fbpx
skip to Main Content
Vovinam Schools
Le Sang Library
Vovinam Home
Vovinam University International

Cô Gái Đồ Long 2

Hồi thứ 21

Tiệc Chúc Thọ Bách Tuế

Thúy Sơn cũng không hiểu tại sao cả, liền hỏi Tố Tố:

– Hiền muội em đã dùng kim trâm ném y phải không?

Tố Tố đáp:

– Không. Không biết có phải y bị rắn độc cắn không?

Hạ lão tam liền nói:

– Không, không phải đâu là… là con của ngũ hiệp đánh một chưởng vào lưng tiểu nhân đấy.

Y nói xong, liếc mắt nhìn Vô Kỵ vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi.

Tố Tố nghe nói đắc chí lắm và hỏi Vô Kỵ:

– Có phải con đã đánh y như vậy không? Con giỏi thật, con tài ba lắm.

Thúy Sơn cũng lên tiếng nói:

– Vô Kỵ, con nên giải huyệt cho y được khỏi?

Chàng vừa hỏi xong, liền nghĩ thầm :

– Con mình điểm huyệt người ta mình là cha mà không biết giải cứu thật là buồn cười quá .

Nên chàng chỉ hỏi một câu chứ không hỏi tiếp nữa, Tố Tố vừa cười vừa nói:

– Con cha bảo con giải huyệt thì con nên ra giải huyệt cho tên nọ đi, để y được biết thủ đoạn của tiểu anh hùng Tạ Vô Kỵ lợi hại như thế nào?

Liên Châu lần đầu tiên nghe ba chữ Tạ Vô Kỵ trong lòng thắc mắc vô cùng, liền hỏi Thúy Sơn:

– Sao tên của y là Tạ Vô Kỵ?

Thúy Sơn đáp:

– Vâng, đứa con đầu lòng của em đã cho nghĩa huynh làm con nuôi, nên nó mang họ của nghĩa huynh.

Ba người nhìn Vô Kỵ, xem thằng nhỏ giải huyệt như thế nào nhưng Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Con không biết?

Thúy Sơn lại hỏi:

– Tại sao không biết?

– Nghĩa phụ chỉ day con đánh người, chứ không dạy con cứu người.

Y ngừng giây lát lại nói:

– Nhĩa phụ có dặn con rằng, dùng chưởng đánh trúng bốn yếu huyệt: Thái Dương, đại chùy, linh đài, đản trung của kẻ địch là sẽ toi mạng ngay. Con có hỏi nhĩa phụ cách cứu chữa, thì nghĩa phụ sầm nét mặt đáp:

– Thủ pháp đả huyệt này, chỉ có ta với con biết mà thôi, hà tất phải học cách cứu chữa làm gì? Nếu kẻ địch của con thật con đã ra tay đánh thì còn cứu chữa cho y làm chi? Chẳng lẽ cứu người ta để sau này người ta giết con hay sao?

Vợ chồng Thúy Sơn nghe Vô Kỵ nói, biết đúng là lời nói của nghĩa huynh mình, vì cả hai biết tính Tạ Tốn không ra tay thì chớ, nếu ra tay thì phải giết cho được kẻ địch mới nghe.

Hạ lão tam cũng là tay hảo hán, nghe Vô Kỵ nói vậy, liền xem vào:

– Dư nhị hiệp, Trương ngũ hiệp, tiểu nhân lập tâm bất lương tới đây bắt cóc công tử chẳng dè bị độc thủ của công tử đánh trúng, tiểu nhân đáng tội lắm. Mong hai vị ban cho một chưởng để tiểu nhân chết đi cho rảnh, chớ sống mà như thế này thì đau khổ không thể nào chịu được.

Liên Châu cau mày đáp:

– Tội của bạn chưa đến nỗi phải chết, cháu của mỗ còn nhỏ chưa biết gì, mỗ rất lấy làm ân hận, nhưng anh em mỗ thế nào cũng tận lực cứu cho bạn thoát nguy.

Nói xong, chàng liền ẳm Hạ lão tam vào trong khoang thuyền ngay rồi chàng quay lại hỏi Vô Kỵ:

– Con đã dùng chưởng pháp gì đánh ông già ấy thế?

Vô Kỵ thấy mặt Liên Châu nghiêm nghị trong lòng sợ hãi vừa khóc vừa nói:

– Cháu có cố ý đánh y đâu, y định thả rắn cắn cháu, cháu sợ quá.. cháu sợ quá..

Liên Châu thở dài, vội ẳm Vô Kỵ vào lòng và dùng tay aó lau nước mắt cho thằng nhỏ, rồi an ủi:

– Bác hai có trách gì cháu đâu? nếu người đó thả rắn độc ra cắn bác, thì bác cũng ra tay đánh y như cháu vậy.

Chàng an ủi rất lâu, Vô Kỵ mới chịu nín và nói:

– Nghĩa phụ cháu nói chưởng pháp đó là Giáng Long thập bát chưởng đã thất truyền trong võ lâm lâu năm rồi.

Liên Châu và vợ chồng Thúy Sơn nghe năm chữ Giáng Long thập bát chưởng đều thất sắc, Liên Châu liền đặt Vô Kỵ xuống đất. Thì ra chưởng pháp ấy là một môn võ tuyệt kỹ, nhờ đó Hồng Thất Công bang chủ cái bang hồi cuối đời Tống đã nổi danh khắp võ lâm. Với chưởng pháp đó mà môn đả cẩu bổng, Hồng Thất Công đã oai trấn thiên hạ. Các giới giang hồ nghe tới là táng đớm kinh hồn và cũng do đó mà Hông Thất Công đã trở nên một trong ngũ kỳ của võ lâm. Môn gậy đánh chó là của bang chủ cái bang, đời đời tương truyền cho tới ngày nay vẫn còn. Riêng có Giáng Long thập bát chưởng thì tự Hồng Thất Công chỉ truyền lại cho đệ tử là Quách Tỉnh thôi. đến đời Quách Tỉnh thấy trong hàng đệ tử không có nhân tài nào nên chàng không dạy cho ai cả.

Thần điêu đại hiệp Dương Qua tuy là bề tôi cháu của chàng nhưng vì y bị cụt một cánh tay, nên không sao học được môn chưởng pháp đó. Hơn một trăm năm nay, các tiền bối trong võ lâm chỉ nghe nói tới tên Giáng Long thập bát chưởng mà không ai được thấy chưởng pháp ấy sử dụng. Không ngờ Vô Kỵ lại học được của Tạ Tốn.

Liên Châu có vẻ không tin, liền nói:

– Có phải cháu đã dùng một thế trong Giáng Long thập bát chưởng đánh Hạ lão tam không?

Vô Kỵ đáp:

– Cái thế đó nghĩa phụ cháu gọi là Thần Long bái vĩ.

Liên Châu và Thúy Sơn có nghe sư phụ nói qua các tên thế võ trong Giáng Long thập bát chưởng và hình như có thế Thần Long bái vĩ này. Còn thế võ ra sao, thì không ai được biết cả. Nhưng Vô Kỵ tuổi hãy còn nhỏ mà chỉ thuận tay vỗ một chưởng đã đánh Hạ lão tam một hảo thủ trên giang hồ bị thương nặng thì dù chưởng pháp đó không phải là Giáng Long thập bát chưởng thì cũng không kém gì Giáng Long thập bát chưởng cả.

Thúy Sơn liền nói với Liên Châu:

– Trong những lúc nghĩa huynh của đệ đạy võ cho Vô Kỵ, vợ chồng đệ lánh xa nơi khác. Không ngờ anh ấy lại dạy thằng nhỏ thế võ thất truyền này.

Vô Kỵ liền tiếp lời:

– Nghĩa phụ cháu có nói :

– Nghĩa phụ chỉ học được có ba chưởng trong mười tám chưởng ấy, của một vị ẩn sĩ, nhưng nghĩa phụ nhận thấy sự biến hóa bên trong hơi sai lạc, nên có hỏi lại vị ẩn sĩ đó thì không ngờ vị ẩn sĩ đó cũng chỉ biết có thế thôi .

Liên Châu và Thúy Sơn ngẩn người ra nghĩ ngợi:

– Không ngờ chưởng pháp thíếu sót mà có oai lực mạnh đến thế đủ thấy thần oai của Hông Thất Công và Quách Tỉnh xưa kia lợi hại không sao tưởng được .

Tố Tố thấy con mình mới ra tay đã khiến ai nấy cũng phải kinh ngạc liền nghĩ thầm:

– Chắc sau này nó sẽ là một cao thủ trấn kinh khắp võ lâm cũng nên .

Nàng càng nghĩ càng hớn hở trong lòng, nên không để ý đến sư huynh đệ của Thúy Sơn.

Thúy Sơn lại nói:

– Tên họ Hạ kia đã ra tay định bắt cóc Vô Kỵ như vậy, chắc thế nào Mao Sơn bang cũng có người đến tiếp ứng. Cho bằng chúng ta sớm rời khỏi chốn này thì hơn.

Liên Châu đáp:

– Chính thế, còn riêng về lão Hạ, ngu huynh cho y uống đoạt mệnh thần tán, không biết y có thể sống được không?

Thế rồi, bốn người quay trở vào trong khoang, thấy Hạ lão tam hô hấp rất yếu và cứ mửa máu ra luôn.

Thúy Sơn liền quát mắng Vô Kỵ:

– Lần này vì đối phương giở những hành vi gian xảo, là do lỗi của y trước, mà cũng vì tình thế khẩn cấp, con hạ độc thủ như vậy, cha không khiển trách con. Nhưng từ giờ trở đi phải vạn bất đắc dĩ con mới được ra tay đánh người và không được tùy tiện sử dụng ba thế võ do nghĩa phụ con truyền dạy, nghe không?

Vô Kỵ liền nói:

– Con đã nhớ kỹ.

Y thấy mặt cha nghiêm nghị nên không sao nhịn được, liền khóc ré lên.

Lúc ấy người lái đò đã mua rượu thịt về tới, Liên Châu liền bảo y nhổ neo cho thuyền đi ngay.

Ăn cơm tối xong, liên châu liền xếp bằng tròn vận nội công để chữa vết thương cho hạ lão tam.

Tố Tố thấy vậy trong lòng bất mãn và nghĩ thầm. Ông già họ Dư này không khác gì đàn bà. Ðối xử với những kẻ hạ lưu trong giang hồ hà tất phải tốn công đến thế. Vứt quách y xuống sông cho cá ăn, có phải tiện không? Những quân giở trò quỷ quyệt hại người này còn để sống làm gì? Vả lại, giết những kẻ khốn nạn như thế có phải lạm sát người vô tội đâu?

Dùng nội công cứu y, dù có khỏi mình cũng tổn thương nguyên khí rất nhiều.

Ngờ đâu liên châu chữa hơn tiếng đông hồ, rồi Thúy Sơn lại tiếp tay. đến lúc trời sáng, Hạ lão tam không còn thổ huyết nữa và sắc mặt hong hào trở lại, Liên Châu thấy vậy vừa mừng vừa nói:

– Bây giờ bạn khỏi sợ chết rồi, nhưng khó phục hồi võ công.

Hạ lão tam vừa cám ơn vừa nói:

– Ôn đức của hai vị dù tới lúc chết, họ Hạ này cũng không dám quên. Bây giờ tiểu nhân không còn mặt mũi nào về yết kiến bang chủ nữa. Từ nay trở đi, tiểu nhân sẽ mai danh ẩn tích trở lại quê hương là nghề nông sinh sống, không ra lăn lộn ngoài giang hồ nữa.

Thuyền tới Khánh An, Hạ lão tam liền vái chào ba người, rồi lên bờ tìm lang y chữa trị thêm.

Hôm đó thuyền ngược dòng sông, lại gặp gió ngược nên đi rất chậm.

Thúy Sơn cách biệt sư phụ và các sư huynh đệ đã ngót mười năm nên nóng lòng muốn gặp gỡ ngay.

Tới An khánh, chàng định đi đường bộ cho nhanh hơn, nhưng Liên Châu vội khuyên bảo:

– Ngũ đệ, chúng ta cứ tiếp tục đi bằng thuyền đỡ bị sự lôi thôi rắc rối. Ngày nay, trên giang hồ có rất nhiều người muốn dò hỏi tung tích nghĩa huynh của đệ.

Tố Tố xen lời hỏi:

– Chúng em đi cùng với sư huynh, chẳng lẽ có người dám cản trở Dư nhị hiệp hay sao?

Liên Châu đáp:

– Bảy anh em chúng ta nắm tay hợp sức thì bọn chúng không dám cản trở, chớ riêng mỗ với ngũ đệ thì làm sao địch lại bao nhiêu cao thủ tới tấp đến chất vấn? Huống hồ chúng ta chỉ mong việc này được dàn xếp ổn thỏa, hà tất phải kết nhiều thù oán!

Thúy Sơn gật đầu đáp:

– Nhị ca nói rất phải.

Thuyền đi được mấy ngày đã tới Võ Huyệt, tỉnh Hồ Bắc.

Tối hôm đó, thuyền đậu ở Phúc Trì khẩu mọi người định nghỉ đêm ở đó, sáng mai khởi hành sớm.

Liên Châu bỗng nghe có tiếng ngựa hí và tiếng vó ngựa dồn dập từ xa vọng tới, liền ló đầu ra ngoài khoang thuyền thì thấy có hai người cỡi ngựa tới bờ sông, rồi quay lưng lại chạy về phía thị trấn, nhưng chân tay chúng rất lanh lẹ đủ thấy chúng là những tay võ công cao siêu. Chàng bèn quay lại nhìn Thúy Sơn và nói:

– Nếu chúng ta còn đậu thuyền ở đây thế nào cũng có chuyện không hay xảy ra, chi bằng bảo người lái đò nhổ neo đi tốt hơn.

Thúy Sơn đáp:

– Vâng.

Chàng nhìn thấy Liên Châu chu đáo như vậy, chàng vui mừng vô cùng.

Phải biết từ khi Võ Ðang thất hiệp hạ sơn hành hiệp tới giờ, võ công cao siêu, hành sự chính đáng, nên chỉ người khác thấy anh em họ là phải xa lánh, chú chưa bao giờ thất hiệp phải lánh mặt ai cả.

Nhứt là trong mấy năm gần đây, tiếng tăm của Liên Châu lại càng lẫy lừng hơn trước nhiều.

Ngay đến người trưởng môn phái Côn Luân hay không động thấy chàng cũng không dám thất lễ. Nhưng lần này, mới thấy bóng hai tên vô danh tiểu tốt chàng đã bắt nhổ neo ra khỏi Phúc Trì Khấu ngay.

Thúy Sơn cũng biết sư ca mình làm như vậy là vì muốn gia đình mình được an toàn.

Liên Châu liền gọi người lái đò tới, thưởng cho 5 lạng bạc và bắt nhổ neo lên đường ngay.

Tuy mỏi mệt, nhưng người lái đò thấy được thưởng tiền cả mừng nhổ neo đi ngay.

Ðêm hôm đó, trăng thanh gió mát, Vô Kỵ đã ngủ say, Liên Châu va vợ chồng Thúy Sơn uống rượu thưởng trăng.

Ba người đang nhìn mặt sông mênh mông thì Thúy Sơn bỗng lên tiếng:

– Ngày chúc thọ bách tuế của ân sư sắp tới nơi rồi, tiểu đệ vừa về tới kịp dự buổi chúc thọ hiếm có trong võ lâm này. Như vậy trời xanh vẫn còn thương tiểu đệ lắm.

Tố Tố tiếp lời:

– Chỉ tiếc rằng chúng ta vừa mới về tới nơi, chân ướt chân ráo không kịp sửa soạn lẽ vật để chúc thọ ân sư.

Liên Châu vừa cười vừa nói:

– Tức muội có biết trong bảy anh em chúng tôi ai là người được ân sư cưng nhất không?

Tố Tố đáp :

– Trong mấy anh em, có lẽ nhị sư huynh là người được ân sư thương nhất.

Liên Châu tủm tỉm cười và trả lời, Tức muội đã dối lòng. Sự thực tức muội biết rõ ai là người được ân sư cưng nhất nhưng cố ý nói sai. Trong bảy anh em chúng tôi chỉ có phu quân anh tuấn của tức muội là được sư phụ ngày đêm nhắc nhở tới luôn.

Tố Tố trong lòng mừng thầm, nhưng cố ý lắc đầu đáp:

– Em không tin.

Liên Châu lại nói tiếp:

– Trong bảy anh em, mỗi người một sở trường. Ðại sư ca giỏi về dịch lý, tính nết giản dị và biết nghĩ xa. Tam sư đệ là người tinh minh cường tráng, sư phụ giao cho việc gì là chú ấy không làm lỡ một lần nào cả. Tứ sư đệ là người khôn ngoan hơn người, lục sư đệ kiếm thuật rất tinh xảo, thất sư đệ mấy năm gần đây chuyên luyện võ công ngoại môn, sau này có lẽ chỉ có chú ấy là người kiêm cả nội ngoại công.

Tố Tố vội hỏi:

– Thế còn nhị sư ca?

– Tôi ngu dốt đần độn, chả có gì là sở trường cả, chỉ chăm chỉ luyện tập võ công của ân sư truyền dạy mà thôi.

Tố Tố vỗ tay nói:

– Nhị sư ca là người giỏi võ nhất trong Võ Ðang thất hiệp mà lại cứ khiêm tốn, không chịu nhận. Chỉ nội công tinh đó anh đã kém nhị ca xa rồi.

Liên Châu liền đáp:

– Trong bảy anh em, chỉ có một mình chú là văn võ toàn tài. để anh nói cho tức muội nghe câu chuyện bí mật này. Năm năm trước đây, vào ngày chúc thọ sư phụ chín mươi lăm tuổi trong lúc các sư huynh đệ đang chúc thọ thì ân sư bỗng tỏ vẻ không vui nói: “Trong bảy đệ tử của ta, chỉ có Thúy Sơn là thông minh hơn hết, và cũng là người văn võ toàn tài nữa, ta định để cho y làm chức trưởng môn sau này. Hà, chỉ tiếc rằng y bạc phúc, đã mất tích , không biết có còn sống nữa hay không?” Ðấy tức muội xem, có phải là ân sư cưng ngũ đệ nhất không?

Thúy Sơn cảm động vô cùng, nước mắt ứa ra, Liên Châu nói tiếp:

– Bây giờ ngũ đệ được bình an trở về thì lễ vật chúc thọ ân sư không gì hơn hai chữ “bình yên”.

Chàng vừa nói tới đây, bỗng nghe có tiếng vó ngựa.

Tiếng vó ngựa đó từ phía Tây, trong đêm tối lại càng nghe rõ thêm và cả ba cũng nhạn ra có bốn con ngựa đang phi tới.

Ba người nhìn nhau, biết bốn người cưỡi ngựa đó thế nào cũng có liên quan đến bọn mình.

Tuy ba người không muốn gây sự nhưng họ có phải là người yếu hèn, nhút nhát đâu, Liên Châu lại nói:

– Lúc này lúc tôi xuống núi, sư phụ đang bế quan tu luyện võ công có lẽ chúng ta trở về núi Võ Ðang thì ân sư khai quan rồi cũng nên.

Tố Tố nói tiếp:

– Năm xưa, cha em chỉ khâm phục có tôn sư Trương chân nhân và Kiến Văn Trí Tính bốn vị cao tăng của phái Thiếu Lâm. Trương chân nhân năm nay đã bách tuế, võ công cao siêu quả thật trong đời này không ai hơn được. Hiện giờ chân nhân lại còn bế quan luyện tập chẳng hay có phải luyện trường sinh bất lão không?

Liên Châu đáp:

– Không phải, ân sư bế quan để luyện võ.

Tố Tố hơi kinh hãi và hỏi tiếp:

– Võ công của chân nhân đã cao siêu quá mức chẳng hay còn luyện tập thêm môn gì nữa?

Chẳng lẽ trên đời này có người giỏi hơn chân nhân phải luyện võ công để đối địch hay sao?

Liên Châu đáp:

– Từ năm ân sư ta chín mươi lăm tuổi trở đi, thì năm nào cũng bế quan chín tháng. An sư vẫn thường nói: “Võ công của phái Võ Ðang chúng ta chủ yếu là bộ Cửu Dương chân kinh, nhưng năm xưa, lúc ta nghe Giác Viễn tổ sư đọc cuốn chân kinh này thì tuổi hãy còn nhỏ nên không nhớ hết được, vì thế võ công của bổn môn vẫn còn khiếm khuyết”. Theo lời ân sư thì cuốn Cửu Dương chân kinh truyền từ Ðạt Ma lão tổ nhưng bên trong còn rất nhiều chỗ sơ hở, hình như lần đó Giác Viễn tổ sư mới đọc được có nửa bộ thôi, phải chi có thêm nửa bộ nữa thì võ công của phái chúng ta rất hoàn hảo.

Bây giờ biết đi đâu để kiếm nữa cuốn Cửu Dương chân kinh kia? Vả lại không biết có nửa cuốn chân kinh nữa hay không? điều này không ai biết cả, Ðạt Ma lão tổ là một kỳ nhân xuất thế ra đời ở nước Thiên Trúc, thông minh và tài trí của ân sư chúng ta chưa chắc đã kém Ðạt Ma lão tổ, . Nên ân sư đã nói : “Ta không kiếm được nửa cuốn chân kinh chẳng lẽ không sáng tạo ra được nước võ công để điền vào những sơ hở trước hay sao?” vì thế hàng năm ân sư cứ bế quan để nghĩ ngợi và sáng tác chỉ mong tập hợp được những võ công của thiên hạ, hun đúc thành võ công riêng của phái chúng ta.

Thúy Sơn và Tố Tố nghe Liên Châu nói như vậy, đều tắc lưỡi khen ngợi .

Liên Châu lại tiếp:

– Năm xưa, lúc Giác Viễn tổ sư truyền Cửu Dương chân kinh có tất cả ba người đứng quanh đó để nghe: đó là ân sư, Vô sắc đại sư của phái Thiếu Lâm và Quách Tường nữ hiệp tổ sư của phái Nga My. Sự thông minh và hiểu biết của ba người khác nhau, nên sự thành công của ba người sai biệt rất nhiều. Nói về võ công thì Vô Sắc đại sư cao hơn hết, còn Quách nữ hiệp là con gái Quách Tỉnh đại hiệp và Hoàng Dung nữ hiệp nên tài học nàng rất uyên bác. Còn sư phụ chúng ta, võ công chưa có căn bản, nhưng nhờ thế mà ân sư của chúng ta lại học những võ công tinh thuần nhất. Cho nên Thiếu :âm . Nga Mi, Võ Ðang, một phái thì cao siêu, một phái thì uyên bác một phái thì tinh thuần. Cả ba phái đều có sở trường sở đoản.

Tố Tố lại hỏi:

– Theo như lời nhị ca thì võ công của Giác Viễn Thiền sư cao tới mức không thể tưởng tượng được phải không?

Liên Châu đáp:

– Không. Giác Viễn Thiền sư hoàn toàn không biết chút võ công nào cả. Ông là một người trông nom kinh kệ trên Tàng Kinh các lại là một con mọt sách, rất thích đọc các kinh kệ, nên đã thuộc long tất cả những kinh tàng trữ trên Tàng Kinh các. Ông ngẫu nhiên đọc tới cuốn Cửu Dương chân kinh, liền đem cuốn kinh đó đọc lại cho ba người nghe còn những võ công tinh thâm trong cuốn kinh đó ra sao thì ông không biết.

Thế rồi chàng đem chuyện Cửu Dương chân kinh thất lạc kể cho Tố Tố nghe.

Chuyện này Thúy Sơn đã nghe sư phụ kể, nhưng Tố Tố mới nghe lần đầu nên thích thú vô cùng.

Ngày thường Liên Châu rất ít nói. Có khi mấy ngày liền chàng không mở miệng một lần, nhưng từ hôm gặp lại Thúy Sơn có lẽ vì anh em xa cách lâu năm bây giờ mới tái ngộ nên lòng riêng hoan hỉ chăng mới nói luôn miệng.

Ðã hơn mười ngày qua chàng mới thấy bản tính Tố Tố không phài là người ác độc, chỉ vì gần mực thì đen gần đèn thì sáng, từ bé cho đến lớn, tai nàng nghe mắt nàng thấy toàn những chuyện tà ác nên trước kia nàng mới hung tợn. Nhưng từ khi nàng làm vợ Thúy Sơn trong mười năm liền, tính cách đã biết đổi rất nhiều.

Liên Châu càng ngày càng thấy nàng là người ngây thơ và thành thực, còn hơn những người hủ hoá ở các danh môn chính phái nhiều. Nên lúc này chàng mới đối xử với Tố Tố thân tình coi như là một đệ phu.

Thúy Sơn thấy sư ca đang cao hứng thao thao bất tuyệt kể chuyện xưa cho vợ chồng mình nghe nên định hỏi về võ công của sư phụ tiến triển ra sao , bỗng có tiếng vó ngựa từ phía đông vọng tới.

Không bao lâu tiếng vó ngựa chạy tới cạnh thuyền rồi lướt qua, đi thẳng về phía Tây.

Thúy Sơn giả vờ như không nghe thấy cả, hỏi Liên Châu:

– Nhị ca nếu ân sư chúng ta mời các cao thủ của phái Thiếu Lâm và Nga my đến để cùng nghiên cứu lấy sở trường của người bổ khuyết sở đoản của mình có phải võ công sẽ được tiến bộ nhanh không?

Liên Châu nghe nói vỗ tay vào đùi rồi nói:

– Phải đấy, thảo nào sư phụ bảo là sau này chú sẽ là người thừa kế vị trưởng môn của phái chúng ta. Quả thật ân sư sành sỏi biết bao.

Thúy Sơn liền đỡ lời:

– Chỉ vì tiểu đệ vắng mặt nên ân sư mới nhớ nhung mà dạy như vậy. Bao giờ người mẹ hiền cũng thương nhớ đứa con đi xa, hơn là những đứa con hiếu ở bên cạnh. Sự thật võ công của tiểu đệ kém đại ca, nhị ca và tứ ca rất xa, còn so với lục đệ và thất đệ tiểu đệ cũng không hơn hai chú áy là bao.

Liên Châu lắc đầu đáp:

– Ngũ đệ nói vậy không đúng sự thực chút nào. Vẫn biết bây giờ võ công của hiền đệ không bằng ngu huynh thật, nhưng hiền đệ sẽ là người thừa kế gánh vác trọng trách làm rạng rỡ võ học của phái ta, nên ân sư vẫn thường nói “Thiên hạ bao la, sự vinh nhục của một phái Võ Ðang có nghĩa lý gì đâu , nhưng ta có thể nghiên cứu hết được sự huyền ảo và bí quyết của võ học rồi truyền cho người một cách thận trọng khiến võ công của chính nhân quân tử cao siêu đến mức mà tà ác tiểu nhân không sao theo kịp. Tiến thêm một bước, ta giao kết vói tất cả nhân sĩ trong thiên hạ rồi cùng nhau xua đuổi quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi giành lại giang sơn cho dân tộc ta. Như vậy mới phải là phận sự của người học võ như chúng ta”

Vì thế ân sư kén chọn người kế vị chú trọng tâm thuật sau mới đến thông minh. Nói đến tâm thuật, thì trong bảy anh em chúng ta, không ai hơn ai kém ai, riêng thông minh thì phải công nhận là hiền đệ hơn cả.

Thúy Sơn xua tay nói:

– Theo tiểu đệ nghĩ, lúc ấy ân sư vì quá nhớ tiểu đệ nên nhất thời cao hứng mà nói vậy thôi.

Sự thật ân sư có định tâm như vậy, tiểu đệ cũng không dám táo gan nhận đâu.

Liên Châu bỗng mỉm cười và nói với Tố Tố:

– Tức muội hãy vô trông nom cho Vô Kỵ, đừng để nó hãi sợ, bên ngoài đã có ngu huynh và ngũ đệ rồi.

Tố Tố ngước mắt lên nhìn về phía xa, dò xét coi có động tính gì không, nhưng nàng thấy bốn bề vấn yên lặng, trong lòng đang hoài nghi thì Liên Châu lên tiếng tiếp, Trong bụi cây trên bờ có những ánh sáng khí giới lấp lánh thế nào bên trong cũng có người đang mai phục. Còn trong đại lao ở phía trước, thế nào cũng có thuyền của đối phương ẩn núp.

Tố Tố rảo măt nhìn chung quanh, vẫn không thấy động tịnh gì, nàng bèn nghĩ thầm :

– Có lẽ mắt bác hai bị hoa chăng?

Nàng còn đang nghĩ, bỗng nghe Liên Châu lớn tiếng nói:

– Dư nhị và Trương ngũ của phái Võ Ðang qua ngang quý gia, có gì sơ suất hay thiếu lễ phép, xin quý vị tha thứ cho, chẳng hay bạn nào có hứng thú xin mời xuống thuyền uống chén rượu với chúng tôi.

Chàng vừa nói xong, Tố Tố đã nghe trong bụi lau có tiếng mái chèo đang bơi rồi thấy có sáu chiếc thuyền nhỏ lướt ngang giữa dòng sông.

Bỗng có một người đứng trên mái thuyền bắn một cây tên hiệu lên trời.

Trong bụi cây ở bờ phía Nam, liền có mười mấy người ăn mặc võ phục mày đen, tay cầm khí giới mặt đều bao trùm khăn đen, lần lượt xông ra.

Lúc ấy Tố Tố mới phục Liên Châu vô cùng nghĩ thầm:

– Thảo nào anh ấy lừng lẫy giang hồ. Bây giờ ta mới chứng kiến, quả thật danh bất hư truyền .

Nàng vừa nghĩ vừa đưa mắt nhìn thấy kẻ địch khá đông, vội chạy vào khoang thuyền thì thấy Vô Kỵ đã thức dậy.

Nàng vội mặc quần áo cho con và khẽ nói:

– Con ngoan, đừng sợ gì cả, nghe!

Liên Châu lại lên tiếng:

– Các vị phía trước mặt là những bạn nào thế? Chúng tôi là Dư nhị và Trương ngũ của phái Võ Ðang có lời thăm quý vị.

Nhưng trong sáu chiếc thuyền nhỏ chỉ thấy có một chiếc sau cùng là có người cầm lái lộ mặt thôi, còn trên những chiếc thuyền kia, không có một ai cả.

Liên Châu bỗng tỉnh ngộ và lớn tiếng nói:

– Nguy tai.

Rồi chàng nhảy ùm xuống dưới sông. Chàng vốn sinh trưởng ở vùng Giang Nam nơi có nhiều sông ngòi, nên bơi lội rất giỏi.

Chàng vừa lặn xuống nước đã thấy bốn đại hán tay nắm dùi đục đang lặn dới nước và bơi tới.

Hiển nhiên chúng định đi đục thuyền để bắt sống người.

Liên Châu mỉm cười, ẩn mình cạnh thân thuyền chờ bốn người nọ bơi tới gần, vội phóng hai tay ra điểm huyệt của hai người trong bọn, đồng thời chàng giơ chân ra đá trúng yếu huyệt của người thứ ba.

Người thứ tư thấy vậy định quay đầu bỏ chạy nhưng Liên Châu đã vươn tay trái ra, chộp lấy cổ chân của tên đó và vứt lên mạn thuyền.

Chàng nghi rằng ba tên bị điểm huyệt thế nào cũng chết đuối dưới nước nên chàng vội bơi tới chộp từng tên một vứt lên trên thuyền luôn thể rồi mới nhảy lên sau.

Ðại hán thứ tư vừa bị tung lên mũi thuyền lăn một vòng rồi tung mình nhảy lên ném mũi dùi đục đâm thẳng vào người Thúy Sơn.

Thấy võ công của y tầm thường, Thúy Sơn không thèm tránh né chỉ giơ tay trái lên khoa một cái, đã chộp được cổ tay đang cầm dùi đục của tên nọ.

Tiếp theo đó chàng dung khủy tay trái khẽ thúc vào ngực hắn một cái, tên ấy chưa kịp kêu la đã ngã lăn ra.

Liên Châu liền nói :

– Hình như trên bờ còn mấy tay hảo thủ, nhưng mặc chúng cứ việc cho thuyền đi.

Thúy Sơn gật đầu, liền bảo người lái đò cứ cho thuyền tiến lên. Nhưng lúc ấy ngược gió và nước ngược nên thuyền đi rất chậm. Lúc thuyền đi tới sáu chiếc thuyền nho, Liên Châu liền xách bốn đại hán kia giải huyệt cho chúng rồi vứt trả sang thuyền nọ. Có điều lạ là những người tren thuyền nhỏ nọ không lên tiếng thì chớ cả mười mấy người áo đen ở tren bờ cũng không nói nửa lời, hình như người nào cũng câm cả. Bốn tên nọ chui cả vào trong khoang rồi mất dạng luôn.

Trong khi thuyền của bọn Thúy Sơn qua ngang sáu chiếc thuyền nhỏ, đột nhiên tên cầm lái ném hai trái gì tới, chỉ nghe “bùng bùng ” hai tiếng, là những mảnh gỗ vỡ bắn tung tóe, thuyền của bốn người bị vỡ thân thuyền bị thủng, nước chảy vào như thác. Thì ra tên lái đò đó ném hai trái ngũ phão mà những người đánh cá thường dùng đi giết cá. Liên Châu không nói gì cả, nhẹ nhàng nhảy sang thuyền đối phương, hai bàn tay không. Tên lái đò cầm mái chèo, nhìn thẳng về phía trước, thấy Liên Châu nhảy qua mà vẫn không them đếm xỉa tới.

Liên Châu liền quát:

– Ai vừa ném hai trái ngũ pháo?

Tên lái đò vẫn cứ đứng thừ ra, không trả lời.

Liên Châu biết tên đó giả vờ câm điếc, liền xông vào trong thuyền thì thấy có hai tên đại hán đang ngồi đối diện.

Chúng thấy chàng vào vẫn ngồi yên không cử động và cũng không tỏ vẻ nghênh địch. Liên Châu túm lấy cổ một tên xách lên quát:

– Thủ lãnh của các người đâu?

Người nọ nhắm mắt không trả lời, Liên Châu là cao thủ hàng nhất trong võ lâm nên chàng không muốn dùg võ lực tra khảo bèn quay trở về thuyền mình thì đã thấy Thúy Sơn bế Vô Kỵ nhảy sang thuyền nhỏ rồi.

Liên Châu cướp luôn cái mái chèo của tên lái đò bơi thuyền đi.

Chàng vừa bơi được mấy cái, Tố Tố đã la lớn:

– Bọn giặc đang tháo nước chảy vào thuyền.

Nàng vừa nói xong, nước sông đã cuồn cuộn chảy vào. Thì ra những chiếc thuyền đó bên dưới có những nút gỗ, bọn giặc chỉ việc tháo ra là nước chảy vào trong khoang ngay.

Liên Châu liền nhảy sang chiếc thuyền thứ hai, nhưng hai chiếc này cũng đã ngập nước đầy khoang rồi.

Chàng quay lại nói:

– Thôi chúng ta lên bờ đi.

Mười mấy tên đại hán áo đen ở trên bờ đã đứng xếp hàng hình bàn nguyệt, chờ bốn người vừa lên bờ liền xúm lại bao vây.

Liên Châu thấy những người đó đa số cầm trường kiếm một số tên dùng song đao hay nhuyễn tiên, không tên nào dùng khí giới nặng, Liên Châu khoanh tay đứng yên đưa mắt nhìn tả hữu một vòng, vẻ mặt lạnh lùng, không nói nửa lời.

Một đại hán áo đen đứng ở giữa giơ tay lên ra hiệu, những tên kia liền đứng sang hai bên cúi đầu khẽ vái chào, chĩa mũi kiếm xuống, hành lễ một cách cung kính, rồi nhường lối cho Liên Châu đi.

Liên Châu đáp lễ xong, liền nghênh ngang đi thẳng.

Bọn đại hán áo đen chờ Liên Châu qua khỏi thì bọn đó liền vây bọn Thúy Sơn ba người và giơ mũi kiếm lên định tấn công.

Thúy Sơn thấy vậy ha hả cười và nói:

– Thế ra quý vị định đối phó với Trương mỗ đây? Nhưng các vị bày trận lớn như thế này thì quả là coi trọng Trương mỗ quá.

Một tên đại hán áo đen trong bọn chần chờ giây lát, rồi buông xuôi mũi kiếm xuống tránh sang bên nhường lối cho Thúy Sơn đi nữa.

Thúy Sơn vội quay lại nói:

– Tố Tố em hãy đi trước.

Tố Tố ẳm Vô Kỵ định đi, bỗng nghe có tiếng gió khua động, năm mũi trường kiếm đã chĩa thẳng vào Vô Kỵ.

Tố Tố giật mình lùi về phía sau mấy bước.

Năm người nọ nhanh bước đuổi theo năm mũi kiếm cứ bao vây lấy người Vô Kỵ.

Liên Châu nhún chân một cái nhảy vượt qua đầu mọi người hai tay liên tiếp đập bốn cái trúng vào cổ tay của bốn người áo đen.

Bốn thanh trường kiếm cùng một lúc tung lên. Tiếp theo đó, chàng dung tay trái nắm lấy cổ tay của người thứ năm thấy rất mềm mại, hình như đó là một thiếu nữ.

Trong lúc chàng nắm tay người đó thì ngón tay giữa của chàng đã thuận thế điểm luôn huyệt của địch. Tới khi chàng phát giác người đó là thiếu nữ liền buông tay ra.

Nhưng cổ tay của người nọ đã tê tái và trường kiếm rơi ngay.

Năm người áo đen vội lùi ra tức thì. Tiếp theo đó, có hai người khác ở tả hữu đâm tới, đều dùng thế kiếm đại ma bình sa, Liên Châu thấy vậy, nghĩ thầm: “Ðây là kiếm pháp của phái Côn Luân, thì ra bọn người này là thủ hạ của phái Côn Luân đấy? ”

Nghĩ đoạn chàng chờ mũi kiếm cách ngực chừng ba tấc mới thót ngực lại để tránh, rồi giơ hai tay lên dùng ngón tay khẽ gõ vào hai thanh kiếm của đối phương. Hai cái gõ ấy trông rất nhẹ nhàng, nhưng Liên Châu đã dùng Võ Ðang tâm pháp dồn hết sức và hai ngón tay.

Từ khi những người bơi sáu chiếc thuyền ra ngăn cản, và những người ở trên bờ song ra bao vây bọn Thúy Sơn đến giờ, chưa hề nghe ai lên tiếng cả. Chỉ có lúc này người chịu đựng không nổi sức lực của Liên Châu, mới lên tiếng kêu “ối chà” thôi. Nhưng giọng nói của y rất thanh thoát, nên bọn Thúy Sơn cũng nhận ra ngay người đó là thuộc phái yếu.

Người áo đen đứng giữa thấy Liên Châu lợi hại như vậy, vội giơ tay trái lên phất một cái, các người kia quay mình chạy ngay, chỉ trong chốc lát đã biết mất dạng.

Bọn chúng người nào người náy cũng mảnh khảnh hiển nhiên là đàn bà giả dạng đàn ông.

Liên Châu liền lớn tiếng theo:

– Dư nhị, Trương ngũ gởi lời hỏi thăm Thiết Cầm tiên sinh và xin thứ lỗi cho sự vô lễ này.

Họ không trả lời, chỉ văng vẳng có tiếng cười vọng lại thôi.

Nhưng tiếng cười đó cũng rõ ràng là tiếng cười của đàn bà.

Tố Tố đặt Vô Kỵ đứng xuống đất tay vẫn còn nắm chặt tay con và nói:

– Những người đó đa số là đàn bà con gái, có phải là môn hạ của phái Côn Luân hay không, thưa sư huynh?

Liên Châu đáp:

– Không, họ là phái Nga My đó .

