôi.

Không Trí đáp:

– Trưởng lão cứ dặn bảo, chúng tôi sẽ tuân lệnh ngay, nhưng chẳng hay trưởng lão muốn ai ra đây đối chất thế?

Truyền công trưởng lão đáp:

– Dạ…

Y chỉ nói được một chữ đó, rồi thì mồm đã cứng đơ không sao nói tiếp được.

Không Trí thấy vậy giật mình kinh hãi, vội chạy đến gần, nắm luôn cổ tay phải của y, thấy da thị còn nóng mà mạch đã ngưng rồi.

Không Trí càng kinh hãi thêm, vội lớn tiếng kêu gọi:

– Trưởng lão, trưởng lão…

Nhưng hòa thượng đã thấy chỗ giữa trán của Truyền công trưởng lão có một điểm đen như đầu câu nhang. Hiển nhiên là đã trúng phải môn ám khí tuyệt độc.

Không Trí lại lớn tiếng nói cho quần hùng rõ:

– Các vị anh hùng mình giám cho trưởng lão của Cái Bang đã bị trúng ám khí tuyệt độc và đã từ trần rồi, phái Thiếu Lâm chúng tôi nhất định không để cho kẻ nào xử dụng ám khí đó được yên thân.

Bang chúng Cái Bang nghe Không Trí nói xong kêu la ầm lên và liền đó có mấy chục người chạy tới canh xác của trưởng lão.

Trương bát long đầu vội lấy một cục đá nam châm ra để trên trán của Truyền công trưởng lão hút.

Một mũi kim bạc nhỏ như lông dài hơn một tấc đã từ từ bị hút ra.

Các trưởng lão của Cái Bang là người rộng kiến thức, biết lời nói của Không Trí là thực, những ám khí âm độc này không phải là của đệ tử của một môn phái danh chính như phái Thiếu Lâm xử dụng.

Nhưng ban ngày ban mặt đông đảo mọi người như vậy mà có người ném ám khí tấn công lén như thế, lại không một ai hay biết cả, đủ thấy võ công của người đó cao siêu như thế nào.

Chấp Pháp trưởng lão các người đều nghĩ:

– Truyền Công trưởng lão đứng hướng về phía Nam, tất nhiên phải từ đó ném tới. Lúc ấy phái đó có ánh sáng mặt trời chói lọi, truyền Công trưởng lão đang tức tối, nên không đề phòng mũi ám khí bé nhỏ này.

Các trưởng lão giận dữ, quay mặt về phía sau Không Trí, thấy chín lão tăng của Ðạt Ma Ðường, mình mặc áo cà sa đỏ, hai mắt lim dim, đứng ngay tại đó.

Sau chín hòa thượng này lại có từng hàng hòa thượng mặc áo vàng và hòa thượng mặc áo xám, quả thực không biết ai hạ thủ.

Nhưng người ném ám khí, thế nào cũng là người của phái Thiếu Lâm, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.

Chấp Pháp trưởng lão hai mắt lệ rơi lã chã, lớn tiếng nói:

– Không Trí đại sư còn bảo chúng tôi vu oan cho phái Thiếu Lâm nữa thôi. Cứ chuyện trước mắt đây, cũng đủ thấy đại sư còn chối cãi nữa không?

Trưởng Bản Long đầu là người rất nóng tính tay cầm chiếc gậy sắt giơ lên và quát bảo:

– Ngày hôm nay chúng ta chỉ còn cách thí mạng với phái Thiếu Lâm mà thôi.

Y vừa nói dứt, ở trên quảng trường đã có tiếng khí giới kêu loảng xoảng.

Hơn một trăm bang chúng của Cái Bang đã nhảy ra giữa quảng trường rồi.

Không Trí vẻ mặt rầu rĩ, quay lại nhìn các hòa thượng của phái Thiếu Lâm, từ từ nói:

– Bổn chùa từ Ðạt Ma lão tổ ở phía Tây tới, xây dựng cơ nghiệp này, hàng nghìn năm nay các tăng lữ của các đời truyền lại chuyên tâm tụng kinh niệm phật và giữ giới luật, học võ chỉ là để phòng thân, nên mới cùng các anh hùng hào kiệt giang hồ lai vãng. Xưa này không dám làm một việc gì thương luân bại lý cả. Phương trượng sư huynh với tôi đã sớm coi nhẹ chuyện đời, có khi nào lại tái luyến hồng trần.

Không Trí nói tới đây, liền trái tay cướp luôn cây thiền trượng của một hòa thượng, thuận tay ném luôn một cái chiếc gậy sắt ấy đã cắm sâu xuống đất mất tích liền.

Những người hiểu biết lịch sử của Thiếu Lâm, biết hành động của Không Trí làm như vậy để tỏ rõ câu chuyện trước mắt chỉ có tử chiến mới có thể giải quyết được.

Lúc ấy Cái Bang với hòa thượng của Thiếu Lâm hai bên sắp đại chiến với nhau.

Quần hùng đều lo âu, nên quên cả khen ngợi Không Trí vì công lực ném gậy sắt của Không Trí ít có người làm nổi.

Không Trí đưa mắt nhìn từng mặt hòa thượng rồi từ từ hỏi:

– Ai đã phi mũi kim độc đó? Ðại trượng phu dám làm dám chịu, mau ra đây đứng cho ta xem.

Ðang lúc ấy Vô Kỵ sực nghĩ ra một kế liền nghĩ thầm:

– Năm xưa, mẹ ta giả dạng cha ta, dùng độc trâm giết hòa thượng của chùa Thiếu Lâm, khiến cha mình mang tiếng oan, nhưng kim trâm của Bạch Mi giáo khác thứ kim độc này, tất nhiên chất độc cũng khác nhau. Cứ xem chất độc của kim bạc này, và cái chết của Truyền Công trưởng lão đủ thấy thứ thuốc độc Tâm nhất khiếu của phái Tây Vực, thứ trùng độc này hỗn hợp với máu nóng trong người làm cho trái tim của người ta chỉ nhảy được một cái là ngừng liền.

Vì vậy Vô Kỵ biết Sử Hỏa Long bị Viên Chân giết chết và trong bọn hòa thượng này thế nào cũng có đồng bọn của Viên Chân, chúng giết chết Truyền Công trưởng lão là cốt ý không cho y nói tới cái tên Viên Chân. Tuy mắt của chàng rất sắc bén, nhưng vẫn không nhìn ra ai là hung thủ ném mũi kim độc đó.

Không Trí nói xong, mấy trăm tên hòa thượng của phái Thiếu Lâm không nói năng gì cả, chỉ một vài tên nói:

– A di đà phật, tội nghiệp cho chúng tôi.

Trưởng Bản Long Ðầu lớn tiếng nói:

– Hung thủ giết Bang chủ là ai, mấy vạn đệ tử của Cái Bang chúng ta đều biết rõ hết. Các người muốn giết người diệt khẩu trừ phi các người giết sạch người của Cái Bang, nhưng chúng ta đã rõ hòa thượng giết người đó chính là Viên Chân…

Trưởng Bản Long Ðầu vừa nói đến hai chữ “Viên Chân” thì Trưởng Bát Long Ðầu đã vội phi thân đến trước y đưa chén lên đỡ chỉ nghe thấy một tiếng “koong” rất ghê, cái kim bạc đã nằm gọn trong bát liền.

Không hiểu mũi kim bạc từ đâu phi tới, nhưng vì Trưởng Bát Long đầu đã chú ý và phòng bị từ trước, nên khi thấy có anh sáng bạc thấp thoàng liền giơ bát ra đỡ luôn.

Chỉ chậm nữa bước là Trưởng Bản Long Ðầu đã chết rồi.

Không Trí liền nhảy đến phía sau chín hòa thượng của Ðạt Ma Ðường và lẹ chân đá lão hòa thượng thứ tư đến “bùng” một cái rồi chộp cổ tên hòa thượng ấy, xách hổng lên và nói:

– Không Như, thì ra là mi, không ngờ mi là đồng đảng của Viên Chân.

Nói xong, thần tăng nắm vạt áo trước ngực, kéo mạnh một cái, chỉ thấy kêu soẹt một tiếng, mảnh áo trước ngực của hòa thượng đó đã rách toang.

Chỗ ngang lưng y có một cái ống gang nhỏ ló ra, đầu ống có dùi một lỗ rất bé.

Thì ra trong ống đó có lò xo rất mạnh, chỉ bỏ tay vào túi, bấm cái chốt ở trông ống, kim trong ống bắn ra liền.

Lúc bắn ám khí, khỏi cần phải giơ tay hay phẩy tay gì hết, nên dù hai người có đứng đối diện nhau và cách mấy thước thôi, cũng không sao biết người ném ám khí giết hại mình là ai.

Trưởng Bản Long Ðầu vừa tức giận vừa kinh hãi, liền giơ chiếc gậy sắt quét ngang một cái trúng ngay vào đầu Không Như, sọ tan óc lòi, chết tốt liền.

Không Như là một lão tăng cùng vai vế với bốn vị thần tăng tuy không phải là đệ tử đích truyền của phương trượng đời trước, nhưng y là người có võ công và vai vế rất cao ở trong phái Thiếu Lâm.

Tuy nhiên, vì bị Không Trí nắm giữ chặt mạch huyệt, không sao cựa quậy được, nên y mới bị Trưởng Bản Long Ðầu đánh chết một cách dễ dàng như vây.

Quân hào thấy thế đều kinh hãi, thất thanh kêu la.

Không Trí ngẩn người ra, nhìn Trưởng Bản Long Ðầu, vẻ mặt giận giữ và nghĩ thầm:

– Tên này lỗ mãng thật, chưa hỏi nếp tẻ gì đã đánh chết người của ta.

Trong lúc đang hỗn loạn, bỗng có Huyền Y nữ ni ở ngoài đi vào tay cầm phất trần, lớn tiếng nói:

– Chu Chỉ Nhược trưởng môn của phái Nga Mi cùng các môn hạ đệ tử tới đây bái kiến Không Văn phương trượng của chùa Thiếu Lâm.

Không Trí để xác Không Như xuống và nói:

– Xin mời vào.

Thế rồi y lẳng lặng đi ra nghêng đón Chỉ Nhược luôn.

Ðạt Ma Ðường chỉ còn có mấy lão tăng, nhưng tám lão tăng đó liền theo Không Trí đi ra bên ngoài. Chúng làm như vừa rồi không có chuyện gì xảy ra vậy. Bốn nữ ni hành lễ xong, rút lui quay mình đi ra, cả bốn khinh công lẹ làng vô cùng.

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược tới, hổ thẹn vô cùng, liếc mắt nhìn Triệu Minh, thấy Triệu Minh cũng đưa mắt nhìn chàng.

Triệu Minh tỏ vẻ cười, nhưng không phải cười thật, mồm vểnh lên, hình như có vẻ khinh miệt, không hiểu nàng chế nhạo Vô Kỵ hoảng sợ hay chê cười phái Nga Mi làm bộ làm tịch.

Các nữ hiệp của phái Nga Mi tới, khác hẳn Cái Bang, phải chờ hòa thượng ra nghênh đón mới chịu vào.

Các nữ ni xếp hàng đi vào có chừng tám chín nữ đệ tử đều ăn mặc áo huyền y, già nửa số đã cắt tóc, một nửa là tuổi già và trung niên, còn lại là gái tơ.

Các nữ đệ tử đi cách đó hơn trượng, có một thiếu nữ mặc áo xanh, vẻ mặt rất đẹp, từ từ bước vào, người đó chính là Chu Chỉ Nhược, trưởng môn của phái Nga Mi.

Vô Kỵ thấy mặt nàng tiều tuỵ hơn trước, trong lòng vừa thương hại vừa hối hận.

Ði sau Chỉ Nhược là hơn hai mươi nam đệ tử, mặc áo dài màu huyền người nào cũng nho nhã, chứ không vạm vỡ như các anh hùng của các môn phái khác.

Mỗi tên nam đệ tử đều cầm một cái hộp gỗ, hoặc dài hoặc ngắn, hơn trăm đệ tử của phái Nga Mi không đem theo khí giới.

Nhưng trong hộp gỗ đó chắc bên trong thế nào cũng có khí giới, nên quần hùng khen ngợi thầm:

– Phái Nga Mi rất lịch sự, đem theo khí giới mà không lộ liễu, đó là tỏ ra kính trọng phái Thiếu Lâm.

Vô Kỵ chờ các người của phái Nga Mi ngồi xuống rồi mới tiến lên vái chào Chỉ Nhược. Chỉ Nhược nói:

– Không dám, Trương giáo chủ hà tất phải đa lễ như vậy. Từ ngày cách biệt tới giờ, vẫn mạnh giỏi đấy chứ?

Vô Kỵ trống ngực đập rất mạnh, nói tiếp:

– Chỉ Nhược, bữa nọ vì nóng lòng đi cứu nghĩa phụ, nên mới để lỡ ngày đại hội, trong thâm tâm tôi rất băn khoăn.

Chàng thấy những nữ đệ tử đứng bên đó, có cả Tĩnh Tuệ mà ngày nọ đã tự chặt cánh tay, chàng liền tiến tới trước mặt nữ ni cô đó, vái chào và nói:

– Trương Vô Kỵ rất thất lễ, xin cam tâm chịu để sư cô khiển trách.

Nhưng Tĩnh Tuệ né mình không chịu nhận lễ của chàng và cũng không nói nửa lời.

Chỉ Nhược liền đỡ lời:

– Nghe nói Tạ đại hiệp bị giam giữ ở chùa Thiếu Lâm này, Trương giáo chủ anh hùng cái thế chắc đã cứu được Tạ đại hiệp ra rồi phải không?

Vô Kỵ mặt đỏ bừng đáp:

– Các cao tăng của phái Thiếu Lâm võ nghệ rất tinh thâm, Minh giáo đã thua mất một trận, ông ngoại tôi không may vì dự trận đấu đó mà bị chết.

Chỉ Nhược tiếp lời:

– Một đời lão anh hùng như vậy mà mất đi thật đáng tiếc, đáng tiếc.

Vô Kỵ thấy nàng ta không tức giận gì cả, liền mừng thầm. Nhưng chàng không biết ý định của nàng ra sao, chỉ thấy mình nói câu nào cũng bị nàng vuốt nhẹ, chàng cảm thấy mất mặt vô cùng, nhưng chàng nghĩ lại bữa nọ khi mình cùng nàng ta kết hôn, trước mặt đông đảo tân khách mà mình đi theo Triệu Minh, không biết lòng nàng khó chịu đến thế nào? Còn khó chịu hơn là mình lúc này nên chàng liền nói tiếp:

– Chờ lát nữa tôi ra tay cứu nghĩa phụ, mong Chỉ Nhược nghĩ tời tình cũ nghĩa xưa mà trợ giúp cho.

Chàng nói xong câu đó bỗng nghĩ thầm:

– Trong nửa năm nay, công lực của Chỉ Nhược tiến bộ rất nhanh, ngày nọ trên hỷ đưởng, Phạm Dao là người tài ba như thế mà chỉ một hiệp đã bị nàng đẩy lui liền. Minh muội học đủ các thế võ công của các môn phái mà suýt bị nàng đánh chết tại chỗ, có lẽ người nào được làm chưởng môn phái Nga Mi, trong phái thế nào cũng có những võ công bí hiểm, bí mật truyền thụ cho, nàng là người thông minh hơn Diệt Tuyệt sư thái, cho nên nàng mới tiến bộ chóng đến thế. Nếu nàng chịu liên tay với ta, có thể phá nổi Kim Cương Phục Ma Khuyên liền.

Nghĩ tới đó chàng mừng rỡ vô cùng, liền nói:

– Chỉ Nhược, tôi có việc muốn nhờ.

Chỉ Nhược vênh mặt lên nói:

– Trương giáo chủ, xin hãy tự trọng một chút. Chúng ta nam nữ thọ thọ bất thân đừng xưng hô như ngày trước nữa.

Noi xong, nàng giơ tay về phía sau vẫy một cái và lên tiếng gọi:

– Thanh Thư, anh lại đây, đem chuyện của chúng ta cho Trương giáo chủ hay đi.

Chỉ thấy một người mặt đầy râu, bước ra vái chào và nói:

– Trương giáo chủ vẫn mạnh giỏi đấy chứ?

Vô Kỵ nghe tiếng nói chính là Thanh Thư mà nhìn mãi mới nhận ra y. Thì ra y đã hóa trang thành một ông già vừa xấu vừa thô lỗ để che lấp bộ mặt thực của mình. Vô Kỵ liền chắp tay chào và nói:

– Thế ra là Tống sư ca, Tống sư ca vẫn mạnh giỏi đấy chứ?

Thanh Thư mỉm cười đáp:

– Thật ra còn phải cảm ơn Trương giáo chủ mới phải. Ngày nọ Trương giáo chủ làm lễ thành hôn với nội tử mà lâm thời không thay lòng đổi dạ…

Vô Kỵ nghe thấy nói “thành hôn với nội tử” năm chữ, liền giật mình kinh hãi vội hỏi lại:

– Sư ca nói gì thế?

Thanh Thư đáp:

– Cám ơn Trương giáo chủ đã tác thành cuộc nhân duyên của chúng tôi.

Ðột nhiên Vô Kỵ nghĩ tới lời nói của Chỉ Nhược đêm hôm tự sát, nàng bảo nàng bị bắt tới Cái Bang thì bị Thanh Thư hãm hiếp trong ngục đã có nghiệp thai. Nghĩ như vậy chàng tựa như năm cái sét cùng đánh vào đỉnh đầu một lúc, mắt chàng bị hoa, tai ù, nên chàng không nghe thấy và trông thấy gì.

Một lát sau chàng mới cảm thấy có người nắm lấy cánh tay mình và nói:

– Giáo chủ, mời giáo chủ trở về đi.

Vô Kỵ định thần liếc mắt nhìn mới hay người đó là Hàn Lâm Nhi.

Chàng thấy Lâm Nhi tỏ vẻ đau đớn, hậm hực và nói với Chỉ Nhược rằng:

– Chu cô nương, giáo chủ là một bậc anh hùng đại nhân, đại nghĩa, câu chuyện hiểu lầm ngày hôm đó cô nương không chờ giáo chủ giải quyết đã vội lấy người… cái người… hừ…

Y định mắng Thanh Thư vài câu, nhưng vì nể Chỉ Nhược đành phải ngậm lời và chịu nhịn.

Ðối với Triệu Minh, Vô Kỵ tuy rất yêu nhưng từ trước tới nay, chàng cảm thấy mình đã có hôn ước với Chỉ Nhược rồi, ngày hôm đó vì vội cứu nghĩa phụ nên bắt buộc phải mang theo Triệu Minh đi. Chàng đoán chắc Chỉ Nhược là người nhu hòa hiền hậu, chỉ cần giải thích cho nàng hay và xin lỗi vài câu thế nào cũng được nàng lượng thứ liền. Ngờ đâu, sau cơn giận dữ, nàng lại lấy ngay Thanh Thư như thế. Lúc này trong lòng chàng đau đớn còn hơn cả lúc bị nàng ta đâm trúng một kiếm ở trên Quang Minh đỉnh.

Chàng quay đầu lại chỉ thấy Chỉ Nhược giơ chiếc tay nõn nà như ngọc, vẫy gọi Thanh Thư. Chàng thấy Thanh Thư rất đắc chí, đi đến cạnh nàng ngồi xuống, vẻ mặt như cười mà không phải là cười, rồi nhìn Vô Kỵ nói:

– Ngày hôm nay chúng tôi thành hôn không gửi thiếp mời ai hết, chỉ có đồng môn Nga Mi đến mừng thôi, đễ bữa khác tôi xin mời giáo chủ thay vào bữa rượu mừng đó vậy.

Vô Kỵ định nói câu cám ơn, nhưng không sao thốt ra lời được.

Lâm Nhi vội kéo tay chàng và nói:

– Giáo chủ đừng lý tới những hạng người như thế nữa.

Thanh Thư cười ha hả và nói tiếp:

– Còn đại ca họ Hàn kia, bữa rượu đó thế nào tôi cũng mời cả đại ca đến cùng cho vui.

Lâm Nhi nhổ một đống nước bọt xuống đất, hậm hực đáp:

– Ta uống ba lu nước đái ngựa còn hơn là uống thứ rượu xui xẻo đến chết người được của ngươi.

Vô Kỵ biết tính Lâm Nhi rất cương trực, nếu để cho chàng cãi vã trước chỗ đông đảo thế này không tiện, cho nên thở dài một tiếng rồi kéo tay Lâm Nhi trở về lều của Minh giáo.

Lúc ấy, Trưởng Bản Long Ðầu của Cái Bang, mồm thì quát tháo và tay thì đang đấu với một hòa thượng của chùa Thiếu Lâm rất kịch liệt.

Vô Kỵ nói chuyện với Chỉ Nhược cùng Thanh Thư trước lều trúc của phái Nga Mi tại phía Tây Bắc, ba người đều nói rất khẽ nên không ai chú ý đến, vả lại tất cả đều đang xem trận đấu giữa Cái Bang và Thiếu Lâm nên không ai chú ý đến hành động của Vô Kỵ cả.

Về tới chỗ ngồi Vô Kỵ trong lòng bực tức vô cùng.

Chàng nghe thấy hòa thượng mặc áo cà sa đỏ nói:

– Ta đã nói Viên Chân sư huynh với Trần Hữu Lượng đều không có trong bổn chùa, quý bang nhất định không tin sao? Truyền Công trưởng lão của quý bang không may bị thiệt mạng thì Không Như sư thúc của tệ phái cũng đã thường mạng lại rồi, vậy quý bang còn muốn gì nữa.

Trưởng Bản Long Ðầu đáp:

– Ngươi nói Viên Chân với Hữu Lượng không có ở trong chùa như vậy ai có thể tin được, trừ phi để cho chúng ta khám chùa một lượt đã.

Hòa thượng của Thiếu Lâm cười nhạt nói:

– Các hạ muốn khám chùa Thiếu Lâm thì quả thật hơi ngông cuồng một chút, một Cái Bang nho nhỏ làm gì có đủ tài ba như thế.

Trưởng Bản Long Ðầu càng tức giận thêm và nói tiếp:

– Ngươi khinh Cái Bang ta như vậy, để ta lãnh giáo tài ba của ngươi trước.

Hòa thượng chùa Thiếu Lâm lại nói:

– Từ xưa tới nay giờ ngót một nghìn năm đã không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt giáng lâm chùa Thiếu Lâm này, tuy người của tệ phái đều là những kẻ giá áo túi cơm thật, nhưng nhờ được lão tổ từ bi, nên chùa Thiếu Lâm chưa bị ai thiêu hủy hết.

Hai người càng cãi nhau càng hăng, sắp sửa ra tay đấu với nhau, Không Trí ngồi cạnh đó cũng không can thiệp gì hết.

Tư Ðồ Thiên Chung bỗng dùng giọng nửa đực nửa cái, nghe rất quái dị, lên tiếng nói:

– Ngày hôm nay các anh hùng thiên hạ đề tựu ở chùa Thiếu Lâm, có người từ hàng nghìn dặm xa xôi đến, chẳng lẽ chỉ để xem Cái Bang báo thù thôi hay sao?

Xuyên Ðông lão anh hùng Hạ Trụ liền lớn tiếng xen lời:

– Phải. Cái Bang với Thiếu Lâm muốn cãi nhau như thế nào, chúng tôi không cần lý tới, nhưng hãy dẹp sang một bên đi đã rồi sau này hai bên thanh toán với nhau cũng chưa muộn, bây giờ chúng ta hãy xử trí gian tặc Tạ Tốn trước.

Trưởng Bản Long Ðầu nghe nói nổi giận hỏi lại:

– Người này đứng có ăn nói bậy như thế. Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp là một trong Tứ đại hộ giáo Pháp Vương của Minh giáo, tại sao ngươi cứ gọi là gian tặc hoài như thế?

Hạ Trụ tiếng nói kêu như tiếng chuông đáp:

– Ngươi sợ Minh giáo, ta không sợ Minh giáo, trong ma giáo có những kẻ còn khốn nạn hơn heo chó, những gian tặc lòng lang phổi chó như thế mà ngươi cũng tôn là anh hùng hiệp sĩ sao?

Dương Tiêu lướt người ra giữa quảng trường, chắp tay vái chào một vòng rồi nói:

– Tại hạ Quang Minh Tả Sứ của Minh Giáo, có một lời này muốn nói cùng tất cả anh hùng trên thiên hạ. Năm xưa Sư Vương của tệ giáo giết hại những người vô tội, như thế quả thật là không nên không phải.

Hạ Trụ lại hỏi:

– Hừ, những người bị y giết rồi, liệu có thể sống lại nhờ vài lời nói khéo léo của ngươi không?

Dương Tiêu nghênh ngang đáp:

– Chúng ta sống ở trên giang hồ giờ phút nào cũng đều nguy hiểm hết, được sống tới ngày hôm nay, người nào chả giết qua một vài người, người tài ba kém hơn một chút, nếu giết một người nào mà cũng phải đền mạng thì.. hì hì… thì mấy ngàn vị anh hùng ở đây chắc chỉ còn lại một số ít người thôi. Hạ lão anh hùng, trong đời anh hùng chắc chưa hề giết qua một ai bao giờ phải không?

Hồi thứ 95

So Tài Tỷ Võ

Lời nói ấy của Dương Tiêu khiến Hạ Trụ không sao trả lời được.

Lúc ấy thiên hạ đại loạn, bốn phương đều thiếu an ninh, người võ lâm đi lại giang hồ, nếu không giết người thì bị người giết liền. Dù người khéo giữ bản thân đến đâu cũng khó mà tay không dính máu, chỉ có hòa thượng của phái Thiếu Lâm ni cô của phái Nga Mi thì may ra mới tránh khỏi dính máu tanh hôi ấy thôi.

Hạ Trụ tính tình nóng nảy giết người không biết bao nhiêu mà kể, sau khi nghe Dương Tiêu hỏi như vậy, y không sao trả lời được, ngẩn người ra giây lát rồi đáp:

Những người gian ác thì phải nên giết, người tử tế thì không nên giết. Tạ Tốn cũng như các ma đầu của Minh giáo chuyên môn làm những việc luân thường hại lý, ta chỉ hận không chém giết chúng thành ngàn ngàn mảnh để ăn thịt và lột da chúng ra, họ Dương kia, chắc ngươi cũng không phải người hiền lành tử tế gì đâu.

Tuy biết trong Minh giáo có rất nhiều nhân vật lợi hại, nhưng y nghĩ tới những người dự đại hội hôm nay đa số là kẻ thù Minh giáo, bên mình người đông, đối phương thế cô, mình đã định giết Tạ Tốn để trả thù cho người em thì thế nào cũng quyết chiến với Minh giáo một phen, vì vậy mà y ăn nói không nể nang là thế. Bên lều trúc của Minh giáo bỗng có một người nói tiếng rất bén nhọn vọng ra, hỏi:

Hạ Trụ, ngươi bảo ta là người hung ác có phải không?

Hạ Trụ đưa mắt nhìn sang bên đó, thấy người lên tiếng hỏi mình mồm nhọn má hõm, mặt nhợt nhạt như không có sắc máu, liền quát hỏi:

Ta không biết ngươi là ai, nếu ngươi là người trong Ma giáo tất nhiên không phải là người hiền lành rồi.

Tư Mã Thiên Chung liền xen lòi nói:

– Hạ huynh không biết vị ấy hay sao? Vị ấy là Thanh Dực Bức Vương, một trong bốn đại hộ giáo pháp vương của Minh giáo đấy.

Hạ Trụ lại tiếp:

– Hừ, hừ con quỉ hút máu.

Ðột nhiên quần hùng bỗng thấy hoa mắt một cái, đã thấy Vi Nhất Tiếu lướt tới trước mặt Hạ Trụ.

Hai người cách nhau mười mấy trượng, khong hiểu Nhất Tiếu đi thế nào mà chỉ chớp mắt đã tới trước mặt đối phương liền.

Nhất Tiếu giơ tay lên tát luôn vào má Hạ Trụ bốn cái, rồi điểm luôn vào yếu huyệt ở dưới bụng đối phương liền.

Võ công của Hạ Trụ không phải tầm thường, nếu đôi bên đấu võ công với nhau thực sự, thì Nhất Tiếu phải đấu hơn năm mươi hiệp mới thắng nổi Hạ Trụ.

Nhưng vì khinh công của y quá nhanh, không khác gì điện chớp, rồi nhân lúc đối phương không kịp trở tay mà tấn công luôn, nên Hạ Trụ mới bị Nhất Tiếu điểm trúng yếu huyệt. Quần hùng thấy vậy đều kinh hãi thất thanh kêu la.

Lại thấy trong lều trúc của Minh giáo có một cái bóng trắng lướt ra, thân pháp của bóng trắng này tuy không nhanh bằng Nhất Tiếu, nhưng ít ai bằng được. Cái bóng trắng đó vừa lướt tới trước mặt Hạ Trụ, đã giơ ngay một cái túi vải lên, úp chụp vào đầu đối thủ ngay và vác lên vai, lúc bấy giờ quần hùng mới thấy rõ đó là một tăng nhân, cười hì hì, mà y chính là hòa thượng túi vải, tên là Nói Không Ðược.

Thì ra Nhất Tiếu tấn công lén mà thành công, thuận tay điểm huyệt luôn. Nói Không Ðược liền dùng túi vải chụp vào người kẻ địch, lúc ấy đối thủ không còn đủ sức chống đỡ nữa.

Nói Không Ðược liền vừa cười vừa nói:

– Ðồ tốt, mi là đồ tốt, hòa thượng vác mi về nhà để nấu ăn dần.

Tuy y vác một người trên vai mà chân cũng nhanh vô cùng, chỉ thoáng một cái đã trở về lều trúc liền. Tấn kịch đó mở màn rất chóng và hạ màn cũng rất nhanh, bên cạnh Hạ Trụ tuy có hơn mười mấy người bạn thân cùng các đồ đệ, nhưng ai ai cũng không kịp ra tay cứu viện. Chờ tới khi Nhất Tiếu và Nói Không Ðược về tới chỗ ngồi mới rút được khí giới ra, vội đi tới trước lều trúc Minh giáo lớn tiếng quát tháo và bảo Nói Không Ðược thả Hạ Trụ lại cho chúng.

Nói Không Ðược mở miệng túi vải ra vừa cười vừa trả lời:

– Các ngươi mau trở về yên ổn ngồi xuống, chờ đại hội kết thúc ta tha y liền. Nếu các ngươi không nghe lời, hòa thượng này sẽ phóng ngay nước tiểu vào trong túi cho tên này uống liền, các ngươi có tin không?

Y một mặt nói, một mặt giả bộ vén quần.

Mười mấy người nọ thấy vậy tức đến mặt đỏ bừng, nhưng chúng nghĩ đến người của Minh giáo, cái gì cũng dám làm hết, và da nói là làm cho kỳ được, nên chúng biết thị lực để cướp người không sao làm nổi, nếu tặc hòa thượng phóng uế vào đầu, Hạ Trụ sẽ tự tử mất. Vì vậy chúng trố mắt lên nhìn nhau một hồi, rồi bất đắc dĩ rầu rĩ quay về chỗ ngồi.

Quần hùng thấy vậy cũng ngạc nhiên và buồn cười vô cùng. Lúc lên núi, tên nào tên nấy cũng cao hứng vô cùng, chỉ muốn xem Tạ Tốn bị giết như thế nào. Lúc náy thấy thân thủ của hai hào kiệt Minh giáo lợi hại như vậy, mọi người mới nhận thấy buổi đại hội hôm nay rất hung hiểm, dù có giết được Tạ Tốn trên quảng trường thế nào cũng đẫm máu, xác nằm ngổn ngang chứ không sai.

Tư Mã Thiên Chung tay trái cầm một chén rượu, tay phải cầm một cái hồ lô, loạng choạng đi tới giữa quảng trường và nói:

– Ngày hôm nay thực là vui vẻ lắm, có người muốn giết Tạ Tốn, có người muốn cứu Tạ Tốn, nhưng hãy xét lại Tạ Tốn có ở trong chùa Thiếu Lâm này không, đó mới là một nghi vấn. Không Trí đại sư này, theo tôi đại sư nên mời Kim Mao Sư Vương ra đây cho mọi người thấy mặt đã. Rồi đôi bên muốn cứu muốn giết mới đem tài ba chân thực đấu với nhau một phen, như vậy mới hứng thú chứ.

Thiên Chung nói xong, có già nửa số quần hùng vỗ tay khen phải, Dương Tiêu thấy vậy nghĩ thầm:

– Tạ Sư Vương nhiều oan gia quá, dù Minh Giáo với Cái Bang có liên tay cũng không chống cự nổi với thiên hạ anh hùng. Chi bằng ta đưa đao Ðồ Long ra làm mục tiêu, để cho cục diện biến thánh cuộc tranh cướp thanh đao đó.

Nghĩ đoạn, y liền lớn tiếng hỏi:

– Các vị anh hùng ngày hôm nay tụ tập ở chùa Thiếu Lâm, một là vì có ân oán với Tạ Sư Vương, hai là hì hì, chắc muốn được kiến thức thanh đao Ðồ Long phải không? Nếu theo lời Tư Mã thiền sư vừa nói thì tất cả chúng ta gây hỗn chiến một phen, như vậy bảo vật đó sẽ về ai?

Quần hùng nghe thấy Dương Tiêu nói cũng có lý, trong mấy nghìn người đó chính thức có thù với Tạ Tốn chỉ hơn trăm người thôi. Còn những người khác ai ai cũng nghĩ đến bốn chữ võ lâm chí tôn, thấy Dương Tiêu nói như thế, người nào cũng động lòng liền. Một ông già râu đen đứng dậy nói:

– Ðao Ðồ Long hiện giờ ở trong tai ai? Xin Dương Tả Sứ cho chúng tôi được biết?

Dương Tiêu đáp:

– Ðiều này không rõ lắm, đang muốn thỉnh giáo Không Trí thiền sư đây.

Không Trí lắc đầu không nói năng gì cả, quần hùng thấy vậy đều bất mãn vô cùng và nghĩ thầm:

– Phải Thiếu Lâm là chủ nhân của đại hội mà Không Văn phương trượng lâm thời cáo ốm không ra, còn Không Trí thần tăng lại có bộ mặt lầm lì, không biết định giở trò gì đây.

Một đại hán tuổi trạc trung niên, đứng dậy xen lời nói:

– Không Trí thiền sư mà không biết như vậy, Tạ Sư Vương thế nào cũng biết.

Bây giờ chúng tôi xin mời Kim Mao Sư Vương ra đây để hỏi ông ta xem: bảo đao đó ở đâu, rồi chúng ta so tài với nhau, xem ai là người có võ công cao nhất thiên hạ, tất nhiên người đó là võ lâm chí tôn. Bất cứ thanh đao đó ở trong tay ai cũng phải trao cho người võ lâm chí tôn đó. Theo tôi nói, thì tất cả chúng ta đây phải bàn định một chương trình trước để lúc đó khỏi tranh chấp. Nếu ai không phục, quần hùng sẽ quay lại tấn công người đó. Chẳng hay quý vị nghĩ sao?

Vô Kỵ nhận thấy người lên tiếng nói đó chính là một trong ba tay cao thủ phái Thanh Hải mà chàng đã thấy vây đánh lão hòa thượng ở trên núi Hậu Sơn bữa nọ.

Thiên Chung lại lên tiếng nói:

– Như vậy là đả lôi đài phải không? Theo ý tôi đấu như thế có vẻ không xong.

Người thiếu niên mặc áo bào màu vàng, lạnh lùng hỏi lại:

– Sao lại không xong, theo ý các hạ thì không nên đấu võ mà nên đua uống rượu phải không? Người nào uống nghìn ly không say hoặc người nào say không chết sẽ là võ lâm chí tôn phải không?

Mọi người nghe chàng ta nói vậy thì cười ồ, trong đám đông có người dùng giọng rất quái dị nói:

– Như vậy còn đấu cái gì nữa, võ lâm chí tôn tất nhiên Tư Mã tiên sinh con người say không chết rồi.

Thiên Chung rót đầy một chén rượu, uống một hơi cạn luôn rồi đứng đắn trả lời:

– Không dám, không dám, nếu nói đến võ lâm chí tôn, tôi Tuý bất Tử hoặc giả còn ba thành hy vọng, bốn chữ võ lâm chí tôn ấy, ha ha, không dám, tôi không dám.

Y quay đầu về phía đại hán mặc áo vàng và nói tiếp:

– Các hạ đã đề nghị như vậy, tất nhiên võ học của các hạ phải siêu phàm nhập thánh, tại hạ mắt kém, không biết quý tính danh là chi ?

Theo giọng nói của y thì hình như võ công của y còn cao hơn đối phương nhiều. Thiên Chung chếch đầu nghĩ ngợi một hồi rồi nói tiếp:

– Có phải ngài là người của phái Thanh Hải không?

Người nọ trả lời:

– Tại hạ là Diệp Trường Thanh của phái Thanh Hải, nhưng tài ba uống rượu với làm trò hề thì không sao bằng các hạ được.

Mọi người thấy Thiên Chung làm trò hề trước mặt chàng nọ liền nghĩ thầm:

– Thiên Chung táo gan thật, dám khinh thường phái Thanh Hải như thế, không hiểu phái sau lưng y có ai đỡ đầu cho? Hay là y có thù với phái Thanh Hải chăng?

Sự thật Thiên Chung chỉ có một thân một mình chứ không có ai đỡ đầu hết và y cũng không có thù hằn với phái Thanh Hải, y chỉ có tính ngông cuồng thích nói bông nói đùa thôi, trong đời y vì thế mà bị người ta đánh đập rất nhiều, nhưng vẫn không sao thay đổi được tính nết.

Trưởng Thanh là người giận ai không bao giờ lộ ra ngoài mặt. Y thấy Thiên Chung vô lễ với mình như vậy định hạ sát cho bõ ghét, nên y liền hỏi:

– Các hạ đã nói cuộc tỷ võ không xong, mà đua rượu thì các hạ là người vô địch thiên hạ, vậy thì biết làm sao bây giờ, vậy các hạ phải phát biểu ý kiến đi.

Thiên Chung đáp:

– Nói bảo uống rượu vô địch thiên hạ, việc này có phải dễ đâu, thiết nghĩ năm xưa tôi ở phủ Tế Nam…

Y còn đang thao thao bất tuyệt nói tiếp, bỗng trong đám đông có tiếng người quát bảo:

– Thằng uống say không chết kia đừng có dở trò điên khùng ra nữa, không có ai có thì giờ nghe mi nói lếu láo đâu.

Lại có người thứ hai cũng lên tiếng:

– Chẳng hay việc Tạ Tốn sẽ giải quyết ra sao và Ðồ Long đao thế nào?

Lại có người thứ ba xen lời:

– Không Trí thiền sư là chủ nhân của đại hội hôm nay, bảo chúng tôi cứ chờ đợi hòai như thế này làm chi? Thế là nghĩa lý gì?

Tiếng người nói càng ngày càng nhiều, càng ồn ào thêm, Thiên Chung lại lớn tiếng nói tiếp:

– Sở lão đại Hắc Phong của Giang Lăng kia, khỏi cầ phải nóng nảy như thế, Hắc Sa chưởng của ngươi tuy lợi hại thật, nhưng chưa có thể đánh khắp thiên hạ mà không địch thủ, còn anh em họ Hỗu ở Hộ Bá Dương cũng vậy, các ngươi đừng tưởng bơi lội giỏi mà xưng hùng xưng bá đâu, phải biết Tạ Sư Vương bơi lội cũng không kém gì võ công ở trên đường bộ, huống hồ người ta còn một vị Tía Sam Long Vương chưa ra mặt, hừ hừ, cá hỏa long bằng sao được rồng chúa. Còn Ngô Tam Lang ở Thanh Dương Sơn, ngươi chỉ biết dùng kiếm thôi, xử dụng sao nổi Ðồ Long Ðao mà la om sòm như vậy làm chi?

Tuy lời nói của Thiên Chung điên điên rồ rồ thật, nhưng y là người rất giàu kiến thức mà tai thì thính lắm, ai nói gì y cũng nghe được hết và còn biết được người nào nói nữa, không sai một tí nào.

Quần hùng thấy vậy cũng phải khen y là người thông minh và nhớ dai lắm. Một tăng nhân ở Ðạt Ma Ðường ở phía sau Không Trí, liền đứng dậy nói:

– Phái Thiếu Lâm chúng tôi tuy là chủ nhân thực, nhưng không may Không Văn phương trượng đột nhiên đau yếu, nên không có người chủ trì đại hội, quý vị phải chê cười như vậy. Tạ Tốn với đao Ðồ Long tuy là hai việc, nhưng kể như một có thể giải quyết cùng lúc cũng được, theo ý lão tăng thì vừa rồi Diệp thí chủ của phái Thanh Hải nói rất có lý. Quý vị dự đại hội đều là anh tài hết, chỉ cân mỗi người biểu diễn một pho võ công. Sau cùng vị nào tài ba siêu việt nhất, người đó sẽ được xử lý việc Tạ Tốn và giữ đao Ðồ Long. Như vậy quần hùng sẽ đều qui phục vị đóù, như vậy chả hơn là cứ cãi vã suông như thế này sao?

Vô Kỵ hỏi Bành Doanh Ngọc hòa thượng đang nói chuyện đó là ai?

Doanh Ngọc lắc đầu đáp:

– Thuộc hạ không biết, tăng nhân này chưa hề tham dự vây đánh Quang Minh đỉnh chúng ta và cũng không bị quận chúa bắt giam vào chùa Vạn pháp, nhưng y dám cướp lời của Không Trí như thế, đủ thấy địa vị ở trong chùa không đến nỗi thấp kém.

Triệu Minh khẽ nói:

– Có lẽ người này ở trong đãng của Viên Chân, mà theo sự ước đoán của tôi thì hiện giờ Không Văn đại sư đã lọt vào tay của Viên Chân rồi, mà Không Trí thì bị bọn phản đồ kiềm chế, cho nên trông mặt y mới có vẻ thất thần và chán nản như thế.

Vô Kỵ nghe nói rùng mình một cái và hỏi tiếp:

– Bành sư phụ nghĩ sao ?

Doanh Ngọc đáp:

– Quận chúa đoán rất có lý, nhưng cao thủ chùa Thiếu Lâm còn nhiều lắm mà Viên Chân dám phạm thượng làm loạn như vậy đủ thấy y táo gan biết bao.

Vô Kỵ lại tiếp:

– Viên Chân bố trí đã lâu, lần đầu tiên y muốn phá tan bổn giáo, lần thứ hai y muốn khống chết Cái Bang, nhưng hai lần y đều thất bại, lần này y muốn làm trưởng môn phương trượng của phái Thiếu Lâm.

Triệu Minh lại nói:

– Không những làm chưởng môn phương trượng mà thôi.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Thế còn võ lâm chí tôn ? Như vậy chả cao hơn là trưởng môn của phái Thiếu Lâm hay sao ?

Triệu Minh đáp:

– Vô Kỵ đại ca, chị Chỉ Nhược lấy người khác, đại ca như kẻ mất hồn mất vía, không còn nghĩ ngợi được gì nữa.

Vô Kỵ nghe Triệu Minh nói như vậy, mặt đỏ bừng và nghĩ thầm:

– Vô Kỵ, ngươi mải nghĩ đến tình nữ nhi mà quên cả chuyện lớn của nghĩa phụ đi.

Thế rồi chàng định lại tâm thần và suy nghĩ:

– Viên Chân là kẻ đa mưu túc trí, hiển nhiên cuộc đại hội anh hùng hôm nay là do một mình y tạo nên. Chắc bên trong cũng có gian mưu gì đây.

Nghĩ đoạn, chàng liền lên tiếng hỏi Triệu Minh:

– Minh muội thử đoán xem Viên Chân còn có quỷ kế gì nữa không ?

Triệu Minh đáp:

– Viên Chân là người rất thâm độc và nhiều mưu kế…

Chu Ðiên đứng cạnh thấy hai người nói khẽ với nhau, không sao nhịn được liền xen lời nói:

– Quận chúa nương nương mưu trí cũng không thua Viên Chân đâu.

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Chu huynh quá khen đấy thôi.

Chu Ðiên lại nói tiếp:

– Không phải quá khen đâu.

Triệu Minh vừa cười vừa xen lời:

– Vô Kỵ đại ca, nếu nói đến võ công thì trên đời này không ai có thể bằng được đại ca nữa. Tất nhiên Viên Chân cũng biết rõ điều đó, y không dại gì lại bày đặt quần hùng đại hội này để cho đại ca đắc thắng quần hùng, trở nên võ lâm chí tôn, rồi hiến Tạ đại hiệp và đao Ðồ Long cho đại ca.

Vô Kỵ, Doanh Ngọc và Chu Ðiên ba người cũng gật đầu, đồng hỏi:

– Thế quận chúa đã đoán y có quỷ kế gì?

Lúc ấy Dương Tiêu trở về, ngồi cạnh Vô Kỵ xen lời nói:

– Tôi cũng nghĩ như vậy, phen này gian mưu của tên Viên Chân rất lớn.

Chu Ðiên lại nhịn không được, lên tiếng hỏi luôn:

– Viên Chân là kẻ thù của bổn giáo, quận chúa kia cũng là kẻ thù của bổn giáo, Viên Chân tên ấy đa mưu túc kế thì quận chúa cũng nhiều quỷ kế, vậy hai người đâu có kém gì nhau đâu.

Dương Tiêu liền quát mắng:

– Ngươi lại điên điên rồ rồ, nói những chuyện phiếm ấy ra làm chi?

Triệu Minh vội đỡ lời:

– Chu tiên sinh nói rất có lý, nếu tôi là Viên Chân thì tôi phải đặt mưu kế? ừ, thứ nhất, tôi khuyên Không Văn phương trượng phát thiếp mời anh hùng thiên hạ tới chùa Thiếu Lâm này chắc quý vị cũng biết, Không Văn phương trượng là người rất tinh thâm về phật pháp, lại hiền từ, ưa chuộng hòa bình. Xưa nay đại sư không thích nhiều sự, nhưng tôi chỉ cần nhắc lại cái chết của Không Kiến và Không Tính, hai vị thần tăng, thế là phương trượng của chùa Thiếu Lâm sẽ nhớ tình sư huynh sư đệ, tất nhiên phải nhận lời. Hơn nữa, nếu chùa Thiếu Lâm giết chết Tạ đại hiệp thì phái Thiếu Lâm với Minh giáo lại càng thù nhau thêm. Với lực lượng của phái Thiếu Lâm, chưa chắc chống đỡ nổi Minh giáo nhưng kéo anh hùng thiên hạ ra gánh vác trách nhiệm đó thì Minh giáo đâu dám đối địch với mấy ngàn hảo hán như thế?

Mọi người nghe nói đều gật đầu, Triệu Minh lại tiếp:

– Khi đại hội anh hùng đã tổ chức thành, nếu tôi là Viên Chân, tôi chả cần lộ mặt làm chi, bảo người đem Tạ đại hiệp với đao Ðồ Long ra làm mồi để cổ võ quần hùng tự tàn sát lẫn nhau. Minh giáo thế nào cũng là kẻ địch của quần hùng, đấu đến sau cùng, bất cứ bên nào thắng bại, cao thủ của Minh giáo ít nhất cũng phải tổn thất già phân nửa, số còn lại thì nguyên khí đã tổn thương rất lớn.

Vô Kỵ vội đỡ lời:

– Chính thế, tôi cũng đã nghĩ đến thế này, nhưng ơn của nghĩa phụ nặng như Thái Sơn, khi nào tôi chịu ngồi yên mà không ra tay cứu. Hà, chúng ta lên núi có vài ngày thôi, ông ngoại đã từ trần, thế nào Viên Chân núp trong bóng tối cũng vỗ tay khoái chí.

Triệu Minh lại tiếp:

– Dù sao đến cuối cùng, người được tên võ lâm chí tôn cũng về Trương giáo chủ. Thế rồi hòa thượng Thiếu Lâm sẽ nói tài ba của Trương giáo chủ đã lấn át được quần hùng, thật đáng kính đáng mừng, rồi họ giao Tạ đại hiệp cho Trương giáo chủ, mời giáo chủ lên đỉnh núi ở phía sau chùa để nghênh đón. Thế là tất cả mọi người đều lên đỉnh núi. Lúc ấy, Trương giáo chủ phải một mình đánh phá Kim Cương Phục Ma Khuyên. Nếu có người khác ra trợ giúp, thì đồng đảng của Viên Chân liền nói ngay “Chỉ có một mình Trương giáo chủ là đánh bại quần hùng thôi, không có liên quan gì đến người khác hết, các hạ hãy đứng sang một bên thì hơn”. Trương giáo chủ đã cướp được cái tên võ công đệ nhất thiên hạ, dù không mang thương tích trong người, nhưng tiêu hao nội lực và thân công rất nhiều. Như vậy lúc ấy giáo chủ còn địch sao nổi ba hòa thượng kia nữa. Kết quả vẫn không cứu được Tạ đại hiệp, mà mình thì bị đánh chết dưới gốc ba cây thông đó. Thế là chỉ có trăng trong gió mát làm bạn với cái xác nhất thời của đại hiệp Trương Vô Kỵ thôi, như vậy kế của tôi không linh diệu lắm sao?

Mọi người nghe tới đây đều biến sắc và nghĩ thầm:

– Viên Chân độc ác và gian xảo thật, y biết Vô Kỵ dù có hy sinh tính mạng cũng phải cứu được Tạ Tốn và biết rõ Minh giáo dù có phải vượt núi cao, bể lửa cũng phải nghiến răng xông tới.

Triệu Minh thở dài một tiếng rồi tiếp:

– Như vậy Minh giáo đã tan vỡ, Viên Chân lại xử dụng gian kế, đầu độc cho Không Văn từ trần và đổ tội cho Không Trí đại sư. Việc này dễ lắm, y chỉ cần tạo rmột ít bằng cớ cụ thể là tăng chúng của chùa Thiếu Lâm tin ngay. Rồi đồng đảng của y lại hết sức đưa y ra thế là y được làm phương trượng một cách dễ dàng và y sẽ ra lệnh quần hùng vây đánh Minh giáo ngay. Lúc bấy giờ nếu đao Ðồ Long không xuất hiện thì thôi, khi đao đó đã xuất hiện người thiên hạ ai ai cũng hay biết thì bảo đao đó phải về tay Viên Chân thần tăng phương trượng của phái Thiếu Lâm. Chủ nhân của bảo đao đó, nếu không đem than bảo đao hiến cho người được tiếng là võ công cao siêu số một thiên hạ thì chủ nhân của thanh đao đó e sẽ toi mạng liền.

Chu Ðiên nghe đến đó, vỗ đùi kêu đét một tiếng và nói:

– Phải đấy, phải đấy, đúng là gian kế của y đấy.

Vì tiếng nói của Chu Ðiên quá lớn, nên ai nấy đều quay mặt nhìn về Minh giáo.

Thiên Chung liền hỏi:

– Gian mưu gì thế, có thể cho lão phu nghe không?

Chu Ðiên đáp:

– Chuyện này không thể nói cho ai nghe được, lão phu nhất tâm khiêu khích ly gián để cho anh hùng thiên hạ tàn sát lẫn nhau. Nếu ta nói câu chuyện này ra thì gian mưu đó không còn nữa.

Thiên Chung nghe nói liền hỏi tiếp:

– Hay lắm, hay lắm ai chả biết là khiêu khích ly gián. Nhưng nội dung ra sao có thể nói cho lão phu hay được không?

Chu Ðiên lớn tiếng đáp:

– Ta giả bộ nói Ðồ Long đao ở trong tay lão tử đây, võ công ai cao cường nhất ta sẽ tặng đao Ðồ Long cho…

Thiên Chung vội la lớn:

– Diệu kế hay, âm mưu giỏi, như vậy rồi sao nữa?

Triệu Minh cùng Vô Kỵ nhìn nhau một cái, liền nghĩ thầm:

– Tên ma men này với chúng ta vô thân vô cố mà hình như y có vẻ về phe chúng ta.

Chu Ðiên lại lớn tiếng nói tiếp:

– Ngươi thử nghĩ xem đã bảo con đao Ðồ Long là bảo đao chí tôn, ai mà chả muốn đem toàn lực ra tranh cướp. Thế rồi chàng điên bị ma men giết, ma men bị nhà sư giết, nhà sư bị đạo sĩ giết, đạo sĩ bị cô nương giết. Thế rồi giết đến long trời lở đất, máu chảy thành sông, xác chất tựa núi, ô hô ai tai!

Quần hùng nghe thấy Chu Ðiên nói vậy, ai cũng giật mình kinh hãi, nghĩ thầm:

– Lời nói của người này tuy điên điên rồ rồ thật, nhưng rất có lý.

Tôn Duy Hiệp vội đứng dậy nói:

– Lời nói của Chu tiên sinh rất có lý. Chúng ta là người ngay thẳng, không bao giờ nói chuyện cong queo. Bang phái nào đối với Ðồ Long đao cũng thèm muốn, nhưng ai ai cũng bị nó làm cho thân bại danh liệt, thậm chí toàn phái bị tiêu diệt hết, chúng ta hà tất phải dại dột như thế. Tôi thiết nghĩ, chúng ta nên nghĩ một biện pháp nào chỉ lấy võ học mà đấu đến khi phân thắng bại thì thôi, chứ đừng làm mất hòa khí của nhau, các vị nghĩ sao?

Thì ra khi đại chiến trên Quang Minh đỉnh, Vô Kỵ lấy oán đền đức, chữa khỏi nội thương cho Duy Hiệp, nên phen này tới dự đại hội phái Không Ðộng đã định tâm trợ giúp Minh giáo để cứu viện Tạ Tốn rồi.

Thiên Chung vừa cười vừa đáp:

– Không ngờ người ta to con như thế này mà lại sợ chết như vậy. Tỷ võ mà không bị thương, không đổ máu thì trận đấu không còn lý thú gì hết.

Tứ lao của phái Không Ðộng là Thường Kinh Chi tính rất nóng nảy nghe thấy Thiên Chung nói vậy, tức giận vô cùng, liền quát lớn:

– Muốn đả thương ma men, ta vẫn có thể không để cho ngươi đổ máu cũng được.

Thiên Chung gượng cười nói tiếp:

– Lão phu chỉ nói bông đấy thoi chứ có phải nói thực đâu. Thường tứ tiên sinh hà tất phải nóng tính đến thế? Ai chả biết Thất Thương quyền của phái Không Ðộng đả người mà không thấy đổ máu. Không Kiến Thần tăng của phái Thiếu Lâm chả chết với Thất Thương quyền là gì? Lão Tư đồ ma men gầy gò yếu ớt như thế này so sánh với Không Kiến thần tăng sao được?

Quần hùng đều nghĩ:

– Tên ma men này tệ thực, hễ lên tiếng là nói xỏ nói xiên người ta liền. Y vừa chế nhạo phái Không Ðộng vừa nói xỏ phái Thiếu Lâm, con người hay mất lòng như y, lăn lộn trên giang hồ mấy chục năm liền mà sao không thấy ai đánh chết y cho rảnh, lại để cho y sống sót đến giờ kể cũng lạ lùng thật.

Duy Hiệp không thèm đếm xỉa tới tên ma men ấy, lại lớn tiếng nói tiếp:

– Theo ý kiến của tại hạ thì mỗi một môn phái hay bang hội cũng vậy đều cử hai tay cao thủ ra dự cuộc đấu. Sau cùng bang phái nào võ công cao siêu nhất sẽ được xử trí Tạ đại hiệp với Ðồ Long đao.

Quần hùng đều vỗ tay khen ngợi và công nhận phương pháp ấy rất hợp lý. Vô Kỵ để ý xem thấy các hòa thượng đứng sau Không Trí đều cau mày lại, tỏ vẻ không vui. Chúng đã biết Triệu Minh nói toạt gian mưu của Viên Chân ra, khiến chúng không thể nào tiếp tục khiêu khích quần hùng tàn sát lẫn nhau nữa.

Lúc ấy, bỗng có một đại hán tuổi trạc trung niên, mặt trắng râu thưa, tay cầm cái quạt giấy phe phẩy từ từ đứng dậy, tư thái rất ung dung và nói:

– Tại hạ nhận thấy ý kiến của Tôn đại hiệp vừa phát biểu rất phải. Khi đấu võ thi tài, tuy chỉ nói là phân được hơn thua thì thôi, nhưng khí giới và tay chân đâu có đầu óc mà mắt như người đâu, nếu lỡ tay mà nguy hiểm đến tính mạng thì những người đồng môn đồng phái của nạn nhân chỉ có thể coi người mình kém tài, chứ không được vì thế mà nhảy ra khiêu chiến báo thù, bằng không cứ dây dưa hết đời này sang đời khác, mối thù không bao giờ dứt cả.

Quần hùng đồng thanh đáp:

– Phải nên thế lắm.

Thiên Chung với giọng rất sắc xảo tiếp lời:

– Vị này anh tuấn lắm, ăn nói nhã nhặn, có phải đại huynh là ¢u Dương, người tỉnh Hà Nam đấy không?

Người nọ cụp cái quạt lại vừa cười vừa đáp:

– Không dám, chính tại hạ đây, ngươi khen ta một câu, nói xỏ ta một câu thế là huề.

Thiên Chung lại tiếp:

– Âu Dương huynh với đệ tựa như là con người cô hồn và ma xó không thuộc bang hội, môn phái nào cả, tôi ưa rượu, huynh háo sắc, anh em chúng ta hợp nhau lập một phái gọi là Tửu Sắc phái, rồi hai đại cao thủ của Tửu Sắc phái chúng ta sát cánh bên nhau tiến lên so tài với các cao thủ của thiên hạ, chẳng hay huynh nghĩ sao?

Quần hùng đều lớn tiếng cười và nhận thấy Thiên Chung nửa điên nửa tỉnh, ăn nói rất hài hước, làm cho sát khí của quảng trường giảm đi rất nhiều. Thì ra người lạ mặt trắng họ ¢u Dương tên Mục Chi, y lấy tất cả mười hai người vợ, võ công tuy cao siêu, nhưng ít khi đi lại giang hồ, suốt ngày chỉ ở nhà hưởng khoái lạc.

Mục Chi vừa cười vừa đáp:

– Nếu liên tay với bạn để tổ chức môn phái, tôi chỉ sợ gia tài của tôi không đủ để cho bạn nhậu thôi. Thưa quý vị, nói đến tỷ võ so tài, chúng ta phải đề cử mấy vị cao tuổi có đức vọng ra làm trọng tài mới được để khỏi cãi vã lôi thôi.

Thiên Chung vừa cười vừa đỡ lời:

– Thua được ai lại chả biết, có ai hồ đồ như huynh mà mặt dầy mặt dạn đổ thừa đâu.

Duy Hiệp lại nói:

– Phải, nên bầu cử mấy người làm trọng tài, phái Thiếu Lâm là chủ nhân, Không Trí hòa thượng dĩ nhiên là trọng tài rồi.

Thế rồi mỗi người một câu, chỉ thoáng cái đã giới thiệu được mười mấy người làm trọng tài và người nào cũng là hào kiệt có danh vọng trên giang hồ cả.

Trong lúc mọi người đang xôn xao bàn tán, thì trong phái Nga Mi có một lão ni cô lạnh lùng nói:

– Việc gì mà phải bầu cử trọng tài lôi thôi thế.

Tiếng nói của ni cô không lớn lắm, nhưng ai cũng nghe thấy rõ đủ thấy nội công bà ta như thế nào.

Thiên Chung vừa cười vừa đáp:

– Xin hỏi vị sư thái này tại sao không dùng trọng tài.

Lão ni đáp:

– Hai người đấu với nhau, người sống thì thắng, người chết thì thua, việc gì phải mời vua Diêm Vương ra làm trọng tài như thế?

Mọi người nghe thấy lời nói của lão ni lạnh lùng và âm thầm khôn tả, người hơi nhát gan một chút có thể rùng mình sợ hãi liền.

Thiên Chung lại hỏi:

– Chúng ta lấy võ hội bạn đối nhau không có thấm thù gì hết hà tất phải biết nhau như thế. Người tu bao giờ cũng phải từ bi. Vị sư thái này nói như vậy không sợ phật tổ hờn giận trách cứ sao?

Lão ni lạnh lùng đáp:

– Ngươi nói chuyện với người khác điên điên rồ rồ, không ai chấp trách, nhưng trước mặt đệ tử phái Nga Mi thì ngươi phải đứng đắn mới được.

Thiên Chung cầm hồ lô lên rót một chén rượu vừa cười vừa tặc lưỡi mấy cái và nói:

– Phái Nga Mi lợi hại thật, cổ nhân vẫn thường nói, người đàn ông tử tế không bao giờ đối đầu với đàn bà, thì thằng men đứng đắn này cũng vậy, không thèm cãi vã với ni cô.