Tố Tố ngạc nhiên hỏi:

– Thế tại sao vừa nãy nhị ca lại hỏi thăm Thiết Cầm tiên sinh làm gì?

Liên Châu thở dài một tiếng:

– Từ đầu chí cuối họ không nói một tiếng nào, mặt họ lại bịt khăn đen, như vậy đủ tháy họ không chịu cho người ta biết rõ mặt thật. Họ dùng mũi kiếm chỉ vào cháu Vô Kỵ là họ đã sử dụng Hàn Mai kiếm trận của phái Côn Luân. Về sau, hai người lại dùng thế kiếm đại mạc bình sa của phái Côn Luân đâm ngu huynh. Họ đã giả mạo là phái Côn Luân thì ta cũng giả bộ không biết mà hỏi thăm Thiết Cầm tiên sinh, trưởng môn của họ.

Tố Tố lại hỏi:

– Sao nhị ca biết họ là môn hạ của phái Nga Mi? Nhị ca có quen biết người nào trong đó không?

Liên Châu đáp:

– Không. Những người đó công lực rất tầm thường, có lẽ họ là những đồ tôn của Diệt Tuyệt sư thái, trưởng môn phái Nga Mi, tức là đệ tử đời thứ tư của phái Nga my thì ngu huynh làm sao biết được họ. Nhưng họ đã dùng nhu kình để hoá giải chỉ lực của ngu huynh, như vậy họ đã cho chúng ta thấy họ sử dụng tâm pháp của phái Nga my. Mặc dầu họ đã dùng trận pháp của phái khác để lừa dối chúng ta nhưng tới khi họ giở nội lực ra thì ngu huynh biết ngay họ là môn phái nào liền.

Thúy Sơn gật đầu nói:

– Vừa rồi nhị ca dùng ngón tay đánh vào hai thanh kiếm của họ nếu chúng vứt kiếm đi thì chỉ bị thương nhẹ thôi. Nội công của phái Nga Mi rất lợi hại, nhưng chưa tới lúc vận động mà họ đã đem ra sử dụng ngay, gặp cao thủ giỏi hơn họ là họ thất bại liền. Nếu vừa rồi nhị ca coi hai nàng đó là kẻ địch chính thức thì hai nàng ấy phải phơi xác tại đây. Nhưng phái Nga Mi với chúng ta xưa nay không có thù oán gì cả nên nhị ca không nỡ hạ độc thủ.

Liên Châu gật đầu và tiếp:

– Hồi xưa ân sư đã được Quách Tường nữ hiệp, tổ sư phái Nga Mi giúp đỡ nhiều, vì thế lúc nào ân sư cũng dặn bảo anh em chúng ta, đừng nên gây thù oán vói các đệ tử Nga Mi để bảo tồn tình giao hữu xưa kia. Vừa rồi, ngu huynh dùng ngón tay đánh vào hai thanh kiếm của họ, bỗng thấy họ sử dụng nhu kình liền biết ngay họ là người của phái Nga Mi.

Tố Tố vừa tiếp:

– Cũng may về sau nhị ca nói xin lỗi Thiết Cầm tiên sinh như vậy không phải chúng ta đã chính thức thất lễ với Nga Mi.

Lúc ấy chiếc thuyền của mấy người đã bị quay lái, trôi xuống miền xuôi mất dạng. Còn sáu chiếc thuyền kia đã chìm đắm.

Các tay lái bị ướt như chuột lột, đang lóp ngóp bơi vào bờ.

Tố Tố liền lên tiếng hỏi.

– Những người này có phải môn hạ của phái Nga Mi không?

Liên Châu khẽ đáp:

– Bọn này là người của Lương Thuyền bang ở Sào Hồ.

Tố Tố cúi nhìn năm thanh trường kiếm đang nằm dưới đất định nhặt lên xem.

Liên Châu ngăn lại và nói:

– Tức muội chớ đụng vào khí giới của bọn họ. Nếu cán kiếm có khắc rõ phái Nga Mi thì sau này chúng ta không thể thoái thác được là không hay họ là người môn phái nào. Thôi chúng ta đi ngay đi.

Tố Tố thấy Liên Châu xử sự như vậy trong lòng vô cùng thán phục liền vâng lời, dắt tay Vô Kỵ tiến thẳng lên con đường lớn bên cạnh bờ sông mà đi ngược lên.

Vô Kỵ mừng rỡ la lớn:

– Có ngựa , có ngựa mọi người thấy dưới gốc cây liếu cách nơi đó hơn mười trượng có ba con ngựa đang cột ở đó.

Ở Băng Hỏa đảo chưa hề thấy ngựa khi tới trung thổ nó cứ muốn được cưỡi ngựa đi chơi, nhưng suốt dọc đường cứ phải đi thuyền nó bực bội vô cùng.

Bốn người đi gần tới ba con ngựa, thấy trên cành liễu có dán một tờ giấy.

Thúy Sơn vội lấy tờ giấy đó xuống xem, thấy trên giấy viết :

– Xin kính tặng quý vị ba con ngựa để chuộc tội phả hủy chiếc thuyền .

Liên Châu liền nói:

– Không ngờ bọn họ cũng biết điều.

Thế rồi ba người cởi dây buộc ngựa ra.

Thúy Sơn Liên Châu mỗi người một con.

Còn Tố Tố thì cưỡi chung với Vô Kỵ.

Thúy Sơn nói:

– Ðằng nào hành tung của chúng ta cũng đã lộ rồi. Ngồi thuyền hay đi ngựa cũng thế thôi.

Liên Châu đáp:

– Phải đấy, thế nào trên đường cũng xảy ra lôi thôi rắc rối nữa, nhưng bất đắc đĩ chúng ta mới ra tay, nhưng chớ nên đánh mạnh quá.

Vì vừa rồi chàng vô ý đả thương hai môn hạ của phái Nga Mi trong lòng cứ thấy áy náy, Tố Tố cũng lấy làm hổ thẹn và nghĩ thầm:

– Sư ca mới ra tay hơi nặng một chút chớ không phải có ý định đả thương người. Ðem so với ta, năm xưa giết người bừa bãi môn hạ của Thiếu Lâm, thì sự lỗi lầm này của ta quả thật nặng nề. Ta đã trót làm thì ta phải chịu đựng lấy, sau này không nên để cho sư ca gánh thế cho nữa .

Ðoạn nàng liền tiếp:

– Thưa sư ca, nước người định gây sự lôi thôi là do ở vợ chồng chúng em cả. Còn đối với sư ca thì họ cung kính lắm. Từ giờ trở đi, nếu có ai cản trở thì sư ca để cho em đối phó. Nếu em địch không lại chúng lúc ấy em sẽ mời sư ca ra tay giúp.

Liên Châu đáp:

– Sao tức muội nói vậy. Chúng ta là anh em thì phải đồng sinh đồng tử, sao tức muội lại phải phân biệt ra như thế làm gì?

Tố Tố không tiện nói tiếp nữa liền hỏi:

– Họ cũng biết sư ca đi với chúng em, tại sao họ chỉ phái đệ tử đời thứ tư ngăn cản vậy?

Liên Châu đáp:

– Chắc là việc xảy ra quá đột ngột họ không kịp điều động thủ hạ khác.

Thúy Sơn thấy vừa rồi phái Nga Mi phái các nữ môn hạ tới quấy nhiễu như vậy, chắc là muốn hỏi tung tích Tạ Tốn nên chàng liền xen vào:

– Thì ra nghĩa huynh của đệ có thù với phái Nga Mi, nhưng đệ ở trên đảo không thấy nghĩa huynh nói tới việc này.

Liên Châu thở dài đáp:

– Môn qui của phái Nga Mi rất nghiêm, người trong phái đó đa số là nữ đệ tử. Diệt Tuyệt sư thái xưa nay vẫn cấm các đệ tử bôn ba giang hồ. Lần này không hiểu tại sao phái Nga Mi lại phái người tới đây là khó dễ Bạch Mi giáo như vậy. Chúng tôi cũng lấy làm ngạc nhiên vô cùng.

Cho tới gần đây mới biết rõ nguyên nhân. Thì ra Phương Bình, anh hùng ở Lan Phong tỉnh Hà Nam, bỗng bị người ta giết, trên vách có để lại mười một chữ viết bằng máu tươi “Kẻ giết người Hỗn Nguyên phích lịch thủ Thành Khôn”

Tố Tố liền hỏi:

– Thưa sư ca, Phương Bình có phải là người của phái Nga Mi không?

Liên Châu đáp:

– Không phải.

Chàng ngừng giây lát lại tiếp:

– Việc riêng của các tiền bối, chúng ta hậu bối đáng lẽ không nên bàn luận tới, nhưng ngu huynh chỉ biết hồi Diệt Tuyệt sư thái còn trẻ là một mỹ nhân nổi tiếng trong võ lâm. Sau này nàng bỗng cắt tóc đi tu, rồi Phương Bình lão anh hùng cũng tự chặt một cánh tay thề suốt đời không lấy vợ.

Thúy Sơn, Tố Tố đông thanh kêu “ồ” một tiếng, vì cả hai người đều biết Diệt Tuyệt sư thái với Phương Bình lão anh hùng còn trẻ là đôi tình nhân. Nhưng không hiểu sao hai vị tiền bối đó không thành vợ chồng được, rồi một người đi tu, một người chặt đứt một tay. Sau Diệt Tuyệt sư thái hay tin Phương Bình lão anh hùng bị Tạ Tốn giết, mới quyết tâm trả thù.

Hồi thứ 22

Cản đường bắt Vô Kỵ

Vô Kỵ bỗng lên tiếng hỏi:

– Thưa bác hai, Phương lão anh hùng đó là người tốt hay xấu?

Liên Châu đáp:

– Sau khi chặt cánh tay, phương lão anh hùng chỉ ngày ngày cày cấy, còn dư thời gian thì lấy sách ra đọc. Xưa nay không lai vãng với ai cả, tất nhiên ông ta là người tốt.

Vô Kỵ lại nói:

– Có phải nghĩa phụ cháu giết người bừa bãi như vậy là bậy lắm phải không?

Liên Châu cả mừng, liền giơ tay ra ẵm Vô Kỵ sang, rồi vừa vuốt đầu vừa nói với thằng bé:

– Cháu đã biết không nên giết người bừa như vậy thật là tốt, bác thương cháu lắm. Cháu nên biết người đã chết không thể sống lại được. Khi nào cháu thấy kẻ địch mang tội rất nặng không thể nào tha thứ, cháu mới ra tay giết kẻ đó, bằng không cháu nên cho kẻ đó một dịp may để hối cải.

Vô Kỵ tiếp:

– Bác hai, cháu muốn cầu bác một việc.

Liên Châu hỏi;

– Việc gì thế?

Vô Kỵ đáp:

– Khi nào những người đó kiếm thấy nghĩa phụ, bác làm ơn bảo họ đừng có giết nghĩa phụ nhé! Vì nghĩa phụ đã mù hai mắt đánh không lại bọn họ đâu.

Liên Châu ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:

– Việc này bác không thể nhận lời. Còn bác thì không khi nào giết nghĩa phụ cháu cả.

Vô Kỵ đứng ngẩn người, nước mắt nhỏ ròng xuống má.

Sáng sớm hôm sau, bốn người vào thị trấn, liền vào khách điếm ngủ trọ.

Chiều hôm đó, bốn người lại tiếp tục lên đường.

Cũng có lúc Tố Tố và Thúy Sơn cưỡi chung một ngựa để cho Vô Kỵ một mình một ngựa cho thoả chí.

Dù sao Vô Kỵ vẫn còn ít tuổi, được phóng ngựa trong chốc lát đã quên hết việc lo âu cho Tạ Tốn.

Không bao lâu, bốn người đã đến Hán Khẩu.

Chiều hôm đó họ sắp tới An lộc, bỗng có mười mấy khách thương đang ở phía trước chạy tới, thấy Liên Châu bèn vội xua tay bảo:

– Các người hãy mau quay trở lại, phía trước mặt đang có binh lính Mông cổ chặn đường cướp của giết người.

Lại có một người nói với Tố Tố:

– Nương tử này lớn mật thật, nếu nương tử gặp phải bọn lính Mông Cổ thì nguy tai,,

Liên Châu vội hỏi:

– Có bao nhiêu quân Mông Cổ?

Một người đáp:

– Có chừng mười đứa, nhưng trông chúng rất hung ác.

Nói xong, người đó liền cắm đầu ù té chạy.

Xưa nay Võ Ðang thất hiệp ghét nhất là quân nguyên tàn sát lương dân. Ngày thường Trương Tam Phong đốc huấn các môn hạ rất nghiêm cấm các đệ tử ra tay đánh người nhưng dặn các đệ tử nếu gặp quân nguyên thì cứ việc ra tay tha hồ chém giết. Vì thế nếu gặp đại đội quân nguyên, Võ Ðang thất hiệp đành phải xa tránh, nếu gặp một số ít quân Mông Cổ hành hung, bấy giờ anh em Võ Ðang thất hiệp liền ra tay trừ diệt ngay. Lúc ấy Liên Châu và Thúy Sơn nghe mấy người nói phía trước có mười mấy tên quân Mông Cổ thôi, nên cả hai định tâm giết những tên quân tàn ác đó để trừ hại cho dân.

Ði trước ba dặm quả nhiên phía trước có tiếng kêu la thảm khốc, Thúy Sơn bèn phóng ngựa lên trưc thì thấy mười mấy tên quân Mông Cổ, tay cầm đao và trường mâu đang đâm chém và cướp giật của cải dân lành. Dưới đất máu tươi chảy lai láng. Ðã có bảy tám người bị chém đứt đầu. Một tên Mông Cổ tay cầm một thằng bé độ ba bốn tuổi giơ lên cao và đá mạnh một cái. Thằng bé bị đá lên trên không, kêu la thảm khốc, lúc rơi xuống bị chúng bồi thêm một cái đá nữa. Thằng bé cứ bị bọn lính Nguyên đá đi đá lại tựa như trái cầu. Nó chỉ bị đá vài cái đã chết ngay.

Thúy Sơn tức giận ứa gan, liền phi thân xuống, khi chưa tới đất đã múa quyền đấm vào ngực một tên lính đang giơ chân định đá cái xác thằng bé.

Tên lính Nguyên đó không kịp kêu la đã ngã gục xuống đất.

Một tên lính Mông Cổ khác múa cây xà mâu nhằm lưng chàng đâm tới.

Vô Kỵ thấy vậy la lên:

– Cha hãy cẩn thận.

Thúy Sơn vội quay mình lại vừa cười vừa nói:

– Con xem cha đánh lính Mông Cổ đây.

Lúc ấy, cây xà mâu của địch chỉ cách người chàng không đầy nửa thước. Chàng vội giơ tay trái lên bắt luôn cả cây xà mâu đó, thuận tay đẩy về phía trước một cái, cán xà mâu đụng ngay vào ngực tên lính.

Tên lính Mông Cổ đó chỉ kêu lên được một tiếng ngã lăn ra đất tức thì.

Các lính Nguyên thấy Thúy Sơn dũng mãnh như vậy, đông thanh la lớn một tiếng, cùng xông cả lại bao vây.

Tố Tố cũng vội nhảy xuống ngựa cướp một con dao dài của tên lính nguyen và chém liền một lúc hai tên.

Các lính Nguyên thấy mấy người này đều là tay giỏi võ, tuy biết địch không lại liền quay đầu bỏ chạy.

Nhưng bọn lính nguyên vẫn tính hung ác, trong khi đào tẩu thuận tay chúng chém thêm vài người dân lành.

Liên Châu thấy vây, cả giận quát:

– Ðừng để chúng chạy thoát!

Ðoạn chàng chạy thẳng về phía tây cản trở lối đi của bốn tên lính Nguyên.

Tố Tố và Thúy Sơn cũng chia nhau đón đường đánh bọn Mông Cổ đó.

Ba người biết quân nguyên tuy hung ác nhưng võ công của chúng rất tầm thường, còn kém vả Vô Kỵ nhiều, nên cả ba người không cần phải trông nom thằng nhỏ nữa.

Vô Kỵ nhảy xuống ngựa thấy bác với cha mẹ mình đang đuổi đánh bọn quân nguyên, liền vỗ tay khen:

– Hay lắm! Hay lắm!

Nó la xong, tên lính Mông Cổ bị Thúy Sơn thúc cán xà mâu vào ngực khi nãy đột nhiên đứng ngay dậy, giơ tay ra ôm ngang lưng Vô Kỵ.

Vô Kỵ kinh hãi xoay tay đánh luôn một thế Thần Long bái vĩ nghe “bộp” một tiếng, trúng ngay ngực tên lính Nguyên.

Nó thấy bác với cha mẹ nó đang hăng tiết chém giết quân nguyên nên nó cũng dùng hết sức mà đánh vào kẻ đã ôm nó.

Ngờ đâu tên lính đó không kêu là một tiếng nào mà thân mình y cũng không thấy rung chuyển.

Y lẹ làng tung mình lên ngựa rồi quất roi cho ngựa chạy thẳng.

Liên Châu và vợ chồng Thúy Sơn đồng thanh la lên và đuổi theo.

Liên Châu chỉ nhún nhảy hai cái đã tới sau lưng ngựa, giơ tay trái đánh luôn một chưởng. Nhưng tên lính Mông Cổ không quay đầu lại chỉ trái tay đánh một chưởng trả lại, chưởng của hai người va chạm nhau, Liên Châu cảm thấy chưởng lực của đối phương mạnh như bài sơn hải đảo, khí huyết trong người chàng đảo lộn, thân mình rung chuyển mấy cái và bị bắn về phía sau ba bước.

Con ngựa của tên lính Mông Cổ đó cũng chịu không nổi sức chấn động của chưởng lực Liên Châu, nên hai chân trước của nó đột nhiên quì xuống đất.

Tên lính nguyên tay vẫn ẵm Vô Kỵ, thuận thế nhảy luôn về phía trước, y nhún nhảy một cái đã ra ngoài xa hơn trượng, rồi y giở khinh công cắm đâu chạy thoát.

Thúy Sơn thấy sắc mặt nhị ca lợt lạt, biết đã bị thương nặng vội chạy đến đỡ.

Tố Tố vì thương con nên cứ cắm đầu đuổi theo, nhưng khinh công của tên lính Nguyên đó cao khôn tả.

Càng đuổi nàng càng thấy kẻ địch bỏ xa mình rất nhiều.

Giây lát sau, nàng chỉ còn thấy kẻ địch là một cái chấm đen rồi biết mất hẳn qua một con đường cong. Nhưng Tố Tố không chịu buông tha, cứ cắm đầu đuổi theo hoài, nàng không nghĩ rằng tên lính Nguyên đó có thể đả thương được Liên Châu thì dù rằng nàng có đuổi kịp cũng không sao địch nổi.

Lúc ấy Liên Châu khẽ nói:

– Ngũ đệ, mau gọi đệ phụ trở lại, chúng ta thong thả hãy bàn tính sau,..

Thúy Sơn liền cầm cây xà mâu đâm thẳng vào hai tên lính Nguyên đang nằm trước mặt kế quay lại hỏi Liên Châu:

– Nhị ca có bị thương nặng lắm không?

Liên Châu đáp:

– Không lấy gì làm nặng lắm, nhưng ngũ đệ hãy chạy theo gọi đệ phu trở lại trước đã.

Thúy Sơn thấy trong bọn lính Nguyên có một vài cao thủ ẩn núp, e những tên đó sẽ tới giết hại Liên Châu nên trước khi đi gọi Tố Tố, chàng liền giết hết những quân Mông Cổ còn sống sót nằm quanh đó, rồi mới nhảy lên mình ngựa tiến thẳng về phía Tây.

Chàng đuổi mười mấy dặm đã thấy Tố Tố đầu bù tóc rồi đang cắm đầu chạy như điên, bước loạng choạng hình như đã mỏi mệt lắm rồi.

Chàng phi ngựa tới cạnh ôm xốc nàng lên trên yên.

Tố Tố vừa khóc vừa chỉ về phía trước và nói:

– Không thấy nữa rồi, không còn đuổi kịp .

Nói xong nàng chết giấc liền, Thúy Sơn vẫn lo ngại cho Liên Châu, trong lòng nghĩ thầm :

– Trước hết phải chăm sóc nhị ca đã rồi sẽ kiếm Vô Kỵ sau .

Ðoạn chàng liền quay đầu ngựa phi trở lại, thì thấy ba tên lính Nguyên hai tên cầm xà mâu một tên cầm đao, bao vây lấy Liên Châu đang ngồi dựa gốc cây nhưng chúng không dám tấn công.

Thúy Sơn thấy vậy nổi giận quát lớn:

– Quân Mông Cổ kia, có mau nạp mạng không?

Chàng bèn múa cây xà mâu đâm té luôn hai tên lính Mông Cổ, còn một tên nữa quay mình định chạy. Chàng quát lớn một tiếng rồi lao cây xà mâu theo. Chàng còn đang tức giận nên đã dùng hết toàn lực cây xà mâu xẹt trên không kêu vù vù đâm vào sau lưng tên lính, xuyên ra trước ngực rồi cắm thẳng xuống dưới đất.

Tố Tố từ từ tỉnh dậy mồm vẫn kêu la:

– Vô Kỵ! Vô Kỵ!

Liên Châu nhắm mắt ngồi vận khí đièu hơi rồi móc túi lấy viên thuốc Thái ất đoạt mệnh đơn ra uống. Sắc mặt của chàng đã đỏ dần lên. Chàng từ từ mở mắt ra khẽ nói:

– Chưởng lực của kẻ địch lợi hại thật.

Thúy Sơn nghe sư huynh đã lên tiếng được rồi, biết không còn nguy hiểm nữa trong lòng lúc bấy giờ mới được yên nhưng chàng vẫn chưa dám nói chuyện vội.

Liên Châu liền từ từ đừng dậy khẽ hỏi:

– Có phải tên lính Mông Cổ đõ đã chạy mất rồi không?

Tố Tố vừa khóc vừa đáp;

– Sư ca, biết làm sao bây giờ đây?

Liên Châu nói tiếp:

– Tức muội hãy yên tâm, Vô Kỵ không việc gì đâu. Người đó võ công cao siêu như vậy, chắc không khi nào giết hại trẻ nhỏ.

Tố Tố lại nói:

– Nhưng nhưng y đã bắt cóc Vô Kỵ đi rồi!

Liên Châu gật đầu, giơ tay ra để lên vai Thúy Sơn nhắm mắt ngẫm nghĩ.

Một lát sau, Liên Châu mở mắt ra và nói:

– Ngu huynh cũng không nghĩ ra được người đó thuộc phái nào. Chúng ta hãy trở về Võ Ðang, hỏi ân sư sẽ rõ.

Tố Tố nóng lòng sốt ruột thúc giục Liên Châu:

– Sư ca, phải nghĩ cách gì để cướp lại thằng Vô Kỵ trước đã? Còn kẻ địch ấy thuộc môn phái nào sau này hỏi lại ân sư.

Liên Châu lắc đầu mấy cái, Thúy Sơn vội đỡ lời:

– Hiện giờ nhị ca đang bị đau nặng, người đó lại có võ công cao siêu như thế, dù chúng ta có đuổi theo kịp cũng không làm gì nổi y.

Tố Tố vừa khóc vừa hỏi:

– Chẳng lẽ chúng ta để yên như vậy sao?

Thúy Sơn đáp:

– Chúng ta khỏi tìm kiếm, tự y sẽ đến kiếm chúng ta.

Tố Tố là người rất thông minh và sáng suốt vì thấy đứa con yêu quí bị bắt cóc mà kinh hãi đến nỗi mất hết bình tĩnh.

Lúc này nàng nghe Thúy Sơn nói vậy mới tỉnh ngộ.

Nàng cũng biết tên lính Mông Cổ đõ võ công cao siêu, đến Liên Châu cũng địch không nổi, thì đủ thấy không phải là tên lính Mông Cổ thật sự.

Sau khi y đả thương Liên Châu, nếu y định giết hại hai vợ chồng nàng dễ như trở bàn tay. Nhưng y chỉ bắt Vô Kỵ đi, đủ thấy muc đích của y là muốn biết rõ tung tích Tạ Tốn.

Thúy Sơn liền ẵm Liên Châu để lên lưng ngựa rồi ba người đi từ từ về phía trước.

Tới Lục An cả ba vào trong một khách sạn nhỏ để nghỉ ngơi.

Thúy Sơn liền bảo điếm tiểu nhị đem cơm nước vào phòng, rồi đóng chặt của lại.

Sở dĩ chàng làm như vậy là sợ bên ngoài gặp phải lính Nguyên, lại có sự rắc rồi nữa.

Ba người giết mười mấy tên lính Mông Cổ nên mấy ngày sau đại đội quân Nguyên liền tới nơi ấy chém giết và cướp bóc một lần nữa trả thù, dân chúng gần đó chịu không biết bao khổ hình. Thật là cảnh thảm khốc của kẻ mất nước, không sao tả xiết.

Liên Châu vận nội công để chữa vết thương.

Thúy Sơn ngồi bên cạnh để bảo vệ còn Tố Tố thì ngồi trên ghế nghỉ ngơi, dầu nhắm mắt nhưng Tố Tố không sao ngủ được.

Ðến nửa đêm Liên Châu liền đi lại trong phòng ba vòng cho dãn gân dãn cốt một lát, rồi nói:

– Ngũ đệ, ngoài sư phụ, ngu huynh chưa hề gặp một địch thủ nào lợi hại như vậy bao giờ.

Thì ra lúc Thúy Sơn thuận tay thúc cây xà mâu vào ngực tên lính Mông Cổ đó thì y chỉ giả bộ chết giấc thôi.

Lúc ấy vợ chồng Thúy Sơn với Liên Châu không để ý tới.

Bây giờ ba người mới hồi tưởng lại thì đều nhớ ra người đó hình như râu mọc đầy cằm, Tố Tố liền lên tiếng:

– Tên lính Nguyên đó bắt được Vô Kỵ đi, chắc thế nào cũng hạch hỏi tra gạn cho ra tung tích của nghĩa huynh. Không biết thằng Vô Kỵ có chịu nói không?

Thúy Sơn liền đáp:

– Nếu Vô Kỵ chịu nói cho tên đó rõ, thì nó đâu phải là con của chúng ta.

Tố Tố lại tiếp:

– Ngũ ca nói phải, chắc nó không chịu nói đâu.

Nàng nói tới đó, đột nhiên oà lên khóc.

Thúy Sơn vội hỏi:

– Làm sao thế?

Tố Tố nức nở khóc và đáp:

– Vô Kỵ không chịu nói thì thế nào tên ác tặc đó cũng đánh nó và buộc nó phải nói. Nó sẽ dùng độc hình cũng nên?

Thúy Sơn và Liên Châu cùng thở dài một tiếng đồng thanh nói:

– Ngọc có dũa mới quí. Cứ để cho nó trải qua những sự gian nan khổ sở sau này nó mới khá được.

Thúy Sơn tuy nói như vậy, nhưng nghĩ đến con trong lòng rất xót xa. Nên chàng vừa ngẫm nghĩ vừa suy tính:

– Nếu lúc này tên lính Nguyên đó đem con ta có lẽ ta sẽ cho y biết tung tích của Tạ Tốn. Không! Thà chết chớ ta không thể là kẻ tiểu nhan vô nghĩa .

Nghĩ tới đó, chàng liền quay lại nhìn vợ, thấy hai mắt của Tố Tố đang van lơn chàng bỗng giật mình kinh hãi và nghĩ tiếp:

– Nếu tên ác tặc đó quay lại láy tính mạng của Vô Kỵ để uy hiếp chưa biết chừng Tố Tố sẽ khuất phục và nói rõ ra.

Ðoạn chàng liền nói lảng sang chuyện khác.

– Thế nào, nhị ca đã đỡ chưa?

Liên Châu thấy thần sắc của hai vợ chồng chàng đã biết được hai người đang lo ngại nếu tên lính Mông Cổ tra hỏi Vô Kỵ không ra manh mối sẽ đem thằng nhỏ tới đây để uy hiếp. Tất nhiên Tố Tố không khi nào chịu để cho tên ác tặc đó giết Vô Kỵ trước mặt mình. Rồi thế nào nàng cũng phạm lỗi vô nghĩa mà nói rõ tung tích Tạ Tốn.

Liên Châu liền nghĩ ra được một kế để cởi mở bèn vội nói:

– Thôi được, chúng ta lên đường ngay bay giờ đi.

Ba người liền trả tiền phòng tiền cơm nước rồi rời khách điếm lên đường ngay.

Họ chọn những đường nhở và lối đi hẻo lánh nhất.

Không phải vì sợ kẻ địch đuỏi theo mà họ chỉ sợ tên ác tặc bắt Vô Kỵ tới dùng những thủ đoạn thảm khốc mà uy hiếp.

Ba người cứ ngày nghỉ đêm đi cũng may suốt dọc đường không việc gì xảy ra cả. Vì thương con và đi đêm sương gió, nên Tố Tố ngã bệnh.

Thúy Sơn đành thuê hai xe lừa, một cho Liên Châu, một cho Tố Tố còn chàng thì cưỡi ngựa theo họ tống.

Ngày hôm đó, đã tới Tương Dương, liền nghé lại trọ ở một khách sạn tại trấn Thái Bình điếm.

Thúy Sơn xếp đặt lại chổ cho Liên Châu yên nghỉ đang định trỏ về phòng mình bỗng thấy một đại hán vén cửa màn xông vào.

Ðại hán đó mặc quần áo xanh tay cầm chiếc roi ngựa trông như một phu xe.

Y trợn mắt nhìn Liên Châu và Thúy Sơn mỉm cười một cái rồi bỏ đi.

Thúy Sơn biết tên đó thế nào cũng thuộc phe địch nhưng chàng tức y vô lễ, bèn vận sức đảy mạnh theo một cái trúng giữa lưng tên đại hán ngã sấp xuống.

Y lóp ngóp bò dậy quát tháo:

– Võ Ðang tiểu tặc chết đến nơi rồi mà còn hành hung!

Y nói cứng như vậy, nhưng chân vẫn cứ rảo cẳng chạy luôn ra bên ngoài, bước rất loạng choạng, đủ thấy y bị thương không nhẹ.

Liên Châu thấy vậy, không nói năng gì cả.

Chiều hôm đó, Thúy Sơn vào phòng Liên Châu và nói:

– Nhị ca chúng ta nên khởi hành bây giờ đi.

Liên Châu đáp:

– Không. Tối nay không nên đi vội, để sáng mai lên đường thì hơn.

Thúy Sơn ngẫm nghĩ giây lát hiểu ngay ý của sư ca mình, liền trả lời:

– Nhị ca nói phải, nơi đây cách bổn sơn có hai ngày đường thôi. Sư huynh đệ chúng ta dù hèn kém tới đâu cũng không thể nào làm giảm uy phong của sư môn. Ở ngay chân núi Võ Ðang mà chúng ta lại đêm đi ngày nghỉ một cách thầm lén nước làm gì?

Liên Châu mỉm cười đáp;

– Dù sao hành tung của chúng ta cũng bị bại lộ. Chúng ta thử xem đệ tử phái Võ Ðang sẽ chết như thế nào?

Thế rồi anh em liền sát cánh nhau, ngồi lên trên giường nhắm mắt tham thiền để dưỡng thần.

Ðêm hôm đó ngoài cửa sổ trên mái nhà có tất cả bảy tám người đi lại canh giữ và dòm ngõ nhưng chúng vẫn sợ oai danh của Võ Ðang, nên không dám xông vào trong phòng quấy nhiễu, còn Tố Tố thì bị nóng lạnh ngủ li bì không hay biết gì cả.

Liên Châu , Thúy Sơn không thèm đếm xỉa đến bọn ác tặc bên ngoài.

Ngày hôm sau, cơm nước xong, ba người lại tiếp tục lên đường.

Liên Châu ngồi trong xe lừa, nhưng bảo phu xe bỏ hết những vải bọc xung quanh ra, đẻ tiện trông trước thấy sau.

Ba người vừa đi khỏi Thái Bình điếm mấy dặm đã thấy có ba người cưỡi ngựa từ phía Ðông đến liền, cứ theo sau xe lừa, tựa như người hộ tống vậy.

Ði được vài dặm nữa, liền thấy trước mặt có bốn người đang đứng đợi ở bên.

Chúng chờ xe chở Liên Châu qua rồi mới thúc ngựa theo sau. Ði được mấy dặm đường nữa, lại tháy có tên khác nhập bọn.

Thế là trước sau có tất cả mười một tên.

Hai tên phu có vẻ kinh hoàng liền khẽ nói vời Thúy Sơn:

– Khách quan trông mấy người đó có thái độ bất chính chăng? Không khéo chúng là đạo tặc cũng nên. Khách quan nên đề phòng cẩn thận.

Thúy Sơn đáp:

– Anh đừng lo, không phải chúng định cướp tiền bạc gì đâu.

Trưa hôm đó, trong lúc nghỉ ngơi lại có thêm sáu người nữa nhập bọn kia.

Những người này ăn mặc rất lịch sự không giống bọn người trước , nhưng người nào người nấy đều có mang theo khí giới.

Bọn người theo dõi đó không hề thốt nửa lời. thân hình người nào người nấy bé nhỏ màu da đen xì, hình như ở phía Nam tới. đi suốt buổi chiều hôm đó, lại có thêm hai mốt người nữa theo sau.

Có mấy tên hơi táo gan một chút, dám thúc ngựa đi gần tới hai chiếc xe, nhưng chỉ cách độ hai ba trượng là chúng gò cương ngựa lại, không dám tới gần .

Liên Châu ngồi trong xe cứ nhắm mắt dưỡng thần, không thèm liếc nhìn bọn người kia.

Lúc trời sâm sẫm tối, phía trước có hai người phi ngựa tới.

Người đi đầu là một ông già râu dài tới bụng người thứ hai là một thiếu phụ ăn mặc rất lịch sự.

Ông già đó không cầm khí giới và thiếu phụ tay trái cầm song đao.

Họ vừa đi tới đã gò cương lại ngăn cản lối đi.

Thúy Sơn cố nén giận, chăp tay chào và hỏi:

– Võ Ðang Dư nhị Trương ngũ xin kính chào hai vị, và xin lỗi lão gia quí tánh đại danh là chi?

Ông già nọ bèn tủm tỉm cười, nhưng đa mặt không thấy rung động chút nào, lên tiếng hỏi:

– Chẳng hay Kim Mao sư vương Tạ Tốn hiện giờ ở đâu? Xin bạn nói cho lão hay thì tất cả anh em có mặt tại đây đều không dám làm khó dễ hai vị.

– Việc này tại hạ không dám định đoạt, phải trở về núi hỏi ân sư đã.

Ông già nọ lại tiếp:

Dư nhị bị thương còn một mình Trương ngũ như vậy làm sao địch nổi bấy nhiêu anh em chúng tôi.

Ðoạn y thò tay vào lưng, lấy ra một đôi phán quan bút. đôi bút của y rất lạ, trên đầu bút khắc hình con rắn.

Ngoại hiệu của Thúy Sơn là Ngân câu thiết hoặc và chàng đã nổi tiếng về môn điểm huyệt, nay chàng bỗng thấy bút của địch có đầu rắn như vậy cũng phải thắc mắc.

Năm xưa chàng có nghe sư phụ nói, là ở Cao Ly có một phái chuyên sử dụng phán quan bút đầu rắn, thế đánh và thủ pháp điểm huyệt rất khác các phái ở Trung nguyên. Có lẽ họ căn cứ vào tính ác độc và âm nhưng của rắn độc mà tạo nên cũng thủ pháp ấy. Họ tự đặt cho môn phái cái tên Thần Long. Còn người trưởng môn họ Tuyền tên là gì sư phụ của chàng cũng không rõ. Chàng bèn vái chào lần nữa rồi hỏi.

Ông già nọ hơi kinh hoảng, nghĩ thầm:

– Tuổi người này chỉ độ ngoài ba mươi, sao lại hiểu biết rộng đến thế? Y còn biết cả lai lịch của ta nữa .

Thì ra ông già ấy chính là người Trưởng môn của phái Thần Long bên cao ly, họ Tuyền tên Kiến Nam.

Bang Tam giang ở Lĩnh Nam đã dung hậu lễ rước y tới Trung thổ này đã mấy năm rồi nhưng chưa hề ra tay bao giờ. Không ngờ hành động của Bang Tam giang bí mật đến thế mới mời Tuyền Kiến Nam ra tay lần đầu lại bị Thúy Sơn biết rõ cả.

Kiến Nam liền cầm ngang song bút đầu rắn trả lễ và đáp:

– Lão phu chính là Tuyền Kiến Nam đây.

Thúy Sơn lại tiếp:

– Xưa nay phái Thần Long bên Cao Ly không giao vãng với võ lâm Trung thổ, không biết phái Võ Ðang chúng tôi có điều chi thất lễ với Tuyền lão anh hùng? Mong lão anh hùng chỉ cho?

Kiến Nam nhếch mép cười, nhưng vẻ mặt vẫn lì lì và nói:

– Lão phu với các hạ không oán không thù gì cả. Hơn nữa chúng tôi là người Cao Ly cũng biết Võ Ðang thất hiệp là những người hành hiệp trượng nghĩa. Lão phu chỉ hỏi các hạ một câu này thôi: Hiện giờ Kim Mao sư vương Tạ Tốn ẩn núp nơi đâu?

Lời nói của y tuy không vô lễ lắm, nhưng hai tay y vẫn lăm lăm phán quan bút thủ thế, những người theo sau lại bao vây hai chiếc xe, như vậy khác gì có ý hăm doạ nếu không hỏi được tin Tạ Tốn thì sẽ dùng vũ lực đối phó.

Thúy Sơn liền hỏi:

– Nếu tại hạ không nói thì sao?

Kiến Nam đáp

– Võ công của Trương ngũ hiệp có tiếng là siêu quần, người của chúng tôi tuy nhiều cũng tự biết là không giữ nổi ngũ hiệp đâu, nhưng ngũ hiệp nên nhớ Dư nhị hiệp đang bị thương, còn Tôn phu nhân đang ốm nặng, nếu Trương ngũ hiệp không làm cho chúng tôi thỏa mãn, thì nhân dịp may hiếm có này chúng tôi đành phải giữ hai vị đó lại, ngũ hiệp nghĩ kỹ đi.

Y nói tiếng Hán không được sành sỏi lắm giọng nói rất bén nhọn nghe rất chói tai.

Thúy Sơn nghe Kiến Nam noi vậy liền tiếp:

– Ðược, nếu lão tiền bối muốn vậy, tại hạ đành phải xin lãnh giáo những thế võ cao siêu của Cao Ly. Nếu lão anh hùng nhường nhịn cho tại hạ một thế hay nửa miếng thì sao?

Kiến Nam vừa cười vừa nói:

– Nếu lão phu thua, tất cả anh em tại đâu sẽ ùa lại đánh. Chúng tôi không có lề lối “một đánh với một”. Nếu phái Võ Ðang có nhiều người thì cứ việc xông vào mà đánh chúng tôi.

Trước kia vua Ðường Thái Tông nhà Tuỳ hay vua Ðường Cao Tông sang đánh nước Cao Ly, lần nào cũng đem theo mấy chục vạn quân để đánh mấy vạn quân mà chiếm được nước của lão phu. Từ xưa tới nay trận đấu nào người nhiều vẫn thắng kẻ ít.

Thúy Sơn biết dù có nói nhiều cũng vô ích, nên chỉ trông cậy vào tài ba của mình thôi. Nếu mình bắt được tên Cao Ly này để uy hiếp, thì có thể bắt buộc thủ hạ của chúng không được xâm phạm đến nhị ca và Tố Tố.

Chàng vừa nghĩ vừa phi thân xuống mặt đất, tay trái cầm móc bạc tay phải cầm phán quan bút, lên tiếng:

– Lão anh hùng là khách, xin ra tay trước.