Nói xong y cầm chén rượu để vào mồm uống, chỉ nghe thấy hai tiếng kêu “soẹt soẹt” liền có hai hạt châu ở đằng xa bắn tới, một hạt trúng chén rượu một hạt trúng hồ lô, tiếp theo đó lại có một hạt bắn trúng ngay vào ngực Thiên Chung. Mọi người chỉ nghe thấy ba tiếng “bùng bùng bùng” thật lớn, thì ra ba hạt Niêm Châu đó đã nổ, hồ lô và chén rượu tan tành ngay, cả ngực của Thiên Chung cũng bị thủng một lỗ lớn. Người y bị sức nổ đó đẩy bắn về phía sau ba trượng, quần áo bốc cháy luôn. Hạ Trụ lúc này được thả ra liền chạy lại cứu, nhưng Thiên Chung đã thiệt mạng rồi. Mà lạ thay mặt y vẫn tươi cười, đủ thấy ba hạt châu đó bay tới rất nhanh, và Thiên Chung cho đến lúc chết vẫn không ngờ đại hoạ tới nhanh đến thế. Sự thể xảy ra đột ngột, không khác gì trời quang mây tạnh bỗng có một tiếng sét đánh vậy. Trong quần hùng có rất nhiều người tài ba cao siêu mà cũng không ngờ ám khí đó nhanh và lợi hại đến thế.

Chu Ðiên cũng phải hoảng hốt kêu lên:

– Ối chà, đó là ám khí gì thế?

Dương Tiễu khẽ nói:

– Nghe nói bên Tây Vực nước A Lập Bá có một thứ ám khí gọi là phích lých lôi hỏa đạn, bên trong có thứ thuốc nổ rất mạnh, phải dùng một thứ máy móc có lò xo rất khoẻ bắn ra. Có lẽ lão ni cô xử dụng thứ ám khí đó cũng nên.

Chỉ thấy Hạ Trụ ôm xác Thiên Chung đã cháy đen, nhìn thẳng về phía phái Nga Mi và nói:

– Chú em Tư Mã của ta đây, tuy ăn nói hơi quá trớn một chút, đó cũng chỉ bởi tính trào lộng mà nên, chứ sự thực tâm địa của y rất nhân hậu. Trong đời y chưa làm một việc gì thường luân bại lý cả, ngày nay tất cả anh hùng trên thiên hạ có mặt tại đây, hỏi thử xem đã có ai thấy y làm một việc gì hung ác chưa?

Quần hùng đều im lặng, Hạ Trụ lại chỉ lão ni nọ và đáp:

– Phái Nga Mi vẫn có tiếng là hiệp nghĩa và lại là danh môn chính phái, ngờ đâu lại xử dụng thứ ám khí độc như vậy. Vẫn biết trong võ lâm kẻ nào mạnh thì còn, kẻ nào yếu thì chết, nhưng dù sao cũng không thoát khỏi chữ lý. Xin hỏi vị đại sư này pháp danh là chi?

Lão ni đáp:

– Tôi là Tỉnh Ca, đại hiệp vừa được thả trong túi ra, cứ chỉ chỉ trỏ trỏ như vậy, định làm chi?

Hạ Trụ rầu rĩ đáp:

– Họ Hạ này học võ không được tinh xảo, nên mới bị các ma đầu của Minh giáo làm nhục như thế, tài ba của họ Hạ này tầm thường thực, nhưng không bao giờ làm mất thanh danh hiệp nghĩa cả. Tỉnh Ca đại hiệp độc ác như vậy không sợ làm mất thanh danh của Quách nữ hiệp tổ sư của quý phái hay sao?

Các đệ tử của phái Nga Mi nghe Hạ Trụ nhắc tới danh húy của tổ sư sáng lập ra môn phái mình, đều đứng cả dậy. Tỉnh Ca thấy vậy trợn ngược đôi lông mày lên quát lớn:

– Danh húy tổ sư của bổn phái, có phải ngươi, tên khốn nạn này, tự tiện nói lên lúc nào cũng được đâu.

Hạ Trụ liền đáp:

– Ðệ tử của phái Nga Mi, đa số có hành vi bất nghĩa, làm nhục tên tuổi của sư môn, đừng nói đến Quách nữ hiệp, ngay đến Diệt Tuyệt sư thái năm xưa, dù có tâm địa ác độc, ra tay hơi quá trớn thật, nhưng kiếm của bà ta không bao giờ giết kẻ vô tội, giết bừa giết bãi như ni cô này đâu. Sao người chưởng môn của các ngươi dung túng cho các ngươi làm càn như thế mà không kiềm chế, thì như vậy phái Nga Mi làm sao đứng vững trên giang hồ được?

Tỉnh Ca lại nói tiếp:

– Nếu mi còn nói thêm nửa lời nữa thì tên ma men kia là cái gương của mi đấy.

Hạ Trụ không hoảng sợ chút nào, chính khí lầm lẫm, bước lên ba bước rồi nói tiếp:

– Nếu người chưởng môn của phái Nga Mi, không chịu quét sạch cửa ngõ thì sẽ bị thiên hạ khinh rẻ liền.

Quần hùng với các đệ tử của phái Nga Mi, mấy ngàn con mắt đều nhìn thẳng vào Chỉ Nhược. Ngờ đâu chỉ thấy nàng ta nhìn Tỉnh Ca gật đầu một cái, lại nghe hai tiếng “tanh tanh” phích lịch lôi hỏa đạn của lão ni cô lại bắn ra. Ngực và bụng của Hạ Trụ bị bắn thủng hai lỗ, áo bị xem lửa, nhưng y là người rất gan dạ, tuy đã tắt thở, nhưng vẫn đứng yên không ngã, tay ôm cái xác của Thiên Chung. Quần hùng đưa mắt nhìn nhau kinh hãi đến ngẩn người ra. Một lát sau mấy trăm người mới xôn xao bàn tán mắng chửi phái Nga Mi, cho hành động như thế thật không nên không phải.

Vy Nhất Tiếu với Nói Không Ðược, nhìn nhau gật đầu một cái, rồi cả hai đi đến trước xác Hạ Trụ, quỳ xuống vái lạy.

Nói Không Ðược liền nói:

– Hạ lão anh hùng, hai anh em chúng tôi không biết ngài là anh hùng nhân nghĩa, vừa rồi mới thất lễ như vậy, thực anh em chúng tôi hổ thẹn vô cùng.

Hai người đều giơ tay lên, tự tát vào má mấy cái kêu đôm đốp, má của hai người đỏ bừng và sưng lên ngay. Hai người vội dập tắt ngọn lửa đang cháy xém trên hai cái xác đó, rồi aÜm vào trong lều trúc của Minh giáo.

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược đột nhiên thay đổi tâm tính như vậy trong lòng cũng khó chịu vô cùng. Trong khi mọi người đang bàn tán ồn ào chưa dứt thì Chỉ Nhược đã rỉ tai Thanh Thư khẽ dặn điều gì đó. Chỉ thấy Thanh Thư gật đầu mấy cái, rồi từ từ đi ra giữa quảng trường, lớn tiếng nói:

– Ngày hôm nay, quần hùng tụ họp ở đây, không phải là tài tử phong lưu đến để gảy đàn đánh trống hay là luận văn đàm thuyết, như vậy tránh sao khỏi đụng đến khí giới chân tay. Mà đã đụng đến khí giới thì phải có người bị thương hay chết chóc. Vừa rồi Hạ lão anh hùng đã nói Tư Mã tiên sinh chưa làm một điều gì độc ác cả, và khiển trách Tỉnh Ca sư thái của bổn phái giết bừa giết bãi. Các vị anh hùng lại xôn xao bàn tán, hình như có ý trách bổn phái. Vậy anh em tôi ra đây xin lãnh giáo. Chúng ta ngày hôm nay so tài tỷ võ, có phải cần điều tra người đối thủ có đức hạnh và đức tính trước rồi mới được đấu đâu? Có phải cứ người nào là đại thánh, đại hiền thì ta không được giết, còn những kẻ hung ác thì tha hồ chém giết đâu.

Quần hùng thấy Thanh Thư hỏi như vậy, không ai trả lời được cả. Vẫn biết lời nói của y là vô lý.

Thanh Thư thấy mọi người im lặng liền nói tiếp:

– Nếu nói Ðồ Long đao phải người đủ đức mới được hưởng thì chúng ta hà tất phải tỷ võ như thế làm chi. Chi bằng tất cả đều đi Sơn Ðông đến miếu của Không Tử mời con cháu của đức thánh Khổng ra nhận thanh bảo đao ấy có hơn không? Ðã nói đến chữ võ lúc so tài chỉ biết đến sống chết thắng bại thôi, như vậy còn để ý sao được đến đối thủ có tội hay không có tội.

Trong nhóm quần hùng, bỗng có một người lên tiếng nói:

– Phải, đao thương vốn không có mắt, chúng ta đã nói qua rồi không được tầm thù báo phục.

Liền Châu cùng Lợi Hanh nghe thấy Thanh Thư nói, tiếng nói rất quen thuộc đã nghi là sư điệt mình rồi, nhưng vì thấy đối phương mặt đầy râu và luôn mồm nói “bổn phái bổn phái” hiển nhiên người đó là nam đệ tử của phái Nga Mi, vì vậy hai người mới nghĩ thêm.

Liên Châu liền đứng dậy hỏi:

– Xin hỏi các hạ quý tính danh là chi?

Thanh Thư vừa trông thấy nhị sư thúc, xưa nay sợ đã quen rồi nên cũng cảm thấy hơi sợ, ngập ngừng hồi lâu mới trả lời được:

– Vô danh hậu bối không dám phiền Dư đại hiệp hỏi han đến.

Liên Châu lại quát hỏi tiếp:

– Các hạ cứ luôn mồm nói tỷ võ so tài, chắc võ học của các hạ thế nào cũng cao hơn người. Gia sư hồi nhỏ đã thụ ơn lớn lao của Quách nữ hiệp của quý phái nên gia sư vẫn thường nghiêm huấn “Ðệ tử của Võ Ðang không được ra tay đấu với đệ tử của phái Nga Mi. Bây giờ tại hạ muốn hỏi rõ các hạ có phải là đệ tử thực của phái Nga Mi không? Tên họ là gì? Ðại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, sao cứ lén lén lút lút như thế?

Chỉ Nhược giơ phất trần lên, khẽ phất một cái và nói:

– Dư nhị hiệp, bổn tọa cũng không cần giấu diếm Dư đại hiệp làm chi? Người này là phu quân của bổn toạ, họ Tống tên Thanh Thư, nguyên là đệ tử của Võ Ðang, bây giờ đã chuyển nhập vào môn phái Nga Mi. Chẳng hay Dư nhị hiệp có việc gì cứ nói thẳng với bổn toạ.

Lời nói của nàng thanh thoát và lạnh lùng, không khác gì băng tuyết va chạm trên măt nước. Lại thêm mặt nàng đẹp như tiên nữ như vậy mấy ngàn hào kiệt im hơi lặng tiếng để lắng tai nghe.

Thanh Thư giơ tay lên vuốt mặt một cái, cả mặt nạ lẫn râu giả liền mất luôn, y liền trở lại một thiếu niên anh tuấn.

Quần hùng thấy vậy liền ngầm khen ngợi:

– Ðôi vợ chồng này thất xứng đôi vừa lứa lắm, cả hai cùng đẹp như thần tiên vậy.

Liên Châu nghĩ đến thất sư đệ Mạc Thanh Cốc bị tên sư điệt phản nghịch này giết hại thì tức giận khôn tả, nhưng xưa nay tính rất bình tĩnh, bây giờ lại lớn tuổi hơn trước, nên càng trầm tĩnh hơn trước, vì thế đại hiệp tuy tức giận mà mặt rất thản nhiên, chỉ hai mắt lóng lánh như hai ngọ đèn đỏ, nhằm mặt Thanh Thư mà chiếu thẳng tới.

Thanh Thư hổ thẹn vô cùng, vội cúi xuống.

Chỉ Nhược liền đỡ lời:

– Ngoại tử đã thoát ly phái Võ Ðang và dã gia nhập phái Nga Mi, ngày hôm nay trước mặt anh hùng thiên hạ xin chính thức tuyên bố để mọi người hay biết. Dư nhị hiệp, Trương chân nhân đã nhớ tình nghĩa xưa kia, cấm đệ tử của Võ Ðang đối địch với bổn phái. Ðó là nghĩa khí của lão tiền bối, nhưng đó cũng là sư thông minh của lão tiền bối vì có làm thế mới bảo tồn oai danh của phái Võ Ðang.

Lợi Hanh không sao nhịn được nhảy ra chỉ mặt Chỉ Nhược mà nói:

– Chu cô nương, hồi cô còn nhỏ gặp nguy nan, nếu không có sư phụ tôi cứu giúp và giới thiệu cô làm môn hạ của phái Nga Mi thì làm sao cô có địa vị ngày nay. Tất nhiên gia sư tri ân không bao giờ mong người ta báo đền, nhưng theo lời của cô nương vừa nói, thì hiển nhiên bảo phái Võ Ðang của chúng tôi chỉ có hư danh, chứ không sao bằng được các nữ hiệp của phái Nga Mi… Cô nương nói vậy không sợ mắc tội với gia sư và hổ thẹn với lương tâm hay sao?

Chỉ Nhược cười nhạt và đáp:

– Các vị hiệp sĩ của phái Võ Ðang oai chấn giang hồ đều có nhân tài thực học cả.

Tống đại hiệp là cha chồng của bổn tọa, khi nào bổn tọa dám nói các vị là chỉ có hư danh thôi. Năm xưa Quách tổ sư của bổn phái có ơn với Trương chân nhân, sau Trương chân nhân lại có ơn với bổn tọa, như vậy có thể nói là huề, chúng ta không ai có ơn tình với ai hết. Dư nhị hiệp và Hân lục hiệp, quý luật của phái Võ Ðang không được đấu với Nga Mi, chúng ta từ nay xin miễn luật lệ ấy đi, chẳng hay hai vị nghĩ sao?

Lúc ấy quần hùng nghe thấy nàng ta nói như vậy đều xôn xao bàn tán và cùng nói thầm rằng:

– Người chưởng môn trẻ tuổi của phái Nga Mi nói có vẻ làm phách lắm, nghe lời nói của nàng hình như nàng có ý bảo phái Nga Mi thế nào cũng hơn phái Võ Ðang. Dư nhị hiệp này võ công đã luyện tới mức thượng thặng, ngày hôm nay những người tới dự hội đây, có lẽ võ công của y là cao nhất và có hy vọng đoạt được Ðồ Long đao nhất chẳng lẽ phái Nga Mi chỉ thị có môn ám khí ác độc kia mà muốn độc bá giang hồ hay sao?

Lợi Hanh trong lòng khích động vô cùng, nghĩ đến cái chết thảm thương của Thanh Cốc liền ứa nước mắt ra và la lớn:

– Thanh Thư… Thanh Thư, mi… tại sao lại giết chết thất sư thúc?

Chàng nói tới câu Thất sư thúc thì đột nhiên khóc oà, quần hùng ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Hân lục hiệp của phái Võ Ðang tiếng tăm lừng lẫy biết bao sao lại khóc lóc trước mặt mọi người như thế?

Liên Châu tiến lên nắm lấy cánh tay Lợi Hanh và lớn tiếng nói tiếp:

– Các vị anh hùng của thiên hạ hãy nghe tôi nói đây, thật không may cho Võ Ðang đã có một để tử phản nghịch là tên Tống Thanh Thư này, thất đệ của tại hạ là Mạc Thanh Cốc đã bị tên…

Ðột nhiên có hai tiếng kêu “soẹt soẹt” hai viên phích lých lôi hỏa đạn dã nhắm ngực Liên Châu bắn tới.

Vô Kỵ la lớn:

– Ối chà !

Chàng định nhảy lại cứu viện, nhưng lôi hỏa đạn đó đi quá nhanh, vừa bắn cái đã tới liền, mà chàng lại không phòng bị, vì không ngờ người của phái Nga Mi lại vô sỉ đến thế, trước mặt chư vị anh hùng đông đảo như vậy, mà đột nhiên tấn công lén lút.

Liên Châu cũng không ngờ, nhưng y nghĩ nếu mình né sang bên thì hai viên lôi hỏa đạn đó thế nào cũng bắn chết đệ tử của Cái Bang. Y là người có lòng nghĩa hiệp xưa nay liền nghĩ thầm:

– Lôi hỏa đạn này là đối phó với mình, mục đích của chúng là giết ta để diệt khẩu, để Thanh Thư khỏi vị ta kể tội phạm thượng, phản phúc ra trước mặt chư anh hùng, nếu ta tránh né thì thế nào cũng có người bị chết oan.

Trong lúc đại hiệp đang suy nghĩ thì hai viên đạn đã trước sau bắn tới, chàng vội giơ song chưởng lên dùng Nhu chưởng của Thái Cực quyền ra hoá giải hết sức mạnh của hai viên đạn đó, rồi nhẹ nhàng dùng gang bàn tay đỡ luôn. Hai viên đạn đó ở trên bàn tay của đại hiệp cứ quay tít hoài.

Quần hùng đều đứng dậy, mấy nghìn con mắt cùng nhìn thẳng vào gang bàn tay của Dư nhị hiệp. Trống ngực người nào cũng đều như ngừng đập hết, chỉ sợ hai viên đó cùng nổ ngay một lúc vậy. Thì ra, nhu kình trong Thái Cực quyền là môn võ công chí nhu của các môn võ công trên thiên hạ cũng như trong quyền khuyết của Thái Cực quyền đã nói “một sợi lông không dính tới được, ruồi muỗi không thể bâu vào được”. Mấy năm gần đây, Liên Châu chăm chỉ khổ luyện đã học được hết chân truyền của Trương Tam Phong, vừa rồi thấy Thiên Chung và Hạ Trụ trước sau bị đạn này bắn chết, và thấy đạn hễ đụng vào vật nào là nổ ngay, nên bất đắc dĩ mới phải mạo hiểm giở tuyệt học bình sinh ra chống đỡ. Quả nhiên nhu có thể chế cương, hai viên lôi hỏa đạn đó bị nhu kình của gang bàn tay Dư nhị hiệp hút chặt lại, không khác gì như bị dính xuống gang bàn tay đó. Nhưng nó vẫn chạy thật nhanh và không nổ, vì nó không va chạm phải vật nào.

Ðang lúc ấy, lại có hai tiếng kêu “soẹt soẹt”, người của phái Nga Mi lại bắn thêm hai viên lôi hỏa đạn tới nữa.

Hồi thứ 96

Quảng Trường Loang Máu

Lợi Hanh đứng cạnh sư huynh thấy hai viên đạn đó bắn tới, liền giơ song chưởng lên đõ lấy hai viên đó, chờ lúc hai viên đạn sắp đụng tới tay, thì chàng giở luôn Thủy Huy Từ Bá Thức khẽ thâu lấy hai viên đạn, chân đứng kiểu Kim Kê Ðộc Lập, chân trái đứng xuống đất, chân phải giơ lên trên cao, quay tít một vòng. Thì ra chàng giỏi về kiếm thuật, còn về môn Thái Cực quyền, chàng không sao tinh thông bằng sư huynh được, nhưng thấy Liên Châu đỡ hai viên đạn có vẻ hơi tốn sức mà chưởng lực chỉ dùng hơi chặt một chút là hai viên nọ va chạm vào nhau nổ liền, vì vậy chàng mới bắt hai viên đạn đó lại mà người cứ quay tít. Sự thật hai viên đạn đó cũng đã quay theo chứ không phải bị chàng bắt chặt. Ðồng thời chàng quay như thế để cho sức bắn của nó giảm bớt đi. Liên Châu dùng gang bàn tay hoá giải sức mạnh của Lôi Hỏa, còn chàng thì dùng chưởng lực lôi kéo hai viên đạn đó chạy quang ở trên không để hoá giải sức mạnh của nó đi. Cứ xem hai người thì đủ thấy Liên Châu cao siêu hơn Lợi Hanh một mức nhưng lối bắt của Lợi Hanh trông lại đẹp mắt hơn. Chỉ trong thoáng cái chàng đã quay được hơn mười vòng. Tất cả mọi người có mặt tại đó thấy vậy đều vỗ tay khen ngợi.

Lúc ấy sức mạnh của lôi hỏa đạn đã suy giảm, thì lại có tiếng kêu “soẹt soẹt” và có tám viên lôi hỏa đạn khác bắn tới.

Liên Châu và Lợi Hanh đồng thanh quát lớn, ném luôn lôi hỏa đạn trong tay ra.

Xưa nay đệ tử của phái Võ Ðang không hay dùng ám khí, nhưng vẫn có luyện tập cách ném ám khí và bắt ám khí của kẻ địch ném trở lại, như vậy có thể ném được hai, hay một ném được ba nên tay của hai người chỉ có bốn viên lôi hỏa đạnh mà ném trở lại vào tám viên của đối phương vừa bắn tới.

Trên quảng trường liền có tiếng kêu “lốp bốp… ” làm vang tai mọi người và khói đen bay nghi ngút, mùi diêm sinh theo gió đưa tới mũi mọi người.

Sư huynh đệ Liên Châu ném xong mấy viên lôi hỏa đạn đó rồi, liền nhảy ra ngoài xa hơn mười trượng, đề phòng phái Nga Mi còn bắn tiếp.

Quần hùng thấy Lôi hỏa đạn lợi hại như vậy, đều kinh hãi nghĩ thầm:

– Trên đời này có lẽ ngoại trừ hai cao thủ của phái Võ Ðang ra thì ít người có thể đỡ và bắt nổi lôi hỏa đạn này, tuy người đó khinh công có giỏi đến đâu, nhưng nếu đối phương bắn luôn mấy phát một lúc, viên nọ va đụng và viên kia nổ tung ra, lúc ấy người có thân pháp rất nhanh cũng không sao tránh nổi.

Chỉ thấy một người rất cao của phái Hoa Sơn đứng ra và lớn tiếng nói:

– Có phải Nga Mi so tài với người ta chỉ ỷ nhiều thắng ít đấy không?

Người này chính là một trong nhị lão của phái Hoa Sơn, năm xưa y lên trên Quang Minh đỉnh đã liên tay cùng vợ chồng Thái Xung đấu với Vô Kỵ.

Tỉnh Ca ni cô của phái Nga Mi liền đáp:

– Võ công thiên biến vạn hoá, người khoẻ sẽ thắng, người yếu sẽ bại, chúng ta có phải là người đọc sách hủ nho đâu mà việc gì cũng phải nói đến đạo lý và lề luật? Thiên hạ làm gì có lắm đạo lý và lề luật như thế?

Quần hùng thấy người của phái Nga Mi tuy đa số là phụ nữ nhưng bướng bỉnh hơn cả đàn ông. Ông già cao của phái Hoa Sơn đang đấu lý với chàng mà cũng không dám lại gần, vì sợ chúng dùng lôi hỏa đạn bắn lén mình.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Chỉ Nhược lấy Tống Sư ca không phải là tình nguyện, thiết nghĩ năm xưa cùng ta lưu lạc nơi hải ngoại, hai người cùng ở trên cô đảo, tương thân tương ái biết bao, đã thề thốt sẽ không phụ nhau, thật là tự ta không nên không phải với nàng trước. Nàng là thiên kim tiểu thư mà ta làm nhục nàng trước mắt mọi người như thế làm gì nàng chả tức giận? Ngày nay những hành vi đảo ngược của phái Nga Mi có lẽ là do ta mà ra cả.

Nghĩ tới đó chàng càng bứt rứt, vội bước ra đi tới trước phái Nga Mi nói với Chỉ Nhược rằng:

– Chỉ Nhược, tất cả mọi việc đều do tôi không nên không phải với chị, mong chị đừng làm thế nữa, Tống sư ca giết chết Mạc thất thúc, việc này cần giải quết cho xong. Theo ý tôi, thì Tống sư ca nên theo nhị sư bá với lục sư thúc về núi Võ Ðang để xin lỗi Tống sư bá.

Chỉ Nhược cười nhạt đáp:

– Trương giáo chủ, trước kia tôi còn tưởng giáo chủ làm một anh hùng hảo hán, chỉ hành sự hồ đồ thôi, có ngờ đâu giáo chủ lại là một tiểu nhân ti tiện, đại trượng phu đã dám làm thì phải dám chịu, giáo chủ đã giết chết Mạc thất hiệp, tại sao lại đổ cho ngoại tử của bổn tọa thế?

Vô Kỵ giật mình kinh hãi và hỏi lại:

– Cô nương, cô nương bảo tôi giết chết Mạc thất sư thúc ư, làm gì có chuyện như thế ?

Chỉ Nhược nói tiếp:

– Tại sao, lệnh tôn với lệnh đường tự tử chết như vậy cũng chỉ vì làm những việc không nên không phải với người, chứ có phải là tại ai đâu. Tam sư bá của giáo chủ một đời anh hùng như thế, chả phải vì bị tay lệnh đường giết hại mà bị tàn phế cả đời là gì? Lệnh tôn là đệ tử của một danh môn chính phái như thế, nếu không thấy nữ tặc nổi lòng tà vả cẩu hợp thành hôn với yêu nữ của Bạch Mi giáo thì đâu đến nỗi. Trương giáo chủ tuổi trẻ như thế mà đã học được hết đức hạnh của lệnh tôn, lệnh đường, thật là giỏi vậy thay.

Vô Kỵ nghe nói mặt đỏ bừng tức đến chân tay run lẩy bẩy, nếu Chỉ Nhược chửi mắng bổn thân chàng không thôi thì chàng còn nghĩ đến nghĩa xưa, còn tha thứ cho nàng được, nhưng bây giờ nàng nhục mạ đến cha mẹ chàng, chàng khong thế nào nhịn được, đang định nổi khùng thì lại nghĩ lại:

– Chỉ Nhược biết ta lắm, đoán chắc là chỉ nhục mạ đến cha mẹ ta thì mới làm cho ta nổi giận được thôi. Hà, ngàn lỗi vạn lỗi đều do ta bỏ nàng đi trong lúc đang cử hành hôn lễ với nàng mà nên hết.

Nghĩ tới đó, chàng nghiến răng mím môi quay trở lại lều trúc của Minh giáo.

Chàng mới đi được mấy bước, bỗng nghe thấy trong phái Nga Mi có người lên tiếng nói:

– Không ngờ Trương giáo chủ của Minh giáo lại là một tiểu nhân đê tiện hèn nhát đến thế, thấy lôi hỏa đạn của chúng ta lợi hại như vậy đã cúp đuôi đào tẩu ngay.

Vô Kỵ liền quay người, thấy người đó là nữ ni Thạch Ca cụt một tay, chàng liền nghĩ thầm:

– Nàng không may bị cụt tay cũng do ta mà nên, ta không nên chấp trách nàng làm chi.

Chàng lại nghe thấy phía sau có tiếng cười chế riễu và nhạo báng càng to lên, nhưng chàng không thèm đếm xỉa đến cứ lẳng lặng trở về lều trúc của Minh giáo.

Dương Tiêu cười nhạt nói:

– Phích lých lôi hỏa đạn chỉ là trò chơi trẻ con có nghĩa lý gì đâu, không làm gì nổi nhị hiệp của phái Võ Ðang, tất cũng không làm gì nổi Trương giáo chủ, người đích truyền của phái Võ Ðang. Phái Nga Mi các người định ỷ nhiều thắng ít bây giờ chúng ta để cho các ngươi kiến thức ỷ nhiều thắng ít như thế nào.

Nói xong, y giơ tay trái lên phất một cái, một thằng nhỏ áo trắng hai tay bưng một giá cờ nho nhỏ và trên có cắm mấy chục lá cờ ngũ sắc nhỏ.

Y liền cầm một lá cờ trắng lên phất một cái, ném vào giữa quảng trường và cắm ngay xuống mặt đất.

Quần hùng thấy lá cờ trắng đó cao không đầy hai thước, giữa có vẽ một bông lửa đỏ, không hiểu y định làm trò trống gì.

Ðúng lúc ấy, sau lưng y có một người bắn một mũi hỏa tiễn màu trắng lên cao, chỉ nghe thấy tiếng chân nhộn nhịp một đội giáo chúng Minh giáo đầu đội khăn trắng chạy vào. Bọn người đó có tất cả năm trăm, người nào người nấy đều cầm cung tên và chỉ thấy họ giương cung lên bắn “soẹt, soẹt, soẹt”.

Năm trăm mũi tên đều bắn xuống đất xung quanh lá cờ trắng nọ.

Thì ra đội người đó do Ngô Kình Thảo thống lãnh Nhuệ Kim Kỳ của Minh giáo.

Quần hùng chưa kịp khen ngợi, giáo chúng của Nhuệ Kim Kỳ đã rút cây thương cắm ở phía sau lưng ra ném luôn vào giữa quảng trường.

Năm trăm cây thương đều cắm vào giữa vòng tên.

Mọi người liền tiến lên ba bước và rút cây búa ngắn đeo ở ngang lưng ra.

Quần hùng chỉ thấy những chiếc búa đó bóng nhoáng làm loé mắt mọi người.

Năm trăm chiếc búa cùng chém cả vào mặt đất, xếp thành một vòng tròn, thế là ba cái vòng tròn của búa thương và tên vây chặt lấy lá cờ trắng.

Dù người có võ công thông thiên đi chăng nữa, khi đối địch với đội người Nhuệ Kim Kỳ này, thì chịu làm sao nổi một nghìn năm trăm món ám khí đó. Có lẽ chỉ trong chớp nhoáng sẽ bị bấy nhiêu môn ám khí đâm chém, bầm thành một đống thịt vụn chứ không sai. Thì ra năm xưa Nhuệ Kim Kỳ ác chiến với phái Nga Mi ở Tây Vực tổn thất rất nhiều, cả trưởng Kỳ Sứ Trang Tranh cũng bị chết dưới ỷ Thiên Kiếm của Diệt Tuyệt sư thái. Vì có bài học đó mà Minh giáo mới phải nghĩ một trận thế lợi hại như vậy. Mấy năm gần đây thanh thế của Minh giáo rất thịnh. Giáo chủ của Ngũ Hành Kỳ được bổ túc luôn, hiện giờ giáo chúng của Nhuệ Kim Kỳ có chừng bốn ngàn người. Năm trăm người vừa ra biểu diễn đều lựa chọn mười lấy một, võ công đã có căn bản, lại được thêm danh sư chỉ dạy và huấn luyện hơn hai năm , hiển nhiên trở thành một đội quân có thể đơn độc tác chiến và mạnh khôn tả.

Quần hùng nhìn nhau đều kinh hãi, mặt thất sắc và nghĩ thầm:

– Cái cờ lệnh nho nhỏ của Dương tả sứ ném tới đâu, thì một ngàn năm trăm món khí giới tấn công nơi đó liền. Như vậy thì Phích lých lôi hỏa đạn của phái Nga Mi dù có lợi hại cũng chỉ đả thương và giết người có hạn thôi, dù họ bắn ra mười viên nổ cả mười thì cũng chỉ giết được mười người thôi, chứ so sánh làm sao được với Nhuệ Kim Kỳ của Minh giáo.

Mọi người đều nghĩ:

– Nếu bây giờ Minh giáo trở mặt, vây chúng ta lại tiêu diệt thì chúng ta làm sao đây? Người của các môn phái ai ai cũng võ nghệ cao cường, nhưng đều ô hợp, làm sao bằng được giáo chúng tinh nhuệ của Minh giáo đã luyện tập lâu năm và lại tổ chức rất hoàn bị.

Vì vậy ai nấy đều nơm nớp hoảng sợ, quên cả khen ngợi tài ba của Nhuệ Kim Kỳ.

Dương Tiêu lại quát tiếp:

– Nhuệ Kim Kỳ rút lui, Cự Mộc Kỳ tiến lên.

Năm trăm tên giáo chúng của Nhuệ Kim Kỳ liền rút tên búa thương lên và đi tới trước lều trúc của Minh giáo cúi đầu chào Trương Vô Kỵ, rồi lại quay mình đi ra khỏi quảng trường.

Dương Tiêu rút một lá cờ xanh ra ném luôn vào chỗ cạnh lá cờ trắng hồi nãy.

Bên cạnh quảng trường đều có tiếng gỗ lớn va chạm nhau kêu. Bình Bình.

Năm trăm tên giáo chúng của Cự Mộc Kỳ đầu cột khăn xanh bước vào.

Cứ mười người khiêng một khúc gỗ lớn vừa đi vừa va đụng vào nhau, nhanh chân bước chạy vào, những khúc gỗ đó đều có móc sắt mỗi khúc nặng hàng ngàn cân.

Mỗi người cầm một móc, móc vào móc sắt ở thân cây, bước đi rất chỉnh tề.

Ðột nhiên có một tiếng quát rất lớn, năm mươi khúc gỗ đều ném ra khỏi tay, có khúc cao, khúc thấp, khúc trái, khúc phải nhưng mỗi khúc bay ra đằng trước thế nào cũng có một cây gỗ khác va đụng trúng, năm mươi khúc gỗ chia làm hai nhăm đôi mà không có một khúc nào va chạm hụt hết.

Chỉ nghe thấy tiếng kêu “bùng bùng” hoài, năm mươi khúc gỗ chia làm hai nhăm đôi va chạm nhau, khúc nào cũng nặng trên ngàn cân, nên lúc động chạm, tiếng động phát ra kinh người.

Nếu có người đứng gần lá cờ xanh, bất cứ nhảy cao hay thấp, nhảy sang trái né sang phải, cũng không sao tránh khỏi năm mươi khúc gỗ đó, con người cứng rắn là bao, mà bị những khúc ấy va phải thì còn gì là xương thịt.

Năm trăm bang chúng của Cự Mộc Kỳ chờ những khúc gỗ đó đụng vào nhau rớt xuống, rồi mới chạy ra tranh nhau cướp cái móc ở khúc gỗ rồi quay mình chạy luôn ra ngoài cách nhau hơn mười trượng, chúng chỉ đợi chờ người ra lệnh ném cờ xuống đất là chũng lại khiêng gỗ vào.

Dương Tiêu lại quát lớn:

– Cự Mộc Kỳ rút lui cho Mộc Sinh Hỏa.

Nói xong, y giơ tay phải lên phất một cái, một lá cờ nhỏ rớt ngay vào giữa quảng trường liền. Mọi người liền thấy bang chúng của Minh giáo đầu cột khăn xanh rút lui liền.

Năm trăm tên bang chúng khác, đầu cột khăn đỏ của Liệt Hỏa Kỳ chạy vào.

Người nào người nấy tay đều cầm một ống đồng, chỉ thấy họ cùng phun ra một lúc, giữa quảng trường dầu mỡ lênh láng. Chưởng kỳ sứ của Liệt Hỏa Kỳ phẩy tay một cái liền ném một trái lưu hoàng hỏa đạn ra tức thì dầu gặp lửa, bốc cháy rừng rực.

Nên rõ nơi gần Quang Minh đỉnh tổng đàn của Minh giáo có rất nhiều mỏ dầu đá, dầu đá tức là dầu nguyên chất dùng để chế ra dầu hôi và ét xăng, dầu ấy gặp lửa là cháy liền, bang chúng của Liệt Hỏa Kỳ mỗi người vác một cái thùng sắt trên lưng, trong đựng đầu dầu đá, bất cứ đốt nhà hay đốt người, đối phương không sao chống đỡ nổi.

Dương Tiêu lại nói tiếp:

– Liệt Hỏa Kỳ rút lui, Hồng Thủy Kỳ dương oai.

Cờ đen vừa bay xuống, quảng trường đã có năm trăm tên giáo chúng của Hồng Thủy Kỳ đầu cột khăn đen lần lượt chạy vào trong quảng trường.

Những đồ vật của Hồng Thủy Kỳ mang theo khác hẳn giáo chúng của các kỳ khác; chúng mang theo tất cả hai mươi vòi rồng và lại đem theo ống đồng cùng thùng nước… mười người đi trước đẩy mười chiếc xe gỗ.

Chưởng kỳ sứ Ðường Dương, ra lệnh một cái, mười chiếc xe gỗ liền mở cửa, hơn hai mươi con chó sói đói phóng ra. Con nào con nấy đều dương nanh múa vuốt ở quảng trường, chỉ muốn cắn và cấu xé người thôi.

Quần hùng thấy vậy, ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Những con chó sói này liên quan gì đến hai chữ Hồng Thủy.

Mọi người đang nghĩ đến đó, đã nghe thấy Ðường Dương quát lớn:

– Phun nước.

Một trăm tên giáo chúng tay cầm ống thổi bằng sứ, liền phun nước ra, như một trăm mũi tên nước, nhằm người những con chó sói đó mà bắn tới.

Lạ thực, hai mươi con chó sói hung ác như thế, bị nước bắn phải, liền té ngã ngay. Rồi con nào con nấy cứ kêu rú luôn mồm, như là người ta kêu la khóc lóc vậy.

Chỉ trong chốc lát, da thịt của chúng rã hết, biến thành một đống đen như than. Thì ra những nước của Hồng Thủy Kỳ phun ra đó là một thứ thuốc như a xít, lấy ở chất lưu huỳnh với phát tiêu.

Quần hùng thấy vậy kinh hoảng mất hết cả hồn vía, toát mồ hôi lạnh ra và nghĩ tiếp:

– Những nước độc này mà bắn vào mình mảy người ta, chắc lại còn chóng rã hơn đàn chó sói này.

Lại thấy giáo chúng của Hồng Thủy Kỳ xách hai mươi đầu vòi rồng giả bộ như nhắm lũ chó sói phun tới, vòi rồng ấy cũng chứa đầy nước độc, nếu dùng để xịt nước thì có thể bắn được rất xa.

Dương Tiêu quát lớn:

– Hồng Thủy Kỳ rút lui, Hậu Thủy Kỳ tiến lên quét dọn tàn cục.

Một mặt y ném lá cờ nhỏ ra, không ngờ cán cờ này lại có thuốc nổ, chỉ nghe thấy kêu bộp một tiếng, nổ tung toé liền.

Cờ đó vừa nổ xong, đã thấy giáo chúng đầu cột khăn vàng chạy vào, người nào người nấy đều có vác một cái túi vải, số người ít hơn Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn kỳ nhiều.

Họ có tất cả một trăm người thôi, nhưng một trăm người đứng vây thành một cái vòng tròn, rồi đột nhiên có tiếng nổ đến ùm, cát bụi bay tứ tung.

Giữa quảng trường liền xụp xuống, lộ ra một cái hố bề ngang dài hơn bốn trượng.

Tiếp theo đó những đất cát ở chung quanh cái hố to ấy, lần lượt nhảy lên và cử động. Tiếp theo đó có những người đầu đội mũ sắt, tay cầm thuổng hiện ra, bốn trăm người cùng ở dưới đất chui lên một lúc.

Quần hùng thấy vậy thất thanh kêu “ủa” một tiếng thật lớn.

Thì ra bốn trăm giáo chúng ở đằng xa đào một con đường hầm, đi thẳng tới quảng trường, chỉ chờ có lệnh là chúng phá đất chui ra.

Cái hố kia ở dưới đất đã đào rỗng, dùng ván và cây gỗ chống đỡ. Khi nghe thấy hiệu lệnh, chúng chỉ rút những cây ra là đất sụp xuống ngay.

Thế là sài lang chết, nước độc, dầu đá và những thứ của bốn kỳ kia để lại đều lún cả xuống đất hết. Một trăm tên giáo chúng cầm xuổng khẽ gõ vào cái hố đó ba cái.

Quần hùng thấy vậy, liền hiểu ra là nếu có ai rớt xuống hố định nhảy lên thì thế nào cũng bị người dùng xuổng đánh vào liền.

Tiếp theo mỗi người lại có một đống sắt vụn, đá… ném vào trong hố nữa, chỉ trong chốc lát cái hố lớn với mấy trăm hố nhỏ đều bằng phẳng ngay. Bốn trăm chiếc xuổng sắt lên lên xuống xuống trông rất đẹp mắt.

Chưởng kỳ sứ ra lệnh một tiếng, năm trăm giáo chúng đều tiến tới trước mặt Vô Kỵ vái chào.

Quần hùng lúc này mới hiểu và nghĩ tiếp:

– Nếu ta đứng ở giữa quảng trường lên tiếng nhục mạ Minh giáo, có lẽ lúc này đã bị chôn vùi ở dưới đất rồi.

Ngũ hành kỳ của Minh giáo biểu diễn xong, các khán giả tức quần hùng thấy vậy đều kinh hãi không còn hồn vía nữa. Lúc này mọi người mới biết mấy năm gần đây Minh giáo ở mấy tỉnh nổi loạn, cướp thành trì, đánh bại quân Nguyên, là vì họ được học hỏi binh pháp và chiến trận, chứ không phải như các môn phái giang hồ khác mà có thể so sánh được.

Dương Tiêu thâu binh xong, liền đưa cái giá gỗ cắm cờ nhỏ cho tiểu đồng đứng phía sau, rồi lạnh lùng liếc nhìn Chỉ Nhược một cái, không nói nửa lời.

Nhưng ai cũng biết ý nghĩa cái nhìn của vị Quang Minh tả sứ đó như sau:

– Ngươi muốn ỷ nhiều thắng ít, với hơn trăm nam nữ đệ tử của Nga Mi, liệu có chống nổi mấy ngàn bang chúng của Minh giáo chúng ta không?

Quần hùng mỗi người đều có một ý kiến riêng.

Lúc bầy giờ bốn bên yên lặng như tờ, không ai dám hé môi.

Một lát sau, một lão hòa thượng của Ðạt Ma Ðường ở phía sau Không Trí lớn tiếng nói:

– Vừa rồi Minh giáo thao diễn trận pháp hành quân, trông thì đẹp thực, nhưng không biết có thực dụng đánh được kẻ địch hay không, chúng ta không phải là nguyên soái tướng quân, và cũng chưa học qua Tôn Ngô binh pháp, nên không biết được cái hay dở nhưng có lẽ chưa chắc đã bằng được…

Mọi người biết lão hòa thượng nói những lời đó là trái lương tâm, chỉ cốt làm mất sĩ diện của Minh giáo thôi.

Chu Ðiên nghe thấy hòa thượng đã nói xong, liền lên tiếng:

– Những trò chơi đó có thực dụng hay không, quý vị muốn biết thì chỉ cần mời các hòa thượng của phái Thiếu Lâm ra xem, sẽ thấy ngay cái hay cái dở liền.

Lão hòa thượng nọ không đếm xỉa gì tới, vấn cứ tiếp tục nói:

– Ngày hôm nay là ngày đại hội các anh hùng trên thiên hạ, người của các môn phải chỉ muốn nghiên cứu võ nghệ của nhau thôi chứ có phải đến đây biểu diễn những trò kia đâu. Vậy cứ theo lời nói của mấy vị thí chủ hồi nãy chúng ta chỉ cần so tài cao thấp, ai võ nghệ cao thì thắng, mà chúng ta chỉ nói một chọi một chớ có nói nhiều thắng ít đâu. Vả lại trong võ lâm cũng không có luật lệ đấy.

Âu Dương Mục Chi cũng lên tiếng nói:

– Ỷ nhiều thắng ít quả nhiên trong võ lâm không có luật lệ đó nhưng những trog như phích lých lôi hỏa đạn, lửa độc, nước độc cũng cấm không xử dụng.

Lão hòa thượng ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Khi ra tỉ võ, người ta dùng ám khí, đại hội không thể cấm đoán được, nếu có những người bàng môn tả đạo cứ thích tẩm thuốc độc trên ám khí, cũng tùy ý không ai cấm chi hết. Nhưng nếu người khác đứng cạnh đánh lén thì đó là vi phạm qui luật của địa hội tất cả mọi người đều có quyền tấn công người đó. Chẳng hay quý vị nghĩ sao?

Già nửa số quần hùng đều vỗ tay tán thành và cũng bảo nên làm như thế.

Ðường Văn Lượng của phái Không Ðộng nói:

– Tại hạ còn có một lời nói nữa là bất cứ ai, khi thắng hai trận rồi thì được quyền ra ngoài nghỉ ngơi để lấy lại nguyên nội lực, bằng không đấu hết người này đến người khác thì dù người đó có tài ba thông thiên cũng không thể thắng từ đầu đến cuối được. Hơn nữa, bất cứ bang phái hay hội nào đã có hai người bại trận thì không được phái người ra đấu nữa. Bằng không chúng ta mấy ngàn anh hùng đây, mỗi người đều ra tay đấu một trận thì có lẽ đến ba tháng cũng không xong, lương thực của chùa Thiếu Lâm có phong phú đến đâu cũng không sao cung cấp đủ cho mọi người.

Tất cả mọi người đều cười ồ và cho rằng luật lệ đó rất có lý.

Nên rõ Ðường Văn Lượng vì muốn cám ơn Vô Kỵ năm xưa ở trên Quang Minh đỉnh nên mới đặt ra hai điều lệ đó là muốn giúp chàng đỡ tốn hơi sức để chiến thắng quần hùng.

Bành Doanh Ngọc vừa cười vừa xen lời nói:

– Ðường Tam quả là người biết đại thể. Xem như vậy ngày hôm nay phái Không Ðộng thế nào cũng giúp chúng ta rồi. Chúng ta ngoài giáo chủ ra, chẳng hay để vị nào xuất trận?

Các cao thủ của Minh giáo ai cũng muốn thử thách, nhưng đều biết việc này gánh vác rất lớn, cần dở hết toàn lực mới ra được.

Hơn nữa, tình nguyện xin dự đấu ngoại trừ Giáo chủ là người có võ công mạnh nhất ra, không ai dám xin như thế cả.

Vì xin như thế không những làm mất lòng anh em của bổn giáo mà còn chạm đến nghĩa khí võ lâm nữa.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn từng người một và nghĩ thầm:

– Dương Tả Sứ, Vy Bức Vương, sư phụ Nói Không Ðược, Thiết Quan đạo trưởng, mỗi người có một tài ba riêng, nhưng không thể ra đấu được trong đó chỉ có Phạm Hữu Sứ là có võ công uyên bác hơn cả, bất cứ đối thủ là người môn phái nào, cũng có cách thủ thắng. Vậy chỉ có thể mời Phạm Hữu Sứ ra đấu là hơn hêt.

Nghĩ đoạn chàng liền nói:

– Tất cả anh em của bổn môn, ai ra dự cũng vậy thôi, nhưng Dương tả sứ đã có theo tôi đánh trận Kim Cương Phục Ma Khuyên rồi. Vy Bức Vương với sư phụ túi vải đã bắt sống Hạ Trụ ba người đều ra tay ra sức hết. Lần này bổn tọa xin mời Phạm Hữu Sứ ra dự cuộc đấu.

Phạm Dao nghe nói cả mừng, liền cúi chào và đáp:

– Xin tuân lệnh, đa tạ giáo chủ đã coi trọng tôi.

Quần hào của Minh giáo ai cũng biết Phạm Dao là người có võ công rất lợi hại, nên không ai phản đối cả.

Riêng có Triệu Minh lên tiếng nói:

– Phạm đại sư, tôi yêu cầu đại sư một việc, không hiểu đại sư có nhận lời cho không?

Phạm Dao đáp:

– Quận chúa cứ việc sai bảo, tiểu nhân xin chờ lệnh.

Quần hào nghe nói đều đưa mắt nhìn Triệu Minh, không biết nàng định yêu cầu Phạm Dao điều chi.

Triệu Minh nói:

– Không Trí đại sư của phái Thiếu Lâm vẫn thù hằn đại sư. Nếu đại sư vừa ra tay đã đấu với y ngay, thì chưa chắc ai thắng, ai bại và dù đại sư có thắng đi chăng nữa, cũng bị mỏi mệt vô cùng.

Phạm Dao gật đầu, biết Không Trí thần tăng nổi danh mấy chục năm nay, tuy trông mặt y ủ rũ như người sắp chết, nhưng sự thật thì nội ngoại công của y điêu luyện tới mức thượng thặng.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Ðại sư phải hẹn với y một cuộc đấu khác và sẽ đấu ở chùa Vạn Pháp, một đấu một mà thôi.

Quý vị nên rõ, nếu Không Trí nhận lời Phạm Dao rồi, thì ngày hôm nay y không thể ra đấu với Phạm Dao.

Kế của Triệu Minh rất khôn khéo vì làm như vậy là để cho Minh giáo bớt đi một cường địch lợi hại.

Lúc ấy trong lều trúc, quần hùng các môn phái đang thì thầm bàn tán với nhau để bầu người ra dự đấu.

Tại nhiều nơi đã có mấy người lớn tiếng cãi vã với nhau.

Hiển nhiên là họ không đồng ý kiến với người được đề cử.

Phạm Dao liền đi tới trước lều trúc của phái Thiếu Lâm tức là lều chủ, nói với Không Trí hẹn sang năm đến chùa Vạn Pháp đấu với nhau một phen.

Phạm Dao vừa nhắc tới ba chữ chùa Vạn Pháp, Không Trí đã cho là đại nhục, liền cau mặt lại hỏi:

– Ðể làm gì?

Phạm Dao đáp:

– Hai chúng ta kết thù oán tại đó thì phải tới nơi đó để kết liễu. Không Trí đại sư là người đức cao vọng trọng, tại hạ cũng có đôi chút hư danh, ngày hôm nay chúng ta so tài với nhau, nếu đại sư thắng tôi thì người trên giang hồ sẽ bảo đại sư cậy mình là địa chủ hà hiếp khách. Nếu tại hạ may mà thắng được một thức hoặc nửa thế thì kẻ không biết sẽ thêm dầu vào mỡ, chưa biết chừng họ lại bảo Khổ Ðầu Ðà lên chùa Thiếu Lâm đánh bại đệ nhất cao thủ của chùa. Nếu đại sư không sợ thấy lại cảnh cũ thì đến đêm trung thu năm nay tại hạ sẽ đợi chờ đại sư ở chuà Vạn Pháp để lãnh giáo vài thế võ cao siêu của đại sư.

Không Trí cũng hơi kiêng nể võ công của Phạm Dao, lại thêm trong chùa đang có đại biến, lúc này y còn đang suy nghĩ làm cách nào cứu phương trượng sư huynh thoát nạn và cứu vãn được tai kiếp cho bổn chùa, nên đã không có lòng đấu với Phạm Dao rồi. Hơn nữa bị đối phương nói khích, nên y gật đầu nhận lời ngay và đáp:

– Ðược, đến đêm trung thu năm nay chúng ta sẽ gặp nhau ở chùa Vạn Pháp.

Phạm Dao chắp tay vái chào một cái rồi rút lui ngay.

Y mới đi được bảy tám bước thì Không Trí đã lên tiếng hỏi:

– Có phải ngày hôm nay thí chủ nhất tâm ra tay cứu Kim Mao Sư Vương thoát nạn nên khong dám ra tay đấu với bần tăng phải không?

Phạm Dao là người trực tính không bao giờ giấu diếm sự thật, nên quay đầu lại ha hả cười nói tiếp:

– Tại hạ không chắc thắng nổi đại sư có thể thôi.

Không Trí mỉm cười nói tiếp:

– Lão tăng cũng dám chắc không thắng nổi thí chủ đâu. Người ta đã luyện tới mức thượng thặng thì bao giờ anh hùng cũng trọng anh hùng.

Trên quảng trường tiếng người yên lặng dần.

Lão hòa thượng của Ðạt Ma Ðường lên tiếng nói:

– Chúng ta theo qui luật của các vị anh hùng quyết định, hãy bắt đầu tỷ võ đi. Ðao thương, chân tay không có mắt, ai chết là do số mệnh hết, không được kêu than oán thán gì cả. Bang hội nào có võ cao cường nhất sẽ được lãnh Tạ Tốn và đao Ðồ Long ngay.

Vô Kỵ hơi cau mày lại nghĩ thầm:

– Hòa thượng này chỉ sợ người ta không nương tay đánh thực nặng và đồng thời lại ngại các phái không kết thù, kết oán với nhau, y làm gì có lòng từ bị như Không Kiến, Không Văn mấy vị thần tăng ấy.

Mọi người quyết định là người nào ra dự cuộc, sau khi thắng hai trận sẽ được nghỉ ngơi, và như vậy là đấu trước hay đấu sau cũng không phân biệt gì mấy.

Lúc ấy đã có người ra thách đấu và cũng có người thứ hai ra đấu liền.

Chỉ trong thoáng cái ở trong đấu trường đã có ba cặp đấu với nhau.

Triệu Minh tuy căn bản võ công còn non nớt, nhưng kiến thức rất rộng.

Nàng đứng giữa Phạm Dao và Vô Kỵ nghị luận bàn tán về võ công của sáu người kia. Ðồng thời lại dự đoán xem ai thắng ai bại không ngờ lời bàn của nàng rất đúng.

Một lát sau, ba đôi đã có hai ba phần thắng bại rồi, chỉ còn một đôi đang tiếp tục.

Tiếp theo đó có hai người khác ra đấu với hai kẻ thắng kia.

Thế là trên quảng trường vẫn có ba đôi như trước.

Những người mới vào đều dùng khí giới, như vậy hai đôi đó thế nào cũng đổ máu mới phân thắng bại.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Ðấu như vậy các môn, các phái của võ lâm thế nào cũng gây thù hằn với nhau. Bất cứ phái nào bị đối phương đánh bại, nếu không bị chết cũng bị thương nặng. Sau này rồi cứ báo thù nhau liên tiếp, và như vậy có thể biến thành một tai hoạ tàn sát lẫn nhau rất lớn không?

Chàng lại thấy một đạo sĩ trung niên của phái Côn Luân dùng kiếm đâm một đại hán của Cự Kình Bang bị thương, liền lên tiếng mắng chửi:

– Tên ăn mày hôi thúi bẩn thỉu kia…

Y vừa mắng chửi, vừa tung mình nhảy ra định khiêu chiến với Chấp Pháp Trưởng lão của Cái Bang.

Ông già lùn liền nắm lấy cánh tay y khẽ nói:

– Sư đệ địch không lại y đâu, hãy tạm chịu nhục đi.

Ông già cao tức giận đáp:

– Ðịch không được cũng phải đấu một phen.

Mồm y tuy nói vậy nhưng y lại rất nghe lời sư huynh và biết võ công của sư huynh cao siêu hơn mình nhiều thế mà còn thua huống hồ gì mình, nên mồm y vẫn chửi mà chân thì theo người sư huynh lùn trở về chỗ ngồi tức thì.

Tiếp theo đó Chấp Pháp Trưởng lão thắng người trưởng môn của Mai Hoa Ðạo.

Thấy người của bang mình thắng liền hai trận bang chúng của Cái Bang vỗ tay như sấm động, đắc chí khôn tả.

Chấp Pháp trưởng lão nghêng ngang đi về chỗ ngồi.

– Thế rồi người này đến người nọ, các cuộc tỷ đấu đã diễn ra hơn hai tiếng đồng hồ. Mặt trời đã lặn xuống phía Tây, người ra khiên chiến võ nghệ càng ngày càng cao cường.

Ðến giờ Thân, Trưởng Bát Long Ðầu của Cái Bang ra trận khiêu chiến.

Và người đấu với y là Bành Tứ Nương của Tây Ba giáo, nhưng chỉ đánh được vài hiệp là Bành Tứ Nương hổ thẹn vô cùng, liền rút lui ngay.

Trưởng Bát Long Ðầu nhìn sang phái Nga Mi cười nhạt và nói:

– Các phái nữ có bản lãnh chân thật gì đâu, không phải nhờ ở đao kiếm sắc bén thì là nhờ ở ám khí kỳ quái, cũng như Bành Tứ Nương vừa rồi, đàn bàn luyện được võ công cao siêu đến thế tưởng không phải là chuyện dễ.

Chỉ Nhược khẽ dặn Thanh Thư vài lời, Thanh Thư gật đầu, rồi bước ra chắp tay vái chào Trưởng Bát Long Ðầu và nói:

– Long đầu đại ca, đệ xin lãnh giáo mấy thế võ của đại ca nào.

Trưởng Bát Long Ðầu vừa trông thấy Thanh Thư, mặt đã biến sắc lớn tiếng đáp:

– Họ Tống kia, mi thừa lệnh của gian tặc Trần Hữu Lượng trà trộn vào Cái Bang chúng ta, việc giết chết Sử Bang chủ, có lẽ mi cũng dự phần, ngày hôm nay không ngờ mi còn dầy mày dạn mặt ra gặp ta nữa sao?

Thanh Thư cười nhạt đáp:

– Trên giang hồ trà trộn vào ổ địch, do thám bí mật, đó là việc thường. Chỉ trách bọn ăn mày sao mù quáng mới không nhận ra được bổn diện của Tống đại gia này đấy chứ.

Trưởng Bát Long Ðầu lớn tiếng mắng tiếp:

– Mi dám phản cả cha đẻ và phái Võ Ðang thì việc gì mi lại chẳng dám làm? Mi đối với cha bất hiếu, sau này đối với vợ cũng bất nghĩa, thế nào phái Nga Mi cũng đại bại vì mi.

Thanh Thư tức giận đến mặt tái mét, và trả lời:

– Câm mồm đi, không được lếu láo như thế.

Trưởng Bát Long Ðầu không nói năng gì nữa, liền xông đến tấn công một chưởng. Thanh Thư vội né mình tránh sang trái, tay khẽ phất một cái dở Kim Ðỉnh Miên Chưởng của phái Nga Mi chống đỡ.

Trưởng Bát Long Ðầu tức hận y đã trà trộn vào Cái Bang lừa dối mọi người, nên thế võ nào của y cũng độc ác khôn tả.

Trận đấu này của hai người kịch liệt hơn các trận đấu khác gì họ đã định đấu thí thân rồi. Càng đấu, Thanh Thư càng lép vế. Vì chàng mới học võ công của phái Nga Mi, chưa được thuần thục, nên không dở ra được những thế tinh vi của pho chưởng đó. Vì vậy đấu được bốn năm chục hiệp y lại dở Miên Chưởng của phái Võ Ðang ra chống đỡ. Chưởng pháp này oai lực rất nhanh, bề ngoài tuy giống như Kim Ðỉnh miên chưởng nhưng lúc biến hoá lại khác hẳn Kim Ðỉnh miên chưởng nhiều. Người ngoài không biết, tưởng y đã kéo lại được thế bại.

Lợi Hanh đứng bên ngoài càng trông càng tức giận, liền la lớn:

– Tống Thanh Thư, mi không biết hổ thẹn chút nào, dám phản Võ Ðang mà còn dùng võ công của phái Võ Ðang để cứu lấy bổn thân. Mi không cần cha mi thì mi còn xử dụng võ công của cha mi làm chi nữa?

Thanh Thư mặt đỏ bừng, cũng la lớn:

– Võ công của phái Võ Ðang có gì kỳ lạ, đây các người hãy trông cho kỹ này.

Nói xong, tay trái của y biến luôn bảy thứ kiểu, xoay trái, quay phải ở trước mặt Trưởng Bát Long Ðầu. Rồi đột nhiên giơ tay phải ra đâm luôn vào óc của đối thủ, chỉ nghe thấy kêu “cộp” một tiếng, chỉ tay của y đã dính đầy máu.

Trưởng Bát Long Ðầu đã bị thủng sọ, lăn ra chết tốt.

Thanh Thư cười nhạt một tiếng rồi hỏi:

– Phái Võ Ðang có môn võ công ấy không?

Trong lúc quần hùng đang thất thanh kêu la thì có bảy tám người của Cái Bang ra, kẻ khiêng xác của Trưởng Bát Long Ðầu về, kẻ thì vây đánh Thanh Thư.

Tất cả có sáu người vây đánh, đều là hạng bẩy túi trong bang.

Trong đó có bốn người xử dụng khí giới, chỉ trong thoáng cái, Thanh Thư đã bị nguy hiểm liền.

Một lão hòa thượng to béo ở phía sau Không Trí liền lên tiếng quát bảo:

– Cái Bang, các người thị nhiều thắng ít, định phá hủy luật của đại hội ngày hôm nay phải không?

Hai câu nói của y rất lớn, khiến mọi người ngồi gần đó đều bị vang tai nhức óc.

Chấp Pháp trưởng lão liền lớn tiếng quát bảo:

– Các người hãy lui ra, để bổn tọa trả thù cho Trưởng Bát Long Ðầu.

Các đệ tử của Cái Bang đều lui về trong lều trúc, vẻ măt ai nấy đều lộ vẻ tức giận và nhìn thẳng vào mặt Thanh Thư.

Vô Kỵ trông thấy vậy liên tưởng ngay đến năm vết thương ở trên vai Triệu Minh và cảnh vợ chồng ông già bị chết thảm khốc như thế nào.

Chàng run run hỏi Dương Tiêu rằng:

– Dương tả sứ, sao phái Nga Mi lại có võ công tàn ác đến thế?

Dương Tiêu lắc đầu đáp:

– Thuộc hạ chưa hề thấy môn võ công này bao giờ. Nhưng tổ sư của phái Nga Mi Quách Nữ hiệp có biệt hiệu là Tiểu Ðông Tà, nên võ công của họ có ba thành tà khí, như vậy không có gì lạ hết.

Trong lúc hai người nói chuyện với nhau, Thanh Thư đã đấu với Chấp Pháp trưởng lão rồi. Chấp Pháp trưởng lão thân hình tuy nhỏ bé thật, nhưng tay chân lại rất mau lẹ. Mười ngón tay của y giống như mười cái móc, dùng ưng chảo công đối phó với Thanh Thư. Hiển nhiên là y thiên về Chỉ Công và cũng muốn dùng ngón tay đâm thủng đầu óc của Thanh Thư ra để trả thù cho Trưởng Bát Long Ðầu.

Thoạt tiên, Thanh Thư cũng dùng Kim Ðỉnh miên chưởng đối phó, nhưng đấu được mười mấy hiệp, Chấp Pháp trưởng lão quát lớn:

– Tiểu cẩu tặc.

Năm ngón tay trái của y vừa đụng vào sọ của Thanh Thư đã định dùng dức cắm thẳng vào thì tay phải của Thanh Thư đã tấn công sang, và chỉ nghe kêu “bộp” một tiếng là năm ngón tay của y đã bóp đứt cổ họng đối thủ rồi.

Chấp Pháp trưởng lão ngã ngay về phía trước, tay trái của y vẫn còn sức mạnh, nên năm ngón tay cắm chặt xuống mặt đất, máu chảy ròng ròng.

Lần này Chỉ Nhược đã nhanh tay ra hiệu cho tám đệ tử, mỗi người cầm kiếm nhảy ra, cứ từng đôi một tựa lưng vào nhau, chia đứng làm bốn phương, bao vây lấy Thanh Thư. Nếu Cái Bang còn tiến lên tấn công thì cục diện sẽ trở nên quần đả ngay.

Một lão hòa thượng của Ðạt Ma Ðường nói lớn:

– Ba mươi sáu đệ tử của La Hán Ðường hãy đợi lệnh.

Nói xong, y vỗ tay một cái, liền có ba mươi sáu hòa thương của Thiếu Lâm mặc áo vàng nhảy ra. Mười tám tên danh thủ cầm thuyền trượng, mười tám tên cầm giới đao, giải ra khắp mọi nơi trong quảng trường.

Trong sự cắt đặt của chúng, thì hình như là giống trận pháp mà không giống trận pháp, chúng chỉ giữ những nơi cốt yếu thôi.

Lão hòa thượng lại nói tiếp:

– Thừa pháp chỉ của Thông Trí sư thúc, ba mươi sáu đệ tử của La Hán Ðường ra canh giữ qui luật của đại hội. Ngày hôm nay trong cuộc so tài của đại hội, nếu có ai cậy nhiều bắt nạt ít, hoặc núp xó trợ giúp ngầm, thì người đó trở thành kẻ thù chung của võ lâm thiên hạ. Chùa Thiếu Lâm chúng tôi là chủ nhân thì phải duy trì công đạo. Ba mươi sáu đệ tử phải khám xét thật nghiêm ngặt và bất cứ ai phạm pháp đều bị chém chết ngay, không được dung tha.

Ba mươi sáu người đệ tử đó đều lớn tiếng vâng lời, rồi nhìn cả vào quảng trường.

Thế là đã có phái Nga Mi phòng vệ trước, lại có Thiếu Lâm giám thị ở bên, các đệ tử của Cái Bang tuy có tức giận thật, nhưng không dám bạo động nữa và đành khiêng xác Chấp Pháp trưởng lão mà thôi.

Triệu Minh liền khẽ dặn Phạm Dao rằng:

– Khổ đại sư, không ngờ phái Nga Mi lại có tài ba này, ngày nọ, trong chùa Vạn Pháp đành chết chứ không chịu ra ngoài tháp tỷ võ, có lẽ là vì thế cũng nên?

Phạm Dao lắc đầu rồi cau mày nghĩ ngợi cách gỡ thế võ đó. Y ngẩn người ra giây lát rồi đột nhiên nói với Vô Kỵ rằng:

– Thuộc hạ xin thỉnh giáo giáo chủ một đường võ công này.

Nói xong, y để hai bàn tay lên mặt bàn giờ một ngón tay út bên tay trái ra và một ngón tay út bên tay phải, một trước một sau, liên tục cử động bảy cái, rồi khẽ nói tiếp:

– Tôi dùng hai cánh tay tấn công liên tiếp như vậy chỉ cần bắt được cánh tay của tiểu tử ấy, dùng nội lực rung gãy khớp xương ở cánh tay y. Như vậy thì chỉ lực của y dù có lợi hại đến đâu cũng không sao mà dở ra được nữa.

Vô Kỵ cũng dơ hai ngón tay ra, ngón trái móc vào ngón phải và nói:

– Hữu Sứ phải cẩn thận, y chỉ dùng chỉ lực đâm vào cánh tay Hữu Sứ thôi.

Phạm Dao gật đầu và tiếp:

– Tôi dùng cầm nã thủ chộp lấy tay y, rồi dùng mười tám lộ uyên ương liên hoàn đá luôn vào hạ bộ y mười tám cái liền.

Vô Kỵ nói:

– Tấn công luôn tám mươi mốt thế để cho y không còn kịp thở nữa.

Thế rồi hai người bốn ngón tay, cứ người này tiến, kẻ kia lui, nhanh nhẹn khôn tả.

Phạm Dao vừa cười vừa nói tiếp:

– Mấy thế võ của giáo chủ thần diệu quá, tiểu tử này ngoài chỉ lực ra, võ công của y chỉ có hạn thôi, mấy thế này cũng đủ làm cho y không sao dở được chỉ lực lợi hại ấy ra nữa.

Vô Kỵ mỉm cười đáp:

– Quý hồ y không dở được ba thế võ đó ra thì Phạm Hữu Sứ đã thắng rồi.

Hồi thứ 97

Biến Ảo Khôn Lường

Vô Kỵ dùng ngón tay cái quay hai vòng, rồi ngón tay phải đột nhiên xuyên qua cái vòng của ngón tay trái đó mà móc lấy ngón tay của Phạm Dao, rồi mỉm cười không nói năng gì cả.

Phạm Dao ngẩn người ra giây lát rồi nói:

– Cảm ơn giáo chủ đã chỉ điểm cho, thuộc hạ kính phục lắm lắm. Bốn thế võ không sao tưởng tượng được này, đã làm cho thuộc hạ tinh thông thêm. Thuộc hạ chỉ mong được vái giáo chủ làm sư phụ ngay bây giờ.

Vô Kỵ lại tiếp:

– Ðó là Loạn hoáng Quyết trong Thái Cực quyền pháp của Thái sư phụ tôi truyền thụ cho. Cốt yếu của nó là mấy cái vòng ở bên tay trái. Tên họ Tống kia tuy xuất thân ở phái Võ Ðang nhưng chưa chắc y biết được những thế võ này đâu.

Phạm Dao thấy có cách đánh bại được Thanh Thư rồi, nên yên chí vô cùng. Nhưng Thanh Thư đã thắng liền hai trận, theo luật lệ của đại hội thì y được phép ra ngoài nghỉ ngơi, vậy phải chờ y tái xuất mới ra khiêu chiến được.

Triệu Minh mỉm cười, vẻ mặt hớn hở, đứng sang một bên, Vô Kỵ liền đến cạnh nàng khẽ nói:

– Minh muội có việc gì mà mừng rỡ thế?

Triệu Minh hai má đỏ bừng, cúi đầu xuống đáp:

– Mấy thế võ của đại ca truyền cho Hữu Sứ chỉ dạy y rung gãy tay của Thanh Thư thôi chứ không dạy y giết chết kẻ địch.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Tuy Tống Thanh Thư làm nhiều việc bất nghĩa, nhưng dù sao y cũng là đứa con duy nhất và thương nhất của đại sư bá. Ðáng lẽ phải để cho đại sư bá tôi quét sạch cửa ngõ mới phải. Bây giờ nếu tôi bảo Hữu Sứ giết chết y thì tôi có lỗi với đại sư bá liền.

– Nếu đại ca giết chết Thanh Thư, chị Chỉ Nhược trở thành goá bụa, đại ca có thể nối lại duyên xưa, như vậy có hơn không?

Vô Kỵ nắm lấy tay nàng, vừa cười vừa hỏi:

– Minh muội muốn tôi nối lại duyên xưa thật sao?

– Tôi mong muốn lắm, để khi đại ca lại mê man người khác thì nàng ta dùng ngón tay đục thủng năm lỗ trên ngực đại ca luôn.

Khi Vô Kỵ với Triệu Minh chuyện trò thì Thanh Thư đã được tám nữ hiệp của phái Nga Mi bảo vệ, rút lui về lều trúc của phái Nga Mi rồi.

Quần hùng thấy hai thảm kịch Thanh Thư dùng năm ngón tay giết người rất kinh hồn động phách, ai nấy cũng kinh hóang không dám đem thân ra mạo hiểm nữa.

Một lát Thanh Thư lại bước ra chào một vòng và nói:

– Tại hạ đã nghỉ ngơi xong, chẳng hay có vị anh hùng nào chỉ giáo cho.

Phạm Dao liền lên tiếng nói:

– Ðễ lão lãnh giáo tuyệt học của phái Nga Mi.

Y đã định nhảy ra thì đột nhiên có một cái bóng xám, thoáng cái đã đứng trước mặt Thanh Thư rồi.

Người đó quay lại nói với Phạm Dao rằng:

– Phạm tiên sinh hãy nhường cho tại hạ đấu một phen.

Phạm Dao thấy người đó rất chững chạc, liền nhận ra ngay là Dư Liên Châu, nhị hiệp của phái Võ Ðang.

Thanh Thư kính nể vị sư thúc này từ hồi nhỏ, nhưng bây giờ gặp nhau trước mặt, y biết ngay trận đấu này là trận đấu chí tử, tuy y đã học được võ công kỳ môn nhưng dù sao y vẫn khiếp sợ.

Liên Châu chắp tay chào và nói:

– Mời Tống thiếu hiệp ra tay.

Nhị hiệp xưng hô Thanh Thư như vậy đủ thấy là y không dám coi thường đối phương và cũng không còn tình nghĩa gì với nhau nữa.

Thanh Thư không nói năng gì cả, chỉ cúi đầu đáp lễ.

Liên Châu liền dơ chưởng ra tấn công luôn.

Liên Châu nổi danh ở giang hồ đã ba mươi năm nhưng người trong võ lâm ít thấy nhị hiệp ra tay đấu với ai bao giờ.

Người trong giang hồ xưa nay vẫn biết phái Võ Ðang chú trọng lấy nhu khắc cương, thể thức tuy chậm chạp nhưng biến hóa khôn lường.

Ngờ đâu bây giờ Liên Châu lại ra tay đánh nhanh như gió, chỉ thoáng một cái, đùi và lưng của Thanh Thư đã bị đánh trúng một chưởng và một cái đá liền.

Thanh Thư kinh hãi vô cùng và nghĩ thầm:

– Thái sư phụ và cha ta đều định để cho ta làm người chưởng môn đời thứ ba của phái Võ Ðang, như vậy bí quyết võ công nào cũng truyền thụ cho ta hết. Nhưng bây giờ quyền của Dư nhị thúc đây, thể thức tuy là pho quyền của Võ Ðang, nhưng sao biến hòa lại nhanh đến thế? Hiển nhiên y đã phạm đại kỵ của bổn môn. Tuy vậy sao lại lợi hại đến thế?

Y đang định dở môn Chỉ công của Chỉ Nhược truyền thụ cho đem ra đối phó, nhưng vì bị Liên Châu đánh tới tấp, không kịp thở thì làm sao chuyển thế võ được, nên cứ phải lui lia lịa, cố hết sức chống đỡ.

Quần hùng yên lặng, đứng nhìn trận đấu của hai người.

Bây giờ tuy Liên Châu thắng thật, nhưng vừa rồi họ thấy Thanh Thư đấu với hai trưởng lão Cái Bang chuyển bại thành thắng dễ dàng, cho nên mọi người tuy thấy Liên Châu đánh tới tấp như thế mà vẫn chưa thấy lạc quan chút nào.

Vì thế đánh của Nhị hiệp quá nhanh và người nào cũng muốn xem rõ, nên đều đồng loạt đứng cả lên. Thậm chí có người đứng cả lên trên bàn ghế nữa. Và trong lòng họ đều khen ngợi kính phục.

Thanh Thư tuy là đệ tử đích truyền của phái Võ Ðang, với những thế võ của Liên Châu và sự biến hòa tinh diệu thế nào y đều có học qua hết, nhưng lối đánh nhanh như vậy thì y thấy là lần đầu.

Trên quảng trường, cát bụi bay tứ tung, tựa như sương mù vậy, cứ quây lấy Liên Châu và Thanh Thư hai người.

Hai người đánh ráp lá cà với nhau, bỗng nghe có tiếng kêu “bộp”, song chưởng của hai người đã va chạm nhau.

Cả hai cùng lùi lại về phía sau, nhưng Liên Châu đứng chưa vững, đã xông vào tấn công liền.

Lợi Hanh lo âu cho sư huynh, từ từ tiến ra giữa mép quảng trường lúc nào mà không hay.

Ðồng thời tay chàng lại nắm chặt đốc kiếm, hai mắt cứ nhìn trừng trừng vào quảng trường. Hai người đấu trong quảng trường đều là cao thủ của Võ Ðang.

Thanh Thư thấy trận đấu này liên quan đến tính mạng của mình, nên giở hết toàn lực ra đối phó. Vì vậy y không còn nghĩ gì tới người đồng môn phái và sư điệt gì hết.

Võ công của hai người Lợi Hanh đều biết rõ hết thế nào của hai người cũng là thế võ trí mạng cả.

Cũng may, Liên Châu càng đánh càng thắng thế, và nếu không đề phòng Thanh Thư giở năm ngón tay ác độc kia ra thì đã giết chết Thanh Thư từ lâu rồi.

Vô Kỵ cũng lo âu, tay cầm hai chiếc thánh hỏa lệnh để đề phòng.

Nếu thấy Liên Châu nguy hiểm là chàng không còn nghĩ gì đến lệ luật của đại hội và sẽ ra tay trợ giúp ngay.

Ðang lúc cát bụi bay mịt mù thì đột nhiên Thanh Thư giơ năm ngón tay ra để chộp vào vai phải của Liên Châu.

Nhưng Liên Châu đợi chờ Thanh Thư giở thế võ ấy ra rồi.

Nên rõ, Thanh Thư đánh chết được Cái Bang nhị lão như thế nào, Liên Châu đều trông thấy rõ hết, nếu không thấy hai lão bị giết chết như vậy, thì nhị hiệp cũng rất có thể bị thủ pháp quái dị này của Thanh Thư đánh lén, không chết cũng bị thương nặng chứ không sai. Nhưng bây giờ nhị hiệp đã nghĩ được cách đối phó, hơn nữa Thanh Thư luyện thủ pháp này cũng không lâu nên biến hòa không được nhiều.

Lúc này y tái xử dụng thế chộp hồi nãy chứ không thay đổi gì cả, Liên Châu vội hạ thấp vai phải xuống né, còn tay trái múa luôn mấy vòng.

Triệu Minh và Phạm Dao thấy vậy đều thất thanh kêu “ủa”. Thì ra tay trái của Liên Châu vòng hai cái như thế, đúng như Vô Kỵ dạy Phạm Dao vậy.

Cho nên Triệu Minh và Phạm Dao biết thế nào Thanh Thư cũng nguy, hai người vừa kinh hãi kêu dứt thì tay phải của Thanh Thư đã giơ lên chộp luôn yết hầu của Liên Châu.

Vô Kỵ cả giận khẽ chửi:

– Quân này đáng chết lắm, đáng chết lắm.

Chấp Pháp chưởng lão của Cái Bang đã bị giết vì cái chộp này, không ngờ đối với sư thúc Thanh Thư cũng hạ độc thủ như thế.

Nhưng Liên Châu hai cánh tay liền vòng một vòng, giở luôn hai kình lực trong thế Lục Hợp Kình ra túm ngay được hai cánh tay của Thanh Thư và chỉ nghe thấy kêu “lắc cắc” hai tiếng. Xương ở hai cánh tay của Thanh Thư đã bị bẻ gẫy.

Liên Châu quát lớn:

– Ngày hôm nay ta trả thù cho thất đệ.

Nhị hiệp hợp hai tay lại dùng thế Song Phong Quán Nhĩ, song quyền của nhị hiệp đánh luôn vào hai bên mang tai của đối phương. Thế này xử dụng sức lực mềm mại như bông, nhưng mạnh không tả, nên sọ của Thanh Thư liền bị nứt rạn ngay.

Người của Thanh Thư chưa té ngã, Liên Châu đã định bồi thêm một cái đá cho đối phương chết ngay tại chỗ, thì đột nhiên có một cái bóng xanh thấp thoáng, một sợi roi dài nhằm mặt nhị hiệp đánh tới.

Liên Châu vội nhảy về phía sau tránh né, nhưng sợi roi ấy nhanh nhẹn khôn tả lại tấn công liên tiếp.

Mọi người nhìn kỹ mới hay người chưởng môn của phái Nga Mi nhảy ra báo thù cho chồng. Liên Châu liên tiếp lùi ba bước.

Nhưng tiên pháp của Chỉ Nhược kỳ ảo lắm, chỉ ba thế thôi đã quây chặt được đối thủ, rồi nàng rung động cây roi một cái rồi thâu trở lại ngay, tay trái chộp luôn ngọn roi và lạnh lùng nói:

– Bây giờ có lấy tính mạng ngươi ngay, chắc ngươi cũng không phục. Hãy lấy khí giới ra đây.

Lợi Hanh liền rút trường kiếm ra tiến lên nói:

– Ðể tôi tiếp vài thế võ cao siêu của cô nương.

Chỉ Nhược với đôi mắt lạnh lùng, trợn trừng lên nhìn Lợi Hanh một cái rồi quay lại nhìn Thanh Thư chỉ thấy người chồng của y thị, hai mắt đã lòi ra, lỗ mồm lỗ mũi, tay mắt đều có máu rỉ ra, người mềm như bún nằm ở dưới đất, không thể sống được nữa. Ba nam đệ tử của phái Nga Mi đã chạy lại khiêng y đi.

Chỉ Nhược quay lại chỉ vào mặt Liên Châu nói:

– Ta giết chết ngươi trước, và sẽ giết lão già họ Hân sau vậy.

Vừa rồi, Liên Châu đã giở hết toàn lực mà không thoát khỏi vòng roi của đối phương, trong lòng lấy làm ngạc nhiên và kinh hãi vô cùng, nhưng y thương người sư đệ liền nghĩ thầm:

– Ta nên đấu với y thị một trận, dù có chết dưới ngọn roi của y thị, Lục đệ đứng ngoài cũng có thể xem được tiên pháp của y thị ra sao. Nếu lục đệ mà thoát chết, thế nào cũng có mấy thành hy vọng trả thù cho ta rồi.

Nghĩ đoạn, nhị hiệp liền giơ tay định đỡ lấy trường kiếm của Lợi Hanh.

Nhưng Lợi Hanh đã thấy thế cục rất nguy hiểm, với võ công của hai sư huynh đệ mình, muốn tránh trường tiên của đối phương thật là khó khăn, nên Lợi Hanh cùng một ý nghĩ với sư huynh đành xông ra đấu trước để hy sinh tính mạng của mình, cho sư huynh nhận thấy được sự biến hòa thân pháp của đối phương, vì vậy chàng nhất định không đưa kiếm và nói:

– Sư ca, để đệ đấu trận này trước.

Liên Châu đưa mắt nhìn Lợi Hanh, hai người cùng học một thầy gần gũi với nhau mấy chục năm trời, coi nhau như anh em ruột thịt, nên nhị hiệp sực nghĩ lại chuyện Ðại Nham tàn phế, Thúy Sơn tự sát, Thanh Cốc bị chết một cách thảm thương. Võ Ðang thất hiệp chỉ còn có bốn. Ngày hôm nay có lẽ cả hai cũng sẽ chết ở đây cũng nên. Võ công của lục đệ tuy mạnh, nhưng lại là người đa cảm, nếu chàng ta chết trước mình…

Nhị hiệp càng nghĩ ngợi, tâm thân càng hỗn loạn, và y còn sợ hai người bị bêu xấu trước mặt quần chúng, sẽ làm mất hết sĩ diện của bổn phái đi.

Vì vậy y mới nghĩ thầm:

– Nếu ta chết trước, lục đệ khó mà trả thù được cho ta, và y cũng không chịu sống mà đào tẩu đâu, thế nào rồi hai anh em ta cũng chết cả ở đây. Như vậy không có ích gì hết. Chi bằng để y đấu trước, ta nhận xét được tinh nghĩa tiên pháp của thiếu nữ này, thì may ra ta còn đấu với nàng cho tới lúc cả hai cùng chết.

Nghĩ đoạn nhị hiệp lên tiếng đáp:

– Cũng được, nhưng lục đệ phải cố làm sao chống đỡ càng lâu càng tốt.

Lợi Hanh nghĩ đến vợ mình, Bất Hối đã có chửa liền quay lại nhìn Dương Tiêu và Vô Kỵ, nhưng chàng lại nghĩ thầm:

– Ta chết rồi, Bất Hối và con ta thế nào cũng có người trông nom, hà tất phải dặn bảo như cái trò đàn bà con gái.

Nghĩ đoạn chàng liền giơ kiếm lên nói:

– Mời người chưởng môn chỉ giáo cho.

Tuổi của chàng lớn hơn Chỉ Nhược nhiều, nhưng lúc này Chỉ Nhược là trưởng môn của phái Nga Mi, vì vậy chàng vẫn giữ đúng lễ phép mà gọi Chỉ Nhược như thế.

Liên Châu thấy Lợi Hanh dùng Thái Cực Kiếm ra đối phó, biết lần này sư đệ quyết đem tuyệt học của sư môn ra chống đỡ với cường địch, nên nhị hiệp từ từ lui lại về phía sau.

Chỉ Nhược đáp:

– Ngươi cứ tấn công trước đi.

Lợi Hanh nghĩ thầm:

– Ðối phương ra tay nhanh như điện chớp, nếu để cho y thị tấn công trước chiếm được lợi thế, thì ta khó mà kéo lại thế quân bình.

Nghĩ đoạn chàng bước chân trái lên, đưa kiếm sang tay trái, giở thế kiếm thứ nhất là Tam hoán Sáo Nguyệt.

Thế kiếm này của chàng hư hư thực thực, dùng tay trái cầm kiếm tấn công địch, ngọn kiếm có ánh sáng và tiếng kêu “sì sì” khiến quần chúng đứng xem chung quanh đó đều khen ngợi. Tiếng vỗ tay và tiếng reo hò vang động một góc trời.

Chỉ Nhược nhảy tréo sang bên để tránh né, tiếp theo đó Lợi Hanh lại dùng một hai thế Ðại Khuê tình với Yến tử sao thủy vung trường kiếm vạch ở trên không thành một cái vòng lớn.

Chỉ Nhược khẽ cúi mình tránh hai thế kiếm đó rồi nói:

– Hân lục hiệp, tôi nhường lục hiệp ba thế để báo lại tình cố nhân trên núi Võ Ðang năm xưa.

Chữ “xưa” vừa nói dứt, nàng đã múa roi như một con linh xà tấn công vào ngực Lợi Hanh ngay.

Lợi Hanh chạy sang trái tránh né, chiếc roi của đối phương đang đánh thẳng, đã quay ngược trở lại, Lợi Hanh vội giơ trường kiếm lên chém ngọn roi, nhưng roi kiếm va chạm nhau có tiếng kêu “roẹt” rất khẽ.

Lợi Hanh thấy hổ khẩu nóng ran, trường kiếm suýt nửa rời khỏi tay.

Lợi Hanh giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Ta tưởng nàng chỉ có võ công quái dị thôi, không ngờ nội lực nàng lại mạnh kỳ lạ như thế.

Nghĩ đoạn, chàng liền dở Thái cực kiếm pháp ra bảo thủ lấy bổn thân trước.

Roi của Chỉ Nhược tựa như một sợi dây mềm, nhẹ vô cùng, nhưng người nàng bỗng Ðông, bỗng Tây, bỗng tiến, bỗng thoái, cứ theo thế kiếm của Lợi Hanh mà tránh né.

Vô Kỵ càng xem càng ngạc nhiên và nghĩ thầm:

– Nhuyễn tiên mà xử dụng được như ba vị cao tăng là huyền ảo rồi, ngờ đâu nhuyễn tiên của Chỉ Nhược khác hẳn và còn huyền diệu hơn là khác.

Thoạt tiên chàng tưởng phái Nga Mi có võ công tà môn nào khác nhưng lúc này thấy thân thủ nàng như bóng ma, khác hẳn Diệt Tuyệt Sư thái, trong lòng đâm ra hoảng sợ.

Phạm Dao bỗng nói:

– Nàng là ma chứ không phải người.

Lời nói đó trúng ngay tâm sự của Vô Kỵ nên chàng rùng mình một cái. Chàng đã thấy rất nhiều võ công quái dị của các môn phái, nhưng không thấy môn võ công nào lại nhẹ nhàng như lá liễu trước gió của Chỉ Nhược như vậy.

Chàng liền nghĩ:

– Chẳng lẽ nàng có yêu thuật? Hay là có quái vật nhập vào người nàng chăng?

Võ công của Chỉ Nhược tuy tinh kỳ, nhưng pho Thái cực kiếm mới sáng chế ra mấy năm gần đây, có thể nói là một pho kiếm siêu tuyệt nhất võ lâm.

Lợi Hanh dở nội lực ra vận dụng cứ liên miên bất tuyệt, tuy không giết nổi Chỉ Nhược, nhưng muốn giữ cho khỏi nguy hiểm thì quả thực không phải là không có sơ hở.

Mọi người đứng bên ngoài ai ai cũng yên trí Lợi Hanh thế nào cũng thua.

Họ lại còn yên trí chàng thế nào cũng toi mạng chứ không sai.

Ðang lúc ấy bỗng một giọng nói rất quái dị nổi lên:

– Ối cha, Tống Thanh Thư sắp tắt thở rồi. Chu đại trưởng môn, có mau tiễn biệt ông chồng trong khi hấp hối không? Làm một người đàn bà goá có vẻ vang gì đâu.

Mọi người đều nhìn về phía đó, mới hay đó là Chu Ðiên, và biết y định quấy nhiễu tâm thần của Chỉ Nhược để cho Lợi Hanh thừa thế thắng bại.

Nhưng y thấy Chỉ Nhược không quay đầu lại, thái độ vẫn ung dung như thường, nên lại kêu tiếp:

– Này này Chu cô nương của phái Nga Mi ơi, ông chồng của cô sắp tắt thở rồi, đang có lời muốn trăn trối đây.

Quần hùng thấy y nói bậy bạ như vậy, có người không nhịn được liền cười khì. Chỉ Nhược vẫn bình tĩnh như không nghe thấy Chu Ðiên nói gì hết.

Ðột nhiên Chỉ Nhược lui về sau mấy trượng, quất ngược roi một cái, đầu roi đánh trúng vào mặt Chu Ðiên.

Nàng đứng cách Chu Ðiên mười mấy trượng, ngờ đâu chỉ nhảy lùi và quất ngước roi một cái đầu roi đánh tới đầu Chu Ðiên rồi.

Chu Ðiên đang khoái chí, nói đến nước bọt bắn tung toé, ngờ đâu đầu roi đã đánh tới trước mặt.

Nàng không quay đầu lại nhìn mà tựa như đầu roi có mắt vậy, nhằm đúng đầu mũi của y điểm tới.

Cũng lúc đó, nàng giơ hai ngón tay trỏ và giữa ở bàn tay trái nhằm người Lợi Hanh đâm luôn bảy thế, toàn nhằm các yếu huyệt của lục hiệp đâm tới.

Lợi Hanh đành phải cúi mình tránh né.

Lúc ấy trong lều trúc của Minh giáo có tiếng kêu “bộp” và “loong coong” loạn xạ.

Thì ra Dương Tiêu đang đứng cạnh Chu Ðiên, nhanh tay cầm luôn cái bàn gỗ lên chống đỡ thế roi của Chỉ Nhược.

Roi của nàng đánh trúng mặt bàn, chiếc bàn vỡ tan, những mảnh gỗ bay tung lên và chén tách trong bàn cũng bị bắn tứ tung.

Chỉ Nhược đánh không trúng, không thèm đếm xỉa đến Chu Ðiên nữa, lại quay roi lại tấn công Lợi Hanh.

Liên Châu đứng xem một hồi mà không tìm ra được chỗ tinh yếu của thế roi này.

Lợi Hanh lúc đó đã dở hết những thế kiếm tinh vi của sư phụ truyền cho rồi.

Ðột nhiên roi của Chỉ Nhược quay thành những cái vòng vừa to vừa nhỏ, vây Lợi Hanh vào trong, những vòng đó cũng một phương hướng với đường kiếm của Lợi Hanh.

Nội lực trên kiếm của Lợi Hanh bị roi của nàng lôi đi một cái, thế là lục hiệp không sao tự chủ được, liền quay luôn mấy vòng.

Chỉ thấy ánh sáng thấp thoáng một cái, trường kiếm đã rời khỏi tay lục hiệp, và roi của nàng như con mãng xà, cuốn chặt lại, nhằm đầu ót của Lợi Hanh đụng tới.

Liên Châu tung mình nhảy lại xả thân chụp lấy ngọn roi, Chỉ Nhược liền giơ chân đá một cái vào ngang hông của Liên Châu.

Ðang lúc nguy hiểm đó, có một người bên cạnh nhảy tới, dơ cánh tay vượn ra, chiếc roi dài của Chỉ Nhược kêu vù vù mấy tiếng đã cuốn chặt vào cánh tay của người đó. Người đó chính là Vô Kỵ đã dùng Càn Không Ðại Nã Di tâm pháp chuyển sức mạnh của cây roi vào cánh tay mình.

Chỉ Nhược biến đổi thế võ nhanh kỳ lạ, tay phải buông cán roi ra, song chưởng hợp lại tấn công luôn vào ngực Vô Kỵ.

Nếu Vô Kỵ làm tản mát kình lực của đối phương đi, thì sức song chưởng sẽ đánh trúng mặt Lợi Hanh, và tay phải của chàng sẽ bị nhuyễn tiên quấn chặt không cởi ra được, vì vậy chàng đành phải giơ tả chưởng ra chống đõ chưởng của Chỉ Nhược.

Không ngờ hai người ba chưởng chạm nhau, Vô Kỵ thấy trong chưởng của Chỉ Nhược không có một chút kình lực nào hết.

Chàng kinh hãi vô cùng nghĩ thầm:

– Nguy tai, một thiếu nữ trẻ tuổi và yếu ớt như nàng, so kình lực với một danh thủ của phái Võ Ðang là lục sư thúc của mình, nàng đã đấu tới hai trăm hiệp, bây giờ mình lại đẩy kình lực sang, nàng phải chết ngay tại chỗ.

Dù chàng với Chỉ Nhược có rất nhiều sự lôi thôi với nhau, nhưng dù sao chàng vẫn không quên được tình cũ.

Trong lúc nguy cấp đó, chàng biết võ công của Chỉ Nhược không kém gì mình mấy và cũng có thể nói là một cường địch chưa từng thấy trong đời mình nên chàng không dám khinh thường chút nào, chàng liền giở mười thành công lực ra, nhưng khi chưởng lực chàng vừa phát ra thì đã cảm thấy đối phương hết sức, nên chàng lại thâu ngay chưởng lực lại. Thâu như thế là một hành động tối kỵ nhất trong võ lâm, không khác gì tự đem mười thành công lực đánh vào bổn thân mình.

Huống hồ lúc đó chỉ còn một sợi tóc là sức của chàng dồn sng chưởng của Chỉ Nhược rồi, tất nhiên sức lực lúc bấy giờ phải mạnh khôn tả.

Nhưng lúc này Vô Kỵ đã có thể khiến nội lực của mình tự do thâu về mười thành công lực đó, thì đột nhiên thấy chưởng lực của đối phương như nước hồng thủy vỡ đê, dồn dập đổ sang.

Chàng giật mình kinh hãi biết là trúng phải kế gian của Chỉ Nhược, nên ngực của chàng bị ngay song chưởng của Chỉ Nhược đánh trúng kêu đến “bùng” một tiếng.

Chưởng lực của chàng và chưởng lực của Chỉ Nhược, chưởng lực của hai tay cao thủ cùng đánh xuống một lúc, tuy chàng có Cửu Dương thần công bảo vệ thân thể thực nhưng cũng chịu đựng không nổi, huống hồ chưởng lực của Chỉ Nhược lại thừa cơ tấn công.

Chỉ Nhược lại giơ năm ngón tay phải ra định tấn công tiếp.

Lúc ấy Liên Châu bị nàng đá trúng yếu huyệt không sao cử động được.

Lợi Hanh định nhảy xổ tới cứu viện, nhưng cũng không kịp, cả hai đều yên trí Vô Kỵ không sao thoát khỏi tai ách, nhưng giữa lúc ấy, Chỉ Nhược trông thấy cái sẹo trước ngực chàng, liền nghĩ đến chuyện xưa ở trên Quang Minh đỉnh, chính mình dùng ỷ Thiên Kiếm đâm thủng ngực chàng.

Ðột nhiên lương tâm nàng xuất hiện, năm ngón tay phải lúc đó chỉ còn cách ngực chàng nửa thước, trong lòng nàng nghĩ thầm:

– Lúc đó ta thừa lệnh sư phụ đâm chàng. Chàng không tránh né gì cả. Ngày hôm nay vì không muốn đả thương ta, nên chàng mới để cho ta đắc thắng, chẳng lẽ ta lại đang tâm giết chàng như vậy hay sao?

Vì vậy, Vô Kỵ ngửa người về phía sau, hai mắt tối sầm, mồm hộc máu tươi ra.

Chỉ Nhược biết nếu dùng tài ba thực sự để đối địch thì mình không địch nổi Vô Kỵ, bây giờ nàng thấy mình đánh lén mà được thành công, liền giơ tay ra, năm ngón tay chộp vào ngực Vô Kỵ.

Tuy bị thương nặng, nhưng Vô Kỵ chưa rối trí, thấy Chỉ Nhược thò tay ra chộp ngực mình, nếu để cho nàng chộp trúng thì thế nào cũng bị thủng ngực ngay, chàng liền cố gắng xê dịch người sang mấy tấc.

Liền có tiếng kêu “soẹt” năm ngón tay của nàng đã cào rách áo trước ngực của chàng da thịt lộ ra tức thì.

Nàng đang chần chừ thì Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Lợi Hanh và Phạm Dao bốn người cùng nhảy xổ tới.

Nhất Tiếu đứng ở trước Vô Kỵ chống đỡ, Pham Dao Dương Tiêu chia làm hai bến tấn công Chỉ Nhược còn Lợi Hanh thì ẳm Vô Kỵ rời khỏi chỗ đó.

Quảng trường loạn xạ, đệ tử của phái Nga Mi và tăng chúng của phái Thiếu Lâm đều hò hét om sòm, tay cầm khí giới nhảy xổ lại.

Dương Tiêu với Phạm Dao thấy Vô Kỵ đã thoát hiểm, nên chỉ đấu với Chỉ Nhược thêm vài hiệp rồi ngưng lại không dám tiếp tục nữa.

Còn Nhất Tiếu thì đỡ Liên Châu trở về lều trúc.

Ðệ tử của phái Nga Mi và Thiếu Lâm thấy trong quảng trường đã ngừng đấu thì cũng rút lui luôn.

Ðáng lẽ Triệu Minh cũng chạy tới tiếp viện nhưng vì thân pháp nàng không nhanh bằng Dương Tiêu, Nhất Tiếu hai người nên vừa đi tới giữa đường đã gặp Lợi Hanh ẳm Vô Kỵ mặt nhợt nhạt, mồm dính đầy máu tươi.

Vô Kỵ thấy nàng liền gượng cười nói:

– Không sao cả, vận khí qua loa là khỏi ngay.

Mọi người đỡ chàng vào trong lều trúc để chàng ngồi xuống, chàng liền dẫn Cửu Dương thần công ra để điều trị vết thương.

Chỉ Nhược liền nói:

– Còn vị anh hùng nào ra đây chỉ giáo nữa không?

Phạm Dao liền nai nịt, lớn tiếng bước đi ra, Vô Kỵ liền gọi:

– Phạm Hữu Sứ, tôi hạ lệnh, Hữu Sứ đừng ra chiến đấu nữa. Chúng ta… chúng ta… chịu thua…

Chàng nói tới đó lại hộc hai hụm máu tươi ra.

Phạm Dao không dám trái lệnh giáo chủ, vì nếu cứ cưỡng lệnh Vô Kỵ mà ra đấu thì Vô Kỵ thế nào cũng tức giận và vết thương sẽ nặng hơn.

Huống hồ đã ra dự chiến thì phải tận tâm tận lực mà đem tính mạng ra oan uổng như vậy không có ích gì cho bổn giáo cả.

Chỉ Nhược đứng ở giữa quảng trường nói hai lượt.

Vừa rồi Vô Kỵ thâu sức lại, tự đả mình bị thương, chỉ có chàng với Chỉ Nhược hai người biết thôi, chứ người ngoài làm sao biết được, cứ tưởng Chỉ Nhược dùng thế võ quái dị nên mới đánh bại được Vô Kỵ.

Còn Chỉ Nhược tha chết cho Vô Kỵ thì ai ai cũng trông thấy rõ hết và họ thấy nàng là một cô bé trẻ tuổi như vâỵ mà đánh bại được ba cao thủ nhất đẳng trong võ lâm như thế, thực không sao tưởng tượng được.

Trong quần hùng tuy có nhiều người võ công tuyệt nghệ, nhưng tự nghĩ mình không sao bằng được Liên Châu, Lợi Hanh và Vô Kỵ ba người, mà ba người đó còn không địch nổi nàng thì mình có nhảy ra cũng chỉ toi mạng thôi.

Chỉ Nhược đứng ở giữa quảng trường gió thổi tà áo bay phất phới, trông như một tiên nữ.

Mấy nghìn anh hùng hảo hán bốn mặt tám phương không ai dám nghênh chiến hết.

Chỉ Nhược đợi chờ giây lát không thấy ai ra khiêu chiến, lão hòa thượng của Ðạt Ma Ðương liền bước ra, chắp tay chào và nói:

– Tống phu nhân, người trưởng môn của phái Nga Mi võ nghệ lấn át quần hùng, võ công đệ nhất thiên hạ, vậy còn vị anh hùng nào không phục không ?

Lão hóa thượng hỏi luôn ba tiếng, không ai dám trả lời là không phục hết, nên liền nói tiếp:

– Theo đúng nghị quyết của đại hội thì Kim Mao Sư vương Tạ Tốn sẽ giao cho Tống phu nhân của phái Nga Mi xử trí. Còn Ðồ Long bảo đao hiện ở trong tay ai cũng xin đưa ra cho Tống phu nhân giữ nốt. Ðó là quyết định chung của quần hùng, không ai được dị nghị hêt.

Vô Kỵ đang điều hơi vận sức, cố dồn Cửu Dương chân khí để chữa vết thương dần dần đã tiến tới mức phản hư không minh trở về hư vô, đầu óc trong suốt thông minh thì bỗng nghe thấy lão hóa thượng nói Kim Mao Sư Vương giao cho Tống phu nhân xử trí, chàng bỗng rùng mình một cái, suýt tí nữa lại hộc máu tươi ra.

Triệu Minh ngồi cạnh trông nom, thấy chàng đột nhiên rùng mình, mặt biến sắc, thì biết ngay chàng đang nghĩ ngợi gì rồi, liền ai ủi rằng:

– Vô Kỵ đại ca, nếu sư phụ giao cho chị Chỉ Nhược xử trí thì thật là may mắn. Vừa rồi chị ấy không nhẫn tâm giết chết đại ca đủ thấy chị ấy vẫn còn tình ý với đại ca. Nàng còn mong nối lại tình cũ với đại ca thì khi nào lại đang tâm giết nghĩa phụ, đại ca cứ yên tâm mà chữa vết thương đi.

Vô Kỵ thấy lời Triệu Minh nói cũng có lý, nên trong lòng mới an tâm, lúc ây mặt trời đã lặn, trong quảng trường tối dần.

Lão hòa thượng lại lên tiếng nói:

– Kim Mao sư vương bị giam giữ ở Hậu Sơn, ngày hôm nay trời đã tối rồi, chắc các vị cũng đói bụng, vậy để đến trưa mai chúng ta tụ họp nơi đây, lão tăng sẽ dẫn Tống phu nhân lên chỗ đó mở cửa giai tù, lúc ấy chúng ta lại kiến thức võ công cái thế vô song của Tống phu nhân.

Vô Kỵ, Dương Tiêu, Phạm Dao cùng đưa mắt nhìn Triệu Minh một cái và nghĩ thầm:

– Quả nhiên cô này đoán không sai, phái Thiếu Lâm ngấm ngầm âm mưu quỉ quyệt, võ công của Chỉ Nhược dù có mạnh đến đâu cũng không thể nào đánh bại được ba vị cao tăng đó, có lẽ nàng sẽ toi mạng trên đỉnh núi, và sau chót Thiếu Lâm sẽ xưng hùng xưng bá.

Lúc ấy Chỉ Nhược đã về tới lều trúc xem vết thương Thanh Thư.

Quần hùng thấy Chỉ Nhược tuy cướp được cái tên thiên hạ đệ nhất võ công, nhưng việc lớn ở đây vẫn chưa kết liễu, vì vậy mỗi người có một ý riêng, không ai muốn xuống núi cả.

Lão hóa thượng lại nói tiếp:

– Các vị anh hùng hãy nghe đây, các vị đến bổn chùa đề là khách của chùa Thiếu Lâm, nếu giữa các vị có sự gì ân oán hay lôi thôi riêng của mình thì xin nể tệ phái tạm nhịn nhất thời, xin chớ có ở trên núi Thiếu Lâm mà giải quyết với nhau, bằng không phái Thiếu Lâm chúng tôi sẽ coi như các vị khinh miệt chúng tôi đấy. Qúi vị cơm nước xong, cứ tự do du ngoạn, nhưng phía sau núi là tàng kinh và nơi truyền thụ võ công của tệ phái, xin quý vị tự trọng mà ngừng bước cho.

Phạm Dao liền ẳm Vô Kỵ trở về lều trúc của Minh giáo tự dựng lấy. Tuy bị thương nặng nhưng Vô Kỵ đã uống chín viên linh đơn do chàng tự chế và đã dùng Cửu Dương chân khí để chuyển vận sức thuốc, nên đến canh hai đêm đó, chàng thổ ra ba khẩu máu bầm. Nội thương của chàng như thế là khỏi hết.

Dương Tiêu, Phạm Dao, Liên Châu, Lợi Hanh các người vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, đều khen ngợi nội công chàng thật là hiếm có và cũng chưa nghe nói đến bao giờ. Người thường bị thương như thế, dù có được cao thủ chữa cho, thì ít nhất cũng phải vài ba tháng mới có thể khỏi được. Thế mà với chàng, chỉ có hai ba tiếng đồng hồ đã lành mạnh ngay. Nếu các người không đích mắt trông thấy thì không bao giờ dám tin chuyện này là thực.

Ăn xong hai bát cơm, Vô Kỵ tĩnh dưỡng giây lát rồi nói:

– Tôi phải ra ngoài một lát.

Vô Kỵ ra khỏi lều trúc, ngửng mặt lên nhìn trời, chỉ thấy một vừng trăng sáng và mấy ngôi sao lơ thơ thôi.

Chàng hít một hơi thật dài, thấy chân khí trong người lưu chuyển dễ dàng, tinh thần phấn chấn, liền đi tới chùa Thiếu Lâm, hỏi nhà sư chi khách rằng:

– Tại hạ có việc muốn gặp người trưởng môn của phái Nga Mi phiền đại sư dẫn đường cho.

Tri khách tăng ấy thấy là giáo chủ Minh giáo, kinh hãi vô cùng, vội cúi mình đáp:

– Dạ, dạ, tiểu tăng xin dẫn đường, mời Trương giáo chủ đi sang lối này.

Nói xong y dẫn Vô Kỵ đi sang phía Tây, đi chừng hơn dặm, liền chỉ mấy căn nhà nhỏ và nói:

Phái Nga Mi ở trong mấy căn nhà kia, đêm khuya tiểu tăng không tiện tới gần.

Sự thực là y sợ Vô Kỵ lại đấu với Chỉ Nhược, mình bị vạ lây.

Vô Kỵ vừa cười vừa nói:

– Nếu đại sư trở về nói chuyện này cho mọi người hay, thế nào cũng kinh động tới họ, nên tôi phải phiền đại sư ở đây chờ đợi với tôi cho tới nửa đêm.

Tri khách tăng vội đáp:

– Giáo chủ cứ yên tâm, tiểu tăng không nói cho ai hay đâu.

Nói xong, y vội quay mình đi luôn.

Ði tới trước căn nhà cách chừng một dặm, chàng đã thấy trong bóng tối có hai nữ nhi phi thân tới, tay cầm trường kiếm, ngăn cản lối đi và quát hỏi:

– Ðêm khuya khoắt, vị nào giá lâm nơi đây?

Vô Kỵ chắp tay vái chào và nói:

– Trương Vô Kỵ của Minh giáo, yêu cầu được yết kiến với người trưởng môn của quý phái là Tống phu nhân.

Hai nữ nhi thấy Trương Vô Kỵ đều giật mình kinh hãi.

Người lớn tuổi hơn liền đáp:

– Trương… Trương giáo chủ, xin hãy tạm chờ đợi để tôi… vào bẩm báo.

Y thị tuy cố gượng trấn tĩnh, nhưng tiếng nói run run quay đi được mấy bước, đã vội lấy cái còi trúc ra thổi luôn.

Ngày hôm nay phái Nga Mi khoái chí hết sức, người trưởng môn đánh bại ba vị cao thủ đương thời trước mắt quần hùng như vậy khiến cho mấy ngàn tu mi nam tử không một ai dám ra khiêu chiến hết.

Quả thực là một đại sự, từ khi khai lập môn phái đến giờ chưa hề có lần nào được vẻ vang như vậy cả.

Nhưng ngày hôm đó, phái Nga Mi giết hai trưởng lão của Cái Bang, đánh bại hai vị đại hiệp của Võ Ðang và đả thương giáo chủ Minh giáo, vì vậy gân hấn với rất nhiều người. Huống hồ Chỉ Nhược được tôn là người giỏi võ công số một tấ nhiên sẽ có không biết bao anh hùng hờn giận và ghen ghét. Vì vậy nàng phải phái rất nhiều đệ tử canh gác phòng bị. Khi nữ ni thổi còi sáo lên, bốn chung quanh liền có hai mươi mấy người cầm khí giới nhảy ra, bảo kiếm sáng quắc, đứng bao vây chung quanh.

Vô Kỵ không thèm đếm xỉa gì tới, cứ khoanh tay đứng yên tại chỗ.

Nữ ni vào trong nhà bẩm báo xong, một lát sau lại quay mình trở ra và nói:

– Tệ trưởng môn nói, nam nữ thọ thọ bất thân, đêm hôm khuya khoắt không tiện tiếp kiến, xin công tử hãy quay trở về.

Vô Kỵ đáp:

– Tại hạ đến đây là định chữa cho Tống Thanh Thư thiếu hiệp thôi, chứ không có việc gì khác hết.

Nữ ni nọ lại ngẩn người ra, rồi lại vào bẩm báo, một lát sau mới ra trả lời rằng:

– Người chưởng môn của chúng tôi xin mời giáo chủ vào.

Vô Kỵ vỗ hai bên hông để tỏ ra mình không đem theo khí giới, rồi theo nữ ni vào trong lều. Chàng thấy Chỉ Nhược đang ngồi một bên, lấy tay chống má, ngẩn người ra nghĩ ngợi, thấy Vô Kỵ vào mà không thèm quay đầu lại.

Nữ ni rót nước để lên bàn xong, lui ngay và khép cửa lại.

Trên sảnh không có người khác, chỉ có một ngọn nến trắng, lúc tỏ lúc mờ chiếu vào người Chỉ Nhược.

Lúc ấy Chỉ Nhược mặc áo màu xanh nhợt, trông lại càng ảm đạm thêm.

Vô Kỵ mủi lòng khẽ hỏi:

– Vết thương của Tống sư ca ra sao? Ðể tôi vào thử xem.

Chỉ Nhược vẫn không quay đầu lại, với giọng lạnh lùng đáp:

– Xương đầu của y đã bị chấn vỡ, thương thế rất nặng, có lẽ không thể sống được, không biết có qua khỏi đêm nay hay không?

– Ðể tôi tận tâm cứu chữa xem.

– Tại sao giáo chủ lại cứu y?

– Tôi không nên không phải với phu nhân, trong lòng hổ thẹn vô cùng, huống hồ ngày hôm nay lại được phu nhân nương tay tha chết cho. Sư ca bị thương tất nhiên tôi phải tận lực cứu chữa mới phải.

– Giáo chủ nương tay trước, tưởng tôi không biết sao? Nếu chữa khỏi Tống đại ca thì muốn tôi đền đáp cái gì?

– Một mạng đổi lấy một mạng.

Chỉ Nhược chỉ tay vào trong nhà và nói tiếp:

– Y nằm trong kia.

Vô Kỵ ngó vào trong phòng, thấy trong đó tối đen như mực, liền cầm nến đi vào.

Chỉ Nhược trước sau vẫn ngồi chống tay như cũ, không cử động chút nào.

Vô Kỵ vén mùng lên, thấy Thanh Thư hai mắt lồi ra, mặt mũi méo mó, trông rất rùng rợn, hơi thở yếu ớt người đã mê man bất tỉnh.

Vô Kỵ liền thăm mạch, thấy mạch của y rất hỗn loạn, lúc nhanh lúc chậm, chân tay mình mẩy lạnh ngắt, nếu không chữa ngay, quả thật không sao qua khỏi đêm nay.

Chàng rờ xương đầu của y xem, thấy trán và sau ót có bốn miếng xương bị nứt, đủ thấy song quyền của Liên Châu mạnh biết bao, nếu Thanh Thư nội công không có căn bản thì đã chết ngay tại chỗ rồi.

Chàng buông màn xuống, để nến lên trên bàn, ngồi trên ghế trúc nghĩ ngợi cách cứu chữa.

Chàng nhận thấy chỉ có một thành hy vọng cứu được Thanh Thư thoát chết.

Nghĩ ngợi giây lát, chàng đi ra phòng nói với Chỉ Nhược rằng:

– Tống phu nhân, không biết tôi có thể cứu được Tống đại ca thoát chết không, tôi không dám cam đoan, nhưng để tôi chữa thử xem.

Chỉ Nhược đáp:

– Nếu giáo chủ không cứu được y, có lẽ trên thế gian này không ai có thể cứu y thoát chết.

– Dù có cứu được Tống sư ca thoát chết, mặt mũi và võ công của sư ca có lẽ cũng không thể như cũ được.

– Giáo chủ không phải là thần tiên, nhưng tôi biết giáo chủ sẽ tận lực cứu chữa cho y sống để không hổ thẹn với lương tâm và yên trí đi làm phò mã của triều đình.

Vô Kỵ ngạc nhiên vì mình không có ý định ấy, nhưng chàng cũng không muốn cãi lại, chỉ trở vào trong phòng điểm tám nơi yếu huyệt của Thanh Thư, rồi mới nắn những chỗ xương bị nứt rạn.

Sau đó, chàng móc túi lấy một cái hộp vàng ra, lấy móng tay khêu một ít thuốc cao đen nhánh bỏ vào lòng bàn tay, nhào nắn cho thật đều, rồi khẽ bôi lên đầu của Thanh Thư. Thuốc cao đen đó là Hắc Ngọc Ðoạn Tục cao, là một thánh dược của chùa Thiếu Lâm bên Tây Vực dùng để nối xương cứu thương.

Năm xưa, Triệu Minh đã tặng cho chàng cái hộp này dùng để cứu Lợi Hanh và Ðại Nham hai người, còn thừa chàng vẫn giữ trong người.

Ðồng thời chàng lại còn vận Cửu Dương chân khí dồn sang người Thanh Thư để dẫn sức thuốc đi tới chỗ bị thương.

Hồi thứ 98

Ân Oán Rành Rành

Dương Tiêu giật mình kinh hãi vội quát bảo:

– Ðiên huynh chớ có lỗ mãng như thế.

Chu Ðiên không thèm đếm xỉa tới, đi thẳng tới trước mặt Thiếu Lâm Tam tăng vừa cười vừa nói:

– Ba hòa thượng có ăn thịt chó không?

Y vừa nói vừa thò tay vào túi, móc một cái đùi chó chìa ra, đưa đi đưa lại trước mặt Ðộ Ách.

Thì ra ngày hôm nay, chùa Thiếu Lâm chỉ làm cơm chay thết quần hùng thôi, Chu Ðiên là người thích uống rượu ăn thịt, mấy ngày nay toàn ăn rau dưa đậu phộng thì làm sao chịu nổi.

Tối hôm qua y đã lén đi ăn trộm một con chó, đem về giết thịt chén một bữa no và còn giữ lại một cái đùi chó.

Bây giờ y thấy tình thế cấp bách như vậy, liền đem đùi chó ra để làm loạn tâm hồn của ba hòa thượng Thiếu Lâm.

Dương Tiêu thấy vậy mừng rỡ vô cùng nghĩ thầm:

– Ngày thường Chu Ðiên hành sự điên điên rồ rồ, không ngờ lại có kế hay như vậy.

Nên biết, Thiếu Lâm tam tăng đấu nội lực với Vô Kỵ cần nhất tập trung tinh thần chuyên chú vào trận đánh.

Bây giờ Chu Ðiên đứng ra phá quấy, chỉ cần một hòa thượng nổi giận là tâm thần phân tán ngay và Vô Kỵ thắng liền.

Nhưng ba hòa thượng đó như không trông thấy, không thèm đếm xỉa tới.

Chu Ðiên liền để cái đùi chó vào mồm cắn ngấu nghiến và nói:

– Thơm lắm, ngon lắm. Ba hòa thượng cắn thử một miếng xem, ta không nói ngoa đâu.

Y thấy ba hòa thượng không thèm nhìn, liền chìa cái đùi chó vào cạnh mồm Ðộ Ách, rồi nhét ngay vào mồm đối phương.

Các hòa thượng Thiếu Lâm đứng cạnh đó xem đều lớn tiếng quát tháo:

– Tên điên khùng kia, mau mau rút lui đi.

Chu Ðiên đưa luôn cái đùi chó vào mồm Ðộ Ách thì đột nhiên thấy cánh tay tê tái, cái đùi chó rớt ngay xuống đất.

Thì ra nội kình của Ðộ Ách đã tỏa ra khắp người và đã tới mức ruồi muỗi cũng không thể đậu vào được, chân tay mình mẩy hễ có lực lượng đụng vào là tự nhiên có sức bắn bật trở lại ngay.

Chu Ðiên liền la lớn:

– Ối trời ơi, khiếp quá, khiếp qúa!!… Ngươi không ăn thì thôi, hà tất phải vất cái đùi chó của ta xuống đất cho dơ bẩn như vậy, bắt đền ngươi đấy! Ta bắt đền ngươi đấy.

Nói xong y chân nhảy, tay múa om sòm nhưng ba lão hòa thượng đã tu luyện tới mức cao thâm, nên không bị một tí ngoại ma nào quấy nhiễu hết.

Chu Ðiên liền lấy luôn một thanh đoản đao ra, mồm thì la lớn:

– Ngươi chê không thèm ăn đùi chó của ta, ngày hôm nay ta thế nào cũng phải thí mạng với ngươi mới được.

Nói xong y liền giơ dao rạch lên mặt một cái, máu tươi liền chảy ra ngay.

Quần hùng thấy vậy chưa hết kinh hãi, thì Chu Ðiên lại giơ dao lên rạch mặt một cái nữa, mặt của y máu me đầm đìa trông rất khó coi.

Tình hình này bất cứ ai thấy cũng phải kinh hồn động phách, nhưng ba lão hòa thượng đã thần du vật ngoại, ngũ quan đều mất hết, hầu như không còn cảm xúc với bên ngoài, nên họ không những không thấy cảnh tự tàn sát bộ mặt của Chu Ðiên mà ngay cả sự xuất hiện của Chu Ðiên như thế nào họ cũng không biết nốt.

Chu Ðiên thấy Ðộ Ách làm thinh như vậy liến lớn tiếng kêu la tiếp:

– hòa thượng giỏi thật, ngươi không mau đền lại cái đùi chó cho ta thì ta chết trước mặt ngươi liền.

Nói xong y liền giơ dao lên đâm ngay vào giữa ngực.

Nên biết Chu Ðiên tính vốn trung nghĩa, trông thấy giáo chủ sắp lâm nạn nên mới quyết tâm xả thân như thế để làm loạn tâm trí ba hòa thượng.

Nhưng y vừa cầm dao đâm vào ngực thì đột nhiên có một cái bóng vàng thấp thoáng phi thân tới giơ tay ra cướp luôn đoản đao của y.

Tiếp theo người ấy lại là là tiến lên giơ năm ngón tay ra cắm ngay vào đầu Chỉ Nhược. Thủ pháp của người ấy không khác gì thủ pháp của Tống Thanh Thư hạ sát trưởng lão Cái Bang.

Lúc ấy ngón tay của Chỉ Nhược chỉ cách đầu Tạ Tốn hơn hai thước thôi, nhưng thân pháp của kẻ địch đến đánh lén quá nhanh nên nàng đành giơ tay chống đỡ thế đánh của đối phương.

Nội kình của Vô Kỵ mạnh không kém gì sức của ba hòa thượng liền tay.

Nhưng về môn khổ truyền quên hết mọi vật bên ngoài thì chàng không sao bằng tam tăng, vì chàng chưa luyện tới mức trông mà không thấy, nghe mà không hay, nên Chỉ Nhược uy hiếp Tạ Tốn thế nào chàng nghe và thấy hết, nên tâm thần mới hỗn loạn như vậy.

Ðến khi Chu Ðiên xông lên phá bĩnh rồi rút dao tự sát chàng cũng biết hết, trong lòng càng lo âu thêm, đang lúc chàng sắp hộc máu ra chết thì bỗng ngửi thấy một mùi gì rất thơm.

Thì ra thiếu nữ áo vàng đã phi thân tới cướp đao của Chu Ðiên phá thế công của Chỉ Nhược và giải nguy cho Tạ Tốn.

Vô Kỵ thấy vậy mừng rỡ vô cùng nên nội kình lại nẩy nở ngay và liền hoá giải được tất cả kình lực của ba vị hòa thượng đẩy sang.

Chỉ thoáng cái chàng đã vớt lại thế cân bằng, cục diện không đến nỗi như trước nữa. Ðộ Ách các người tuy không nghe và không trông thấy ngoại vật nhưng nội lực đối phương mạnh yếu thế nào cả ba đều biết rõ lắm.

Ðột nhiên họ thấy nội kình của Vô Kỵ lại mạnh khôn tả, đang chuẩn bị biến thủ thành công.

Như vậy lúc này là lúc giải trừ nguy nan của hai bên rất tốt.

Ba hòa thượng tâm ý tương thông, liền từ từ thu lại nội kình của mình.

Vô Kỵ cũng thâu nội kình theo, thế là mỗi bên đều thâu lại một phần.

Thời gian không quá một khắc, kình lực của hai bên đã thâu hết về.

Bốn người thâu xong kình lực, đồng ha hả cười và cùng đứng dậy một lúc.

Vô Kỵ liền cúi rạp đầu xuống tận đất vái chào, Ðộ Ách, Ðộ Kiếp, Ðộ Nạn ba người đều chắp tay đáp lễ.

Bốn người đồng thanh nói:

– Kính phục, kính phục.

Vô Kỵ quay đầu lại thấu thiếu nữ áo vàng đang đấu nhau với Chỉ Nhược rất kịch liệt. Thiếu nữ chỉ có hai bàn tay không mà Chỉ Nhược một dao một roi mà vẫn bị lép vế như thường.

Chàng thấy võ công của nàng nọ giống hêt võ công của Chỉ Nhược, phiêu hốt linh động, biến ảo vô phương, nhưng những thế võ của nàng lại là chính chứ không phải tà, nếu bảo Chỉ Nhược tựa như mà quỉ thì nàng nọ lại tựa như thần tiên.

Vô Kỵ xem một hồi, biết thiếu nữ áo vàng chỉ có thắng chứ không có bại, như vậy nghĩa phụ mình đã thoát hiểm. Nhưng chàng thấy thiếu nữ áo vàng ra tay có vẻ dẫn dụ, hình như muốn biết rõ căn bản võ công của Chỉ Nhược ra sao vậy. Cho nên, nàng ta mới không hạ sát đối thủ ngay, bằng không nàng đã sớm đánh Chỉ Nhược ngã rồi.

Ðộ Ách liền nói:

– Thiện tai, thiện tai. Trương giáo chủ, tuy giáo chủ không thắng nổi ba anh em chúng tôi nhưng chúng tôi cũng không thắng nổi giáo chủ. Tạ cư sĩ, mời cư sĩ cứ tự tiện rút lui đi.

Nói xong, y liền tiến lên giải hết các huyệt đạo cho Tạ Tốn vào nói tiếp:

– Tạ cư si, buông dao mổ heo xuống, là trở thành phật liền. Cửa phật lúc nào cũng mở rộng, trên thế gian này không có người nào là không dẫn độ được. Cư si cùng anh em lão tăng ở trên núi lâu như vậy kể ra cũng là có duyên kiếp với nhau đấy.

Tạ Tốn liền đứng dậy đáp:

– Ngã phật từ bi, cảm ơn ba vị đại sư đã chỉ dẫn con đường sáng cho Tạ Tốn tôi đi. Tạ Tốn tôi cám ơn vô cùng.