Kiến Nam liền nhảy xuống ngựa, múa song bút, xông lại tấn công Thúy Sơn.

Thúy Sơn nghĩ thầm:

– Ngày hôm nay vì sự an ninh của nghĩa huynh mà chiến đầu, Tố Tố với ta là vợ chồng mà nàng với nghĩa huynh cũng có nghĩa kim bằng. Nay ta vì nghĩa huynh mà chết cũng không sao. Nhưng nhị ca với nghĩa huynh xưa nay không liên hiệp với nhau, nếu để nghĩa huynh mà nhị ca bị nhục thì ta không phải chút nào.

Chàng vừa nghĩ tới đó Kiến Nam đã múa bút xông tới tấn công.

Chàng liền né tránh sang bên .

Kiến Nam thấy vậy cả mừng nghĩ thầm :

– Bọn Tam Giang bang khen ngợi Võ Ðang thất hiệp quá lẽ, té ra tài nghệ của họ cũng chỉ có thế thôi. Chắc người Trung nguyên ưa sĩ diện hão cứ khen ngợi người của bổn quốc để vẻ vang lây cũng nên? .

Y bèn tấn công luôn ba thế bằng bút bên trái, Thúy Sơn vấn tránh né bên phải, miễn cưỡng chổng đỡ và phản công lại một thế móc và một thế bút, nhưng sức lực rất yếu ớt.

Kiến Nam thây vậy liền thay đổi ý kiến, không muốn thì người nhiều mà đàn áp đối phương nữa, nên y nghĩ thầm:

– Ngày hôm nay nếu ta đánh bại được Trơng ngũ hiệp của Võ Ðang thất hiệp thì chỉ một trận đấu này thôi ta đã nổi danh. Như vậy Tam Giang bang thế nào cũng phải kính nể ta .

Y liền múa song bút lại tấn công Thúy Sơn lia lịa.

Thúy Sơn chỉ chống đỡ chớ không tấn công, một mặt chàng để ý xem thế bút của đối phương ra sao, chàng nhận thấy thế bút của đối phương chỉ chú trọng đến hạ tam lộ ở phía sau lưng, khác hẳn lối điểm huyệt của các phái Trung thổ.

Ðấu thêm một lúc nữa, Thúy Sơn càng nhận xét rõ thêm biết thủ pháp của Kiến Nam là một cây bút một tay phụ trách điểm những huyệt khác nhau. Tuy bề ngoài thấy rất phức tạp, nhưng khi đã hiểu rõ thủ pháp của đối phương thì không có gì là huyền ảo.

Nên chàng nghĩ thầm:

– Năm xưa ân sư nói:”Phương pháp điểm huyệt của phái Thần Long , Cao Ly tuy rất ác độc nhưng không đáng ngại . ngày hôm nay ta được mục kích mới thấy lời sư phụ không sai chút nào .

Chàng đã hiểu bí quyết thủ pháp của đối phương rồi, chàng không còn e ngại như trước nữa, tuy Kiến Nam càng đấu càng hăng hái, mồm quát tháo làm ra vẻ rất oai phong.

Thúy Sơn thấy vậy bèn nghĩ thầm:

– Với chút võ công đó mà cũng đòi tới chân núi dương oai!” đoạn, chàng liền sử dụng bí quyết chữ “Long” giơ móc trái lên tấn công vào yếu huyệt đùi bên phải của Kiến Nam.

Kiến Nam lêu ối chà rồi quị ngay chân phải.

Thúy Sơn lẹ dùng bút bên phải sử dụng bí quyết chữ “Phong” điểm luôn vào mấy yếu huyệt nữa của đối phương.

Thế là Kiến Nam không sao cử động được nữa, chản nản vô cùng và nghĩ thầm :

– Thôi thôi thế là hết, có ngờ đâu thủ pháp điểm huyệt của y cao siêu và nhanh nhẹn thế, chỉ trong thoáng cái đã điểm mười mấy yếu huyệt của ta. Sự thực tài của ta kém đồ đệ Võ Ðang xa .

Thúy Sơn dí cây móc bạc vào yết hầu Kiến Nam, quát lớn:

– Các vị có mau lui ra không? Bây giờ tại hạ nhờ Tuyền lão anh hùng tiến đến chân núi Võ Ðang.

Nếu quí vị không quấy nhiễu anh mỗ thì mỗ sẽ giải huyệt cho lão anh hùng ngay.

Chàng vừa nói vừa nghĩ :

– chắc mấy người kia là thuộc hạ của y thấy ta uy hiếp y như vậy, thế nào cũng rút lui .

Ngờ đâu, thiếu phụ ăn mặc lịch sự kia đột nhien giơ song đao lên và la lớn:

– Các anh em tiến lên bắt lấy hai cái xe lừa kia.

Thúy Sơn quát lại:

– Ai dám tiến lên ta sẽ giết Tuyền lão anh hùng trước.

Thiếu phụ nọ cười nhạt một tiếng vấn tiếp tục ra lệnh:

– Các anh em tiến lên.

Nàng vừa nói vừa múa song đao lên trước, không đếm xỉa tới sự sống của Kiến Nam. Thì ra thiếu phụ là một vi trại chủ của Tam Giang Bang, sở dĩ cho xuất động nhiều như vậy là muốn bắt sống Liên Châu và Tố Tố để dò hỏi tung tích Tạ Tốn, Kiến Nam chỉ là khách của Tam Giang Bang.

Nàng thấy Kiến Nam bản lĩnh kém cỏi thì dù có chết về tay địch cũng không đáng tiếc.

Thúy Sơn giật mình, vì chàng biết dù có giết Kiến Nam cũng không ăn thua gì. Ðồng thời chàng thấy bảy tám tên đại hán xông tới trước xe của Tố Tố còn bảy tám tên nữa thì bao vây xe của Liên Châu, ngoài ra còn sáu bảy tên cùng thiếu phụ xông lại bao vây mình.

Ðang lúc băn khoăn, không biết ứng xử ra sao thì Liên Châu bỗng lớn tiếng nói:

– Lục đệ hãy mau ra mặt càn quét bọn này đi!

Thúy Sơn ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Nhị ca định xài kế không thành ?

Chàng vừa nghĩ tới đó, bỗng nghe trên không có một tiếng rú thánh thót:

– Ngũ ca, vẫn được mạnh giỏi đấy chứ? Tiểu đệ nhớ ngũ ca quá.

Liền đó một bóng người ở trên một cổ thụ cách đó hơn mười trượng nhảy xuống, tay múa trường kiếm xông lại chém giết bọn người kia.

Người đó chính là lục hiệp Hân Lợi Hanh.

Thúy Sơn thấy vậy cả mừng và la lớn:

– Còn lục đệ cũng mạnh giỏi đấy chứ?

Tam Giang Bang chia ra mấy người ngăn cản Hân Lợi Hanh, nhưng chỉ nghe tiếng “ối chà” liên tiếp và tiếng khí giới rơi lẻng xẻng.

Thì ra mấy tên đó đã bị lục hiệp đâm trúng cổ tay vứt binh khí giới liền.

Lợi Hanh hạ xong mấy tên đó rồi múa kiếm tiến lên, hễ gặp kẻ nào cản trở thì chàng chỉ khẽ vung trường kiếm một cái, khí giới của kẻ địch rơi ngay.

Thiếu phụ nọ thấy vây quay đầu lại quát hỏi:

– Người là Võ Ðang .. Nàng mới nói được mấy tiếng, đã nghe lẻng xẻng hai tiếng là song đao của nàng đã bị đánh rơi.

Thúy Sơn cả mừng và nói:

– Thần môn thập tam kiếm của sư phụ sáng chế thành công rồi, phải không?

Thì ra Thần môn thập tam kiếm có tất cả mười ba thế mà thế kiếm nào cũng lợi hại và không thế nào giống thế nào.

Mũi kiếm nào cũng đều đâm trúng thần đạo huyệt ở cổ tay của kẻ địch. mười năm trước đây, khi Thúy Sơn rời khỏi núi Võ Ðang, Trương Tam Phong đã có y định sáng tạo ra môn kiếm này rồi, và đã họp các đệ tử lại để thảo luận mấy lần, nhưng còn mấy chổ vẫn chưa nghĩ ra được.

Lúc này Lợi Hanh đem môn kiếm này ra sử dụng, các đệ tử và các tay cao thủ của Tam Giang Bang đều không sao chổng đỡ nổi.

Thúy Sơn thấy môn kiếm đó lợi hại như vậy đứng ngẩn người ra xem.

Chàng thấy thế kiếm nào của Lợi Hanh cũng tinh diệu, chàng sử dụng hết mười ba thế kiếm của Thần môn thập tam thức mà mười mấy bộ hạ của Tam Giang Bang đã bị thương và vứt hết khí giới.

Thiếu phụ liền la lớn:

– Khẩn trương, khẩn trương, rút lui mau!

Những bang chúng của Tam Giang Bang đều cắm đầu ù té chạy.

Thúy Sơn giải huyệt cho Kiến Nam, cầm đôi bút đầu rắn trả lại cho y.

Kiến Nam xấu hổ vô cùng, cũng cắm đầu bỏ chạy, nhưng không chạy theo đường của bang chúng Tam Giang Bang.

Lợi Hanh cầm kiếm vào bao, nắm tay Thúy Sơn vừa mừng vừa nói:

– Ngũ ca, em nhớ anh lắm.

Thúy Sơn vừa cười vừa nói:

– Lục đệ, tài nghệ đã cao hơn xưa nhiều.

Lúc hai người chia tay, Lợi Hanh mới được mười bảy tuổi, cách biệt mười năm, nay Lợi Hanh trở nên một thanh niên anh tuấn.

Thúy Sơn dắt tay Lợi Hanh đến giới thiệu với vợ, nhưng Tố Tố bệnh rất nặng, chỉ tủm tỉm cười gật đầu một cái khẽ nói:

– Xin chào lục đệ.

Lợi Hanh vừa cười vừa nói:

– Ngũ tẩu cũng họ Hân, thế thì hay lắm, không những là chị dâu của đệ mà còn là chị họ của đệ nữa,

Thúy Sơn xen lời:

– Nhị ca tài thật. Chú ẩn nấp ở tren cây lớn, ngu huynh không hay biết gì cả thế mà nhị ca thấy chú rồi.

Lợi Hanh bèn đem chuyện tại sao lại tới đây cứu mọi người kể lại cho vợ chồng Thúy Sơn nghe.

Thì ra tứ hiệp Trương Tòng Khê xuống núi mua các lễ vật để chúc thọ cho sư phụ, ngẫu nhiên gặp hai nhân vật giang hồ hành động lén lút.

Tứ hiệp sinh nghi và nghĩ thầm:

– Phái Võ Ðang của chúng ta oai trấn thiên hạ sao lại có hai kẻ dám táo gan đến núi Võ Ðang vuốt râu cọp như vậy?

Thế rồi chàng ngấm ngầm theo dõi và nghe trộm câu chuyện của hai tên đó mới rõ Thúy Sơn đã ở hải ngoại về, đang cùng Liên Châu trở về Võ Ðang.

Tam Giang Bang với Ngũ Phụng đao đều muốn chặn đường, ép hỏi Thúy Sơn tin tức Tạ Tốn.

Hồi thứ 23

Thất Hiệp Ðoàn Tựu

Tứ hiệp vội quay về núi.

Lúc ấy trên núi chỉ còn một mình Lợi Hanh.

Thế rồi hai người liền chia đường xuống núi cứu viện.

Trương Tòng Khê thì đối phó với Ngũ Phụng đao, còn Lợi Hanh thì theo dõi Tam Giang Bang.

Liên Châu nghe kể, thở dài một tiếng rồi xen vào:

– Nếu tứ đệ không thông minh một chút có lẽ phái Võ Ðang chúng ta hôm nay đã bị bêu xấu trước mọi người rồi.

Thúy Sơn hổ thẹn đáp:

– Một mình tiểu đệ bảo vệ nhị ca không nổi! Than ôi, cách biệt sư phụ mười năm võ nghệ của tiểu đệ đã kém anh em xa quá!

Lợi Hanh vừa cười vừa nói:

– Sao ngũ ca lại nói thế? Vừa rồi ngũ ca đã chẳng đánh lão già Cao Ly là gì? Những miếng võ ngũ ca dùng , sư phụ có dạy cho người thứ hai đâu? Lần này ngũ ca trở về núi thế nào sư phụ cũng mừng lắm. Vài hôm nữa sư phụ sẽ dạy cho ngũ ca rất nhiều võ công tinh diệu, chỉ sợ ngũ ca học không kịp thôi. Môn kiếm thần môn thập tam này nếu ngũ ca thích học thì tiểu đệ xin chịu thua ngũ ca ngay.

Ðêm hôm đó, bốn người nghĩ ngơi ở khách sạn, Lợi Hanh đòi ngủ chung một giường với Thúy Sơn.

Thúy Sơn cũng mến lục đệ vô cùng, Võ Ðang thất hiệp chỉ có mạc thanh cốc là trẻ nhưng Thanh Cốc đã chững chạc từ hồi còn ít tuổi. Trái lại Lợi Hanh lại ngây thơ hơn nhiều.

Thúy Sơn chỉ hơn Lợi Hanh có vài tuổi nên hai người rất thông cảm nhau.

Liên Châu thấy Lợi Hanh đòi ngủ chung với Thúy Sơn liền vừa cười vừa nói:

– Ngũ đệ đã có vợ, không còn như mười năm trước nữa đâu. phen này ngũ đệ về thật đúng lúc, vừa được uống rượu mừng lục đệ.

Thúy Sơn nghe nói vừa vỗ tay vừa nói:

– Hay lắm! hay lắm! Chẳng hay cô dâu là con gái của thế gia nào thế?

Lợi Hanh mặt đỏ bừng, xấu hổ quá đến mức không trả lời được.

Liên Châu liền trả lời giúp:

– Cô dâu là con gái của quý Kim Tiên Kỷ lão anh hùng ở Hán Dương.

Thúy Sơn thè lưỡi vừa cười vừa nói:

– Nên lục đệ không ngoan ngoãn nghe lời là sẽ bị cô dâu dùng roi vàng đập cho vỡ đầu đấy.

Liên Châu mỉm cười, bỗng sực nghĩ ra một chuyện gì bèn lên tiếng:

– Kỷ cô nương sử dụng kiếm, chứ không phải sử dụng roi đâu, ngu huynh chỉ mong trong số các thiếu nữ ngăn cản chúng ta ở bờ sông hôm nọ không có Kỷ cô nương.

Thúy Sơn cũng hơi giật mình và hỏi:

– Thế ra Kỷ cô nương là môn hạ của phái Nga My đấy à?

Liên Châu gật đầu đáp:

– Những thiếu nữ của phái Nga My mà chúng ta gặp trên bờ sông bữa nọ võ công rất tầm thường, chắc không có Kỷ cô nương trong đó. Lục tức muội tương lai của chúng ta chẳng những tướng mạo rất đẹp mà võ công cũng cao siêu, đúng là đệ tử danh môn. Nàng với lục đệ thật xứng đôi vừa lứa.

Chàng vừa nghĩ tới đây, bỗng sực nhớ Tố Tố là con gái của giáo chủ tà giáo mà mình mải khen Kỷ cô nương như vậy em mích lòng Thúy Sơn nên liền nói sang chuyện khác ngay.

Bỗng có một người đi tới cửa phòng lên tiếng:

– Dư nhị gia có mấy vị đến thăm nhị gia đây. Các vị ấy bảo là bạn của nhị gia.

Mọi người đưa mắt nhìn mới hay người đó là tiểu nhị.

Liên Châu liền hỏi:

– Ai đó?

– Tất cả sáu người họ nói là môn hạ của Ngũ Phụng Ðao gì đó.

Ba anh em Liên Châu nghe nói liền nghĩ thầm:

– Trương Tòng Khê nhận lời đi đối phó với bọn người của Ngũ Phụng Ðao không hiểu tại sao những người đó lại đến đây. Chẳng lẽ Tòng Khê thất thế rồi chăng?

Thúy Sơn liền nói:

– Ðể đệ ra xem sao?

Chàng sợ vết thương của nhị ca chưa được khỏi vả lại đấu với kẻ địch trong khách sạn thật là bất tiện.

Liên Châu vội nói:

– Mời các vị ấy vào trong này.

Lát sau có năm đại hán và một thiếu phụ rất xinh đẹp bước vào.

Thúy Sơn cùng Lợi Hanh tuy tay không cầm võ khí nhưng đã đứng cạnh Liên Châu, giữ thế phong bị.

Ngờ đâu sáu người đều cúi đầu, vẻ mặt bẽn lẽn lưng không đeo khí giới và không có vẻ gì là muốn gây sự cả.

Người lãnh đầu, tuổi trạc bốn mươi, nhưng tóc đã trắng xoá, cung kính chắp tay vái chào và nói:

– Ba vị có phải là dư nhị hiệp, Trương ngũ hiệp và Hân lục hiệp không? Tại hạ là Mạnh Chính Phi, đệ tử của Ngũ Phụng Ðao tới đây vấn an các vị.

Ba anh em Liên Châu cũng chắp tay đáp lễ, và cũng lấy làm lạ thầm.

Liên Châu liền mời:

– Mời Mạnh lão sư cũng quý vị ngồi chơi.

Mạnh phi không dám ngồi đáp:

– Xưa nay tệ môn vẫn ở phủ Hà Ðông, tỉnh Sơn Tây nhưng môn phái chúng tôi bé nhỏ, xưa nay vẫn ngưỡng mộ Trương chân nhân cũng Võ Ðang thất hiệp. Oai danh của quý vị thật là lừng lẫy như tiếng sấm vọng bên tai, chỉ hận không có dịp may để bái kiến. Ngay hôm nay, chúng tôi được đến chân núi Võ Ðang, đáng lẽ phải lên núi vái chào Trương chân nhân nhưng vì chúng tôi nghe Trương chân nhân đã bách tuế không tay tiếp khách, đồng thời chúng tôi là những kẻ thô lỗ không dám đường đột lên núi quấy nhiễu đại nhân. Khi ba vị trở về núi, xin làm ơn thỉnh an Trương chân nhân hộ chúng tôi, và nói giúp là môn hạ của Ngũ Phụng Ðao ở Sơn tây chúc phúc cụ thiên thu an khang, phúc lộc vô cương.

Liên Châu bị thương chưa khỏi, đang ngồi trên giường nghe Mạnh phi nói đến sư phụ, liền vịn tay Lợi Hanh, đứng ngay xuống đất thái độ rất cung kính đáp:

– Không dám! không dám! Tại hạ xin thay mặt ân sư cảm ơn quý vị.

Chính phi lại tiếp:

– Chúng tôi ở chốn thôn quê, tỉnh Sơn Tây không khác nào ếch ngồi đáy giếng không biết trời cao đất dày lại dám táo gan tới đây quấy nhiễu. Ngày nay được các vị hào hiệp của phái Võ Ðang khoan hồng tha thứ, lại còn giải cứu mối nguy của chúng tôi tại hạ cám ơn vô cùng, vì vậy mới tới đây trước để cảm ơn quý vị sau là tạ lỗi mong ba vị là người lớn tha thứ cho chúng tôi là những kẻ vụng dại.

Nói xong, y quì xuống vái lạy, Thúy Sơn vội giơ tay ra đỡ hỏi:

– Mạnh lão sư hà tất phải thủ lễ như thế.

Chính Phi ngập ngừng mãi muốn nói rồi lại thôi.

Thấy vậy, Liên Châu liền hỏi:

– Mạnh lão sư cứ việc tự nhiên nói ra hà tất phải ấp úng như vậy?

Chính Phi liền nói:

Tại hạ chỉ yêu cầu Dư nhị hiệp ban cho một câu để chúng tôi trở về thưa lại với sư phụ.

Liên Châu cau mày lại vừa cười vừa hỏi:

– Có phải quý vị không ngại quãng đường xa xôi tới đây là muốn biết tung tích của Tạ Tốn đấy không? Nhưng không hiểu Kim Mao Sư Vương với quý môn phái có thù hận gì?

Chính Phi rầu rĩ dáp:

– Gia huynh Mạnh Chính Nhân đã bị Tạ Tốn dùng chưởng đánh chết một cách thảm khốc vô cùng.

Liên Châu nghe nói giật mình kinh hãi và tiếp:

– Quả thực chúng tôi có nỗi khổ tâm nên không sao thưa cùng quý vị về tung tích của Tạ Tốn được. Vậy mong Mạnh lão sư cùng quý vị thứ lỗi cho. Còn quý vị có trách cứ hay không, chúng tôi cũng đành chịu. Khi mạnh lão sư về gặp tôn sư Ôn lão gia thì xin nói hộ, là chúng tôi Dư nhị , Trương ngũ và Hân lục vấn an.

Chính Phi lại tiếp:

– Như vậy tại hạ xin cáo biệt, sau này phái Võ Ðang có việc gì cần sai bảo thì cho chúng tôi hay. Tuy năng lực rất kém cỏi, nhưng chúng tôi cũng sẽ tới ngay để chờ lệnh của quý phái.

Nói xong, y với năm người nọ vái chào mọi người rồi rút đi ngay.

Thiếu phụ nọ đi được mấy bước liền quay lại quì xuống và nói:

– Tiện thiếp được bảo tồn danh tiết là nhờ quý hiệp sĩ phái Võ Ðang ban cho. Tiện thiép còn sống ngày nào trên đời này thì không bao giờ dám quên ơn đại đức của quý vị.

Ba người của phái Võ Ðang không hiểu nguyên nhân ra sao cả, nhất là khi nàng nói đến hai chữ danh tiết, tuy ngạc nhiên nhưng không tiện hỏi lại nên khiêm tốn ậm ừ vài tiếng thôi.

Thiếu phụ nọ liền vái mấy vái rồi ra đi ngay.

Sáu người của Ngũ Phụng Ðao vừa đi khỏi, thì màn cửa lại kéo lên. Một người lách mình bước vào, chạy lại ôm chặt lấy Thúy Sơn.

Thấy rõ mặt người nọ Thúy Sơn mừng rỡ vô cùng la lên:

– Tứ ca!

Thì ra người đó là Trương Tòng Khê.

Thúy Sơn lại nói, tứ ca quả thật là người đa mưu túc trí thần ké diệu toàn nên mới khiến được môn hạ của Ngũ Phụng Ðao từ địch hóa thành bạn. Việc này không phải chuyện dễ.

Tòng Khê đáp:

– Ðó cũng là do sự ngẫu nhiên, chớ tiểu huynh có công gì đâu.

Thế rồi chàng kể rõ đầu đuôi cho ba người.

Thiếu phụ nói trên họ Ôn, con gái thứ hai của người trưởng môn Ngũ Phụng Ðao. Chồng nàng là Mạnh Chính Phi, tất cả bọn chúng sáu người xuống Hồ Bắc tìm kiếm tung tích của Tạ Tốn. Giữa đường chúng gặp trại chủ Tam Giang Bang mới hay Trương Thúy Sơn của phái Võ Ðang biết rõ tung tích Tạ Tốn. Thiếu phụ họ Ôn được cha mẹ nuông chiều quen rồi, liền chủ trương lập kế bắt Thúy Sơn tra hỏi, Chính Phi xưa nay vấn có tiếng là sợ vợ nhưng không hiểu sao lần này y cưỡng lại kế hoạch của vợ. Theo lời Chính Phi thì đệ tử Võ Ðang lợi hại lắm chi bằng lễ phép mà yêu cầu thì hơn. Nếu đối phương không chịu nghe theo lúc đó mới nghĩ cách đối phó. Nhưng Ôn Thị lại chủ trương:

– Dịp may này rất hiếm có, nếu để Thúy Sơn về tới núi Võ Ðang thì sư huynh đệ của Thúy Sơn sẽ họp nhau lại có Trương Tam Phong làm bùa hộ mạng làm sao tra hỏi được.

Thế rồi hai vợ chồng mỗi người một ý kiến, gây thành cuộc cãi vã, còn bốn người đi theo là sư đệ và sư điệt không ai dám lên tiếng cản ngăn.

Ôn Thị cả giận liền nói:

– Anh là một con mà nhát gan! Trả thù đây là là trả thù cho huynh trưởng của anh chớ có phải của em đâu. hừ anh sợ các đệ tử phái Võ Ðang đến thế, thì dù Thúy Sơn có nói rõ tung tích Tạ Tốn thử hỏi anh có đủ can đảm đi tìm y không? Tôi lấy phải anh, một con ma nhát gan, thật là xui xẻo cho đời tôi.

Chính Phi vẫn quen sợ vợ nghe vợ nói như vậy không dám cãi đành phải nghe theo ý Ôn Thị mà hành động. Theo kế hoạch của Ôn Thị là dọc đường ngầm ngầm bỏ thuốc mê để cho vợ chồng Thúy Sơn uống, nhưng Chính Phi nhứt định không chịu làm như vậy, vì thế Ôn Thị mới nổi giận, nhân lúc chồng ngủ say liền lẻn đi một mình. Ngờ đâu một tên trại chủ Tam Giang bang biết được, lại thấy Ôn Thị xinh đẹp mới nổi lòng tà dâm bèn ngấm ngầm theo sau. Ôn Thị định dùng thuốc mê là mê vợ chồng Thúy Sơn ngờ đâu chính nàng lại uống phải thuốc mê đó. Nhưng cả nàng lẫn tên trại chủ Tam Giang bang không ngờ Trương Tòng Khê ẩn núp trong bóng tối xem xét hành động của chúng. Chờ tới khi Ôn Thị sắp bị tên trại chủ kia hãm hiếp, Tòng Khê mới ra tay tương cứu. Chàng trừng trị tên trại chủ đó một phen rồi đuổi cổ đi. Chàng không nói rõ tên họ của mình cho On Thị hay chỉ cho nàng biết là đệ tử của phái Võ Ðang thôi.

Ôn Thị vừa kinh hãi vừa xấu hổ, trở về gặp chồng nói rõ nguyên nhân. Rồi hai người bàn tán nhau đều công nhận phái Võ Ðang là người đại ơn đại đức của bổn môn, nên hai vợ chồng cùng mấy tay bộ hạ tới quán trọ để cám ơn anh em Liên Châu. Tòng Khê chờ sáu người của Ngũ Phụng Ðao đi khỏi mới xuất hiện. Sở dĩ chàng lánh mặt là sợ Ôn Thị thấy chàng đâm ra xấu hổ.

Thúy Sơn nghe Tòng Khê nói xong, thở dài và nói:

– Ðối phó với Tam Giang bang không phải là chuyện khó, nhưng tứ ca hành sự rất khôn khéo để cho tên đó có dịp hối cãi và phùng hưng hoán cải như vậy, thật đúng lối của sư phụ.

Tòng Khê vừa cười vừa nói:

– Mười năm không gặp nhau, thế mà vừa gặp mặt ngũ đệ đã tâng bốc ta rồi.

Ðêm hôm đó, bốn sư huynh đệ nằm chung một giường chuyện trò suốt đêm.

Tòng Khê tuy là người đa mưu túc trí nhưng vẫn không đoán ra vị cao thủ nào đã giả dạng quân Nguyên để bắt cóc Vô Kỵ.

Sáng hôm sau, Thúy Sơn giới thiệu Tòng Khê với Tố Tố rồi năm người thủng thẳng về phía núi Võ Ðang.

Giữa đường còn phải nghỉ trọ ở khách sạn 1 đêm, đến hôm sau mới tới núi.

Cách biệt nơi sinh trưởng ngót mười năm trở về đây Thúy Sơn sắp được bái kiến sư phụ gặp gỡ các anh em lòng mừng vui vô hạn.

Tuy vợ vẫn còn đau, con mất tích nhưng trong lòng vẫn cảm thấy vui nhiều hơn buồn rầu.

Lúc năm người lên tới trên núi thấy ngoài cửa quan đã có cột tám con ngựa, biết ngay đó là ngựa bổn sơn, nên Tòng Khê lên tiếng nói:

– Chắc có khách tới thăm, chúng ta nên vào cửa hông thì hơn, khỏi mất công chào họ.

Thế rồi Thúy Sơn đỡ vợ theo cửa hông vào trong quan.

Các đạo nhân và người làm trong quan thấy Thúy Sơn bình yên trở về đều hoan hỉ vô cùng.

Thúy Sơn muốn đi bái kiến sư phụ ngay, nhưng tên đạo đòng hầu hạ Trương Tam Phong cho chàng hay là Trương chân nhan chưa khai quan.

Thúy Sơn đành phải quì lạy ở ngoài cửa, nơi sư phụ toạ quan.

Ðoạn chàng mơi tới thăm đại Nham. đạo đồng hầu hạ Dư đại Nham liền ngăn lại:

– Tam sư thúc đang ngủ, ngũ sư thúc để lúc khác hãy vào thăm thì hơn. Hay là để cháu vào gọi tam sư thúc dậy.

Thúy Sơn vội xua tay, rồi rón rén đi vào phòng.

Ðại Nham đang nhắm mắt ngủ say, sắc mặt lợt lạt hai mà hõm lại. Tội nghiệp thay một đại hiệp trước mạnh như rông như hổ, giờ còn lại thân tàn, như có xác mà không có hồn.

Thúy Sơn ngắm nhìn Ðại Nham một hồi rồi ôm mặt đi ra và hỏi đạo đồng rằng:

– Ðại sư bá với thất sư thúc hiện ở đâu?

Tiểu đông đáp:

– Hiện đang ở khách sảnh.

– Chẳng hay khách nào thế?

– HÌnh như những người đi bảo tiêu.

Lợi Hanh lúc ấy vừa trở lại nghe Thúy Sơn đang hỏi liền đỡ lời:

– Ba người đó là Kỳ Thiên Bưu, tổng tiêu đầu của Hổ phiêu tiêu cục ở Kim Lăng, Văn Hạt tổng tiêu đầu của Tần Dương Thái Nguyên và Cung Cửu Giai, tổng tiêu đầu của của Yếu Vân ở Kinh sư.

Thúy Sơn hơi kinh hãi và hỏi lại:

– Hiện giờ ở trong số các tổng tiêu đầu toàn quốc, phải công nhận ba người đó võ công cao nhất, và danh vọng cũng lớn nhất. Chẳng hay việc gì mà họ cùng một lúc đưa nhau lên núi Võ Ðang?

Lợi Hanh vừa cười vừa đáp, chắc họ mất ngân tiêu gì đó mà người cướp đoạt quá mạnh nên họ biết địch không lại mới đến đây cậy sư huynh chúng ta cũng nên? Mấy năm nay, đại ca chúng ta hay giúp giới giang hồ bất cứ ai gặp việc gì nguy nan, hễ đến mời đại ca ra mặt giúp là đại ca nhận lời ngay.

Thúy Sơn mỉm cười tiếp:

– Ðại ca là người từ bi, không bao giờ thỏi thoát. mười năm không gặp, không biết đại ca có già thêm chút nào không?

Nghĩ tới đó, chàng muốn được gặp đại ca ngay, liền nói thêm:

– Lục đệ, chúng ta đi ra ngoài khách sảnh để ngu huynh núp sau bình phong xem mặt đại ca đi.

Thế rồi, hai người rón rén ra ngoài khách sảnh, đứng núp sau bình phong ngó ra. Thúy Sơn thấy Tống Viễn Kiều và Mạc Thanh Cốc ngồi phía dưới chỗ chủ nhân, để tiếp khách.

Tống Viễn Kiều mặc quần áo đạo sĩ, vẻ mặt không thay đổi gì mầy chỉ mập mạp hơn xưa, và hai bên mái tóc hơi hoa râm một chút. Sự thực Viễn Kiều không muốn đi tu, nhưng vì thấy sư phụ là người đạo đức vả lại ở trong đạo quan, nên khi nào ở trên núi là chàng ăn mặc theo đạo sĩ, còn lúc xuống núi mới ăn mặc theo người tục. Còn Mạc Thanh Cốc cao lớn vạm vỡ hơn xưa nhiều. Tuy tuổi mới hai mươi mà đã mọc đầy râu, trông già hơn Thúy Sơn.

Thúy Sơn và Lợi Hanh đang để ý mọi người bên ngoài thấy Thanh Cốc lớn tiếng nói:

– Ðại sư ca của chúng tôi nói một là một hai là hai, đã có ba chữ Tống Viễn Kiều bảo đảm, ba vị còn không tin sao?

Thúy Sơn nghĩ thầm:

– Tính nết có thể thất đệ vẫn không thay đổi chút nào, không hiểu vì việc gì y cãi vã với những người ấy như thế?

Chàng lại đưa mắt nhìn mấy người khách, thấy ba người đó tuổi trạc năm mươi, một người khí độ oai mãnh, một người vừa cao vừa gầy, một người diện mạo trông rất thanh tao, nhưng tựa như một người bịnh vậy.

Sau ba người lại có năm người, chắc là theo hầu mấy người kia. Chàng vừa nhìn tới đó, thì nghe người vừa cao vừa gầy lên tiếng:

– Nếu Tống đại hiệp đã nói vậy, chúng tôi đâu đám không tin nhưng không biết bao giờ Trương ngũ hiệp mới về tới ? Chẳng hay hai vị có thể cho chúng tôi biết ngày giờ đích xác không? Thúy Sơn nghe người đó nói tới Trương ngũ hiệp thì kinh ngạc vô cùng và nghĩ thầm: “Thì ra ba tổng tiêu đầu đó vì ta mà tới đây, chắc họ định dò hỏi tung tích nghĩa huynh ta chăng?”

Chàng lại nghe Thanh Cốc nói tiếp:

– Bảy anh em chúng tôi tuy bản lĩnh rất hèn kém nhưng việc hành hiệp trượng nghĩa thì xưa nay không chịu kém ai cả nên cũng được các bạn giang hồ quá khen mà cho ngoại hiệu là Võ Ðang thất hiệp, bốn chữ Võ Ðang thất hiệp đó nói ra thật hổ thẹn, thật tình chúng tôi đâu dám nhận .

Thúy Sơn lại nghĩ tiếp :

– Mười năm không gặp mặt nhau, không ngờ thật đệ lại khéo ăn nói đến thế. Xưa kia người ta mới hỏi một câu y đã đỏ mặt nửa ngày, mới trả lời được một câu. Trong mười năm qua, ngoài ta và tam ca ai nấy đều tiến bộ nhanh chóng vô cùng.

Thanh Cốc lại tiếp:

– Nhưng chúng tôi đã lỡ mang cái tên đó thì phải thừa nghiêm huấn của ân sư mà hành sự, quyết không lầm nửa bước. Trương ngũ ca là một trong Võ Ðang thất hiệp, anh ta văn võ song toàn nho nhã hòa thuận. Trong bảy anh em chúng tôi, chỉ có tính nết của anh ấy là thuần nhất. Tại sao quý vị cứ nhất định vu cho anh ấy giết cả nhà Long Môn tiêu cuộc?

Thúy Sơn nghe nói rùng mình và nghĩ thầm:

– Thì ra bọn ngay vì việc Ðỗ Ðại Cẩm của Long Môn tiêu cuộc mà tới đây. Xưa nay ta vẫn nghe ở phía Nam sông Trường Giang các tiêu cuộc đều tôn Hổ Phiêu ở Kim Lăng là thủ lãnh, chắc họ mới nghe tin ta ở hải ngoại về, nên Hổ Phiêu mới rủ hai tổng tiêu đầu của Tấn Dương và Yên Văn tới đây vấn tội .

Ðại hán có khí độ oai mãnh lên tiếng:

– Cái oai của Võ Ðang thất hiệp đã lừng lẫy bốn phương, người trong võ lâm ai mà không ton kính, còn chúng tôi thì đã nghe từ lâu, như sấm động bên tai.

Thanh Cốc nghe tổng tiêu đầu đó chế nhạo mình như vậy, liền biết sắc trả lời:

– Kỳ tổng tiêu đầu muốn gì, cứ nói thẳng ra.

Ðại hán có khí độ oai mãnh đó chính là Kỳ Thiên Bưu tổng tiêu đầu của Hổ Phiêu tiêu cục.

Y bèn lớn tiếng:

– Võ Ðang thất hiệp nói một là một nói hai là hai. Nhưng chẳng lẽ quý vị cao tăng của phái thiếu lâm lại chuyên môn nói dối, nói trá sao? Tăng nhân của phái phái Thiếu Lâm đã chính mắt trông thấy cả nhà già trẻ lớn bé của Long Môn tiêu cuộc ở Lâm An đều bị Trương ngũ hiệp giết!

Y nói đến ba tiếng Trương ngũ hiệp lại kéo dài ra hiển nhiên là chế nhạo Thúy Sơn, cho chàng không đáng là một hiệp sĩ.

Lợi Hanh đứng sau bình phong, nghe Thiên Bưu nói như vậy, tức giận vô cùng muốn chạy ra tát tai y ba cái liền. Nhưng Thúy Sơn đã vội nắm tay chàng lại, lắc đầu ngầm bảo chàng chớ nên nóng.

Lợi Hanh thấy Thúy Sơn có vẻ khó chịu và đau đớn, không hiểu tại sao trong lòng nghĩ thầm:

– Lòng nhẫn nại của đại ca càng ngày càng khá hơn trước, thảo nào sư phụ cứ khen anh ấy hoài .

Thanh Cốc đứng dậy lớn tiếng nói :

– Ðừng nói ngũ ca mỗi lúc này chưa về núi, mà dù anh ấy có về núi rồi, anh ấy cũng trả lời quý vị như thế thôi. Mạc mỗ với Thúy Sơn cùng sinh tử có nhau, việc anh ấy tức là việc của mỗ. Ba vị muốn tới đây để kiếm Thúy Sơn trả thù, thì cứ đối phó với mỗ đây đủ rồi. Nếu ba vị phân biệt phải trái thì cứ nhất định vu khống cho ngũ ca mỗ là kẻ giết hại cả nhà Long môn tiêu cuộc thì cứ coi như tất cả những việc đó mạc mỗ gây ra vậy. Ba vị muốn trả thù cho Long Môn tiêu cuộc thì cứ việc giết Mạc mỗ đây là xong.

Kỳ Thiên Bưu cả giận, đột nhiên đứng lên quát:

– Ngày hôm nay Kỳ mỗ lên núi Võ Ðang quấy rầy các nhân sĩ trong thiên hạ đều cười là kẻ múa rìu qua mắt thợ không biết tự lượng sức mình chút nào, nhưng cả nhà của Long môn tiêu cuộc bị giết trước đây mười năm vẫn bị trầm oan cha ai rửa hận, nên Kỳ mỗ không sao nhịn được. đằng nào phái Võ Ðang cũng đã giết bảy mươi hai mạng người của Long Môn tiêu cuộc rồi thì bây giờ giết thêm Kỳ mỗ cũng không sao. Ngày hôm nay Kỳ mỗ được tưới máu của mình ở núi Võ Ðang cũng coi như là chết phải chỗ lắm. Lúc chúng tôi lên núi, vì tôn trọng đức cao trọng vọng của Trương Chân Nhân nên không đem khí giới theo, vậy bây giờ Kỳ mỗ xin lãnh cái chết dưới tay Mạc thất hiệp bằng quyền pháp vậy.

Nói xong, y bước tới giữa khách sảnh.

Tống Viễn Kiều vẫn ngồi yên, không nói nửa lời, lúc này thấy hai người đã đi đến chỗ quyết liệt và sắp đánh nhau, bèn giơ tay cản Thanh Cốc lại mỉm cười nói:

– Ba vị lên tới tệ sơn, nói đi nói lại và cứ nhất định đổ riệt cho ngũ sư điệt chúng tôi giết cả nhà Long Môn tiêu cuộc ở Lâm An, cũng may tệ sư đệ cũng sắp về tới núi rồi, ba vị hãy tạm nhịn ít lâu, để gặp mặt tệ sư đệ rồi hãy phân biệt phải trái sau, chẳng hay ba vị nghĩ sao?

Cung Cửu Giai tổng tiêu đầu của Yến Văn tiêu cục người gầy gò trông như có bệnh nhưng rất nhiều mưu trí liền đứng lên nói:

– Kỳ tổng tiêu đầu hãy ngồi xuống, Trương ngũ hiệp chưa về tới núi thì việc này vẫn chưa thể dứt khoát được, chi bằng chúng ta hãy bái kiến Trương chân nhân và xin ông ta cho một chỉ thị rõ ràng. Trương chân nhân là một vị Thái sơn bắc đẩu trong võ lâm ngày nay thiên hạ anh hùng hảo hán ai mà chẳng kính ngưỡng, chẳng lẽ cụ đi bênh vực đệ tử sao?

Mấy lời nói của y, tuy rất khách sáo, nhưng bên trong bao hàm ý nghĩa rất lợi hại, làm sao Thanh Cốc không hiểu ý nghĩa đó, chàng liền trả lời:

– Gia sư hiện đang tịnh tu chưa tới ngày khai quan. Hơn nữa những năm gần đây việc của phái Võ Ðang chúng tôi đều do đại sư ca xử lý. Trừ những cao nhân có danh vọng thật lớn trong võ lâm gia sư rất ít tiếp khách.

Y nghĩa lời chàng nói là ba người không có tư cách gặp sư phụ.

Văn Gạt tổng tiêu đầu của Tấn Dương tiêu cuộc cười nhạt đáp:

– Việc thiên hạ kể cũng khéo ngẫu nhiên, vừa lúc chúng tôi lên trên núi, thì Trương chan nhân lại bế quan! Nhưng đối với bảy mươi mấy nhân mạng của long môn tiêu cục không thể dùng sự bế quan mà trốn tránh được đâu.

Cung Cửu Giai nghe Văn Hạt nói vậy vội đưa mắt cấm thị.

Nhưng Thanh Cốc đã không còn nhịn được nữa lớn tiếng quát liền:

– Người bảo sư phụ ta vì việc ấy mà bế quan phải không?

Cung Cửu Giai cười nhạt một tiếng, nhưng không trả lời.

Tống Viễn Kiều tuy rất nhẫn nại nhưng khi nghe Văn Hạt nhục mạ ân sư, chàng cũng không sao chịu được. Chàng nhận thấy hơn mười năm nay chưa ai dám thốt lên lới thất kính với Trương Tam Phong trước mặt Võ Ðang thất hiệp, nên chàng từ từ nói:

– Ba vị ở xa tới là khách, chúng tôi không dám mích lòng chút nào vậy xin tiễn khách.

Tống Viễn Kiều nói xong, vung tay ném một cái ba hòn đạn liên tiếp bay ra xượt qua đầu của ba vị tổng tiêu đầu.

Ba vị này không thấy kịp nên không sao tránh được nếu Tống Viễn Kiều cố ý hại cả ba. Cả ba đều kinh hãi vô cùng.

Ba tổng tiêu đầu lúc này mới biết Tống Viễn Kiều đứng trước mặt kia thật nho nhã hiền lành và khiêm tốn mà võ công tuyệt luân không thể tưởng tượng được.

Thiên Bưu là người nhanh nhảu hơn vội chắp tay vái chào nói:

– Cám ơn Tông đại hiệp đã nể nang không hạ độc thủ xin cáo biết từ đây.

Viễn Kiều và Thanh Cốc tiễn ba người ra tận mái hiên.

Thiên Bưu vội quay lại nói:

– Hai vị hãy lui bước, khỏi phải tiễn xa.

Viễn Kiều đáp, mấy khi được ba vị tổng tiêu đầu giáng lâm tệ sơn, chúng tôi thế nào cũng phải tiến tới bên ngoài và một ngày gần đây tại hạ sẽ đi Kinh Sư Thái Nguyên và Kim Lăng ba nơi sẽ tới các quý cuộc đáp lễ.

Thiên Bưu liền đỡ lời:

– Chúng tôi đấu dám phiền đến Tống đại hiệp.

Y lãnh giáo võ công của Viễn Kiều rồi, cảm thấy vị Tống đại hiệp này, tuy võ công cao siêu như vậy mà ăn nói rất lễ phép không có vẻ gì là kiêu ngạo cả, lòng y đã cảm phục Viễn Kiều vô cùng và vẻ mặt không còn hung hăng như lúc mới tới núi vấn tội nữa.

Hai người đang chuyện trò khách sáo, đột nhiên bên ngoài có một chàng thanh niên, mặt rất anh tuấn người bé nhỏ nhanh nhẹn đang hấp tấp đi tới, Viễn Kiều thấy người nọ liền lên tiếng ngay:

– Tứ đệ đã gặp ba bạn này chưa?

Nói xong, chàng giới thiệu bọn Thiên Bưu với Tòng Khê.

Tòng Khê vừa cười vừa nói:

– Ba vị tới thật đúng lúc, tôi đang có mấy vật và vài việc để giao cho quý vị.

Chàng vừa nói vừa móc trong túi ra, giao cho mỗi người một gói nhỏ, Thiên Bưu liền hỏi:

– Cái gì thế hở Trương tứ hiệp.

Tòng Khê đáp:

– Ở đây giở ra xem không tiện, quý vị xuống núi hãy giở ra xem.

Tiếp theo đó, ba anh em Võ Ðang tiễn ba tổng tiêu đầu ra khỏi cửa đạo quan, rồi mới từ biệt.

Chờ ba người đi khỏi, Thanh Cốc vội hỏi:

– Tứ ca, ngũ ca đâu? anh ấy đã về núi chưa?

Tòng Khê vừa cười vừa nói:

– Thất đệ hãy vào gặp ngũ đệ trước, ngu huynh với đại ca ở lại ngoài khách sảnh chờ ba vị tổng tiêu đầu trở lại.

Thanh Cốc ngạc nhiên hỏi:

– Ba người đó còn quay lại làm gì?

Nhưng chàng vẫn nhớ Thúy Sơn nói xong không chờ Tòng Khê trả lời, đã chạy thẳng vào trong nhà.

Thanh Cốc vừa bước vào trong nội đường thì quả nhiên bọn Thiên Bưu ba người đang trở lại, quì lạy Viễn Kiều và Tòng Khê ngay.

Hai anh em Viễn Kiều vội đáp lễ.

Văn Hạt nói, đại ân đại đức của các vị đại hiệp của phái Võ Ðang thật khôn lường đến bây giờ Văn mỗ vì quá nóng đã lỡ lời xúc phạm đến Trương chân nhân thật không bằng con heo con chó.

Nói xong, y giơ tay thẳng lên, tự tát vào má mười mấy cái liền.

Anh em Viễn Kiều thấy Văn Hạt đánh hai má đỏ bừng và sưng húp vẫn chưa ngừng tay.

Viễn Kiều ngạc nhiên không hiểu tại sao cả vội giơ tay ngăn cản .

Tòng Khê nói:

– Văn tổng tiêu đầu là một nam nhi có chí khí lớn về việc xua đuổi bọn Mông cổ ra khỏi bờ cõi lấy lại giang sơn đất nước cho chúng ta, thì bất cứ người trai nào của nước Trung Hoa cũng đều phải gánh vác. Việc nhỏ mọn ấy là phận sự của chúng tôi phải làm Văn tổng tiêu đầu hà tất tự khiển trách như vậy?

Văn Hạt đáp:

– Mẹ già con thơ và tính mạng gia đình Văn mỗ đều được quý vị ban cho. Văn mỗ ngu si dốt nát trong 55 nay tựa như nằm mơ vậy. Nghĩ đến vừa rồi Văn mỗ ăn nói vô lễ nếu được hai vị đánh cho một trận thật đau thì lương tâm Văn mỗ mới được yên phần nào.

Tòng Khê mỉm cười:

– Việc đã qua, Vân lão tiêu đầu đừng nhắc tới nữa. Chính gia sư đã đích tai nghe hai câu nói đó, va cũng kính mến hành vi của Văn tổng tiêu đầu nên gia sư không bao giờ để bụng chuyện đó đâu.

Nhưng Văn Hạt vẫn nơm nớp không yên, cứ tự khiển trách hoài.

Viễn Kiều không hiểu nguyên nhân bên trong, chỉ thuận miệng khiêm tốn nói vài cây nữa thôi. Nhưng chàng thấy Cửu Giai và Thiên Bu cứ cám ơn luôn miệng.

Trái lại Tòng Khê không kính trọng và thân mật hai người đó như đối với Văn Hạt.

Sau đó ba vị tổng tiêu đầu nhất định đòi tới chỗ Trương tam Phong tọa quan để được quì lạy ở ngoài cửa và gặp cho được Thanh Cốc để tạ tội.

Nhưng Tòng Khê nhất nhất từ chối hết, lúc ấy ba người mới cáo lui xuống núi.

Ba người đi khỏi ròi, Tòng Khê thở dài một tiếng nói:

– Tuy ba người ấy trong lòng rất cám ơn chúng ta nhưng không thấy họ nhắc nhở tới nhân mạng của Long Môn tiêu cuộc gì cả. Xem ra họ cảm ơn là một việc còn vụ án kia họ coi như một việc.

Viễn Kiều định hỏi nguyên nhân ra sao, đã thấy Thúy Sơn ở trong nội đường chạy ra quì xuống đất vái lạy và nói:

– Tiểu đệ nhớ đại ca quá.

Viễn Kiều là người rất khiêm tốn mặc dầu đối với đồng môn sư đệ cũng vậy đã vội cung kính đáp lễ nói:

– Ngũ đệ đã trở về.

Thúy Sơn liền kể qua loa chuyện cách biệt bấy lâu cho mấy anh em nghe.

Thanh Cốc nóng lòng vội hỏi:

– Ngũ ca, ba tên tiêu khách đó vô lễ lắm, chúng nhứt định vu khống cho ngũ ca giết gia đình Long môn tiêu cuộc. Ngũ ca tốt nhịn thật tại sao không ra cho chúng một bài học hể chúng sáng mắt ra.

Thúy Sơn mặt rầu rĩ thở dài một tiếng rồi đáp:

– Nguyên ủy của vụ này rất phức tạp chỉ vài lời không sao nói hết được, hãy đợi chờ tam ca thức tỉnh đệ sẽ báo cáo tường tận, để quý vị huynh đệ cùng suy nghĩ một mưu kế hay mà giải quyết cho xong.

Lợi Hanh liền an ủi Thúy Sơn:

– Ngũ ca cứ yên tâm. Long Môn tiêu cuộc hộ giá tam sư ca bất lực nên tam sư ca mới bị tàn phế suốt đời. Dù có phải là ngũ ca giết cả nhà Long Môn tiêu cuộc đi chăng nữa, cũng chỉ vì tình nghĩa anh em chúng ta quá thâm sâu mà dụng lòng nghĩa hiệp cũng phẫn uất.

Liên Châu vội quát mắng:

– Lục đệ chớ nói lung tung. Nếu những lời của đệ vừa nói tới tai sư phụ thì lục đệ bị giam vào trong phòng tối ngay. Anh em chúng ta có khi nào làm những trò giết toàn gia người như thế đâu mà lục đệ lại nói ví dụ.

Năm anh em đều đưa mắt nhìn Thúy Sơn chỉ thấy thần sắc của chàng rất thê thảm. Một lát sau chàng lại nói:

– Ðệ không giết một người nào ở Long Môn tiêu cuộc cả. Không bao giờ đệ dám quên lời dạy bảo của sư phụ và cũng không dám làm lụy tới thịnh đức của quý anh em.

Năm người nghe chàng nói vậy, đều cả mừng, và cũng thở ra nhẹ nhõm. Tuy tất cả anh em đều không tin Thúy Sơn đã ra tay giết cả gia đình Long Môn tiêu cuộc nhưng họ thấy các cao tăng của phái Thiếu Lâm nói chắc chắn như vậy, và còn nói chính mắt thấy. Hơn nữa họ lại thấy lúc ba Tổng tiêu đầu tới vấn tội, không thấy Thúy Sơn xông ra đính chính thị phi gì cả nên người nào người nấy trong lòng đều có chút hoài nghi. Bây giờ họ nghe Thúy Sơn nói như vậy đều yên tâm và cũng nghĩ:

– Chắc bên trong có nhiều chuyện khó nói, nhưng quý hồ không phải Thúy Sơn ra tay giết những người đó là yên trí rồi. Sau này thế nào cũng có ngày giải quyết minh bạch ngay .

Tiếp theo đó, Thanh Cốc liền hỏi Tòng Khê về nguyên do tại sao ba tổng tiêu đầu đã đi khỏi lại quay trở lại.

Tòng Khê vừa cười vừa nói :

– Trong ba tổng tiêu đầu ấy, chỉ có Văn Hạt là ăn nói vô lễ nhất, lại tốt bụng hơn ai cả. Y ở Thiểm tây rát có danh vọng, đã ngấm ngầm liên lạc với các anh hùng hào kiệt ở Sơn Tây và Thiểm Tây cắt máu ăn thề để khởi nghĩa phản kháng quân mông cổ.

Tống Viễn Kiều và bốn anh em kia đều vỗ tay khen ngợi.

Thanh Cốc còn lên tiếng nói:

– Không ngờ y có nghĩa khí như vậy, thật đáng kính trọng. Tứ ca đừng nói chuyện này vội đợi tiểu đệ về đã rồi hãy nói sau.

Nói xong chàng chạy thẳng ra ngoài.

Tòng Khê chỉ hỏi han Thúy Sơn về những phong vật trên Băng Hỏa đảo thôi.

Thúy Sơn để tới chuyện con Ngọc diện hỏa hầu linh dị như thế nào bốn người kia kinh ngạc vô cùng.

Thúy Sơn lại nói tiếp:

– Chúng tôi định đem con Ngọc diện hỏa hầu về Trung thổ, nhưng khi bè gỗ trôi được mấy ngày thì tiết trời ấm áp dần, nó không quen khí hậu nóng nên nhảy xuống biển leo lên một tảng băng đi ngược về phía bắc. Chắc bây giờ nó đã về tới Băng Hỏa đảo cũng nên?

Lợi Hanh xen vào:

– Ðáng tiếc thật!

Viễn Kiều cũng lên tiếng:

– Một con khỉ nhỏ như vậy mà xé nổi óc con gấu, thật không thể tưởng tượng.

Thúy Sơn lại tiếp:

– Con hỏa hầu ấy tuy hình thù là con khỉ nhưng đẹ tưởng nó không phải là loài hầu vượn đâu? Chắc Băng Hỏa đảo khí hậu kỳ lạ nhờ linh khí của thiên địa sinh ra giống kỳ thú đó chăng?

Viễn Kiều gật đầu đáp:

– Ngay trong Trung thổ, ở những nơi thâm sơn cùng cốc cũng có những thứ linh vật nhưng người không ra người thú không ra thú.

Mọi người đang nói chuyện, Thanh Cốc đã chay về nói:

– Ðệ đuổi theo Văn tổng tiêu đầu vái chào và xin lỗi còn khen y là một nam nhi đại trượng phu nữa.

Mọi người đều biết người tiểu sư đệ này tính rất thẳng thắn và đoán ngay y vừa đi đâu về.

Vừa đi vừa về hơn sáu dặm đường Thanh Cốc không mệt mỏi chút nào. Chàng nghĩ Văn Hạt là người có huyết tính, nếu không đuổi kịp theo xin lỗi và xử hòa thì có lẽ mấy đêm liền chàng cũng không sao ngủ yên được.

Lợi Hanh lại nói:

– Thất đệ, câu chuyện của tứ ca vẫn còn đợi hiền đệ về mới nói, nhưng câu chuyện Ngọc diện hỏa hầu của ngũ ca nghe còn thú hơn nhiều.

Thanh Cốc nghe nói nhảy bắn lên và hỏi:

– Thực thế?

Tòng Khê thấy Thanh Cốc đã trở về liền lên tiếng nói tiếp câu chuyện vừa rồi:

– Văn hạt vừa trù tính xong mọi kế hoạch Thanh Cốc xua tay nói:

– Xin lỗi tứ ca, hãy chờ em một lát nữa .

Thúy Sơn mỉm cười nói:

– Thất đệ không bao giờ chịu thiệt thòi.

Thế rồi chàng đem chuyện con Ngọc diện hỏa hầu kể cho Thanh Cốc nghe.

Thanh Cốc liền tiếp:

– Lạ thạt lạ thật! Bây giờ đến lượt tứ ca nói tiếp đi.

Tòng Khê lên tiếng:

– Văn Hạt vừa trù tính xong mọi kế hoạch, chỉ đợi ngày giờ tới là ra lệnh cho Thái Nguyên đại đồng và Phần Dương đông thời khời nghĩa, không ngờ trong bọn người đồng minh đó lại có một tên đại phản đồ. Ba đêm trước ngày khởi nghĩa tên ấy lấy trộm danh sách của mọi người và tờ kế hoạch chính tay Văn Hạt thảo đem dâng cho quân Mông Cổ để cáo mật..

Thanh Cốc vỗ đùi la lớn:

– Ối chà nguy quá!

Tòng Khê lại tiếp:

– May thay lúc ấy đệ ở Thái Nguyên, liền cho quan Tri phủ một bài học. Nửa đêm đệ lén vào trong phủ nha, thấy tên phản đồ đó đang bàn tán với quan Tri phủ định một mật báo cho nhà vua biết, một mặt điều binh khiển tướng định bắt trọn ổ bọn người khởi nghĩa. Ðệ liền chui quá cửa sổ vào cho mỗi đứa một nhát, rồi cướp luôn tờ danh sách và bản kế hoạch đem về miền Nam. Bọn Văn Hạt phát giác tờ danh sách với kế hoạch bị mất, biết đã hỏng đại sự không những cuộc khởi nghĩa không thành mà những người trong danh sách đó sẽ bị hoạ.

Nhà người nào cũng sẽ bị đem chém đầu hết. đêm hôm ấy, bọn Văn Hạt liền báo tin để họ cao chạy xa bay mà tị nạn. Nhưng lúc bấy giờ cửa thành đóng kín, không sao đưa được tin ấy lọt ra ngoài thành để báo cho mọi người được.

Sáng sớm hôm sau, dân chúng hay tin quan Tri phủ bị ám sát thành Thái Nguyên đóng kín cửa để lùng bắt thích khách, bọn người Văn Hạt lại càng nóng lòng sốt ruột, họ nghĩ thầm: “Phen này cả nhà chúng ta bị chém giết đã đành, nhưng còn làm lụy đến bao nhiêu anh hùng nghĩa sĩ ở Sơn Tây và Thiểm Tây.”

Không ngờ chúng lo sợ trong mấy ngày liền mà vẫn được bình an vô sự, đều ngạc nhiên vô cùng, sau quân lính trong thành khám xét mãi mà không bắt được thích khách vụ án đó liền bỏ qua.

Bọn Văn Hạt thấy tên phản đồ chết trong phủ nha đoán rằng có lẽ có người ngấm ngầm ra tay cứu giúp nhưng dù sao chúng không thể đoán biết được là do đệ ra tay.

Lợi Hanh liền nói:

– Còn Cung Cửu Giai thì sao? Tứ ca giúp y những gì?

Võ công của Cung Cửu Giai cao siêu thật, nhưng nhân phẩm của y không sao bằng được Văn hạt. Sáu năm trước đây, y bảo tiêu đến tỉnh Vân Nam. Sau đó có một nhà buôn châu báu lớn ở Côn Minh nhờ y đem ngầm một món châu báu giá trị hơn sáu mươi lạng bạc đi Bắc Kinh. Nhưng khi y đi tới Giang Tây đến bờ hồ Bá Dương, thì bị ba anh em trong Bá Dương tứ nghĩa vây đánh, rồi tam nghĩa cướp món châu báu đó đi. Cung Cửu Giai có bán hết gia sản cũng không sao đền cho đủ. Huống hồ Yến Vân tiêu của y đứng đầu trong các tiêu cuộc ở Bắc phương nay y bị người chận đường cướp tiêu hàng như vậy, thì sau này còn ai dám nhờ y bảo tiêu nữa? Vì hai lẽ đó y suy đi tính lại không còn cách nào khác giải thoát bèn định tự tử trong khách điếm ở Giang Tây.

Bá Dương tam nghĩa, không phải là lục lâm thảo khấu mà cướp món châu báu ấy làm chi?

Thì ra người anh trong tứ nghĩa, phạm tội lớn bị giam trong ngục, và sắp bị xử trảm đến nơi. Hai lần cướp đề lao, tam nghĩa không sao cứu được người anh cả. Trái lại quan Tri phủ lại đề phòng nghiêm ngặt hơn trước nhiều. Sau Tam nghĩa biết quan Tri phủ đó tham tài định dùng châu báu đó để hối lộ cho tên quan tham lam để giảm khinh tội lỗi cho người anh kết nghĩa. Ðệ thấy bốn người đó rất có nghĩa khí liền lập kế cứu lão đại ra khỏi lao và bảo chúng đem trả món của báu đó lại cho Cung Cửu Giai. Tuy trông mặt của tổng tiêu đầu này rất đáng ghét và không biết ăn nói nữa, nhưng trong đời y không làm một điều gì gian ác và cũng không có giao kết với quan phủ bắt nạt luơng dân, nên đệ mới cứu y thoát chết. đệ dặn Bá Dương tứ nghĩa đừng nhắc tới tên đệ làm gì, và đệ chỉ giữ lại miếng cẩm đoan bọc những châu báu ấy thôi. Vừa rồi đệ trao cho y miếng đoạn bọc châu báu đó tất nhiên y phải hiểu ngay ai đã ra tay cứu y rồi.

Liên Châu gật đầu nói:

– Việc này tứ đệ làm rất khéo. Không nói gì Cung Cửu Giai mà Bá Dương tứ nghĩa là những người rất có nghĩa khí hiền đệ cứu họ như vậy là rất phải.

Thanh Cốc lại xen lời:

– Còn Kỳ Thiên Bưu, thì tứ ca giao cho y cái gì thế?

Tòng Khê đáp:

– Chín mũi đoạn ngô công tiêu.

Năm người nghe nói đều kêu “ủa” một tiếng. Vì đoạn hồn Ngô công tiêu rất nổi danh trên giang hồ, cùng là một môn ám khí đã làm Ngô Nhất Manh nổi tiếng ở Lương châu.

Tòng Khê lại tiếp, việc này đệ làm quả thật táo bạo. đến bây giờ nghĩ lại đệ vẫn còn kinh hãi. Ngày hôm ấy, quả thật là may mắn, Kỳ Thiên Bưu bảo tiêu đi qua Ðông Quan vô hình trung y đã gây hân với đệ tử của Nhất Manh và đấu với nhau. Ngờ đâu Kỳ Thiên Bưu dùng chưởng đánh đệ tử của Nhất Manh bị thương. Sau đó Kỳ Thiên Bưu đã biết mình gây nên tai họa lớn rồi, vội vàng trao trả tiêu ngân cho sư chủ ngay đêm ấy trở về Kim Lăng liền. Rồi y triệu tập các bạn hữu chí giao để hợp lực đối phó Nhất Manh. Ngờ đâu, y vừa về đên Lạc Dương đã bị Nhất Manh đuổi tới hẹn ngày hôm sau tỷ thí ở ngoài cửa Tây thành Lạc Dương.

Lợi Hanh lại hỏi:

– Võ công của Nhất Manh chưa chắc đã kém anh em mình như vậy Kỳ Thiên Bưu làm sao địch nổi?

Hồi thứ 24

Tính Toán Xa Xôi

Tòng Khê đáp:

– Kỳ Thiên Bưu cũng tự biết tài ba của mình không chống đỡ nổi một phi tiêu của Nhất Manh, nên y phải đi mời anh em họ Kiến ở Lạc Dương giúp sức.

Anh em họ Kiến nhận lời ngay và nói:

– Với tài ba của chúng ta, không sao địch nổi Ngô Nhất Manh đâu. Nếu Kỳ đại ca nhất định bắt anh em chúng tôi ra trợ giúp, thì chúng tôi phải vâng lời tới lúc đó sẽ đứng ở bên cạnh hò hét trợ oai. Ðược đúng trưa ngày mai anh em chúng tôi sẽ tới cửa Tây thành Lạc Dương này .

Thanh Cốc xen lời nói, anh em họ Kiến đều là những tay sử dụng ám khí rất giỏi. Có anh em y giúp sức cho thì bên Thiên Bưu ba đấu một may ra có thể đánh ngang ngửa với Nhất Manh được, nhưng không hiểu bên Nhất Manh có người nào giúp sức không?

Tòng Khê đáp:

– Nhất Manh chỉ có một mình thôi, nhưng anh em họ Kiến đã nuốt lời hứa. Sáng sơm hôm sau, Thiên Bưu đến nhà anh em họ Kiến định bàn về phương pháp đối địch ngờ đâu y vừa đến nhà họ Kiến thì người gác cửa đã nói:

– Ðại gia với nhị gia chúng tôi hôm nay bỗng có việc cần sáng hôm nay đã đi Tịnh Châu rồi, mong Kỳ lão gia đừng đợi chờ.

Thiên Bưu nghe người gác của nói như vậy, tức giận đến nổ bụng. Mấy năm trước, anh em họ Kiến bị một tai nạn ở Giang Nam, nhờ Thiên Bưu giúp đỡ cho mới thoát được. Ngờ đâu lúc này y có việc nhờ vả hai người khi gặp mặt hai anh em họ Kiến ăn nói rất sốt sắng mà tới giờ hen ước lại ẩn núp không ra tiếp.

Thiên Bưu cũng biết Nhất Manh là người rất ác độc, mà cuộc hẹn ước này không sao trốn tránh được, nên y liền ở khách điếm viết lại tờ chúc thư dặn hậu sự rồi nhờ phổ kỵ đưa tới nhà y còn y thì một mình ra cửa Tây.

Việc đó từ đầu chí cuối ra sao đều lọt vào ắt tiểu đệ.

Ngày hôm đó, đệ giả giạng một tên ăn mày nằm dưới gốc cây cổ thụ tại ngoài cửa Tây để đợi chờ.

Không bao lâu sau Nhất Manh và Thiên Bưu trước sau lần lượt tới.

Hai người liền ra tay đấu với nhau, chưa được vài hiệp Nhất Manh đã hạ độc thủ ném luôn một chiếc phi tiêu đoạn hồn ngô công.

Thiên Bưu biết không sao chống lại được đành nhắm mắt chờ chết. đệ liền tiến lên đưa tay bắt luôn mũi phi tiêu đó.

Nhất Manh vừa kinh hãi vừa quát hỏi đệ có phải là người của bên Thiên Bưu không? đệ chỉ cười khỉnh mà không trả lời.

Nhất Manh lại ném luôn tám mũi phi tiêu độc, nhưng đệ đều bắt hết.

Ám khí khiến y nổi tiếng quả thực là lợi hại vô cùng. Nếu đệ dùng võ công của bổn môn thì không khó gì hết, nhưng đệ sợ y biết mình là người phái nào nên mới giả bộ làm như chân trái đau, tay phải què chỉ sử dụng tay trái thôi, dùng võ công của Thiếu Lâm để bắt những phi tiêu đó.

Tuy đệ bắt được hết những mũi phi tiêu đó nhưng suýt tí nữa mấy mũi phi tiêu độc đó là sướt da ở bên tay thất là nguy hiểm vô cùng. Quả nhiên y quát lời hỏi đệ thuộc đệ tử của cao tăng nào trong phái Thiếu Lâm. đệ giả bộ câm điếc cứ ậm ừ không chịu trả lời ngay.

Sau y về tới Lương Châu, đóng cửa không đi đâu nữa, không tiếp ai cả. Mấy năm liền không thấy y hiện thân trên giang hồ nữa.

Thanh Cốc lắc đầu và xen vào:

– Tuy Nhất Manh không phải là người lương thiện nhưng Thiên Bưu cũng không phải là một người tốt. Nếu ngày hôm đó lỡ tứ ca bị phi tiêu ngô công là sướt bàn tay, có phải tứ ca mạo hiểm mà không có ích lợi gì không?

Tòng Khê vừa cười vừa đáp:

– Lúc ấy nguy huynh hiếu sự và trước khi vào cuộc không ngờ phi tiêu ngô công lợi hại đến thế?

Thanh Cốc tính nhanh nhảu và thẳng thắn, không hiểu thâm ý của Tòng Khê như thế nào trái lại Thúy Sơn đã hiểu rõ ngay và nghĩ thầm:

– Sở dĩ tứ ca mạo hiểm như vậy là muốn giải trừ mối thù của Long Môn tiêu cuộc. Anh ấy biết Hổ Phiêu tiêu cục đứng đầu các tiêu cục ở Giang Nam. Ở Hà Bắc Sơn Ðông các nơi thì Yến Vân tiêu cục đứng đầu. Còn các tỉnh Tây Bắc thì Tấn Dương tiêu cục làm thủ lãnh.
Sau này mối thù của Long Môn tiêu cuộc thế nào cũng do những tiêu cục đó đứng ra đảm đương, nên tứ ca gây ra ba ơn huệ cho ba tiêu cục đó. Ba câu chuyện ấy mới thoảng qua ai cũng tưởng là tình cờ, nhưng tứ ca đã tốn bao công phu và thời gian điều tra để lợi dụng cơ hội chữ có phải dễ mà làm được ba việc như vậy đâu?

Ðoạn Thúy Sơn nghẹn ngào nói:

– Anh em mình như là một khối, đệ chẳng cần phải nói đến hai chữ cám ơn nữa. Tất cả mọi sự đều do đệ trẻ tuổi bồng bột mới gây nên những đại hoạ như vậy.

Nói tới đó, chàng bèn kể chuyện ngày nọ Tố Tố giả dạng mình đêm khuya đến giết cả nhà Long Môn tiêu cuộc cho mọi người nghe. Sau cùng chàng tiếp:

– Làm thế nào mà giải quyết được những việc đó, mong tứ ca giúp cho.

Tòng Khê ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Việc này, để thưa lên sư phụ đã, nhưng ngu huynh thiết nghĩ người đã chết không sao sống lại được, mà tức muội đã biết cải ác rồi. Cố nhân đã dạy “Chỉ quá nang cải, thiện mạc đại yên”. Ðại ca cho lời nói của đệ như thế có đúng không?

Viễn Kiều thấy việc này có liên quan đến mấy chục nhân mạng nên trù trừ không dám trả lời ngay.

Liên Châu gật đầu đáp:

– Tứ đệ nói rất phải.

Lợi Hanh sợ nhất là nhị ca. Chàng biết đại ca là người hiền lành dễ bắt chuyện còn nhị ca thiết diện vô tư, coi kẻ ác như kẻ thù. Chàng sợ Liên Châu làm khó dễ ngũ tẩu nên từ nãy giờ cứ nơm nớp lo sợ, không ngờ Liên Châu gật đầu đã sớm rõ việc này và thấthứ cho Tố Tố. Bây giờ Liên Châu gật đầu và nói như vậy, trong lòng cả mừng bèn xen vào:

– Nếu người khác có hỏi tới việc này ngũ ca chỉ trả lời là không phải ngũ ca giết mấy người đó có thế thôi. Mà ngũ ca nói như vậy không phải là nói dối vì sự thực ngũ ca có giết người đâu?

Viễn Kiều đưa mắt lườm Lợi Hanh rồi nói:

– Cứ chối quanh mãi như vậy, thì lòng ngũ đệ sao yên? Vả chúng ta đã mang danh nghĩa hiệp cũng sao yên đực?

Lợi Hanh liền hỏi:

– Vậy theo ý của đại ca thì nên làm như thế nào?

Viễn Kiều đáp:

– Theo ý của ngu huynh thì chờ chúc thọ sư phụ rồi, sáu anh em chúng ta hãy đi kiếm đứa con của ngũ đệ trước đã, kế chúng ta đại hội anh hùng ở Hoàng Hạc lâu giải quyết việc Kim Mao sư vương Tạ Tốn với quần hùng xong, đoạn sáu anh em chúng ta cùng ngũ đệ phu nhân xuống Giang Nam. Trong ba năm chúng ta mỗi người phải làm mười việc thiện.

Tòng Khê vỗ tay tán thành:

– Phải đấy, Long Môn tiêu cuộc có bảy mươi hai người chết oan uổng. Chúng ta mỗi người làm mười việc thiện. Nếu cứu thoát hai trăm người bị nạn, miễn cưỡng có thể xí xoá được vụ giết chóc.

Liên Châu cũng lên tiếng nói:

– Ðại ca nghĩ rất phải, không còn ý kiến nào hay hơn nữa. Chắc sư phụ cũng tán thành.

Bằng không dù bắt ngũ đệ phu nhân đền mạng cho bảy mươi hai người chết oan đó, thì chết thêm một người mà không có ích lợi cho ai cả.

Thúy Sơn vẫn áy náy trong lòng, nay nghe Viễn Kiều sắp đặt như vậy liền cả mừng và nói, Ðể đệ vào báo tin cho Tố Tố hay.

Thúy Sơn vọi vàng chạy vào phòng đem ý kiến của Viễn Kiều kể cho vợ nghe, còn nói Tố Tố biết các sư huynh đệ chờ cuộc chúc thọ sư phụ xong sẽ xuống núi tìm Vô Kỵ liền.

Tố Tố nghe nói tinh thần liền phấn khởi và nghĩ thầm :

– Với bản lãnh của Võ Ðang lục hiệp thì thế nào cũng đem được Vô Kỵ về cho ta .

Sự thật Tố Tố không bệnh gì cả chỉ vì quá nhớ Vô Kỵ mà nên. Nay nàng nghe Thúy Sơn nói vậy, lòng được an ủi ngay, nên bịnh ngày một thuyên giảm.

Mấy hôm sau, đã đến mùng tám tháng tư, Trương Tam Phong biết ngày mai là đại thọ bách tuế của mình, các đệ tử thế nào cũng vui vẻ náo nhiệt một phen. Tuy Ðại Nham tàn phế Thúy Sơn mất tích là một khuyết điểm nhỏ, nhưng lão anh hùng cảm thấy sống được trăm tuổi quả là hiếm có. đồng thời trong lúc bế quan, Trương Tam Phong đã nghiên cứu ra được môn Thái Cực thần công mà lão anh hùng nhận thấy môn võ công đó sẽ làm rạng rỡ cho Võ Ðang rất nhiều. Nên sáng sớm ngày hôm đó lão anh hùng đã mở quan ra liền.

Mọi người chỉ nghe một tiếng rú thanh thoát .

Trương Tam Phong đã dùng hai tay đẩy mạnh một cái, hai cánh cửa vừa dầy vừa nặng vừa mở ra.

Người mà Trương lão anh hùng trông thấy trước tiên là Thúy Sơn, người đồ đệ đã mất tích mà ông đã tưởng nhớ hơn mười năm trời.

Tưởng là hoa mắt nhìn lầm, Trương Tam Phong liền giơ tay lên dụi mắt, thì Thúy Sơn chạy lại ngã vào lòng sư phụ nức nở khóc và gọi luôn mồm:

– Sư phụ! Sư phụ!

Chàng quá cảm động, quên cả quì lạy thầy.

Viễn Kiều và bốn sư đệ cũng chạy lại xúm quanh sư phụ và đông thanh nói:

– Hôm nay sư phụ đại hỉ ngũ đệ trở về Trương Tam Phong đã sống được trăm tuổi, mà tu luyện võ công hơn tám mươi năm trời tới mức hư vô không bị việc trần tục làm phiền luỵ nữa, nhưng lão anh hùng đối với bảy đồ đệ như con đẻ, nay bỗng thấy Thúy Sơn đã trở về, mừng khôn tả, ôm luôn đồ đệ cưng ấy vào lòng nước mắt chảy xuống hai bên má.

Các anh em hầu hạ sư phụ tắm rửa thay khăn áo xong, Thúy Sơn không dám đem chuyện của mình kể cho sư phụ nghe, chàng chỉ dám nói chuyện kỳ lạ ở Băng Hỏa đảo thôi.

Nghe Thúy Sơn nói đã có vợ, Trương Tam Phong lạ càng mừng thêm nói:

– Vợ con đâu? Mau bảo chị ấy ra đây để sư phụ xem mặt.

Thúy Sơn vội quì xuống thưa:

– Thưa sư phụ, đệ tử táo gan vô cùng, lúc có vợ không xin phép sư phụ trước.

Trương Tam Phong vuốt râu vừa cười vừa nói:

– Con ở trên Băng Hỏa đảo không sao về được, chẳng lẽ đợi hết mười năm con về tới đây thưa cùng ta rồi mới cưới vợ ? Con đứng dậy khỏi phải cáo lỗi nữa. Trương Tam Phong làm gì có đứa đồ đệ hủ lậu như thế?

Thúy Sơn vẫn quì và thưa tiếp:

– Nhưng lai lịch của vợ con không được chánh đáng cho lắm. Nàng nàng là con gái Hân giáo chủ Bạch Mi Giáo.

Trương Tam Phong vẫn vuốt râu đáp:

– Như vậy đã sao đâu? Quý hồ nhân phẩm của vợ con cao cả là được rồi. Mà dù nhân phẩm của chị ấy không tốt đi nữa lên tới núi Võ Ðang này cũng sẽ thay đổi, trở nên con người nết na ngay. Còn Bạch My giáo thì sao? Thúy Sơn con nên nhớ là ta không nên hẹp lượng quá và cũng đừng tự phụ mình là danh môn chính phái rồi coi khinh cũng kẻ khác. Sự thất chánh tà rất khó phân biệt. Nếu các đệ tử trong chánh phái mà tâm địa không được chánh đáng thì những kẻ ấy cũng là tà đó. Nếu người trong tà phái mà nhất tâm hướng thiện thì người đó là chánh nhân quân tử đó.

Thúy Sơn cả mừng, chàng không ngờ mối bận tâm sự lo ngại trong mười năm nay bây giờ sư phụ chỉ nói có vài lời đã khiến chàng khỏi thắc mắc và lo âu, liền hớn hỏ đứng dậy.

Trương Tam Phong lại tiếp:

– Cha vợ của con là Hân giáo chủ thân giao với ta đã lâu, ta cũng phục võ công của ông ta.

Ông ta lỗi lạc vả lại tính nết ông ấy rất khẳng khái. Tuy tánh của ông ta hơi thiên lệch và hành sự khác người, nhưng chúng ta không thể coi ông ấy là tiểu nhân ti tiện được. Những người như vậy chúng ta có thể kết bạn lắm.

Mấy anh em đứng cạnh đó nghe thầy nói như vậy nghĩ thầm:

– Quả sư phụ rất cưng ngũ đệ, vì vậy có lòng khoan hồng đến thế. Với tên ma đầu nhạc phụ của ngũ đệ một tên hung ác trên giang hồ mà sư phụ cũng chịu kết giao .

Mọi người đang nghĩ tới đó, bỗng có một tên đạo đồng hấp tấp chạy vào báo cáo:

– Thưa sư tổ, Hân giáo chủ của Bạch Mi Giáo sai người đem lễ vật đến tặng ngũ sư thúc.

Trương Tam Phong cười nói:

– Nhạc phụ của con đã cho người đem lễ vật đến cho con đấy Thúy Sơn, con ra tiếp khách đi.

Thúy Sơn vâng lời ngay.

Lợi Hanh liền nói:

– Xin phép sư phụ cho con đi cùng với ngũ ca xem sao.

Tòng Khê vừa cười vừa xem vào:

– Có phải Kỷ lão anh hùng tới đâu mà chú vội vàng hấp tấp thế?

Lợi Hanh nghe mặt đỏ bừng, nhưng vẫn theo Thúy Sơn ra ngoài.

Hai người vừa đi tới đại sảnh liền thấy hai ông già, ăn mặc lối gia nhân đứng đợi.