Lúc ấy mọi người nghe thấy thiếu nữ áo vàng thết lên một tiếng rất thanh thoát, lật ngửa tay trái ra một cái, đã cướp ngay được cây roi trong tay Chỉ Nhược va tiếp theo đó, nàng dùng khủyu tay thúc vào yếu huyệt trước ngực đối thủ, tay phải của nàng chìa năm ngón ra, giơ lên trên đầu của đối phương vào nói:

– Ngươi có muốn thử mùi Cửu Âm Bạch Cốt Chảo này không?

Chỉ Nhược không sao cử động được, đành nhắm mắt chờ chết.

Hai mắt của Tạ Tốn tuy đã mù loà không còn trông thấy gì, nhưng sư vương biết rõ những tình cảnh ở chung quanh mình và tai cũng còn nghe hết mọi chuyện, nên vội tiến lên vái chào và nói:

– Cô nương đã ra tay cứu hai cha con tôi thoát chết, ơn đức này cao thâm vô cùng, còn Chu cô nương này nếu không hối cải, cứ làm những điều bất nghĩa thì thế nào cũng gặp quả báo, nhưng hôm nay xin cô nương tạm tha cho y thị.

Thiếu nữ áo vàng đáp:

– Kim Mao sư vương hối cải nhanh chóng quá.

Nói xong, chỉ thoáng cái nàng đã lùi ra liền.

Vô Kỵ dắt tay Tạ Tốn sát cánh đi ra.

Tạ Tốn liền nói:

– Hãy khoan đã.

Nói xong, Sư vương chỉ vào mặt lão tăng ở trong đám hòa thượng phái Thiếu Lâm và lên tiếng kêu gọi:

– Hỗn Nguyên Phích Lích Thủ Thành Khôn làm ơn đứng ra đây, đem hết tiền nhân hậu quả nói rõ cho các vị anh hùng nghe.

Quần hùng nghe nói, giật mình kinh hãi, đều quay lại nhìn người sư vương đang chỉ, liền thấy một lão tăng lưng khòm, mặt rất xấu xí, quần áo cũ kỹ và rách rưới, tướng mạo khác hẳn Thành Khôn.

Vô Kỵ đang định nói:

– Y không phải là Thành Khôn đâu.

Nhưng Tạ Tốn đã lên tiếng nói tiếp:

– Thành Khôn, dù ngươi thay đổi hình dạng, đổi cả tiếng nói đi nữa, nhưng chỉ một tiếng ho của ngươi ta cũng đã nhận ra rồi.

Lão tăng đó cười khỉnh và đáp:

– Ai thèm nghe tên nói bậy bạ như vậy.

Nhưng y vừa lên tiếng thì Vô Kỵ đã nhận ra ngay. Vì khi ở trên Quang Minh đỉnh chàng bị nhốt trong túi vải, đã nghe Thành Khôn nói một thôi một hồi, nên bây giờ vừa nghe y nói thành tiếng, đã nhận ra ngay. Tuy bây giờ Thành Khôn cố ý gằn giọng nói, hình dáng mặt mũi cũng được hoá trang rất khéo. Nhưng dù sao tiếng nói cũng không thể biến đổi được hết, chàng liền tung mình đến chận lối lui của Thành Khôn và nói:

– Viên Chân đại sư, Thành Khôn tiền bối, đại trượng phu thì phải quang minh lỗi lạc, tại sao không dám đưa bộ mặt thật ra cho mọi người nhìn?

Thành Khôn giả dạng lão hòa thượng, ẩn núp trong đám đông, trước sau không lộ một chút tung tích nào hết, ngờ đâu trong lúc thiếu nữ áo vàng chế ngự Chu Chỉ Nhược, y chỉ sơ y ho một tiếng, mà đã bị khám phá.

Số là sau khi hai mắt đã mù, tai của Tạ Tốn lại trở nên thính vô cùng, nên tiếng ho của kẻ thù đối với Tạ Tốn không khác gì tiếng sét đánh bên tai, nên sư vương mới nhận ra được Thành Khôn đang đứng ở nơi đó.

Thành Khôn ẩn núp trong chùa, thu thập được rất nhiều đồng đảng.

Ngày hôm nay, y định khiêu khích cho quần hùng tự tàn sát lẫn nhau, để cuối cùng áp bức các người phải cho y hay thanh đao Ðồ Long ở đâu, rồi y sẽ giết chết Tạ Tốn và Không Văn, Không Trí, và tự lên tiếp nhận phương trượng của chùa Thiếu Lâm.

Ngờ đâu, tuy mưu kế của y khéo thật, nhưng việc gì cũng vậy, đến phút cuối thường có biến cố xảy ra, không sao toại nguyện được.

Y thấy Vô Kỵ cản lối của mình biết là việc đã bại lộ rồi, liền đứng thẳng người lên la lớn:

– Thiếu Lâm tăng chúng, hãy nghe ta nói đây: “Ma giáo quấy rối đất Phật, khinh thị bổn phái, tăng chúng ta cùng ra tay, cứ việc chém giết chúng không cần nương tay gì cả”.

Ðồng đảng của y đồng thanh vâng lời, rút khí giới ra, đang đinh xông lên tấn công. Không Trí nhịn nhục đã lâu, và vì lo âu cho sự an nguy của sư huynh mình, nên mới chịu cho bọn phản đồ của Thiếu Lâm kiềm chế như thế.

Lúc này, y thấy Thành Khôn hiệu triệu tăng chúng đối đầu với Minh giáo, biết trận hỗn chiến này tăng chúng của bổn chùa se bị tổn thương không sao tưởng tượng được.

Cân nhắc nặng nhẹ Không Trí thấy việc an nguy của một mình Không Văn là việc nhỏ, tất cả bang chúng trong chùa mới là việc lớn, nên Không Trí vội vàng đứng lên quát lớn:

– Các đệ tử của Thiếu Lâm không được lỗ mãng, Không Văn phương trượng đã lọt vào tay của tên phản loạn này, các đệ tử phải bắt cho được tên phản đồ này rồi cứu phương trượng sau.

Lúc ấy trên ngọn núi hỗn loạn khôn tả.

Trong lúc hỗn loạn ấy, Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược uể oải ngồi dưới đất, mặt tỏ vẻ thất vọng vô cùng, chàng không đành tâm, liền tiến lên giải huyệt cho nàng.

Ngờ đâu, Chỉ Nhược lại hất tay chàng ra và đứng dậy đi về chổ đệ tử phái Nga Mi.

Tạ Tốn liền lớn tiếng nói:

– Câu chuyện ngày hôm nay hoàn toàn do một mình Thành Khôn và tôi gây nên hết, mọi sự ân oán phải để cho hai chúng tôi kết liễu lấy.

Nói tới đó, sư vương quay mặt về phía Thành Khôn nói tiếp:

– Sư phụ, bản lãnh của Tạ Tốn là do sư phụ truyền thụ cho. Thành Khôn, cả nhà ta cũng đều do ngươi giết chết, đại ân đại thù của ngươi, ngày hôm nay chúng ta phải thanh toán cho xong.

Thành Khôn thấy Không Trí không quản ngại gì hết, đã lên tiếng ra lệnh, dù sao tăng chúng chính phái vẫn nhiều hơn đồng đảng của y, như vậy chức vị của chùa Thiếu Lâm y không còn hy vọng gì cướp được nữa, huống hồ Minh Giáo với Ðộ Ách ba hòa thượng liên tay với nhau thì càng khó chống đỡ nữa.

Y vốn là người rất khôn ngoan, kế trước không thành, liền nghĩ ngay ra kế sau:

– Tạ Tốn gây nên rất nhiều tội ác, nếu ta chế phục y, đổ hết tội lỗi cho y được. Võ công của y do ta truyền thụ cho, huống hồ bây giờ y bị mù rồi, chẳng lẽ ta không đối phó nổi y hay sao?

Nghĩ đoạn y liền nói:

– Tạ Tốn, trên giang hồ này không biết bao nhiêu anh hùng đã bị mi giết chết, ngày hôm nay y lại còn dụ bọn ma đầu tới quấy phá cửa Phật của phái Thiếu Lâm và đối địch với anh hùng thiên hạ, ta rất hối hận vì năm xưa đã truyền thụ võ công cho ngươi. Lúc này ta phải quét sạch cửa ngõ để trị tội ngươi, một tên nghịch đồ đã khi sư phạm tổ.

Nói xong y lớn bước tiến tới trước mặt Tạ Tốn.

Tạ Tốn liền lớn tiếng nói với quần tăng:

– Bốn phương anh hùng hãy nghe Tạ Tốn ta nói đây. Võ công của Tạ Tốn đây vốn do Thành Khôn này truyền thụ cho. Nhưng chính y đã hãm hiếp vợ tôi không xong, liền giết chết cha mẹ và vợ con tôi. Sư tôn tuy thân thực, nhưng không bằng thân cha mẹ sinh ra mình, tôi kiếm y báo thù, chẳng hay có nên hay không nên hở quý vị?

Quần hùng đứng quanh đó liền lớn tiếng đáp:

– Nên báo thù… nên báo thù…

Thành Khôn không nói nửa lời, múa chưởng, nhắm đầu Tạ Tốn bổ xuống.

Tạ Tốn liền né đầu tránh khỏi nguy hiểm.

Chỉ nghe thấy kêu “hự” một tiếng, chứ không đánh trở lại và nói lớn:

– Thành Khôn năm xưa lúc truyền thụ thế Trượng Hồng Kinh Thiên người có nói: “Nếu thế này, đánh trúng vào người địch thì phải vận hỗn nguyên nhất khí công để đả thương địch, tại sao bây giờ người không vận công đi? Có phải người tuổi già không sao vận nổi khí công ấy nữa phải không?

Thì ra Thành Khôn biết người biết ta, y biết rõ võ công của Tạ Tốn rất lợi hại, nên thế thứ nhất y chỉ dùng thế hư, không ngờ đối phương lại không tránh né, vì thế mà Tạ Tốn không bị thương.

Thành Khôn dùng tay trái kéo một cái, tay phải đánh luôn một chưởng.

Tạ Tốn bị đánh chếch người sang bên một cái mà vẫn không chống cự.

Thành Khôn liên hoàn đá luôn hai cái, kêu “cộp, cộp” hai tiếng.

Tạ Tốn bị đối phương đá trúng hai bên hông, hai cái đá của Thành Khôn lợi hại vô cùng, dù thân mình Tạ Tốn rất cao lớn và sức vóc rất khoẻ cũng không sao chịu nổi hai cái đá ấy, liền khạc ra một đống máu tươi.

Vô Kỵ lại kêu la:

– Nghĩa phụ, trả đũa đi, sao cứ chịu đòn không đánh trả lại như thế?

Tạ Tốn lảo đảo mấy cái, gượng cười đáp:

– Y là sư phụ của ta, ta chịu y hai cái đá, một chưởng như vậy là đáng lắm.

Nói xong, sư vương rú lên một tiếng thật dài múa chưởng xông lại tấn công luôn.

Thành Khôn thấy vậy kinh hãi thầm và nghĩ:

– “Nguy tai, nguy tai! Ta tưởng y thù hằn ta hết sức, vừa ra tay sẽ đấu thí mạng liền ngờ đâu y lại chịu để cho ta đánh ba thế như vậy, nếu biết trước như thế ta dở hết sức ra giết luôn y có phải hơn không?

Y thấy chưởng của Tạ Tốn tấn công rất lợi hại, liền giơ tay trái lên định lôi đi một cái, làm giảm bớt chưởng lực của đối phương đi, rồi sẽ quay người đi nửa vòng thì sẽ tới sau lưng địch thủ liền, liền dơ chưởng lên, nhẹ nhàng đánh xuống không có một tiếng động gì cả.

Ngờ đâu Tạ Tốn tựa như sau lưng có mắt vậy, liền đá hậu một cái, Thành Khôn nhẹ nhàng nhảy sang tránh né, rồi tựa một con chim ưng đâm bổ xuống.

Y tuổi đã cao mà thân pháp không kém gì người còn trẻ.

Tạ Tốn giơ hai tay lên đẩy mạnh một cái, thế công của Thành Khôn liền bị cản trở ngay và còn bị bắn trở lên nữa.

Y ở trên không khẽ lượn một vòng, lại đâm bổ xuống tấn công tiếp. Thân pháp của y đẹp vô cùng, rất hiếm thấy trong võ lâm.

Hai người đã bắt đầu ra tay đánh với nhau, nên đều ra tay nhanh khôn tả, thoáng cái đã đấu được bảy tám mươi hiệp liền.

Tuy hai mắt đã mù, không còn trông thấy gì, nhưng Tạ Tốn lại chiếm được một phần lợi là võ công của y do Thành Khôn truyền thụ cho, nên các thế võ của Thành Khôn y đều hiểu hết. Tuy cách nhau mấy chục năm nội công của hai người đã tiến hơn trước rất nhiều nhưng võ công thì cũng là những miếng bổn môn.

Tạ Tốn không cần nhìn cũng đã biết chưởng của mình đánh sang đối phương sẽ đỡ thế nào và thế võ của đối phương sẽ dùng tấn công mình thế nào đều biết hết. Lại thêm y tuổi trẻ hơn Thành Khôn mười mấy năm khí huyết hùng tráng hơn, trong những năm ở Băng Hoa đảo, y đã luyện được nội lực rất mạnh, vì thế hơn trăm hiệp đầu, y không bị lép vế chút nào.

Tạ Tốn thù Thành Khôn khôn tả, khổ công đợi chờ mấy chục năm bây giờ mới ra tay đấu, Vô Kỵ cũng đoán chắc nghĩa phụ của mình thế nào cũng thí mạng tấn công, dù có cùng Thành Khôn bị chết cả một thể cũng bất chấp.

Ngờ đâu bây giờ chàng thấy thế thức võ công nào của Tạ Tốn cũng rất vững chắc và bảo thủ rất nghiêm mặt. Thoạt tiên chàng hơi ngạc nhiên , sau thấy Tạ Tốn đấu được mấy chục hiệp mới hiểu liền.

Võ công của Thành Khôn quá cao siêu, quả thực không thua gì Ðộ Kiếp, Ðộ Nạn mấy lão hòa thượng.

Nếu vừa vào đấu, Tạ Tốn cậy mình khoẻ hơn cứ ra tay lia lịa chỉ có thể cầm cự đến năm trăm hiệp là cùng.

Hai thầy trò đấu với nhau, võ công của đối phương cao siêu đến mức nào đều hiểu rõ hết.

Tạ Tốn càng thù hận bao nhiêu ra tay càng thận trọng bấy nhiêu, chỉ sợ mình bị Thành Khôn tiêu hủy trước thì không sao trả được mối huyết cừu của cha mẹ và vợ con nữa.

Vừa đấu được hơn hai trăm hiệp thì Tạ Tốn đã quát lớn một tiếng tấn công luôn một quyền.

Thường Kính Chi của phái Không Ðộng đang đứng đấy xem thấy vậy vội gọi:

– Thất Thương quyền đây.

Y vừa nói xong, đã thấy Tạ Tốn tả hữu song quyền đang liên tục tấn công oai mãnh vô cùng.

Các lão bối của Không Ðộng đều kinh sợ và ngơ ngác nhìn nhau, vì Thất Thương quyền này là Tạ Tốn lấy trộm cuốn pho quyền của phái Không Ðộng mà học thành. Nhưng oai lực song quyền của Sư Vương lại còn mạnh hơn cả Ðường Văn Lượng, Thường Kính Chi, mấy lão hiệp được đích truyền của phái Không Ðộng.

Thành Khôn giơ tả chưởng lên lôi tay Tạ Tốn sang bên, rồi chờ quyền thứ hai của Tạ Tốn đánh tới, vội giơ hữu chưởng lên đẩy luôn.

Chỉ nghe thấy kêu một tiếng, quyền và chưởng va chạm nhau, Tạ Tốn râu tóc đều dựng lên, oai phong lẫm liệt, đứng yên một chỗ không cử động gì cả, còn Thành Khôn thì bị lui về phía sau ba bước.

Quần hùng đứng xem quanh đó đã có nhiều người vỗ tay khen ngợi. Thì ra mối thù hằn giữa Tạ Tốn và Thành Khôn ra sao, người trên giang hồ đã đồn đại khắp nơi rồi. Tuy ai nấy đều tức hận Sư Vương ra tay quá ác độc, giết bừa bãi những kẻ vô tội, nhưng cũng cảm thấy hoàn cảnh của y quá bi đát, vì vậy có nhiều người thông cảm nên đa số mong y thắng trận hết.

Tạ Tốn lại tiến lên ba bước, tiếp theo lại tấn công thêm hai quyền, có tiếng gió kêu vù vù, thật lợi hại khôn tả.

Thành Khôn đánh trả lại hai chưởng, lại lui về phía sau ba bước.

Vô Kỵ thấy vậy lo âu thầm và nghĩ:

– Nguy tai, Thành Khôn đã xử dụng Cửu Dương công của phái Thiếu Lâm, có lẽ là y vái Không Kiến thần tăng làm sư phụ rồi nên mới học được võ công này. Sở dĩ đối phương làm như chịu không nổi là muốn xử dụng Cửu Dương công của phái Thiếu Lâm để đối phó. Mỗi một quyền của Tạ Tốn đánh ra là Thành Khôn chịu bảy thành quyền lực của y, rồi lấy Cửu Dương công của Thiếu Lâm ra hoá giải, còn ba thành lực thì đẩy trở lại. Tạ Tốn tấn công luôn mười hai quyền, Thành Khôn lùi mấy chục bước. Bề ngoài ai cũng tưởng Tạ Tốn thắng thế, nhưng sự thật y càng đánh bao nhiêu quyền nội thương càng tăng thêm bấy nhiêu. Ðây là cơ hội phục thù mà nghĩa phụ ta đã chờ đợi cả đời, nay mới được gặp gỡ. Dù sao ta không thể nhúng tay vào tương trợ được. Nếu đấu thêm mấy chục quyền như thế nữa thế nào nghĩa phụ cũng hộc máu tươi ra mà chết tốt.

Không Trí đột nhiên lạnh lùng nói:

– Viên Chân, năm xưa sư huynh ta truyền thụ Thiếu Lâm Cửu Dương công là để cho ngươi giết người hay sao?

Thành Khôn cười một tiếng rồi đáp:

– Ân sư ta bị Thất thương quyền của tên phản đồ này đánh chết, ngày hôm nay, ta phải trả thù cho ân sư.

Triệu Minh đột nhiên xen lời, lớn tiếng nói:

– Cửu Dương công của Không Kiến thần tăng tất nhiên là phải giỏi hơn ngươi, tại sao không chống đỡ nổi Thất Thương quyền? Như vậy đủ thấy Không Kiến đại sư bị người giết hại. Chính ngươi đã đánh lừa thần tăng, đứng ra hòa giải mối oan nghiệp, lừa cho thần tăng chịu đòn mà không trả đũa, hì hì, ngươi thử xem, người đứng sau lưng ngươi là ai, mặt dính đầy máu, hai mắt căm hờn đang chỉ vào sau lưng mi đấy. Ông ta chả là Không Kiến thần tăng là gì?

Thành Khôn biết đó chỉ là chuyện giả chứ không phải thực nhưng y đã hành động trái với lương tâm, thì dù sao trong lòng vẫn nơm nớp hoảng sợ. Nên y nghe thấy Triệu Minh nói xong, rùng mình một cái, thì vừa lúc ấy Tạ Tốn lại tấn công một quyền tới. Lần nay y đánh trả lại một chưởng, người lảo đảo mấy cái, nhưng không lui về phía sau. Vì y phân tâm một chút mà chân khí đã sai lối, nên bị quyền của Tạ Tốn đánh cho ngực y khí huyết rạo rực, mắt hoa tai ù. Y vội dở khinh công ra chạy quanh Tạ Tốn mấy vòng để nhân dịp đó mà điều vận lại hơi sức.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Không Kiến thần tăng cứ theo sát y đi, phải rồi, như thế phải lắm, thổi hơi lạnh vào gáy y đi. Thần tăng chết bởi tay của đồ đệ thì y cũng phải bị đồ đệ y giết chết như vậy mới gọi là nhất báo hoàn nhất báo, ông trời có mắt, báo ứng không sai chút nào!

Thành Khôn càng kinh hoàng, cứ tưởng như linh hồn của Không Kiến thần tăng hình như đang cảm thấy có gió lạnh thổi tới thực. Sự thật trên đĩnh núi cao chót vót như vậy lúc nào mà chả có gió lạnh thổi, vả lại hai người đấu với nhau cứ nhảy nhót và chạy quanh tất nhiên đằng sau phải có gió.

Triệu Minh thấy Thành Khôn có thái độ chần chừ và hơi nghi ngờ nàng lại nói tiếp:

– Ối chà, Thành Khôn, ngươi thử quay đầu lại phía sau lưng đi. Ngươi không dám quay đầu lại nhìn phải không? Ngươi thử nhìn xem bóng đen ở dưới đất sẽ thấy liền, tại sao hai người đánh nhau mà lại có tới ba cái bóng như thế!

Thành Khôn nghe thấy Triệu Minh nói như vậy liền cúi đầu xuống nhìn, y thấy giữa hai cái bóng của y và Tạ Tốn còn có thêm một cái bóng nữa y liền rùng mình một cái thì quyền của Tạ Tốn vừa đánh tới. Y không kịp dùng thần công ra hóa giải, đành phải giơ quyền ra chống đỡ. Chỉ nghe thấy tiếng kêu “bùng” một tiếng.

Lần này cả hai dùng lực lượng thực sự đối chọi với nhau, cả hai người đều lảo đảo một cái và cùng lùi về phía sau một bước.

Lúc này Thành Khôn mới nhìn rõ cái bóng đen y trông thấy hồi nãy chỉ là thân cây thông bị Trương Vô Kỵ đánh đổ chỉ còn trơ khúc dưới nên mới có bóng cao như thân người vậy.

Thành Khôn đấu mãi thấy không thắng nổi Tạ Tốn, trong lòng càng lo âu, sốt ruột thêm, và nghĩ thầm:

– Y là đồ đệ của ta, hai mắt đã mù mà ta vẫn không hạ nổi y, thủ hạ tâm phúc của ta thế nào cũng không phục, hiện giờ tình hình hiểm ác như thế, chỉ có cách là bắt sống được tên nghịch đồ này trước, như vậy một là có thể kiềm chế được Minh giáo, hai là có thể kích động được những kẻ thù của y. Hơn nữa nếu ta tra hỏi y nói ra con dao Ðồ Long hiện ở đâu, như vậy còn hay biết chừng nào.

Ðột nhiên y trông thấy cái bóng đen của cây thông đổ kia liền nghĩ ra một kế, y liền rón rén đi bước đổi hình, lẳng lặng lùi tới chỗ thân cây gãy hai bước.

Tạ Tốn tấn công luôn một quyền, tiến lên hai bước thì Thành Khôn lui về phía sau hai bước.

Y muốn dụ Tạ Tốn vướng ngã vào thân cây thông gãy.

Tạ Tốn đang định đuổi theo truy kích thì Vô Kỵ đã lên tiếng:

– Nghĩa phụ cẩn thận dưới chân.

Tạ Tốn rùng mình một cái nhảy luôn sang bên và chỉ hơi chần chừ một chút, Thành Khôn đã tìm ra chỗ sơ hở mà giơ chưởng lẳng lặng đánh tới.

Chưởng này của y không gây tiếng gió gì cả, di tay vào ngực Tạ Tốn một cái, chưởng lực của y mới dồn ra.

Tạ Tốn liền ngã ngửa người về phía sau. Y dơ chân lên dẫm mạnh một cái, định đập vỡ sọ đối thủ.

Ngờ đâu Tạ Tốn lăn đi một vòng, tránh được thế dẫm đó, lại đứng dậy được nhưng miệng đã có máu tươi rỉ ra.

Thành Khôn đứng yên, không cử động gì hết lại từ từ giơ chưởng ra. Y biết Tạ Tốn đấu với y là nhờ ở quen thuộc thế võ và đồng thời phải nghe rõ tiếng mới phân biệt được thế võ của y tấn công về phía nào.

Lúc này y đã nghĩ ra cách đối phó với Tạ Tốn. Thế võ của y càng đánh ra càng chậm, không có tiếng động và tiếng gió, để cho Tạ Tốn không sao đề phòng được.

Chưởng của y từ từ đưa tới trước mặt Tạ Tốn ừa dè dặt vừa lật ngửa, một chưởng lại đánh ngay vào đầu vai đối phương.

Tạ Tốn lại lảo đảo một cái, gượng sức chống đỡ để khỏi ngã.

Trong đám quần hùng đã có rất nhiều người bất mãn thế đánh hèn mạt của Thành Khôn, nên đều lần lượt la lớn:

– Người sáng đánh với người mù mà còn xử dụng thủ đoạn đê hèn ấy.

Thành Khôn không thèm đếm xỉa tới, vẫn cứ từ từ giơ chưởng ra đánh.

Tạ Tốn cố hết sức lắng tai nghe.

Quả nhiên sư vương đã giơ tay lên chống đỡ và gạt được mấy chưởng của địch sang bên.

Vô Kỵ thấy tóc vàng của nghĩa phụ bay tung, hai bên miệng đều có máu tươi rỉ ra, nên trong lòng vừa tức giận vừa lo âu, mà cứ đấu với kẻ thù như thế này mãi thì thế nào nghĩa phụ cũng chết trong tay Thành Khôn mất.

Nhưng chàng biết tính của Tạ Tốn, một đời anh hùng, khi nào chịu để cho mình ra tay trợ giúp.

Dù có giết được Thành Khôn đi chăng nữa, nghĩa phụ có sống cũng như chết vậy, tên tuổi sẽ trôi theo dòng nước liền.

Vô Kỵ liền nắm tay Triệu Minh khẽ nói:

– Minh muội nghĩ kế hộ tôi đi.

Triệu Minh khẽ đáp:

– Ðại ca ngấm ngầm ném ám khí, bắn mù hai mắt lão tặc trước.

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Không được, nghĩa phụ thà chết cũng không chịu để cho chúng ta làm thế đâu.

Lúc ấy trên trời bỗng u ám, hình như có đám mây đen che phủ mặt trời, đột nhiên có người la lớn:

– Thiên cẩu nuốt mặt trời.

Vô Kỵ ngẩng đầu lên nhìn, thấy trên trời đang có nhật thực.

Triệu Minh liền la lớn:

– Lão tặc Thành Khôn kia, ngươi làm nhiều điều ác quá, trời cũng không dung thứ cho ngươi, trời chẳng đang hiện ra trừng phạt ngươi là gì?

Thành Khôn vốn dĩ là người có tật giật mình, nay thấy bốn bề đột nhiên tối om, đồng thời lại nghe nói như thế nên càng hoảng sợ thêm, song chưởng tấn công tới tấp mấy thế, định đào tẩu xuống núi.

Nhưng Tạ Tốn nhất tâm báo thù không đếm xỉa đến sự xảy ra ở xung quanh, cứ quây chặt lấy kẻ thù, khiến Thành Khôn không sao thoát thân được.

Bỗng nghe thấy dưới chân núi có tiếng gà gáy.

Chỉ trong chốc lát, mặt trời đã bị mây che hẳn, đằng xa có tiếng thú gầm chó sủa vọng lên.

Quần hùng tuy táo gan thật, nhưng đang ở bãi đất trống, lại đột nhiên thấy mặt trời thay đổi như vậy, ai nấy cũng đều nơm nớp sợ. Nhật thực lần này rất kỳ lạ, mặt trời bị che lấp hẳn, không lộ ra tí ánh sáng nào hết.

Người nào người nấy chỉ thấy xung quanh tối đen như mực, giơ tay lên không trông rõ năm ngón.

Vô Kỵ nắm chặt tay Ttriệu Minh, tuy chàng đã cố nhìn mà vẫn không sao thấy được Tạ Tốn đấu với Thành Khôn như thế nào.

Lúc ấy Thành Khôn có mắt cũng như mù, thoạt đầu y còn hơi trông thấy hình bóng của Tạ Tốn càng tấn công càng nhanh, trong bóng tối chỉ thấy Thành Khôn rú lên những tiếng rất thảm khốc. Thì ra ngực của y bị Thất thương quyền của Tạ Tốn đánh trúng. Dù sao y cũng là kẻ đa mưu trí, biết mình bị thương khá nặng, nếu không nhảy lùi về phía sau thế nào cũng bị đánh trúng một quyền nữa.

Trong bóng tối, y vội thay đổi thế võ, dùng tiểu cầm nã để đối phó với địch. Môn tiểu cầm nã này chuyên để đánh giáp lá cà với kẻ địch trong bóng tối, phải ứng biến thật nhanh, không cần dùng mắt nhìn, chỉ xử dụng ngón tay, bàn tay, cánh tay và khủyu tay, bất cứ đụng vào nơi nào của kẻ địch là liền nắm, bắt, cào, đánh, xé, đập, móc, thúc ngay.

Tạ Tốn quát lớn một tiếng và cũng dùng tiểu cầm thủ đối phó lại. Thế võ của hai người không hơn kém gì nhau mấy. Quần hùng nghe trong bóng tối có tiếng hò hét liên tiếp và xen lẫn những tiếng tát, đấm, thúc của đôi bên nghe tựa như tiếng bắp rang nổ. Mọi người đoán chắc hai người đang tấn công nhanh khôn tả.

Vô Kỵ rất lo âu và nghĩ thầm:

– Nếu lúc này nghĩa phụ ta gặp hung hiểm, dù ta có muốn cũng không ra tay cứu được.

Chàng cố mở to hai mắt nhưng không phân biệt được thân hình của hai người.

Tạ Tốn không trông thấy cảnh tượng trên trời biến đổi kỳ lạ, nhưng trong lúc đối địch, sư vương đã nhận thấy nhiều thế đấm đá của địch đều vào chỗ trống hết.

Sư vương lại nghe thấy nhiều người ngoài la lớn: “Thiên cẩu nuốt mặt trời, thiên cẩu ăn mặt trời”.

Lão hiệp hiểu ngay nguyên nhân gì rồi.

Hai mắt đã mù trên hai mươi năm trời, lão hiệp nghe tiếng có thể phân biệt rõ hình ảnh, lấy tai thay mắt quen rồi, còn Thành Khôn đột nhiên biến thành người mù, đấm đá loạn xạ, ai hơn ai kém, liền rõ rệt ngay và tình thế cũng đảo ngược hẳn.

Tạ Tốn một mặt ra sức tấn công nhanh hơn trước, một mặt nghĩ thầm:

– Tình hình nhật thực này chỉ trông chốc lát thôi, mặt trời sẽ ló ra ngay. Sự may mắn tạm thời của ta chỉ thoáng cái đã mất ngay.

Thành Khôn càng đấu càng giật lùi, còn Tạ Tốn càng đấu càng tiến lên.

Dù ngày thường Thành Khôn giảo hoạt đến đâu, nhưng lúc này tâm trí cũng phải thất thường, nên y chỉ nghĩ bảo thủ cho thật kín, chờ nhật thực qua rồi, sẽ phản công lại ngay. Cho nên y cứ lui về phía sau lia lịa, hai tay tấn công nhanh như gió và toàn giở những thế độc ác nhất trong Tiểu cầm nã thủ.

Ðột nhiên, Tạ Tốn rẽ song chưởng sang hai bên, rồi vận tấn công vào dưới hông của Thành Khôn.

Thấy vậy Thành Khôn cả mừng liền kêu lên một tiếng:

– Trúng.

Y liền dùng hai ngón tay ở bàn tay phải để tấn công hai mắt của Tạ Tốn, thế này là Song Long Sang Châu.

Thế võ này nguyên rất tầm thường, nhưng xen vào Tiểu cầm nã thủ thì oai lực rất lớn, nếu đối phương cúi đầu né tránh, thì tay trái của y chém ngang luôn một chưởng, thế nào cũng trúng yếu huyệt thái dương ngay.

Ngờ đâu, Tạ Tốn không tránh không né, cũng quát lớn một tiếng “trúng” và Sư vương cũng xử dụng thế Song Long Sang Châu giơ ngón tay đâm thẳng vào mắt của Thành Khôn.

Hai ngón tay của Thành Khôn vừa đâm trúng vào mắt của Tạ Tốn, y đã sực nhớ ra một việc, liền kêu thầm “Nguy tai”.

Tiếp theo đó hai mắt của y đã đau nhức khôn tả vì đã bị hai ngón tay của Tạ Tốn đâm trúng rồi.

Lúc ấy mặt trời đã ló dần, quần hùng đã trông rõ trận đấu, ai nấy đều trông thấy hai mắt của Tạ Tốn và Thành Khôn chảy máu, cả hai cùng đứng yên, hai người bị thương như nhau, nhưng Tạ Tốn đui mù đã lâu, dù có bị Thành Khôn đâm trúng hai ngón tay thì cũng bị thương da thịt thôi, chứ không mất mát gì hết.

Trái lại Thành Khôn biến thành người mù.

Tạ Tốn cười nhạt một tiếng và hỏi:

– Ngươi nhìn thử đui mù xem có thích thú không?

Nói xong, Sư vương liền tấn công luôn một quyền.

Thành Khôn đôi mắt đã mù không trông thấy gì cả nên không sao tránh né được.

Thế Thất thương quyền của Tạ Tốn đánh trúng ngay ngực y, tiếp theo Tạ Tốn lại giơ tay trái lên tấn công luôn một quyền nữa.

Thành Khôn bị đánh lui về sau mấy bước, té luôn lên trên cây thông gãy, mồm phun máu tươi ra.

Y bỗng nghe Ðộ Ách nói:

– Nhân quả báo ứng, thiện tai thiện tai.

Tạ Tốn nghe lão hòa thượng nói câu đó liền ngẩn người ra, không tấn công luôn quyền thứ ba và lên tiếng nói tiếp:

– Ðáng lẽ ta đánh luôn ngươi mười ba quyền của pho Thất Thương quyền nhưng ta thấy võ công của ngươi đã mất hết, hai mắt đã mù từ nay ngươi trở thành phế nhân, không thể nào tái xuất giang hồ để tác oai tác quái làm hại người đời nữa, nên còn dư mười một quyền, ta khỏi cần đánh tiếp.

Quần hùng thấy Sư Vương toàn thắng đều hoan hô vang dậy.

Tạ Tốn đột nhiên ngồi phịch xuống đất, xương cốt trong người y kêu lách cách hoài. Thấy vậy cả kinh, chàng biết nghĩa phụ tự vận sức lực làm mất võ công của mình đi. Hành động này rất phi thường nên chàng vội kêu gọi:

– Nghĩa phụ, không nên làm như thế.

Vừa nói chàng vừa nhảy xổ lại định giơ tay ra ấn vào sau lưng Tạ Tốn, dùng Cửu Dương Thần Công kiềm chế, nhưng Tạ Tốn đã nhảy phắt lên, giơ tay ra đấm vào ngực một quyền hộc máu tươi ra như suối.

Chàng vội giơ tay ra đỡ, thấy cánh tay của nghĩa phụ yếu ớt không có sức, biết công lực của Sư Vương đã mất hết không sao cứu vãn được nữa.

Tạ Tốn đưa tay chỉ về phía Thành Khôn và nói tiếp:

– Thành Khôn, ngươi giết cả nhà ta, ngày hôm nay ta tự hủy hai mắt của ngươi, nên ta cũng tự hủy bỏ võ công để trả lại cho ngươi. Sư phụ, võ công của tôi do sư phụ truyền dạy, ngày hôm nay tôi hoàn toàn hủy hết và trả lại cho sư phụ rồi. Từ này trở đi, tôi với su phụ không ân không oán. Sư phụ không bao giờ được trông thấy mặt tôi và tôi cũng không bao giờ còn trông thấy sư phụ nữa.

Thành Khôn đưa hai tay lên ấn vào hai mắt thấy đau nhức vô cùng, y chỉ kêu hừ một tiếng chứ không trả lời.

Quần hùng nghe Sư Vương nói đều ngẩn người ra nhìn nhau, không ai ngờ trận đấu của hai thầy trò lại kết thúc như vậy.

Tạ Tốn lại lớn tiếng nói tiếp:

– Tôi Tạ Tốn đã gây nên rất nhiều tội ác, sự thực tôi không muốn sống tới ngày nay đâu, trong quý vị anh hùng có mặt tại đây có vị nào đã có anh, sư phụ, bạn bè bị Tạ Tốn giết hại năm xưa xin cứ tự nhiên ra đây kết thúc tính mạng của Tạ Tốn đi. Vô Kỵ con không được ngăn cản ai hết và cũng không được kiếm người đó để trả thù để tăng thêm nghiệp chướng của sư phụ.

Vô Kỵ nghẹn ngào vâng lời. Trong quần hùng có nhiều người thù hằn Tạ Tốn hết sức nhưng thấy báo thù cho mối huyết cừu của toàn gia cũng chỉ đến phế võ công của y đi thôi, hơn nữa lúc này võ công của y cũng đã bị hủy rồi, nếu bây giờ tiến lên đâm y một nhát kiếm, đánh y một quyền như vậy không phải là hành vi của một người anh hùng.

Trong đám đông bỗng có một người bước ra nói:

– Tạ Tốn cha ta là Nhất Chỉ Trần Tấn Nam Khất lão anh hùng bị chết dưới quyền của ngươi, bây giờ ta ra đây để trả thù cho cha ta.

Tạ Tốn đáp:

– Phải, chính tại hạ giết hại lệnh tôn, xin mời Khấn huynh ra tay đi!

Người họ Khấn đó rút đao ra tiến lên hai bước.

Vô Kỵ thấy vậy rối trí vô cùng, nếu không ra tay thì nghĩa phụ của mình sẽ bị chết dưới đao của đại hán kia, còn nếu ra tay đánh đuổi đại hán đó thì lại sợ làm cho nghĩa phụ bực mình. Huống hồ hai con mắt của ông đã mù, võ công hoàn toàn mất hết, sống ở trên đời cũng đâu còn thú vị gì nữa. Chàng nghĩ như vậy quả thật tình thế khó xử, người chàng run lẩy bẩy, chân tự nhiên tiến lên hai bước.

Tạ Tốn liền quát lớn:

– Vô Kỵ, nếu con ngăn trở người ta báo thù là bất hiếu với cha! Sau khi ta chết con xuống dưới hầm nhận xét kỹ sẽ thấy rõ hết!

Người họ Khấn giơ đao lên trước ngực, mắt ứa lệ, đột nhiên nhổ một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn rồi nức nở khóc:

– Tiên phụ một đời anh hùng, nếu ông ta ở trên trời khôn thiêng trông thấy tay tôi giết một người mất hết võ công như vậy thế nào cũng mắng tôi là đứa con mất nết…

Nói xong y vứt đao xuống đất, ôm mặt chạy luôn vào trong đám đông.

Tiếp theo đó lại có một người đàn bà trung niên bước ra nói:

– Tạ Tốn, ta đến đây để báo thù cho anh ta là Âm Dương Phán Quan Tần Bàng Phi!

Nói xong thị đi tới gần nhổ một đống nước bọt vào mặt Tạ Tốn rồi cũng khóc mà đi luôn.

Vô Kỵ thấy nghĩa phụ liên tiếp bị nhục như vậy mà vẫn đứng yên như thường mà long đau như cắt.

Các anh hùng hào kiệt xưa kia coi sự sống chết rất nhẹ nhưng không bao giờ chịu nhục nên mới có câu: “Sĩ khả sát bất khả nhục” là thế!

Hai người đó mỗi người nhổ một đống nước bọt vào mặt Tạ Tốn như vậy là một cử chỉ nhục mạ rất nặng mà Tạ Tốn vẫn thản nhiên chịu nhịn, đủ thấy y đã hối hận việc làm xưa kia tới cực điểm.

Trong đám đông lại có người bước ra, hết người này đến người khác, có người đánh y hai cái tát, có người đá y một cái, lại có người mắng chửi một hồi nhưng trước sau y vẫn chịu nhịn, không lui tránh cũng không cãi vã hay mắng chửi lại.

Tất cả có hơn ba mươi người liên tiếp đến làm nhục y như vậy, sau cùng có một đạo sĩ râu dài bước ra chắp tay chào và nói:

– Bần đạo Thái Hư Tử, hai vị sư huynh của bần đạo đều bị chết dưới tay của Tạ Ðại Hiệp, ngày này bần đạo được thấy thân tâm anh phong của Tạ Ðại Hiệp như vậy, tự thấy hổ thẹn vô cùng. Trước kia kiếm này của bần đạo cũng đã giết chết vô số anh hùng của Hắc, Bạch hai đạo, nếu bần đạo kiếm đại hiệp để báo thù thì người khác cũng có thể kiếm bần đạo để trả thù.

Nói xong y rút trường kiếm ra, giơ tay trái lên khẽ búng “coong” một cái, trường kiếm đó gẫy làm đôi. Y vứt kiếm gãy xuống đất, chụp tay vái chào một cái rồi đi ngay.

Quần hùng thì thầm bàn tán, nhận thấy Thái Hư Tử tuy không có tên tuổi trên giang hồ mấy nhưng võ công rất lợi hại. Y lại còn làm được một điều rất khó là tha thứ với lòng quảng đại và biết tự trách mình như thế. Ai nấy cũng đoán chắc không có người nào ra làm khó dễ Tạ Tốn nữa.

Ngờ đâu, mọi người đang bàn tán xong thì từ phái Nga Mi đã có một nữ ni, tuổi trạc trung niên đi tới trước mặt Tạ Tốn nói:

– Thù giết chồng, ta cũng nhổ một đống nước bọt để kết liễu cho xong!

Nói xong nữ ni đó liền nhổ nước bọt vào trán của Tạ Tốn, ngờ đâu nước bọt của người này vừa nhanh vừa mạnh, bên trong lại có xen một mũi đinh bằng gang hình hạt táo.

Tạ Tốn nghe thấy tiếng gió khác lạ liền gượng cười không né tránh, trong lòng nghĩ thầm:

– Ðến bây giờ ta mới chết nhưng đã muộn rồi !

Ðột nhiên, có một cái bóng vàng thấp thoáng, một thiếu nữ áo vàng nhảy tới giơ tay áo phất một cái, mũi đinh đã bị cuộn luôn vào trong tay áo.

Nàng quát hỏi:

– Vị sư thái kia, pháp danh xưng hô ra sao?

Nữ ni đó thấy đột kích không trúng, mặt tỏ vẻ kinh hoảng đáp:

– Bần ni là Tĩnh Chiếu.

Thiếu nữ áo vàng lại hỏi tiếp:

– Tĩnh Chiếu, Tĩnh Chiếu… hừ trước kia xuất gia đi tu chồng của sư thái tên họ là gì? Tại sao sư thái lại đột nhiên ra đây giết hại Tạ Ðại Hiệp như thế?

Tĩnh Chiếu nổi giận đáp:

– Việc này có liên quan gì đến ngươi, ai khiến ngươi can dự vào làm chi?

– Tạ đại hiệp sám hối hết tội lỗi, nếu có người trả thù lớn cho cha, anh, sư phụ hay bạn hữu dù có chém giết ra muôn mảnh đại hiệp cũng cam tâm chịu nhịn hết và người khác cũng không có quyền can thiệp. Nhưng nếu có người lập ác tâm độc ác định trà trộn để giết người diệt khẩu thì việc này ai cũng có thể can thiệp được.

– Ta với Tạ Tốn không thù không oán hà tất phải giết người diệt…

Nữ ni chưa nói hết chữ khẩu, biết mình nói lắm vội ngậm miệng lại, sắc mặt nhợt nhạt liếc nhìn Chỉ Nhược một cái.

Thiếu nữ áo vàng lại hỏi:

– Phải chăng cô nương với Tạ đại hiệp không thù không oán gì cả nhưng tại sao định giết người để diệt khẩu như thế? Hừ, vai vế chữ Tĩnh của phái Nga Mi có tất cả mười hai nữ ni, trong đó có Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư, Tĩnh Không, Tĩnh Tuệ, Tĩnh Chiếu đều xuất gia từ lúc hãy còn khuê nữ, như vậy thì làm gì có chồng chứ?

Tĩnh Chiếu không nói năng gì cả quay đầu đi luôn.

Thiếu nữ áo vàng quát lớn:

– Làm gì có chuyện bỏ đi dễ dàng như thế!

Nói xong nàng tiến lên hai bước, đưa tay ra chộp vai của nữ ni kia.

Tĩnh Chiếu vội né tránh thế chộp của nàng. Thiếu nữ áo vàng liền dùng ngón trỏ của tay phải để đâm luôn vào ngang lưng của nữ ni tiếp theo đó lại đá luôn một cái trúng ngay vào yếu huyệt ở đùi đối phưong.

Tĩnh Chiếu kêu “hự” một tiếng liền ngã lăn ra đất.

Thiếu nữ áo vàng vừa cười vừa nói:

– Chu cô nương, kế giết người diệt khẩu của cô nương ác độc thực.

Hồi thứ 99

Nghĩa Kỳ Tung Bay

Chỉ Nhược lạnh lùng đáp:

– Tĩnh Chiếu sư tỷ ra giết Tạ Tốn để trả thù ai bảo là giết người diệt khẩu nào.

Nói xong nàng giơ tay trái lên phẩy một cái rồi nói:

– Ở đây vô số đệ tử danh ngôn chính phái không phân biệt phải trái, chính tà gì hết, cam tâm hợp tác với bàng môn yêu ma. Phái Nga Mi của chúng ta lại ngu xuẩn mà a dua với chúng như thế. Chúng ta đi thôi!

Các đệ tử của Nga Mi đều vâng lời đứng dậy, có một số người nhìn Tĩnh Chiếu đang nằm dưới đất, không biết người chưởng môn có ra lệnh cứu giúp hay bỏ mặc nữ ni đó ở lại.

Không Trí đi tới trước mặt Thành Khôn quát bảo:

– Viên Chân, mau cho người buông tha Phương Trượng, nếu Phương Trượng có mệnh hệ nào tội nghiệp ngươi càng lớn thêm!

Thành Khôn gượng cười đáp:

– Chuyện đã xảy ra như thế này tất cả chúng ta ở đây đều bị tiêu diệt hết, bây giờ ta có tha Không Văn lão hòa thượng ra cũng đã muộn rồi, ngươi đã mù chưa mà không thấy ngọn lửa đang bốc cháy hay sao?

Không Trí ngẩn người ra, Quay đầu lại nhìn dưới chân núi, thấy trong chùa có khói bốc lên kinh hãi nói:

– Ðạt Ma đường đã bị cháy, mau mau cứu hỏa.

Các hòa thượng loạn xạ khôn tả, ai nấy vội vàng chạy xuống núi. Bỗng thấy chung quanh Ðạt Ma Ðường có những cây trụ nước như những con rồng phun nước vào đống lửa, chỉ thoáng cái ngọn lửa đỏ đã tắt ngấm.

Không Trí thấy vậy chắp tay niệm Phật nói:

– A Di Ðà Phật, Thiếu Lâm cổ sát đã tránh phải một trận tai kiếp!

Không bao lâu có hai hòa thượng chạy lên bẩm báo rằng:

– Thưa sư thúc tổ, bọn phản nghịch thủ hạ của Viên Chân phóng hỏa đốt cháy Ðạt Ma Ðường, cũng may nhờ có các vị anh hùng Hồng Thủy Kỳ của Minh giáo đã dập tắt ngọn lửa đó!

Không Trí liền đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ chắp tay vái lạy và nói:

– Cổ Sát Thiếu Lâm gây dựng hàng ngàn năm nay, bây giờ thoát khỏi tai họa này hoàn toàn nhờ ơn đức lớn lao của Trương giáo chủ. Tất cả tăng chúng toàn chùa dù có tan xương nát thịt cũng không sao đền được ơn đức lớn lao này!

Vô Kỵ đáp lễ khiêm tốn trả lời:

– Việc này là phận sự của chúng tôi, đại sư hà tất phải giữ lễ như thế!

Không Trí lại nói tiếp:

– Không Văn sư huynh bị bọn phản đồ giam giữ trong động Ðạt Ma, lửa tuy dập tắt được nhưng không biết sư huynh của bần tăng an nguy ra sao? Mời Trương giáo chủ cùng các vị anh hùng hãy đợi chờ giây lát để lão tăng xuống đó xem sao!

Thành Khôn cười ha hả và xen lời nói:

– Người của Không Văn đã tẩm đầy mỡ heo, mỡ bò, ngọn lửa vừa bốc lên y đã toi mạng rồi. Hồng Thủy Kỳ chỉ cứu được Ðạt Ma viện chứ cứu sao được lão Phương Trượng!

Ngờ đâu y vừa nói dứt lời chỗ chân núi đã có người nói vọng lên:

– Phải! Hồng Thủy Kỳ không cứu được thực nhưng còn có Hậu Thổ Kỳ cơ mà!

Mọi người đã nhận ra tiếng nói đó của Phạm Dao.

Trưởng kỳ sứ của Hậu Thổ Kỳ đang đỡ một lão hòa thượng chạy lên.

Lão hòa thượng chính là Không Văn đại sư nhưng quần áo đều bị cháy xém và ướt đẫm trông rất tơi bời.

Không Trí vội tiến lên ôm lấy Không Văn mồm thì hỏi liên tiếp:

– Sư Huynh, sư huynh có được bình an không? Sư đệ bất tài tội đáng chết lắm!

Không Văn mỉm cười đáp:

– Nhờ Phạm thí chủ và Nhan thí chủ ở dưới đất chui lên cứu giúp, bằng không ngày hôm nay sư huynh đệ chúng ta làm sao mà tái kiến được nữa.

Không Trí kinh hãi nói:

– Tài độn thổ của Hậu thổ kỳ của Minh giáo không ngờ lại thần diệu đến thế!

Nói xong, thần tăng chắp tay vái lạy cảm tạ Phạm Dao và Nhan Bồn rồi lại nói tiếp:

– Phạm thí chủ, trước kia lão tăng vô lễ xúc phạm mong thí chủ lượng thứ cho. Và xin xóa bỏ cuộc hẹn ước ở chùa Vạn Pháp tại Kinh Ðô vì lão tăng không dám đi phó ước nữa.

Nên rõ người trong võ lâm đã đính ước tỷ võ với nhau nếu người nào nuốt lời không tới còn mất sĩ diện hơn bị đánh bại nhiều.

Bây giờ Không Trí tự hủy cuộc hẹn ước đó đủ thấy y đã cám ơn đại đức của Phạm Dao cứu sư huynh của y thoát nạn như thế nào.

Hai người vẫn kính phục nhau, trải qua việc này lại càng mến nhau thêm. Từ đấy trở đi hai người trở nên đôi bạn rất thân.

Thì ra Thành Khôn đã nghĩ kế hoạch của y rất chu đáo.

Ðêm trước ngày đại hội quần hùng y đã xuất kỳ bất ý, điểm vào yếu huyệt của Không Văn rồi giam giữ lão tăng vào trong Ðạt Ma Viện.

Trong Viện đã tích trữ sẳn rơm, củi, hồng hoàng và những thứ dễ cháy khác.

Sau đó y phái tâm phúc ở đấy canh gác.

Y còn uy hiếp Không Trí nhất nhất phải tuân theo lời dặn bảo của y bằng không y sẽ phóng hỏa thiêu chết Không Văn liền.

Ngờ đâu, sự việc sảy ra đều trái với nguyện vọng của y.

Y đâu có ngờ kế hoạch của y chu đáo đến thế mà lại bị đổ vỡ như vậy.

Sau y thấy Vô Kỵ đã cứu được Tạ Tốn rồi, và Tạ Tốn biết y có mặt tại đây y liền sai người xuống dưới truyền lệnh bảo bọn tâm phúc phóng hỏa.

Ðó là nước cờ cuối cùng của y. Y chỉ mong quần hùng với tăng chúng cuống quýt lo cứu hỏa để bọn tâm phúc của y thoát xuống núi.

Không ngờ Dương Tiêu xuống tới núi Thiếu Thất chưa kịp gặp Vô Kỵ đã sai ngay Hậu Thổ Kỳ đào đường hầm thông thẳng lên chùa Thiếu Lâm.

Ý của Tả Sứ là muốn cứu Tạ Tốn nhưng Tạ Tốn lại không bị giam ở trong chùa. Sở dĩ tượng đá Ðạt Ma đột nhiên thay đổi là vì người của Hậu Thổ Kỳ đã sửa như vậy.

Sau Vô Kỵ với Chu Chỉ Nhược liên tay đánh Kim Cương Phục Ma Khuyên và chờ tới khi Thành Khôn hiện thân chính thức giở mặt với Không Trí, Triệu Minh và Dương Tiêu mới thấy rõ sự bí ẩn bên trong.

Hai người liền bàn bạc với nhau, sai Phạm Dao đem Hồng Thủy, Hậu Thổ hai kỳ thừa cơ lẻn vào trong chùa dể cứu Không Văn nhưng Thành Khôn bố trí rất ác độc.

Tuy đã cứu được Không Văn ra nhưng đã có tới ba người của Hậu Thổ kỳ bị chết cháy.

Phạm Dao với Nhan Bồn mạo hiểm cứu Không Văn ra nhưng ba người đều bị cháy xém hết cả râu tóc.

Nếu không rút lui lối đường hầm thì có lẽ cả ba sẽ bị chết cháy trước khi Hồng Thủy kỳ dập tắt được ngọn lửa.

Mấy căn nhà cạnh Ðạt Ma Viện đều bị cháy rụi, riêng có Ðại Hồng Bảo Ðiện, Tàng Kinh Các, La Hán Ðường là chưa bị cháy tới thôi.

Không Trí khẽ bàn với Không Văn hai câu rồi truyền chỉ pháp nhốt hết thủ hạ và đồng đảng của Thành Khôn vào hậu điện.

Thành Khôn ở trong chùa Thiếu Lâm lâu ngày, kết nạp được khá nhiều đồng đảng. Nhưng tên thủ lĩnh bị bắt, phương trượng đã thoát hiểm, thấy công việc đã bị đổ bể nên chúng không dám chống cự nữa.

Thủ tọa La Hán Ðường liền thống lĩnh một nhóm tăng nhân áp giải đồng đảng của Thành Khôn đem xuống hậu điện giam giữ.

Tên nào tên nấy vừa rầu rĩ ủ rũ vừa lủi thủi đi xuống dưới núi.

Lúc ấy Vô Kỵ quay đầu lại nhìn Chu Chỉ Nhược mới hay người của phái Nga Mi nhân lúc tình hình hỗn loạn đã lẻn đi mất rồi, chỉ còn lại Tĩnh Chiếu vẫn còn nằm trên mặt đất. Vô Kỵ tới cạnh thiếu nữ áo vàng cúi chào và khẽ nói:

Trương Vô Kỵ hai lần được chị cứu giúp, ân đức lớn lao ấy Vô Kỵ tôi không dám nói là cám ơn, chỉ mong chị cho biết quý danh để ngày đêm tôi được hoài cảm.

Thiếu nữ đó mỉm cười đáp:

– Sau núi Chung Nam, một người chết sống, Thần Ðiêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ.

Nói xong nàng chắp tay hành lễ và giơ tay vẫy một cái liền đem theo tám thiếu nữ áo đen và trắng đó đi luôn.

Vô Kỵ đuổi theo một bước và nói tiếp:

– Xin chị hãy dừng bước!

Thiếu nữ đó không quay lại cứ đi thẳng xuống núi.

Thạch tiểu bang chủ của Cái bang cũng lên tiếng kêu gọi:

– Dương tỷ tỷ! Dương tỷ tỷ!

Chỉ thấy nơi lưng chừng núi có tiếng thiếu nữ đó vọng lên:

– Ðại sự của Cái bang xin nhờ Trương Giáo Chủ đảm đương hộ cho!

Vô Kỵ lớn tiếng đáp:

– Vô Kỵ tôi xin tuân lệnh!

Thiếu nữ nọ tiếp:

– Cám ơn!

Chữ cám ơn đó vừa dứt thì nàng đã đi xa rồi.

Vô Kỵ thấy trong lòng nao nao nhưng chàng vội định thần lại ngay, đi tới cạnh Tạ Tốn gọi:

– Nghĩa phụ!

Chàng chỉ gọi được một tiếng nước mắt đã tuôn như mưa.

Tạ Tốn vừa cười vừa nói:

– Con si ngốc của cha, nghĩa phụ đã được ba vị cao tăng điểm hóa cho, bây giờ đã giác ngộ, tội nghiệp cả một đời cũng đã hoá giải hết, đáng lẽ con phải mừng cho cha mới phải, tại sao con lại khóc như thế? Ta bị phế hết võ công như vậy có gì là đáng tiếc. Chẳng lẽ còn giữ nó lại để tác quái tác ác hay sao?

Vô Kỵ vâng lời, Tạ Tốn đi tới trước mặt Không Văn quỳ xuống và nói:

– Ðệ tử tội nghiệp quá nặng, mong Phương Trượng nhận và cho phép đệ tử được cắt tóc đi tu!

Không Văn chưa kịp trả lời thì Ðộ ách đã lên tiếng nói:

– Ngươi lại đây! Lão tăng sẽ thu ngươi làm đồ đệ!

Tạ Tốn đáp:

– Ðệ tử không dám mong được phúc duyên ấy!

Quý vị nên rõ Sư Vương vái Không Văn làm sư phụ thì y chỉ là đệ tử vai vế chữ Viên thôi. Nếu y vái Ðộ ách làm sư phụ thì được xếp vào vai vế chữ Không, ngang hàng với Không Văn, Không Trí.

Ðộ ách quát bảo:

– Chữ Không là chữ Không, Viên cũng là Không sao mà ngu ngốc thế!

Tạ Tốn liền ngẩn người ra giây lát liền giác ngộ ngay. Mới hay cái gì là sư phụ với đệ tử, đối với Phật gia đều là hư ảo hết nên Sư Vương liền đọc ngay một câu kệ:

– Sư phụ là không, đệ tử cũng là không, vô tội, vô nghiệp, vô đức vô cùng…

Ðộ ách ha hả cười và tiếp:

– Thiện tai! Thiện tai! Người là đệ tử của ta vẫn gọi là Tạ Tốn, ngươi hiểu chứ!

Tạ Tốn đáp:

– Ðệ tử hiểu rồi, phân bò hay Tạ Tốn cũng chỉ là cái bóng hư không, người đã không có huống hồ là thanh danh!

Quý vị nên rõ, Tạ Tốn là người văn võ toàn tài, đã đọc hết sách của Chu Thử bách giá, bây giờ lại được Ðộ ách điểm hóa cho liền hiểu ngay ý nghĩa của Phật học và từ đó trở đi Sư Vương trở về với cửa Phật, rốt cuộc thành một vị cao tăng nhất thời đó, đức độ rất lớn.

Vô Kỵ vừa mừng vừa đau đớn không biết nói như thế nào cho phải.

Ðộ ách lại nói tiếp:

– Ði thôi! Ði thôi… mới mộ đạo xong đừng có vào ma chướng nữa!

Nói xong vị cao tăng đó dắt tay Tạ Tốn cùng Ðộ Kiếp, Ðộ Nạn đi xuống núi. Không Văn, Không Trí, Vô Kỵ mọi người đều khom lưng xuống tống tiễn. Ba mươi năm trước Sư Vương tiếng tăm lừng lẫy giang hồ gây ra không biết bao những việc kinh thiên động địa, ngày nay lại chịu vào cửa Phật như thế, quần hùng đều thấy cảm thán vô cùng!

Không Văn lên tiếng nói:

– Các vị anh hùng giáng lâm tệ chùa, nói ra thì thật hổ thẹn vô cùng, tệ chùa bỗng xẩy ra nội biến nên mới thất lễ với quý vị và không tiếp đãi được chu đáo như vậy. Các vị anh hùng bốn phương ngày hôm nay chúng ta hội họp ở đây, không biết bao giờ mới được gặp nhau nữa. Xin mời quý vị trở xuống dưới chùa nghỉ ngơi đã!

Thế rồi quần hùng xuống núi vào chùa. Trong chùa đã sửa soạn cơm chay để khoản đãi khách. Các tăng chúng liền làm phá sự để siêu độ cho những anh hùng vừa vong thân. Quần hùng đều lần lượt tới trước bàn thờ để cúng bái. Ðại sự tuy đã xong xuôi nhưng Vô Kỵ vẫn cảm thấy có nhiều điều chưa được rõ mà Tạ Tốn lại đi một cách vội vã như thế khiến chàng không kịp hỏi những điều nghi vấn nọ nhưng chàng đoán chắc những nghi vẫn đó thế nào cũng liên can đến Chu Chỉ Nhược.

Chàng là người rất trung hậu, nghĩ tới tình cũ liền nghĩ thầm:

– Ta cần biết rõ những nghi vấn ấy làm chi, để khỏi bị tổn thương đến danh dự của Chu Chỉ Nhược.

Cơm nước xong xuôi, chàng cùng Sử Hống Thạch và các trưởng lão của Cái bang tụ họp ở trong phong ngang để bàn định về đại sự của Cái bang.

Bỗng có người vào thưa rằng:

– Thưa Giáo Chủ, Trương tứ hiệp của Võ Ðang tới, có việc muốn thương lượng cùng Giáo Chủ!

Vô Kỵ nghe nói, kinh hãi vội đứng dậy và nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ có việc gì xảy ra cho Thái sư phụ chăng?

Chàng vừa nghĩ vừa đi ra ngoài điện. Thấy Tòng Khuê, chàng quỳ xuống vái chào nhưng chàng thấy sắc mặt của tứ hiệp không có gì khác lạ trong lòng hơi yên lại hỏi:

– Thái sư phụ vẫn mạnh đấy chứ sư thúc?

Tòng Khuê đáp:

– Sư phụ vẫn mạnh. Sư thúc ở Võ Ðang hay tinh quân Nguyên đang đem hai vạn tinh binh tiến về chùa Thiếu Lâm hiển nhiên là bất lợi cho đại hội anh hùng này cho nên sư thúc mới tới đây để thông tin là thế!

Vô Kỵ nói tiếp:

– Nếu vậy chúng ta cần phải báo gấp cho Phương Trượng mới được.

Thế rồi chàng vào báo cho Không Văn hay.

Không Văn ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:

– Việc này liên quan rất lớn, chúng ta nên mời quần hùng đến thương lượng thì hơn!

Phương Trượng cho tăng chúng gõ chuông triệu tập quần hùng đến bảo điện.

Trương Tòng Khuê liền báo tin đó cho mọi người hay, ai nấy đều kinh hãi vô cùng và bàn tán rất xôn xao.

Những người nóng nảy liền nói:

– Nhân thiên hạ anh hùng ở đây, chúng ta xuống dưới núi, đón đầu đánh cho chúng một trận không kịp trở tay.

Những người lão thành cẩn thận hơn liền nói rằng:

– Nguyên binh điều động đi đây đi đó là chuyện rất thường, chưa chắc là chúng tới đây làm khó dễ chúng ta!

Tòng Khuê lại nói tiếp:

– Tại hạ biết tiếng Mông Cổ đã tai nghe thấy tên quan chỉ huy ra lệnh cho lũ Thát Ðát. Quả thật chúng tới đánh chùa Thiếu Lâm.

Không Văn nói:

– Các vị anh hùng xem ra triều đình đã biết chúng ta hội họp ở đây lại tưởng chúng ta chống đối triều đình. Chúng ta đây ai ai cũng biết võ nghệ hết đáng lẽ không sợ bọn Thát Ðát. Lính tới đã có tướng cản, nước lũ lên đã co đất ngăn, có sợ gì đâu…

Lão hòa thượng chưa nói dứt lời trong quần hùng đã có rất nhiều tiếng hoan hô.

Không Văn lại nói tiếp:

– Nhưng các giang hồ hào sĩ của chúng ta quen đơn đao độc đấu chứ còn ra trận giao chiến thì không phải là sở trường. Theo ý bần tăng chi bằng các vị anh hùng mau giải tán ngay, chẳng hay các vị nghĩ sao?

Quần hùng ngẩn người ra nhìn nhau không nói nửa lời.

Vô Kỵ liền lên tiếng:

– Nếu chúng ta giải tán ngay bây giờ thì thế nào quân Thát Ðát cũng bảo chúng ta sợ chúng, như thế càng làm cho chúng hung hăng thêm. Hơn nữa chúng ta đi khỏi đây các vị sư phụ phái Thiếu Lâm sẽ đối phó ra sao?

Không Văn mỉm cười đáp:

– Quân Nguyên tới đây thấy trong chùa toàn là hòa thượng không có một giang hồ hảo hán chắc chúng cũng không làm gì đâu!

Quần hùng biết Không Văn nói như vậy là có lòng tốt, phải biết đại hội anh hùng lần này là do phái Thiếu Lâm triệu tập nên không ai muốn vì thế mà sinh họa đến nỗi đổ máu trên núi Thiếu Lâm này. Nhưng quần hùng ai ai cũng là người có nghĩa khí, khi nào họ lại sợ địch mà rút lui như thế. Huống hồ triều đình đã xuất động đại quân, không khi nào tới bắt hụt mà lại chịu trở về tay không. Thế nào chúng cũng quấy nhiễu Thiếu Lâm, chưa biết chừng chúng sẽ bắt hết tăng chúng của chùa đi và còn thiêu chụi cả chùa nữa. Quân Mông xưa nay vẫn hung ác, giết người đốt nhà là chuyện thường của chúng vì vậy Dương Tiêu cũng lên tiếng nói:

– Phương Trượng với quý vị anh hùng có mặt ở đây mà tại hạ lên tiếng nói như thế này là không phải nhưng quân Thát Ðát tàn ác ai ai cũng có trách nhiệm kháng địch. Theo ý tại hạ chúng ta nghĩ cách dụ bọn chúng ra khỏi nơi đây rồi chúng ta sẽ đấu ở đó. Ngôi chùa ngàn năm này sẽ khỏi bị vạ lây.

Quần hùng đều khen ngợi ý kiến đó và cho là rất hay. Trong khi đang bàn tán thì ngoài cửa chùa đã có tiếng vó ngựa nhộn nhịp.

Liền có hai người phi ngựa tới trước cửa rồi ngừng lại. Sau đó chi khách tăng dẫn hai người đó vào.

Quần hùng thấy hai người đó là giáo chúng của Minh Giáo, họ đi tới trước mặt Vô Kỵ, chắp tay vái bái lễ xong liền lớn tiếng nói:

– Thưa giáo chủ, năm nghìn quân tiên phong của triều đình đã nhắm chùa Thiếu Lâm tấn công tới. Chúng bảo các vị sư phụ tụ họp quần hùng ở đây để mưu phản nên định đạp đổ chùa Thiếu Lâm thành bình địa. Phàm những người nào trọc… trọc…

Không Văn mỉm cười nói:

– Có phải ngươi định nói trọc đó là trọc đầu phải không, khỏi cần e dè gì hết, cứ việc nói thẳng ra đi!

Người đó lại nói tiếp:

– Trên đường có rất nhiều tăng nhân bị quân Thát Ðát giết chết. Chúng còn nói những người trọc cũng vậy đều là phản nghịch hết, hễ gặp người nào đem theo khí giới là chúng giết luôn.

Mọi người kêu la om sòm rồi nói:

– Chúng ta không đấu thí mạng với quân Thát Ðát thì không phải là con cháu của hoàng Ðế.

Lúc ấy triều đình Tống tuy đã mất hơn trăm năm nhưng các anh hùng ở chốn lục lâm vẫn coi quân Mông là di địch, không chịu để cho triều đình Mông Cổ kiểm soát. Các môn, các phái, các bang hội vì tư thù mà đánh nhau luôn, nhưng dù họ có thâm thù đại oán đến đâu xưa nay vẫn không ai chịu mượn thế lực của triều đình để trấn áp đối phương. Lần này trong đại hội anh hùng có rất nhiều người chưa được thi thố tài năng, lúc này nghe thấy quân Mông tới ai nấy đều hăng hái, chỉ muốn nhảy ra ngay để đối địch.

Vô Kỵ liền lớn tiếng nói:

– Các vị anh hùng, ngày hôm nay chính là lúc để chúng ta giết giặc đền nợ nước.

Ðại hội anh hùng ở chùa Thiếu Lâm này sẽ được dương danh thiên cổ!

Mọi người nghe chàng nói như vậy liền lớn tiếng hoan hô.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Bây giờ xin Không Văn Phương Trượng ra lệnh chỉ huy, Minh Giáo chúng tôi từ trên xuống dưới đều tuân lệnh của Phương Trượng hết.

Không Văn nói:

– Sao Trương Giáo Chủ lại nói như vậy. Tệ phái tăng chúng tôi có học vài ba thế võ nhưng về hành quân đánh trận thì không biết một tí gì. Gần đây Minh Giáo đã sáng lập rất nhiều sự nghiệp lớn, người trên giang hồ ai ai cũng hay biết hết. Bây giờ chỉ có nhân chúng của Minh Giáo là có thể đối địch nổi đại quân của Thát Ðát thôi. Chúng tôi xin đề cử Trương Giáo Chủ làm Minh Chủ của võ lâm, thống lĩnh hào kiệt khắp thiên hạ để đối địch với quân Thát Ðát.

Vô Kỵ đang định từ chối thì quần hùng đã vỗ tay hoan hô.

Tuy Vô Kỵ còn ít tuổi không đáng để cho người phục tùng nhưng vừa rồi chàng đấu với ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm, võ công của chàng cao siêu như thế nào ai nấy đều biết hết mà Hàn Sơn, Ðồng Tử, Thọ Huy và Chu Nguyên các lộ đại quân của Minh Giáo đã ở hoài Tử và Dư Ngạo các nơi khởi sự đánh Nguyên, đánh đâu thắng đấy. Các môn phái khác làm sao bằng được.

Hào sĩ của các bang phái khác đều nghĩ trừ Minh Giáo ra quả thật không ai có thể gánh vác được trách nhiệm lớn lao này.

Vô Kỵ lại nói:

– Chức chủ tịch này, trách nhiệm rất lớn lao nặng nề, vả lại tại hạ không có sở trường dụng binh vậy mong quý vị đề cử người tài ba khác thì hơn.

Trong lúc đang khiêm tốn bỗng nhiên dưới núi có tiếng kêu la vang động.

Hai giáo chúng của Nhụê Kim kỳ đã xông thẳng vào trong điện thưa rằng:

– Quân Mông đang xông lên chém giết.

Vô Kỵ liền ra lệnh:

– Nhuệ Kim, Hồng Hỏa hai kỳ ra chống đỡ trận đấu. Chu Ðiên và Thiết Quan đạo trưởng hai vị giúp đỡ một kỳ.

Chu Ðiên, Thiết Quan hai người liền vâng lệnh đi liền.

Cục diện đã khẩn cấp như vậy không cho phép Vô Kỵ từ chối nữa chàng liền ra lệnh:

– Nói Không Ðược sư phụ làm ơn cầm thánh hỏa lệnh của tôi đi triệu viện binh của bổn giáo lên núi tiếp ứng ngay.

Nói Không Ðược liền đi luôn.

Các anh hùng ở trên đại điện võ công tuy cao cường nhưng là quân ô hợp, nghe thấy quân Nguyên đã đánh tới ai nấy đều rút khí giới ra vội nhảy ra ngoài.

Dương Tiêu thấy vậy vội nói:

– Thưa giáo chủ, nếu giáo chủ không ra hiệu lệnh thì họ chém giết loạn xạ thế nào cũng thất bại!

Vô Kỵ gật đầu, liền chạy ra ngoài điện, đi tới cái đình chỗ lưng chừng núi xem xét.

Thấy hơn năm ngàn quân tiên phong của Mông Cổ đã tấn công lên tới lưng chừng núi rồi nhưng bị cung nỏ và đao thương của Nhụê Kim kỳ xua đuổi đều bỏ chạy hết.

Chàng đưa mắt nhìn về phía xa thấy từng đội lính Mông lần lượt tiến tới. Quân ngũ của chúng rất chỉnh tề oai nghi.

Lúc ấy cách thời Thành Cát Tư Hãn với Bạt Ðô oai trấn thiên hạ đã xa nhưng thiết kỵ của Mông Cổ vẫn luyện tập luôn nên quân của họ tinh nhụê có một không hai trên thế giới.

Chàng bỗng nghe thấy bên trái có tiếng kêu la động trời và thấy có rất nhiều nữ ni và thanh thiếu nữ chạy ngược lên trên núi.

Những người đó toàn là người của phái Nga Mi, chắc giữa đường bị lính Mông Cổ đẩy lui nên phải quay lại.

Chu Chỉ Nhược cùng Tĩnh Tuệ mọi người đi sau đoạn hậu.

Mấy người đàn ông khiêng một cái cáng với đồ vật đang bị quân Mông Cổ bao vây. Chu Chỉ Nhược huy động bọn đệ tử đã mấy lần xông vào đánh nhưng không sao cứu nổi đồng môn bị bao vây.

Vô Kỵ thấy vậy kêu thầm: “Nguy tai! Chắc cái cáng đó là cáng của Tống Thanh Thư cũng nên!”

Chàng liền kêu gọi:

– Liệt Hỏa, Nhụê Kim hai kỳ yểm trợ Vi Huynh, Phạm Dao theo tôi xuống cứu người.

Nói xong chàng xông xuống núi trước.

Hai tên lính Mông vừa thấy chàng liền đưa xà mâu ra đâm.

Chàng chộp luôn lấy hai chiếc xà mâu đó vận sức hất mạnh một cái.

Hai tên lính Mông đó rớt xuống núi ngay.

Vô Kỵ liền xoay hai chiếc xà mâu lại xông vào đám lính đông như kiến tựa như hai con rồng ra bể.

Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Bành Doanh Ngọc theo sát sau. Lính Mông va chạm với mấy người đó đều gục ngã liền.

Chỉ thoáng cái cả bọn đã tiến qua mặt bọn Chu Chỉ Nhược.

Phạm Dao lại tấn công một quyền, đánh cho một tên thập phu chưởng Mông Cổ nát mặt, cướp luôn người bị thương nằm trên cáng, kẹp nách và quay mình chạy luôn lên núi.

Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược mặt dính đầy máu mà lại xông vào đội lính Mông liền lớn tiếng gọi:

– Chỉ Nhược, đã cứu được Tống đại ca rồi!

Chu Chỉ Nhược không thèm đếm xỉa đến lời kêu gọi của chàng cứ mau roi tấn công về phía trước.

Nhưng đường núi vốn chật hẹp, người thì đông đúc nên nàng không thể xông qua được. Vô Kỵ thấy còn hai đệ tử của Nga Mi khiêng một cái cáng nữa vẫn còn bị bao vây, chúng đang cầm cự với lính Mông chàng liền nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ người trên cáng này mới là Tống sư ca chăng?

Nghĩ đoạn chàng múa hai cây xà mâu rồi tung mình nhảy lên, cứ chống hai cây mâu đó vào vách núi mà đi tựa như người ta đi cà kheo vậy.

Còn cách hơn trượng mới tới nơi, chàng đã thấy hai đệ tử của phái Nga Mi đó trước sau bị tên bắn trúng, ngã lăn lóc xuống núi.

Vô Kỵ thất kinh, phi thân nhảy tới, giơ chiếc mây bên trái ra, cản trở không cho chiếc cán đó rơi xuống vực.

Quả nhiên chàng thấy người nằm trong cáng toàn thân được băng vải trắng toát, chỉ chừa có hai mắt. Người đó chính là Tống Thanh Thư.

Chàng vội vứt xà mâu, ôm luôn Thanh Thư vào.

Chàng cảm thấy người y nặng khác thường và trong lần vải băng hình như có vật gì cứng rắn khôn tả.

Nhất thời chàng không kịp suy nghĩ, chỉ sợ đụng chạm mạnh, xương của Thanh Thư bị gãy nên chàng phải né phải, tránh trái, luồn lách giữa những thế mâu của quân Mông Cổ đâm tới lia lịa.

Chân chàng đi rất vững. Chàng đã thấy Hân Lợi Hanh, Trương Tòng Khuê tấn công tới. Hai người cầm trường kiếm bảo vệ hai bên.

Kiếm của hai đại hiệp đâm tới đâu lính Mông gục tới đó.

Nhờ có Tòng Khuê và Lợi Hanh bảo vệ nên Vô Kỵ mới được bình yên ẳm được Thanh Thư đi lên trên núi.

Mấy trăm lính Mông Cổ xếp hàng xông lên, Bành Doanh Ngọc liền ra lệnh:

– Liệt Hỏa Kỳ ra đây.

Giáo chúng của Liệt Hỏa Kỳ liền dùng ống đồng phun dầu đá và những hỏa tiễn ra.

Thế là hơn hai trăm tên lính Mông Cổ đều bị cháy xem tên nào tên nấy tựa như một trái cầu tròn, lăn long lóc xuống núi.

Bên kia Hồng Thủy Kỳ cũng dùng vòi rồng phun nước độc xuống. Có mấy trăm tên lính trúng phải thuốc độc, chết lăn ra bừa bãi.

Quần hùng thừa cơ xông lên chém giết. Tên Vạn phu chưởng của lính Mông Cổ ở dưới lưng núi thấy vậy, liền gõ chiêng thâu binh.

Những binh lính của chúng liền đổi tiền đội thành hậu đội và dùng cung nỏ bắn trở lên, không cho quần hùng xông tới truy kích. Rồi chúng từ từ rút lui xuống bên dưới.

Bành Doanh Ngọc thở dài và nói:

– Quân Mông Cổ tuy bại nhưng không rối loạn, đủ thấy chúng quả là tinh binh của thiên hạ.

Mọi người thấy quân Mông Cổ đã lui xuống chân núi, giải tán bốn bên như hình cái quạt, thì biết nhất thời chúng chưa dám lên núi vội.

Vô Kỵ liền hạ lệnh:

– Nhuệ Kim, Liệt Hỏa, Hồng Thủy tam kỳ, canh giữ lấy các đường lối lên núi. Cự Mộc, Hậu thổ nhị kỳ, mau chặt gỗ dọn đất để làm hào lũy phòng vệ quân địch lên đánh phá.

Nõ hành kỳ đều nhận lệnh của chàng đi phòng bố ngay.

Thoạt tiên quân hùng ai nấy tự phụ mình có võ công đều nghĩ dù không chém giết được quân địch thì cũng có thể bảo vệ lấy thân được, nhưng vừa rồi trải qua một trận giao chiến, họ mới nhận thấy oai lực của quân Mông Cổ như thế nào và họ biết hành quân đánh trận khác hẳn với một trận đấu tỷ võ thường của mình.

Quân Mông Cổ hàng vạn người xông lên, mạnh như nước hồng thủy, người có võ công lợi hại như Chỉ Nhược mà ở trong đám đông ấy cũng không thể dở tài ba ra được. Nếu không có trận pháp Ngũ hành kỳ của Minh giáo chống đỡ cho thì lúc này trên núi Thiếu thất đã bị quân Mông Cổ chiếm mất rồi, và các người sẽ bị chúng chém giết một cách thảm thiết cũng nên?

Riêng có tăng chúng của chùa Thiếu Lâm là vẫn có qui luật, từng đội hòa thượng trẻ tuổi, tay cầm thuyền trượng, giới đao, nghe lệnh của các nhà sư lớn tuổi phân đi các nơi canh phòng. Nhưng vì ít không địch nổi nhiều, tất nhiên sức lực của mấy ngàn tăng chúng làm sao chống đỡ nổi hơn hai vạn quân lính Mông Cổ tinh nhuệ như thế?

Vô Kỵ đặt Thanh Thư xuống, rờ tay vào mũi chàng, thấy hơi thở liền quay đầu lại định gọi Chỉ Nhược, nhưng chàng không thấy hình bóng của nàng đâu cả.

Chàng liền hỏi:

– Tống phu nhân đâu rồi?

Mọi người vì lo xua đuổi quân Mông Cổ nên không ai biết Chỉ Nhược đi đâu.

Các đệ tử của Nga Mi lúc này đã hết coi Minh giáo là kẻ thù nên họ đồng thanh trả lời là không thấy người chưởng môn của mình đâu cả.

Vô Kỵ sợ lúc hỗn loạn, nhỡ Thanh Thư bị thương thêm thì sao, nên chàng vội cởi vải bó quanh mình Thanh Thư ra xem.

Chàng thấy trên người của Thanh Thư có quấn tất cả ba lần vải trắng.

Ðến khi cởi xong ba lần vải trắng đó ra liền có tiếng kêu “coong coong” và có bốn mảnh khí giới gãy rơi ra.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi và la lớn:

– Ðồ Long đao và ỷ Thiên kiếm.

Quần hùng nghe nói ba chữ Ðồ Long đao liền quay đầu lại nhìn xem.

Nhưng thấy Ðồ Long đao đã gãy làm hai khúc, cả ỷ Thiên Kiếm cũng vậy.

Vô Kỵ cầm nửa mảnh Ðồ Long đao lên thấy vẫn nặng chình chịch, chàng cảm xúc vô cùng vì cha mẹ mình bị chết bởi thanh đao này, vì hơn hai mươi năm nay trên giang hồ phân tranh cũng vì thanh đao này, và quần hùng tụ tập trên chùa Thiếu Lâm chủ yếu cũng vì thanh đao Ðồ Long này.

Chàng nghĩ đến thanh bảo đao đã xuất hiện, nhưng đao kiếm đã gãy rồi, hoá thành vô dụng hết.

Chàng cầm đao gãy lên xem, thấy chỗ gãy bên trong trống rỗng, có thể dấu được vật gì. Cả ỷ Thiên Kiếm cũng vậy, bên trong đều trống rỗng hết và nếu bên trong có vật gì thì người ta đã lấy đi mất rồi.

Dương Tiêu thở dài và nói:

– Thảo nào Chu cô nương có võ công kinh như thế, thì ra nàng đã học quyền kiếm trong phổ trong đao kiếm này.

Tuy Vô Kỵ là người rất nhân hậu, nhưng chàng không phải là người ngu xuẩn.

Chàng vừa trông thấy đao gãy và kiếm gãy trong lòng đã tỉnh ngộ ngay và nghĩ:

– Thế ra tối hôm đó ở trên hoang đảo, đao kiếm này là do Chỉ Nhược lấy đi. Không hiểu nàng ta dùng thủ đoạn nào mà đuổi được Triệu Minh và giết chết được Hân Ly, rồi lại dùng đao kiếm chém lẫn nhau, vì vậy hai lợi khí sắc bén nhất thiên hạ gãy đôi như thế. Rồi nàng lấy võ công bí kíp trong đao kiếm ra ngấm ngầm tu luyện. Chàng càng nghĩ càng hiểu ra, liền nghĩ tiếp:

– Phải rồi, khi lên hoang đảo, ta dùng Cửu Dương thần công xủa đuổi độc tố cho nàng, thấy trong người nàng phát sinh ra một nội lực ngấm ngầm chống lại thần công của ta. Sau thấy sức quái dị đó càng ngày càng mạnh, hiển nhiên nội công của nàng tu luyện càng ngày càng tiến bộ. Vì thời giờ cấp bách nàng lại muốn chóng thành công, không chịu luyện tập nội công căn bản trước, nên nàng chỉ học những ngoại công âm độc để mau chóng thành tài vì thế những võ công đó tuy lợi hại thật, nhưng vẫn không thể nào luyện tới mức thượng thừa được.

Chàng đang ngẫm nghĩ thì Ngô Kình Thảo, chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ tiến lên nói:

– Thưa giáo chủ, thuộc hạ xuất thân thợ rèn, đã học qua cách luyện đao kiếm để thuộc hạ thử xem không biết có thể nối lại bảo đao, bảo kiếm này không?

Dương Tiêu mừng rỡ nói:

– Thuật luyện kiếm của Ngô Kỳ Sứ quả thật là vô song, giáo chủ cứ trao cho Ngô kỳ sứ làm thử xem.

Vô Kỵ gật đầu đáp:

– Hai thanh lợi khí này đã gãy đôi, quả thật đáng tiếc. Ngô Kỳ sứ cứ thử hàn lại xem, may ra chắp nối lại được cũng chưa biết chừng.

Dương Tiêu liền nói với Hạ Diệm:

– Chưởng kỳ sứ của Liệt hỏa kỳ, luyện đao luyện kiếm cần phải có lửa mạnh vậy mong Hạ huynh đệ giúp một tay. Chắc lúc này quân Thát đát chưa tấn công lên núi đâu, anh em chúng ta cứ thủng thẳng mà làm.

Hạ Diệm cười nói:

– Việc đốt bếp thổi lửa đó là nghề của tiểu đệ.

Thế rồi hai người chỉ huy thuộc hạ, xây luôn một cái lò rất cao, chỉ để hở một lỗ hổng rộng chừng một thước cho lửa bốc lên thôi.

Những đồ nhóm bếp Liệt hỏa kỳ lúc nào cũng sẳn sàng nên chỉ trông chốc lát bếp lửa đã đỏ hồng rồi.

Ngô Kình Thảo cứ nhìn thẳng vào lò lửa, bên cạnh y có mười bảy thứ khí giới, hễ thấy lò lửa biến sắc là cho khí giới đó vào trong lò thử xem sức lửa như thế nào.

Cho tới khi ngọn lửa đã biến thành màu trắng rồi, liền hay tay cầm cái kìm gang kẹp hai mảnh đao Ðồ Long vào làm một, đưa vào trong lò.

Mọi người thấy y mình cởi trần, những sao lửa bắn vào người y mà không bị phỏng chút nào, thì đều khâm phục.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Việc luyện đao kiếm này cũng là một tài năng lớn chứ không phải tầm thường, nếu là thợ rèn thường thì làm sao chịu nổi sức nóng như thế này?

Chàng bỗng nghe thấy hai tiếng kêu “bộp bộp” thì ra hai tên giáo chúng đang kéo ống bễ bỗng lăn ra chết giấc.

Hạ Diệm với phó kỳ sứ liền lôi hai người kia ra, rồi tự động thay hai người đó để kéo bễ.

Nội công của hai người này cao siêu hơn hai giáo chúng kia nhiều, nên ngọn lửa bốc cao hơn trước gần trượng, trông thật là đẹp mắt.

Ngô Kình Thảo đột nhiên la lớn:

– Nguy tai.

Y vội vã tung mình nhảy lùi về sau, vẻ mặt rầu rĩ.

Mọi người thấy vậy giật mình kinh hãi, nhìn tay y, thấy hai cái kiềm kia đã chảy thành nước rồi mà Ðồ Long đao vẫn không việc gì.

Y lắc đầu nói:

– Thuộc hạ bất tài và bảo đao Ðồ Long này quả danh bất hư truyền.

Hạ Diệm với người phó sứ tạm ngưng kéo bễ, lui sang một bên, cả hai người quần áo ướt đâm tựa như ở dưới nước bước lên vậy.

Triệu Minh bỗng đề nghị:

– Vô Kỵ đại ca, có phải Thánh Hỏa lệnh của đại ca cũng như Ðồ Long đao, bất cứ thứ khí giới nào cũng không chém được phải không?

Vô Kỵ đáp:

– À, phải đấy.

Chàng có tất cả sáu miếng Thánh hỏa lệnh, đã đưa cho Nói Không Ðược một miếng để điều khiển binh tướng, hiện giờ chàng còn giữ năm miếng.

Chàng vội lấy ra đưa cho Ngô Kình Thảo và nói:

– Ðao kiếm không làm được liền thì thôi, nhưng thánh hỏa lệnh này là vật báu truyền của bổn giáo, chớ để nó suy suyển.

Kình Thảo cầm lấy thánh hỏa lệnh lên xem, thấy năm miếng thánh hỏa lệnh đó không phải là vàng cũng không phải là sắt, cứng rắn khôn tả.

Cầm trong tay thấy nặng chịnh, y liền cúi đầu ngẫm nghĩ, vẻ mặt quái dị.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Nếu nhận thấy không làm được thì đừng có mạo hiểm.

Kình Thảo nghe nói rùng mình, y đang trầm ngâm suy nghĩ, bỗng như người thức tỉnh, vội đáp:

– Thuộc hạ nhất thời thất thần, nên mới thất lễ như thế, mong giáo chủ tha lỗi cho. Vì thánh hỏa lệnh là dùng bạch kim huyền thiết trộn với kim cương sa mấy thứ tạo thành, lửa nóng đến đâu cũng không thể nung chảy được, nên thuộc hạ đang hoài nghi, không hiểu năm xưa người ta dùng cách gì để chế thành, vì thế nên mới thất thần như thế.

Triệu Minh vừa cười vừa xen lời nói:

– Có lẽ Ngô Kỳ Sứ phải đi Ba Tư một phen để lãnh giáo những người thợ cao tay của họ mới được. Chưởng kỳ sứ xem này, trên thánh hỏa lệnh còn có khắc những nét hoa và chữ, vậy những đường chỉ hoa và những chữ đó họ điêu khắc bằng cái gì thế?

Ngô Kình Thảo đáp:

– Muốn khắc những đường chỉ hoa và chữ lên trên thánh hỏa lệnh này không khó, chỉ cần bôi sáp trắng lên, rồi điêu khắc đường chỉ hoa với chữ sáp trắng đó. Sau đó đổ nước cường toan rất mạnh vào, chỉ vài tháng là cùng, bên dưới nó bị nước cường toan đó ăn dần và cạo sáp trắng đó đi. Ðường chỉ hoa và chữ liền hiện ra trên thánh hỏa lệnh, tiểu nhân chỉ không hiểu cách nung đúc của họ thôi.

Hạ Diệm bỗng lớn tiếng hỏi:

– Này có làm hay không đấy?

Kình Thảo vội nói với Vô Kỵ:

– Giáo chủ cứ yên tâm, liệt hỏa của chú em họ Hạ đây, tuy lợi hại thực, nhưng không làm suy suyển nổi thánh hỏa lệnh này đâu.

Hạ Diệm nghe nói trong lòng nơm nớp lo sợ, vội đỡ lời:

– Tôi hết sức quạt lửa, nếu có đốt cháy thánh hỏa lệnh của bổn giáo thì tôi không chịu trách nhiệm đâu.

Ngô Kình Thảo mỉm cười đáp:

– Chắc hiền đệ không đủ nghị lực đợi chờ lâu như thế đâu. Nhưng hiền đệ chịu được thì cứ quạt đi, tất cả trách nhiệm tôi đều gánh hết. Thế rồi, y dùng hai chiếc thánh hỏa lệnh kẹp lấy nửa thanh đao Ðồ Long và dùng hai miếng nữa kẹp lấy nửa thanh đao kia. Sau mới dùng kìm gang kẹp vào bốn miếng Thánh hỏa lệnh ấy, rồi đặt bảo đao vào trong lò lửa thiêu đốt lại. Lửa trong lò càng bốc, càng cao, đốt thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, mọi người thấy Kình Thảo, Hạ Diệm và phó kỳ sứ của Liệt Hỏa kỳ đứng trước lò càng ngày càng tỏ vẻ mệt mỏi và dần dần chịu không nổi.

Phạm Dao đưa mắt ra hiệu cho Chu Ðiên, tay trái phẩy một cái, hai người cùng nhảy xổ lên thay tay cho Hạ Diệm với phó kỳ sứ và dùng sức kéo ống bễ.

Phạm, Chu hai người công lực hơn Hạ Diệm và Phó kỳ sứ nhiều, nên lửa trong lò cứ bốc lên thẳng và ngọn lửa trắng bạch, Kình Thảo đột nhiên quát lớn:

– Chú em họ Cố ra tay.

Phó kỳ sứ của Nhuệ Kim kỳ là Cố mạnh Lỗ, tay cầm đao sắc bén đi tới cạnh lò, múa thanh đao đến nhoáng một cái lưỡi đao nhắm ngực Kình Thảo đâm luôn.

Quần hùng đứng cạnh đó thấy vậy kinh hoàng thất sắc, đều đồng thanh kêu la.

Ngực của Kình Thảo đã có máu tươi vọt ra nhỏ xuống thanh đao Ðồ Long.

Máu gặp nóng liền hoá thành một luồng khói bốc lên.

Kình Thảo vội la lớn:

– Thành rồi…

Y lui về phía sau mấy bước ngồi phịch xuống dưới đất.

Mọi người thấy hai mảnh của thanh đao Ðồ Long đã dính chặt và nhau rồi.

Lúc ấy, mọi người mới biết luyện đao kiếm hễ thấy không thành thường thường phải nhỏ máu vào khí giới.

Hai thanh bảo kiếm Can Tương, Mạc Tà thời cổ cũng vậy, vợ chồng người luyện kiếm còn nhảy vào trong lò hy sinh mới luyện thành hai thanh bảo kiếm sắc bén đó.

Cử chỉ của Ngô Kình Thảo đây cũng bắt chước các tay thợ có tên tuổi đời xưa.

Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo dậy, xem vết thương của y thấy lưỡi dao đâm vào không sâu mấy, chỉ bị thương xoàng thôi.

Chàng liền lấy thuốc chữa thương ra rịt cho và lên tiếng nói:

– Ngô huynh hà tất phải hy sinh như vậy, thanh bảo đao này có nối lại được hau không cũng không quan trọng cho lắm, nhưng phải để cho Ngô huynh phải chịu đựng rất đau khổ như vậy là không phải.

Kình Thảo thấy giáo chủ không xem lại thánh hỏa lệnh, cũng không xem thanh đao Ðồ Long mà lại chú y tới vết thương của mình trước nên trong lòng cảm động vô cùng, liền đáp:

– Bị chút thương nhỏ ở da thịt có nghĩa gì đâu mà khiến giáo chủ nhọc tâm, nhọc lòng đến thế?

Nói xong, y đứng dậy cầm thanh đao Ðồ Long lên xem, thấy chỗ nối liền không có dấu vết gì hết chỉ có một đường chỉ máu thôi.

Y cũng đắc chí vô cùng.

Vô Kỵ xem lai bốn miếng Thánh hỏa lệnh thấy quả nhiên không suy suyển chút nào. Chàng cầm lấy thanh đao Ðồ Long chém luôn vào hai cây trường mâu vừa cướp được của lính Mông Cổ một nhát.

Chỉ nghe thấy kêu soẹt một tiếng rất khẽ, hai cây sà mâu đó liền gãy làm đôi ngay.

Quả thực, thanh đao này chém sắt như chém bùn.

Quần hùng thấy vậy liền lớn tiếng hoan hô và nói:

– Tuyệt kỳ, tuyệt kỳ.

Kình Thảo lại cầm lấy hai mảnh của thanh ỷ thiên kiếm, nhưng y bỗng nghĩ đến cựu chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ là Trang Tranh với mấy chục anh em của bổn kỳ đều bị chết dưới thanh kiếm này.

Y không sao nhịn được, nước mắt nhỏ xuống ròng ròng và nói:

– Thưa giáo chủ, kiếm này đã giết chết Trang đại ca chúng tôi và đồng thời nó cũng giết hại rất nhiều anh em nữa, nên Kình Thảo tôi hận nó vô cùng, không muốn tiếp nối nó nữa vậy kính xin giáo chủ trị tội cho.

Nói xong, nước mắt của y lại nhỏ ra như mưa.

Vô Kỵ liền nói:

– Ðó là nghĩa khí của Ngô đại ca, có lỗi gì đâu.

Nói xong, chàng cầm hai khúc kiếm gãy đó đi tới trước mặt Tĩnh Tuệ của phái Nga Mi và nói:

– Kiếm này nguyên là vật của quý phái, xin đại sư nhận lấy để sau này trao trả cho Chu… cho Tống phu nhân.

Tĩnh Tuệ không nói năng gì, đỡ lấy hai mẩu kiếm đó luôn.

Vô Kỵ cầm thanh đao Ðồ Long, ngẫm nghĩ giây lát và nói với Không Văn rằng:

– Phương trượng, đao này là của nghĩa phụ tôi kiếm ra được, bây giờ nghĩa phụ tôi đã quy y tam bảo, người đã thuộc phái Thiếu Lâm, vậy đao này do Thiếu Lâm giữ lấy.

Không Văn xua tay đáp:

– Con dao này đã đổi chủ mấy lần rồi, sau cùng Trương giáo chủ trong thiên quân vạn mã mà cướp được, ai ai cũng trông thấy hết và lại do Ngô đại ca của quý giáo nối liền lại. Huống hồ, ngày hôm nay thiên hạ cùng bầu Trương giáo chủ là Minh giáo chủ của võ lâm, luận tài, luận đức, luận nguồn gốc, luận danh vì, đao này phải về tay Trương giáo chủ mới đúng thiên kinh đại nghĩa.

Quần hùng liền phụ hoạ và đồng thanh nói:

– Phải, ai ai cũng đều một ý kiến hết, Trương giáo chủ đừng từ chối nữa.

Vô Ky bất đắc dĩ đành phải nhận lấy thanh đao đó và trong lòng nghĩ thầm:

– Nếu nhờ thanh đao này, hiệu lệnh thiên hạ võ lâm xua đuổi quân Thát Ðát cũng là một việc hay.

Chàng bỗng nghe thấy trong đám đông có nhiều người xôn xao và nói:

– Võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mặc cảm bất tòng.

Bên dưới còn có hai câu:

– Ỷ thiên bất xuất, thùy nhữ tranh phong.

Nhưng mọi người thấy ỷ thiên kiếm đã gãy không có ai nối liền nên không người nào nhắc nhở tới hai câu ấy.

Mọi người của Nhuệ Kim kỳ rất hận cây Y thiên kiếm, nay thấy đao đã liền như trước, còn ỷ thiên kiếm thì gãy làm hai mảnh, người nào người nấy khoái trí vô cùng.

Lúc ấy, trong Hồng thủy kỳ đã khiêng ra một cái chảo sắt lớn trong miếu ra, để trên lò lửa nấu một vạc dầu thật sôi, chỉ chờ đợi quân Mông Cổ xông lên trên núi là dùng dầu đó tấn công.

Chùa Thiếu Lâm đã có từ ngàn năm nay, dầu trong chùa tích trữ hành nhà có thể nói dùng bao nhiêu cũng không hết.

Mọi người bận rộn nửa ngày, trong bụng đã thấy đói.

Trừ Ngũ hành kỳ của Minh giáo và nửa số tăng chúng của Thiếu Lâm phải canh gác ở các nơi hiểm yếu ra còn những người khác với tăng chúng vào chùa dùng cơm chay. Chờ khi sắp tối Vô Kỵ nhảy lên một cây cao, nhìn xuống dưới núi, thấy quân Mông Cổ một đạo đóng phía Tây bao vây chặt chân núi, bốn bề đều có khói bốc lên, chàng biết ngay chúng đang thổi cơm ăn.

Hồi thứ 100

Cướp Lại Bí Kíp

Vô Kỵ nhảy xuống dưới cây, nói với Nhất Tiếu rằng:

– Vy huynh, chờ tới lúc tối hẳn, Vy hunh đi do thám một lần xem sao. Xem chúng nó có địch đột kích đêm nay không?

Nhất Tiếu nhận lệnh đi luôn. Dương Tiêu lên tiếng nói:

– Thưa giáo chủ, theo thuộc hạ nhận xét thì quân Thát Ðát ở Tiên Sơn bị thất bại như vậy, ngày hôm nay chắc chúng chưa tấn công nữa đâu, cần phải phòng bị ở hậu sơn đề phòng chúng tấn công lén.

Vô Kỵ đáp:

– Phải, chúng ta hãy tới ngọn núi kia xem sao?

Thế rồi, chàng đưa Dương Tiêu, Phạm Dao, Nhan Bồn đi lên trên ngọn núi nơi Tạ Tốn bị giam giữ trong mấy bữa trước.

Triệu Minh cũng lên tiếng nói:

– Tôi cũng đi theo nữa.

Thế rồi, bốn người lên thẳng trên đỉnh núi, không thấy có động tĩnh gì cả.

Vô Kỵ rờ mó ba cây thông tưởng nhớ lại trận kịch chiến hồi sáng, hung hiểm vô cùng, đột nhiên nghĩ thầm:

– Nghĩa phụ bảo ta xuống dưới hầm xem vách đá sẽ rõ, suýt tí nữa ta quên mất việc này rồi.

Miếng đá đậy mặt hầm hồi sáng chàng mở ra, vẫn chưa có ai đậy lại. Chàng khẽ nhảy xuống đề lao, thấy nơi đó là một thạch thất rộng hơn trượng.

Lúc ấy mặt trời đã lặn, dưới hầm tối đen như mực.

Chàng lấy đuốc và đá lửa ra đốt sáng và thấy bốn bên vách đá đều có khắc một bức hoạ, bốn bức hoạ đều khắc bằng đá nhọn, nét bút tuy giản dị, nhưng lại rất linh động. Bức tranh thứ nhất ở phía Ðông vẽ hai người đàn bà nằm dưới đất, một người giơ tay trái ra điểm huyệt người kia, tay phải móc vào túi để lấy vật gì, bên cạnh có chua chữ “lấy thuốc”.

Bức tranh thứ hai ở phía Nam, khắc một chiếc thuyền, một thiếu nữ vứt một thiếu nữ khác xuống thuyền, bên cạnh có chua hai chữ “phóng trục”.

Vô Kỵ xem đến đây, mồ hôi lạnh đã toát ra như mưa, trong lòng nghĩ thầm:

– Thì ra quả đúng như thế, Chỉ Nhược điểm yếu huyệt của Minh muội rồi móc túi nàng lấy thập hương nhuyễn cân tán ra cho ta với nghĩa phụ uống, rồi lại ném Minh muội lên chiếc thuyền Ba Tư, bắt buộc nàng phải đi xa. Nhưng tại sao Chỉ Nhược lại không giết chết Minh muội làm sao mà diệt được tích, và vu oan cho Minh muội được. Như vậy biểu muội của ta bị giết hại, chính là do Chỉ Nhược hạ độc thủ rồi.

Chàng lại xem bức tranh thứ ba, thấy vẽ hai người đàn ông, một người ngủ rất say, còn một người nữa, tóc rất dài, đang lắng tai nghe, Vô Kỵ kinh hãi nghĩ thầm:

– Không ngờ Chỉ Nhược lại làm những chuyện thương luân bại lý như vậy, nghĩa phụ đã nghe hết, nhưng ông ta là người tốt nhịn, ở trên đảo không hề lộ nửa tiếng cho ai hay. Phải rồi, lúc ấy ta với nghĩa phụ uống thập hương nhuyễn cân tán xong, mất hết công lực, tính mạng của nghĩa phụ với ta đều ở trong tay nàng. Thảo nào lúc ấy nghĩa phụ cứ đổ diệt cho Minh muội, hiển nhiên ông ta phẫn uất khôn tả, ông ta biết tính ta rất thực thà, nếu nói cho ta hay rõ sự thể, thế nào ta cũng tiết lộ cho Chỉ Nhược hay chứ không sai.

Tiếp theo đó chàng lại xem bức tranh thứ tư ở bên phía Tây.

Chàng thấy trên đó khắc Tạ Tốn đang ngồi ngay thẳng.

Chỉ Nhược tấn công lén ở phía sau, bên ngoài có một bọn của Cái Bang chạy vào.

Tình hình này y như những tuồng tích mà Triệu Minh đã cho người trình diễn ở trong đám rước tại thủ đô vừa rồi. Chàng định xem nốt bức tranh thứ năm thì bó đuốc trong tay chàng đã cháy hết, trong hầm tối đen như mực.

Chàng liền kêu gọi:

– Minh muội lại đây, đem cho tôi bó đuốc nữa.

Triệu Minh liền châm bó đuốc, nhảy ngay xuống dưới hầm, nàng vừa trông thấy mấy bức tranh đã hiểu ngay ra việc gì rồi.

Vô Kỵ xem sang bức tranh thứ năm , thấy mười đại hán khiêng Tạ Tốn đi qua, một thiếu nữ núp sau một cây cổ thụ nhòm ngó.

Bốn bức tranh ấy, bút pháp rất đẹp, nhưng trừ Tạ Tốn ra, thì mặt những người khác đều trông không rõ lắm, nên chàng không sao phân biệt được thiếu nữ núp sau thân cây là ai?

Vô Kỵ suy nghĩ giây lát liền hiểu ra và nghĩ:

– Lúc nghĩa phụ bì mù, ta chưa ra đời. Còn nghĩa phụ biết Minh muội với Chỉ Nhược chỉ nhận xét qua tiếng nói thôi, chứ có biết mặt mũi của hai người đâu. Vì vậy, nghĩa phụ mới vẽ mặt hai nàng lờ mờ như thế.

Nghĩ tới đó, chàng chỉ tay vào thiếu nữ nọ và hỏi:

– Cô này là Minh muội hay Chỉ Nhược?

Triệu Minh đáp:

– Là tôi, Thành Khôn vào trong Cái Bang cướp được Tạ đại hiệp và sai người đem về Thiếu Lâm giam giữ. Còn y thì đi quanh để ghi những dấu hiệu của Minh giáo dụ đại ca đi quanh đi quẩn một hồi. Có mấy lần tôi đã tìm cách cướp lại Tạ đại hiệp nhưng vì tôi chỉ có một mình thôi, nên mấy lần ấy đều thất bại hết. Lần sau tưởng suýt thành công ngờ đâu rút cục chỉ lấy được một mớ tóc mà tôi đã đưa cho đại ca xem đó. Vì mấy sợi tóc ấy mà đại ca không được làm chú rể đến giờ tôi vẫn còn áy náy trong lòng, xin đại ca tha thứ cho nhé.

Chính Vô Kỵ mới áy náy hơn nàng. Chàng ngẩn người ra, nhìn mặt nàng thấy hồi này nàng tiều tuỵ hơn trước nhiều, hai má hóp lại nên chàng càng thương mến nàng hơn.

Ðột nhiên chàng giơ tay ra ôm chặt lấy nàng giọng run run nói:

– Minh muội… tự tôi… không nên, không phải với Minh muội mới đúng.

Chàng hai tay ôm chặt lấy Triệu Minh, bó đuốc nằm ở dưới đất tắt ngóm ngay, trong hầm lại tối đen như mực.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Nếu cô em tôi không thông minh và khôn ngoan thì tên Vô Kỵ hồ đồ này đã dùng kiếm đâm chém cô rồi, như vậy bây giờ biết làm sao đây?

Triệu Minh vừa cười vừa hỏi lại:

– Ðại ca nỡ giết tôi ư? Hồi đó đại ca chưa biết rõ thực hư ra sao, gặp tôi ở Ðại Ðô, sao không giết tôi ngay đi?

Vô Kỵ ngẩn người ra một hồi, rồi thở dài đáp:

– Minh muội, quả thực tôi đã yêu Minh muội quá rồi, nên lúc bấy giờ tôi không đang tâm giết cô em yêu quý của tôi, nếu quả thực biểu muội của tôi bị cô em giết thì tôi không biết xử trí ra sao nữa? Mấy ngày này, tôi hiểu dần mọi việc, trong lòng tuy rất thương tiếc cho Chỉ Nhược nhưng tôi lại rất mừng thầm.

Triệu Minh nghe thấy chàng nói một cách thành thực như vậy, sung sướng tựa người vào lòng chàng hồi lâu.

Cả hai đều im lặng, sau ngửng đầu lên, thấy vành trăng mới mọc ở phía Ðông bốn bề im lặng như tờ.

Dương Tiêu, Phạm Dao và Nhan Bồn ba người tránh xa ra một nơi để mặc hai người âu yếm nhau.

Triệu Minh khẽ nói:

– Vô Kỵ đại ca, lần đầu tiên gặp đại ca ở Lục Liễu sơn trang, sau cùng rớt xuống dưới hầm, tình cảnh lúc bầy giờ cũng giống như bây giờ phải không ?

Vô Kỵ cười khì một tiếng, giơ ta ra nắm lấy chân nàng, cởi luôn chiếc giày cho nàng. Năm nọ, ở Lục Liễu Sơn Trang, Triệu Minh dùng quỷ kế hãm hại, Vô Kỵ bất đắc dĩ mới phải dở Cửu Dương Thần công ra cù vào huyệt dũng toàn ở dưới gang bàn chân nàng khiến nàng chịu không nổi, nhờ vậy mới bắt ép được nàng mở hầm ra cho mình tẩu thoát, và cũng nhờ cái cù đó khiến nàng có lòng yêu chàng, hoá địch thành bạn, sau đó mới xảy ra rất nhiều chuyện đã qua.

Triệu Minh bị chàng túm chặt lấy chân trái, vừa cười vừa nói:

– Không biết xấu hổ, một người đàn ông to lớn như thế mà hà hiếp một người đàn bà yếu ở thế này.

Vô Kỵ đáp:

– Cô mà là con gái yếu ớt ư? Cô đa mưu, lắm kế như thế thực còn lợi hại hơn mười người đàn ông là khác.

Cám ơn Trương giáo chủ đã khoe khoang tôi như vậy, tiểu nữ đây không dám nhận lời ban khen quá đáng ấy.

Hai người nói tới đây đều cười khúc khích, thì ra mấy câu nàng vừa nói đó chính là lời nói của nàng ở Lục Liễu Sơn trang năm xưa lúc hai người mới gặp gỡ nhau, nhưng lúc bấy giờ hai người vẫn coi như kẻ địch, nhưng bây giờ thì hai người đã yêu thương nhau tha thiết.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Cô có sợ cù gang bàn chân của cô không?

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

– Không sợ.

Vô Kỵ thò tay nắm lấy bàn chân nàng thì bỗng nghe thấy bên phía Tây Bắc văng vẳng có tiếng người hò hét vọng tới.

Chàng lắng tai nghe, đã nhận thấy ở phía đó hình như có luồng gió mạnh va chạm nhau, hiển nhiên là có người đấu với nhau rồi.

Chàng liền nói:

– Chúng ta thử lên trên hầm để tới đó xem sao đi.

Nói xong, chàng dắt tay Triệu Minh nhảy lên trên mặt hầm, đi thẳng về phía Tây Bắc, thấy ba cái bóng người đang chạy về phía Tây, thân pháp của họ nhanh kỳ lạ, đều là cao thủ hạng nhất trong võ lâm.

Lúc ấy Dương Tiêu cũng chạy đón cạnh Vô Kỵ và nói:

– Những người đó không phải là người của bên mình đâu.

Vô Kỵ liền ra lệnh:

– Dương tả sứ với Phạm Hữu sứ ở lại đây phòng kẻ địch giở kế điệu hổ ly sơn, còn tôi sẽ chạy lại đó xem sao.

Dương Tiêu đáp:

– Giáo chủ nghĩ như vậy rất phải.

Vô Kỵ giơ tay ra ôm ngang lưng Triệu Minh, nhún chân trái một cái, người đã nhảy ngay xuống bên dưới.

Chàng giở khinh công ra đưa Triệu Minh đi nhanh đến nỗi Triệu Minh tưởng như mình đang đằng vân giá vũ vậy.

Một lát sau hai người đã trông thấy ba người nọi, thì một chạy ở phía trước, hai người chạy theo ở phía sau.

Người chạy ở phía trước cứ nhắm vào rừng rậm ở phía sau núi mà chạy thẳng vào, nhưng hai người theo sau không chịu buông tha cứ đuổi theo riết.

Vô Kỵ hơi nhún sức, chân chạy càng mau, đuổi theo hơn dặm đường, chàng đã thấy rõ hai người đuổi ở phía sau là Lộc Trượng Khách với Hạt Bút Ông.

Hạt Bút Ông đột nhiên giơ tay trái lên ném một cái, cây bút phán quan nhằm sau lưng người nọ phi tới liền, người đó vội múa kiếm gạt luôn, chỉ nghe thấy kêu “coong” một tiếng, cây bút phán quan đã bắn tung lên trên không.

Vì người ấy đứng lại gạt cây bút nên Lộc Trượng Khách đã đuổi kịp, nhảy lên luôn đến bên cạnh và múa cây gậy đầu hươu đâm luôn vào đối thủ.

Người nọ nhảy sang bên tránh né, giơ chưởng ra phản công lại và nhờ có ánh sáng trăng chiếu rõ vào mặt người ấy nên Vô Kỵ đã nhận ra người ấy không phải ai xa lạ mà chính là Chu Chỉ Nhược, mặt nhợt nhạt, tóc bù rối và xoã xuống tận vai.

Chàng giật mình kinh hãi, vội cùng Triệu Minh ẩn núp luôn vào sau một cây cổ thụ, liền trông thấy Hạt Bút Ông dơ tay ra bắt cây bút trên không đang rớt xuống và chạy vòng sang bến trái của Chỉ Nhược.

Thế là hai người, mỗi người ở một bên, bao vây lấy Chỉ Nhược tấn công tới tấp.

Chỉ Nhược nghiến răng mím môi hỏi:

– Hai lão quý cứ đuổi theo ta hoài như thế làm gì?

Lộc Trượng Khách đáp:

– Ngày hôm nay, Trương Vô Kỵ của Minh giáo đã cướp được thanh Ðồ Long đao và ỷ Thiên Kiếm, chúng ta đã phát giác là bí kíp trong đao và kiếm đều bị mất hết vậy hiển nhiên là trong tay Tống phu nhân.

Vô Kỵ nghe nói trong lòngkinh hãi và nghĩ thầm:

– Thế ra trong lúc chúng ta cứu người, đoạt đao, hai tên lão quỷ này có nấp cạnh đó mà ta không hay biết chút gì hết.

Chàng lại nghe thấy Chỉ Nhược đáp:

– Có, tôi có lấy được võ công bí kíp trong đao, kiếm thực nhưng sau khi luyện thành võ công tôi đã hủy đi rồi.

Lộc Trượng Khách cười nhạt và nói tiếp:

– Hai chữ luyện thành đó sao mà dễ thế? Ðồ Long Ðao và ỷ Thiên Kiếm được gọi là võ lâm chí tôn, anh hùng trên thiên hạ, ai ai cũng đều muốn cướp lại được mới vừa dạ, như vậy đủ biết những bí kíp trong đó có phải tầm thường đâu. Võ công của Tống phu nhân tuy cao siêu hơn người thật, nhưng chưa luyện tới mức tuyệt bực, bằng không chỉ ra tay đánh một cái đã giết được hai sư huynh đệ chúng tôi rồi, hà tất phải bỏ chạy như thế này.

Chỉ Nhược đáp:

– Tôi nói đã hủy rồi là hủy thực, ai có nhiều thời giờ nói chuyện lôi thôi với hai vị nữa, xin lỗi hai vị nhé.

Lộc Trượng Khách với Hạt Bút Ông lớn tiếng nói:

– Hãy khoan.

Chúng vừa nói xong, một cây Lộc Trượng với hai cây Hạt Bút đã đến tấn công hai bên Chỉ Nhược cùng một lúc.

Lúc ban ngày, Vô Kỵ đã thấy tài xử dụng roi của Chỉ Nhược rồi, bây giờ lại thấy kiếm pháp của nàng thân quang ly hợp như đi như lại, hai tay cao thủ thượng thặng như thế mà nàng vẫn có thủ có công, không hề có vẻ gì là lép vế hết.

Nếu nội lực không được thuần hậu, thì Hạt Bút ông và Lộc Trượng Khách đã bị kiếm của nàng đâm trúng rồi.

Xem xong mấy mươi hiệp, Vô Kỵ liền nghĩ tiếp:

– Ðáng tiếc thực, nếu nàng có ỷ Thiên Kiếm trong tay thì Huyền Minh nhị lão không làm gì được nàng cả, nếu bây giờ nàng không thoát thân thì đấu được hơn hai trăm hiệp, nàng không thể nào chịu đựng được nữa vì nội lực của nàng còn kém nhị lão rất xa.

Ðôi bên lại đấu thêm mấy chục hiệp nữa, thế kiếm của Chỉ Nhược càng đánh càng kỳ lạ, trong mười mấy thế, ít nhất cũng có bảy thế công lợi hại.

Vô Kỵ biết nàng muốn thoát thân, nhưng đánh như vậy thì phải vận dụng rất nhiều nội lực, nếu may mắn mà đâm được đối phương thì thôi, bằng không nếu sơ xuất một tí là bị hung hiểm ngay.

Chàng lặng lặng ở phía sau cây bước ra trong lòng chỉ mong Chỉ Nhược đánh lui được kẻ địch thì mình khỏi cần lộ diện, bằng trái lại, nếu nàng lâm nguy thì mình phải ra tay cứu giúp.

Ðột nhiên chàng thấy Chỉ Nhược quát lên một tiếng rồi liên tiếp đâm luôn Lộc Trượng Khách ba kiếm, Lộc Trượng Khách né mình hơi chậm một chút không trông thấy rõ kiếm thư của nàng.

Chỉ nghe kêu “soẹt” một tiếng, vai y đã bị kiếm nàng lướt qua.

Thế là cả áo thịt của y đều bị kiếm đấm rách một đường dài chừng nửa thước. Cùng lúc ấy song bút của Hạt bút ông đã nhằm sau lưng nàng ném tới.

Tấn công địch mà ném khí giới ra khỏi tây như thế là rất nguy hiểm, nên Hạt Bút Ông ít khi xử dụng đến tuyệt thế đó.

Bây giờ y thấy hai sư huynh đệ liên tay đã đấu hơn trăm hiệp rồi mà vẫn không hạ nổi kẻ địch mặc dù kẻ địch chỉ là một thiếu nữ trẻ tuổi thôi, như thế cũng đủ ảnh hưởng đến tên tuổi của nhị lão rất nhiều rồi. Huống hồ lần này, trong núi Thiếu Thất, bên địch có rất nhiều cao thủ, chỉ cần có người ra cứu viện là công việc đoạt bí kíp của anh em y sẽ thất bại liền cho nên y mới phải xử dụng thế Song Hạt Lệ Không này. Hai cây bút rời khỏi tay, ở trên không va chạm nhau kêu “koong” một tiếng, một bút ở trên không, một bút ở phía dưới, nhằm ót và sau lưng Chỉ Nhược phi tới.

Chỉ Nhược nghe phía sau lưng có tiếng song bút phi tới, vội cúi đầu xuống tránh né, nhưng nàng có ngờ đâu, sau khi hai cây bút va vào nhau ở trên không rồi liền đổi phương hướng ngay, nên tránh như thế nàng chỉ tránh được cây bút tấn công vào sau ót mà thôi. Chứ không sao tránh nổi cây bút tấn công vào sau lưng nàng.

Vô Kỵ liền tung mình nhảy ra, giơ tay ra bắt, chộp luôn được cây bút kia và gạt chưởng một cái, đỡ luôn thế chưởng của Hạt Bút ông vừa tấn công tới.

Chỉ Nhược không ngờ trong lúc tính mạng mình bị nguy hiểm đến nơi lại có người ra tay tương cứu, nàng đang nhắm mắt chờ chết thì Lộc Trượng Khách đã lẹ làng múa chưởng đánh luôn vào bung dưới của nàng.

Huyền Minh thần chưởng oai trấn võ lâm của Lộc Trượng Khách có phải tầm thường đâu, nên Chỉ Nhược bị đánh trúng một cái đã ngã lăn ra chết giấc tức thì.

Biến cố xảy ra quá đột ngột, Vô Kỵ kinh hãi vô cùng, ném luôn cây hạt bút đi, giơ tay trái ra ôm ngang lưng Chỉ Nhược và nhảy ra ngoài xa hơn trượng, rồi quát lớn:

– Huyền Minh nhị lão sao người lại vô sỉ đến như thế? Thực không biết xấu hổ chút nào.

Lộc Trượng Khách cười ha hả và đáp:

– Ta tưởng là dám tới đây xem tay vào như vậy, thì ra là Trương giáo chủ, Quận Chúa nương nương của chúng tôi ở đâu, giáo chủ dụ dỗ nàng đi đâu rồi?

Triệu Minh ở phía sau cây bước ra, ẳm luôn Chỉ Nhược đỡ tay Vô Kỵ, rồi tủm tỉm cười và hỏi:

– Lộc tiên sinh, suốt ngày mê mẩn tâm thần, nhớ nhung tôi, không sợ ba tôi giận hay sao?

Lộc Trượng Khách tức giận vô cùng liền lớn tiếng nói:

– Tiểu yên nữ này mi dám làm ly gián tình cảm của anh em chúng ta, bây giờ anh em chúng ta đã ân đoạn nghĩa tuyệt với cha ngươi rồi, Nhữ Dương Vương có giận hay không ta không cần biết.

Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách vô lễ với Triệu Minh như vậy lại còn hạ độc thủ ám hại Chỉ Nhược liền nghĩ lại chuyện hồi còn nhỏ bị hai lão già này dùng Huyền Minh thần chưởng đánh vào lưng mình, khiến mình chịu đựng không biết bao nhiêu đau đớn khổ sở, hận cũ, thù mới dồn đến một lúc, chàng liền la lớn:

– Minh muội, hãy lui về phía sau, tôi vừa trông thấy Lộc, Hạt nhị lão đã tức lắm rồi, ngày hôm nay để tôi cho chúng một bài học mới được.

Nhị lão thấy chàng tay không, liền buông cả khí giới xuống, chờ chàng xông lên tấn công.

Vô Kỵ tiến lên một bước, mồm thì quát lớn:

– Hãy coi thế công của ta.

Chàng liền giở thế Giảo Tước Vỹ hai chưởng đẩy mạnh một cái.

Thế võ này của chàng rất chậm chạp vì xuất xứ ở Thái Cực quyền pháp. Trong chưởng lực đó lại ngấm ngầm xen lẫn Cửu Dương thần công. Ngày hôm nay chàng đã quyết tâm đem sức lực thuần dương có một không hai trên thiên hạ để đấu với Huyền Minh thần chưởng, chưởng lực thuần âm của nhị lão.

Ngày nay, tuy môn Thái Cực Quyền là một môn quyền rất tầm thường, nhưng vào đời cuối nhà Nguyên, lúc ấy Trương Tam Phong vừa sáng tác chưa được bao lâu, người trong võ lâm ít ai được trông thấy.

Lộc Trượng Khách chưa hề thấy chưởng nào mà lại nhẹ nhàng và không có sức lực như thế nên không hiểu bên trong có quỷ kế gì, vì từ xưa tói nay đã từng hoảng sợ ngầm Vô Kỵ rồi, nên y không dám giơ tay ra chống đỡ mà lại vội nhảy sang bên để tránh, Vô Kỵ đã quay người lại dùng thế Bạch Xà Hổ Tín, đánh luôn một chưởng vào người Hạt Bút Ông, tay của chàng hơi run và cứ đẩy lui không nhất định.

Hạt Bút Ông giơ ngón tay trái lên điểm vào gang bàn tay của chàng mà hữu chưởng của y thì tà tà chém xuống bắp chuối của Vô Kỵ.