Hai ông già đó vừa thấy Thúy Sơn bước ra, liền tiến tới quì xuống và nói:

– Trương công tử vẫn mạnh giỏi? Tiểu nhân Hân Vô Phúc, Hân Vô Lộc xin bái kiến.

Thúy Sơn đáp lễ và nói:

– Mời quản gia đứng dậy.

Nói xong chàng nghĩ thầm:

– Tên của hai gia nhân này kỳ lạ thất. Ai cũng đặt cho người nhà đầy tớ cái tên như Bình An, Cát Thánh, Phúc Lộc Thọ Hỷ chẳng hạn, chó ai đặt tên như hai người này là Vô Phúc Vô Lộc đâu .

Chàng vừa nghĩ vừa đưa mắt nhìn hai người. Chàng thấy mặt Vô Phúc có một cái thẹo đao chém rất dài, từ góc trán bên phải tréo xuống, đi qua sống mũi sang tới mép bên trái. Còn Vô Lộc thì mặt rỗ cả hai xấu xí khôn tả, tuổi đã ngoài năm mươi. Ngắm nhìn một lúc chàng lên tiếng hỏi hai gia nhân:

– Nhạc phụ cùng nhạc mẫu của cô gia vẫn mạnh giỏi đấy chứ? Tôi định thu xếp xong sẽ cùng tiện nội về bái kiến xong nhạc. Không ngờ nhạc phụ nhạc mẫu lại cho người tới hỏi thăm trước như vậy, tôi thất đáng tội. Hai vị ở xa tới đây rất vất vả, hãy ngồi xuống dùng chén nước đã.

Vô Phúc và Vô Lộc không dám ngồi, bèn lấy lễ đưa ra cung kính đưa cho Thúy Sơn rồi nói:

– Lão gia và thái thái sai đem những lễ vật mọn này đến biếu ngũ hiệp mong công tử tiếp nhận.

Thúy Sơn vừa cám ơn vừa giở lễ ra xem. Chàng giật mình vì thấy hơn mười tờ giấy đỏ, viết đầy những tên lễ vật tất cả có tới hơn hai trăm món. Món thứ nhất là một đôi Bích ngọc sư tử, món thứ hai là một đôi Phỉ Thúy phượng hoàng và rất nhiều châu báu một trăm bút lông sài lang, mười thỏi mực ống phẩm một trăm thếp giấy chế bằng vỏ cây dâu tám nghiên mực. Thì ra Bạch Mi giáo chủ biết rể của mình hay chữ nên mới biếu bút mực. Ngoài những thứ đó lại có cả đồ dùng hàng ngày và quần áo mùng màn, không thiếu vật nào.

Vô Phúc quay mình đi ra rồi dẫn mười tên phu khiêng đồ vào.

Tên phu nào cũng gánh một đôi mâm, trên bày la liệt lễ vật đặt cả ở khách sảnh.

Thấy vậy Thúy Sơn trù trừ nghĩ thầm :

– ta là con nhà nghèo chất phác quen rồi, lấy bấy nhiêu đồ châu báu làm chi? Nhưng song nhạc ở tận chốn xa nôi sai người đến ban tặng nếu ta không nhận e mang lỗi .

Chàng đành phải nhận hết lễ vật đó và nói:

– Tiểu thơ của hai vị vị đi đường mệt nhọc nên không được khoẻ lắm, mời hai vị ở lại vài ngày để gặp mặt tiểu thư của hai vị.

Vô Phúc đáp:

– Cụ ông cụ bà chúng cháu rất nhớ tiểu thơ, căn dặn chúng cháu phải trở về hồi báo ngay.

Nếu cô gia cho phép, tiểu nhân xin vào yết kiến tiểu thư sau đó chúng cháu xin trở về miền Nam ngay.

Thúy Sơn đáp:

– Hai vị muốn như vậy cũng được xin hãy ngồi chờ giây lát.

Nói xong, chàng quay trở lại phòng báo cho Tố Tố hay, nàng cả mừng vội ngồi dậy chải đầu thay áo, rồi ra ngoài đại sảnh gặp hai lão gia nhân ấy.

Nàng hỏi hai gia nhân về cha mẹ và huynh trưởng có được mạnh không, rồi nàng giữ hai người lại dùng cơm.

Thúy Sơn nghĩ thầm:

– Nhạc phụ nhạc mẫu cho nhiều lễ vật như vậy, ta phải ban thưởng rất nhiều cho chúng mới được. Nhưng tiền bạc của phái Võ Ðang lại tập trung cả vào một nơi, ta không tiện lấy ra thưởng cho hai người này .

Chàng liền vừa cười vừa nói:

– Tiểu thư của hai vị lấy phải người chồng nghèo, không có tiền để thưởng mong hai vị đừng cười nhé.

Vô Phúc vội đáp:

– Chúng cháu không dám, Chúng cháu không dám. Chúng cháu được yết kiến Võ Ðang thất hiệp còn sướng hơn được thưởng nghìn vàng.

Thúy Sơn thấy Vô Phúc nói như vậy nghĩ thầm:

– Người này ăn nói cũng phong nhã, hình như cũng là người có ăn học .

Ðoạn chàng tiễn chân hai gia nhân ra cửa, Vô Phúc liền nói:

– Xin cô gia lui bước, chúng cháu rất mong cô gia và tiểu thư sớm giáng lâm, để hai cụ chúng cháu khỏi nhớ mong. Người trong tệ giáo từ trên xuống dưới ai cũng ngưỡng mộ phong thái của ngũ hiệp.

Thúy Sơn thấy Vô Phúc khéo ăn nói liền cả cười, Vô Lộc liền lên tiếng nói:

– Còn một việc nữa, phải thưa cùng công tử hay biết là lúc anh em đem lễ lên đây tặng ngũ hiệp khi qua thành Tương Dương trọ tại khách điếm thì gặp ba tên tiêu khách, nghe chúng nói đến ngũ hiệp Thúy Sơn vội hỏi:

– Họ nói gì về tôi?

Vô Lộc đáp:

– Một người trong ba người nói, Võ Ðang thất hiệp có ơn lớn với chúng ta thật, nhưng chúng ta không thể nào để cho bảy mươi mấy mạng Long Môn tiêu cục trầm oan. Sau đó họ bàn tán một hồi rồi quyết định không nhúng tay vào việc trả thù ấy nhưng sẽ đi Khai Phong phủ, nơi Thần Thương Trần Bát Phương Ðàm lão anh hùng tới để lý luân việc đó với ngũ hiệp.

Thúy Sơn chăm chú nghe, không trả lời.

Vô Lộc móc túi lấy ra ba lá cờ nhỏ và tiếp:

– Anh em tiểu nhân thấy ba tiêu đầu khách ấy táo gan quá định vuốt râu cọp, bèn cho họ biết là nếu họ muốn lý luận về việc đó thì cứ kiếm Bạch Mi giáo.

Thúy Sơn thấy ba lá cờ nhỏ đó, kinh ngạc vô cùng: lá cờ thứ nhất thêu một con hổ quay đầu lại có lẽ đang gầm thét chàng hiểu ngay đó là tiêu kỳ của Hổ Phiêu tiêu cục. Lá cờ thứ hai thêu một con hạc trắng bay lượn trên không, chàng biết ngay là cờ của Tấn Dương tiêu cục, còn là cờ thứ ba thì dùng kim tuyến thêu chín con én, là cờ của Vân Yến tiêu cục. Ngắm ba lá cờ đó giây lát, chàng liền hỏi anh em Vô Phúc:

– Sao hai vị lại lấy được những tiêu kỳ của họ tới đây như vậy?

Vô Phúc liền đáp:

– Ngũ hiệp là rể quý của Bạch Mi giáo, Thiên Bưu, Cửu Giai và Vân Hạt ba tên ấy là cái thớ gì? Vả lại chúng đã biết Võ Ðang thất hiệp đã có ơn lớn với chúng mà còn định đi mời tên Ðàm Thuỵ Lai ở phủ Khai Phong đến lý luận với ngũ hiệp. Như vậy có phải chúng không biết điều chút nào không? Nên chúng cháu..

Thúy Sơn vội xen lời:

– Chúng làm như thế không phải là không biết đều đâu .

Vô Phúc lại tiếp:

– Ngũ hiệp khoan hồng đại lựơng hơn người nên mới không chấp trách chúng, nhưng anh em chúng cháu không chịu nhịn được, liền xử trí luôn ba tên tiêu khách đó và lấy luôn ba tiêu kỳ của chúng.

Thúy Sơn nghe nói giật mình và nghĩ thầm:

– Bọn Thiên Bưu đều hùng cứ nhứt phương, nổi tiếng trên giang hồ đã lâu tuy chúng không phải là những tay xuất sắc trong võ lâm nhưng tên nào tên nấy cũng có những tuyệt nghệ riêng chớ có phải là những tay tầm thương đâu? sao người nhà của Hân Thiên Chính lại xử trí chúng một cách hết sức dễ dàng như vậy? Nếu Vô Phúc nói dối và bịa đặt câu chuyện làm quà thì sao chúng lấy được ba lá tiêu kỳ tới đây? Những là cờ này là bảo hiệu của ba tiêu cục ấy, đừng nói là ra tay cướp mà muốn thầm lén lấy trộm cũng không phải dễ. Hay là chúng dùng mê hồn hương làm cho ba tổng tiêu đầu mê man rồi mới lấy trộm ba lá cờ này chăng?

Ðoạn chàng liền hỏi:

– Chẳng hay ba vị lấy ba lá cờ này bằng cách nào?

Vô Phúc liền đáp:

– Lúc ấy nhị đệ cháu là Vô Lộc ra mặt gây hấn hẹn chúng ra ngoài cửa Nam thành Tương Dương để tỷ võ.

Ba anh em chúng cháu đối địch với ba anh em chúng và đã nói trước, hễ chúng thua thì phải để lại một tiêu kỳ và tự chặt một cánh tay suốt đời không được bước chân vào Hồ Bắc này.

Thúy Sơn càng nghe càng ngạc nhiên không dám coi thường mấy gia nhân này liền lên tiếng hỏi tiếp:

– Rồi kết quả ra sao?

Vô Phúc đáp:

– Kết quả là chúng phải để lại tiêu kỳ và tự chặt một cánh tay còn hứa suốt đời không bước chân vào Hồ Bắc này nữa.

Thúy Sơn kinh hãi và nghĩ thầm:

– Những nhân vật của bạch mi giáo hành sự quả thất ác độc vô cùng .

Vô Phúc lại tiếp:

– Nếu ngũ hiệp cho chúng cháu đối xử như vậy quá nhẹ, thì chúng cháu sẽ đuổi theo và chặt cổ chúng liền.?

Thúy Sơn vội xua tay nói:

– Không nhẹ đâu, không nhẹ đâu.

Vô Phúc lại tâu:

– Vì chúng cháu thấy lần này đem lễ vật đến biếu ngũ hiệp và chúc thọ lão tiền bối, toàn là việc vui mừng cả nếu chúng cháu giết ba tên tiêu đầu ấy thì sẽ không được hên.

– Phải. Mấy vị nghĩ rất chu đáo, vừa rồi hai vị có nói có tất cả ba vị đem lễ vật tới đây, sao bây giờ chỉ có hai, còn một người nữa đâu?

– Thưa ngũ hiệp còn một chú em là Hân Vô Thọ. Chúng cháu đuổi ba tên tiêu khách ấy đi rồi cháu và Vô Lộc thì đến đây chào trước, nhưng chúng cháu sợ lão gia họ Ðàm hay tin không phân biệt phải trái dấn thân tới đây quấy nhiễu nên cháu mới bảo chú Vô Thọ đi ngay phủ Khai phong để xử trí lão già họ Ðàm. Chú Vô Thọ nhờ cháu vấn an ngũ hiệp hộ.

Nói xong y cúi xuống vái lạy, Thúy Sơn cũng vội đáp lễ và nói, tôi không dám.

Chàng vừa nói vừa nghĩ thầm:

– Thần thương Trấn Bát Phương Ðàm Thuỵ Lai đã lừng danh trên giang hồ bốn mươi năm rồi, nay Vô Thọ đi phủ Khai Phong, đối địch với lão anh hùng ấy, bất cứ bên nào bị thương ta cũng không an lòng?

Nghĩ vậy chàng liền nói:

– Thần thương Trấn Bát Phương Ðàm Thuỵ Lai là một chính nhân quân tử ta ngưỡng mộ đã lâu. Hai vị mau đi Khai Phong phủ bảo Vô Thọ khỏi phải nói chuyện với Ðàm lão anh hùng nữa, vì sợ hai người cùng nóng tính lỡ có chuyện gì xảy ra dù bên nào thắng cũng không nên cả.

Vô Lộc nghe vậy, liền tủm tỉm cười và đáp:

– Ngũ hiêp khỏi phải lo ngại. Lão già họ Ðàm không dám ra tay đấu với Tam ca cháu đâu.

Tam ca cháu bảo y đừng dính liếu tới việc của Long Môn tiêu cuộc là y ngoan ngoãn vâng lời ngay.

Thúy Sơn liền hỏi:

– Thật à?

Hình như Vô Phúc đoán biết Thúy Sơn không tin, liền nói:

– Hai mươi năm trước lão già họ Ðàm là bại tướng dưới tay Vô Thọ , y còn bị anh em chúng tôi nắm giữ được những sự kiện rất quan trọng có liên can đến đời sống của y. Kính chào ngũ hiệp vạn an.

Nói xong hai người cáo lui, ra lối cửa giữa.

Thúy Sơn tay cầm ba lá cờ nhỏ trù trừ giây lát. Chính ra chàng định nhờ Vô Phúc , Vô Lộc dò la tin tức của Vô Kỵ, nhưng chàng e câu chuyện này tiết lộ ra ngoài sẽ mất tiếng tăm của mình và của cả nhị ca đi, nên chàng từ từ quay trở về phòng chàng.

Tố Tố đang dựa trên giường đọc tờ kê khai các món của cha mẹ cho người đem tới. Nàng thấy cha mẹ cho nhiều vật báu như vậy cảm động vô cùng. Nhưng nàng bỗng nghĩ tới Vô Kỵ bị bắt cóc, hiện giờ không biết sóng chết ra sao, nên nàng nóng lòng như thiêu. Ðúng lúc ấy thấy chồng bước vào vẻ mặt không yên, nàng vội hỏi:

– Có việc gì thế hở phu quân?

Thúy Sơn đáp:

– Chẳng hay lai lịch của Vô Phúc, Vô Lộc, Vô Thọ như thế nào, em có thể kể cho anh biết không?

Tố Tố với Thúy Sơn kết nghĩa đã được mười năm nhưng nàng biết chồng không ưa Bạch My Giáo nên nàng không hề đả động đến chuyện nhà và chuyện trong giáo phải và Thúy Sơn cũng không bao giờ hỏi tới những chuyện đó. Nay bỗng nhiên chàng hỏi, nàng vội đáp:

– Hơn hai mươi năm trước đây, ba người đó là ba tướng cướp rất có tên tuổi, hoành hành ở vùng Tây Nam. Sau chúng bị rất nhiều cao thủ vây đánh và sắp nguy đến tính mạng. Lúc ấy cha em ngẫu nhiên đi ngang qua đó, thấy ba anh em chúng thà tử chiến chớ không chịu khuất phục khen chúng là người có nghĩa khí liền ra tay trợ giúp. Chúng là ba anh em kết nghĩa với nhau, mỗi người có một họ riêng, chúng cảm ơn cha em cứu mạng nên liền thề rất nặng cam tâm suốt đời là nô bộc cho cha em. Chúng ta bỏ họ tên cũ và tự đặt ba cái tên bây giờ Hân Vô Phúc, Hân Vô Lộc và Hân Vô Thọ, nên cha em đối với anh em chúng rất nể nang, không dám coi chúng như nô bộc. Mẹ em nói võ công và danh vọng của chúng xưa kia còn hơn nhiều nhân vật tiếng tăm lừng lẫy bây giờ.

Thúy Sơn gật đầu:

– Ra là thế.

Thế rồi chàng thuật lại chuyện ba người đã bắt ba tổng tiêu đầu phải tự chặt cánh tay và cướp tiêu kỳ cho vợ nghe.

Tố Tố cau may lại và nói:

– Ba người đó hành động như vậy là có lòng tốt, muốn giúp vợ chồng chúng ta, nhưng chúng có biết đâu đệ tử của danh môn chính phái hành sự khác hẳn tà giáo. Chúng chỉ làm cho phu quân thêm phiền . Em không biết nói sao cho phải? Chờ tìm thấy thằng Vô Kỵ, chúng ta quay trở lại Băng Hỏa đảo sinh sống thì hơn.

Nàng vừa nói tới đó, bỗng nghe Lợi Hanh ở ngoài cửa phòng gọi:

– Ngũ ca, mau ra ngoài cửa đại sảnh viết hộ mấy đôi liễn chúc thọ.. kéo ngũ ca đi ngũ tẩu không trách em chứ? Ai bảo anh ấy có tiếng là ngân câu thiết hoạch chi!

Chiều hôm đó, sáu anh em Thúy Sơn xuống bếp dặn bảo làm tiệc chúc thọ còn các đạo đồng khác quét dọn và bày trí mọi nơi.

Trên khách sảnh dán mấy câu đối chúc thọ của Viễn Kiều sáng tác và do Thúy Sơn viết.

Quang cảnh khác hẳn ngày thường.

Sáng sớm hôm sau mấy anh em Viễn Kiều đã mặc quần áo mới đang định đỡ Dại Nham ra ngoài chúc thọ sư phụ, bỗng một tên đạo đồng chạy vào tay cầm một danh thiếp đưa cho Viễn Kiều xem.

Tòng Khê đứng cạnh đó liếc mắt thấy danh thiếp đề: Côn Luân hậu học..Hà Thái Xung cùng môn hạ đệ tử cung chúc Trương Chân nhân thọ tỷ nam sơn.

Chàng kinh ngạc nói:

– Người trưởng môn của phái Côn Luân đích thân không quản ngại đường sá xa xôi mà tới đây thầt là kính trọng sư phụ ta lắm.

Viễn Kiều cũng nói:

– Vị tân khách này không phải là người tầm thường nên chính sư phụ ra đón mới phải.

Nói xong chàng liền đi bẩm báo với Trương Tam Phong.

Trương Tam Phong nói :

– Nghe nói vị trưởng môn của phải Côn Luân này chưa hề tới Trung thổ bao giờ, không hiểu tại sao y lại biết sanh nhựt của sư phụ lão nhỉ?

Nói đoạn Trương Tam Phong liền dẫn sáu đồ đệ ra nghênh đón thấy Hà Thái Xung mặc áo đạo sĩ màu vàng, tinh thần rất sảng khoái khí tượng trung hòa, đáng là vị tôn chủ của một danh môn chính phái.

Tám tên đệ tử đi theo có cả Tây Hoa tử và Vệ tứ nương.

Trương Tam Phong vừa ra tới cửa đã tiến lên vái chào hành lễ ngay.

Còn sáu anh em Viễn Kiều quì cả xuống, Hà Thái Xung đáp lễ rồi nói:

– Võ Ðang lục hiệp danh trấn hoàn vũ bần đạo đâu dám nhận đại lễ của quý vị.

Trương Tam Phong liền mời thầy trò Thái Xung vào trong đại sảnh, phân khách chủ chia hai bên ngồi uống nước xong, một tiểu đạo đồng cầm danh thiếp vào đưa cho Viễn Kiều mới hay ngũ lão của phái không động đã tới.

Trong võ lâm lúc bấy giờ chỉ có phái Võ Ðang và phái Thiếu Lâm là tên tuổi hơn cả, sau đó là phái Côn Luân và Nga Mi, còn phái Không Ðộng thì kém vế nhất.

Kể vai vế của Không Ðộng ngũ lão thì chỉ bằng anh em Viễn Kiều, nên đi tới đâu ngũ lão đều ngồi hay đứng ngang với Viễn Kiều.

Nhưng Trương Tam Phong là người rất khiêm tốn nên nghe Không Ðộng ngũ lão tới, bèn đứng dậy nói với Thái Xung:

– Không Ðộng ngũ lão đã tới, xin hà huynh hãy ngồi chơi xơi nước, bần đạo thất lễ giây lát để ra nghênh tiếp tân khách.

Thái Xung nghĩ thầm:

– Những nhân vật như không động ngũ lão chỉ đáng cho môn đồ ra tiếp, hà tất Trương Tam Phong phải đích thân ra nghênh đón như thế.

Lát sau, Không Ðộng ngũ lão đã cùng mấy đệ tử bước vào.

Thái Xung không đứng dậy chỉ hơi cúi mình một cái đáp lễ thôi.

Tiếp theo đó Thần Quyền môn. Cự Kình bang , Mao Sơn bang và rất nhiều thủ lãnh của các môn phái tới để chúc thọ.

Thoạt tiên anh em Viễn Kiều chia nhau ra tiếp, nhưng khách nhiều nhiều nhà ít nên không sao tiếp cho nổi, ai nấy đều cuống quýt lên và vất vả khôn tả.

Trương Tam Phong ghét nhất cái trò lễ nghĩa này, nên mấy lần đại thọ bảy mươi tám mươi chín mươi chẳng hạn, lão anh hùng cấm các môn đồ báo cho người khác hay, chỉ mấy sư đồ ăn nhậu với nhau thôi.

Ngờ đâu kỳ đại thọ bách tuế này lại có nhiều tân khách đến thế?

Khách đông đến nỗi những ghế của Ngọc Hư Quán không đủ cho người ta ngồi.

Bất đắc dĩ anh em Viễn Kiều phải ra ngoài bưng những tảng đá tròn vào làm ghế.

Những trưởng môn của các phái, những bang chủ của các bang thì được ngồi ghế còn các môn hạ đệ tử phải ngồi những tảng đá.

Không những thiếu ghế còn thiếu cả chén uống nước nữa, đành phải lấy bát ăn cơm ra mời khách.

Tòng Khê kéo Thúy Sơn vào phòng khẽ nói:

– Ngũ đệ có biết tại sao khách tới đông như thế không?

Thúy Sơn đáp:

– Hình như họ đã hẹn nhau từ trước. Tuy có vài người thấy mặt nhau giả bộ ngạc nhiên để che mắt chúng ta.

Tòng Khê nói:

– Phải họ không phải thành tâm đến chúc thọ thấy chúng ta đâu.

Thúy Sơn đáp:

– Họ tới đây lấy danh nghĩa là chúc thọ thực ra là để vấn tội.

– Nếu chỉ vì vụ án Long Môn tiêu cục thì họ không bao giờ mời được Hà Thái Xung đích thân đến đây.

– Vâng, những người này có lẽ vì Kim Mao sư vương Tạ Tốn đấy.

– Chúng khinh thường phái Võ Ðang chúng ta quá. Dù chúng ỷ nhiều để nắm phần thắng, chẳng lẽ đệ tử của phái Võ Ðang lại sợ chúng mà bán một người bạn hay sao? Dù Tạ Tốn có là kẻ gian đồ độc ác đến không sao thất hứa được đi nữa nhưng y đã là nghĩa huynh của ngũ đệ rồi thì không khi nào ta lại để lộ hành tung của y cho bọn tân khách này biết.

– Tứ ca nói phải. Nhưng chúng ta phải đối phó ra sao?

Tòng Khê ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Chúng ta nên cẩn thận hơn. Võ Ðang thất hiệp đã chịu đựng phong ba bão táp nhiều rồi, khi nào sợ những người đã tới đây.

Ðại Nham tuy đã tàn phế nhưng anh em vẫn coi chàng là người trong Võ Ðang thất hiệp, vả lại sau lưng bảy anh em còn có Trương Tam Phong, vốn là người võ công siêu tuyệt.

Nhưng anh em Võ Ðang thất hiệp thấy sư phụ mình tuổi đã một trăm, mặc dầu trước mặt có việc rất quan trọng họ cũng định tự xử trí lấy, chớ không muốn để sư phụ ra tay mà cũng không muốn để sư phụ phải bận lòng.

Tuy Tòng Khê an ủi Thúy Sơn như vậy, nhưng chàng cũng biết câu chuyện ngày hôm nay rất khó giải quyết. đồng thời chàng cũng biết muốn bảo tồn được danh dự của sư môn cũng không phải chuyện dễ.

Trên đại sảnh Viễn Kiều , Liên Châu và Lợi Hanh đang tiếp các tân khách.

Ba anh em biết bọn tân khách này tới đây là có sự bất lợi cho mình, nên người nào người nấy đều suy tính cách đối phó trước. đang lúc ấy một tên đạo đồng chạy vào báo cáo:

– Tĩnh huyền sưthái, trưởng môn đại đệ tử phái Nga Mi cùng năm vị đệ muội tới chúc thọ sư tổ.

Viễn Kiều và Liên Châu mỉm cười.

Lúc ấy Thanh Cốc đang đi cùng bảy tám vị tân khách bước vào trong sảnh mà Tòng Khê và Thúy Sơn cũng đang ở hậu đường đi ra.

Mấy anh em nghe đệ tử của phái Nga mi đều mỉm cười.

Lợi Hanh mặt đỏ bừng xấu hổ vô cùng.

Thúy Sơn chạy lại nắm tay chàng vừa cười vừa nói:

– Lục đệ lại đây, anh em mình ra tiếp khách đi.

Hồi thứ 25

Chỉ Danh Khiêu Chiến

(Thiếu một đoạn)

Các đệ tử nghe sư phụ thốt những lời nản chí như thế đều kinh ngạc vô cùng. Vì từ khi lên núi tòng sư học võ đến giờ chưa ai nghe sư phụ nói ra những lời đau đớn như vậy.

Hân Lợi Hanh lại hỏi:

– Thưa sư phụ, chẳng lẽ thằng nhỏ không thể cứu chữa được nữa sao?

Trương Tam Phong vẫn ôm chặt Vô Kỵ đi lại lung tung trong đại sảnh, không biết đang nghĩ ngợi gì, nghe thấy Hân Lợi Hanh nói liền đáp:

– Trừ phi… Trừ phi sư phụ ta, Giác Viễn đại sư phục sinh truyền dạy cho ta hết cuốn Cửu Dương Chân Kinh!

Mấy đệ tử nghe Trương Chân Nhân nói như vậy, trong lòng đều nặng trĩu, vì ai nấy đều biết rằng Giác Viễn đại sư qua đời đã hơn tám mươi năm rồi, làm sao mà phục sinh được. Nay sư phụ nói vậy khác gì nói vết thương của Vô Kỵ vô phương cứu chữa. Dư Liên Châu lên tiếng hỏi:

– Thưa sư phụ ngày nọ đệ tử có đấu chưởng với tên đó, thấy chưởng lực của y quả thật âm độc vô cùng. Có lẽ trên đời này khó có người thứ hai. Nhưng lúc này vết thương của đệ tử đã lành mạnh, hình như không còn hậu họa gì nữa. Ðệ tử đã thử vận khờ, dùng sức thử, không thấy có gì lạ hết.

Trương Tam Phong liền nói:

– Ðó là con nhờ hồng phúc của đại danh thất hiệp đấy! Con phải biết kẻ địch đã dùng Huyền Minh Thần Chưởng thì nếu nội lực của con thắng y chưởng lực đó sẽ chạy ngược trở lại, y sẽ bị thương trước và không có thuốc gì chạy chữa. Từ nay trở đi, nếu các con còn gặp tên đó, phải cẩn thận lắm mới được.

Dư Liên Châu rùng mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Thế ra tên đó vì quá thận trọng, sợ chưởng lực của ta thắng nên chưa giở Huyền Minh Thần Quyền ra. Bằng không có lẽ lúc đó cũng bị thương mà chết rồi không chừng. Nếu lần sau còn gặp y ta nhất định không nhẹ tay đâu.

Sáu người đứng ngẩn người hồi lâu, Vô Kỵ bỗng lên tiếng kêu rên:

– Cha, cha! Con đau lắm …

Y vừa kêu vừa ôm chặt lấy Trương Tam Phong rồi rúc đầu vào lòng ông.

Trương Tam Phong lại càng thương nó, nghiến răng mồm cười nói:

– Chúng ta cứ tận lực cứu chữa cho nó xem ông trời xanh có thương mà cho nó sống không?

Nói tới đó Trương Chân Nhân thở dài mấy tiếng, ẳm Vô Kỵ vào thư phòng rồi điểm luôn mười mấy yếu huyệt để cho thằng bé bớt đau.

Sau khi bị điểm huyệt, Vô Kỵ không còn run rẩy như trước nữa, mặt đỏ dần lên. Trương Tam Phong cũng biết nếu mầu tía biến thành màu đen thì không còn có cách gì cứu chữa nên lão anh hùng cởi áo Vô Kỵ ra, và cũng cởi luôn đạo bào của mình, dùng ngực mình áp vào lưng thằng nhỏ.

Lúc ấy Tống Viễn Kiều và Hân Lợi Hanh ở bên ngoài lo khâm liệm vợ chồng Trương Thúy Sơn.

Còn Liên Châu, Tòng Khuê, Thanh Cốc cùng vào thư phòng, thấy sư phụ cởi đạo bào ra để cứu chữa cho Vô Kỵ thì biết sư phụ mình dùng Thuần Dương Vô Cực công ra để hút âm độc trong người Vô Kỵ ra.

Tuy đã sống trăm tuổi, Trương Tam Phong chưa hề cưới vợ, vẫn còn là đồng nam và đã tu luyện hơn tám mươi năm trời, tất nhiên Thuần Dương Vô Cực công của lão anh hùng đã được luyện tới tột bực.

Ba anh em Liên Châu đứng hầu cạnh biết dùng nội lực chữa thương rất nguy hiểm, hễ sơ suất một chút, không những kẻ bở thương nguy tính mạng mà cả người cứu chữa cũng bở tẩu hỏa nhập ma là khác.

Vì vậy ba sư huynh đệ đều nghĩ:

– Nội công của sư phụ có thể nói là cao nhất thiên hạ, nhưng năm nay thầy đã trăm tuổi rồi, tất nhiên khí huyết phải suy kém, không khéo cả thằng nhỏ lẫn sư phụ đều lâm nguy .

Ba người càng nghĩ càng sợ hãi thầm nên đều đứng im hơi lặng tiếng đứng hầu.

– Liên Châu, con lại đây thay thế cho thầy, khi nào con thấy không chịu đựng nổi thì bảo Tòng Khuê thay, chớ có cố gượng nghe!

Liên Châu vội cởi áo ra, ẳm Vô Kỵ vào lòng.

Chàng vừa đụng vào người thằng nhỏ đã rùng mình một cái, cảm thấy như vừa đụng phải một tảng băng, vội bảo Mạc Thanh Cốc:

– Thất đệ, mau mang mấy lò than lại đây!

Lát sau, Thanh Cốc đã đem mấy lò than hồng vào để cạnh Liên Châu.

Tuy vậy Liên Châu vẫn thấy giá lạnh đến không sao chịu đựng nổi.

Lúc này chàng mới biết Huyền Minh Thần Quyền lợi hại như thế nào.

Trương Tam Phong ngồi cạnh, dùng chân khí đẩy những hơi độc trong người ra.

Chờ tới khi đẩy hết hơi độc đó rồi lão anh hùng liền đứng dậy.

Mạc Thanh Cốc đang tiếp tay ãm Vô Kỵ vào lòng, còn Liên Châu và Tòng Khuê đang ngồi đẩy những hơi độc trong người ra.

Không bao lâu, Trương Chân Nhân nhận thấy Mạc Thanh Cốc chịu không nổi liền sai đạo đồng ra gọi Hân Lợi Hanh và Tống Viễn Kiều vào tiếp sức.

Cách dùng nội công cứu chữa này, ai hay ai dở biết ngay.

Mạc Thanh Cốc chố chịu đựng được một khắc đồng hồ là cùng, Viễn Kiều có thể chịu đựng được ngót hai giờ.

Hân Lợi Hanh mới ãm Vô Kỵ vào lòng đã thất thanh la lớn, người run lẩy bẩy.

Trương Tam Phong kinh ngạc nói:

– Hãy đưa thằng nhỏ cho ta và con ngồi cạnh đấy tập trung tinh thần mà vận công, đừng có nghĩ ngợi gì cả!

Thì ra Hân Lợi Hanh đau lòng vì cái chết của Ngũ ca mà tâm thần bất định, công lực gần như mất hết nên mới không chịu đựng nổi.

Chờ tới khi tâm thần ổn định rồi chàng mới dám ẳm Vô Kỵ vào lòng.

Sáu thầy trò lần lượt thay nhau dùng nội công chữa cho Vô Kỵ suốt ba ngày ba đêm. Người nào người nấy mỏi mệt khôn tả, nhờ vậy hơi hàn độc trong người Vô Kỵ đã mất dần.

Ðến sáng hôm thứ tư, sáu thầy trò mới được luân phiên nhau đi ngủ và nghĩ ngơi.

Từ ngày thứ tám trở đi mỗi ngày mỗi người mất hai tiếng đồng hồ để chữa trở cho Vô Kỵ, ngoài ra những giờ khác đều tĩnh tọa để tu bổ lại những chân khí đã hao tổn.

Vô Kỵ đã khỏi dần, hơi lạnh trong người đã bớt, thần trí đã khôi phục và đã ăn uống lại.

Sáu thầy trò tưởng đã cứu sống được Vô Kỵ ngờ đâu đến ngày thứ ba mươi sáu, Dư Liên Châu bỗng phát hiện ra bất cứ dùng nội lực của mình thúc đẩy như thế nào cũng không sao hút được dù chố một chút hơi lạnh trong người Vô Kỵ ra, mà người thằng nhỏ vẫn lạnh, gương mặt vẫn xanh xao.

Thoạt tiên Liên Châu tưởng công lực của mình hao tổn quá đỗi, nên không hút được hàn độc ấy. Sau chàng phải nói cho sư phụ hay.

Trương Tam Phong chạy đến xem thử, quả thấy đúng như lời Liên Châu, vô kế khả thi. Liên tiếp năm ngày năm đêm như vậy, sáu người dùng hết thiên phương bách kế mà không có công hiệu chút nào cả.

Vô Kỵ liền nói:

– Thưa Thái sư phụ, chân tay của cháu đã thấy ấm áp riêng có trên đỉnh đầu, ngực và bụng càng cảm thấy lạnh dần thêm.

Trương Tam Phong nghe nói kinh hãi thầm nhưng vẫn an ủi thằng nhỏ:

– Vết thương của cháu đã khỏi rồi, các sư bá, sư thúc cháu không phải ẳm cháu suốt ngày như trước nữa. Bây giờ cháu hãy lên trên giường của thái sư phụ ngủ chốc lát đi!

Vô Kỵ vâng lời, nhưng trước khi lên giường ngủ, y liền quỳ xuống lạy Trương Tam Phong và mấy bác, chú và nói:

– Thưa Thái sư phụ và các sư bá sư thúc, Nhờ quý vị cứu nên tính mạng của Vô Kỵ mới được bảo tồn, sau này xin quý vở dạy võ công cho Vô Kỵ để Vô Kỵ trả thù cho cha mẹ!

Thấy Vô Kỵ còn nhỏ mà đã biết lễ phép như vậy ai cũng mủi lòng và an ủi thằng nhỏ vài lời.

Trương Tam Phong và các đồ đệ ra ngoài khách sảnh. Lão anh hùng thở dài một tiếng và nói:

– Bây giờ hơi hàn độc đã xâm nhập đỉnh môn, giữa tim và đơn điền của thằng nhỏ rồi, Với ngoại lực của chúng ta, không thể nào giải được! Mấy thầy trò ta đã tốn công trong bốn mươi ngày thật là vô ích. Sư phụ đã suy ngẫm nửa ngày rồi mà vẫn không sao nghĩ ra được vì sao mà không xua đuổi được chất hàn độc đó!

Mọi người đang suy nghĩ nhưng không ai hiểu được nguyên nhân. Nếu bảo dùng Thuần Dương Vô Cực công để cứu chữa không thể nào loại trừ được hơi hàn độc đó thì tại sao lúc đầu lại công hiệu, mãi tới ngày thứ ba mươi bảy mới mất hiệu dụng như thế? Tại sao tứ chi, cổ và khắp mình đều ấm áp, riêng có đỉnh môn, giữa tim và đơn điền là giá lạnh vô cùng. Ngẫm nghĩ một hồi Dư Liên Châu lên tiếng nói:

– Thưa sư phụ, hay là say khi Vô Kỵ bị Huyền Minh Thần Quyền đánh trúng, nó tự vận nội lực để chống đỡ, nhưng không biết cách nên hơi hàn độc đó mới uất kết lại ở ba nơi trông huyệt mà không sao hút ra nổi?

Trương Tam Phong lắc đầu nói:

– Nó còn bé dù Thúy Sơn có dạy cho nó một chút vận khí nhưng làm sao nó có nội lực lớn như vậy?

Liên Châu lại tiếp:

– Thưa sư phụ, nội lực của thằng nhỏ này mạnh lắm!

Ðoạn chàng kẻ lại chuyện Vô Kỵ đã dùng Thần Long Bãi Vĩ đánh một tên đệ tử của Mao Sơn bang bị thương nặng như thế nào.

Trương Tam Phong vỗ dùi một cái liền nói:

– Phải rồi! Thì ra nó toàn học những võ công kỳ môn của Tạ Tốn. Nếu nội công của nó do Thúy Sơn dạy cùng nguồn gốc với võ học của chúng ta mà chúng ta dùng Thuần Dương Vô Cực công cứu chữa cho tất nhiên rất chóng khỏi. Nhưng võ công của nó lại do Tạ Tốn dạy, không hiểu những võ công đó thuộc môn phái nào?

Nói xong, lão anh hùng quay trở lại thư phòng hỏi Vô Kỵ:

– Thái sư phụ muốn thử xem võ công của cháu ra sao, vậy cháu hãy thử đánh Thái sư phụ ba chưởng xem sao!

Vô Kỵ đáp:

– Cháu không dám đánh Thái sư phụ.

Trương Tam Phong cười đáp:

– Nếu cháu không dùng toàn sức lực đánh thì thái sư phụ làm sao biết được võ công của cháu như thế nào để dạy bảo thêm cho cháu?

Vô Kỵ đáp:

– Vâng cháu xin đánh ngay, nhưng Thái sư phụ đừng dùng sức đánh lại cháu nhé!

Trương Tam Phong vừa cười vừa nói đáp:

– Cháu chớ sợ!

Vô Kỵ liền múa chưởng, sử thế Kiếm Long Tạ Ðiền trong Giáng Long Thập Bát Chưởng từ phía bên phải Trương Tam Phong mà đánh tréo xuống phía bên trái.

Trương Tam Phong vừa giơ tả chưởng lên chống đỡ chưởng lực của Vô Kỵ đã bị tiêu tan một cách vô hình ngay.

Trương Tam Phong gật đầu và nói:

– Khá lắm!

Vô Kỵ thấy thế đánh của mình vô hiệu liền quay người lại hất tay về phía sau, dùng thế Thần Long Bái Vĩ.

Trương Tam Phong lại dùng hữu chưởng ra tiếp đỡ.

Thế đánh của Vô Kỵ tựa như bị đánh hụt và y không cảm thấy sức lực của Trương Tam Phong đánh bật lại.

Nhưng Trương Tam Phong đã khen:

– Giỏi lắm! Cháu bé như thế này mà luyện được võ công đến như thế cũng là đặc sắc lắm rồi!

Vô Kỵ mặt đỏ bừng đáp:

– Thưa Thái sư phụ, cháu không đánh nữa, vì đánh mãi mà không trúng cái nào cả thì đánh làm chi nữa!

Trương Tam Phong lại nói:

– Cháu hãy đánh thêm một chưởng nữa cho thái sư phụ xem!

Vô Kỵ liền múa chưởng dùng thế Kháng Long Hữu Hối.