Vô Kỵ đấu với chúng mấy chục lần rồi, biết chúng không phải địch thủ của mình, nhất là gần đây chàng lại kịch chiến với Ðộ ách ba vị cao tăng, võ công của chàng đã tiến bộ thêm một mức, muốn đánh bại hai người này không khó khăn gì hết. Nhưng dù sao Huyền Minh nhị lão cũng có mấy chục năm kinh nghiệm không phải là những tay võ nghệ tầm thường nên hiểu rằng đối phương đột nhiên giở thế võ quái dị ra, mình chỉ sơ xuất một cái là mắc mưu liền.

Nên rõ, môn Thái Cực quyền vốn là vận khí, không vận sức, là một môn quyền thuật rất đặc biệt, đồng thời Vô Kỵ lại dồn Cửu Dương thần công ở một cái vòng tay đó mà đưa ra, khiến Huyền Minh nhị lão càng đấu, càng thấy dương khí nóng hổi, những âm hàn khí ở Huyền Minh thần chưởng đưa ra, thường thường bị hơi nóng đó đẩy trở lại.

Vô Kỵ càng đấu càng thuận tay, liền nghĩ thầm:

– Hai lão già này là những tay cao thủ hiếm có trên thiên hạ, ngày hôm nay ta đả thương chúng, sau này chỉ sợ khó mà kiếm được những tay có võ công như thế này để cho ta thử sức.

Vì vậy, trong một cái đấm hay cái đá của chàng, đều là võ học tinh nghĩa mà gần đây chàng nghĩ ra được.

Chàng không cần vội vã đánh hai người, nhưng chàng ra tay rất chậm chạp và nhẹ nhàng để thử những võ học mới.

Ðấu được hơn trăm hiệp, chàng ngẫu nhiên quay người lại, thấy hai cái bóng đen ở dưới đấy hơi rung động.

Ðó là ánh trăng chiếu vào người Chỉ Nhược và Triệu Minh, nên mới có hai cái bóng như thế. Chàng rùng mình kinh hãi, liếc nhìn xem thấy Triệu Minh run cầm cập hình như không ẳm nổi Chỉ Nhược, liền nghĩ thầm:

– Có lẽ Chỉ Nhược bị Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách đánh trúng không chịu nổi, nàng vốn dĩ luyện võ công âm hàn lại gặp phải Huyền Minh thần chưởng là thứ hơi âm hàn độc nhất thiên hạ nên đã lạnh rồi lại còn thêm hơi lạnh vào vì thế Minh muội, người ẳm nàng cũng không chịu nổi nốt.

Nghĩ đoạn, chàng liền nhấn thêm một thành sức mạnh vào tay nhằm Lộc Trượng Khách đánh xuống.

Lộc Trượng Khách là người rất khôn ngoan, đoán biết được ý định của chàng rồi, liền nhảy sang bên tránh né và nói với Hạt Bút Ông rằng:

– Sư đệ, cứ việc cầm cự với y, hơi độc trong người thiếu nữ họ Chu kia bắt đầu tác quái rồi, đừng để y rảnh tay giải cứu y thị.

Hạt Bút Ông đáp:

– Chính thế.

Rồi y cũng dở khinh công nhảy luôn ra bên ngoài, nhặt đôi bút lên, dùng thế Thông Thiên Triệt Ðịa, cây bút trên, cây bút dưới, cùng đâm lên, đâm xuống một lúc.

Vô Kỵ thấy vậy mỉm cười một tiếng nói:

– Các ngươi có khí giới hay không thì cũng thế mà thôi.

Nói xong, chàng múa chưởng tấn công luôn. Chưởng phong của chàng đè nén Hạt Bút Ông không sao chống được.

Lộc Trượng Khách mặc cho sư đệ sống chết ra sao, trái tay chộp lấy cây gậy, hất ngược lên tấn công vào ngang hông của Vô Kỵ.

Lúc ấy, một trượng, hai bút muốn đánh bại Vô Kỵ cũng không sao đánh bại nổi, nhưng bảo thủ khỏi bị đối phương đánh bại thì chúng thị có nội lực hùng hậu, nên yên trí nhất thời Vô Kỵ không thể nào đánh đổ chúng được.

Vô Kỵ liền biến đổi mấy thế quyền pháp như ba mươi sáu thức Cầm Nã Thủ học được của Thần Tăng Không Tín, Phủ Cẩm Thức của Cổ Sát Thức, Bảo Tàn Thức, Thô Khuyết Thức, thế công lợi hại khôn tả.

Lộc Trượng Khách vội la lớn:

– Long trảo công này của ngươi đã luyện tới mức cao siêu đấy, để lát nữa dùng đào đất rất thích hợp.

Y lên tiếng nói, hơi phân tâm một chút, Vô Kỵ đã phi chân lên đá trúng vào bắp chuối bên trái y liền. Y loạng choạng mấy bước rồi mới đứng vững được, liền múa tít chiếc gậy lên, kín đáo đến nỗi gió mưa không sao lọt qua được.

Vô Kỵ quay đầu lại, đưa mắt nhìn Triệu Minh và Chỉ Nhược thấy hai nàng càng run nhiều hơn trước, liền lên tiếng hỏi:

– Minh muội làm sao thế?

Triệu Minh đáp:

– Nguy tai, lạnh lắm.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, hơi nghĩ ngợi một chút, đã hiểu rõ tại sao liền.

Ðáng lẽ Chỉ Nhược chỉ bị Huyền Minh thần chưởng đánh trúng thì hơi âm hàn đó dù có lợi hại đến đâu cũng chỉ mình nàng chịu đựng thôi, sao bây giờ cả Triệu Minh cũng bị lạnh như thế? Chắc Triệu Minh hiếu kỳ, đã vận sức giúp Chỉ Nhược chống lại hơi hàn độc đó. Công lực của hai người hơn kém nhau rất xa, mà nội công của Chỉ Nhược rất quái dị, nên Triệu Minh chưa cứu được người mà đã liên luỵ trước.

Vô Kỵ liền dở hết công lực ra múa song quyền tấn công lia lịa chỉ mong mau may giải quyết và đánh lui nhị lão, nhưng nhị lão không dám đến gần chàng; bỗng trước bỗng sau, chỉ muốn kéo dài thời gian, không chịu chính diện đối địch với chàng.

Vô Kỵ nóng lòng vô cùng, liền lớn tiếng quát bảo:

– Minh muội, hãy đặt Chỉ Nhược xuống đừng ăm nàng nữa.

Triệu Minh đáp:

– Tôi… không buông được.

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao?

Triệu Minh đáp:

– Cô ta… tôi… lưng cô ta dính chặt vào gang bàn tay của tôi.

Nàng vừa nói, hai hàm răng run lên cầm cập, người loạng choạng suýt ngã, Vô Kỵ càng kinh hãi thêm.

Lộc Trượng Khách liền lên tiếng nói:

– Trương giáo chủ, lương tâm của Chu cô nương độc ác lắm, nàng đang truyền hơi hàn độc trong người sang quận chúa cô nương. Quận chúa cô nương sắp chết đến nơi rồi, chúng ta hãy tạm dừng tay ước định với nhau nhé.

Vô Kỵ hỏi:

– Ước định như thế nào?

Lộc Trượng Khách đáp:

– Chúng ta hãy ngừng đấu, tôi lấy hai cuốn sách ở trong người Chu cô nương. Giáo chủ cứu quận chúa.

Vô Kỵ dùng giọng mũi hừ một tiếng rồi nghĩ thầm:

– Võ công của nhị lão đã lợi hại như thế, nếu đê cho y luyện thành võ công âm độc của Chỉ Nhược, sau này chúng tác oai tác quái, không ai kiềm chế nổi chúng nữa.

Chàng lại thấy Triệu Minh, mặt đã xám xanh, trông rất đau khổ. Chàng liền lui về phía sau hai bước, giơ tay trái ra chộp lấy bàn tay phải của nàng để truyền Cửu Dương chân khí sang.

Lộc Trượng Khách thấy vậy vội la lớn:

– Chúng ta mau mau tiến lên tấn công.

Hai anh em y, kẻ múa trượng, người múa bút, xông lại tấn công như vũ bão. Y biết lúc này Vô Kỵ không thể nào rời khỏi Triệu Minh, chỉ một tay của đối phương chống đỡ không phải là chuyện dễ nên chúng mới dùng toàn lực ra tấn công.

Vô Kỵ dùng già nửa sức công lực để giải cứu Chu, Triệu hai người, chân chàng không sao di động được, chỉ còn lại một hướng nên hung hiểm vô cùng.

Bỗng có tiếng kêu “soạt” bắp chuối bên trái của chàng đã bị Hạt Bút Ông rạch một đường dài, máu chảy be bét.

Triệu Minh đang bị hơi hàn độc của Chỉ Nhược dồn sang, sắp sửa chết cứng, hình như khí huyết trong người sắp đông đặc lại, bây giờ nhờ có chân khí của Vô Kỵ truyền sang, nàng cảm thấy ấm áp dần.

Nhưng Vô Kỵ, một mặt phải đối địch với hai đại cao thủ, một mặt phải chống đỡ hơi hàn độc của Huyền Minh thần chưởng và Cửu nội lực của Chỉ Nhược, nên dần dần chàng chống đỡ không nổi, liền lấy hơi định rú lên một tiếng gọi Dương Tiêu và Phạm Dao đến cứu viện chì chàng đã nghe thấy tiếng rú của Dương Tiêu và Phạm Dao ở núi bên phải vọng tới và xen lẫn tiếng khí giới va chạm nhau.

Chàng mới hay Phạm, Dương, Nhan ba người cũng gặp kẻ địch.

Lộc Trượng Khách tấn công luôn ba trượng một lúc, định dùng sừng hươu đâm vào mặt Vô Kỵ. Vô Kỵ liền giơ chưởng, vận sức đẩy lui chiếc đầu hươu.

Hạt Bút Ông nằm dưới đất, lăn xả vào, cây bút ở tay trái dùng thế Tòng Sở Dục nhằm lưng của Vô Kỵ điểm luôn.

Chàng thấy không sao tránh né được, đành phải giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra định phá hẳn sức lực của cái bút đó đi nhưng bút của Hạt Bút Ông đã điểm tới, sức mạnh khôn tả.

Chàng không biết có phá nổi thế bút đó hay không, chàng đang băn khoăn thì đã nghe kêu koong một tiếng, lưng mình bị rung động một cái nhưng không thấy đau đớn gì cả, chàng mới hay bút của đối phương điểm trúng vào thanh đao Ðồ Long đeo ở ngang lưng.

Xưa nay, chàng đối địch không bao giờ dùng khí giới, nếu có dùng chỉ lấy Thánh Hỏa lệnh ra thôi, chứ không bao giờ sử dụng đến đao kiếm cả, vì vậy chàng đeo thanh đao Ðồ Long ở ngang lưng mà cũng không đem ra để chống đối địch.

Nay, vì bút của Hạt Bút Ông điểm trúng thanh đao, chàng sực nhớ, liền quát lớn một tiếng, giơ chân ra đá luôn một cái, Hạt Bút Ông bắt buộc phải lui ra ba bước, chàng đưa trái tay ra sau, rút đao ra thì trượng của Lộc Trượng Khách cũng vừa đánh tới.

Vô Kỵ múa đao Ðồ Long khẽ chặt một cái, đầu hươu trên gậy đối phương đã rớt ngay xuống đất.

Lộc Trượng Khách cả kinh la lớn:

– Nguy tai.

Y vừa kêu xong thì Hạt Bút Ông đã múa bút xông tới, Vô Kỵ chỉ giơ bảo đao lên chống đỡ, đôi bút của đối thủ đã bị chàng chém làm bốn khúc.

Ðồng thời, chàng đã múa thanh đao Ðồ Long hoá thành một luồng bạch quang.

Hạt Bút Ông với Lộc Trượng Khách không dám xông vào gần nữa, nhờ vậy Cửu Dương chân khí trong người chàng mới dồn sang Triệu Minh, hơi hàn độc ở trong người Chỉ Nhược cũng bị xua đuổi ra hết, và Cửu Dương chân khí cũng làm tan luôn cả Cửu ¢m nội lực của nàng luyện được nữa.

Thì ra Chỉ Nhược đã lấy được Cửu âm chân kinh trong ỷ thiên kiếm rồi phần vì nàng sợ Tạ Tốn với Vô Kỵ hay biết nên chỉ dám luyện tập vào ban đêm thôi, phần thứ hai, vì ngày giờ cấp bách không cho phép nàng luyện từ mức căn bản mà luyện tập lên, vì thế nàng chỉ luyện tập những âm độc võ công hạ thừa trong chân kinh thôi, ví dụ như Cửu âm Bạch Cốt trảo chẳng hạn.

Năm xưa, cuốn Hạ Cửu âm chân kinh lọt vào tay Ðông Tà hoàng Dược Sư, đệ tử của y là Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong, nhân lúc y không để ý lấy trộm cuốn kinh này, hai người đó luyện thành võ công cũng tương tự như võ công của Chỉ Nhược vậy. Thứ võ công tốc hành này nội lực rất thô thiển, nếu gặp đối thủ có nội công cao minh thật sự thì thất bại ngay.

Chỉ Nhược trúng phải Huyền Minh thần chưởng xong, định dồn hàn độc vào người Triệu Minh để đợi chờ Vô Kỵ ra tay cứu viện.

Quả nhiên tới khi Vô Kỵ chạy lại ra tay cứu thì nàng thấy trong người ấm áp và dễ chịu vô cùng.

Ngờ đâu, nàng đang cảm thấy hơi sức tăng lên dần và định thoát ra khỏi bàn tay của Triệu Minh thì bỗng bị một luồng sức mạnh hút chặt lấy, không sao thoát được.

Vừa rồi, bàn tay của Triệu Minh bị lưng nàng hút chặt, bây giờ thì trái lại lưng của nàng bị bàn tay của Triệu Minh hút chặt, đó là do nội lực mạnh yếu mà nên.

Vô Kỵ dùng hết sức xua đuổi hơi hàn độc ở trong người Triệu Minh, chàng cảm thấy Cửu Dương chân khí của mình chuyển sang người đối phương mà cứ thấy người của đối phương có hơi lạnh phản kháng, chàng lại tưởng là hơi hàn độc của Huyền Minh thần chưởng ở trong người của hai nàng chưa ra hết nên chàng vẫn tiếp tục giở hết công lực ra để xua đuổi thêm.

Ngờ đâu chàng đưa một phần Cửu Dương chân khí sang thì Cửu âm chân khí của Chỉ Nhược đã khổ luyện được tiêu mất một phần liền.

Chỉ Nhược kêu khổ thầm nhưng không sao mở mồm ra được vì nàng biết hễ mở mồm ra nói thế nào cũng hộc máu tươi ra, chân khí tiết ra hết ngoài mà chết ngay.

Triệu Minh thấy trong người khoan khoái, liền vừa cười vừa nói:

– Vô Kỵ đại ca, tôi dễ chịu lắm rồi, đại ca cứ yên tâm lo đối phó với nhị lão đi.

Vô Kỵ đáp:

– Ðược lắm.

Chàng liền thâu ngay nội lực lại.

Chỉ Nhược liền thoát khỏi sức dính chặt đó.

Nàng biết hơi hàn độc Huyền Minh thần chưởng trong người mình tuy đã xua đuổi ra hết nhưng Cửu âm nội lực ở trong người nàng cũng tiêu hao rất nặng. Nàng trông thấy Vô Kỵ đang múa đao chuyên tâm tấn công địch, liền giơ ngay năm ngón tay ra, đâm luôn vào đầu Triệu Minh một cái.

Triệu Minh đau nhức vô cùng la lớn một tiếng:

– Ối chà !

Ðồng thời nàng cũng nghe thấy tiếng kêu lách cách rất khẽ, thì ra năm ngón tay của Chỉ Nhược đã gãy hết, nàng ta đau không chịu nổi, kêu hự một tiếng rồi quay đầu chạy đi luôn.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội quay đầu lại hỏi:

– Cái gì thế?

Triệu Minh giơ tay lên đầu, hoảng sợ đến mất hồn vía, không sao nói lên lời được.

Vô Kỵ lại tưởng nàng bị Cửu âm Bạch Cốt trảo đả thương, nên tay phải vẫn tiếp tục múa đao chống đỡ Nhị lão, còn tay trái thì rờ lên đầu nàng thử xem, thấy ướt đẫm, biết đầu nàng bị chảy máu, nhưng xương sọ nàng không bị thủng nên chàng yên tâm an ủi rằng:

– Chỉ bị thương da thịt thôi, không việc gì mà sợ.

Thì ra lúc Chỉ Nhược ra tay tấn công nàng, Cửu Dương chân khí trong người nàng chưa rút lui hết, hơn nữa nội lực của Chỉ Nhược đã tổn thất rất nhiều, như vậy lấy yếu mà tấn công mạnh, ngón tay của nàng làm sao không gãy chớ.

Vô Kỵ lại hơi phân tâm một chút, Huyền Minh nhị lão lại tấn công tới.

Lúc ấy Vô Kỵ đã có thanh đao sắc bén nhất thiên hạ, nhưng chàng nhận thấy nhờ có khí giới sắc bén này thắng địch không vẻ vang chút nào nên chàng mới lớn tiếng kêu gọi:

– Dương Tả sứ, Phạm Hữu sứ, tình hình bên hai người ra sao?

Phạm Dao lớn tiếng đáp:

– Ðã đánh đổ ba người rồi, còn bảy người nữa, giáo chủ khỏi phải bận tâm đến chúng tôi làm chi.

Hai bên đối đáp với nhau toàn dùng nội lực mà nói, cả đôi bên thấy thần khí rất sung túc mới đoán biết bên mình không việc gì hết, chàng yên tâm, liền đưa bảo đao cho Triệu Minh rồi dùng tay trái lôi và kéo một cái, xử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp vừa chuyển phương hướng của thế chưởng Hạt Bút Ông vừa đánh tới.

Trong khi lôi kéo đó, chàng đã dồn Cửu Dương thần công vào và Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp giở ra đối phó địch, đấy chàng đã dùng tới tầng lớp thứ bảy, tầng lớp cao siêu nhất của môn võ công đó.

Xử dụng tầng lớp này rất hao tâm huyết và nội lực, không thể đúng sai được, đồng thời không khéo vận dụng, cũng có khi bị tẩu hỏa nhập ma là khác.

Vì thế vừa rồi Vô Kỵ phải phân tán cứu giúp Triệu Minh và Chỉ Nhược nên dù gặp tình thế nguy cấp khôn tả mà cũng không dám xửu dụng tần lớp võ công này. Huyền Minh nhị lão là hai tay cao thủ thượng thặng trong võ lâm, nếu dùng những tầng lớp dưới của môn Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp này thì không làm gì nổi chúng.

Bây giờ trong người chàng một thuận một nghịch, một thức lưu chuyển một vòng rất nhanh chóng, chàng liền định thần, gạt một cái ngay vào chưởng của Hạt Bút Ông, chỉ nghe kêu bộp một tiếng, chưởng đó đánh ngay vào vai của Lộc Trượng Khách.

Lộc Trượng Khách giật mình kinh hãi, giận dữ quát hỏi:

– Sư đệ làm gì thế?

Hạt Bút Ông là người có võ công rất tinh thâm, nhưng phải nỗi ăn nói chậm chạp, đầu óc lại đần độn, bất cứ việc gì xảy ra một cách đột ngột y không sao hiểu được, ngẩn người không biết trả lời ra sao, tuy y biết Vô Kỵ phá quấy, nhưng y chỉ nghĩ thầm rằng:

– Bây giờ chỉ có cách tấn công giết kẻ địch mới xin lỗi được sư huynh thôi.

Nên y vận sức vào đùi phải, nhằm Vô Kỵ đá luôn.

Vô Kỵ lại giơ tay ra phất và đẩy luôn một cái, chân của y liền đá nhằm vào đơn điền và bụng dưới của Lộc Trượng Khách.

Ðơn điền là chỗ then chốt để vận khí trong người, khi nào Lộc Trượng Khách chịu để cho sư đệ đá trúng nơi yếu huyệt nên y vội né tránh, mồm thì quát tiếp:

– Mi điên à?

Triệu Minh liền xen lời:

– Phải đấy, Hạt tiên sinh mau bắt lấy tên sư huynh đại nghịch vô đạo, hiếu sắc, ham dâm này đi, cha tôi thế nào cũng trọng thưởng cho tiên sinh ngay.

Vô Kỵ nghe nàng nói, cười thầm và nghĩ:

– “Kế ly gián này rất hay.”

Chàng đang dùng Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp làm Hạt Bút Ông đánh Lộc Trượng Khách rồi lại khiến Lộc Trượng Khách đánh lại Hạt Bút Ông.

Lúc này thấy Triệu Minh nói như vậy, chàng thay đổi ý định, chỉ chuyên môn đưa tay, chân của Hạt Bút Ông tấn công Lộc Trượng Khách thôi, còn đối phó với Lộc Trượng Khách thì chàng vẫn dùng những thế võ của Thái Cực quyền và mồm thì lớn tiếng nói:

– Hạt tiên sinh, khỏi cần lo âu, hơi sức tiên sinh với tôi thế nào cũng hạ được con hươu dâm này, Nhữ Dương Vương thế nào cũng phong tiên sinh làm… phong tiên sinh làm…

Nhất thời chàng chưa nghĩ ra quan cấp nào thích hợp thì Triệu Minh đã cướp lời nói luôn:

– Hạt tiên sinh, quan cáo định phong cho tiên sinh hiện đang ở trong người tôi đây.

Nói xong, nàng móc túi lấy một tờ giấy giơ ra và đưa lên đọc:

– Phải, đó là chức Ðại Nguyên Hộ Quốc Dương Oai đại tướng quân, tiên sinh mau ra sức đi.

Vô Kỵ lại giơ chưởng đánh ra, đẩy Lộc Trượng Khách sang bên trái thì vừa gặp chưởng của Hạt Bút Ông bị chàng dẫn từ trái sang phải, như vậy không khác gì tả hữu cùng tấn công một lúc.

Lộc Trượng Khách với Hạt Bút Ông làm bạn với nhau hơn mấy chục năm còn thân nhau hơn anh em ruột thịt nên Lộc Trượng Khách không tin Hạt Bút Ông phản mình, nhưng bây giờ thấy người sư đệ liên tiếp tấn công mình năm thế, mà thế nào cũng nhằm chỗ hiểm yếu đánh xuống như muốn giết mình chết mới thôi, không còn tình nghĩa gì nữa, nên y tức giận khôn tả liền quát hỏi:

– Có phải ngươi tham mồi phú quý, không nhớ tới tình nghĩa xưa kia phải không?

Hạt Bút Ông vội đáp:

– Tôi… tôi là…

Triệu Minh vội đỡ lời:

– Phải, đó là tiên sinh bất đắc dĩ, vì muốn làm Hộ Quốc Dương Oai đại tướng quân, dù có thất lễ với sư huynh một chút cũng không sao mà.

Vô Kỵ lại nhấn mười thành công lực vào tay phải, đưa chưởng của Hạt Bút Ông đánh sang trúng vai của Lộc Trượng Khách kêu đến bùng một tiếng. Lộc Trượng Khách cả giận, tay trái đánh luôn vào mặt sư đệ một chưởng, Hạt Bút Ông bị đánh rớt mấy chiếc răng ở hàm bên trái.

Y tuổi đã già, trong mồm chỉ còn mấy chiếc răng đó nên xưa nay quý báu khôn tả, giờ lại bị Lộc Trượng Khách đánh gãy mấy chiếc răng đó, không sao nhịn được liền quát lớn:

– Sư ca, đừng có ra tay ác độc như thế, có phải tôi cố ý đánh sư ca đâu.

Lộc Trượng Khách cũng nổi giận hỏi lại:

– Ai ra tay đánh trước?

Võ học của y cao siêu hơn người nhưng không tin trên thế gian này lại có môn võ công có thể sai khiến người này đánh người nọ được, nên y không nghi ngờ là Vô Kỵ ra tay phá bĩnh như thế.

Hạt Bút Ông liền lên tiếng chửi:

– Tặc tiểu tử, mi phá quấy phải không?

Triệu Minh la lớn:

– Phải, đừng có gọi y là sư ca, cứ gọi y là tặc tiểu tử được rồi.

Vô Kỵ dùng tả chưởng đè chặt lấy chưởng của Hạt Bút Ông đánh vào má phải của Lộc Trượng Khách, má của tên nọ bị đánh sưng vù luôn.

Triệu Minh lại nói tiếp:

– Vô Kỵ đại ca, chúng ta đi trợ giúp Dương tả sứ các người đi.

Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách hai mắt đỏ ngầu, đang dồn chưởng lực ra để phản công, chàng biết kế ly gián đã thành công, liền quát lớn:

– Hạt tiên sinh, chúng tôi giao con hươu dâm tà nay cho tiên sinh đấy.

Nói xong, chàng nhún chân trái một cái đã nhảy ra ngoài và dắt tay Triệu Minh đi luôn. Hai người đã đi được một quãng khá xa, quay đầu lại nhìn thì vẫn thấy Hạt Bút Ông với Lộc Trượng Khách tiếp tục đấu với nhau, kẻ đấm một quyền, kẻ đá một cái không ai chịu nhường nhịn ai hết, trận đấu kịch liệt vô cùng.

Hai người cùng học một thầy, một bên nửa cân một bên tám lạng, không ai hơn ai nên trận đấu của họ không biết bao giờ mới chấm dứt.

Rốt cuộc cả hai đều bị thương hết, tuy Hạt Bút Ông đã nói nguyên nhân cho sư huynh nghe nhưng Lộc Trượng Khách cũng không tin.

Từ đó trở đi hai sư huynh đệ trở thành hai kẻ thù.

Vô Kỵ nhằm phía có tiếng khí giới va chạm mà chạy tới, khi chàng tiến đến cạnh Dương Tiêu thì thấy có năm sáu cái xác đã nằm ngổn ngang trong đất.

Dương Tiêu một địch với ba, Phạm Dao, Nhan Bồn một địch một. Trong năm kẻ địch, chỉ có tên đấu với Phạm Dao là mạnh nhất.

Võ công của Phạm cao siêu như thế mà cũng không sao hạ nổi tên đó. Nhưng Phạm Dao thắng thế hơn một chút, nên Vô Kỵ cũng không cần tiến lên trợ giúp, chỉ đứng đó lược trận thôi.

Giây phút sau, Dương Tiêu lại đánh té một người nữa.

Dương Tiêu chỉ còn hai địch thủ, hai tên còn lại, thấy không thắng nổi địch thủ nên co chân bỏ chạy. Tiếp theo đó, tên đấu với Nhan Bồn cũng chạy nốt, nhưng y mới chạy được mấy bước đã bị Nhan Bồn ném cho một nắm độc sa, y liền rú lên một tiếng ngã lăn ra chết tốt. Riêng chỉ có kẻ địch đấu với Phạm Dao đành chết chứ không chịu khuất phục, nên y cố hết sức chống đỡ chứ không chịu bỏ chạy.

Phạm Dao đấm voà người y kêu đến bùng một tiếng, tên đó loạng choạng một cái, Dương Tiêu liền nói:

– Vị huynh này quả thực là một hảo hán, chi bằng đầu hàng chúng tôi đi.

Người nọ nổi giận đáp:

– Quân đầu hàng không còn là hảo hán nữa.

Vô Kỵ xen lời nói:

– Phải.

Nói xong, chàng múa thanh đao Ðồ Long, chém lên chém xuống liên tiếp tám đao.

Lưỡi dao cứ lướt qua mặt y lia lịa. Một lát sau tóc của y bay tung hết, không khác gì dùng dao cạo trụi vậy.

Rồi chàng nói với Phạm Dao rằng:

– Phạm huynh tha cho y đi thôi. Người nọ thấy đầu và mặt lạnh buốt, vội giơ tay lên đầu xem liền há hốc mồm ra không sao ngậm lại được nữa. Thì ra tóc ở trên đầu, râu cằm của y đã bị tám đao của Vô Kỵ cạo mất già nửa.

Lúc này y mới chịu phục thực sự, liền vái chào Vô Kỵ và nói:

– Bái phục tài ba thần thánh của các hạ, tại hạ xin chịu để cho các hạ xử trí sao cũng vui lòng.

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

– Huynh đài cứ việc tuỳ tiện.

Người nọ thở dài một tiếng rồi quay đầu đi luôn.

Vô Kỵ liền hỏi:

– Những người này có phải võ sĩ trong Nhữ Dương Vương phủ không? Người này là ai thế?

Triệu Minh đáp:

– Y là vệ sĩ trưởng của anh tôi, tên là Cầu Nhiệm thần quyền Lô tiên Khách, hiện y được coi như là đệ nhất cao thủ ở trong phủ của cha tôi.

Dương Tiêu vừa cười vừa xen lời nói:

– Bây giờ, Cầu Nhiễm biến thành cằm sói, có lẽ y cũng không thể ở lại trong vương phủ được đâu. Trong khi mọi người đang chuyện trò thì tăng chúng của chùa Thiếu Lâm cùng người của Minh giáo hay tin lần lượt tới cứu viện. Khi họ tới chỗ Huyền Minh nhị lão đấu với nhau thì thấy nhị lão đã chạy ra ngoài xa mấy dặm rồi. Mọi người ở trên núi nhìn xuống thấy hai cái bóng đen nho nhỏ ở dưới ánh trăng, vừa đầu với nhau vừa lớn tiếng mắng chửi. Tiếng mắng chửi của chúng còn văng vẳng vọng lên trên núi.

Mọi người về tới chùa Thiếu Lâm.

Vô Kỵ xem lại vết thương ở trên đầu của Triệu Minh, thấy không sao, bỗng nghĩ ra một việc, liền lên tiếng hỏi:

– Minh muội, may thay hiền muội có đem theo giấy tờ ở trong người nên Lộc Trượng Khách mới càng tin thêm.

Triệu Minh tủm tỉm cười, móc túi lấy một bọc giấy mong mỏng giơ lên trước mặt Vô Kỵ và nói:

– Ðại ca thử đoán xem cái này là cái gì?

Hồi thứ 101

Là Phải Là Trái

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

– Minh muội bảo tôi đoán thử có lẽ suốt đời tôi cũng không sao đoán ra được.

Triệu Minh để hai cuốn giấy đó vào trong tay chàng.

Vô Kỵ dở ra xem thỡ mới hay đó không phải là giấy mà là những mảnh lụa mỏng như cánh ve sầu. Bên trên có vẽ chằng chịt những chữnho nhỏ và rất đều, cuốn thứ nhất, đầu đề là “Võ Mục di thử”.Ở bên trong đều dạy hành quân đánh trận và những tinh nghĩa yếu quyết của cách bố trận dùng binh.

Vô Kỵ xem đến cuốn thứ hai, thấy đầu đề có bốn chữ “Cửu Âm chân kinh”, những chữviết ở đằng sau, toàn là những võ công thần kỳ quái dị.

Chàng giở đến trang sau cùng, thỡ thấy bên trong có Cửu Âm Bạch Cốt Trảo với Thôi Âm chưởng.

Chàng giật mình kinh hãi và hỏi:

– Minh muội… có phải Minh muội lấy trong người Chu cô nương không?

Triệu Minh đáp:

– Khi nàng ta không cử động được thì tôi dại gì mà không thuận tay luôn. Dù tôi không muốn học những võ công âm độc này, nhưng chúng ta có thể đem tiêu hủy đi, cũng còn hơn là để trong tay nàng, để nàng luyện tập thêm mà giết hại người.

Vô Kỵ dở Cửu Âm chân kinh ra đọc luôn mấy trang, chàng nhận thấy ý nghĩa rất sâu sắc, nhất thời không thể nào hiểu hết được. Nhưng chàng biết những võ học này không phải là những môn âm độc hạ lưu, nên chàng nói:

– Những võ công ghi ở cuốn kinh này quả thực là tinh thâm lắm, cứ theo bên trong mà tu luyện thì ít ra cũng phải đến hai mươi năm mới thành công được, nếu mong học tốc hành thì chỉ học được đôi chút không những hại người mà hại cả mình nữa.

Nói tới đó, chàng ngừng giây lát, rồi lại nói tiếp:

– Cứ như chị mặc áo vàng chẳng hạn võ công cũng y như là võ công của Chu cô nương, nhưng thế võ của chị ấy quang minh chính đại, đoan chính vô cùng, có lẽ võ công của chị ta đã học theo cuốn Cửu Âm chân kinh này.

Triệu Minh hỏi:

– Chị ấy nói gì mà “Sau núi Chung Nam, một người chết sống, thần điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ” , bốn câu đó ý nghĩa ra sao hở đại ca?

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Tôi cũng không biết rõ, để khi nào chúng ta gặp Thái Sư phụ thỉnh giáo cụ ấy thì may ra mới biết được nguyên nhân ra sao?

Hai người nói chuyện phiếm vài câu, thấy quân tình không có gì lạ mới thay phiên nhau đi ngủ.

Sáng ngày hôm sau, vừa ngủ dậy, Vô Kỵ đã nhảy lên cây cao ngắm nhìn, thấy quân địch ở dửới núi có thêm hơn vạn người nữa, hiển nhiên hôm qua quân Nguyên đãø tập hợp trọng binh để phản công lại.

Quần hùng thấy quân địch cờ bay phất phới, khí giới bóng nhoáng, ai nấy lo âu vô cùng. Ðồng thời, tiếng tù và của trại địch cứ liên tiếp thổi vang động, hết nơi này đến nơi khác, chắc chúng đang bận điều khiển binh tướng.

Vô Kỵ liền gọi:

– Minh muội.

Triệu Minh đáp:

– Gì thế đại ca?

Vô Kỵ chần chờ giây lát rồi mới đáp:

– Không có gì, chỉ thuận mồm kêu coi chơi thế thôi.

Ðáng lẽ chàng định bàn cách đánh lui quân Nguyên với nàng vỡ thấy nàng là người đa mưu túc trí thế nào cũng có diệu sách nhưng chàng sực nghĩ lại:

– Nàng là quận chúa của triều đình, nàng đã phản cha, anh mà theo ta bây giờ chẳng nhẽ lại bảo nàng hiến kế để tàn sát người Mông Cổ.

Cho nên chàng định hỏi nàng rồi lại thôi là thế.

Triệu Minh nhìn sắc mặt của chàng cũng đủ đoán ra sao rồi, nên nàng thở dài một tiếng rồi đáp:

– Vô Kỵ đại ca, đã thể lượng được nỗi khổ tâm của tôi, tôi không cần nói nhiều nữa Vô Kỵ về tới phòng, nhất thời đầu óc bàng hoàng, không nghĩ ra được mưu kế gỡ cả, thuận tay chàng móc hai cuốn giấy của Triệu Minh đưa cho hồi hôm, dở ra xem mấy trang Cửu Âm chân kinh rồi dở đến Võ Mục di thư ra, ngẫu nhiên chàng thấy có năm chữ nhỏ “…. quần ngưu đầu sơn”. Chàng chú ý ngay, liền xem kỹ những chữ bên dưới. Những chữ đó nói năm xưa Nhạc Phi bị đại quân nhà Kim bao vây như thế nào, rồi làm thế nào thoát được vòng vây, đột nhiên xuất kỳ binh ra sao, rồi nội ngoại cùng tấn công một lúc mà đại thắng nhử thế nào, các mưu kế đều viết rõ hết.

Vô Kỵ liền vỗ bàn la lớn:

– Thực là trời giúp ta.

Chàng vội xếp binh thư lại, lẳng lặng nghĩ ngợi. Tình cảnh của núi Thiếu Thất lúc bấy giờ, tuy khác tình cảnh của Nhạc Phi khi bị quân Kim bao vây năm xưa, nhưng dùng mưu của Nhạc Phi vân có thể xuất kỳ chế thắng được.

Chàng càng nghĩ, càng phấn khởi, lại nghĩ thêm:

– Nhạc Phi quả thật thiên tài, kỳ tướng, những kế nguy hiểm như thế, người thường làm sao hiểu ra được. Thiết nghĩ dụng binh cũng như dụng võ vậy, nếu không được cao nhân chỉ điểm cho thì làm sao ta vỡ lẽ, hiểu biết được những mưu kế sâu xa như thế.

Chàng lấy ngón tay nhúng vào nước chè để vẽ những hình đồ, tuy nhận thấy như thế là rất mạo hiểm, nhưng nếu không mạo hiểm thì làm sao thắng nổi, khi mà phải lấy số ít địch với số nhiều, không thế nào đường đường chính chính mà đối địch được.

Chàng đã quyết tâm như vậy, nên liền ra đại hùng bảo điện, nhờ Không Văn phương trượng triệu tập quần hùng đến.

Một lát sau, tất cả anh hùng của các lộ đều tới tụ tập tại đại hùng bảo điện.

Vô Kỵ đứng ở giữa, lên tiếng nói với mọi người rằng:

– Lúc này, quân Mông Cổ đã tụ tập dưới núi, chắc không bao lâu nữa, chúng sẽ đem quân lên tấn công núi này, tuy hôm qua chúng ta thắng được một trận nhỏ, làm mất nhuệ khí của chúng thật nhưng nếu chúng đánh liều mà xông lên thì chúng ta cũng khó mà chống đỡ nổi. Tại hạbất tài, được các vị anh hùng bầu cho tạm giữ ngôi minh chủ ngày hôm nay, chúng ta phải nhất tâm nhất trí đối địch, vậy xin các vị hãy tạm theo hiệu lệnh của tại hạ.

Quần hùng đều đáp:

– Xin Minh chủ cứ ra lệnh, chúng tôi đều nhất nhất tuân theo Vô Kỵ lại tiếp:

– Hay lắm Ngô Kình Thảo nghe lệnh Chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ tiến lên một bước vái chào và đáp:

– Thuộc ha ïxin tuân lệnh.

Nói xong, y liền nghĩ thầm:

– Giáo chủ vừa ra lệnh, ta là người đầu tiên được sai khiến thật là vinh hanh vô cùng. Bất cứ giáo chủ sai ta làm việc gỡ khó khăn đến đâu ta cũng xảthân mà đi làm liền”.

Y vừa nghĩ tới đó thì đã nghe Vô Kỵ nói tiếp:

– Ra lệnh cho huynh đem các anh em của bổn kỳ chấp chưởng quân pháp nếu vị anh hùng hảo hán nào không tuân theo hiệu lệnh thì Nhuệ Kim Kỳ cứ việc dùng trường mâu, búa ngắn đâm chém vào người đó tức thì, dù là bô lão của bổn giáo, trưởng bối của võ lâm, đều phải tuân theo mệnh lệnh như thường. Những người đã trái lệnh cũng bị hình phạt như những người khác, Nhuệ Kim Kỳ không được thiên vị ai cả.

Ngô Kình Thảo lớn tiếng đáp:

– Ðược lệnh.

Nói xong, y lấy luôn chiếc cờ trắng nho nhỏ ở trong túi ra ôm ở trong tay. Võ công và danh vọng của Ngô Kình Thảo chưa đạt tới cao thủ hạng nhất trong giang hồ, người ngoài không coi trọng y chút nào, nhưng từ hôm Ngũ Hành Kỳ của Minh giáo giương oai ở trên quảng trường, quần hùng mới biết lá cờ trắng của y đi tới đâu là có năm trăm mũi tên theo tới đó liền. Tiếp theo năm trăm mũi tên là năm trăm cây trường mâu và năm trăm cái búa tầm sét, như vậy dù kẻ địch có bản lãnh thông thiên cũng bị những khí giới đó đánh tan xương nát thịt ngay. Cho nên ai trông thấy cái cờ trắng của y phất phới là trong lòng kinh hoảng liền.

Sở dĩ Vô Kỵ phái Ngô Kình Thảo chấn chưởng binh pháp vỡ chàng thấy trong di thư của Nhạc Phi, điều thứ nhất đã nói ngay cách trị quần hào phải nghiêm lịnh trước tiên. Chàng biết những giang hồ, hào sĩ xửa nay rất hay tự phụ, không ai chịu nghe ai, võ công của cá nhân tuy cao siêu thực, nhưng khi tụ họp lại thì chỉ là một đám ô hợp, nếu quân lịnh không nghiêm thì làm sao mà chống cự nổi tinh binh của Mông Cổ, vì thế việc thứ nhất, chàng cho ngay Nhuệ Kim Kỳ giám lệnh chấp pháp.

Vô Kỵ chỉ tấm vách bình phong ở trước điện và nói:

– Các vị anh hùng, ai có khinh công cao cường, có thể nhảy qua tấm vách kia, xin cứ việc biểu diễn.

Trong quần hùng, liền có một số khá nhiều người tỏ vẻ bất mãn và nghĩ thầm:

– Trong lúc khẩn cấp này bảo chúng ta nhảy cao, xuống thấp chẳng quan trọng gì để làm gì? Những tiền bối cao thủ cảm thấy Vô Kỵ ra lời khinh thường mọi người thái quá, càng không vui thêm, đột nhiên Tòng Khê gạt mọi người bước ra và nói :

– Tôi có thể nhảy được.

Nói xong, chàng liền nhảy qua tấm vách và hạ chân xuống bên ngoài.

Khinh công của Võ Ðang lừng danh thiên hạ. Với tài ba của Tòng Khê, nhảy qua tấm vách đó thỡ dễ nhử trở bàn tay và không tốn chút hơi sức nào, những chàng không phải là ra nhảy như thế để biểu diễn phô tài mà cũng không phải hoảng sợ gỡ hết, cứ thực thà mà tuân theo lệnh nhảy theo mà thôi.

Sau Tòng Khê, đến Liên Châu, Lợi Hanh, Dương Tiêu, Phạm Dao, Nhất Tiếu, Hân Dã Vương, các tay cao thủ thượng thặng đều nhất nhất tuân theo nhảy qua tấm vách đó hết.

Rồi quần hùng, như Hồ Ðiệp Xuân Hoa, hết người này đến người khác, lần lượt nhảy qua. Có người lại càng muốn khoe khoang khinh công của mình nên ở trên không còn dở mấy bộ điệu ra nữa.

Tất cả chỉ có hơn bốn trăm người nhảy qua thôi, còn lại thì không ai dám thử nhảy như thế.

Nên rõ tấm vách đó cũng không phải thấp, nếu khinh công không cao siêu thì khó lòng mà nhảy qua được.

Các anh hùng dự đại hội này, tuy võ công khác nhau nhưng về môn khinh công, không phải là ai ai cũng sở trường. Thường thường khi sở trường về đấm đánh hay xử dụng khí giới, thì khinh cônng lại rất tầm thường. Lại có người chỉ chuyên môn nghiên cứu một ngón tủ mà cũng phải mất hết một đời người, những nhân vật nổi danh trên giang hồ, nếu biết những việc ấy không phải sở trường của mình thì không bao giờ dám ra bêu xấu trước mọi người.

Vô Kỵ thấy trong hơn bốn trăm người đó, tăng chúng của phái Thiếu Lâm đã có tám chín mươi người rồi, chàng nghĩ thầm:

– Phái Thiếu Lâm là đệ nhất môn phái trong võ lâm, quả danh bất hư truyền, riêng môn khinh công số hảo thủ cũng nhiều hơn các môn phái khác rồi.

Nghĩ đoạn chàng liền truyền lệnh:

– Dư nhị bá, Trương tứ bá, Hân lục thúc, mời ba vị đem theo các bị anh hùng sở trường về khinh công giả bộ như làm nhân chúng trong chùa đào tẩu để dụ quân địch đuổi theo, đó là công lớn nhất, sau khi chạy tới hậu sơn rồi thì quý vị làm như thế này, thế này…

Dư, Trương, Hân, tam hiệp của phái Võ Ðang đồng thanh nhận lệnh.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Cậu với Dương tả sứ, Phạm Hữu Sữ, Vi Bức Vương bốn vị xin giúp tôi ở giữa quản ứng.

Chàng nhất nhất phân phái, ai là người mai phục, ai là người đánh ở hai bên, cắt đặt đâu ra đấy, Dương Tiêu thấy chàng bố trận nghênh địch ngăn nắp như vậy, hình như đã có dự mưu sẳn, nên kinh ngạc vô cùng nhưng y không biết Vô Kỵ đã áp dụng theo di phép của Nhạc Phi, nhưng chỉ vì địa hình khác, bộ thuộc khác mà chàng hơi canh cải một chút đấy thôi.

Vô Kỵ phân phái xong, mới nói tiếp:

– Không Văn phương trượng, Không Trí thần tăng hai vị xin dẫn các vị của phái Nga Mi chuyên môn phụ trách cứu thương.

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược không có mặt trên núi, phái Nga Mi không có người cầm đầu, chàng tự nhận thấy đa số người trong phái Nga Mi vẫn còn thù hận mình nên không tiện chỉ huy mới nhờ Không Văn, Không Trí hai vị thần tăng đức cao, trọng vọng thống lãnh. Như vậy, chàng đoán chắc đệ tử của phái Nga Mi không dám trái lệnh nữa.

Quả nhiên, chàng ha ïlệnh xong, các nam nữ đệ tử của phái Nga Mi lẳng lặng tiếp lệnh ngay chứ không phản đối gì hết.

Không ngờ, Không Văn, Không Trí đưa mắt nhìn nhau một cái rồi gật đầu ra vẻ đồng ý với nhau, rồi Không Văn cúi chào và nói:

– Minh chủ là người có cơ mưu thâm viễn, chỉ huy rất bài bản, anh em lão tăng thán phục vô cùng, nhưng anh em lão tăng có một thỉnh cầu này, xin Minh chủ nhận cho.

Vô Kỵ đáp:

– Xin phương trượng đừng khách sáo như thế, xin cho biết tôn ý ra sao?

Không Văn nói tiếp:

– Không phải lão tăng không tuân hiệu lệnh của Minh chủ, nhưng chỉ muốn xin minh chủ cho phép anh em lão tăng được ở lại canh gác bổn chùa thôi.

Vô Kỵ nghe nói đã biết ý định của hai người, vì kế hoạch của mình đã quyết định là bỏ chùa Thiếu Lâm, giả bộ chạy về sau núi đào tẩu để dụ cho kẻ địch đuổi theo rồi mới lập cách giải vây. Nhưng năm xưa, Nhạc Phi bị vây ở núi Ngưu Ðầu, núi đá trơ trọi, không có gỡ luyến tiếc cả, còn Thiếu Thất này lại có ngôi chùa cổ đã xây dựng từ nghìn năm xưa, nơi cửa phật thánh địa này sau khi quần hùng bỏ đi rồi, vạn nhất quân địch phát quân lên khám xét, chỉ thấy ngôi chùa không, quân Nguyên tàn bạo tất nhiên chúng sẽ thiêu hủy ngay, do đó Không Văn, Không Trí xin ở lại coi chùa là muốn cùng tồn vong với ngôi chùa này rồi. Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:

– Ðược lắm, thiện ý của hai vị đại sư thật đáng kính, nếu vậy xin hai vị cứ ở lại coi chùa.

Quần hùng thấy vậy đều tỏ vẻ ngạc nhiên vô cùng, vì ai cũng đoán chắc Vô Kỵ thế nào cũng khuyên bảo và ngăn cản. Ngờ đâu chàng lại nhận lời như thế.

Các đệ tử của phái Thiếu Lâm muốn lên tiếng trần từ nên Không Văn đã quát lớn:

– Quân lệnh thâm nghiêm, nếu đệ tử của bổn phái trái lệnh lập tức bị xoá bỏ tên tuổi, đuổi ra khỏi bổn phái ngay.

Vì vậy, không ai dám nói tiếp nữa.

Vô Kỵ lớn tiếng nói tiếp:

– Ngày hôm nay, chí sĩ Trung Nguyên tề tâm, hiệp lực với nhau diệt quân Thát Ðát, các vị sư phụ phụ trách chuông trống của phái Thiếu Lâm xin gõ chuông, đánh trống ngay đi.

Quần chúng đồng thanh hoan hô, rút đao, rút kiếm ra, ai nấy hiên ngang vô cùng.

Hạ Diệm Chưởng Kỳ sứ của Liệt Hỏa Kỳ ra lệnh một cái, thuộc hạ của y liền phân những rơm củi tích trữ ở trong chùa ra, để hết cả ở trước chùa rồi phóng hỏa thiêu luôn, chỉ trong chốc lát, ngọn lửa đã bay chọc trời, khói xông lên nghi ngút.

Quân Nguyên ở dưới núi vừa nghe thấy tiếng chuông, tiếng trống ở trên núi vang động đã chuẩn bị ngay, nhưng sau chúng thấy trên núi có lửa cháy bốc lên, đều nói:

– Nguy tai, tụi mãng tử phóng hỏa thiêu chùa, thế nào chúng cũng đào tẩu chứ không sai.

Liệt Hỏa Kỳ phóng hỏa thiêu đốt rất khéo, ở trên đỉnh chùa có tưới dầu hỏa, những chỉ cháy hờ bên trên thôi, chứ không thể cháy xuống điện được. ở dưới núi xa xa nhìn lên, thấy mấy mầm nóc nhà của chùa Thiếu Lâm đâu đâu cũng có lửa bốc lên.

Liên Châu giơ tay trái lên phất một cái, đem theo một trăm năm mươi mấy tên hảo hán có khinh công khá cao siêu từ trên núi Thiếu Thất, chạy thẳng xuống dưới bên trái, nhưng chỉ chạy tới bên dưới đồi thôi, quân Nguyên đã kêu la gầm thét, kéo quân lên gần tới nơi rồi. Quần hùng cố ý chạy toán loạn, sở dĩ chạy như thế là để cho cung tên của quân Nguyên không sao bắn trúng được.

Toán thứ hai do Trương Tòng Khê chỉ huy, toán thứ ba do Hân Lợi Hanh chỉ huy trong có cả hòa thượng lẫn người thường, người nào người nấy đều vác một bọc rất đầy, nhưng trong bọc không phải là quần áo mà là gỗ vụn hay là chăn mùng.

Dưới mắt quân Nguyên, đối phương quả thực đã bỏ chùa chạy toán loạn rồi nhưng chúng bắn tên theo, chỉ trúng vào cái bọc đeo ở sau lưng, chứ không trúng người nào cả.

Quân Nguyên thấy quần hùng đã đốt chùa đào tẩu, trong khói lửa không sao phân biệt được nhiều người hay ít, liền chia ra một vạn quân đuổi theo.

Còn thì đóng ở chuyên chổ đề phòng có biến động.

Vô Kỵ nói với Dương Tiêu rằng:

– Dương tả sứ, thủ lãnh của quân Mông Cổ khá biết dùng binh không đem toàn quân đuổi theo.

Dương Tiêu đáp:

– Vâng, việc này quả thật đáng lo.

Tiếp theo đó lại nghe thấy dưới chân núi có tiếng tù và nổi lên, hai nghìn quân Nguyên chia làm tả hữu tấn công lên núi.

Vô Kỵ thấy quân Nguyên phóng ngựa ở dưới sườn núi phi lên, núi đá tuy gồ ghề nhưng kỹ thuật của chúng rất cao siêu nên chúng phi lên được.

Tên nào tên nấy cầm trường mâu, mình mặc áo giáp, trông rất hùng mạnh và chỉnh tề.

Vô Kỵ chờ đội tiền phong của địch tấn công đến cái đỉnh ở giữa mới giơ tay trái lên phất một cái, giáo chúng của Liệt Hỏa Kỳ ở hai bên đồng nhảy ra, rồi cùng phục trong bãi cỏ đợi chờ hai nghìn quân địch tiến tới cách chừng hai trăm trăm trượng Hạ Diệm mới huýt còi.

Giáo chúng Liệt Hỏa Kỳ liền lấy ống xìõ đồng phun dầu lửa ra, dầu vừa gặp lửa liền cháy ngay, người và ngựa của địch bị cháy xém nhất là lũ ngựa thấy lửa cháy liền kinh hoảng quay đầu chạy ngay, nhưng vì núi dốc, cả người lẫn ngựa đều ngã lăn xuống đất.

Thế là quân của Mông Cổ hỗn loạn, nhưng vốn là đạo quân có kỷ luật rất nghiêm minh, tiền đội tuy bại, nhưng hậu độ vẫn không nao núng.

Tên tướng lãnh ra lệnh một cái, ba nghìn quân liền bỏ ngựa và bước từng bước một xông lên. Liệt Hỏa Kỳ lại phun lửa lần nữa, tuy đốt cháy được mấy trăm người nhưng còn lại bao nhiêu chúng vẫn hăng hái tiến thẳng lên.

Trưởng Kỳ Sứ của Hồng Thủy Kỳ là Ðường Dương liền huýt lên một tiếng còi, ra lệnh phun nước độc, tiếp theo đó, Hậu Thổ Kỳ lại ném cát độc ra.

Thế là hơn hai nghìn quân Nguyên bị đánh thất điên bát đảo.

Tuy có mấy trăm người tấn công lên tận đỉnh núi, nhưng đều bị người của Nhuệ Kim, Cự Mộc hai kỳ giết chết hết.

Bỗng nghe thấy dưới núi có tiếng trống nhộn nhịp, bộ đội năm ngàn người của Mông Cổ đột nhiên đưa mộc bài thật lớn lên, thành hàng ngang như một bức tường sắt từ từ tiến lên. Thế là Liệt Hỏa Kỳ, Ðộc Thủy, Ðộc Sa không làm gì nổi chúng nữa, dù có những cây gỗ lớn của Cự Mộc Kỳ ném xuống cũng chỉ ném được vài cái khuyết khấu thôi, chứ không ăn thua gỡ. Không Văn phương trượng thấy sự việc khẩn cấp như vậy, liền nói:

– Trương giáo chủ, xin mời các vi mau mau rút lui để bảo tồn nguyên khí của võ lâm Trung Nguyên chúng ta. Ngày hôm nay, chúng ta tuy bại, nhưng sau này vẫn có dịp phục thù.

Vô Kỵ xa xa trông thấy trung quân địch có một lá cờ giơ lên thật cao, dưới cờ có một tướng cỡi con ngựa Thanh Thông.

Tướng quân đó tay cầm cây thương dài, mình mặc áo giáp vàng lóng lánh, trông rất oai võ, nhưng mang đội rất thấp nên không sao thấy rõ mặt, Vô Kỵ vội bảo với Ngô Kình Thảo rằng:

– Ngô Kỳ Sứ mau tập kích tả hữu hộ vệ của tướng quân kia đi.

Ngô Kình Thảo vâng lời đáp:

– Dạ.

Chỉ thấy y phất lá cờ trắng một cái hăng hái lên trước, nhằm tướng quân nọ xông tới.

Lá cờ trắng chỉ về phía đó, thuộc hạ giáo chúng, một trăm cây trường mâu đều nhằm tả hữu của tướng quân đó ném luôn.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Vy Bức Vương, chúng ta đi bắt tướng quân kia đi.

Dương, Phạm hai vị hãy yểm hộ cho chúng tôi. Vy, Dương, Phạm ba người vừa cười vừa nói:

– Kế này diệu lắm.

Dương Tiêu, Phạm Dao, liền xông xuống dưới núi, Nhất Tiếu và Vô Kỵ tung mình nhảy lên, chỉ nhảy nhót mấy cái đã vượt qua Dương Phạm hai người.

Vô Kỵ và Nhất Tiếu lại nhấn thếm tốc lực, hai người tựa như hai luồng khói đen, chỉ thoáng cái dã đến trước bọn địch, tay cầm mộc đồng và mộc sắt, gạt những mũi tên bắn xuống rồi cả hai dùng chân phải điểm vào một bài một cái, người đã nhảy tung lên cao, vượt qua bức tường sắt đó.

Quân Nguyên thấy vậy, lớn tiếng quát tháo, rồi múa trường mâu đông nghẹt như rừng, nhắm hai người đâm tới.

Hai người không chống đỡ, cứ tránh Ðông né Tây, xuyên qua đám đông mà đi và không bao lâu đã tới trước mặt vị tướng quân nọ.

Tướng quân đó liền múa thương đâm tới, Vô Kỵ tay trái chộp luôn cây thương, thuận thế lôi một cái, kéo cho tướng quân nọ đâm bổ về phía trước. Nhất Tiếu phi thân lên chộp ngay vào gáy của tên đó.

Y cũng khá lợi hại, tay trái rút ngay bảo kiếm nhằm ngang lưng Nhất Tiếu chém luôn.

Nhưng Vô Kỵ đã vươn cánh tay ra chộp lấy cổ tay y và cùng Nhất Tiếu lôi y xuống dưới ngựa.

Những hộ vệ của y ở chung quanh thấy vậy cả kinh thất sắc liều thân xông lại cứu viện nhưng chúng đều bị Pham, Dương hai người ngăn cản, không sao đến gần được.

Vô Kỵ liền buông tay, vừa cười vừa nói:

– Chúng ta đi thôi.

Nhất Tiếu quay người lại điểm luôn vào yếu huyệt của tên đó rồi vác lên trên vai chạy thẳng xuống núi, nhằm chỗ không người mà chạy.

Quân Nguyên thấy chủ soái bị bắt, tiếng kêu vang động cả sơn cốc, đồng đuổi theo Nhất Tiếu để mong cứu được người chỉ huy của chúng.

Nhưng khinh công của Nhất Tiếu lợi hại biết bao. Năm xưa y vác đệ tử của phái Nga Mi chạy, Diệt Tuyệt sư thái là người có võ công cao siêu đến thế mà còn đuổi theo không kịp, huống hồ là quân Nguyên. Tuy trong bọn chúng cũng có một số võ sĩ thực, nhưng cũng không sao cản trở được Nhất Tiếu và thấy Nhất Tiếu càng chạy càng xa khi nhảy lên trên ngọn cây, khi leo lên tảng đá.

Các quan quân của nhà Nguyên trông thấy đều hoảng sợ đến mất hồn vía, vì chúng thấy rõ ràng Nhất Tiếu đang vác đại tướng của chúng nhảy lộn trên cao, trượt chân rớt xuống, nhưng không hiểu Bức Vương làm thế nào lại đi chéo sang bên mà leo lên được bên trên.

Vô Kỵ, Dương Tiêu, Phạm Dao thấy Nhất Tiếu bắt được tên tướng kia rồi, đều lớn tiếng cả cười, trước sau đồng nhảy về chùa Thiếu Lâm.

Nhất Tiếu biểu diễn tài ba của mình bằng cách ném tên quân đó về phía trước.

Quân Nguyên thấy vậy, lơn tiếng hò hét tưởng chủ soái của mình thế nào cũng bị rớt xuống những tảng đá đó, vỡ đầu vỡ sọ gãy xương gãy tay mà chết tốt chứ không sai.

Ngờ đâu Nhất Tiếu nhanh vô cùng, khi tướng quân nọ còn cách mặt đất độ năm thước, thì đã đến trước hứng đỡ rồi. Thì ra lúc y ném đối phương lên, sức mạnh của y tính rất khéo léo, không sai một phân một tấc nào hết. Khi đối phương rớt xuống thì y cũng vừa chạy tới kịp. Y ném như vậy trong mấy cái đã lên tới trên núi liền.

Y quát lớn:

– Dương tả sứ, đã có món hàng lớn tới đây.

Nói xong, y ném luôn vị tướng quân đó vào người Dương Tiêu.

Dương Tiêu giơtay ra khẽ đỡ một cái, liền mở màng tướng quân đó lên xem, thấy mặt mũi của người đó rất anh tuấn, chỉ phải đôi lông mày dựng ngược, hiển nhiên trong lòng tức giận khôn tả.

Triệu Minh liền lên tiếng kêu gọi “Ðại ca”, rồi nhảy xổ tới người đó liền.

Thì ra tướng quân đó là Vương Bảo Bảo, huynh trưởng của Triệu Minh.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng, cau mày lại và nói:

– Xin thất lễ nhé.

Chàng liền ẳm Vương Bảo Bảo lên đặt giữa Không Văn và Không Trí rồi lên tiếng:

– Hai vị đại sư lấy người này làm con tin thì có thể bảo tồn được chùa Thiếu Lâm này. Người này với tại hạ có liên can với nhau xin hai vị đừng giết hại y.

Không Văn, Không Trí cả mừng, vội cầm lấy một thanh giới đao ở trong tay một đệ tử rồi kề luôn vào cổ Vương Bảo Bảo.

Sự thực lúc này hai người muốn giết chết y dễ như trở bàn tay, nhưng hai thanh giới đao đó chỉ kề vào cổ Vương Bảo Bảo thôi.

Quan quân Mông Cổ thấy vậy đều hoảng sợ vô cùng, Dương Tiêu lớn tiếng nói với quân Mông Cổ rằng:

– Quan quân của Mông Cổ các ngươi nghe đây, tiểu vương gia của các ngươi đã lọt vào tay của chúng ta rồi. Các ngươi có mau mau lui xuống núi không, bằng không chúng ta sẽ giết hại tiểu vương gia của các ngươi ngay.

Tên Vạn Phu tướng chỉ huy đội quân vạn người của quân Nguyên, thấy vậy vừa kinh hãi vừa lo âu liền nghĩ thầm:

– Nếu chúng giết tiểu vương gia thực, Nhữ Dương Vương tay cầm binh mã đại quyền thế nào cũng nổi giận chưa biết chừng toàn quân anh em chúng ta đều bị chặt đầu hết.

Nghĩ đoạn y liền truyền lệnh:

– Lui binh.

Quần hùng ở trên đỉnh núi thấy vậy đều lớn tiếng hoan hô, nhưng bỗng nghe thấy dưới chân núi tiếng trống nổi lên và sau đó một mũi tên bắn thẳng lên trời.

Tiếng kêu la hò hét liền nổi lên ở tứ phía.