Trương Tam Phong hơi kinh ngạc và hỏi:

– Cháu biết cả những chưởng pháp này nữa ư?

Lão anh hùng vừa nói vừa giơ tay lên đỡ, thấy thế chưởng này của Vô Kỵ tuy rất cương mãnh nhưng sức lực và độ tinh xảo kém hơn hai thế trước nhiều liền lắc đầu nói:

– Thế võ này của cháu kém hơn hai thế trước, chắc cháu chưa được học hết phải không?

Vô Kỵ vội đáp:

– Không phải thế đâu, thưa Thái sư phụ. Ðó là tại nghĩa phụ cháu chưa học hết. Nghĩa phụ nói rằng Giáng Long Thập Bát Chưởng là một môn võ công lợi hại nhất trong thiên hạ, nhưng tiếc thay nghĩa phụ cháu chỉ học được có mấy miếng đó thôi. Miếng Kháng Long Bữu Hối chính nghĩa phụ cháu cũng không hiểu hết tinh vi của nó nhưng bảo cháu cứ học trước đi rồi sau này sẽ hiểu được.

Trương Tam Phong gật đầu đáp:

– Nếu vậy ta đoán mới không sai. Từ giờ trở đi cháu đừng giở thế võ này ra đối địch với người, bằng không cháu sẽ bị thất bại.

– Vậy thì Thái sư phụ dạy lại thế võ ấy cho Vô Kỵ đi!

– Thái sư phụ không biết môn võ công này. Từ khi đại hiệp Quách Tỉnh tuẫn quốc ở thành Tương Dương tới giờ, môn Giáng Long Thập Bát Chưởng này đã thất truyền rồi.

Sau đó Trương Tam Phong hỏi Vô Kỵ một cách cặn kẽ, xem y đã học qua những môn võ công nào rồi.

Vô Kỵ kể rõ hết cho Trương Tam Phong nghe.

Trương Tam Phong càng nghe càng lấy làm lạ nghĩ thầm:

– Không ngờ Kim Mao Sư Vương lại bác học đến thế. Võ công môn nào y cũng biết. Không ngờ Vô Kỵ tuổi còn nhỏ mà những quyển kinh, khẩu quyết lại thuộc đến thế, quả thật có nhiều môn võ nó vừa đọc ra, ta chưa hề nghe tới bao giờ.

Thì ra năm xưa Tạ Tốn vì muốn khiêu khích cho Thành Khôn ra mặt nên giết hại rất nhiều cao thủ của các phái và sau khi giết người xong thuận tay lấy luôn những kinh kiếm phổ của người ta đem về nghiên cứu, phòng sau này gặp phải các đồng môn của họ đến tầm thù thì biết trước mà đối phó. Lúc Tạ Tốn truyền võ công cho Vô Kỵ chỉ dạy y học thuộc lòng những khẩu quyết của những thế võ đó thôi còn biến hóa ra sao thì chàng không kịp truyền lại cho thằng nhỏ.

Trương Tam Phong cứ gật đầu lia lịa khen:

– Hay lắm! Hay lắm!

Trương Chân Nhân cũng phải khen phục Tạ Tốn đã khổ tâm vì Vô Kỵ. Y không muốn mất thời gian nên trong mấy năm trời đã bắt thằng nhỏ học cả những gì y học cả đời người. Chắc sau này Vô Kỵ lớn lên với tư chất thông minh như thế này thế nào cũng biết xử dụng hết những thế võ đó. Sau khi tiếp đỡ ba chưởng của Vô Kỵ .

Trương Tam Phong đã biết nội công của Vô Kỵ rất phức tạp tinh xảo. Lão anh hùng cũng biết sở dĩ hơi hàn độc uất kết nơi trông huyệt của thằng nhỏ là tại nó vận dụng nội công định xua đuổi ra ngoài. Ngờ đâu lại làm uất kết vào nơi yếu huyệt như thế nên không sao hút được hơi hàn độc đó ra ngoài. Trừ phi Vô Kỵ phải ngừng hết hơi thở mới hút hết được hơi độc từ ba chỗ đó ra khỏi thân thể. Nhưng người ta ngừng hơi thở thì chết ngay, dù có hút được hơi độc ra cũng vô ích.

Trương Tam Phong ngẫm nghĩ giây lát rồi tự nhủ:

– Muốn giải được hơi hàn độc trong người Vô Kỵ thì thằng nhỏ phải tự luyện tập lấy Cửu Dương Chân Kinh mới có thể dùng nội công chí dương của mình mà hóa tan những âm độc trong người. Nhưng lúc Giác Viễn đại sư đọc cuốn kinh văn đó ta lại không nhớ được bao nhiêu. Tuy từ trước tới nay ta đã bế quan mấy lần để nhớ lại mà chỉ có thể nhớ được ba bốn thành thôi. Bây giờ vô kế khả thi thì ta đành dạy nó học đỡ ba bốn thành kinh văn đó, may ra sống được ngày nào hay ngày ấy!

Ðoạn Trương Chân Nhân bèn đem Cửu Dương Chân Kinh khẩu quyết truyền lại cho Vô Kỵ.

Vô Kỵ theo phương pháp của Trương Tam Phong dạy, tu luyện hơn hai năm tuy nơi đơn điền đã bớt lạnh nhưng da mặt càng ngày càng xanh thêm.

Mỗi lúc hơi hàn độc đó phát lên thằng nhỏ khổ sở vô cùng.

Trong hai năm ấy Trương Tam Phong cố công luyện nội công cho Vô Kỵ càng ngày càng tiến bộ, còn anh em Viễn Kiều thì đi khắp nơi tìm linh đơn dược liệu để chữa trị cho Vô Kỵ nhưng vẫn không thấy công hiệu gì cả.

Càng ngày Vô Kỵ càng ốm yếu, ai cũng lo ngại cho dòng dõi của Trương Thúy Sơn sẽ bị tuyệt mất.

Trong lúc mọi người trong phái Võ Ðang bận chữa trở cho Vô Kỵ không ai để ý tới việc tìm kẻ thù đã đả thương Dư Ðại Nham và Vô Kỵ.

Trong hai năm đó Giáo Chủ của Bạch Mi Giáo đã mấy lần phái người đến chăm nom cháu ngoại và tặng nó khá nhiều lễ vật quý giá.

Nhưng anh em phái Võ Ðang còn tức hận Bạch Mi Giáo vì Dư Ðại Nham và Trương Thúy Sơn bị hại đều do giáo phái đó gián tiếp gây nên.

Vì vậy lần nào sứ giả của Bạch Mi Giáo lên núi Võ Ðang là anh em Viễn Kiều xua đuổi, trả lại hết lễ vật.

Có một lần Mạc Thanh Cốc còn ra tay đánh sứ giả một trận nên từ đó trở đi Hân Thiên Chính không phái người lên núi Võ Ðang nữa.

Hồi thứ 26

Tái Thượng Thiếu Lâm

Ngày hôm đó là tết Trung Thu, Trương Tam Phong với mầy đồ đệ đang sửa soạn thưởng trăng, chưa kịp dọn tiệc ra ăn đã thấy Vô Kỵ đột nhiên phát bệnh, mặt thằng nhỏ càng xanh thêm, chân tay run lẩy bẩy hoài. Vô Kỵ sợ làm mất hứng của các vị bề trên nên cố nghiến răng chịu đựng nhưng mọi người đã thấy rõ.

Hân Lợi Hanh vội kéo Vô Kỵ vào trong phòng, đặt nó lên giường nằm, lấy chăn bông phủ kín còn đốt thêm một lò than hồng để cạnh giường.

Trương Tam Phong bỗng nói với các đồ đệ:

– Ngày mai ta sẽ đem Vô Kỵ lên Thiếu Lâm Tự ở Tung Sơn một phen.

Các đồ đệ nghe sư phụ nói như vậy liền hiểu ngay, biết sư phụ mình bất đắc dĩ mới chịu lép vế phái Thiếu Lâm mà thân hành lên núi Tung Sơn cầu cứu với Không Văn đại sư mong cao tăng của phái Thiếu Lâm bổ túc cho những phần kinh mà lão anh hùng đã quên hầu cứu vãn tính mạng của Vô Kỵ.

Hai năm trước, phái Thiếu Lâm lên trên núi Võ Ðang bắt ép Trương Thúy Sơn nhận tội và nói rõ tung tích của Tạ Tốn vì vậy mà Thiếu Lâm và Võ Ðang bất hòa.

Trương Tam Phong là một vị tôn sư, nay chịu tự giáng địa vị tôn quí của mình mà đi cầu cứu với kẻ bề dưới như vậy là rất mất sĩ diện.

Mấy anh em nghĩ đến tình nghĩa của Trương Thúy Sơn , biết rõ phen này sư phụ mình lên trên Tung Sơn cầu cứu như thế , thì từ nay trở đi người của phái Võ Ðang có gặp người phái Thiếu Lâm không dám nghênh ngang như xưa nữa.

Ðáng lẽ phái Nga Mi cũng được truyền dạy một phần chân kinh nhưng Diệt Tuyệt sư thái không nể nang chút nào.

Trương Tam Phong đã viết mấy bức thư lên hỏi thăm và định nhờ vả và còn sai cả Lợi Hanh thân hành đi nữa.

Ngờ đâu Diệt Tuyệt sư thái không thèm đọc thư thì chớ mà còn trả thư lại.

Nếu anh em Viễn Kiều lên Tung Sơn cầu kiến thì đỡ mất sĩ diện nhưng đã chắc đâu Không Văn đại sư chịu truyền lại khẩu quyết của Cửu Dương Chân Kinh nên Trương Tam Phong đành phải đích thân đi.

Mọi người nghĩ đến oai danh hiển hách của phái Võ Ðang đã gây dựng nên trong hai ba mươi năm nay mà rầu rĩ vô cùng. Vì vậy bữa tiệc trung thu cũng mất vui, người nào người nấy chỉ uống vài chén rượu rồi cho dọn ngay.

Sáng hôm sau Trương Tam Phong dắt Vô Kỵ lên đường.

Anh em Viễn Kiều tiễn sư phụ xuống núi.

Năm người định xin đi theo hầu sư phụ , Trương Tam Phong vội cản:

– Nếu các con cùng đi, phái Thiếu Lâm thế nào cũng sinh nghi. Chi bằng để mình Vô Kỵ với sư phụ , một già một trẻ đi thì hơn.

Thế rồi Trương Tam Phong với Vô Kỵ mỗi người cưỡi một con lừa đi về phía Bắc. Thiếu Lâm với Võ Ðang hai võ học tôn phái rất lớn và rất gần nhau.

Chỉ đi vài ngày đường là tới.

Lên tới Thiếu Lâm thất sơn, Trương Tam Phong với Vô Kỵ cột hai con lừa vào gốc cây rồi thủng thẳng đi lên trên núi.

Trương Tam Phong tái hồi đất cũ, vừa đi vừa nghĩ lại chuyện hơn tám mươi năm về trước, sư tôn của mình là Giác Viễn đại sư gánh một đôi thùng sắt đưa Quách Tường và mình chạy xuống núi Thiếu Lâm.

Lúc này lão anh hùng nhớ lại chuyện xưa tựa như mới xảy ra hôm nào.

Trương Chân Nhân cảm thấy cảm khái vô cùng từ từ đi lên núi, thấy cảnh vật vẫn như xưa còn Giác Viễn đại sư và Quách Tường thì đã lìa bỏ nhân gian!

Hai người đi tới Lập Tuyết Ðình đã thấy Thiếu Lâm Tự phái hai tăng nhân trẻ tuổi ở đằng xa tươi cười bước tới.

Trương Tam Phong chắp tay chào và nói:

– Phiền hai vị sư phụ thông báo rằng có Trương Tam Phong của phái Võ Ðang có việc tới đây cầu kiến Phương Trượng đại sư!

Hai tăng nhân đó nghe ba tiếng Trương Tam Phong giật mình kinh hãi , trố mắt nhìn lão anh hùng.

Thấy ông cao lớn lạ thường, râu tóc bạc như tuyết, mặt hồng hào, bóng bẩy, mồm tủm tỉm cười. Riêng có cái áo đạo bào xanh thì cũ và dơ bẩn.

Trương Tam Phong là đại tôn sư của phái Võ Ðang , mà Võ Ðang và Thiếu Lâm kém giao hảo từ lâu nên hai tăng nhân bán tín bán nghi, vội phi thân về chùa thông báo.

Một lát sau, cửa chùa rộng mở, Phương Trượng Không Văn đại sư cùng Không Trí, Không Tín bước ra.

Sau ba người có năm lão hòa thượng mặc áo vàng.

Trương Tam Phong biết ngay năm lão hòa thượng đó là năm vị hộ pháp của Ðạt Ma Viện, vai vế còn cao hơn cả vị Phương Trương nữa.

Năm vị này chỉ ở trong chùa nghiên cứu võ học, xưa nay không hề can dự tới việc bên ngoài. Nay nghe có người trưởng môn của phái Võ Ðang tới biết việc không phải tầm thường nên cả năm người mới cùng xuống núi đón tiếp.

Trương Tam Phong vội chạy ra ngoài đình lên tiếng vái chào và nói:

– Phiền Phương Trượng cùng mấy vị đại sư ra nghênh tiếp, tiểu đạo thật áy náy vô cùng.

Sư huynh đệ Không Văn và năm vị hộ pháp đều chắp tay đáp lễ rồi Không Văn lên tiếng hỏi:

– Trương Chân Nhân ở xa tới khiến anh em tiểu tăng ngạc nhiên vô cùng, Chẳng hay Chân Nhân có điều gì chỉ bảo?

Trương Tam Phong đáp:

– Tiểu đạo tới đây có một việc thỉnh cầu Phương Trượng.

Không Văn đại sư liền mời Trương Tam Phong vào trong đình.

Một tăng nhân bưng trà tới mời uống.

Trương Tam Phong trong lòng tức giận nghĩ thầm:

– Dầu sao ta cũng là một tiền bối của các người, tại sao không mời ta vào trong chùa, lại bắt ta ngồi ở chổ lưng chừng núi này? Không nói ta đi nữa, dù là khách tầm thường các người cũng không nên tiếp đãi một cách thiếu lễ độ như vậy!

Nhưng Trương Chân Nhân là người rất khoáng đạt tuy nghĩ như vậy nhưng không lộ ra mặt. Không Văn lại nói:

– Trương Chân Nhân giáng lâm tệ sơn đáng lẽ anh em bần tăng phải nghênh đón Chân Nhân vào trong chùa mới hợp lẽ, nhưng Chân Nhân hồi nhỏ không tháo lui mà tự tiện rời khỏi Thiếu Lâm , đã phạm vào quy củ mấy trăm năm của bổn phái, chắc Chân Nhân cũng biết rõ điều lệ đó rồi. Phàm những môn đồ hay phản đồ của bổn phái tự tiện rời khỏi nơi đây thì suốt đời không được phép vào chùa một bước, nếu trái lệnh người đó sẽ bị hình tội cắt gân chân.

Trương Tam Phong hà hà cười và đáp:

– Ra là thế. Hồi nhỏ tiểu đạo tuy ở chùa Thiếu Lâm hầu hạ Giác Viễn đại sư thật nhưng tiểu đạo chỉ là một thằng nhỏ tạp dịch, chuyên môn quét nhà pha nước thôi, chưa cắt tóc đi tu và cũng chưa chính thức bái sư. Như vậy tiểu đạo chưa phải là đệ tử của phái Thiếu Lâm.

Không Trí lạnh lùng xen vào:

– Nhưng Trương Chân Nhân đã học lóm võ công của chùa Thiếu Lâm rồi mới ra đi!

Trương Tam Phong có vẻ tức giận nhưng sực nghĩ lại:

– Võ công của phái Võ Ðang tuy tới năm bốn mươi ta mới sáng tạo ra được nhưng dầu sao ta cũng phải nhờ cuốn Cửu Dương Chân Kinh của Giác Viễn đại sư truyền dạy cho. Và còn được Quách Tường nữ hiệp tặng cho một đôi thiết La Hán cũng giúp cho rất nhiều. Nhưng võ công căn cứ ở cuốn chân kinh với đôi thiết La Hán đó chỉ là lúc đầu còn những võ công của phái Võ Ðang về sau đều do ta nghĩ ra cả. Nay mấy hòa thượng này bảo võ công của ta xuất thân từ Thiếu Lâm cũng không lấy gì làm ngoa lắm . Nghĩ tới đó Chân Nhân nguôi cơn giận liền đỡ lời:

– Ngày hôm nay tiểu đạo tới đây cũng vì vấn đề đó.

Không Văn, Không Trí đưa mắt nhìn nhau cùng nghĩ thầm: “Không biết y tới đây làm gì? Chắc y không có hảo ý gì đâu?

Không Văn liền hỏi:

– Xin Chân Nhân cho biết rõ!

Trương Tam Phong đáp:

– Vừa rồi Không Trí đại sư nói võ công của tiểu đạo xuất xứ từ Thiếu Lâm quả không sai tí nào. Năm xưa tiểu đạo hầu hạ Giác Viễn đại sư, được đại sư truyền dạy cho cuốn Cửu Dương Chân Kinh của Ðạt Ma lão tổ tự bút để lại. Nhưng lúc bấy giờ tiểu đạo còn thơ dại chưa học được hết cho tới ngày nay vẫn còn ân hận vô cùng. Tiểu đạo còn nhớ lúc Giác Viễn đại sư tụng kinh ở trong núi hoang tất cả có ba người được nghe. Một là Quách Tường nữ hiệp , vị tổ sư của phái Nga Mi , hai là Vô Sắc thiền sư của quí phái còn ba là tiểu đạo. Lúc ấy tiểu đạo là người nhỏ tuổi nhất, thiếu căn bản võ học, đầu óc lại ngu si nên chỉ có tiểu đạo là người tiếp thu được ít nhất.

Không Trí giọng lạnh lùng nói tiếp:

– Chân Nhân nói vậy không được đúng cho lắm. Thiết nghĩ Chân Nhân hầu hạ Giác Viễn từ hồi còn nhỏ, trong mấy năm đó, Giác Viễn thế nào chẳng truyền dậy cho Chân Nhân đôi chút. Võ công của Võ Ðang được lừng danh thiên hạ ngày nay cũng là công của Giác Viễn hết. Vai vế của Giác Viễn đại sư lớn hơn Không Trí ba bực, đáng lẽ lão hòa thượng phải gọi Giác Viễn bằng đại sư thúc tổ mới phải, nhưng vì Giác Viễn đào tẩu khỏi Thiếu Lâm bị coi như đệ tử bỏ đi nên vai vế trong phái cũng bị loại. Do đó Không Trí đối với Giác Viễn không cần giữ lễ. Trương Tam Phong nghe nói đến tên sư phụ mình vội cung kính đứng dậy nói:

– Ân đức của tiên sư tiểu đạo không bao giờ dám quên cả.

Trong bốn đại thần tăng của phái Thiếu Lâm chỉ có Không Kiến đại sư là người từ bi nhất nhưng tiếc rằng ông ta qua đời rất sớm. Còn Không Văn là người rất thâm, hỉ nộ không hề lộ ra ngoài mặt. Không Tín lại là người ngu si đần độn không biết một tí gì về việc đời. Còn Không Trí là người rất hẹp lượng, y thấy Trương Tam Phong học lóm võ công của phái Thiếu Lâm ra đi mà danh vọng của phái Võ Ðang lại lừng lẫy hơn cả phái Thiếu Lâm nên trong lòng lúc nào cũng hậm hực bất mãn. Y nhận định phen này Trương Tam Phong tới Thiếu Lâm Tự là để rửa thù cho Trương Thúy Sơn. Huống hồ bữa nọ lúc Hân Tố Tố sắp chết nàng giả vờ nói rõ tung tích Tạ Tốn cho Không Văn hay, đã sử dụng kế di họa Giang Ðông rất ác độc. Từ đó đến giờ hơn hai năm rồi, tháng nào cũng có cao thủ võ lâm tới Thiếu Lâm Tự quấy nhiễu. Hoặc van lơn cầu khẩn hoặc dọa nạt để hỏi tung tích của Tạ Tốn. Không Văn cứ phải thề thốt với những người đó luôn mồm là mình không biết gì cả. Nhưng hơn một trăm cặp mắt đã được chứng kiến Hân Tố Tố kề tai Không Văn nói nhỏ tung tích của Tạ Tốn ngày hôm đó rồi. Như vậy Không Văn có hết hơi giảng giải các cao thủ võ lâm cũng không sao tin được. Cũng chính vì thế có người đã ra tay đấu với mấy vị thần tăng. Tháng nào cũng có một vài trận. Do đó số người bị chết và bị thương rất nhiều, nhưng bên Thiếu Lâm cũng có khá nhiều cao thủ bị thương và giết hại. Suy cho cùng thì mối di họa đó do phái Võ Ðang gây nên cả. Anh em Không Văn hậm hực hơn hai năm trời, nay bỗng thấy Trương Tam Phong mang thân đến tận cửa chùa thật là một dịp may cho anh em họ rửa hờn rửa nhục.

Không Trí liền nói:

– Trương Chân Nhân đã tự thừa nhận võ công của mình là do học lóm của phái Thiếu Lâm , nhưng chỉ tiếc lúc này không có người ngoài ở cạnh đây, để họ đem lời nói của Chân Nhân đồn ra ngoài cho thiên hạ hay biết.

Trương Tam Phong liền đỡ lời:

– Hoa sen trắng hay hoa sen đỏ cũng đều là hoa sen. Võ học của thiên hạ cũng thế thôi, xuất xứ cùng ở một nguồn gốc. Hàng mấy nghìn năm nay, đời này truyền sang đời khác, mỗi đời có người giỏi bổ khuyết những sở đoản của người trước nên võ học mới lập ra các môn phái và đã mất hết nguồn gốc xưa. Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm thì thiên hạ ai cũng công nhận rồi. Ngày hôm nay tiểu đạo lên núi Tung Sơn này cũng vì ngưỡng mộ võ học của quí phái. Và tự biết võ công của mình còn kém nên mới đến đây cầu giáo mấy vị đại sư.

Không Văn, Không Trí hiểu lầm lời nói của Trương Tam Phong, tưởng ông nói hai chữ cầu giáo đó là ngụ ý khiêu chiến nên người nào người nấy đều kinh hãi biến sắc nghĩ thầm:

– Lão đạo sĩ này tuổi đã bách tuế võ công cao siêu khôn lường, trên đời này còn ai địch nổi y. Nay một mình y tới đây hẳn phải tự thị lắm. Chắc trong hai năm nay y đã tu luyện được võ công rất lợi hại mới định tới đây để đấu với anh em chúng ta thử xem.

Ba anh em đều nghĩ như vậy nên không ai dám lên tiếng trả lời.

Sau cùng Không Tín mới đáp:

– Lão đạo sĩ giỏi lắm, muốn thử tài anh em chúng ta phải không? Lão tăng Không Tín này không sợ lão đâu. Nay chùa Thiếu Lâm chúng ta có tất cả hơn ba ngàn hòa thượng cùng xúm lại đánh, chắc lão đạo sĩ lật đổ được Thiếu Lâm Tự .

Tuy Không Tín nói ngoài miệng là không sợ nhưng trong lòng đã run rẩy lắm rồi nên y mới phải đem con số hơn ba ngàn người ra để dọa nạt Trương Tam Phong.

Trương Chân Nhân vội cải chính:

– Các vị đại sư chớ có hiểu lầm! Tiểu đạo vừa nói hai chữ cầu giáo là có ý tới đây thỉnh cầu quí vị dậy thật sự. Chỉ vì lúc tiên sư truyền dậy Cửu Dương Chân Kinh bên trong có nhiều chổ nghi nan không hiểu nên tiểu đạo phải tới đây yêu cầu mấy vị chỉ giáo cho để Trương Tam Phong được thấu triệt toàn pho chân kinh đó thì cám ơn vô cùng.

Nói xong, Trương Tam Phong đứng dậy vái chào.

Lời nói của Trương Tam Phong khiến mấy thần tăng của phái Thiếu Lâm đều ngạc nhiên vô cùng vì ai cũng biết rằng thần công của Trương Tam Phong đã cái thế và lại là người khai sáng một phái, tu luyện ngót hơn mươi năm trời, là người có địa vị cao nhất, danh vông lớn nhất trong võ lâm đương thời, không ngờ hôm nay ông ta lại thân hành đến Thiếu Lâm Tự để cầu giáo như vậy.

Không Văn vội lễ độ đáp:

– Trương Chân Nhân nói bông đùa phải không? Anh em bần tăng là hậu bối và võ học rất non kém đáng lẽ còn phải lãnh giáo Chân Nhân rất nhiều mới phải chứ đâu dám nhận hai chữ chỉ giáo như thế!

Trương Tam Phong biết thế nào đối phương cũng không tin đành phải đem rõ sự thật nói hết cho mấy vị thần tăng nghe và bảo chỉ có Cửu Dương Thần Công mới có thể chữa khỏi được vết thương và bảo toàn tính mạng cho Vô Kỵ.

Bây giờ Trương Chân Nhân bằng lòng đem những võ công mà mình học được trong Cửu Dương Chân Kinh nói lại cho các cao thủ của phái Thiếu Lâm hay và mong phái Thiếu Lâm cũng cho mình hay những đoạn mà phái Thiếu Lâm đã học hỏi được trong Cửu Dương Chân Kinh để trao đổi.

Không Văn nghe xong ngẫm nghĩ giây lát rồi nói tiếp:

– Phái Thiếu Lâm chúng tôi có tất cả bảy mươi hai tuyệt kỹ, nhưng trong hơn nghìn năm nay chưa có một danh tăng hay tục đệ tử nào học hết tới mười. Tài học của Trương Chân Nhân đã siêu tuyệt kim cổ nhưng võ công của tệ phái thì các vị học hết một phần mười cũng không phải là chuyện dễ. Nay Chân Nhân muốn trao đổi võ công với tệ phái để học nốt cuốn Cửu Dương Chân Kinh , thịnh tình này anh em bần tăng rất cảm tạ nhưng bổn phái đã có nhiều môn võ công chưa ai học tới được vậy Chân Nhân có ban cho chúng tôi thêm cũng chỉ là thừa thôi.

Nói tới đó Không Văn ngừng giây lát lại tiếp:

– Võ công của phái Võ Ðang xuất xứ từ Phái Thiếu Lâm , nay hai bên trao đổi võ học e sau này những người trên giang hồ không hiểu rõ thực hư sẽ hiểu lầm là phái Võ Ðang được phái Thiếu Lâm truyền nghề và phái Thiếu Lâm được Trương Chân Nhân dậy bảo cho khá nhiều chăng? Thần tăng là trưởng môn của phái Thiếu Lâm sợ gánh vác không nổi những lời đàm tiếu đó.

Trương Tam Phong thở dài nghĩ thầm:

– Không ngờ Không Văn là một trong bốn thần tăng mà lại hẹp lượng đến thế!

Nhưng lúc bấy giờ, Trương Chân Nhân đang cần phái Thiếu Lâm giúp cho nên không tiện trách mắng Không Văn đành phải nói rõ ra:

– Ba vị là thần tăng đương thời, mong ba vị mở lòng từ bi cứu thằng nhỏ này vì nó sắp chết đến nơi. Cũng mong ba vị thể niệm lòng cứu nhân độ thế của phật tổ mà nhận lời. Thằng nhỏ này được cứu thoát chết lúc nào tiểu đạo cũng nhớ tới long cao nghĩa của ba vị.

Không Trí lạnh lùng nói:

– Vẫn biết người đi tu lúc nào cũng phải có lòng từ bi, nhưng tại sao vợ chồng Trương Thúy Sơn năm xưa lại giết hại quá nhiều đệ tử của phái Thiếu Lâm ? Nay vợ chồng Ngũ hiệp đã tự tử chết để tạ tội và chúng tôi cũng không muốn truy cứu tới việc đó nữa, bằng không cứ theo sự công bằng mà nói thì giết một phải đền một. Bây giờ thằng nhỏ này có đền mạng vào vụ đó cũng không phải là quá đáng!

(Thiếu một đoạn)

Hồi thứ 27

Ðiệp Cốc Y Tiên

Vô Kỵ tuy rất thông minh nhưng tuổi vẫn còn nhỏ nên nhất thời y không nghĩ ra được cách gì đối phó lại phái Thiếu Lâm đành phải nghe lời thái sư phụ mà theo bọn tăng nhân đó lên chùa.

Không Văn đem Vô Kỵ tới một căn phòng nhỏ rồi nói:

– Tiểu thí chủ đi đường mệt nhọc, hãy ở lại đây nghố ngơi trong chốc lát, lão tăng sẽ phái người đến đây truyền dậy võ công cho thí chủ ngay.

Nói xong, Không Văn dùng tay áo phất vào trước ngực và sau lưng thằng nhỏ mấy cái, điểm huyệt cho nó ngủ thiếp đi.

Không Văn đại sư là một trong ba đại thần tăng của phái Thiếu Lâm có tài điểm huyệt có thể nói là thiên hạ vô song. Dù những tay cao thủ có tên tuổi khác, chỉ bị Không Văn dùng tay áo hất phải yếu huyệt một cái , công lực mất ngay, hoặc chết hoặc mê man bất tỉnh.

Ngờ đâu Vô Kỵ theo Tạ Tốn học võ, nội công của y quái dở khôn lường, các huyệt đạo của y vẫn thường thường đổi chổ. Bữa nọ y bị tên lính Nguyên giả hiệu bắt cóc đem lên núi Võ Ðang và điểm huyệt cho y cấm khẩu, nhưng Vô Kỵ đã tự biết di chuyển vị trí của các yếu huyệt nên vẫn lên tiếng kêu cứu được.

Lúc này Vô Kỵ tình cờ bị Không Văn hất phải yếu huyệt liền mê man ngủ ngay.

Ðúng ra phải bốn tiếng đồng hồ sau y mới có thể tỉnh lại nhưng chỉ hơn tiếng sau, máu trong người Vô Kỵ đã lưu thông, huyệt đạo liền đổi chổ nên y tỉnh lại ngay.

Y vừa thức tỉnh đã nghe Không Trí nói:

– Ðạo sĩ dơ bẩn là tôn sư nhất đời, y đã nhận lời trao đổi võ công với chúng ta thì những gì y viết ra chắc không có chút nào giả dối đâu. Cho dù y viết ra không được rõ ràng cho lắm chúng ta cũng có thể đoán ra.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Tại sao họ lại điểm huyệt cho ta ngủ như vậy. Hay là chúng định bàn tán âm mưu gì với nhau chăng?

Vô Kỵ nhắm mắt làm như ngủ mê man thực nhưng vẫn lắng tai nghe các vị thần tăng của phái Thiếu Lâm trò chuyện với nhau.

Sự thật giữa Thiếu Lâm và Võ Ðang tuy có chút hiềm thù với nhau nhưng Không Văn, Không Trí, Không Tín cũng là cao tăng nhất thời, khi nào họ lại dùng quỉ kế hại Trương Tam Phong? Họ còn phải lo giữ danh tiếng đã gây nên hơn nghìn năm nay của các vị đại sư tổ chứ?

Không Văn liền nói:

– Sư đệ nói rất đúng, những võ công và bí quyết của Trương Chân Nhân tất nhiên là thật rồi nhưng anh em chúng ta đã luyện qua Cửu Dương Thần Công của Thiếu Lâm đâu? Nếu người ngoài biết được chuyện này thì chúng ta không còn mặt mũi nào đứng trước mặt các anh hùng giang hồ võ lâm nữa? Bây giờ đành phải nhờ vả Viên Chân vậy. Dù có bị y la lối cũng đành phải chịu chứ biết làm sao bây giờ ?

Vô Kỵ nghe nói như vậy lại nghĩ tiếp:

– Té ra mấy lão hòa thượng này không biết Cửu Dương Thần Công của phái Thiếu Lâm , chẳng lẽ chúng lại dạy ta những võ công giả để để đánh lừa Thái sư phụ , lấy võ công thật của phái Võ Ðang cũng nên.

Y lại nghe Không Trí nói tiếp:

– Sư huynh là một vị Phương Trượng trưởng môn, cứ truyền pháp chỉ xuống thì Viên Chân phải tuân lệnh ngay. Vả lại chuyện này chúng ta định làm rạng rỡ võ học của bổn môn chứ có phải vì việc riêng của chúng ta đâu.

Không Văn thở dài một tiếng rồi đáp:

– Nếu Không Kiến sư huynh chưa khuất núi thì ta việc gì phải nhờ vả tới gã Viên Chân ấy …

Ngẫm nghĩ giây lát người trưởng môn của Thiếu Lâm lại tiếp:

– Tam sư đệ, hãy cầm cây thiết thần trượng này của ngu huynh đi ra lệnh cho Viên Chân. Bảo y truyền dạy Cửu Dương Thần Công cho thiếu niên họ Trương này!

Không Trí đáp:

– Xin tuân lệnh!

Thì ra năm xưa, Giác Viễn đại sư truyền Cửu Dương Chân Kinh ở ngoài núi hoang, phần kinh mà Trương Tam Phong học được trở thành Cửu Dương Công của phái Võ Ðang , phần Quách Tường nữ hiệp học được thành Cửu Dương Công của phái Nga Mi, phần Vô Sắc đại sư học được thành Cửu Dương Công của phái Thiếu Lâm.

Môn Cửu Dương Thần Công này rất bác đại và cao thâm, mỗi phái chỉ truyền lại cho vài ba người thôi. Phái Thiếu Lâm vì có tới bảy mươi hai tuyệt kỹ nên người chuyên luyện Cửu Dương Thần Công lại càng ít hơn hai phái kia. Từ Vô Sắc đại sư truyền xuống đến Không Kiến, mỗi đời chỉ có một người học thôi.

Các đệ tử tăng tục của phái Thiếu Lâm đều coi Giác Viễn là đệ tử bị đuổi ra khỏi phái nên không mấy ai chịu học môn thần công của lão truyền lại. Tuy thật tinh diệu đấy nhưng không phải ai cũng muốn học cả vì tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm còn nhiều lắm dù học hết đời cũng không sao học được .

Tuy vậy đời nào cũng có một đệ tử học môn Cửu Dương Thần Công này để khỏi bị thất truyền.

Lúc ấy trong chùa Thiếu Lâm chỉ có đệ tử của Không Kiến là Viên Chân theo học môn Cửu Dương Thần Công này thôi. Nhưng tính nết của hòa thượng này rất kỳ dị, suốt năm bế quan không chịu đi ra ngoài.

Ðối với ba vị thần tăng thì còn có chút đỉnh lễ phép, ngoài ra tất cả những tăng nhân khác trong chùa đều ít có ai được nói chuyện với Viên Chân.

Hằng năm, cứ đến ngày kỷ niệm Ðạt Ma Tổ Sư quá giang là trong chùa có cử hành thi thố võ nghệ và do ba vị thần tăng làm giám khảo.

Tất cả tăng nhân trong chùa đều tới dự.

Riêng có Viên Chân lần nào cũng cáo ốm, không chịu ra dự thi. Không ai biết y đau thật hay giả nên không ai rõ được võ công của y đã luyện tới mức nào. Vì vậy anh em Không Văn mới nghĩ đến nhờ Viên Chân truyền dậy võ công cho Vô Kỵ mặc dù cả ba đều biết Viên Chân rất khó sai bảo.

Lát sau Không Trí quay trở lại nói:

– Tính nết của Viên Chân quái dở thật. Y bảo đi tu rồi không muốn gặp mặt người ngoài nữa. Nay vì pháp chỉ của Phương Trượng ban xuống nên y đành phải tuân theo. Nhưng y chỉ nhận lời cách vách truyền dậy thôi.

Không Văn suy tính giây lát liền nói:

– Y muốn thế đành phải chiều theo vậy thôi. Lát nữa sư đệ cho Trương Tam Phong viết xong kinh văn đem vào đây xem qua nếu không sai thì sư đệ đưa thiếu niên này đi cho Viên Chân truyền dậy Cửu Dương Chân Kinh. Sau đó sư đệ lại bảo bọn nhà bếp làm một mâm cỗ chay, đem lên Lập Tuyết Ðình để khoản đãi Trương Tam Phong. Dù sao lão đạo sĩ ấy cũng là một tôn trưởng của một đại môn phái, chúng ta không nên thất lễ.

Tiếp theo đó ba người bàn tán chuyện khác, được một lúc thì rời khỏi gian phòng liền. Vô Kỵ nằm trên giường đợi chờ.

Một lát sau mới thấy có người đi vào trong phòng.

Y mở mắt ra nhìn, thấy đó là một chú tiểu, đem cơm vào cho y ăn.

Ăn no rồi, Vô Kỵ nghe chú tiểu bảo:

– Tiểu thí chủ hãy theo tiểu tăng đi tới đằng kia!

Vô Kỵ hỏi:

– Ði đâu thế?

– Phương Trượng chúng tôi bảo đưa tiểu thí chủ đi gặp một người.

– Người đó là ai?

– Tiểu tăng không được rõ, Phương Trượng đã ra lệnh không cho tiểu tăng nói nhiều.

Vô Kỵ thấy chú tiểu làm ra vẻ bí mật liền nghĩ thầm:

– Các người cố ý làm ra vẻ bí mật nhưng ta đã biết rõ hết rồi. Bây giờ ngươi định đưa ta gặp một quái hòa thượng tên là Viên Chân gì đó chứ còn ai nữa!

Nghĩ đoạn, Vô Kỵ liền theo sau chú tiểu đi qua một căn phòng và mấy cái sân.

Vừa đi y vừa nghĩ:

– Chùa Thiếu Lâm lớn hơn Ngọc Hư Cung của phái Võ Ðang chúng ta nhiều .

Y đi theo chú tiểu tới trước một tiểu viện, xung quanh cây cối um tùm.

Ngoài cửa viện có treo tấm mành trúc.

Ði tới trước tấm mành trúc đó chú tiểu liền lớn tiếng bẩm:

– Bẩm đại sư, Trương tiểu thí chủ đã tới.

Trong nhà có một giọng nói rất trầm đáp:

– Vào ngay đi!

Vô Kỵ liền đẩy cửa vào bên trong, chú tiểu ở bên ngoài thuận tay khép của lại và đi liền.

Vô Kỵ nhìn chung quanh thấy căn nhà đó trống không, chỉ dưới đất có một tấm bồ đoàn còn bốn vách thì tiêu điều liền nghĩ thầm:

– Sao trong nhà lại không có một ai thế này? Và phía sau cũng không có cửa ngõ gì hết? Người vừa lên tiếng ở đâu?

Y đang thắc mắc bỗng nghe giọng nói trầm khi trước nói:

– Thí chủ hãy ngồi xuống, nghe bần tăng thuật lại bí quyết Cửu Dương Thần Công của phái Thiếu Lâm . Bần tăng chỉ nói một lần thôi, thí chủ phải cố nhớ lấy. Nhớ được nhiều hay ít là do sự thông minh và trí nhớ của thí chủ. Phương Trượng sau bần tăng truyền dậy võ công, bần tăng chỉ biết tuân lệnh. Thí chủ có lĩnh hội được hay không, không can hệ gì đến bần tăng.

Vô Kỵ quay mặt lại nhìn về phía có tiếng nói đó mới hay hòa thượng ở căn phòng bên, đằng say tấm vách đó nói sang. Tiếng nói đó xuyên qua vách thì không có gì là lạ cả, ai cũng có thể làm được nhưng lời nói của Viên Chân rất rõ ràng, tựa như ngồi đối diện vậy, như thế mới thật vậy, trong lòng thán phục vô cùng nên yên lặng không nói gì đến nữa. Y thừa lệnh Không Văn đại sư truyền Cửu Dương Thần Công cho Vô Kỵ mà trong lòng y không muốn chút nào. Lệnh của Phương Trượng chỉ bảo truyền dậy chứ không nói là phải chỉ cho Vô Kỵ biết mới được vì thế y nói luôn một thôi dài và chắc rằng Vô Kỵ là một đứa nhỏ, tuổi trạc mười hai mười ba , giỏi lắm nhớ được một vài câu là cùng. Y có ngờ đâu Vô Kỵ lại thông minh đến thế. Y cũng phải công nhận Vô Kỵ là một kỳ tài hiếm có trên thiên hạ.

Vô Kỵ thấy chú tiểu nằm dưới đất chân tay co quắp liền động lòng thương nên lên tiếng hỏi:

– Thưa thiền sư, chẳng hay tiểu sư phụ này làm sao mà bị co quắp người như thế?

Viên Chân lạnh lùng đáp:

– Y ở ngoài cửa nghe lỏm bần tăng truyền võ công cho tiểu thí chủ nên bần tăng mới dùng Kim Cương Thiềm Xướng (Bài ca Phật Kim Cương) để cho y chịu chút đau khổ nhưng chỉ một lát thôi y sẽ tự khỏi ngay.

Nói tới đó, Viên Chân ngẫm nghĩ giây lát rồi tiếp:

– Bần tăng không hiểu tại sao Phương Trượng lại ra lệnh cho bần tăng truyền Cửu Dương Thần Công cho thí chủ làm gì? Tên họ của thí chủ tất nhiên bần tăng không biết , còn pháp danh của bần tăng thí chủ cũng khỏi cần biết tới. Bần tăng không biết trước kia thí chủ đã học qua những võ công gì? Nhưng bần tăng thấy thí chủ thông minh như vậy chắc tương lai sẽ rạng rỡ lắm. Tiện đây bần tăng vui lòng giúp thí chủ một phen để đả thông kinh kỳ bát mạch khác người của thí chủ, như vậy sau này thí chủ luyện tập Cửu Dương Thần Công sẽ tiến bộ nhanh gấp bội.

Vô Kỵ chưa kịp trả lời đã thấy hòa thượng dùng tay đấm mạnh mấy cái vào tường cho nứt ra rồi lần cạy văng mấy viên gạch làm thủng một lỗ trên tường. Vô Kỵ chưa hết kinh ngạc thì Viên Chân đã truyền thần công cho Vô Kỵ, giúp đả thông kinh kỳ bát mạch. Vô Kỵ liền quỳ xuống và nói:

– Tiểu tử đa tạ thiền sư đã truyền võ công cho và đả thông bát mạch cho Vô Kỵ, ơn đức này không bao giờ dám quên!

Viên Chân không muốn nhận lễ bái của Vô Kỵ liền quay đi và bảo Vô Kỵ:

– Ngươi đi thưa lại với Phương Trượng, bảo việc truyền võ công của bần tăng đã xong. Trí nhớ của thí chủ quả thật kinh người! Thí chủ đã nhớ được hết khẩu quyết của môn Cửu Dương Thần Công rồi.

Vô Kỵ nghe Viên Chân nói vậy đang ngơ ngác không hiểu liền nghe chú tiểu đứng phía sau lên tiếng:

– Vâng!

Thì ra Viên Chân dặn bảo chú tiểu đó đi thưa lại với Phương Trượng.

Vô Kỵ thấy mặt chú tiểu nhợt nhạt như người chết đuối và có vẻ sợ hãi khôn tả.

Vô Kỵ theo chú tiểu ra khỏi chùa, suốt dọc đường gặp khá nhiều tăng nhân, người nào người nấy đi ở bên lề đường, cúi đầu nhìn xuống.

Tuy ở trong chùa có hơn nghìn tăng chúng mà không nghe một tiếng cười đùa nào cả. Ngay cả những đệ tử tục gia tới chùa học võ cũng vậy, không ai dám ưởn ngực đi lại một cách nghênh ngang như những đệ tử của các môn phái khác.

Lúc Vô Kỵ đi qua các tăng nhân hay đệ tử tục gia không thấy họ đưa mắt nhìn mình chút nào cũng phải khen thầm:

– Phái Thiếu Lâm đứng đầu thiên hạ có khác, luật qui trong chùa quả thật nghiêm ngặt vô cùng!

Nghĩ tới đó, Vô Kỵ mới nhận thấy phái Võ Ðang tự do hơn phái Thiếu Lâm nhiều. Trên núi Võ Ðang muốn nói muốn cười, muốn chạy muốn đùa cũng không ai lý tới. Ngay cả cách ăn mặc cũng thế, đệ tử của phái Võ Ðang không phải ăn mặc chỉnh tề như phái Thiếu Lâm.

Chú tiểu và Vô Kỵ đi tới Lập Tuyết Ðình thấy Trương Tam Phong viết được hơn ba mươi trang giấy thế mà vẫn chưa hết những khẩu quyết của hai môn võ công.

Vô Kỵ cảm động vô cùng, nước mắt ứa ra lớn tiếng nói:

– Thái sư phụ, thiền sư đã truyền dậy cho con đủ mười hai thức Cửu Dương Thần Công của phái Thiếu Lâm rồi.

Trương Tam Phong nghe nói cả mừng:

– Tốt lắm! Tốt lắm!

Trương Chân Nhân lại viết tiếp, không bao lâu lão anh hùng đã viết xong.

Tăng nhân đứng hầu cạnh liền vào trong chùa bẩm báo cho Phương Trượng hay.

Một lát sau, ba vị thần tăng trở ra đem theo một thanh niên tuổi trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu, đệ tử tục gia của chùa Thiếu Lâm.

Trương Tam Phong ngạc nhiên vô cùng vì Chân Nhân biết luật lệ của chùa Thiếu Lâm vẫn qui định, hễ chưa học thành tài thì các đệ tử tục gia không được phép ra khỏi cửa chùa lấy một bước. Những đệ tử tục gia đó, được vào chùa Thiếu Lâm không phải là chuyện dễ mà ra khỏi cửa chùa lại càng khó khăn hơn. Vậy sao lúc này trưởng môn Phương Trượng lại đem một đệ tử tục gia ra khỏi chùa như thế làm gì?

Trương Tam Phong liếc mắt ngắm nhìn thiếu niên đó một hồi, thấy thiếu niên đó người gầy gò, hai má rất cao, tay dài, chân ngắn, đôi ngươi rất sắc, hiển nhiên là một người tài hoa.

Không Văn đi vào trong Lập Tuyết Ðình, chắp tay vái chào và nói:

– Trương Chân Nhân vất vả quá!

Trương Tam Phong mỉm cười đáp:

– Ða tạ Phương Trượng từ bi, đã cho phép thằng nhỏ được học hỏi thần công của quí phái, không khác gì là cứu được tính mạng của nó!

Nói xong, Trương Chân Nhân đưa hơn ba mươi tờ giấu vừa viết xong cho Không Văn và nói tiếp:

– Tiểu đạo đã viết rõ những tinh yếu của Thái Cực Quyền thập tam thức và Võ Ðang Cửu Dương Thần Công vào đây mong ba vị sư huynh xem qua và chỉ giáo cho!

Không Văn đỡ lấy những tờ giấy đó rồi đưa ngay cho thiếu niên dứng ở phía sau chứ không đọc.

Thiếu niên nọ giở từng trang một ra xem.

Trương Tam Phong liền nói:

– Trời đã tối, tiểu đạo xin cáo lui!

Không Văn vội nói:

– Trương Chân Nhân giá lâm Thiếu Lâm Tự anh em bần tăng chưa kịp tiếp đãi Trương đã đi ngay. Vậy xin Chân Nhân hãy nán lại một chút, để anh em bần tăng được kính ba chén rượu lạt.

Không Văn vừa dứt lời một tăng nhân bưng khay rượu lên.

Thế rồi Trương Tam Phong cùng Không Văn đối ẩm ba chén.

Tiếp theo Trương Chân Nhân lại uống với Không Trí và Không Tín, mỗi người ba chén nữa.

Sau rốt Trương Tam Phong bảo Vô Kỵ vái chào ba vị cao tăng.

Hai ông cháu đang định quay đi bỗng nghe thanh niên đứng phía sau Không Văn lên tiếng nói:

– Thưa sư bá, những khẩu quyết Trương Chân Nhân viết ra trong này đều là võ công mà sư phụ con đã dậy con rồi.

Trương Tam Phong nghe nói kinh ngạc biến sắc mặt nghĩ thầm:

– Làm gì có chuyện như thế?!

Không Văn vội quát mắng:

– Bậy nào! Thái Cực Quyền thập tam thức là môn võ công chấn sơn của phái Võ Ðang mà Trương Chân Nhân đã mất bao nhiêu tâm huyết mới sáng tạo ra được, sao con lại bảo đã được học qua?

Thiếu niên nọ đưa xấp giấy đó cho Không Văn nói tiếp:

– Xin sư bá cứ đọc qua sẽ rõ ngay!

Không Văn liền cầm giấy đó lên đọc qua loa rồi đưa cho Không Trí, Không Tín.

Hai người thần tăng đó cũng giở ra đọc đại khái, mỗi trang họ chỉ đọc một vài chữ đầu thôi. Không Trí liền khẽ nói:

– Thưa sư huynh, võ công viết trong này quả thực là võ công của phái Thiếu Lâm chúng ta.

Trương Tam Phong vừa kinh hãi vừa tức giận nghĩ thầm:

– Ta tốn hơn ba mươi năm mới nghiên cứu ra môn Thái Cực Quyền thập tam thức này, khác hẳn những môn võ học của Thiếu Lâm Tự , tại sao chúng lại bảo là võ công của phái Thiếu Lâm được? Ngay như môn Cửu Dương Thần Công của ta tuy xuất xứ từ Cửu Dương Chân Kinh của Ðạt Ma nhưng tám mươi năm nay ta đã thêm thắt, sửa chữa rất nhiều. Phái Thiếu Lâm các người làm sao mà biết được?

Không Trí đưa tập giấy đó trả lại cho Trương Tam Phong với giọng lạnh lùng nói:

– Võ học của phái Võ Ðang nguồn gốc xuất xứ từ phái Thiếu Lâm , anh em bần tăng tưởng võ công của quí phái thay đổi nhiều, không ngờ không có gì là lạ cả!

Trương Tam Phong nghĩ ngợi giây lát liền hiểu ngay ý định của đối phương nghĩ thầm: – Phái Thiếu Lâm các người sợ mang tiếng với giang hồ là học lại tâm pháp của phái Võ Ðang chúng ta cho nên mới phải nói bừa là đã biết những võ công này rồi .

Ðoạn Trương Chân Nhân ngửng đầu lên vừa cười vừa nói:

– Từ xưa tới nay Trương mỗ đã nói ra không bao giờ thay đổi, những võ công này vốn thô thiển, những người cao siêu , đọc thế nào cũng chê cười. Nếu ba vị cho là những môn võ công này không ra gì thì vứt nó đi cũng không sao.

Tuy lão anh hùng nói như vậy nhưng vẫn không đưa tay ra đón lấy tập giấy của Không Trí đưa ra. Không Trí lại nói:

– Trương Chân Nhân nói vậy hình như không tin lời nói của anh em chúng tôi?

Y quay lại nói với thanh niên kia:

– Hữu Lượng, con thử đọc lại những lời quyết Cửu Dương Thần Công và Thái Cực Quyền thập tam thức mà sư phụ đã truyền dậy để Trương Chân Nhân nghe, xem có giống những võ công của Chân Nhân viết ra không?

Thiếu niên nọ vâng lời, lớn tiếng đọc hết hai pho Cửu Dương Thần Công và Thái Cực Quyền , không sai một câu, không sót một chữ.

Chờ thiếu niên đó đọc xong Vô Kỵ liền nói với Trương Tam Phong:

– Thưa Thái sư phụ , vừa rồi người này đọc xong kinh văn của Thái sư phụ viết ra đã ghi sâu vào trong lòng rồi lại đi bảo những võ công đó là của phái Thiếu Lâm có trước, thật không biết xấu hổ chút nào!

Lúc này Trương Tam Phong đã biết rõ ý định của ba vị thần tăng kia rồi. Thì ra đồ đệ của Không Trí có trí nhớ rất kinh người. Bất cứ bài văn khó đến đâu, y chỉ cần đọc qua một lần là thuộc ngay. Sau khi y đọc hết ba mươi mấy trang giấy của Trương Tam Phong, nhớ kỹ xong liền trả lại để tỏ rằng cuộc trao đổi này không ích gì cho phái Thiếu Lâm hết. Trương Chân Nhân ha hả cười và nói:

– Trong lúc ba vị thần tăng mời mỗ uống rượu thì các hạ đã học thuộc lòng hai pho võ công của mỗ viết. Người thông minh tài trí như các hạ đây Trương Tam Phong đây cũng phải hổ thẹn, thật., không sao bằng được. Chẳng hay quí tính đại danh của các hạ là chi?

Thiếu niên nọ đáp:

– Không dám, hậu sinh họ Trần tên Hữu Lượng.

Trương Tam Phong nghiêm nét mặt tiếp:

– Chú em họ Trần tài trí như vậy, say này sẽ trở nên một đại anh hùng, nhưng chú em đừng đi lầm đường, vậy lão đạo này xin tặng chú mười chữ: “Ðối với người phải thành, đối với mình phải khiêm!”

Hữu Lượng đưa mắt nhìn Trương Tam Phong thấy Trương Chân Nhân cũng nhìn mình y liền rùng mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Ngươi đã mắc lừa nên mới nổi giận mà dậy bảo ta như thế .

Ðoạn y lạnh lùng đáp:

– Ða tạ Trương Chân Nhân đã chỉ bảo nhưng hậu bối là đệ tử của phái Thiếu Lâm thì đã có sư bá và sư thúc chỉ bảo cho rồi.

Trương Tam Phong vừa cười vừa nói tiếp:

– Phải, phải, lão đão lắm mồm lắm miệng. Lão đạo làm gì có quyền dậy bảo chú như thế.

Trương Chân Nhân vừa nói xong thì Không Trí đưa xấp giấy ra.

Ông liền đỡ lấy và lập tức truyền nội công sang khiến Không Trí ngã ngửa người về phía sau.

Hữu Lượng đứng cạnh bèn giơ tay đỡ sư phụ.

Tuy y là người thông minh nhưng võ công còn kém, lại không ngờ Không Trí bị nội công của Trương Chân Nhân đánh.

Sức mạnh của Thái Cực Công đánh Không Trí và luôn cả y ra khỏi Lập Tuyết Ðình ngã lăn ra đất.

Dù sao Không Trí cũng là người đã tu luyện lâu năm, nên lúc bị ngã lăn ra đất đã mượn luôn được sức, nhấn mạnh một cái đứng thẳng lại được ngay.

Trương Tam Phong mỉm cười nói:

– Thế võ vừa rồi của tiểu đạo là một thế võ trong Thái Cực Quyền thập tam thức đấy. Thế ra hiền sư đồ tuy đã thuộc lòng môn võ công này nhưng không có thì giờ luyện tập nên mới thất thố như vậy. Thôi xin chào quí vị.

Nói xong, Trương Chân Nhân dùng tay bóp tập giấy trong tay nát vụn.

Thì ra Trương Tam Phong đã vận dùng ngầm thần công bóp nát ba mươi mấy tờ giấy đó thành những mảnh nhỏ bay tứ tung.

Trương Tam Phong dắt tay Vô Kỵ, thủng thẳng ra đi. Không Văn, Không Trí và Không Tín ngơ ngác nhìn nhau.

Cả ba anh em thấy thần công của Trương Tam Phong quá lợi hại , đều kinh hãi và thán phục.

Họ hối hận nghĩ thầm:

– Võ công của lão đạo sĩ dơ bẩn lợi hại đến thế, không biết Hữu Lượng có nhớ hết được không? Nếu y sai lầm hay quên một vài chổ thì rõ là công dã tràng.

Trương Tam Phong và Vô Kỵ xuống tới chân núi Tung Sơn, liền đến trọ tại một khách điếm.

Ngay tối hôm đó Trương Chân Nhân bảo Vô Kỵ luyện tập lại theo các khẩu quyết của Viên Chân truyền dậy.

Nhưng lão anh hùng không muốn thấy lối tập của Vô Kỵ và không muốn nghe nó đọc lại các khẩu quyết chỉ bảo Vô Kỵ ngồi thở và vận khí để cho mình xem qua là đủ đoán được bí quyết của Cửu Dương Thần Công của phái Thiếu Lâm như thế nào là vì ông muốn giữ đúng lời hứa với Không Văn.

Vì vậy lão anh hùng phải thuê hai căn buồng, hai ông cháu mỗi người một căn, để mặc Vô Kỵ luyện lại võ công đó một mình.

Trương Tam Phong tin chắc rằng tuy ba thần tăng ấy hơi hẹp lượng nhưng dù sao họ cũng là cao nhân nhất thời của võ lâm , khi họ đã nhận lời truyền võ cho Vô Kỵ, tất nhiên họ không bao giờ dám lừa dối mình.

Ngày hôm sau hai ông cháu liền trở về Võ Ðang.

Suốt dọc đường Trương Chân Nhân thấy sắc mặt của Vô Kỵ hồng dần, trong lòng vui vẻ vô cùng liền nghĩ thầm:

– Nay Vô Kỵ học được cả Cửu Dương Thần Công của cả hai phái, oai lực của y sẽ ngày một tăng tiến, đồng thời thằng nhỏ nhờ được thần công đó mà xua đuổi hết âm độc của Huyền Minh Thần Chưởng đánh phải cũng nên.

Ngày hôm đó, tới bờ sông Hán Thủy hai ông cháu gọi thuyền quá giang.

Trương Tam Phong nhớ lại lúc mình còn nhỏ, theo thầy chạy khỏi chùa Thiếu Lâm, cũng tới sông Hán Thủy này thật vất vả.

Bấy giờ tuổi của Chân Nhân chỉ lớn hơn Vô Kỵ mà ngờ đâu ngày nay lại trở thành vị tôn sư khai sáng phái Võ Ðang , phái võ đang ganh đua ngôi thứ với phái Thiếu Lâm.

Ngày hôm nay Vô Kỵ lại học được võ công của hai phái, sau này sự thành đạt của y chắc hơn cả mình nữa. Lão anh hùng vừa nghĩ vừa vuốt râu mỉm cười.

Ðang lúc ấy bỗng Vô Kỵ hét lớn:

– Thái sư phụ, cháu …cháu …

Giọng nói của Vô Kỵ run lẩy bẩy, thần sắc mất hẳn.

Trương Tam Phong thấy vậy giật mình kinh hãi.

Ông thấy mặt thằng nhỏ nêng như thiêu, đỏ như lửa, thỉnh thoảng lại có thanh khí hiện ra, vội hỏi:

– Cháu làm sao thế?

– Cháu … cháu thấy khó chịu lắm, chịu không nổi…chịu không nổi!

Y vừa nói tới đó, vùng chạy ra ngoài khoang thuyền, Trương Tam Phong vội giơ tay trái ra nắm lấy cổ tay thằng nhỏ, còn tay phải đè lên yếu huyệt nơi lưng của nó, dồn nội lực sang chống đỡ hàn độc hộ thằng bé.

Không ngờ, nội lực của lão anh hùng vừa truyền sang đã thông ngay kinh kỳ bát mạch của Vô Kỵ.

Thằng nhỏ lớn tiếng kêu lên rồi ngã lăn ra chết giấc tức thì.

Trương Tam Phong kinh hãi khôn tả, lẹ tay điểm luôn mười hai huyệt lớn trên người Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Sao kỳ kinh bát mạch của nó lại đã thông hết như thế này? Người nó bị hàn độc làm nguy thì sao lại đả thông được như thế này? Bát mạch của y đã thông, hơi hàn độc thế nào cũng chạy vào ngũ tạng lục phủ, như vậy thì làm sao mà hóa giải cho được?

Trương Tam Phong là người giầu kinh nghiệm mà lúc này cũng vô kế khả thi, tâm thần bấn loạn, mồ hôi trán toát ra như tắm nghĩ tiếp:

– Chẳng lẽ Cửu Dương Công của Thiếu Lâm lợi hại đến thế sao? Vô Kỵ mới tập luyện được mấy ngày mà đã đả thông được kinh kỳ bát mạch sao? Nhưng trên thế gian này, không thể có chuyện lạ như thế được. Lợi Hanh và Thanh Cốc theo ta mười mấy năm trời mà vẫn chưa đả thông được kinh kỳ bát mạch. Nay Vô Kỵ luyện Cửu Dương Công của phái Thiếu Lâm mấy ngày mà đã đả thông được, chẳng lẽ Cửu Dương Công của phái Thiếu Lâm lại còn lợi hại hơn Cửu Dương Công của phái Võ Ðang mà ta đã dầy công tu luyện mấy chục năm ư?

Quí vị độc giả nên rõ, nếu Trương Tam Phong dùng công lực của bản thân để trợ giúp đả thông kinh kỳ bát mạch của Lợi Hanh và Thanh Cốc thì không phải là một chuyện khó, nhưng nhờ sức người ngoài để đả thông kinh kỳ bát mạch như vậy không vượng chắc bằng mình tự tập luyện lấy, vận nội công của bản thân ra mà đả thông lấy. Tính của Trương Tam Phong không mong dậy các đồ đệ chóng thành mà chỉ muốn cho đồ đệ tuần tự tiến rồi sẽ trở thành cao thủ, như vậy các đồ đệ sau này mới không kiêu ngạo.

Lúc ấy thuyền đã tới giữa sông, nước chảy rất mạnh, sóng gió không kém gì ngoài biển. Chiếc thuyền nhỏ bị nhồi lên hụp xuống như sắp chìm.

Trương Tam Phong cũng thấy choáng váng khó chịu, mỗi khi gió thổi tới cũng thấy ớn lạnh.

Một lát sau, Vô Kỵ từ từ tỉnh lại, mười hai trông huyệt đã bị phong bế nên hơi hàn độc tạm thời không thể xâm nhập vào trong tạng phủ được nhưng chân tay của y không sao cử động được. Trương Tam Phong vội hỏi:

– Vô Kỵ, cháu học Cửu Dương Chân Kinh của phái Thiếu Lâm như thế nào? Sao kinh kỳ bát mạch của cháu lại đả thông được như thế?

Vô Kỵ thuật lại từ lúc mình giả bộ ngủ say, nghe anh em Không Văn, Không Trí thương lượng thế nào đến lúc Viên Chân thiền sư thò tay qua vách truyền thần công cho mình. Một lát sau, Trương Tam Phong mới hỏi tiếp:

– Ðả thông kinh kỳ bát mạch cho cháu có phải thái sư phụ không biết đâu? Không hiểu Viên Chân giúp cháu như vậy là có lòng tốt hay có ác ý?

Vô Kỵ nói tiếp:

– Thiền sư còn nói với cháu rằng :

– Ta khỏi cần biết tên họ và môn phái của thí chủ, và thí chủ cũng khỏi cần biết pháp danh của ta .

Trương Tam Phong lẩm bẩm:

– Viên Chân? Viên Chân? Xưa nay ta không hề nghe trong phái Thiếu Lâm có một cao thủ nào tên Viên Chân cả. Y không cho cháu thấy mặt và cũng không cho cháu biết pháp danh, cũng không cần biết môn phái và tên tuổi của cháu, tất nhiên y không biết nguồn gốc của cháu với Thái sư phụ có liên can ra sao mà y hao tổn mấy năm công lực giúp cháu đả thông kinh kỳ bát mạch thì y có lòng tốt chứ không phải định hại cháu đâu.

Trương Tam Phong ngừng giây lát rồi hỏi đến các khẩu quyết Cửu Dương Công của phái Thiếu Lâm.

Vô Kỵ đọc vanh vách , nhưng mới đọc đến khẩu quyết thứ ba thì Trương Chân Nhân vội xua tay ngăn lại và nói:

– Cháu khỏi cần đọc nữa, Thái sư phụ muốn kiểm tra xem người truyền thần công đó cho cháu có thật lòng không đấy thôi. Từ này trở đi cháu đừng truyền lại cho ai mười hai thức thần công này vì cháu đã thề nặng với ba thần tăng của phái Thiếu Lâm rồi.

Vô Kỵ gật đầu tỏ vẻ vâng lời nhưng nghe giọng nói của thái sư phụ run run và nước mắt chảy quanh, vốn là người rất thông minh, y biết tính mạng của y sắp kết liễu đến nơi dù y không thề nặng lời cũng không thể truyền lại cho ai.

Y bỗng nghĩ ra một việc liền hỏi:

– Thưa Thái sư phụ , chẳng hay con còn sống sót mà về tới núi Võ Ðang được không?

Trương Tam Phong cố ngăn nước mắt ứa ra liền đáp:

– Cháu không nên nói như vậy! Bất cứ trường hợp nào thái sư phụ cũng phải chữa cho cháu.

Vô Kỵ lại tiếp:

– Cháu chỉ mong gặp lại Dư Tam sư bá một lần nữa thôi.

– Cháu muốn gặp Tam bá để làm gì?

– Dù sao cháu cũng không thể sống được nữa, cháu định nói lại mười ba thức Cửu Dương Thần Công cho Tam bá nghe để Tam bá tự chữa chân cho khỏi tàn tật. Nói xong cho Tam sư bá nghe cháu liền theo lời thề tự tử chết như cha cháu vậy. Và có như thế cháu mới chuộc được lỗi lầm của mẹ cháu.

Trương Tam Phong giật mình kinh hãi , không ngờ Vô Kỵ tuổi còn nhỏ mà đa mưu lắm kế nên buột miệng hỏi:

– Sao cháu lại nói như vậy?

Vô Kỵ đáp:

– Ngày hôm đó, cháu đã nghe rõ mẹ cháu nhận đã dùng độc trâm làm Tam bá bị thương mới khiến cho Tam bá bị đánh tàn phế, vì vậy cha cháu ăn năn vô cùng nên mới tự sát …

Trương Tam Phong bị xúc động mạnh nên không cầm nổi nước mắt, nghẹn ngào nói:

– Cháu, cháu ..chớ có nghĩ vẩn vơ như vậy!

Trương Tam Phong định thần lại nghiêm nét mặt nói tiếp:

– Ðại trượng phu hành sự phải quang minh, cháu đã nhận lời với ba vị thần tăng của phái Thiếu Lâm là quyết không truyền lại Cửu Dương Thần Công cho kẻ khác thì cháu phải giữ lấy chữ tín cho tới cùng, dù chết đi nữa cũng không được thay đổi.

Mấy lời nói đó rất chính khí nên Vô Kỵ không sao cãi lại được chỉ gật đầu thôi.

Trương Tam Phong lại nghĩ:

– Thằng nhỏ này biết sắp chết đến nơi mà nó không sợ hãi chút nào, còn nghĩ đến việc chữa bệnh cho Ðại Nham, đủ thấy tính nó thật trông nghĩa, ít người sánh bằng.

Trương Chân Nhân đang định khen thằng nhỏ vài câu, bỗng có tiếng người rất lớn ở đằng xa vọng tới:

– Mau ngừng thuyền lại, ngoan ngoãn trao trả đứa bé thì Phật gia tha mạng cho khỏi chết, bằng không đừng có trách Phật gia vô tình!

Nghe giọng nói Trương Tam Phong biết ngay người nói có nội công rất cao thâm.

Lão anh hùng cười nhạo một tiếng và nghĩ thầm:

– Ai dám táo gan bắt ta để đứa bé lại vậy!

Trương Chân Nhân ngẩng đẩu lên nhìn thấy một chiếc thuyền nhỏ đang chạy như bay tới. Trên thuyền có một chàng râu xồm dùng thân mình bảo vệ hai đứa bé, một trai một gái còn hai tay chèo thật nhanh. Phía sau chiếc thuyền nhỏ đó, một chiếc thuyền khá lớn đuổi theo, trên thuyền ấy có bốn phiên tăng và bảy tám tên lính Mông Cổ. Những tên võ quan đó tay cầm ván thuyền làm chèo ra sức đuổi theo. Nhưng chàng râu xồm mạnh kỳ lạ, hai tay chèo một cái chiếc thuyền đã đi được hơn trượng. Tuy vậy chiếc thuyền đuổi theo phía sau có nhiều người và người chèo thuyền đều có võ công cao siêu nên càng lúc càng tới gần.

Một lát sau những tên võ quan Mông Cổ và mấy tên phiên tăng kia giương cung lên bắn vào chàng râu xồm.

Tiếng tên bay nghe vèo vèo đủ thấy sức mạnh của những tên bắn cung kinh khủng biết bao.

Trương Tam Phong nghĩ thầm:

– Thì ra chúng bảo chàng râu xồm kia để lại hai đứa trẻ cho chúng.

Trương Chân Nhân bình sinh rất ghét người Mông Cổ tàn sát người Hán, định ra tay cứu giúp chàng râu xồm kia nhưng lão anh hùng nghĩ lại. Vô Kỵ sắp chết đến nơi mình còn không kịp cứu thằng nhỏ, hơn nữa thuyền mình cách thuyền chàng nọ rất xa, dù có ra tay cũng không thể giúp kịp.

Trương Tam Phong vừa suy nghĩ vừa nhìn chàng râu xồm nọ giơ chiếc chèo bên tay phải gạt tên, lanh lẹ vô cùng, còn tay trái vẫn tiếp tục chèo.

Lão anh hùng cũng phải khen thầm và nghĩ tiếp:

– Người này có võ công khá đấy. Chẳng lẽ ta thấy anh hùng bị nạn mà không ra tay giúp hay sao?

Nghĩ đoạn Trương Chân Nhân liền bảo người lái đò:

– Bác lái đò, hãy chèo thuyền sang bờ bên kia để cứu người nọ!

Người lái đò thấy tên bay loạn xạ như vậy đã sợ hãi lắm rồi, chân tay rủn cả ra, lo tránh tai vạ chưa xong, gan đâu mà dám chèo thuyền sang bên đó nên y vừa lắc đầu vừa nói:

– Cháu, cháu … không dám …

Trương Tam Phong thấy tình thế nguy cấp vội cướp lấy tay chèo, chèo vài cái thuyền của Chân Nhân đã tới đầu thuyền của chàng kia rồi.

Ngờ đâu đã có tiếng kêu thảm khốc vang lên, đứa bé trai đã bị một mũi tên bắn trúng giữa lưng.

Chàng râu xồm thất kinh cúi xuống xem vì vậy vai chàng cũng bị bắn trúng một mũi tên ngay lập tức.

Cây chèo ở tay chàng rơi ngay xuống nước, thuyền ngừng lại tức thì.

Chiếc thuyền ở phía sau đã đuổi tới, bảy tám tên võ quan Mông Cổ và bốn tên phiên tăng vội vã nhảy sang thuyền chàng râu xồm nọ nhưng chàng ta vẫn không chịu đầu hàng, tay vẫn đấm, chân vẫn đá lia lịa để Chống đỡ.

Trương Tam Phong lớn tiếng nói:

– Anh hùng chớ kinh hoảng, có lão đến trợ giúp đây!

Trương Chân Nhân vừa nói vừa ném hai chiếc ván thuyền xuống mặt nước để làm bàn đạp rồi phi thân nhảy sang bên thuyền của chàng râu xồm.

Trong lúc lão anh hùng đang phi thân trên mặt nước có hai tên võ quan Mông cổ giương cung bắn.

Chờ hai mũi tên bay tới gần Trương Chân Nhân giơ tay lên phất một cái , hai mũi tên đó liền rơi ngay xuống sông.

Chân Nhân vừa nhảy sang tới mép thuyền của chàng kia đã dùng tả chưởng đánh mạnh một cái , hai tên phiên tăng đã bị đánh văng ra ngoài thuyền xa hai trượng mới rơi tõm xuống nước.

Các võ quan Mông Cổ thấy Trương Tam Phong như phi tướng quân trên trời giáng xuống, vừa ra tay một cái đã đánh tung hai tên phiên tăng võ nghệ rất cao cường ra đằng xa nên tên nào tên nấy hoảng sợ vô cùng. Tên võ quan cầm đầu thét lớn:

– Lão đạo kia có ý gì mà can thiệp?

Trương Tam Phong liền mắng lại:

– Quân chó má! Chúng bay tới đây hành hung, tác ác, giết hại lương dân. Có mau rời khỏi nơi này không!?

Tên võ quan lại hỏi tiếp:

– Lão đạo sĩ có biết ba người này là ai không? Chúng là dư đảng của Ma Giáo phản tặc và cũng là khâm phạm, hoàng thượng đã hạ chỉ tróc nã.

Trương Tam Phong nghe bốn chữ “Ma Giáo phản tặc” giật mình nghĩ thầm:

– Chàng râu xồm này là bộ hạ của Chu Tí Vương ở Trần Châu chăng? Nghĩ đoạn, Chân Nhân quay lại hỏi chàng râu xồm:

– Tên Mông Cổ kia nói có đúng không?

Chàng nọ mình mẩy máu me đầm đìa, tay ẵm thằng nhỏ vừa ứa nước mắt vừa trả lời:

– Tiểu chúa công đã bị chúng bắn chết rồi!

Trương Tam Phong kinh hãi hỏi tiếp:

– Cậu bé này là lệnh lang của Chu Tí Vương đấy à?

Chàng râu xồm đáp:

– Vâng! Tại hạ không làm tròn bổn phận nên cũng không muốn sống làm chi?

Chàng để nhẹ cái xác của thằng nhỏ xuống, xông lại tấn công mấy tên võ quan Mông Cổ. Nhưng vì vết thương quá nặng, hai mũi tên cắm ở vai chàng vẫn chưa được rút ra nên chàng vừa tung mình nhảy lên đã kêu lên một tiếng “ối chà” rồi ngã lăn luôn xuống khoang thuyền.

Con bé mà chàng ẵm trong tay cũng bị bắn trúng một mũi tên vào tay vừa khóc vừa gọi:

– Anh ơi! Anh ơi!

Trương Tam Phong thấy cảnh tượng bi đát quá nghĩ thầm:

– Nếu ta sớm biết hai đứa bé này là con của Chu Tí Vương thì ta chẳng can thiệp vào làm gì. Nhưng bây giờ ta đã trót nhúng tay vào rồi thì dù sao cũng phải cứu thoát cho họ mới được .

Ðoạn Trương Chân Nhân quay lại nói với mấy tên võ quan Mông Cổ kia:

– Thăng bé đã chết rồi, còn hai người này cũng đã bị trúng tên độc, sắp chết đến nơi. Như vậy các người đã lập được đại công, thì cũng nên đi đi cho rồi!

Võ quan nọ đáp:

– Không được! Bổn quan đã được lệnh phải lấy ba thủ cấp của chúng đem về phúc mạng mới ổn.

Trương Tam Phong lại nói:

– Sao các người cứ hay dồn người ta vào con đường cùng như thế?

– Lão đạo sĩ là ai? Chuyện gì đến ông mà can thiệp vào việc của chúng ta?

– Việc thiên hạ thì ai ai cũng có quyền can thiệp, nếu tha thứ được người thì nên tha cho tốt hơn.

Võ quan nọ đưa mắt ra hiệu cho mấy tên bộ hạ rồi hỏi tiếp:

– Chẳng hay đạo hiệu của đạo trưởng là gì? Xuất gia ở đạo quan nào?

Y vừa nói dứt lời đã thấy hai tên quân Mông Cổ rút trường đao ra nhắm đầu và vai Trương Tam Phong chém xuống.

Thế công của chúng vừa mạnh lại vừa nhanh, mà hai bên đối phương lại gần nhau nên chúng yên trí là là Trương Tam Phong không sao tránh khỏi.

Ngờ đâu Trương Chân Nhân chỉ nghiêng người sang bên một chút, trông rất tầm thường nhưng đã tránh được hai lưỡi đao kia của địch nhân.

Trương Chân Nhân thuận tay, túm luôn lưng áo của hai tên võ quan ấy rồi quát lớn:

– Ði!

Chỉ thấy lão anh hùng khẽ đẩy một cái, hai tên kia đã bị bắn tung lên rơi xuống mặt thuyền.

Ðã mấy chục năm Trương Tam Phong chưa hề ra tay đấu với người nào, lần này vì bất đắc dộ mới phải đối địch với bọn võ quan Mông Cổ.

Mấy tên phiên tăng và bọn võ quan này đều là cao thủ của vua Nguyên nhưng thấy võ công của Trương Tam Phong quá cao siêu nên chúng biết địch không nổi.

Tên võ quan cầm đầu quá hoảng sợ ấp úng mãi mới lên tiếng hỏi được:

– Ngươi …ngươi có phải là …

Trương Tam Phong phẩy mạnh tay áo, lớn tiếng đáp:

– Lão đạo bình sinh chỉ giết quân Mông Cổ thôi!

Nói xong, Trương Chân Nhân đánh tới tấp vào bọn võ quan Mông Cổ.

Bọn chúng tranh nhay nhảy về thuyền chúng, cứu mấy tên ngã xuống nước rồi chèo thuyền bỏ đi ngay.

Trương Tam Phong thấy đại hán với con nhỏ trúng phải tên độc, liền lấy thuốc giải độc ra cứu.

Ðoạn Trương Tam Phong chèo chiếc thuyền đó tới cạnh thuyền của mình.

Lão anh hùng vừa định đỡ chàng nọ, ngờ đâu chàng râu xồm đó, bị thương nặng như vậy mà không chịu để cho Trương Tam Phong đỡ, hai tay vẫn ôm hai đứa bé nghiến răng mờm môi nhún chân một cái là nhảy luôn sang bên đó.

Thấy vậy Trương Tam Phong cũng phải gật đầu khen thầm:

– Người này bị thương nặng như vậy mà vẫn trung thành với ấu chúa, quả thật là một anh hùng hảo hán hiếm có. Tuy y là người của Ma Giáo nhưng ta ra tay cứu cũng không phải là uổng công!

Trương Chân Nhân cũng nhảy trở về bên thuyền mình, rút hai mũi tên độc cắm trên vai chàng râu xồm và trên cánh tay con bé rồi lấy thuốc cao dán lên vết thương.

Chiếc đò tớ bờ bên kia sông Hán Thủy, Trương Tam Phong lại nghĩ tiếp:

– Hiện giờ Vô Kỵ đã bị điểm hết các yếu huyệt, không sao đi lại được. Từ đây tới Lão Hà Khẩu mới có khách điếm để trọ, một mình ta phải trông nom cho ba người mà chàng râu xồm với con bé kia lại là khâm phạm, chắc khó bề chu toàn được.

Trương Chân Nhân bèn móc túi lấy ba lạng bạc đưa cho người lái đò nói:

– Này bác lái đò, phiền bác chở chúng tôi đi ven sông cho tới Thái Bình điếm!

Người lái đò thấy Trương Tam Phong đánh bọn quan quân Mông Cổ tơi bời, trong lòng vừa kính nể vừa sợ hãi, lại được tặng nhiều tiền nên y nhanh nhẩu nhận lời.

Ði được một quãng, chàng râu xồm đã tỉnh táo đôi chút vội quỳ xuống vái lạy Trương Tam Phong và nói:

– Ơn đức trưởng lão cứu ấu chúa chúng tôi thoát nạn, Thường Ngộ Xuân này không biết lấy gì báo đền.

Trương Tam Phong vội đỡ chàng ta đậy và đáp:

– Thường anh hùng không phải hành đại lễ như vậy!

Trương Chân Nhân nắm tay chàng thì thấy bàn tay lạnh buốt, kinh hãi vô cùng vội hỏi:

– Thường anh hùng còn bị nội thương nữa phải không?

Ngộ Xuân đáp:

– Tiểu nhân hộ tống hai tiểu chúa từ Tần Dương xuống miền Nam, suốt dọc đường đã tiếp chiến với bọn chó săn do quân Mông Cổ phái đuổi theo. Ngực và sau lưng của tiểu nhân bị một tên phiên tăng đánh trúng hai chưởng.

Trương Tam Phong nắm lấy tay Ngộ Xuân thăm mạch, thấy mạch của chàng rất yếu, vội cởi áo chàng ra để xem vết thương lại càng kinh hãi thêm.