Dương Tiêu cả mừng nói:

– Giáo chủ, viện binh của chúng ta đã tới.

Mọi người ở trên đỉnh núi nhìn xuống những vì bên dưới khói bụi bay mù mịt, không sao trông thấy rõ.

Chỉ nghe thấy tiếng người lẫn tiếng ngựa hí rất ồn ào, hiển nhiên quân cứu viện tới rất đông.

Vô Kỵ lớn tiếng ra lệnh:

– Viện binh đã tới, tất cả anh em chúng ta xông xuống đi.

Quần hùng đều rút khí giới ra, xông xuống núi chém giết luôn.

Vô Kỵ lại lớn tiếng bảo tiếp:

– Các vị anh hùng, chúng ta phải giết quan trước, rồi sẽ giết lính sau.

Quần hùng đều reo hò:

– Giết quan trước, giết lính sau.

Sáu chữ đó rất công hiệu.

Nên rõ kỷ luật của quân Mông Cổ rất nghiêm minh, cứ mười tên lính là một đội do Thập Trưởng chỉ huy. Trên Thập Trưởng là Bách phu trưởng, Thiên phu trưởng và Cạn phu trưởng.

Quần hùng từ trên núi đánh xuống, viện quân từ dưới đánh lên quân đội của chúng đã hỗn độn.

Vô Kỵ lại truyền lệnh chém giết quan trước, nên tinh binh của Mông Cổ lại càng hỗn loạn thêm.

Vô Kỵ xông tới lưng núi, thấy dưới núi cờ phất phới, cờ bên phía Nam có thêu chữ “Từ” cờ bên phía Bắc có thêu một chư õ “Thường” thì biết ngay Từ Ðạt và Thường Ngộ Xuân tới. Hai người này vẫn đóng ở hoài Tứ, họ vừa được tin của hòa thượng Nói Không Ðược cho hay, liền đem binh tới cứu giáo chủ.

Lúc ấy, vùng Hà Bắc và Hà Nam đều bị quân của Minh giáo chiếm lãnh vì vậy quân họ đi không đầy hai ngày đã tới núi Thiếu Thất.

Giáo chúng của Từ Ðạt và Thường Ngộ Xuân thống lãnh đều là những binh sĩ có kinh nghiệm tác chiến.

Tuy võ công của chúng kém quần hùng rất xa, nhưng khi đánh trận lại hăng hái và mạnh hơn quần hùng nhiều; hơn nữa số người lại rất đông, nên đuổi được quân Nguyên chạy về phía Tây.

Mưu kế của Vô Kỵ đã định hôm trước là dụ một bọn quân Nguyên đuổi theo chạy về sơn cốc ở phía Tây. Sơn cốc này, ba bên đều là núi cao chót vót.

Liên Châu, Tòng Khê, Lợi Hanh dẫn mấy trăm hảo hán có khinh công trác tuyệt, vừa đấu lại vừa lui, chạy vào trong thung lũng.

Tên Vạn phu của quân Nguyên thấy địa thế rất hung hiểm, những vì thấy bên địch số người rất ít, thì dù trong thung lũng có mai phục, quân mình cũng đủ sức đối phó nên y vẫn tiếp tục xua quân vào bên trong.

Liên Châu các người chạy tới sườn núi, bên trên đã thấy có mấy giây thừng buông xuống, ai nầy đều vội leo lên.

Những người này đều có khinh công trác tuyệt còn quân Nguyên thì mặc áo giáp nặng nề, làm sao mà leo được lên trên đỉnh núi.

Tên Vạn phu trưởng thấy đã trúng kế kẻ địch, liền ra lệnh rút lui.

Không ngờ, vừa lui tới Cốc Khẩu, đã có Liệt Hỏa, Cát Ðộc, tên và nước độc bắn xuống. Ðồng thời, Cự Mộc Kỳ cũng đẩy từng khúc gỗ xuống phía dưới.

Ðang lúc ây, đệ nhị lộ bại quân của quân Nguyên cũng vừa chạy tới, nhưng chúng thấy bên ngoài thung lũng đã bị phong tỏa, liền bỏ chạy tán loạn.

Vô Kỵ với Từ Ðạt trước sau đuổi tới đều nói:

– Ðáng tiếc, đáng tiếc, nếu khéo liên lạc từ trước dồn cả đạo quân thứ hai của quân Nguyên vào thung lũng thì giết được hết không?

Vô Kỵ không ngờ viện quân tới thần tốc như thế, nên không diệt hết được quân Nguyên, nhưng chàng thấy đánh bại được địch, bảo tồn được chùa Thiếu Lâm thì đã mãn ý lắm rồi.

Chàng liền bảo Từ Ðạt ra lệnh cho giáo chúng khuân thêm gỗ đá lấp chặt lấy miệng thung lũng, rồi từng đội cung leo lên trên đỉnh núi ở bên trên bắn tên xuống.

Quân địch không sao trở tay được, đành phải tìm những khu núi hay tảng đá nào đó để ẩn núp.

Không bao lâu, giáo chúng của Ngộ Xuân đuổi tới, vào gặp Vô Kỵ.

Hai người cách biệt nhau đã lâu, bây giờ được tái ngộ, đều mừng rỡ vô cùng.

Ngộ Xuân tính nóng như lửa, liền la lớn:

– Mau dọn hết gỗ và đá ra, để ta xông vào chém sạch quân Thát Ðát.

Từ Ðạt vừa cười vừa đỡ lời:

– Trong thung lũng, không nước không gạo, chỉ trong ba bốn ngày là cùng, quân địch không chết khát cũng chết đói, việc gì chúng ta phải ra tay cho mệt xác.

Ngộ Xuân vừa cười vừa nói tiếp:

– Ðệ nhận thấy chính tay mình giết chúng vẫn sướng hơn. Tuổi y tuy lớn hơn Từ Ðạt, nhưng ngày thường vẫn phục trí của người họ Từ đó, nên y vẫn coi Từ Ðạt như huynh trưởng. Ðồng thời, y cũng thấy Vô Kỵ tán thành ý kiến của Từ Ðạt nên không nói tiếp nữa, liền đi chỉ huy bộ đội đuổi giết quân Nguyên ở bên ngoài đang chạy toán loạn.

Vô Kỵ nhận lời Triệu Minh tha cho Vương Bảo Bảo, phái Ngô Kình Thảo dẫn anh em của bổn kỳ tiễn anh nàng đi ra ngoài xa năm mươi dặm.

Triệu Minh cũng thân hành tiễn anh đi ra ngoài xa và cứ luôn miệng xin lỗi hoài.

Vương Bảo Bảo không thèm nhìn nàng, và từ đầu chí cuối không thèm nói với nàng nửa lời. Nàng đành áy náy quay trở về.

Tối hôm ấy ở trên núi thiếu Thất quần hùng ăn mừng thắng lợi.

Bấy lâu nay quần hùng ở trên chùa Thiếu Lâm đều ăn mỡ chay, nay bỗng có rượu và thịt ai nấy đều khoái chí vô cùng.

Từ Ðạt rót đầy một chén rượu, đem đến mời Vô Kỵ và nói:

– Chúc mừng giáo chủ, mời giáo chủ uống cạn chén này.

Vô Kỵ liền cầm lấy chén rượu đó uống cạn luôn.

Từ Ðạt lại nói tiếp:

– Ngày thường, thuộc hạ rất hâm mộ giáo chủ là người can đảm, võ công lại tuyệt luân, không ngờ giáo chủ dụng binh cũng thần diệu đến thế. Quả thật, phước cho bổn giáo và cũng may mắn cho chúng sinh.

Vô Kỵ ha hả cười và đáp:

– Từ đại ca, dừng khen ngợi tôi như thế, ngày hôm này đại thằng phần vì Từ, Thường hai vị đại ca tới một cách thần tốc, hai là nhờ có di thư của Nhạc Võ Mục chứ tiểu đệ không có công lao gì hết.

Từ Ðạt ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì là di thư của Nhạc Võ Mục xin giáo chủ chỉ cho hay.

Vô Kỵ móc túi lấy hai cuốn giấy mỏng ra, hai cuốn giấy này đã lấy được trong đao Ðồ Long. Chàng dở đến chỗ lính bị vây ở núi Ngưu Ðầu trong cuốn di thư rồi đưa cho Từ Ðạt xem. Từ Ðạt đỡ lấy khẽ đọc một lượt, vừa kinh hãi vừa thán phục, thở dài một tiếng mới nói tiếp:

– Thần cơ của Võ Mục, quả thật người đời sau không thể sánh kịp, nếu Võ Mục còn sống ở trên thế gian này, thống lãnh hào kiệt ở Trung Nguyên, xua đuổi quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi về tới bãi sa mạc ở miền Bắc không khó khăn gì hết.

Nói xong, y cung kính trao lại cuốn di thư đó cho Vô Kỵ.

Vô Kỵ không dơ tay ra đỡ mà lại nói:

– “Võ Lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mặc cảm bất tòng” nhân nghĩa của mười sáu chữ đó mãi tới hôm nay ta mới hiểu rõ hết. Câu nói Võ lâm chí tôn, không phải nói bổn thân của thanh bảo đao mà chỉ di thư giấu ở bên trong. Vì dùng binh pháp đối địch thì thế nào cũng chiến thắng, như vậy mới đi tới chỗ hiệu lệnh thiên hạkhông ai dám không theo. Từ đại ca, tôi xin chuyển tặng đại ca cuốn di thư này, mong đại ca theo di chỉ của Võ Mục cướp lại sơn hà xã tắc của chúng ta, đánh thẳng tới Mông Cổ.

Từ Ðạt cả kinh vội đáp:

– Thuộc hạ có tài đức gì đâu mà nhận món quà hậu hĩ này của giáo chủ ban cho.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Từ đại ca, không nên từ chối, vì chúng sinh của thiên hạ mà tôi tặng cuốn di thư này cho đại ca đấy.

Từ Ðạt đỡ lấy cuốn binh thư, tay run cầm cập.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Trong lời đồn đại của võ lâm còn có câ u nữa là “ỷ thiên bất xuất thùy nhữ tranh phong”. Hiện giờ thanh ỷ Thiên kiếm bị chặt gẫy làm đôi, nhưng sau này nối liền được, cuốn giấy giấu trong thanh kiếm là một cuốn võ công bí kíp rất lợi hại, bây giờ tôi đã hiểu rõ những câu đó rồi. Binh thư là dùng để xua đuổi quân Thát Ðát, nhưng có người nào cầm binh quyền mà tác oai tác phúc, lấy bạo lực thay đổi bạo lực thỡ dân chúng trên thế gian sẽ chịu cực khổ biết bao. Nếu quả thực như vậy, thế nào cũng có một vị anh hùng, tay cầm ỷ Thiên kiếm tới lấy đầu bạo quân đó. Ngườøi thống lãnh trăm vạn hùng binh, dù quyền của y có thể lật đổ thiên hạ, nhưng chưa chắc đã chịu nổi cái chém của ỷ Thiên kiếm. Từ đại ca, xin nhớ kỹ lời nói của tôi.

Từ Ðạt nghe nói, mồ hôi ướt đẫm, không dám từ chối nữa và nói tiếp:

– Thuộc ha xin tuân lệnh chỉ của giáo chủ.

Nói xong, liền cung kính để cuốn di thư của Võ Mục lên trên bàn, vái bốn lạy rồi lại bái lạy Vô Kỵ đã tặng di thư cho mình.

Sau đó, quả nhiên Từ Ðạt dụng binh như thần, đánh bại quân Nguyên, đuổi ra hẳn ngoài quan ngoại, oai trấn phía Bắc sa mạc Tây Bá Lợi á, kiến lập đại công nhất thời.

Từ đó trở đi, anh hùng ở trung nguyên đều hưng tâm phò Minh giáo, hiệu lệnh của Vô Kỵ đi tới đâu, ai nấy đều răm rắp tuân theo.

Từ khi Minh giáo sáng lập tới giờ, mấy trăm năm liền đều bị người đời khinh thường là một tà giáo yêu ma, dâm tà.

Không ngờ, trải qua đại biến long trời đất lở này, Minh giáo trở nên giáo phái đứng đầu quần hùng ở Trung nguyên và gây nên sự nghiệp lớn lao cho con cháu người Hán sau này.

Tuy Chu Nguyên Chương thay lòng đổi dạ, liên tiếp giở gian mưu để cướp ngôi báu, nhưng những người giúp y đều là của Minh giáo hết, quốc hiệu y cũng dùng chữ Minh để xưng tôn và triều đình Minh từ Chu Nguyên Chương cho tới vua Sùng Chính, tất cả thống trị được hai trăm bảy mươi bảy năm

Tối hôm đó, quần hùng vui vẻ nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng ai nấy đều no say mới thôi.

Trưa hôm sau, quần hùng lần lượt cáo từ Không Văn, Không Trí hai người.

Vô Kỵ thấy đệ tử của phái Nga Mi hầu như tan rã , cũng phải thương tiếc giùm.

Chàng lại thấy Thanh Thư nằm trong cáng, không biết sống chết ra sao liền tới gần và nói với Tĩnh Tuệ rằng:

– Tôi thử xem vết thương của Tống đại ca.

Tĩnh Tuệ lạnh lùng đáp:

– Thôi đừng có từ bi giả, làm bộ mèo khóc chuột như thế.

Chu Ðiên đứng cạnh đó không sao nhịn được liền lên tiếng mắng chửi:

– Vì nể tình nghĩa xưa với người chưởng môn của các ngươi, giáo chủ chúng ta mới nghĩ cách chữa thương cho y, sự thật tên này phản thầy, lừa bạn như thế, ai cũng có quyền giết hết. Ác ni cô này còn nói lôi thôi thế làm chi?

Tĩnh Tuệ đang định cãi lại, nhưng y thị thấy Chu Ðiên giận dữ, hung ác, y thị chỉ sợ đối phương bướng bỉnh không nói lý lẽ gỡ hết mà ra tay đánh đập mình thật, thì bị thiệt thòi ngay, nên có nén giận, cười nhạt nói tiếp:

– Phái Nga Mi này, người trưởng môn tương truyền cho nhau đều lựa chọn những thiếu nữ trong sạch, đứng đắn, nếu Chu trưởng môn không phải khuê nữ trong sạch, đứng đắn thì khi nào lại được làm trưởng môn của bản phái. Hừ có đồ gian nhân Tống Thanh Thử này ở bổn phái cũng chỉ làm nhục nhã tên tuổi của trưởng môn.

Nói tới đó, ni cô quay lại bảo hai đệ tử khiêng cáng của phái Nga Mi rằng:

– Lý sư điệt, Long sư điệt hai người đem tên này trao trả cho phái Võ Ðang đi.

Hai tên đệ tử vâng lời Tĩnh Tuệ, khiêng cáng đó đem tới trước mặt Liên Châu đặt xuống rồi đi luôn.

Mọi người thấy vậy đều giật mình kinh hãi.

Liên Châu hỏi:

– Cái… cái gì thế? Y không phải là chồng của trưởng môn các người hay sao?

Tĩnh Tuệ hậm hực đáp:

– Hừ, người trưởng môn của chúng ta có bao giờ thèm coi y vào đâu? Chẳng qua muốn dùng y để chọc tức tiểu tử Trương Vô Kỵ đã thay lòng đổi dạ, đang làm lễ tơ hồng bỏ đi để rửa lại mối hận xưa mà trưởng môn của chúng ta bị xấu hổ trước mặt quần hùng, nên mới lừa dối tiểu tử này, nhận làm chồng đó thôi. Ngờ đâu, hừ hừ, sớm biết thế này, người trưởng môn của chúng ta hà tất phải mang tiếng xấu xa như thế? Hiện giờ, trưởng môn của chúng ta…

Vô Kỵ đứng cạnh đó nghe nói, ngẩn người ra, không sao nhịn được, liền lên tiếng hỏi:

– Sư thái nói Tống phu nhân… nàng… sự thật không phải là Tống phu nhân phải không?

Tĩnh Tuệ quay mặt đi, lầm bầm đáp:

– Ta không thèm nói chuyện với ngươi.

Ðang lúc ấy, Thanh Thư nằm trên cáng trở mình một cái, rên rỉ mất tiếng rồi hỏi:

– Giết chưa… đã giết được Trương Vô Kỵ chưa?

Tĩnh Tuệ cười nhạt đáp:

– Ðừng có nằm mơ nữa, chết đến nơi rồi mà cũng còn muốn…

Lợi Hanh thấy Tĩnh Tuệ vẻ mặt hậm hực nói không rõ, khẽ hỏi một đệ tử của phái Nga Mi rằng:

– Lý sư muội, câu chuyện đầu đuôi ra sao?

Lý Minh Hà này, tuổi trạc trung niên, năm xưa là bạn thân của Kỷ Hiểu Phù, nghe thấy Lợi Hanh hỏi, ngẫm nghĩ giây lát rồi hỏi lại Tĩnh Tuệ:

– Tĩnh Tuệ sư tỷ, Hân lục hiệp không phải là người ngoài, cho phép tiểu muội nói rõ sự thể cho lục hiệp nghe nhé?

Tĩnh Tuệ đáp:

– Cái gì mà người ngoài mới cha người ngoài, không phải người ngoài cũng nói và người ngoài lại càng cần phải nói rõ cho họ biết là Chu trưởng môn của chúng ta vẫn còn trinh bạch, không có gì với tên gian đồ họ Tống hết. Các người có trông thấy hạt Thủ Cung Sa ở trên cánh tay của người trưởng môn không? Việc này cần phải nói rõ cho tất cả thiên hạvõ lâm đồng đạo hay để khỏi làm hû hết luật lệ hàng trăm năm nay của phái Nga Mi chúng ta.

Lợi Hanh nghĩ thầm:

– Ðầu óc của Tĩnh Tuệ sư thái hàm hồ lắm, ăn nói điên điên, đảo đảo, chả biết thực hư ra sao?

Nghĩ đoạn, chàng hỏi Minh Hà tiếp:

– Nếu vậy, xin Lý sư muội cho tôi hay tại sao sư điệt của tôi lại gia nhập quý phái, chẳng hay y có liên can gì với quý trưởng môn để tôi được biết rõ về thưa cùng gia sư, vì việc này có liên can đến quý phái và bổn phái, mong đừng có tổn thương hòa khí của đôi bên.

Minh Hà thở dài một tiếng rồi nói:

– Tống thiếu hiệp, nhân phẩm với võ công như vậy thật là một nhân vật hiếm có trong võ lâm, nhưng chỉ vì si tình mà lỡ sa bước vào chốn nghiệp chướng. Hình như người trưởng môn của chúng tôi đã nhận lời với Thiếu hiệp là khi nào giết được Trương Vô Kỵ, rửa được hết sỉ nhục đào hôn năm xưa, sẽ lấy chàng liền. Vì thế chàng mới cam tâm gia nhập bổn phái và học hỏi được ít võ công kỳ diệu của người trưởng môn chúng tôi. Ngày nọ, ở trên đại hội anh hùng, người trưởng môn đột nhiên tự nhận mình là Tống phu nhân, nói là vợ của Tống thiếu hiệp, lúc ấy nam nữ đệ tử của bổn phái đều kinh ngạc hết sức. Ngày hôm đó, người trưởng môn của chúng tôi, oai trấn quần hùng chế phục các môn phái…

Chu Ðiên đột nhiên xen lời nói:

– Ðó là Trương giáo chủ cố ý nhường nhịn cho, đừng có nói dóc nữa.

Lý Minh Hà không thèm trả lời Chu Ðiên lại nói tiếp:

– Các đệ tử của bổn phái tuy rất mừng rỡ, nhưng đến tối hôm đó, mọi người vẫn hỏi tại sao lại nhận là Tống phu nhân như thế. Người trưởng môn liền giơ cánh tay trái ra, nghiêm nghị nói với mọi người. Mọi người quây quần lại xem thấy Hạt thủ cung sa ở trên cánh tay của nàng vẫn còn đỏ như xưa. Quả nhiên, nàng vẫn còn là gái đồng trinh biết giữ lễ nghi. Người trưởng môn lại nói tiếp: “Sở dĩ tôi tự xưng là Tống phu nhân đó là một thủ đoạn, tôi tạm đem xử dụng để trêu tức tiểu tử Trương Vô Kỵ khiến y mất tinh thần. Như vậy khi tỷ thí võ công mới thừa cơ thắng y được. Võ công của tiểu tử tuyệt luân, tôi địch không nổi y đâu, vì thanh danh của bổn phái mà tôi phải hy sinh danh dự cá nhân tôi”.

Minh Hà nói nhử vậy, có ý là muốn cho tất cả mọi người nghe rõ, nữ ni lại nói tiếp:

– Tất cả nam nữ đệ tử của bổn phái, nếu người nào chưa xuất gia đi tu thì được tự do hôn thú, không bị cấm đoán gì hết. Nhưng từ Quách tổ sư, vị tổ sư sáng lập bổn phái đến giờ, những võ công thật cao siêu chỉ được truyền thụ cho những người nào hãy còn là gái trinh, đến lúc nữ đệ tử bái sư, sư phụ đều điểm một hạt Thủ Cung Sa lên trên cánh tay của chúng tôi. Mỗi năm đến ngày giỗ Quách tổ sư, tiên sư đều khám xét hạt thủ cung sa của mỗi đệ tử. Kỷ sử tỷ… cũng vì thế…

Nói tới đó, ni cô ấp úng một hồi rồi không nói tiếp nữa, tuy nữ ni này, hai mái tóc đã hoa râm, lấy chồng để con cái rồi, nhưng nói chuyện nam nữ phòng the là không tiện nói ra miệng. Nhưng Lợi Hanh các người đều hiểu rõ hết, biết Minh Hà muốn nói năm xưa Hiểu Phù bị Dương Tiêu quyến rũ nên mới thất thân. Hạt thủ cung sa đã biến mất, vì vậy Diệt Tuyệt sư thái mới phát giác.

Lợi Hanh với Bất Hối sau khi kết hôn, hai vợ chồng rất mực thương yêu nhau. Nhưng lúc này, nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù chàng cũng rầu rĩ thầm nên lén đưa mắt liếc nhìn Dương Tiêu một cái. Chàng thấy người cha vợ nước mắt đã ràn rụa và vội vã quay đầu đi ngay.

Minh Hà lại tiếp:

– Hân lục hiệp, người trưởng môn chúng tôi chỉ định tâm trêu tức Trương giáo chủ của Minh giáo, lại vừa gặp Tống thiếu hiệp, nên bên trong mới xảy ra nhiều chuyện lôi thôi rắc rối, chỉ mong Tống thiếu hiệp chóng lành mạnh và mong Hân Lục hiệp nói với Trương chân nhân và Tống đại hiệp để quý phái với Nga Mi chúng tôi khỏi có sự hiềm khích với nhau.

Lợi Hanh gật đầu đáp:

– Phải, nên làm thế, sư điệt của chúng tôi đại nghịch vô đạo y chết cũng không đáng tiếc chút nào, quả thật y làm nhục cho bổn phái rất nhiều, tôi cũng mong y chết sớm ngày nào thì sạch sẽ ngày đó.

Lợi Hanh là người rất dễ tính, nhưng chàng nghĩ đến tội của Thanh Thư đã giết chết Mạc Thanh Cốc thì lại đau đớn và tức giận khôn tả.

Ðang lúc ấy, bỗng nghe đằng xa có tiếng kêu la thất thanh vọng tới hình như là tiếng kêu của Chỉ Nhược, trong tiếng kêu đó có chứa đầy sự kinh hoảng, có lẽ nàng đang gặp phải những biến cố gỡ rất hung hiểm vậy.

Mọi người nghe thấy tiếng kêu đều rùng mình king hoảng.

Ðang lúc ban ngày ban mặt, trước sau tả hữu đều có người đông kịt, nhưng tiếng kêu la đó vọng tới không khác gỡ ác quỉ xuất hiện vậy, mọi người đều rùng mì, quay đầu lại nhìn về phía có tiếng kêu la.

Vô Kỵ khinh công cao siêu hơn hết nên chạy rất nhanh, chàng chỉ sợ Chỉ Nhược gặp kẻ địch lợi hại, hoặc là mãnh thú ác độc gì đó, nên chàng chỉ nhảy nhót mấy cái đã xuyên qua mảnh rừng, liền thấy một cái bóng xanh đang chạy rất nhanh tới, người đó chính là Chỉ Nhược.

Chàng vội chạy nhanh lên đón và hỏi:

– Chỉ Nhược, làm sao thế?

Chỉ Nhược mặt đầy vẻ hoảng sợ, mồm thì kêu la:

– Ma, có ma đuổi tôi…

Nàng vừa thấy Vô Kỵ liền nhảy lại, ngã luôn vào người chàng chân tay vẫn còn run rẩy.

Vô Kỵ thấy nàng hoảng sợ đến mất hồn vía như thế, cũng không nghĩ đến tai tiếng gì cả, khẽ vỗ vai nàng một cái an ủi và nói tiếp:

– Ðừng sợ, đừng sợ, làm gì có ma nào, chẳng hay Chỉ Nhược trông thấy gì thế?

Chàng thấy quần áo của Chỉ Nhược bị gai góc móc rách tả tơi, mặt mũi chân tay cũng bị xây xát có máu tươi rỉ ra, nưa chiếc tay áo cũng bị móc rách và rơi ra mất, lộ cánh tay trắng tuyết ra, trên cánh tay quả thực có một chấm đỏ như san hô, như hồng ngọc chính là Hạt thủ cung sa của gái trinh.

Hồi nãy, chàng nghe thấy Tĩnh Tuệ và Minh Hà nói hãy còn bán tín bán nghi, bây giờ chính mắt chàng trông thấy hạt thủ cung sa đó rồi, trong đầu óc chàng nảy ra nhiều chuyện như sau:

– Trước kia nàng cho hay lúc bị giam giữ trong Cái Bang đã thất thân với Thanh Thư, trong bụng đã có thai, lúc ấy ta có thăm mạch nàng rồi nhưng không thấy có vẻ gì là người có thai hết, lúc ấy ta lại tưởng ta thăm mạch sai, nếu vậy nàng có ý đánh lừa ta, và việc nàng lấy Thanh Thư làm chồng… cũng đều là chuyện giả dối hết.

Nghĩ tới đó, chàng nghĩ lại:

– Vô Kỵ ơi Vô Kỵ, Chu cô nương là kẻ thù lớn giết chết biểu muội của ngươi, dù nàng có là gái trinh hay là vợ của người khác cũng có liên quan gìõ đến ngươi đâu.

Nhưng chàng thấy Chỉ Nhược sợ hãi quá đỗi nên không thể nhẫn tâm đẩy nàng ra.

Chỉ Nhược phục ở trong lòng chàng, cảm thấy những bắp thịt trên ngực chàng rất cứng rắn, lại ngửi thấy hơi đàn ông, dần dần mới bình tĩnh lại và hỏi:

– Vô Kỵ đại ca, có phải đại ca đấy không?

– Phải, tôi đây, Chỉ Nhược trông thấy gì thế, sao lại sợ hãi như vậy?

Thấy Vô Kỵ hỏi như vậy, Chỉ Nhược lại đột nhiên kinh hoàng oà lên khóc, nước mắt tuôn ra như mưa và gục lên trên vai chàng nức nở khóc hoài.

Lúc ấy, Dương Tiêu, Nhất Tiếu, Tĩnh Tuệ, Lợi Hanh các người đã tới, thấy tình cảnh hai người như vậy đưa mắt nhìn nhau, rồi lẳng lặng rút lui luôn; trong lòng các người của Minh giáo, Võ Ðang và Nga Mi đều mong Chỉ Nhược với Vô Kỵ làm lành với nhau rồi kết thành vợ chồng.

Sở dĩ các người không muốn chàng lấy Triệu Minh vì nhớ đến hồi đối địch với Triệu Minh bị nàng ta giam giữ như thế nào, nên mối thù ấy ai nấy còn nhớ hoài, hơn nữa Triệu Minh là người Mông Cổ và lại là quận chúa, nếu Vô Kỵ lấy nàng ta làm vợ chỉ sợ ảnh hưởng đến việc phục hưng.

Chỉ Nhược khóc một hồi rồi bỗng hỏi:

– Vô Kỵ đại ca, có người đuổi theo đấy không?

Vô Kỵ đáp:

– Không có ai đuổi theo cả, có phải Huyền Minh nhị lão đấy không?

Chỉ Nhược đáp:

– Không phải, đại ca đã trông thấy rõ, không có người đuổi theo đấy chứ? Không, không phải người… không có gì đuổi theo tôi hay sao?

Vô Kỵ mỉm cười nói tiếp:

– Ban ngày ban mặt, sao tôi không trông thấy rõ được, quả thực không có gì hết.

Chàng dịu giọng nói tiếp:

– Chỉ Nhược, mấy ngày hôm nay Chỉ Nhược dùng sức quá độ, quả thực mệt mỏi, chắc thế nào cũng nhức đầu, hoa mắt trông gà mà hoá cuốc chăng?

– Không khi nào, tôi đã thấy y ba lần, ba lần liên tiếp.

Giọng nói của nàng vẫn còn run lẩy bẩy, hình như nàng vẫn chưa hết sợ.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Chỉ Nhược thấy gì mà liên tiếp ba lần như thế?

Chỉ Nhược vịn vai Vô Kỵ từ từ đứng dậy, người vẫn còn lảo đảo, rồi đầu nhìn về phía sau một cái như nàng cố gắng lắm mới dám quay đầu nhìn như vậy.

Nhìn xong, nàng vội quay lại nhìn Vô Kỵ, thấy chàng âu yếm và quan tâm đến mình như vậy, lại đau đớn thêm, uể oải ngồi xuống đất rồi nói tiếp:

– Vô Kỵ đại ca, tôi… đã lừa dối đại ca, chính tôi đã lấy trộm ỷ Thiên Kiếm và đao Ðồ Long… Tôi đã giết chết Hân cô nương… Tôi đã ra tay điểm huyệt Tạ đại hiệp… Tôi… không lấy Thanh Thư đâu, sự thực từ trước tới sau tôi chỉ vẫn yêu có một mình đại ca thôi.

Vô Kỵ thở dài một tiếng rồi đáp:

– Những việc đó tôi đã biết hết rồi… Hà tất… Chỉ Nhược phải làm như thế.

Chỉ Nhược khóc lóc đáp:

– Ðại ca quên những lời của sư phụ tôi dặn bảo tôi ở trên hoàng Tháp trong chùa Vạn Pháp hay sao? Sư phụ tôi đã cho tôi biết hết những bí mật trong Ðồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm, bắt tôi phải thề độc lấy trộm cho được bảo đao và bảo kiếm làm rạng rỡ phái Nga Mi, lại còn bắt thề độc giả bộ âu yếm với đại ca nhưng không được yêu thực…

Vô Kỵ khẽ vuốt cánh tay Chỉ Nhược, nghĩ đến chuyện năm xưa, chính chàng đãø trông thấy Diệt Tuyệt Sư thái dùng chưởng đánh chết Kỷ Hiểu Phù, lại thấy sư thái thề tiêu diệt hết Minh giáo ở trong bãi sa mạc, lại thấy sư thái tay cầm ỷ Thiên kiếm chém loạn xạ giáo chúng của Minh giáo, sau đến chùa Vạn Pháp y ở trên cao nhảy xuống, sư thái đành chịu chết chứ không chịu nhờ sự cứu giúp của chàng, như vậy đủ thấy sư thái oán độc Minh giáo biết bao, nếu Chỉ Nhược đãø thừa hưởng y bát của sư thái thì phải chịu nhận di mệnh của nữ ni đó, như vậy, những hành vi độc ác của Chỉ Nhược làm ra là do sư phụ nàng dặn bảo cũng nên. Vô Kỵ là người rất dễ lượng thứ, những chuyện lầm lỡ của người ngoài và xưa nay cũng không thù hằn ai lâu cả, chàng lại nghĩ đến hai ông già cao lùn của phái Hoa Sơn liên tay với vợ chồng Hà Thái Xung ác chiến vơí mình ở trên Quang Minh đỉnh ngày nọ, nếu lúc ấy không được Chỉ Nhược ở bên cạnh chỉ điểm cho thì mình đã chết bởi bốn tay cao thủ nọ rồi.

Lúc này, chàng thấy Chỉ Nhược yếu ớt, ẻo lả nằm phủ trong lòng mình, động lòng thương xót, với giọng dịu dàng hỏi tiếp:

– Chẳng hay Chỉ Nhược trông thấy gì thế? Tại sao lại sợ hãi như vậy?

Chỉ Nhược bỗng nhảy phắt lên nói:

– Tôi không nói, chính là oan hồn nọ đã theo tôi, tôi làm nhiều việc ác, tất nhiên phải bị người ta trả thù như vậy, ngày hôm nay, tôi đã nói hết cho đại ca nghe rồi, tôi chả sống được lâu nữa đâu…

Nói xong, nàng ôm mặt chạy luôn và chạy thẳng xuống chân núi Thiếu Thất.

Vô Kỵ đứng ngẩn người ra nghĩ thầm:

– Cái gì oan hồn theo dõi tôi? Chẳng lẽ bang chúng của Cái Bang phục thù giả bộ ma quỉ doạ nạt chăng?

Thế rồi chàng từ từ theo sau chỉ thấy Chỉ Nhược chạy vào trong đám đệ tử của phái Nga Mi.

Minh Hà vội lấy cái áo ngoài khoác vào người cho nàng.

Không hiểu nàng dặn bảo cái gì, các nam nữ đệ tử đều rùng mình tuân nghe.

Vô Kỵ đang đứng ngẩn người ra nhìn thì Dương Tiêu đưa thanh Ỷ Thiên kiếm cho chàng và nói:

– Giáo chủ, chúng ta trao trao thanh kiếm này lại cho phái Nga Mi nhé?

Vô Kỵ gật đầu.

Dương Tiêu liền cầm lấy thanh kiếm đó, dùng hai tay bưng đem sang trả cho phái Nga Mi. Lúc ấy, quần hùng lại rút lui thêm một nhóm người nữa.

Không Văn, Không Trí vội tiễn biệt.

Vô Kỵ thấy vậy liền nói:

– Chúng ta cũng nên đi thôi.

Chàng thấy Chỉ Nhược đi tới trước mặt Không Văn khẽ nói mấy lời, người trưởng môn phái Thiếu Lâm liền biến sắc mặt rồi lại lắc đầu tỏ vẻ không tin.

Chỉ Nhược lại nói thêm, rồi bỗng quỳ ngay xuống chắp tay lạy, mồm lẩm bẩm khấn.

Không Văn thái độ rất trang nghiêm, mồm niệm phật kệ.

Chu Ðiên thấy vậy liền lên tiếng nói:

– Thế thì lạ thật, Giáo chủ, việc này giáo chủ phải ra tay ngăn cản mới được.

Vô Kỵ liền hỏi:

– Ngăn cản cái gì?

Chu Ðiên nói tiếp:

– Chu cô nương định xuất giá tu hành, nàng… nàng đã vào cửa phật thì giáo chủ nguy tai.

Dương Tiêu cười nhạt xen lời:

– Chu cô nương đi tu thì cũng chỉ làm ni cô thôi, chớ làm sư bà sao được, và có khi nào nàng lại vái hòa thượng Thiếu Lâm làm sư phụ như thế?

Chu Ðiên giơ tay lên đánh mạnh và trán một cái rồi lẩm bẩm tự nói:

– Phải đấy, phải đấy. Chu Ðiên hồ đồ thực. Chu cô nương yêu cầu Không Văn đại sư việc gì đấy chứ, chớ có phải xin làm môn đệ đó đâu? Nhưng một người là trưởng môn của phái Thiếu Lâm, một người là trưởng môn của phái Nga Mi, đáng lẽ phải ngang vai nhau mới phải, tại sao Chu cô nương lại quỳ lạy như thế?

Mọi người thấy Chỉ Nhược đứng dậy, mặt có vẻ an ủi.

Vô Kỵ thở dài và nói:

– Việc riêng của người ta, chúng ta can thiệp làm chi.

Chàng quay đầu lại nói với Triệu Minh rằng:

– Minh muội, chúng ta đi thôi.

Ngờ đâu, chàng quay đầu lại đã không thấy Triệu Minh đâu hết.

Mấy ngày gần đây lúc nào Triệu Minh cũng ở gần chàng, hai người như hình với bóng, bây giờ chàng bỗng không trông thấy nàng đâu liền giật mình kinh hoảng vội hỏi:

– Triệu cô nương đâu?

Chàng hoảng sợ vô cùng nghĩ thầm:

– Nguy tai, có lẽ lúc Chỉ Nhược nằm phục trong lòng ta Minh muội đã trông thấy, tưởng ta lại nổi tình xưa vì vậy mà bỏ ta đi cũng nên?

Chàng vội phái người đi tìm tứ phía.

Hạ Diệm, trưởng kỳ sứ của Liệt Hỏa Kỳ liền nói:

– Thưa giáo chủ, thuộc hạ thấy Triệu cô nương xuống núi rồi.

Vô Kỵ rầu rĩ vô cùng, nghĩ tiếp:

– Minh muội đã hy sinh hết thảy theo ta, trải qua bao nhiêu hoạn nạn khi nào ta lại phụ nàng.

Nghĩ đoạn chàng liền nói với Dương Tiêu rằng:

– Dương tả sứ, làm ơn xử lý hộ tôi những việc tại đâ y, tôi phải đi trước.

Thế rồi, chàng từ biệt Không Văn, Không Trí rồi lại từ biệt Liên Châu, Tòng Khê các người, song lại nói với Chỉ Nhược rằng:

– Chỉ Nhược cẩn thận bảo vệ thân thể chúng ta sẽ tái ngộ sau này.

Chỉ Nhược cúi đầu xuống, không trả lời nhưng khẽ gật đầu mấy cái, nước mắt nhỏ ròng xuống đất.

Vô Kỵ liền giở khinh công ra chạy thẳng xuống núi, từ trên núi tới mấy dặm đường đều là những anh hùng của các môn phái vừa từ biệt ở chùa Thiếu Lâm ra về, chàng không muốn làm phiền các người thấy mình phải chào, nên khi đi qua cạnh những người đó, chàng giở hết tốc lực ra, nên những người kia chỉ thấy cái bóng thoáng qua thôi chứ không nhận ra chàng được.

Chàng một hơi đuổi theo hơn ba mươi dặm đường những không thấy tung tích Triệu Minh đâu cả.

Trời sắp tối, người đi đã thưa thớt, chàng bỗng nghĩ:

– Minh muội là người đa mưu lắm kế, nàng đãø định tránh ta, có lẽ không đi theo đại lộ cũng nên, nếu nàng đi theo đường này với khinh công của ta nhanh như vậy, dù nàng đi sớm đến đâu, ta cũng đuổi theo kịp, chẳng lẽ nàng vẫn còn trong núi Thiếu Thất chờ ta đi khỏi nàng mới dùng đường khác ra đi.

Chàng nóng lòng như thiêu, quên ca ûđói bụng, chạy đi chạy lại quanh dãy núi, thỉnh thoảng nhảy lên đỉnh đồi hoặc trên ngọn cây ngắm nhìn chung quanh, rồi lại quay trở về phía sau núi Thiếu Thất, vẫn không thấy nàng ta đâu cả, liền nghĩ tiếp:

– Dù sao, ta cũng không ngãø lòng, nếu có phải đi tới chân trời góc biển, ta cũng phải tìm ra cho nàng.

Nghĩ như vậy chàng mới thảnh thơi phần nào. Chàng thấy núi ở phía Ðông Bắc có hai cây táo mọc đối diện nhau, liền nhảy xuống đi tới cây đó, trừlên một cành lá rậm rạp ngả lưng ra ngủ. Chàng đi suốt ngày như vậy, chân tay mình mẩy đã mỏi mệt, nên vừa nằm xuống đã ngủ say ngay.

Ngủ đến nửa đêm, chàng bỗng nghe thấy chỗ cách mình ngủ chừng mấy chục trượng, có tiếng chân đi rất khẽ, thoạt nhiên chàng tưởng người có võ công cao siêu, liền thức tỉnh ngay, nhưng người vẫn không cử động.

Chàng mở mắt ra nhìn thấy dưới ánh trăng sáng có một người đang tiến đi rất nhanh về phía Nam. Chàng thấy hình của người đó rất mảnh khảnh và ẻo lả, đúng là thân hình của một thiếu nữ.

Chàng cả mừng suýt tí nữa thì thất thanh gọi Minh muội thành tiếng, nhưng chàng đã nhận thấy không đúng vì thân hình của thiếu nữnày cao hơn Triệu Minh một chút, khinh công thân pháp cũng khác hẳn, khinh công của nàng này hơn Triệu Minh nhiều, nhưng kém Chỉ Nhược một chút.

Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, chàng lại nghĩ thầm:

– Một thiếu nữ đi một mình trong đêm khuya như vậy làm chi?

Ðáng lẽ việc này không liên can gỡ đến chàng, chàng định không nhòm ngó vào việc riêng của người ta nhưng bỗng nghĩ lại:

– Chưa biết chừng theo dõi thiếu nữ này mà tìm được tung tích của Minh muội cũng nên, nếu quả thực nàng không có liên quan gì đến Minh muội thỡ ta lẳng lặng đi luôn cũng không sao, chứ ta không nên bỏ lỡ bất cứ một manh mối nào.

Thế rồi, chàng nhẹ nhàng nhảy xuống bên dưới. Chàng sợ bị thiếu nữ kia hay biết nên đi cách nàng ta rất xa, vì chàng sợ đêm khuya theo dõi một thiếu nữ không quen biết, thế nào cũng bị người ta nghi ngờ có manh tâm gì đây. Chàng thấy thiếu nữ đó ăn mặc quần áo đen, đi thẳng về chùa Thiếu Lâm.

Chàng nhận ra được hướng đi của nàng liền nghĩ thầm:

– Nàng ta đi lên chùa Thiếu Lâm, dù không có liên can đến Minh muội cũng có mưu mô gì liên can tói võ lâm đây, ta được anh hùng thiên hạbầu làm Minh chủ, nếu nàng định làm điều gìất lợi cho phái Thiếu Lâm thì việc này thế nào ta cũng phải can thiệp vào.

Nghĩ đoạn, chàng ngưng bước lắng tai nghe, thấy bốn bề không một bóng người, biết thiếu nư õấy không có ai đi theo hỗ trợ nên trong lòng lại càng yên tâm thêm.

Ði được hơn một canh giờ nữa, trước sau chàng đều không thấy thiếu nữ quay đầu lại. Chàng nhìn theo sau lưng nàng ta thấy có vẻ quen thuộc lắm, hình như đã gặp ở đâu rồi thì phải, liền nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ nàng ta là Võ Thanh cô nương? Hay là Ðinh Mẫn Quân của phái Nga Mi?

Nhưng khi chàng nhin kỹ lại thì không giống hai người đó.

Ði được mấy dặm nữa đã trông thấy chùa Thiếu Lâm rồi, thiếu nữ ấy liền đi qua một cái đèo, tới cạnh chùa Thiếu Lâm, chàng thấy nàng giảm bớt tốc lực, không đi nhanh như trửớc, hiển nhiên nàng ta biết trong chùa Thiếu Lâm có rất nhiều tay cao thủ sợ bị người ta trông thấy tung tích của nàng.

Bỗng nghe thấy có tiếng khánh nổi lên ở trong đại điện chùa Thiếu Lâm vọng ra.

Tiếp theo có tiếng tụng kinh một lúc.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng, liền nghĩ thầm:

– Sao đêm khuya canh vắng thế này, hòa thượng chùa Thiếu Lâm lại tụ họp trên đại điện tung kinh như thế? Chẳng lẽ, đang làm một pháp sự gì rất quan trọng chăng?

Thiếu nữ nọ nghe thấy tiếng tụng kinh càng đi chậm thêm, rồi tiến tới cạnh đại điện.

Bỗng nghe thấy tiếng chân rất nhẹ vọng tới, thiếu nữ đó liền nằm phục xuống đồng cỏ.

Tiếp theo có bốn hòa thượng của chùa Thiếu Lâm, tay cầm thuyền trượng và giới đao canh tuần đi tới.

Thì ra, dù đại hội anh hùng đều giải tán, nhưng trong chùa vẫn nghiêm mật giới bị, và đề phòng có kẻ địch tới xâm phạm.

Thiếu nữ đó chờ bốn hòa thượng đi khỏi, liền tung mình nhảy một cái tới cạnh cửa sổ dài ngoài điện. Cái nhảy của nàng ta nhẹ nhàng khôn tả, khinh công của nàng đã luyện tới mức đệ nhất của võ lâm.

Vô Kỵ thấy nàng ta không đem theo khí giới mà một thân một mình tới đây như vậy nàng không phải tới chùa Thiếu Lâm sinh sự. Chàng muốn xem rõ mặt nàng ta, để xem có phải là người quen mình không? Thế rồi chàng vòng ra sau người nàng, đi chéo lên trên Tây Bắc của đại điện.

Lúc này, chàng tự biết hành động của mình như thế là không đẹp, nếu bị thiếu nữ phát giác còn khá, chứ bị hòa thượng Thiếu Lâm biết, với thân phận của mình mà đêm khuya tới chùa do thám, dù đối phương có giả bộ không hay biết, mình cũng cảm thấy mất hết sĩ diện. Cho nên chàng hết sức cẩn thận, nhất cử nhất động đều nhẹ hơn mèo rình chuột. Lúc ấy, tiếng tụng kinh ở trong điện lại nổi lên, chàng đưa mắt ngó qua khe cưa sổ, nhìn vào bên trong, thấy mấy trăm hòa thượng đang chỉnh tề ngồi xếp bằng tròn trên bồ đoàn thảm. Người nào người nấy, mặc áo vàng, ngoài khoác áo cà sa đại hồng, viền kim tuyến, có người chắp tay lại, mồm khẽ tụng niệm. Thì ra họ đang làm pháp sự siêu độ vong hồn những anh hùng đại hội. Không Văn đại sư đứng trước bàn thờ, thân tự là chủ tế, người đứng bên phải của hòa thượng là một thiếu nữ.

Vô Kỵ nhìn kỹ liền giật mình kinh hãi, thỡ ra người đó là Chu Chỉ Nhược.

Vô Kỵ trông thấy được nửa mặt nàng thôi, thấy thần sắc của nàng có vẻ không yên, mày cau lại, như đang lo âu việc gì.

Chàng nghĩ thầm:

– Phải rồi, ngày hôm nay Chỉ Nhược quỳ xuống lạy Không Văn phương trượng là muốn cầu xin ông ta làm pháp sư siêu độ, chắc nàng đã xám hối những hành vi đã làm nhiều người chết oan, chết uổng. Chàng nhìn lên bàn thờ, thấy ở giữa có một bài vị, trên có viết bảy chữ: “Nữ hiệp Hân Ly chi linh vị”, Vô Kỵ đau lòng vô cùng nghĩ đến thân thể của người em họ mình thảm khốc biết bao. Nàng thương yêu mình nhử vậy mà chết một cách tội nghiệp như thế, chàng không sao cầm lệ được. Trong tiếng chuông, khánh và mõ, Chỉ Nhược quỳ xuống vái lậy, mồm lẩm bẩm khấn. Vô Kỵ văng vẳng nghe thấy “Hân cô nương… cô ở trên trời… yên nghỉ… đừng có quấy nhiễu tôi nữa…” Chàng vịn tay vào vách, đầu óc bối rối và nghĩ thầm:

– Biểu muội mình bị chết dưới kiếm của nàng, tất nhiên là đau khổ rồi, nhưng nội tâm của nàng bị dày vò và cắn rứt như thế, có lẽ cũng đau khổ không kém gì biểu muội ta”. Nghĩ tới đó, chàng nhớ lại mấy câu ca của Minh giáo tụng ở trên Quang Minh Sống cũng không lấy gì làm vui, chết cũng không lấy gì làm khổ, người đời thương ta, lo âu hoạn nạn, quả thực quá nhiều.

Chỉ Nhược từ từ đứng dậy, hơi né mình một cái, mặt hướng về phía Ðông, đột nhiên nàng biến sắc và la lớn:

– Ngươi… lại tới rồi ư?

Tiếng kêu rú của nàng làm át cả tiếng chuông lẫn khánh trong điện.

Vô Kỵ hướng theo về phía nàng ta nhìn, thấy trên cửa sổ giấy cửa sổ đã bị bóc tách một miếng lớn và có một bộ mặt thiếu nữ lộ ra, mặt thiếu nữ ấy đầy những vết máu.

Chàng kinh hoàng đến người run lẩy bẩy, không sao nhịn được, cũng thất thanh kêu la.

Thì ra nàng ta là Hân Ly, đã chết từ lâu.

Vô Kỵ đang định lên tiếng kêu gọi thì hai chân của chàng không hiểu sao lại không nghe theo sự sai bảo của chàng, cứ cứng như gỗ, không xê dịch được.

Chàng lại thấy bộ mặt nọ biến mất, rồi thấy trong điện kêu “bùng” một tiếng, Chỉ Nhược đã ngã ngửa về phía sau, Vô Kỵ không còn sợ người của phái Thiếu Lâm bảo là lén lút nữa, liền lớn tiếng kêu gọi:

– Thù Nhi, Thù Nhi, có phải cô đấy không?

Tiếng kêu của chàng làm rung động cả sơn cốc, nhưng không có ai trả lời.

Vô Kỵ định thần một chút rồi mới phi thân đuổi về hướng mà mình tới lúc nãy.

Chỉ thấy trăng lạnh chiếu xuống mặt đất, dưới đất đầy những bóng cây, còn thiếu nữ đã đi mất rồi. Tuy chàng xưa nay không tin quỷ thần, nhưng trước tình cảnh này, chàng cũng phải toát mồ hôi lạnh.

Chàng càng nghĩ, càng sờn lòng, liền lẩm bẩm tự hỏi:

– Là nàng, phải là nàng. Thảo nào, trông sau lưng nàng quen quá. Thì ra là Thù Nhi, nhưng chẳng lẽ hồn ma cũng biết cao tăng siêu độ cho nàng tới đây lãnh kinh.

Các hòa thượng của phái Thiếu Lâm nghe ngoài điện có tiếng người, lập tức chạy vội ra xem, trông thấy Vô Kỵ, ai nấy đều ngẩn người ra.

Một hòa thượng lớn tuổi tiến lên vài chào và nói:

– Không biết Trương giáo chủ đêm khuya giáng lâm để ra đón xin thứ lỗi cho.

Vô Kỵ chắp tay vái chào và đáp:

– Tôi không dám.

Nói xong, chàng vào ngay trong đại điện, thấy Chỉ Nhược hai mắt nhắm nghiền không còn chút máu, chàng tiến lên dùng sức bóp mạnh trên nhân trung nàng mấy cái, rồi lại xoa bóp vài lượt ở trên lưng nàng.

Chỉ Nhược từ từ tỉnh lại, trông thấy Vô Kỵ vội nhảy ngay vào lòng chàng, ôm chặt lấy chàng và nói:

– Có ma, có ma.

Vô Kỵ đáp:

– Việc này kỳ lạ lắm, Chỉ Nhược chớ nên sợ hãi nữa, bâ y giờ có rất nhiều cao tăng ở đây, thế nào cũng giải được oan nghiệt cho nàng.

Xưa nay, Chỉ Nhược rất đoan trang, lúc này có lẽ vỡ quá sợ, nên trước mặt mọi người mà vẫn ôm chàng như thế. Bây giờ, khi nghe thấy chàng nói như vậy mới chợt tỉnh, mặt đỏ bừng, vội buông chàng ra và đứng dậy ngay, nhưng vẫn hãy còn run lẩy bẩy, tay nắm chặt lấy tay Vô Kỵ chứ không dám buông hẳn ra.

Vô Kỵ với Không Văn chào nhau xong, chàng liền nói vừa rồi ở ngoài cửa sổ có trông thấy cái mặt dính đầy máu cho lão hòa thượng nghe.

Không Văn và các vị hòa thượng bảo không trông thấy gỡ hết.

Chỉ Nhược lại nói tiếp:

– Vô Kỵ… Trương giáo chủ… tôi đãø thấy rõ, quả thực là nàng ta.

Vô Kỵ gật đầu.

Chỉ Nhược với giọng run run nói tiếp:

– Ðại… ca… thấy ai thế?

Vô Kỵ đáp:

– Là Hân cô nương, em họ tôi.

Chỉ Nhược nghe nói khẽ kêu la một tiếng rồi lại chết giấc luôn.

Lần này, Vô Kỵ nắm lấy tay nàng nhờ vậy nàng không té xuống đất, và lần này nàng tỉnh rất nhanh chóng.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tôi trông thấy Thù Nhi, nhưng… nàng là người chứ không phải là ma.

Chỉ Nhược hỏi lại:

– Nàng không phải là ma ư?

– Tôi đi theo nàng một quãng khá xa rồi đến chùa Thiếu Lâm này, thấy nàng đi lại như thửờng chứ không phải là ma giõ hết.

Mấy lời nói của Vô Kỵ mục đích chỉ là an ủi Chỉ Nhược mà thôi, chứ trong thâm tâm chàng, quả thực chàng cũng không dám tin lời nói của mình.

Chỉ Nhược lại hỏi:

– Có thực đại ca trông thấy nàng đi lại như người thường không? Quả thực không phải là ma chứ?

Vô Kỵ thấy nàng ta hỏi nhử vậy, liền hồi tưởng lại mình theo thiếu nữ áo đen đó đi tới chùa như thế nào, lại thấy nàng núp ngoài cửa sổ ngó vào, nhất cử, nhất động đều là một cô nương có võ công chứ không có gì đặc biệt hết, nên chàng hỏi lại Không Văn đại sư rằng:

– Thưa phương trượng, tại hạ có một việc này chưa rõ, muốn thỉnh giáo phương trượng. Vậy người chết có hồn ma không?

Không Văn ngẫm nghĩ giây lát rồi nói :

– Việc u minh quả thực khó nói, Phật đã dạy rằng: “Tướng, vô nhân , vô chúng sinh, vô thọ giả tướng, vạn vật giai không” huống hồ là hồn ma.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Vậy sao phương trượng lại còn thành tâm, thanh pháp siêu độ u linh làm chi?

Không Văn lại đáp:

– Thiện tai, u linh không cần siêu độ, Phật gia hành pháp là cần cho lòng người sống được yên. Sự siêu độ đó là cho người sống.

Vô Kỵ liền lĩnh hội ngay, chắp tay vái chào và nói tiếp:

– Cám ơn đại sư đã chỉ giáo cho, tại hạ đêm khuya đến quấy nhiễu như vậy trong lòng thật không yên, mong lã phương trượng thứ lỗi cho.

Không Văn nghe nói mỉm cười đáp :

– Giáo chủ là đại ân nhân của tệ giáo mấy lần ra tay cứu giúp phái Thiếu Lâm chúng tôi mới được thoát nạn, như vậy giáo chủ còn khách sáo làm chi?

Sau đó, Vô Kỵ cáo biệt các hòa thượng và nói với Chỉ Nhược rằng:

– Chúng ta đi thôi.

Chỉ Nhược có vẻ chần chờ, không dám rời khỏi điện phật.

Vô Kỵ cũng không muốn cưỡng khuyên, liền chắp tay chào và từ biệt.

– Nếu vậy, chúng ta xin chia tay ở nơi đây Nói xong, chàng đi ra ngoài cửa điện.

Chỉ Nhược nhìn theo chàng, biết chuyến chia tay này khó lòng còn được tái ngộ.

Ðột nhiên nàng lớn tiếng kêu gọi:

– Vô Kỵ đại ca, tôi… cho tôi đi với.

Nói xong, nàng vội chạy ra, rồi cùng chàng sát cánh đi ra khỏi cổng chùa.

Hai người rời khỏi chùa Thiếu Lâm được mấy trục trượng, Chỉ Nhược liền tựa ngay vào người chàng, nắm lấy tay chàng.

Vô Kỵ biết nàng ta hổ thẹn, liền nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng, mũi ngửi mùi thơm bốc lên, trong lòng cũng cảm thấy rạo rực.

Hai người không nói năng gỡ cả, đi được một hồi, Chỉ Nhược bỗng u oán thở dài một tiếng và nói:

– Vô Kỵ đại ca, bữa đó tôi với đại ca gặp nhau trên sông Hán Thủy được Trương chân nhân ra tay cứu giúp, nếu sớm biết khổ sở thế này thì thà chết ngay trên sông Hán Thủy còn sạch sẽ hơn.

Vô Kỵ không trả lời, trong lòng lại nghĩ đến bài ca của giáo chúng Minh giáo.

Chàng liền khẽ đọc lại:

– Sống đã lấy gì làm sướng, chết cũng không lấy gì làm khổ, người đời thương ta, lo âu hoạn noạn, quả thực quá nhiều.

Chỉ Nhược nghe thấy Vô Kỵ đọc lại bài thơ đó, tay nàng nắm lấy tay Vô Kỵ, hơi rung động và khẽ hỏi tiếp:

– Tuy Trương chân nhân muốn tôi khá giả, nhưng nếu lão tiền bối giữ tôi lại trên núi Võ Ðang, để cho tôi gia nhập phái Võ Ðang, ngày hôm nay, tất cả mọi việc sẽ khác hẳn, hà, ân sư đối với tôi cũng tử tế lắm, nhưng… nhưng bà ta bắt tôi thề độc phải ghét Minh giáo và cũng bắt tôi phải ghét hận đại ca nữa, nhưng trong lòng tôi quả thực….

Vô Kỵ nghe thấy nàng ta thốt những lời nói chân thành đó ra trong lòng cũng cảm động, biết nàng ta quả thật có rất nhiều điều khó xử. Tất cả những hành động và thủ đoạn độc ác của nàng đều do Diệt Tuyệt sư thái, khi đã chết trối trăn sai bảo nên chàng càng thông cảm với nàng thêm. Trên đường núi, gió mát hiu hiu và đửa cả mùi thơm của các thứ hoa tới. Lúc ấy đang là đầu hè, đi trong đêm mát, bên tại lại nghe thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp biểu lộ tâm tình, như vậy chàng không động lòng sao được, huống hồ trong lúc ở trên đảo dồn chất độc ra cho nàng, da thịt của hai người đã va chạm nhau. Vừa là bạn chí thân, vừa có hôn nhân ràng buộc, nên lòng chàng càng ngây ngất thêm.

Chỉ Nhược lại nói tiếp:

– Vô Kỵ đại ca, bữa nọ ở Hào Châu, đại ca đang làm lễ tơ hồng với tôi, tại sao Triệu cô nương gọi đại ca một tiếng mà đại ca liền theo ngay? Có phải đại ca yêu nàng thực sự không?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi đang muốn nói cho Chỉ Nhược hay chuyện ấy.

Chàng thấy đi thêm mấy dặm đường nữa là tới chỗ nghỉ của giáo chúng Minh giáo, nên chàng dắt tay nàng đi đến một tảng đá ở cạnh đường, hai người sát cánh nhau ngồi xuống.

Vô Kỵ liền kể chuyện Triệu Minh tay cầm mớ tóc vàng của Tạ Tốn dụ mình phải đi cứu viện nghĩa phụ, nên bắt buộc chàng phải theo đi… kể cho nàng ta nghe.

Chỉ Nhược nghe xong, không nói năng gì hết.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Chỉ Nhược có trách tôi không?

Chỉ Nhược nức nở đáp:

– Tôi đã lầm lẫn nhiều việc lắm, chỉ trách tôi, chứ trách đại ca sao được.

Vô Kỵ khẽ vuốt vai nàng, với giọng êm dịu nói tiếp:

– Trên thế gian này, sự lầm lẫn là chuyện thường và cũng không ai có thể đoán trước được. Chỉ Nhược khỏi cần phải đau lòng như thế.

Chỉ Nhược ngửng đầu lên nói tiếp:

– Vô Kỵ đại ca, tôi có một câu này muốn hỏi đại ca, đại ca phải thành thực trả lời tôi, không được giấu diếm gì hết. Tiểu Siêu một cô gái Ba Tử đã đi rồi, một người khác là Triệu cô nương và một người nữa là… nàng.

Ý nàng định nói là Hân cô nương, nhưng nàng không dám thốt ra cái tên Hân, nên ngập ngừng giây lát rồi tiếp:

– Trừ Tiểu Siêu ra, chúng tôi ba người, ai nấy đều có những việc không nên không phải với đại ca rồi, nếu tất cả bốn chúng tôi đều còn sống ở trên thế gian này, trong thâm tâm của đại ca, thì đại ca yêu ai nhất?

Vô Kỵ đầu óc bối rối khôn tả, ngập ngừng đáp:

– Việc này… thì… việc này…

Khi Vô Kỵ đi chung một thuyền với Chỉ Nhược, Triệu Minh, Hân Ly, Tiểu Siêu ra bể, quả thực chàng đã có nhiều lần nghĩ tới:

– Bốn cô nương này đều có lòng yêu ta hết, ta biết xử trí ra sao cho phải. Bất cứ ta kết hôn với một người nào, ba người kia thế nào cũng đau lòng. Sự thực trong thâm tâm ta, ta yêu nàng nào nhất? Ta vẫn bàng hoàng, không sao giải quyết nổi, chỉ muốn đào tẩu thôi.

Chàng lại nghĩ tiếp:

– Ta thân làm giáo chủ của Minh giáo một lời nói, một cử chỉ đều có liên quan đến sự hưng suy của bổn giáo và võ lâm, ta tự tin suốt đời ta phẩm hạnh không hề nhơ nhuốc chút nào, nhưng nếu ham nữ sắc để cho thiên hạ anh hùng chê cười, làm hư cả danh tiếng của bổn giáo đi.

Sự thực chàng càng tự biện bạch bao nhiêu, chẳng qua cũng chỉ tự lừa dối mình, nếu quả thực chàng quyết tâm chuyên trí yêu hẳn một người nào, chưa chắc đã có ảnh hưởng gì đến việc phục hưng giang sơn của đất nước và cũng không bao giờ vì thế mà mang tiếng xấu với đời, làm hử danh của Minh giáo. Nhưng chỉ vì chàng nhận thấy nàng này tốt, nàng nọ đẹp, nên chàng không dám nghĩ nhiều là thế. Có khi trong thâm tâm, chàng nghĩ rằng nếu ta mà lấy được bốn nàng, lớn bé đều hòa hảo thì sung sướng biết bao.

Nên rõ, thời bấy giờ, bất cứ người nào, sĩ, nông, công, thương hoặc giang hồ hào khách, lấy tam thê tứ thiếp là chuyện rất thường. Trái lại, một chồng một vợ lại rất hiếm, chỉ có Minh giáo vì xuất thân từ Ba Tư và xưa nay giáo chúng lại rất tiết kiệm, khắc khổ, trừ người vợ ra, ít khi lấy thêm nàng hầu. Vô Kỵ là người có tính khiêm hòa, chàng nhận thấy bất cứ lấy một cô gái nào đối với mình cũng có hạnh phúc hết, nếu còn lấy thêm nàng hầu thì thật là có lỗi với người vợ đẹp như tiên ấy. Vì thế chàng không dám nghĩ đến việc lấy cả mấy người như vậy, dù thỉnh thoảng có nghĩ tới, chàng vẫn thường tự trách mình rằng:

– Vô Kỵ ơi, làm người phải biết đầy đủ, nếu ngươi còn nghĩ ngợi tham lam như thế thì thật là đê tiện và vô sỉ.

Chỉ Nhược thấy Vô Kỵ cứ suy nghĩ mãi, không trả lời, nàng liền hỏi tiếp:

– Lời mà tôi hỏi đại ca đó là chuyện hư ảo đấy thôi, hiện giờ Tiểu Siêu đã làm giáo chủ Minh giáo Ba Tư rồi, còn tôi… giết Hân cô nương, trong bốn cô gái chỉ còn lại một mình Triệu cô nương thôi. Tôi chỉ hỏi đại ca, nếu bốn người đều ở cạnh đại ca mà người nào người nấy đều bình yên vô sự thì đại ca sẽ đối xử ra sao?

Vô Kỵ đáp:

– Chỉ Nhược, việc này tôi suy tính trong lòng đã lâu, tôi cảm thấy khó giải quyết lắm, nhưng cho tới ngày hôm nay, tôi mới biết người mà tôi yêu thực là ai rồi.

Chỉ Nhược liền hỏi:

– Ai thế? Có phải là… Triệu cô nương không?

Vô Kỵ đáp:

– Phải, ngày hôm nay tôi đi tìm nàng, tìm mãi mà không thấy, tôi chỉ muốn chết đi cho rảnh, nếu từ giờ mà tôi không tìm thấy nàng nữa thì số mạng tôi cũng không sống được bao lâu. Tiểu Siêu bỏ tôi ra đi, tôi rất đau lòng. Hân biểu muội tạ thế, tôi càng đau lòng thêm, còn Chỉ Nhược… Chỉ Nhược đã làm những gì, khiến tôi vừa đau lòng vừa thương tiếc, nhưng Chỉ Nhược ạ, tôi không thể giấu diếm cô được, nếu trong đời này mà tôi không tìm kiếm ra Minh muội thì tôi đành chết còn hơn sống. ý nghĩ này của tôi chưa hề nói cho một ai hay biết.

Thoạt nhiên, chàng đối với Hân Ly, Chỉ Nhược, Tiểu Siêu và Triệu Minh bốn người, hình như không sao phân biệt được ai hơn ai kém, nhưng bây giờ Triệu Minh đi khỏi, chàng mới đột nhiên phát giác. Thì ra, Triệu Minh là người chiếm cứ trái tim của chàng nhiều hơn ba nàng kia.

Chỉ Nhược nghe thấy chàng ta nói như vậy, khẽ tiếp:

– Ngày nọ ở Ðại Ðô tôi thấy đại ca đi đến quán rượu nho nhỏ gặp nàng, tôi biết đại ca đã bị tình yêu gắn bó, nhưng tôi vẫn còn si mê vọng tưởng, nếu tôi có cùng… cùng đại ca kết hôn, liệu… có thể lôi lại được đại ca thay lòng đổi dạkhông? Quả thực… tôi không làm nổi công việc đó.

Vô Kỵ thành thật nói tiếp:

– Chỉ Nhược, xưa nay, tôi đối với Chỉ Nhược chỉ kính trọng, với Hân biểu muội, trong lòng tôi chỉ thấy cảm động thôi, đối với Tiểu Siêu, tôi thương tiếc nàng, nhưng đối với Triệu cô nương thì… thì tôi thực lòng yêu cô ta lắm.

Chỉ Nhược lẩm bẩm nói:

– Thực lòng yêu cô ta lắm… thực lòng yêu cô ta lắm…

Ngừng giây lát, nàng lại khẽ hỏi:

– Vô Kỵ đại ca, đối với đại ca… tôi cũng thực lòng yêu đại ca lắm… chẳng hay… đại ca có biết lòng của tôi không?

Vô Kỵ nghe nàng ta nói vậy, cảm động vô cùng, cầm lấy tay nàng, tỏ vẻ ăn năn đáp:

– Chỉ Nhược, tôi biết tấm lòng của Chỉ Nhược đối với tôi rồi. Trên đời này, tôi biết làm thế nào để đền đáp Chỉ Nhược cho phải. Tôi… xin lỗi Chỉ Nhược…

– Ðại ca có lỗi gì với tôi đâu, từ trước đến nay lúc nào đại ca cũng tử tế với tôi lắm, chẳng lẽ tôi không biết hay sao? Tôi hỏi đại ca, nếu chuyến này Triệu cô nương không từ biệt mà đi, rồi không bao giờ đại ca tìm thấy nàng thì… đại ca nghĩ sao?

Trong lòng khó chịu đã lâu, Vô Kỵ nghe nàng nói như vậy, không sao nhịn được nữa, liền bật khóc và đáp:

– Tôi… tôi không biết… nói tóm lại, lên trời xuống đất dù đi đến đâu tôi cũng phải tìm cho ra nàng mới thôi.

Chỉ Nhược thở dài một tiếng và nói tiếp:

– Không bao giờ nàng thay lòng đổi dạ mà không yêu đại ca đâu. Ðại ca muốn đi tìm nàng không phải là chuyện khó.

Vô Kỵ nghe nói, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, vội đứng dậy hỏi:

– Nàng ở đâu? Chỉ Nhược chỉ cho tôi đi.

Chỉ Nhược liếc đôi mắt tình tứ nhìn chàng, trông thấy chàng mừng rỡ như điên cuồng liền khẽ nói:

– Ðối với tôi, không bao giờ đại ca quan tâm đến thế, nếu đại ca muốn biết nàng ta hiện giờ ở đâu phải nhận với tôi một việc này, bằng không không bao giờ đại ca tìm thấy nàng cả?

– Chỉ Nhược muốn nhận lời việc chi?

– Bây giờ, tôi chưa nghĩ ra, sau này, khi nào nghĩ ra sẽ nói với đại ca. Nói tóm lại, việc đó không trái với đạo hiệp nghĩa mà lại có lợi cho việc quan phục là khác. Việc đó đối với Minh giáo và đối với thanh danh của đại ca cũng không ảnh hưởng gì hết, nhưng việc đó không phải dễ làm.

Vô Kỵ ngẩn người ra không nói gì.

Chỉ Nhược lại nói tiếp :

– Nếu đại ca không nhận lời, cũng được, tuỳ ở đại ca, tôi không cửỡng ép đâu, nhưng đại trượng phu phải giữ lời hứa, nếu đại ca đã nhận lời rồi, tới khi tôi nhờ, đại ca không được thoái thác.

Ngẫm nghĩ giây lát, Vô Kỵ bỗng hỏi lại:

– Chỉ Nhược nói việc này không trái với đạo hiệp nghĩa mà có lợi cho sự nghiệp quan phục và cũng không ảnh hưởng đến tên tuổi của Minh giáo tôi phải không?

Chỉ Nhược đáp:

– Phải.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Ðược, nếu quả thật không trái với đạo nghĩa, không ảnh hưởng đến việc quan phục thì tôi nhận lời ngay.

Chỉ Nhược lại nói :

– Chúng ta vỗ tay thay lời thề nào.

Nói xong, nàng giơ tay ra vỗ vào tay Vô Kỵ một cái.

Vô Kỵ trong lòng cảm thấy, sau khi vỗ tay lập thệ với nàng rồi, vô hinh chung trên người mình đã bị mang cùm xích. Chu cô nương này bề ngoài trông rất nho nhã, nhưng bên trong xảo quyệt, hành sự rất thâm độc. Sự thực nàng còn lợi hại hơn Triệu Minh nhiều. Vì vậy tay Vô Kỵ cứ để yên như thế, chứ không vỗ tay nữa.

Chỉ Nhược thấy vậy mỉm cười:

– Ðại ca chỉ cần nhận lời tôi việc này, trong giây lát tôi làm cho đại ca được gặp mặt người yêu ngay.

Vô Kỵ nghe nói, thấy ngực nóng nhử thiêu, nên chàng không còn suy tính gì hết, liền vỗ tay luôn ba cái vào tay Chỉ Nhược ngay.

Chỉ Nhược vừa cười vừa tiếp:

– Ðây đại ca thử xem, người này là ai?

Nói xong, nàng gạt bụi cây ở phía sau lưng ra, Vô Kỵ liền thấy sau bụi cây có một thiếu nữ đang ngồi mặt như cười mà không phải là cười.

Nàng đó chính là Triệu Minh, chứ không phải ai xa lạ.

Vô Kỵ lớn tiếng kêu gọi:

– Minh muội. Chàng bỗng nghe thấy phía sau lưng, cánh đó mấy trượng có một giọng thiếu nữ kêu ủa một tiếng.

Hình như nàng đó trông thấy Triệu Minh hiện thân bỗng kinh hoảng thất thanh la như vậy.

Tiếng kêu la ấy tuy rất khẽ, nhưng Vô Kỵ đã nghe rõ, chàng ngẩn người ra, trong đầu óc liền nghĩ ngay mấy việc, nhưng tay vẫn từ từ đưa ra kéo tay Triệu Minh.

Hai bàn tay vừa chạm nhau, chàng thấy tay nàng cứng đơ, liền hiểu chuyện ngay.

Thì ra, nàng bị Chỉ Nhược bắt giữ điểm yếu huyệt tê và giấu trong bụi cây.

Chàng thuận tay, thăm luôn mạch thấy khí huyết của nàng vẫn vận hành như thường, chưa hề bị thương.

Dưới ánh trăng, chàng thấy mặt nàng tươi tỉnh trông càng khả ái thêm. Chắc vừa rồi những lời nói của Vô Kỵ với Chỉ Nhược nàng đều nghe thấy hết, tuy người nàng không cử động được, mồm không nói được, nhưng tai vẫn nghe thấy được, nên nàng mới vui vẻ như vậy.

Chỉ Nhược cúi đầu xuống rỉ tai Vô Kỵ nói mấy câu.

Vô Kỵ cũng khẽ trả lời một tiếng.

Chỉ Nhược cả giận quát hỏi:

– Trương Vô Kỵ ngươi không coi ta vào đâu cả, ngươi cứ thử nhìn kỹ mà xem. Triệu Minh đã ngộ độc rồi, còn sống làm sao được nữa?

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội hỏi:

– Nàng… nàng đãø trúng độc ư? Có phải cô nương đã đầu độc nàng không?

Nói xong, chàng cúi xuống xem, vừa vạch mắt bên trái của Triệu Minh lên nhìn thỡ lưng đã tê tái, bị Chỉ Nhược điểm trúng yếu huyệt rồi.

Chàng chỉ kêu “ối chà” và người lảo đảo.

Nhờ có nội công thâm hậu, tuy bị điểm trúng huyệt, nhưng vẫn chưa hề té ngã.

Chàng vội vận khí để giải huyệt, nhưng Chỉ Nhược đã nhanh tay điểm luôn năm nơi đại huyệt của chàng.

Hồi thứ 102

Châu về hiệp phố

Võ công của Vô Kỵ có mạnh đến đâu mà bị điểm luôn một lúc sáu yếu huyệt như vậy cũng không chịu nổi, liền ngã về phía sau luôn.

Chỉ Nhược liền rút kiếm ra dí vào ngực chàng và bảo:

– Ðã trót thì trét, ngày hôm nay ta phải lấy mạng của ngươi, dù sao oan hồn của Hân Ly đang hiện lên làm nguy ta, ta không thể nào sống được nữa, chi bằng ta cũng ngươi chết một thể cho rảnh.

Nói xong, nàng giơ trường kiếm lên nhằm ngực Vô Kỵ đâm thẳng.

Bỗng nghe thấy phía sau có một thiếu nữ lên tiếng gọi:

– Hãy khoan, Chu Chỉ Nhược, Hân Ly chưa chết mà.

Chỉ Nhược quay đầu nhìn lại thấy một thiếu nữ áo đen ở trong bụi cây chạy ra, giơ một ngón tay nhằm lưng Chỉ Nhược đâm luôn.

Chỉ Nhược vội nhảy sang bên tránh né.

Thiếu nữ nọ quay đầu lại, dưới ánh sáng trăng, thấy mặt nàng rất đẹp, nhưng có mấy đường huyết thần.

Vô Kỵ nhận ra thiếu nữ này chính là biểu muội Hân Ly của mình, mặt không còn sưng vù như trước, tuy có mấy vết huyết thần nhưng không thể che lấp vẻ đẹp của nàng.

Chỉ Nhược lui hai bước, giơ chưởng lên che ngực, tay phải cầm trường kiếm, dí thẳng vào ngực Vô Kỵ quát lớn:

– Nếu cô tiến lên một bước tôi đâm chết y trước.

Quả nhiên Hân Ly không cử động, vội nói:

– Cô… cô làm bấy nhiêu việc độc ác rồi cũng chưa đủ hay sao?

Vô Kỵ ngạc nhiên kêu gọi:

– Thù Nhi.

Chàng tung mình nhảy lên, ôm chặt lấy Hân Ly và nói:

– Thù Nhi, em làm cho anh khổ sở quá.

Sự việc xảy ra đột ngột, Hân Ly hoảng sợ la lớn một tiếng nhưng nàng đã bị Vô Kỵ ôm chặt lấy, không sao cư động được.

Chỉ Nhược cười khúc khích và nói:

– Nếu không làm như vậy thì đời nào cô ló mặt ra.

Nói xong, nàng quay lại giải huyệt cho Triệu Minh và còn xoa bóp cho nàng nữa.

Triệu Minh bị nàng ta kiềm chế nưa ngày, bỏ mình ngồi trong bụi cây trong lòng tức giận khôn tả, cũng may về sau được nghe Vô Kỵ thổ lộ tâm sự, nên mới hết giận mà vui vẻ. Bây giờ, nàng lại thấy Hân Ly đột nhiên ở đâu hiện ra, khiến nàng khó xử vô cùng.

Hân Ly hờn giận nói:

– Ðại ca cứ lôi kéo tôi như thế làm chi? Có Triệu cô nương, Chu cô nương ở đây thì còn ra thể thống gì nữa?

Triệu Minh xen lời nói:

– Nếu tôi với Chu cô nương không có ở đây thì thành thể thống phải không?

Vô Kỵ mỉm cười nói:

– Tôi thấy cô chết nay lại hoàn hồn, mừng rỡ khôn tả, biểu muội chẳng hay đầu đuôi ra sao?

Hân Ly kéo cánh tay chàng, xoay mặt chàng về phía có ánh sáng trăng, ngắm nhìn hồi lâu, rồi đột nhiên nắm lấy tay trái của chàng véo một cái.

Vô Kỵ đau không chịu nổi, liền kêu la:

– ối chà, biểu muội làm gì thế?

Hân Ly đáp:

– Tên Trư Bát Giới xấu xí, chém nghìn đao, cưa muôn lưỡi này, ngươi mạo xưng Tăng A Ngưu cái quái gì để lừa dối tôi bảo tôi phải thộ lộ tâm sự và còn bêu xấu tôi trước mặt mọi người. Ngươi… chôn sống tôi ở trong đất làm cho tôi chịu khổ, chịu sở biết bao.

Nói xong, nàng đấm vào ngực chàng ba cái, kêu bình bình ba tiếng.

Vô Kỵ không dám vận Cửu Dương thần công ra đì, đành chịu đau để cho nàng đánh luôn ba quyền, rồi vừa cười vừa nói:

– Biểu muội, quả thật tôi tưởng cô đã… đã chết rồi, làm tôi thương khóc mấy đêm ngày. Sao cô lại sống được, có thực là trời có mắt không?

Hân Ly đáp:

– Phải, ông trời có mắt, nhưng Trư Bát Giới này thì không có mắt, thế mà cũng đòi làm đệ tử của Ðiệp Cốc Y Tiên. Người ta sống hay chết mà cũng không biết. Có phải thấy mặt tôi xấu xí, khó coi, không đợi chờ tôi tắt thở, liền đem tôi chôn sống luôn, anh thật không có lương tâm, con ma chết yểu ác độc này.

Nàng la mắng chàng một thôi một hồi, thái độ và lời ăn lẽ nói y như xưa vậy.

Vô Kỵ cười khúc khích vừa nghe vừa gãi đầu đáp:

– Em chửi đi, cứ việc chửi nữa đi, lúc ây tôi quả có hồ đồ trông thấy mặt em dính đầy máu tươi, không thấy thở, trống ngực không đập, nên tưởng em đã chết rồi.

Hân Ly nhảy phắt lên, véo tai chàng một cái nữa.

Vô Kỵ cười, né tránh sang bên và nói:

– Vậy tiểu muội hãy tha thứ cho tôi.

Hân Ly đáp:

– Tôi nhất định không tha thứ cho anh, ngày hôm đó không hiểu sao tôi tỉnh dậy. Tôi thấy xung quanh đều là đá lạnh ngắt, nếu anh muốn chôn sống tôi, sao không đào cho tôi một cái hố đá và không lấp đất để cho tôi không thở được, như vậy có phải tôi chết hẳn đi không?

Vô Kỵ lẩm bẩm nói:

– Thật cám ơn trời đất, hôm ấy khiến tôi không đào cái hố đá…

Chàng vừa nói vừa liếc mắt nhìn Chỉ Nhược, Hân Ly lại giận dữ nói:

– Người ấy độc địa và hư thân mất nết lắm, tôi không cho phép anh nhìn y thị.

VôKỵ hỏi:

– Tại sao thế?

Hân Ly đáp:

– Y thị là hung thủ giết chết tôi, đại ca còn nói chuyện với y thị làm chi?

Triệu Minh đột nhiên xen lời nói:

– Cô nương chưa chết, chị ấy chưa phải là hung thủ.

Hân Ly đáp:

– Tôi đã chết một lần rồi, y thị không là hung thủ là gì?

Vô Kỵ liền khuyên:

– Thôi biểu muội hãy nghe tôi nói, cô đã thoát hiểm về tới đây, chúng ta vui vẻ với nhau mới phải, thong thả ngồi xuống đây, kể lại chuyện cô chết đi sống lại như thế nào cho chúng tôi nghe đã.

Hân Ly đáp:

– Cái gì mà chúng tôi với chả chúng tôi, tôi thử hỏi anh, hai chữ chúng tôi, chẳng hay là những người nào?

VôKỵ vừa cười vừa đáp:

– Ở đây chỉ có bốn người thôi, dĩ nhiên tôi và tiểu muội, cùng Chu, Triệu hai cô nương.

Hân Ly cười nhạt và nói tiếp:

– Hừ, anh thấy tôi sống, có lẽ còn có mấy thành mừng rỡ thực sự, nhưng Chu với Triệu cô nương không biết người ta có mừng rỡ như anh không?

Chỉ Nhược đáp:

– Hân cô nương, ngày hôm đó tôi nổi hung ác giết hại cô, nhưng sau đó, không những ban ngày tự sám hối mà đêm đến ngủ cũng không yên, bằng không ngày hôm nay khi tôi đột nhiên thấy cô ở trong rừng, tôi đâu đến nỗi hoảng sợ như thế. Bây giờ thấy cô bình yên như vậy, đã gì được bao nhiêu tội lỗi cho tôi. Ông trời ở trên chứng minh cho, quả thực tôi mừng rỡ khôn tả chứ không giả dối gì hết.

Hân Ly nghiêng đầu nghĩ ngợi giây lát rồi lại gật đầu đáp:

– Cô nói cũng có lý, đáng lẽ tôi định kiếm cô trả thù nhưng bây giờ, cô đã nói vậy thì thôi, tôi không chấp nữa.

Chỉ Nhược quì ngay xuống, nức nở khóc và nói:

– Tôi… tôi rất có lỗi… với… cô nương.

Hân Ly là người rất khó tính, nhưng thấy Chỉ Nhược chịu thừa nhận liền xiêu lòng ngay, vội đỡ nàng ta dậy và nói:

– Chỉ Nhược, việc đã qua rồi không nên để trong bụng nữa, đằng nào tôi cũng đã thoát chết.

Hai người tay nắm tay, sát cánh ngồi xuống.

Hân Ly đưa tay lên vuốt tóc vài cái rồi nói:

– Mấy nhát kiếm của chị vạch mặt tôi, cũng không phải là không hay, mặt tôi vốn dĩ sưng vù, nhờ cái vạch mặt, máu độc ở bên trong chảy ra hết, nên những chỗ sưng mới xẹp dần.

Chỉ Nhược ăn năn vô cùng, không biết nói sao cho phải.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Tôi với nghĩa phụ và Chỉ Nhược ở lại trên đảo khá lâu, sao biểu muội ra khỏi mộ rồi, không đến gặp chúng tôi ngay?

Hân Ly giận dữ đáp:

– Tôi không muốn gặp anh, vì thấy anh với Chu cô nương cứ tôi tôi, thiếp thiếp khiến tôi càng nghe càng tức giận, hừ “Sau này, tôi lại càng thương Chỉ Nhược, hai chúng ta kết thành vợ chồng một khối” đấy, đại ca bảo tôi nghe thế thì làm sao chịu nổi?

Nàng bắt chước giọng Vô Kỵ nói câu đó, rồi lại bắt chước cũng giọng của Chỉ Nhược nói tiếp: “Nếu tôi làm lỡ việc gì, đại ca đánh tôi, chư tôi, giết tôi không? Tôi mồ côi cha mẹ từ nhỏ, không ai dậy bảo, tránh sao khỏi nhất thời hồ đồ”.

Nàng ho một tiếng rồi lại nhái giọng đàn ông: “Chỉ Nhược, cô là vợ yêu của tôi, dù có lỡ lầm việc gì tôi cũng không dám nói nặng cô nữa lời đâu”.

Nói xong, nàng chỉ mặt trăng trên trời và nói tiếp:

– Ðã có mặt trăng ở trên trời làm chứng cho hai chúng ta.

Thì ra tối hôm đó, Vô Kỵ nói tâm tình với Chỉ Nhược như thế nào đều lọt vào tai Hân Ly hết.

Bây giờ, nàng nhất nhất kể lại cho mọi người nghe làm Chỉ Nhược xấu hổ vô cùng.

Vô Kỵ cũng ngượng nghịu không yên.

Chàng liếc mắt nhìn Triệu Minh thấy nàng tức giận đến mặt tái mét.

Chàng vội giơ tay ra nắm lấy cổ tay nàng.

Triệu Minh xoay tay lại, dùng hai ngón tay có móng thật dài vèo vào mu bàn tay chàng.

Vô Kỵ đau không chịu nổi, nhưng không dám kêu và cũng không dám cử động.

Hân Ly thò tay vào trong túi, lấy que gỗ ra để ở trước mặt Vô Kỵ và nói tiếp:

– Ðại ca đã trông thấy rõ chưa? Cái này là cái gì?

Vô Kỵ thấy que gỗ đó có khắc một hàng chữ “Ái thêThù Nhi, Hân Ly chi mộ, Trương Vô Kỵ cẩn lộc”.

Miếng gỗ này chính là của Vô Kỵ đã viết và cắm trước mộ Hân Ly năm xưa.

Hân Ly hậm hực nói tiếp:

– Tôi ở trong mộ bò ra thấy miếng gỗ này, lúc ấy tôi càng hoang mang thêm. Tôi ngạc nhiên không hiểu tên tiểu quỷ Trương Vô Kỵ nhẫn tâm và chết non nào lại lập bia cho tôi như vậy. Tôi nghĩ mãi vẫn không ra. Sau tôi nghe thấy hai người nói chuyện, thấy mọi người cứ gọi Vô Kỵ đại ca hoài, lúc ấy tôi mới vì lẽ, Trương Vô Kỵ tức là Tăng A Ngưu mà Tăng A Ngưu tức là Trương Vô Kỵ. Ðại ca vô lương tâm thực, lừa dối tôi, làm tôi khổ sở biết bao.

Nói xong, nàng giơ miếng gỗ đánh luôn vào đầu Vô Kỵ một cái kêu đến “bốp” một tiếng, cây gỗ ấy gãy làm mấy mảnh, rơi xuống đất.

Triệu Minh giận dữ hỏi:

– Sao hơi một tí là cô lại ra tay đánh người như thế?

Hân Ly cười ha hả và nói:

– Tôi đánh y đã sao nào? Cô thương xót phải không?

Triệu Minh mặt đỏ bừng đáp:

– Tôi đã nhường nhịn cô nhiều lắm rồi, thế mà cô không biết xấu tốt gì hết.

Hân Ly vừa cười vừa đáp:

– Cái gì là không biết xấu tốt, cô cứ yên tâm không bao giờ tôi tranh Trư Bát Giới thích thú này đâu. Tôi chỉ thích có một người thôi, người đó là tiểu Trương Vô Kỵ, người đã cắn tay tôi chảy máu trong Hồ Ðiệp Cốc. Còn Trư Bát Giới xấu xí này, tên y là Tăng A Ngưu cũng vậy mà Trương Vô Kỵ cũng thế, tôi không ưa chút nào.

Nói xong, nàng quay đầu lại với giọng dịu dàng nói rằng:

– A Ngưu đại ca xưa nay đối đãi với tôi tư tế lắm, tôi cảm động vô cùng, nhưng lòng tôi đã hứa với tiểu tử Trương Vô Kỵ hung ác và nhẫn tâm kia rồi, đại ca không phải là y, không, không phải là y…

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng, liền hỏi:

– Rõ ràng tôi là Trương Vô Kỵ, sao… sao…

Hân Ly ngẩn người ra nhìn chàng một hồi lâu, đôi người của nàng biến đổi luôn luôn, sau cùng lắc đầu đáp:

– A Ngưu đại ca không hiểu được đâu. Khi ở bãi sa mạc miền Tây Vực với đại ca đồng sinh, đồng tử, cũng như khi ở trên tiểu đảo tại hải ngoại, đại ca đối với tôi nhân trí nghĩa tận, đại ca là người tốt, nhưng tôi đã nói cho đại ca rồi, trái tim của tôi đã trao cho Trương Vô Kỵ kia, tôi phải đi tìm y đây.

Nói xong, nàng nhìn chàng hồi lâu rồi quay mình đi luôn.

Vô Kỵ liền hiểu ngay. Thì ra, người nàng yêu là Trương Vô Kỵ mà nàng vẫn tưởng tượng trong lòng. Trương Vô Kỵ trong trí nhớ của nàng đã gặp ở Hồ Ðiệp Cốc chứ không phải Trương Vô Kỵ thực sự hiện nay đang đứng trước mặt nàng. Trương Vô Kỵ đó không phải là Trương Vô Kỵ đã lớn và khoan thứ, đức độ này.

Lúc này trong lòng Vô Kỵ có ba thành thương cảm, ba thành lưu luyến và ba thành an ủi. Chàng cứ nhìn theo bóng nàng cho tới mất hút trong đêm tối mới thôi. Chàng biết Hân Ly bao giờ cũng chỉ nhớ thiếu niên hung ác ở trong Hồ Ðiệp Cốc kia thôi. Nàng bây giờ đi kiếm y, tất nhiên không bao giờ tìm thấy, nhưng cũng có thể nói nàng đã thấy rồi. Người thực, việc thực có nhiều khi không sao bằng được những người và việc mình vẫn tưởng tượng ở trong trí óc.

Chỉ Nhược thở dài một tiếng và nói:

– Ðều do tôi mà nên hết, tôi đã hại cô ta đến nỗi điên điên rồ rồ như vậy.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Quả thực, nàng ta điên điên rồ rồ, tội lỗi này do ta mà ra, nhưng đã chắc đâu nàng không sung sướng bằng những người có đầu óc tỉnh táo.

Chỉ Nhược lúc đó đứng dậy nói:

– Chúng ta đi thôi.

Triệu Minh hỏi:

– Ði đâu thế?

Chỉ Nhược đáp:

– Hồi nãy, khi tôi ở trong chùa Thiếu Lâm, thấy hoà thượng Bành Doanh Ngọc hấp tấp tới kiếm Vô Kỵ đại ca, hình như trong Minh giáo có việc quan trọng xảy ra.

Vô Kỵ nghe nói rùng mình nghĩ thầm:

– Ta không nên vì tình nhi nữ mà quên bổn phận với bổn giáo.

Nghĩ đoạn chàng liền nói:

– Nếu vậy, chúng ta mau đi xem thử.

Thế rồi, ba người rảo bước đi luôn, không bao lâu đã tới chỗ dinh trại của Minh giáo.

Dương Tiêu, Phạm Dao, Bành Doanh Ngọc đang sai người đi khắp nơi tìm kiếm Trương giáo chủ, bây giờ bỗng nhiên lại thấy chàng ta trở về, ai nầy đều vui vẻ vô cùng, nhưng lại thấy Chu, Triệu cùng về theo, nên kinh ngạc vô cùng.

Vô Kỵ thấy thần sắc của mọi người có vẻ rầu rĩ, đoán chắc thế nào cũng có chuyện không may xảy ra, liền hỏi:

– Bành đại sư, chẳng hay có việc gì mà đại sư tìm tôi thế?

Doanh Ngọc chưa kịp trả lời, thì Chỉ Nhược đã dắt tay Triệu Minh và nói:

– Chúng ta hãy sang bên kia ngồi, tôi phải đi ngay đây.

Triệu Minh hiểu ý Chỉ Nhược muốn tránh không nghe những sự bí mật của Minh giáo.

Thế rồi hai nàng cùng sát cánh đi ra.

Dương Tiêu, Phạm Dao cùng các người thấy vậy lại càng ngạc nhiên hơn nữa, đều nghĩ thầm:

– Ngày hôm giáo chủ thành hôn ở Hào Châu, hai cô nương này tranh đấu với nhau, lợi hại biết bao. Sao lúc này lại thân nhau như chị em vậy, không hiểu giáo chủ làm cách nào mà hai nàng lại hoà hảo với nhau như thế?

Doanh Ngọc chờ hai nàng đi khỏi mới nói:

– Thưa giáo chủ, chúng ta bị đánh thua một trận rất lớn ở Hào Châu. Hàn Sơn Ðồng đại huynh đã tử nạn.

Vô Kỵ nghe nói liền thất thanh kêu “ối chà” một tiếng và tỏ vẻ thương tiếc vô cùng.

Doanh Ngọc lại nói tiếp:

– Hiện giờ, quân vụ ở Hoài Tứ do chú Chu Nguyên Chương chỉ huy, Từ Ðạt, Thường Ngộ Xuân hai vị hay tin đã đem quân đi tiếp ứng cứu viện rồi. Vì việc quá khẩn cấp nên chúng tôi không kịp chờ giáo chủ ra lệnh.

Vô Kỵ nói:

– Phải, nên làm như thế.

Mọi người đang bàn tán quân tình, thì Hân Dã Vương đã hấp tấp bước vào nói:

– Thưa giáo chủ, Cái Bang có người đến đây báo tin cho chúng ta biết, hiện giờ đã biết tung tích của Trần Hữu Lượng rồi.

Vô Kỵ hỏi:

– Y ở đâu?

Dã Vương đáp:

– Hiện giờ y trà trộn trong thuộc hạ của Từ Thọ Huy của bổn giáo, nghe nói chú Thọ Huy rất tín nhiệm y.

Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát rồi tiếp:

– Nếu vậy chúng ta không nên nóng nảy và hấp tấp quá, cậu làm ơn phái người cho chú Thọ Huy biết tên Hữu Lượng nham hiểm và giảo hoạt lắm, để y ở bên cạnh sẽ bị tai hoạ rất lớn, tốt hơn hết là tránh xa y đi thì hơn.

Dã Vương vâng lời, nhưng y lại nói tiếp:

– Chi bằng cho y một đao, chém y làm đôi, có phải hơn không, để tôi đi làm việc này cho.

Vô Kỵ đang suy nghĩ thì bỗng có một giáo chúng đưa một lá thư khẩn cấp của Từ Thọ Huy gởi tới.

Vô Kỵ vừa cầm lá thứ vào trong tay thì Dương Tiêu đã cau mày lại nói:

– Nguy tai, nguy tai, lại bị y chiếm mất trước.

Vô Kỵ mở lá thư ra đọc, mới hay đó là một tờ bẩm rất dài của Thọ Huy. Bên trong nói Hữu Lượng đã thất lễ với giáo chủ, tự biết tội rất nặng, bây giờ đã giác ngộ, y hối lỗi vô cùng, hiện đã thành tâm gia nhập bổn giáo, quyết ý sửa đổi những lỗi xưa, yêu cầu giáo chủ cho y một dịp may để sưa đổi tính nết.

Vô Kỵ đưa tờ trường bẩm đó cho Dương Tiêu và các người xem.

Hân Dã Vương lên tiếng:

– Chú Thọ Huy bị người này mê hoặc, sau này thế nào cũng có hậu hoạn.

Dương Tiêu đỡ lời:

– Tên Trần Hữu Lượng nhan hiểm vô cùng, nhưng nếu lúc này chúng ta giết y thì thiên hạ sẽ bảo chúng ta hẹp lượng mà các anh hùng hảo hán cũng không dám phò chúng ta nữa.

Vô Kỵ lại nói:

– Lời của Dương tả sứ rất đúng, Bành đại sư thân với chú Thọ Huy hơn ai hết, bây giờ đại sư đến nơi đó khuyên chú Thọ Huy phải cẩn thận đề phòng, đừng có trao quyền binh mã cho tên tiểu nhân ấy.

Doanh Ngọc vâng lời đi luôn.

Không ngờ Từ Thọ Huy không chịu nghe lời khuyên giải, lại rất tín nhiệm Trần Hữu Lượng, rốt cuộc y bị chết trong tay Hữu Lượng.

Hữu Lượng liền thống lãnh nghĩa quân Tây lộ của Minh giáo, tự xưng là Hán Vương, cùng tranh cướp thiên hạ với nghĩa quân Ðông Lộ của Minh giáo, sau đại chiến ở hồ Bá Dương, Hữu Lượng thất bại và bị giết chết, khiến các anh hùng hào kiệt của Minh giáo bị chết chóc và thương vong rất nhiều.

Tối hôm ấy Vô Kỵ với Dương Tiêu, Bành Doanh Ngọc các người bàn tính mọi việc, để phân phát các người tiếp ứng cho các lộ quân.

Chàng thấy lâu ngày chưa gặp Trương Tam Phong trong lòng nhớ nhung khôn tả.

Sáng hôm sau, liền chia tay quần hùng đem Triệu Minh cùng Thanh Thư lên núi Võ Ðang.

Chỉ Nhược liền nói:

– Trương chân nhân có ơn lớn với tôi. Tống thiếu hiệp nghịch cha, thí chú là do tôi mà nên, tôi phải lên trên đó để chịu tội với Trương chân nhân.

Thế rồi, nàng đem đệ tử phái Nga Mi cùng lên núi Võ Ðang.

Núi Thiếu Thất cách núi Võ Ðang không xa mấy, chỉ đi vài ngày đường là tới ngay.

Vô Kỵ theo Tòng Khê, Liên Châu, Lợi Hanh vào trong bái kiến Trương Tam Phong và yết kiến Tống Viễn Kiều cùng Dư Ðại Nham.

Viễn Kiều nghe nói con mình đang ở ngoài am, liền sầm mặt lại, tay cầm kiếm và nhảy xổ ra. Vô Kỵ cùng các người thấy khuyên cũng không nên mà lặng thinh cũng không phải, đành theo Viễn Kiều ra ngoài điện.

Viễn Kiều quát lớn:

– Súc sinh ngỗ nghịch bất hiếu ở đâu?

Ðại hiệp thoáng thấy con mình nằm trong cáng, đầu băng bó vải trắng che lấp cả mắt, liền giơ trường kiếm đâm luôn một mũi vào người Thanh Thư, nhưng khi kiếm vừa đụng vào áo của đứa con bất hiếu kia thì tay đã run run, không sao đâm tiếp được nữa. Ðại hiệp nghĩ đến tình cha con, nghĩ đến tình đồng môn, đau lòng vô cùng, liền quay kiếm lại đâm luôn vào bụng mình một phát.

Vô Kỵ giơ tay dùng Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp cướp lấy trường kiếm của đại hiệp và khuyên rằng:

– Ðại sư bá, chớ nên làm như thế, việc này xử trí ra sao sư bá nên xin Thái sư phụ chỉ thị thì hơn.

Trương Tam Phong thở dài một tiếng và nói:

– Phái Võ Ðang của chúng ta không may lại có một đứa đệ tử phản nghịch. Viễn Kiêu, đây không phải chỉ riêng mình con bất hạnh, quân nghịch tử này có cũng như không.

Chân nhân nói xong, giơ chưởng ra đẩy một cái, kêu “bộp” một tiếng, trúng vào giữa ngực của Thanh Thư, chưởng lực của lão chân nhân oai lực biết bao, phủ tạng của Thanh Thư chấn động đến nát vụn và tắt thở tức thì.

Viễn Kiều quì xuống khóc lóc:

– Thưa sư phụ, đệ tư vì sơ xuất dạy bảo nên để Thất đệ bị chết dưới tay tên súc sinh này, đệ tử có lỗi với sư phụ và không nên không phải với Thất đệ.

Tam Phong đưa tay ra đỡ Tống Viễn Kiều đứng dậy và an ủi rằng:

– Việc này con có lỗi thực, địa vị trưởng môn của bổn phái từ này trở đi do Liên Châu tiếp nhận, con cứ chuyên tâm nghiên cứu Thái Cực quyền pháp, đừng lý tới những việc tục của bổn môn nữa.

Viễn Kiều cảm tạ sư phụ, Liên Châu vội từ chối, nhưng Tam Phong cương quyết bắt phải nhận. Nhị hiệp đành phải quì xuống bái lĩnh.

Mọi người thấy Trương Tam Phong đánh chết Thanh Thư, cách chức Viễn Kiều, môn qui rất nghiêm ai nầy đều nơm nớp hoảng sợ, đứng im lặng không nói nữa lời.

Tam Phong hỏi đến chuyện anh hùng đại hội với việc nghĩa quân kháng Nguyên như thế nào rồi lại khích lệ và an ủi Vô Kỵ một hồi.

Chỉ Nhược đứng cạnh đó mà từ đầu chí cuối, Trương Tam Phong không thèm nhìn đến nàng.

Chờ đạo sĩ trong quan khiêng xác của Thanh Thư đi rồi, Trương Tam Phong bỗng rút luôn thanh kiếm của Viễn Kiều đang đeo, chỉ luôn vào mặt Chỉ Nhược và nói:

– Chu cô nương là trưởng môn phái Nga Mi, đã học được mấy thành của Diệt Tuyệt sư thái rồi?

Chỉ Nhược đáp:

– Tiểu bối có học được ba thành kiếm pháp của ân sư thôi.

Tam Phong lại hỏi tiếp:

– Năm xưa, Quách nữ hiệp, một tay sáng lập ra phái Nga Mi, chỉ mong các đệ tử thành tài hơn mình, làm rạng danh cho môn phái. Cô nương mới học được có ba thành võ công của Diệt Tuyệt sư thái vậy bây giờ cô nương thị cái gì để làm rạng rỡ cho phái Nga Mi? Cô nương mới học được có võ công âm độc, xưng hùng xưng bá trong đại hội. Từ giờ trở đi, các đệ tử của phái Nga Mi đều học những võ công âm độc của cô nương phải không? Quách nữ hiệp có ơn với lão đạo, tuy lão đạo sắp chết đến nơi rồi, nhưng cũng không muốn phái Nga Mi bị trầm luân, suy vong, bị thiêu huý nhất đán như vậy.

Chỉ Nhược đáp:

– Trương Chân Nhân nói rất phải, tiểu bối có xếp đặt từ trước rồi.

Trương Tam Phong hỏi:

-Cô nương xếp đặt như thế nào?

Chỉ Nhược không trả lời mà chỉ quay đầu lại nói với Vô Kỵ:

– Trương giáo chủ, năm xưa, khi giáo chủ đấu với sáu đại môn phái trên Quang Minh đỉnh, tôi nghe thấy giáo chủ nói rằng giáo chủ không phải là đệ tử thụ nghiệp của phái Võ Ðang, có phải thế không?

Vô Kỵ không hiểu tại sao nàng bỗng hỏi đến việc đó liền đáp:

– Tiên phụ là môn hạ của Võ Ðang, Thái sư phụ đã truyền thụ Thái Cực Quyền pháp cho tôi, nếu bảo tôi là đệ tử của phái Võ Ðang cũng không sai.

Chỉ Nhược lại hỏi tiếp:

– Tôi đã nghe giáo chủ nói, ân sư thụ nghiệp võ công đầu tiên của giáo chủ là Tạ đại hiệp, nghĩa phụ của giáo chủ. Tạ đại hiệp là môn hạ của Phích Lích Thủ Thành Khôn, Cửu Dương thần công của giáo chủ, học ở di thư của Ðạt Ma lão tổ, Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp học ở trong Di Biên của giáo chủ đời trước của Minh giáo, chúng ta người trong võ lâm cần nhất là vấn đề sư môn và phái biệt, vậy chẳng hay giáo chủ là môn hạ của môn phái nào?

Vô Kỵ đáp:

– Võ công của tôi học được rất phức tạp, nếu nói trắng ra thì tôi không phải là môn hạ của phái nào hết.

Chỉ Nhược quay đầu lại hỏi Trương Tam Phong:

– Trương chân nhân, lời giáo chủ nói có đúng không?

Tam Phong gật đầu đáp:

– Thật tình là thế, trường hợp này rất hãn hữu trong võ lâm, đó cũng là do những sự kỳ phùng của y mà nên.

Chỉ Nhược bỗng rút luôn nữa khúc Ỷ Thiên Kiếm ra, tay trái nắm lấy mớ tóc, giơ lươi kiếm lên cắt đến “soẹt” một cái, cả một mớ tóc đen nhánh và mềm mại như tơ đã bị cắt đứt liền.

Mọi người đều giật mình kinh hãi và đồng thanh nói:

– Cô… nương….

Chỉ Nhược tiếp:

– Tôi mang rất nhiều tội nghiệp, đã sớm có y cắt tóc đi tu. Trương giáo chủ, có phải giáo chủ đã nhận lời giúp tôi một việc không? Và giáo chủ hứa là sẽ làm cho kỳ được phải không?

Vô Kỵ gật đầu đáp:

– Phải, đúng thế, nhưng…

Chỉ Nhược cướp lời:

– Nhưng việc này không được trái vơi đạo hiệp nghĩa, không được ảnh hưởng đến sự quang phục và cũng không được động chạm đến thanh danh của Minh giáo và giáo chủ phải không?

Vô Kỵ đáp:

– Phải, nếu như vậy cô nương muốn sai bảo việc gì tôi cũng vâng theo tức thì.

Chỉ Nhược lại nói tiếp:

– Ðại trượng phu đã hứa phải làm cho được mới thôi, trước mặt Thái sư phụ, sư thúc sư bá của giáo chủ, giáo chủ không được bội tín.

Vô Kỵ thấy nàng cắt tóc, vẻ mặt cương quyết, trong lòng cảm xúc liền nghĩ:

– Nàng có việc gì khó xử đến đâu ta cũng phải tận tâm tận lực làm giúp nàng được mới thôi.

Nghĩ đoạn, chàng liền nói tiếp:

– Cô nương muốn bảo tôi làm điều gì, xin cứ nói đi.

Chỉ Nhược liền quay đầu nói với Trương Tam Phong rằng:

– Trương chân nhân làm ơn cho mượn bảo điện này để xử dụng.

Nói xong, nàng cởi cái bọc áo đen trên lưng xuống, rồi lấy hai linh vị ra một cái đề Nga Mi phái, sáng phái tổ sư Quách Tường nữ hiệp chi linh vị, còn cái kia viết Nga Mi phái, để tử tam địa trưởng môn ân sư Diệt Tuyệt sư thái chi linh vị.

Nàng cung kính để hai chi linh vị đó lên trên một cái bàn hình vuông trong điện.

Tam Phong và Viễn Kiều, Vô Kỵ các người thấy vậy đều chắp tay vái chào và cúi đầu.

Chỉ Nhược cùng các đệ tử của bổn môn đều vái lạy hết rồi nàng cởi chiếc cà rá sắt đeo ở tay ra, quay người lại nói:

– Trương Vô Kỵ giáo chủ, Chu Chỉ Nhược, người trưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi kính cẩn truyền thụ ngôi trưởng môn này cho người.

Mọi người nghe thấy kinh hãi đến ngẩn người ra.

Chu Chỉ Nhược lại nói tiếp:

– Người vẫn kiêm nhiệm giáo chủ của Minh giáo, mong người làm rạng rỡ bổn môn hưng vượng Minh giáo dẫn dắt Trung nguyên hào kiệt xua đuổi quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi. Từ nay trở đi, các đệ tư của phái Nga Mi đều phải nghe lệnh của người hết.

Vô Kỵ giơ hai tay lên xua hoài và phản đối:

– Thế này… thế… làm sao được?

Chỉ Nhược đáp:

– Phái Nga Mi do tay Quách nữ hiệp sáng tạo, bây giờ mời giáo chủ ra đảm nhiệm chức trưởng môn, chẳng lẽ giáo chủ sợ làm nhục mình hay sao?

Vô Kỵ đưa mắt nhìn Trương Tam Phong, tỏ vẻ van lơn, cầu khẩn.

Trương chân nhân cũng ngẩn người ra, rồi đột nhiên cười ha hả, tiếng cười làm rung chuyển cả mái ngói, cười xong rồi mới nói:

– Chu cô nương, tôi chịu cô đấy, chỉ một việc này cũng không uổng Diệt Tuyệt sư thái đã giao trọng trách cho cô rồi. Bây giờ cô nương trao phái Nga Mi vào tay Vô Kỵ, tất nhiên y thế nào cũng làm rạng rỡ được quí phái chứ không sai.

Chỉ Nhược liền móc túi lấy một quyển vở bằng giấy vàng mỏng ra với hai khúc Ỷ Thiên kiếm gãy, trao cho VôKỵ và nói tiếp:

– Ðây là cuốn võ học của bổn môn do tay Quách nữ hiệp viết ra, Kiếm chưởng tinh nghĩa đều ở trong cuốn sách này hết.

Việc này tuy làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên nhưng vì Vô Kỵ không thuộc môn phái nào hết, tiếp nhiệm chức trưởng môn của phái Nga Mi như vậy không trái qui luật giang hồ chút nào. Vả lại việc này có lợi cho sự quang phục và cũng không làm mất thanh danh của Minh giáo.

Mọi người nghe thấy Trương Tam Phong nói tiếp:

– Vô Kỵ, con đã nhận lời Chu cô nương thì con không thể nào thoái thác việc này được.

Vô Kỵ nhận cuốn võ học của phái Nga Mi lẫn hai khúc Ỷ Thiên kiếm, đeo cà rá sắt vào rồi quì trước hai linh vị lạy một lần nữa.

Chỉ Nhược dẫn các đệ tử vào lần lượt vái lạy người trưởng môn thứ năm.

Trương Tam Phong, Viễn Kiều cùng các người lần lượt đến chúc mừng.

Các đệ tử của phái Nga Mi biết Vô Kỵ là người có võ công trác tuyệt, oai vọng rất lớn, rất có ích cho bổn môn, tuy trong đó cũng có vài người trong lòng không phục, nhưng không dám công nhiên phản đối.

Trương Tam Phong trông thấy di thư của Quách Tường liền tưởng tượng thấy một thiếu nữ thông minh tao nhã hiện ra ngay trước mắt nhưng đó là chuyện của một trăm năm về trước rồi.

Chỉ Nhược cắt tóc đi tu, không còn nghĩ đến việc đời, từ đó trở đi nàng chỉ làm bạn với ngọn đèn, cuốn kinh mà thôi.

Vô Kỵ ra lệnh cho Tĩnh Tuệ dẫn các đệ tử của phái Nga Mi trở về bổn sơn, còn mình thì từ biệt Trương Tam Phong cùng các người đi Hào Châu.

Suốt dọc đường, chàng đều nhận được tin thắng trận của bổn giáo và còn nghe thấy nghĩa quân ở các nơi nổi lên.

Cô Tô có Trương Sĩ Thành, Ðài Châu có Phương Quốc Châu.

Tuy không thuộc Minh giáo cai quản, nhưng toàn là quân bạn kháng Nguyên hết, nên VôKỵ mừng rỡ vô cùng, liền cùng Triệu Minh cỡi ngựa về phía Ðông.

Chàng thấy sơn hà xã tắc sắp sưa quang phụ đến nơi, liền nghĩ thầm:

– Sở dĩ được thành công nhanh chóng như thế này chủ yếu tuy là lòng người Hán và quân Thát Ðát tàn bạo mà nên, nhưng cũng phải nói đó là công lao của các anh em giáo chúng của Minh giáo xướng đạo nữa. Bây giờ ta chỉ mong thiên hạ được an cư lạc nghiệp, như vậy mới không uổng công mình ra sống vào chết, chịu đựng biết bao sự lo âu, hoạn nạn.”

Chàng không muốn kinh động đến mọi người, nghĩa là không muốn các tướng lĩnh của Minh giáo ra tiếp rước, nên suốt dọc đường chàng không gặp mặt tướng lãnh nào thuộc Minh giáo, chỉ ngấm ngầm quan sát xem, nhưng chàng thấy kỷ luật của nghĩa quân rất nghiêm, không hề quấy rối dân chúng.

Ði đến đâu chàng cũng nghe thấy bá tánh khen ngợi Chu Nguyên Chương và Từ Ðạt.

Hôm đó chàng đi đến ngoài thành Hào Châu, Chu Nguyên Chương hay tin liền sai Thanh Hoà và Ðặng Dữ hai tướng đem quân ra nghênh tiếp, đón chàng vào nghênh tân quán.

Thanh Hoà nói:

– Chu nguyên soái cùng Từ đại tướng quân và Thường tướng quân thương nghị khẩn cấp việc quân tình, được biết giáo chủ tới mừng rỡ cùng, nhưng vì vướng quân vụ, không thể thân hành ra đón được, xin giáo chủ thứ cho tội lỗi đó.

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

– Chúng ta đều là anh em trong một nhà, hà tất phải giở trò nghênh đón như thế làm chi, tất nhiên việc quân tình phải quan trọng chứ.

Ðêm hôm đó trong Nghênh tân quán thết đại tiệc, Thanh Hoà, Ðặng Dũ hai tướng tiếp rượu VôKỵ.

Rượu vừa uống được ba tuần thì Chu Nguyên Chương đã đem theo đại tướng Hoa Vân tới bàn tiệc quì ngay xuống đất vái lậy.

Vô Kỵ vội đứng dậy đì Chu Nguyên Chương lên.

Nguyên Chương tự rót rượu cung kính mời Vô Kỵ ba chén, VôKỵ uống cạn luôn.

Nguyên Chương lại mời Triệu Minh, Triệu Minh thấy lòng y như vậy cũng bưng chén uống cạn.

Trong khi ăn uống, VôKỵ hỏi đến quân tình của các bộ quân tài Nguyên Chương liền thưa những sự nghiệp và thành tích công thành lược trì như thế nào cho Vô Kỵ nghe.

Trong khi y nói, y tỏ vẻ rất đắc chí, Vô Kỵ khen ngợi luôn mồm.

Trong khi đang chuyện trò, đại tướng Liêu Vĩnh Trung lớn bước tiến vào trong sảnh, bái kiến giáo chủ xong rồi, rỉ tai Nguyên Chương khẽ nói:

– Ðã bắt được rồi.

Nguyên Chương nói:

– Hay lắm.

Lúc ấy, ngoài cửa bỗng có tiếng la lớn:

– Oan uổng… oan uổng…

Vô Kỵ nghe thấy tiếng đó, nhận ngay ra là Hàn Lâm Nhi, ngạc nhiên hỏi:

-Người đó chả là chú em họ Hân là gì? Có việc gì thế?

Nguyên Chương đáp:

– Thưa giáo chủ, tên họ Hân đã tư thông với bọn Thát Ðát định mưu phản dùng kế nội ngoại ứng hợp để phản bổn giáo.

Vô Kỵ thất kinh, liền hỏi lại:

– Chú em họ Hân là người trung thành, nhân nghĩa, sao lại có chuyện như thế? Mau đưa y vào đây cho tôi hỏi xem…

Chàng chưa nói dứt đã thấy đầu óc choáng váng, mặt mũi tối tăm, bất tỉnh nhân sự. Chờ tới khi thức tỉnh, chàng đã thấy tay chân của mình bị xiềng xích bốn chung quanh tối tăm như mực. Cũng may, chàng cảm thấy có một thân hình mềm mại đè lên trên ngực mình. Thì ra, Triệu Minh cũng bị trói chung với chàng, nhưng nàng chưa tỉnh. Chàng chỉ suy nghĩ một chút, đã biết Nguyên Chương phản mình. Chắc y đoán sau này Minh giáo thành sự thì chàng sẽ làm vua, cho nên y mới bỏ thuốc mê rất mạnh vào trong rượu lập kế ngầm giết hại chàng. Vô Kỵ thử vận hơi sức không thấy có gì khác lạ, võ công vẫn nguyên vẹn.

Chàng bỗng nghe thấy phòng bên có tiếng người nói:

– Chu đại ca, muốn thành đại sự thì đừng câu nệ tiểu tiết, cắt cỏ thì phải cắt tận gốc, đừng để hậu hoạn làm chi?

Chàng đã nhận ra tiếng nói của Từ Ðạt, Nguyên Chương lại nói tiếp:

– Nhưng dù sao tiểu tặc này cũng là thủ lãnh của chúng ta, chúng ta không nên vong ân, bội nghĩa như thế.

Chàng bỗng nghe thấy Thường Ngộ Xuân lên tiếng:

– Nếu đại ca sợ giết y, quân sẽ nổi loạn, chi bằng cứ lẳng lặng ra tay thì đại ca khỏi bị tai tiếng.

Nguyên Chương lại nói tiếp:

– Nếu Từ, Thường hai hiền đệ đã nói như vậy, thì cứ thế mà làm, nhưng ngày thường tiểu tặc rất có ân đức với bổn giáo, việc này đừng để tiết lộ ra bên ngoài mới được.

Ba người nói xong, liền đi ra ngoài.

Vô Kỵ thở nhẹ một cái, rờ tay thấy mẩu Ỷ Thiên Kiếm vẫn còn nguyên trong người, liền dùng Càn Khôn Ðại Nã Di thủ pháp rút luôn mẩu kiếm ấy ra cắt xiềng xích, cứu tỉnh Triệu Minh dậy, rồi lẳng lặng vượt tường mà ra.

Chàng đứng tựa vào tường, trong lòng cảm khái vô cùng và nghĩ thầm:

– Chu Nguyên Chương vong ơn bội nghĩa đã đành rồi, cả Từ, Thường hai vị đại ca thân ta như thế mà nay vì công danh, phú quí dám phản hại ta nữa. Ba người đều mang trọng trách trong nghĩa quân, nếu ta diệt chúng đi, chỉ sợ nghĩa quân sẽ giải tán hết. Ta, Trương VôKỵ, vốn dĩ không tham công danh phú quí, Từ đại ca và Thường đại ca hà tất phải coi rẻ ta như thế.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, chàng liền đem Triệu Minh cùng đi.

Chàng đi đến ngoài thành, viết một lá thơ thật dài, nhường ngôi giáo chủ Minh giáo cho Dương Tiêu, nhưng bên trong tuyệt nhiên không nhắc đến một chữ nào về chuyện mình bị bọn Chu Nguyên Chương hãm hại ở Hào Châu như thế nào.

Nhưng chàng có biết đâu Từ Ðạt và Thường Ngộ Xuân hai người không biết rõ mưu kế, tất cả mọi việc đều do Chu Nguyên Chương ngấm ngầm sắp đặt, mục đích làm cho Vô Kỵ chán nản tự rút lui.

Nên biết Chu Nguyên Chương rất sợ thần dũng của Vô Kỵ, nếu bảo y giết chàng quả thực y không dám, mà dù có thành sự, thì vạn nhất tiết lộ ra ngoài, hậu quả sẽ không thể nào tưởng được. Y vẫn biết xưa nay, Vô Kỵ chỉ coi việc phục quốc làm trọng, đối với Từ Ðạt, Thường Ngộ Xuân lại thân nhau như anh em ruột thịt, chỉ cần tiết lộ những lời phản trắc cho chàng ta hay, chàng ta cũng sẽ lẳng lặng bỏ đi ngay.

Quả nhiên tất cảmọi việc đều đúng với sự ước đoán của y.

Vô Kỵ tuy võ công cái thế vô địch thiên hạ thực, nhưng nói đến mưu kế thì chàng còn kém Chu Nguyên Chương rất xa, rốt cuộc chàng bị lọt vào kế của tên gian hùng nhất thời. Tuy Vô Kỵ không thèm thuồng ngôi báu thực nhưng từ đó trở đi hễ chàng nghĩ tới Từ Ðạt và Ngộ Xuân hai người vô ân bạc nghĩa như thế, trong lòng lại đau đớn khôn tả.

Còn việc Hàn Lâm Nhi thông đồng với quân Thát Ðát, mưu đồ phản loạn… cũng đều do Nguyên Chương bày đặt ra hết.

Thì ra, sau khi Hàn Sơn Ðông chết, anh em nghĩa quân liền bầu Hàn Lâm Nhi lên làm chủ.

Nguyên Chương, Từ Ðạt, Ngộ Xuân ba người biến thành thuộc hạ của Lâm Nhi.

Nguyên Chương giả tạo một lá thư của Lâm Nhi thông đồng với địch, rồi lại lén đút lót tên tâm phúc của Lâm Nhi cáo mật với Từ Ðạt và Thường Ngộ Xuân hay.

Từ Ðạt và Ngộ Xuân hai người tin liền, cương quyết diệt trừ Lâm Nhi, trái lại Nguyên Chương giả nhân giả nghĩa nhất định không chịu, sau thấy Từ Ðạt và Ngộ Xuân nói đi nói lại đôi ba phen y mới miễn cưỡng nhận lời.

Y giam Vô Kỵ và Triệu Minh vào phòng bên, cố ý để lại khí giới cho Vô Kỵ không lấy đi, để tiện cho chàng thoát thân đào tẩu.

Vô Kỵ đi rồi Nguyên Chương mới sai Vĩnh Trung ngấm ngầm đem Lâm Nhi ra sông trầm nước, do đó một tên bắn hai kim điêu của Nguyên Chương không lộ một chút vết tích nào.

Sau Dương Tiêu lên làm giáo chủ Minh giáo nhưng lúc ấy Nguyên Chương đã mọc đủ lông cánh rồi, Dương Tiêu lại tuổi già đức bạc, không sao tranh nổi ngôi đế vương với Nguyên Chương. Ðó là chuyện sau không nhắc đến nữa.

Hãy nói Triệu Minh thấy Vô Kỵ viết thư cho Dương Tiêu xong, bút hãy còn cầm tay, nhưng vẻ mặt không được vui, liền nói:

– Vô Kỵ đại ca, đại ca nhận lời làm cho tôi ba việc, việc thứ nhất là mượn Ðồ Long đao cho tôi, việc thứ hai là không kết hôn với Chu cô nương, hai việc ấy đại ca đã làm xong rồi, còn việc thứ ba, đại ca không thể thất tín với tôi được.

Vô Kỵ kinh ngạc vội hỏi lại:

– Cô… còn có việc gì tinh quái mà muốn tôi làm nữa?

Triệu Minh tủm tỉm cười đáp:

– Lông mày của thiếp quá nhạt, lang quân làm ơn vẽ lại cho thiếp, việc này không trái với đạo hiệp nghĩa của võ lâm đấy chứ?

Vô Kỵ cầm bút đó lên, vừa cười vừa đáp:

– Từ nay trở đi, Vô Kỵ này, ngày ngày sẽ vẽ lông mày cho ái thê.

Hết.