Vết thương của Ngộ Xuân sưng vù rất nặng, nếu là người khác thì đã không sao chịu đựng được lâu như vậy .

Lão anh hùng liền bảo chàng nằm yên không được nói năng gì cả để cho vết thương chóng lành.

Canh hai đêm đó, đò tới Thái Bình điếm.

Trương Tam Phong và Ngộ Xuân sửa soạn lên bờ tìm khách sạn.

Trương Tam Phong bảo Ngộ Xuân hãy trông nom hộ Vô Kỵ một lát rồi vào thở trấn hốt mấy thang thuốc đem xuống đò sắc cho Ngộ Xuân, con bé và Vô Kỵ uống.

Con bé tuổi trạc chừng mười tuổi, nhưng mặt mũi rất xinh đang ngồi yên lặng cạnh xác anh nó.

Trương Tam Phong thương hại liền lên tiếng hỏi:

– Cháu bé tên gì?

Con bé vội đứng lên đáp:

– Cháu họ Chu tên Chỉ Nhược. Chẳng hay pháp hiệu của lão đạo trưởng là chi?

Trương Tam Phong thấy cô bé còn nhỏ lại gặp lúc loạn ly và có tang anh mà vẫn tỏ ra khí độ ung dung và rất lễ phép nên đâm ra mến, liền mỉm cười đáp:

– Lão đạo là Trương Tam Phong.

Ngộ Xuân ngồi ngay dậy lớn tiếng nói:

– Thế ra lão đạo trưởng đây là Trương Chân Nhân của phái Võ Ðang, thảo nào võ công cái thế. Hôm nay Ngộ Xuân thật may mắn được yết kiến tiên đạo trưởng nơi đây.

Trương Tam Phong mỉm cười đỡ lời:

– Nhờ đạo trời cho lão được sống lâu như vậy , chứ có phải tiên gì đâu. Thường anh hùng mau nằm xuống, chớ có làm nứt vết thương thì nguy lắm đấy!

Trương Chân Nhân thấy Ngộ Xuân là người khảng khái, hào phóng, anh phong lẫm lẫm và Chu Chỉ Nhược thông minh, đẹp đẽ, nhu mì, văn nhã nên rất mến, nhưng nghĩ tới chuyện cả hai đều là người của Ma Giáo, nếu kết thân với họ sau này e sẽ bị vạ lây cũng nên. Vì vậy lão anh hùng chỉ lạnh lùng nói:

– Hai vị bị thương khá nặng, nên ít nói thì hơn.

Trương Tam Phong là người rất khoáng đạt, không hay phân biệt chính tà, nên năm xưa đã nói với Trương Thúy Sơn rằng:

– Hai chữ chính tà khó phân biệt, nếu đệ tử của chính phái mà tâm địa bất chính thì người đó là tà đồ. Nếu trong tà phái có một người lương thiện thì người đó là chính nhân quân tử. Cũng như Hân Thiên Chính, Giáo Chủ của Bạch Mi Giáo, tuy hành sự hơi quái đản một chút nhưng tính nết hơi thiện và dù sao y cũng là người quang minh lỗi lạc. Những người như thế ta có thể kết làm bạn lắm.

Nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự tử, Trương Tam Phong vì thương đồ đệ yêu quý bị chết một cách thảm khốc như vậy, sinh ra ghét hận Bạch Mi Giáo vô cùng.

Dư Ðại Nham bị tàn phế, Trương Thúy Sơn chết và mang tiếng cũng đều do Bạch Mi Giáo cả.

Tuy lão anh hùng đã cố nén lòng không đi vấn tội và phục thù với Hân Thiên Chính, nhưng dù khoáng đạt đến đâu vì việc các đồ đệ bị hại mà đã thay đổi tâm tính, ghét hận Ma Giáo vô cùng.

Chu Tí Vương là đệ tử của Di Lạc Tôn trong Ma Giáo, mấy năm trước đây, y ở Châu Viên, tỉnh Giang Tây, khởi nghĩa Chỉng lại quân Nguyên, tự xưng là vua lập quốc hiệu là Châu. Nhưng không bao lâu quân của y bị quân Nguyên đánh tan, y bị bắt và xử tử.

Di Lạc Tôn với Bạch Mi Giáo tuy không cùng một giáo phái nhưng có liên quan rất thân. Lúc Tí Vương khởi sự, Hân Thiên Chính ở phía Tây Triết Giang đã có tuyên bố trợ giúp.

Hôm nay sở dộ Trương Tam Phong cứu Ngộ Xuân và Chỉ Nhược thoát nạn là do lòng hào hiệp mà thôi. Hơn nữa, lúc ra tay Trương Tam Phong chưa biết rõ lai lịch của hai người.

Khi biết rõ nguồn gốc của hai người rồi, lão anh hùng hối hận vô cùng, lại nghĩ đến hai người đệ tử yêu mà mình coi như con đẻ, nay một chết, một tàn phế còn Vô Kỵ bị hơi hàn độc nan y, nên thở dài và không sao cầm lệ nổi.

Lúc ấy, người lái đò đã làm cơm nước xong xuôi liền dọn ra cho mọi người ăn.

Trương Tam Phong bảo Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước vì mình còn phải bón cơm cho Vô Kỵ.

Ngộ Xuân hỏi tại sao Vô Kỵ lại như thế, Trương Tam Phong liền trả lời là y bị hơi hàn độc xâm nhập tạng phủ nên phải điểm các yếu huyệt để tạm bảo tồn tính mạng cho y. Vô Kỵ nghe thái sư phụ nói như vậy đau đớn vô cùng, không sao nuốt nổi cơm nên cứ lắc đầu không chịu ăn.

Chu Chỉ Nhược thấy vậy vội đỡ bát cơm của Trương Tam Phong và nói:

– Mời đạo trưởng ăn trước, để cháu bón cơm cho đại ca này cho!

Vô Kỵ vội đáp:

– Tôi ăn no rồi, không ăn đâu!

Chu Chỉ Nhược lại nói:

– Nếu Trương đại ca không chịu ăn, để đạo trưởng trong lòng không yên, tất không ăn được, như vậy có phải vì đại ca mà lão đạo trưởng đói không?

Chu Chỉ Nhược nói rất phải, nên khi Chu Chỉ Nhược đưa cơm tới miệng Vô Kỵ liền há mồm ăn ngay.

Chu Chỉ Nhược cẩn thận vô cùng, gỡ hết xương cá, xương gà rồi mới bón cho Vô Kỵ ăn. Bát nào nàng cũng chan thêm ít nước canh cho ngon miệng.

Vô Kỵ ăn thấy ngon nên ăn hết một bát lớn.

Trương Tam Phong thấy vậy trong lòng hơi an ủi, nhưng lại sực nghĩ:

– Số kiếp Vô Kỵ hẩm hiu thật. Mồ côi cha mẹ từ thủa nhỏ, nay lại ốm nặng như thế này. Ðáng lẽ nó phải được một người đàn bà rất cẩn thận chăm sóc mới phải!

Ngộ Xuân tuy bị thương rất nặng mà còn ăn được bốn bát cơm lớn, y không ăn thịt, cá chỉ ăn hết sạch rau dưa.

Trương Tam Phong tuy là đạo sĩ nhưng không kiêng cá thịt, thấy Ngộ Xuân ăn khỏe như vậy , liền khuyên chàng ta ăn thêm chút cá, thịt.

Ngộ Xuân liền đáp:

– Thưa Trương Chân Nhân, chúng cháu lễ phật, nên không ăn mặn.

Trương Tam Phong lại nói:

– à phải! Lão đạo quên …

Thì ra quy luật trong Ma Giáo rất nghiêm.

Mỗi ngày giáo chúng chỉ được ăn một bữa cơm chiều thôi và phải kiêng thịt, cá. Từ đời nhà Ðường tới giờ, người trong Ma Giáo đều tuân theo luật lệ đó. Ðến cuối đời Tống, đại thủ lĩnh của Ma Giáo là Phương Lạp khởi nghĩa ở Triết Ðông, lúc bấy giờ quan dân đều gọi những người có đạo là “ăn rau thờ ma”, nghĩa là những người trong đạo giáo coi việc ăn rau với phụng sự thờ thần lửa là hai việc quan trọng.

Những quan phủ của các triều đình thời bấy giờ xử tội những người gia nhập Ma Giáo rất nghiêm, cả người trong võ lâm cũng khinh thở họ, vì vậy những giáo đồ của Ma Giáo hành sự rất bí ẩn, hễ có ai hỏi họ tại sao lại ăn chay thì chỉ nói là thoái thác đi là tụng kinh , thờ phật nên phải ăn chay, chứ không dám cho người ngoài biết mình là giáo đồ. Ngộ Xuân lại nói:

– Trương Chân Nhân đã ra ơn cứu tiểu nhân thoát nạn, nay đã biết rõ lai lịch của tiểu nhân rồi thì tiểu nhân cũng chẳng cần giấu giếm chi nữa. Tiểu nhân là người trong Minh Giáo, thờ đức Minh Tôn tất nhiên quan phủ của triều đình coi chúng tôi là những kẻ thập ác, ngay cả các danh môn chính phái của hiệp nghĩa đạo cũng khinh thường chúng tôi. Thậm chí bọn người trong hắc đạo, chuyên môn giết người cướp của mà cũng bảo chúng tôi là yêu ma qụ quái. Nay Chân Nhân đã biết rõ thân phận của chúng tôi mà còn ra tay cứu giúp, ơn đức này chúng tôi báo đền thế nào cho xứng!

Thì ra giáo đồ của Minh Giáo vẫn thờ Ma Ni, người trong giáo phái gọi là đức Minh Tôn và tự cho giáo phái của mình là Minh Giáo. Người ngoài gọi giáp phái của họ là Ma Giáo.

Trương Tam Phong vội đáp:

– Thường anh hùng …

Ngộ Xuân liền đỡ lời:

– Xin đạo trưởng đừng gọi tiểu nhân là anh hùng hay hào kiệt nữa, cứ gọi thẳng tên tiểu nhân.

– Anh Ngộ Xuân, nay anh bao nhiêu tuổi?

– Năm nay tiểu nhân vừa đúng hai mươi tuổi.

Sở dĩ Trương Tam Phong hỏi tuổi của Ngộ Xuân là vì thấy chàng ta mặt mũi đầy râu, nhưng ăn nói và cử chỉ rất non.

Chân Nhân gật đầu nói tiếp:

– Anh mới trưởng thành, chắc vào Minh Giáo cũng không lâu. Bây giờ anh có hối cải cũng chưa muộn …Lão đạo nói vậy là muốn anh bỏ tà giáo đi, nếu anh không hiềm phái Võ Ðang chúng tôi bản lãnh thấp kém thì lão đạo sẽ bảo đại đồ đệ Tống Viễn Kiều nhận anh làm đệ tử . Sau này anh được vang danh trên giang hồ, không ai còn dám khinh thị anh nữa.

Tống Viễn Kiều là người đứng đầu Võ Ðang thất hiệp, tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, những người tầm thường trong võ lâm, muốn được gặp mặt chàng đâu phải dễ. Võ Ðang thất hiệp gần đây bắt đầu thu nạp đồ đệ, nhưng kén chọn rất nghiêm, nếu người nào không có cân, cốt, tư chất, phẩm hạnh, tính tình tốt thì không nhận. Ngộ Xuân xuất thân từ Ma Giáo, người thường thấy chàng đã cau mày ngay, nay chàng bỗng dưng được Trương Tam Phong thương mến, nhận cho làm môn hạ của đại đệ tử Võ Ðang như vậy thật hiếm có.

Ngờ đâu Ngộ Xuân lại lớn tiếng đáp:

– Ngộ Xuân được Trương Chân Nhân coi trông như vậy , thật cảm động vô cùng, nhưng tiểu nhân đã gia nhập Minh Giáo thì suốt đời không dám phản.

Trương Tam Phong còn khuyên thêm vài câu nữa nhưng Ngộ Xuân cứ cương quyết không nhận.

Thấy y chấp nê như vậy , Trương Chân Nhân lắc đầu thở dài rồi ẵm Vô Kỵ lên và nói:

– Nếu vậy, chúng ta từ biệt nơi đây.

Ðoạn Trương Tam Phong ẵm Vô Kỵ lên bờ.

Ngộ Xuân quì xuống vái lạy cảm tạ lần nữa, Chu Chỉ Nhược còn dặn dò Vô Kỵ:

– Trương đại ca bữa nào cũng nên ăn no, đừng để lão đạo trưởng buồn, nghe!

Vô Kỵ ứa nước mắt và nức nở đáp:

– Cám ơn lòng tốt của cô nương, nhưng … nhưng tôi chỉ ăn được vài bữa cơm nữa thôi!

Trương Tam Phong nghe nói cũng rầu rĩ vô cùng, vội giơ tay áo lên chùi nước mắt cho Vô Kỵ.

Chu Chỉ Nhược kinh ngạc hỏi:

– Sao? …anh lại …

Trương Tam Phong đáp:

– Cô nương là người có lương tâm như vậy, thật hiếm có lắm. Mong sau này cô đi trên con đường chính, đừng sa chân vào hang hố tà ma nữa!

Chu Chỉ Nhược vừa vái lạy vừa nói tiếp:

– Cám ơn lão đạo trưởng đã dậy bảo.

Ngộ Xuân bỗng lên tiếng nói:

– Võ công của Chân Nhân thâm hậu, thần thông quảng đại như vậy, tại sao Chân Nhân không hóa giải được chất độc khí trong người tiểu gia chủ?

Trương Tam Phong đáp:

– Lão đạo đã tận lực rồi.

Trương Chân Nhân vừa nói vừa xua tay ra hiệu cho Ngộ Xuân biết là bệnh của Vô Kỵ không thể nào cứu chữa được nữa.

Ngộ Xuân kinh hãi nói:

– Nội thương của tiểu nhân cũng nặng, đanh định đi nhờ một vị thần y cứu chữa cho. Chi bằng lão đạo trưởng để cho tiểu gia chủ cùng đi với tiểu nhân nhờ thần y ấy chữa luôn cho một thể?

Trương Tam Phong lắc đầu đáp:

– Kinh kỳ bát mạch của y đã đả thông, hàn độc đã chạy tán loạn trong tạng phủ, thuốc thang tầm thường không thể nào chữa khỏi được đâu, có lẽ khắp thiên hạ không còn người nào có thể chữa khỏi cho y được.

– Nhưng vị thần y mà tiểu nhân định cầu chữa đây rất giỏi về mạch lý, đã cứu chữa khỏi lắm bệnh thập tử nhất sinh.

Trương Tam Phong nghe nói ngạc nhiên, chợt nghĩ ra liền hỏi:

– Người mà Thường anh hùng nói có phải là y tiên ở Ðiệp Cốc không?

– Chính ông ta đấy. Thế ra lão đạo trưởng cũng biết sư bá của tiểu nhân ư?

Trương Tam Phong đang trù trừ nghĩ thầm:

– Ta thường nghe nói Ðiệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu là người trong Ma Giáo, vẫn bị người võ lâm khinh miệt, huống hồ tính nết của y lại quái dở vô cùng. Nếu bệnh nhân là người Ma Giáo thì y hết sức cứu chữa, không lấy một đồng tiền nhỏ, trái lại người ngoài giáo đến cầu chữa, dù có đem cả đống vàng thỏi đến, y cũng không thèm ngó tới. Ðành để cho Vô Kỵ độc phái mà chết chứ ta quyết không để cho y gia nhập Ma Giáo đâu!

Ngộ Xuân thấy Trương Tam Phong trù trừ, hiểu ngay là Trương Chân Nhân đang nghĩ gì rồi vội đỡ lời:

– Thưa Trương Chân Nhân, tuy Hồ sư bá của tiểu nhân xưa nay không chữa bệnh cho người ngoài giáo phái, nhưng Trương Chân Nhân đã ra ơn lớn, cứu giúp Chu cô nương thì phen này Hồ sư bá thế nào cũng phải phá lệ, chữa cho tiểu gia. Nếu Hồ sư bá không chịu cứu chữa thì Ngộ Xuân này nhất định không để yên.

Trương Tam Phong lại nói:

– Y thuật của Hồ tiên sinh quả thật thần diệu, lão đạo đây đã nghe nhiều người khen ngợi, nhưng hơi hàn độc trong người Vô Kỵ không phải là chất độc tầm thường …

Ngộ Xuân lớn tiếng nói tiếp:

– Ðằng nào tiểu gia cũng đã không hy vọng chữa khỏi rồi, bây giờ có chữa hay không tiểu gia cũng phải chết, vậy cứ đi nhờ y tiên chữa cho, họa chăng khỏi được? Chẳng hay lão đạo trưởng còn trù trừ gì nữa?

Chàng là người thẳng thắn, nóng nẩy, bụng nghĩ gì, miệng nói ra ngay, không nghi kỵ gì cả.

Trương Tam Phong nghe Ngộ Xuân nói rằng dù sao Vô Kỵ cũng chết, trong lòng kinh hãi vô cùng nghĩ thầm:

– Lời nói của chàng lỗ mãng này cũng có lý. Xem bệnh của Vô Kỵ thì nó chỉ có thể sống thêm được một tháng nữa thôi. Biết đâu số nó chưa chết, may ra được Hồ Thanh Ngưu chữa khỏi cho .

Ðoạn lão anh hùng liền đáp:

– Nếu vậy, nhờ Thường anh hùng đưa y đi chữa hộ, nhưng lão đạo phải nói rõ trước là Hồ tiên sinh không được bắt buộc Vô Kỵ nhập giáo nghe! Nếu y tiên chữa khỏi được cho Vô Kỵ, phái Võ Ðang chúng tôi cũng không hàm ơn của quí giáo đấy nhé!

Trương Tam Phong biết người của Ma Giáo hành sự rất xảo quyệt, nếu người nào liên can đến người của Ma Giáo thì tên giáo đồ ấy tựa như bóng ma, luẩn quẩn xung quanh người nọ luôn luôn và người đó sẽ bị hậu họa thê thảm vô cùng. Cũng như Trương Thúy Sơn, chỉ vì dây dưa với người của Ma Giáo mà kết quả là thân bại danh liệt mà còn làm nhục tới cả sư môn nữa.

Ngộ Xuân nhanh nhẩu đáp:

– Trương Chân Nhân coi thường người Minh Giáo chúng tôi quá!

Nói tới đó, chàng quay lại nói với Chu Chỉ Nhược:

– Chu cô nương, hãy tạm đi theo Trương Chân Nhân lên núi Võ Ðang trước nhé!

Chu Chỉ Nhược chưa kịp trả lời, Trương Tam Phong đã ngạc nhiên hỏi:

– Sao vậy?

– Trương Chân Nhân không muốn đi gặp Hồ sư bá của tiểu nhân chúng tôi là vì lẽ gì, tiểu nhân đã rõ. Từ xưa tới nay, tà và chính không bao giờ đi đôi. Trương Chân Nhân là đại tôn sư của một môn phái lớn thì khi nào chịu đi cầu cứu một người trong Minh Giáo, đồng thời tính nết của Hồ sư bá chúng tôi cũng kỳ lạ lắm. Nếu ông ta thấy mặt Chân Nhân thì chưa biết chừng sẽ thất lễ với Chân Nhân cũng nên. Hai bên bất hòa thì việc cứu chữa cho tiểu gia này hỏng bét. Vậy bây giờ tiểu nhân có một ý này. Tiểu nhân xin đem chú em họ Trương đi, muốn cho Chân Nhân được yên lòng, tiểu nhân định mời Chu cô nương lên núi Võ Ðang ở tạm một thời gian. Chờ khi nào bệnh của chú em họ Trương lạnh hẳn, tiểu nhân sẽ đưa về núi Võ Ðang rồi tiếp Chu cô nương đi. Nói trắng ra, tiểu nhân định để Chu cô nương lại núi Võ Ðang làm con tin.

Xưa nay Trương Tam Phong giao dịch với ai cũng vậy, chỉ có tin người, không bao giờ ngờ vực nhưng Vô Kỵ là cốt nhục duy nhất của đệ tử cưng của mình. Nay giao thằng nhỏ cho một đệ tử Ma Giáo, tất nhiên lão anh hùng không sao yên tâm được.

Trương Tam Phong chưa kịp trả lời thì Ngộ Xuân lại tiếp:

-Chu Tí Vương, Chu đại ca của chúng tôi là người nhân nghĩa, khởi nghĩa ở Tần Dương đã thất bại, cả nhà hai tám người đều bị quân Mông Cổ giết hại. Bà cụ thân mẫu của Chu đại ca tới tuổi ngót tám mươi cũng không thoát khỏi. Tiểu nhân phải thí mạng mới cứu thoát được hai người con, ngờ đâu tiểu công tử lại bị quân Mông bắn chết. Bây giờ chỉ còn lại Chu cô nương là hòn máu duy nhất của Chu đại ca tôi. Vì là người của Minh Giáo, Chu đại ca tôi bị nhiều người oán ghét. Cho nên không chỉ quân Mông Cổ muốn truy nã con cái của anh ấy mà các kẻ thù khác hay tin, thế nào cũng tìm đến làm phiền Trương Chân Nhân. Tuy phái Võ Ðang oai trấn thiên hạ thật nhưng Chân Nhân cũng nên cẩn thận tốt hơn.

Trương Tam Phong không sao nhởn cười được nghĩ thầm:

– Ta chưa nhận lời mà chàng trực tính này đã dặn bảo đủ điều. Vẫn biết nhiều người muốn bắt cho được Chu Chỉ Nhược mới hả dạ, nhưng Ngộ Xuân có ngờ đâu Vô Kỵ lại còn bị nhiều người theo dõi hơn nữa. Hiện giờ Vô Kỵ đau nặng, không thể thoát chết, chi bằng ta cứ cho chàng này đem đi cầu y tiên chữa thử xem …

Nghĩ tới đó, Chân Nhân liền đáp:

– Thôi được, chúng ta nhất ngôn vi định. Lão đạo trông nom Chu cô nương hộ Thường anh hùng, còn Thường anh hùng phải cẩn thận săn sóc cho Vô Kỵ. Khi nào bệnh của y lành mạnh thì Thường anh hùng đưa ngay y lên núi Võ Ðang hộ!

– Lão đạo trưởng cứ yên tâm , tiểu nhân thế nào cũng làm tròn bổn phận để lão đạo trưởng được yên lòng.

Nói xong, chàng nhảy lên trên bờ, dùng dao đào một hố sâu, chôn Chu công tử.

Chàng và Chu Chỉ Nhược quỳ trước mộ chờ, xá mấy cái.

Hồi thứ 28

Rừng Hoang Tử Chiến

Sáng hôm sau, Trương Tam Phong dắt Chu Chỉ Nhược còn Ngộ Xuân ẵm Vô Kỵ, hai người chia tay nhau.

Từ khi cha mẹ tự tử, Vô Kỵ coi Trương Tam Phong như ông nội, nay bỗng phải lìa xa không sao cầm được, nước mắt cứ tuôn ra như suối.

Trương Tam Phong an ủi:

– Cháu cứ theo Ngộ Xuân thúc thúc đi, khi nào khỏi bệnh chú ấy sẽ đưa cháu trở về núi Võ Ðang ngay. Ấng cháu ta xa nhau lâu lắm là vài tháng hà tất cháu phải đau đớn!

Vô Kỵ tay chân không cử động được ,chỉ gật đầu vâng lời, nhưng nước mắt vẫn nhỏ ròng.

Chu Chỉ Nhược vội chạy xuống đò, móc túi lấy chiếc khăn tay nhỏ ra, chùi nước mắt cho Vô Kỵ, nhìn y mỉm cười rồi nhét chiếc khăn đó vào người y, đoạn quay lại lên bờ. Trương Tam Phong thấy vậy cảm động vô cùng nghĩ thầm:

– Con bé này xinh đẹp như vậy, sau này thế nào cũng là một tuyệt sắc giai nhân. Nhờ trời Vô Kỵ được lành mạnh, chừng ấy ta quyết không cho chúng được gặp nhau nữa, bằng không thế nào chúng cũng có tình ý với nhau và Vô Kỵ sẽ đi theo dấu của Thúy Sơn …

Vô Kỵ đưa mắt nhìn theo thái sư phụ dắt Chu Chỉ Nhược lên bờ tiến thẳng về phía Tây.

Chu Chỉ Nhược còn quay đầu lại vẫy tay hoài.

Y nhìn theo cho tới khi khuất bóng hai người mới thôi.

Lúc này y cảm thấy cô quạnh vô cùng, không sao nhởn nổi, lại òa lên khóc.

Ngộ Xuân cau mày hỏi:

– Chú em họ Trương năm nay bao nhiêu tuổi?

Vô Kỵ nức nở đáp:

– Mười hai tuổi.

– Mười hai tuổi không còn là trẻ con nữa, chú khóc như vậy không sợ người ta chê cười sao? Năm mỗ mười hai tuổi đã chịu mấy trăm trận đòn mà chưa hề rơi một giọt lệ. Nếu chú còn khóc lóc như con gái thế này mỗ sẽ đánh cho mấy quyền.

Thấy hình thù Ngộ Xuân rất hung tợn Vô Kỵ trong lòng đã sợ hãi liền nghĩ thầm:

– Thái sư phụ ta vừa mới đi khỏi ngươi đã đối xử với ta hung ác rồi. Sau này không biết ta còn phải chịu đựng bao nhiêu sự khổ sở đau đớn vì ngươi nữa.

Ðoạn y lớn tiếng nói:

– Tôi thương nhớ thái sư phụ mới khóc chứ người ta đánh tôi đau thế nào, tôi cũng chịu được không hề khóc nửa tiếng. Ðại ca muốn đánh, cứ đánh đi. Nhưng hôm nay đại ca đánh tôi một quyền, sau này tôi sẽ đánh trả đại ca mười quyền cho xem.

Ngộ Xuân ngạc nhiên giây lát rồi ha hả cười đáp:

– Thế mới phải, chú nói vậy mới đúng là người đàn ông có cốt khờ. Chú lợi hại như vậy tôi đâu dám đánh chú nào.

– Chân tay của tôi cử động không được, sao đại ca không đánh tôi đi?

– Hôm nay tôi mà đánh chú, sau này chú học được võ công của thái sư phụ , chú sẽ giở môn thần quyền của phái Võ Ðang ra, tôi chịu đựng sao nổi mười quyền?

Vô Kỵ nghe Ngộ Xuân nói năng vui vẻ cũng phì cười.

Y thấy tướng mạo của Ngộ Xuân tuy hung ác nhưng tâm địa của chàng ta lại rất tốt. Ngộ Xuân thuê một chiếc thuyền, đi thẳng Hán Khẩu.

Tới nơi chàng lại ẵm Vô Kỵ sang một chiếc giang thuyền lớn để đi xuống miền Ðông. Thì ra chổ ẩn cư của y tiên Hồ Thanh Ngưu ở ngay trong Ðiệp Cốc, một thung lũng cạnh hồ Nữ Sơn tại phía bắc tỉnh An Huy.

Không bao lâu đã tới biên giới tỉnh An Huy.

Hai năm trước đây Vô Kỵ đã được đi giang thuyền ngược lên miền nhưng lúc bấy giờ y cùng cha mẹ và Dư Liên Châu nhở sư bá suốt dọc đường vui vẻ xiết bao.

Lần này y lại đi trên sông Trường Giang nhưng xuôi dòng, cha mẹ chết hết mà các yếu huyệt trong người y lại bị bế hết, đau đớn khổ sở, một thân một mình theo Ngộ Xuân đi chữa bệnh.

Nghĩ tới đó, y thấy đau lòng vô cùng nhưng lại sợ Ngộ Xuân nổi giận không dám để cho nước mắt ứa ra.

Một ngày hai lần, cứ giờ tý, giờ ngọ là hơi hàn độc trong người phát tác làm y lâm nguy, đau đớn ngót một tiếng đồng hồ, nhưng vẫn phải nghiến răng chịu đựng.

Vì vậy môi của y có rất nhiều vết răng cắn sứt.

Hơi hàn độc trong người y càng ngày càng nặng thêm.

Vài ngày sau, thuyền đã tới thở trấn, Ngộ Xuân liền lên bờ thuê một chiếc xe lớn để đi về phía Bắc.

Ði được vài ngày đã gần tới Ðiệp Cốc, Ngộ Xuân biết tính của Hồ Thanh Ngưu rất kỳ lạ, không thích người ta biết chổ ẩn cư của mình nên khi đi tới cách Ðiệp Cốc chừng hai mươi dặm, chàng bèn trả tiền xe, cho xe quay lại rồi vác Vô Kỵ lên vai đi bộ.

Ngày thường chàng đi bộ hai mươi dặm đường có nghĩa lý gì đâu, chỉ thoáng cái đã tới. Nhưng bây giờ chàng bị nội thương khá nặng nên mới đi được hơn dặm đường đã thấy xương cốt đau nhừ, hơi thở hồng hộc, bước chân loạng choạng.

Vô Kỵ thấy vậy rất thương hại liền lên tiếng nói:

– Thường đại ca cứ thong thả, hà tất phải đi nhanh như vậy làm gì? Lỡ vết thương của đại ca nặng thêm thì sao?

Ngộ Xuân nêng lòng nổi giận đáp:

– Ngày thường tôi đi hàng trăm dặm cũng không hề biết mỏi mệt chút nào, nay bị hai tên tặc hòa thượng đánh cho hai chưởng chẳng lẽ tôi không đi nổi nữa hay sao?

Chàng tức khí lại càng cố sức đi nhanh thêm.

Nhưng càng dùng sức, càng tai hại nên mới đi thêm được mấy chục trượng đã cảm thấy chân tay tựa như rời rã, các xương cốt hầu như long hết.

Tuy vậy chàng vẫn không chịu ngồi xuống nghố ngơi cứ gắng sức lê bước đi mãi.

Ngờ đâu tới lúc trời tối mịt mà hai người vẫ chưa đi được nửa đường, mà tới Ðiệp Cốc đường càng đi càng gồ ghề khó đi.

Tới một khu rừng rậm, không sao gắng sức được nữa, Ngộ Xuân đành phải đặt Vô Kỵ xuống rồi nằm lăn ra mặt đất nghĩ ngơi.

Chàng móc túi lấy túi lương khô ra cùng ăn với Vô Kỵ.

Nghĩ ngơi chừng nửa tiếng đồng hồ chàng định lên đường.

Vô Kỵ hết sức khuyên ngăn, bảo hãy nghố tạm trong rừng này một đêm, sáng mai hãy đi tiếp.

Ngộ Xuân nghĩ thầm:

– Dù đêm nay có tới nơi, nửa đêm gà gáy, làm mất giấc của Hồ sư bá, khiến ông ta nổi giận không chịu chữa bệnh cho Vô Kỵ thì thật uổng công.

Chàng đành phải nghe lời Vô Kỵ rồi hai người ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngủ tạm cho tới sáng hôm sau.

Nửa đêm hàn độc trong người Vô Kỵ lại phát tác, khiến chân tay y run lẩy bẩy, nhưng y không dám rên sợ làm mất giấc ngủ của Ngộ Xuân nên cứ phải gắng chịu.

Ðang lúc ấy bỗng nghe đằng xa có tiếng khí giới chạm nhau, tiếp theo có người quát lớn:

– Ngươi còn chạy đi đâu nữa!

– Chận lấy phía đông, dồn y vào trong rừng!

– Lần này nhất định không để cho tên giặc sói đầu này tẩu thoát!

Vô Kỵ lại nghe tiếng chân chạy rộn rịp, hình như có mấy người đang rảo bước chạy vào trong rừng về phía y với Ngộ Xuân đang nghĩ.

Tiếng động của mấy người kia đã làm cho Ngộ Xuân thức dậy.

Chàng vội rút đơn đao và ẵm Vô Kỵ lên định tâm vừa chiến đấu vừa chạy.

Vô Kỵ liền khẽ nói:

– Thường đại ca, hình như không phải chúng định tới kiếm chúng ta đâu!

Ngộ Xuân gật đầu.

Hai người liền núp vào sau một cây cổ thụ chờ xem, liền thấy có bảy tám người đang vây đánh một người.

Trời đã tối om không sao nhận rõ mặt nên không thể biết được những người đó là ai. Ngộ Xuân thấy người bị vây đánh với hai bàn tay không, chống đỡ bảy tám kẻ địch, thế mà những người kia không sao lại gần y được.

Một lát sau, nhờ có ánh sáng trăng rọi xuống, hai người mới thấy rõ người bị đánh là một tăng nhân áo trắng, tuổi trạc năm mươi, người gầy và cao.

Còn những người vây đánh gồm có cả tăng nhân, đạo sĩ lẫn mặc áo thường tục.

Trong mọn họ lại có hai thiếu nữ .

Càng xem Ngộ Xuân càng kinh hãi , vì chàng thấy những người vây đánh tăng nhân kia võ nghệ rất cao cường.

Hai hòa thượng một cầm thiền trượng, một cầm giới đao.

Một đạo nhân cầm trường kiếm, thân pháp rất lanh lẹ.

Một chàng nhỏ bé và lùn, hai tay cầm đơn đao, lăn lộn dưới đất để tấn công hạ bàn địch thủ.

Còn hai thiếu nữ mảnh khảnh, tay cầm trường kiếm, kiếm pháp cũng lợi hại khôn tả. Lúc ấy một thiếu nữ quay mặt lại, Vô Kỵ thấy rỗ suýt la lớn:

– Kỷ cô nương!

Thì ra nàng đó chính là Kỷ Hiểu Phù, vợ chưa cưới của Hân Lợi Hanh.

Thoạt đầu Vô Kỵ thấy tám người vây đánh một cho là họ ỷ nhiều hiếp kẻ thế cô.

Y công phẫn hết sức, chỉ mong hòa thượng kia thoát khỏi vòng vây chạy.

Nhưng khi đã nhận ra trong bọn người vây đánh có Kỷ Hiểu Phù cô nương y liền cho hòa thượng kia là phí đồ nên mong bọn Kỷ cô nương sớm đắc thắng.

Ngộ Xuân lẩm bẩm:

– Tám đánh một, không biết xấu hổ! Không biết những người ấy là ai thế!?

Vô Kỵ khẽ đáp:

– Hai thiếu nữ kia là người phái Nga Mi, hai hòa thượng nọ là người của phái Thiếu Lâm.

Y nhìn một hồi lại nói:

– Ðạo nhân cầm kiếm là người của phái Côn Luân. Ðại ca thử xem thế Ðại Mạt Phi Xà của đạo nhân đó ác độc biết bao. Thế kiếm ấy chính là một tuyệt thế của phái Côn Luân đấy. Còn chàng cầm đơn đao lăn lộn dưới đất nhằm chân của hòa thượng kia chém tới hoài thì không biết là người của môn phái nào.

Ngộ Xuân đỡ lời:

– Người của phái Không Ðộng.

Vô Kỵ lắc đầu nói:

– Ðao pháp của phái Không Ðộng là tay phải cầm đao, tay trái cầm quài, mà người này lại xử dụng song đao đủ thấy y không phải là người của phái Không Ðộng đâu.

Ngộ Xuân nghe Vô Kỵ nói trong lòng cũng phải khen phục thầm và nghĩ:

– Quả thật là đệ tử của danh môn, kiến thức thật hơn người.

Nhưng chàng đâu có biết, võ công của Vô Kỵ là do Tạ Tốn truyền dậy.

Võ học của Tạ Tốn bác học tinh thâm, vì y nhất tâm đối địch với các phái nên võ công của phái nào y cũng học qua cho biết.

Vô Kỵ được y truyền dậy bí quyết của tất cả các môn phái đó.

Tuy Vô Kỵ chưa biết vận dụng và thông hiểu hết những võ công của các môn phái nhưng kiến thức của y không kém ai cả.

Vô Kỵ thấy bọn Kỷ Hiểu Phù đấu mãi mà không thắng nổi tên hòa thượng kia, càng xem y càng phục võ công của hòa thượng.

Y thấy chưởng lực của nhà sư đó rất hùng mạnh, bỗng nhanh bỗng chậm, hư hư thực thực, biến hóa khôn lường.

Ðánh tới lúc thật nhanh Vô Kỵ không sao thấy rõ những thế võ của hòa thượng ấy nữa. Bỗng nghe một người trong bọn Hiểu Phù quát lớn:

– Chúng ta dùng ám khí đối phó đi!

Y vừa quát xong, một chàng và một đạo sĩ nhảy sang bên rồi lấy ám khí ra nhắm hòa thượng nọ ném lia lịa.

Hòa thượng nọ cuống cả chân tay, đạo nhân cầm kiếm liền quát lớn:

– Bành hòa thượng hãy nghe bần đạo nói đã. Chúng ta không muốn giết hòa thượng đâu. Hà tất hòa thượng phải thí mạng làm gì? Hòa thượng hãy giao Bạch Quy Thọ thì chúng ta sẽ tha chết cho, như vậy có phải hơn không?

Ngộ Xuân nghe vậy kinh ngạc vô cùng và khẽ nói với Vô Kỵ rằng:

– Vị này là Bành hòa thượng đây.

Trong khi Vô Kỵ theo cha mẹ và Dư Liên Châu trở về núi Võ Ðang, dọc đường đi thuyền trên sông y nghe cha mẹ kể chuyện Bạch Mi Giáo ở trên núi Vương Bàn dương đao lập oai, sau bị nghĩa phụ y tới giết chết hết những người có mặt tại đó, riêng có Bạch Quy Thọ của Bạch Mi Giáo là và hai kiếm khách của phái Côn Luân là sống sót thôi. Nhưng hai người này vì tiếng rú của Tạ Tốn đã trở thành ngớ ngẩn không biết gì cả. Vì thế mười mấy năm trời, các môn phái cứ đấu với Bạch Mi Giáo hoài để bắt Bạch Quy Thọ phải tiết lộ tung tích của Tạ Tốn.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ Bành hòa thượng này cũng là người trong giáo phái của mẹ ta chăng?

Y lại nghe Bành hòa thượng lớn tiếng nói:

– Bạch đàn chủ đã bị các người đánh đến bị thương nặng, dù y không phải là người của Bạch Mi Giáo đi nữa, hoặc y là người không có liên quan gì cũng vậy, Bành mỗ này không thể thấy y chết mà không ra tay cứu.

Ðạo nhân vội đỡ lời:

– Cái gì là thấy chết mà không ra tay cứu? Chúng ta có định giết y đâu? Chúng ta chỉ muốn y cho chúng ta biết tung tích của một người thôi.

Bành hòa thượng lại nói:

– Các người định hỏi tung tích của Tạ Tốn phải không? Tại sao các người không đi hỏi Phương Trượng của chùa Thiếu Lâm?

Hai tăng nhân của phái Thiếu Lâm đang vây đánh y vội la lớn:

– Ðó là kế ly gián của Hân Tố Tố, yêu nữ của Bạch Mi Giáo, giá họa cho phái Thiếu Lâm chúng tôi. Nhưng có ai thèm tin những lời vô căn cứ ấy đâu.

Vô Kỵ nghe hòa thượng Thiếu Lâm gọi đến tên mẹ mình, y vừa kiêu ngạo vừa đau lòng nghĩ thầm:

– Tuy mẹ ta khuất núi đã hai năm rồi nhưng vẫn làm cho các ngươi loạn óc, nhức đầu.

Hòa thượng đối đáp với bọn người kia nhưng tay vẫn tiếp tục chống đỡ lại họ, không hề nao núng chút nào.

Ðạo nhân nọ, muốn nhân lúc Bành hòa thượng là người võ công rất cao, tâm trí không kém người, cái trò tiểu xảo của đạo sĩ nọ làm sao lừa dối nổi.

Những người vây đánh tăng nhân họ Bành đều là những tay cao thủ của các phái nên Bành hòa thượng mấy lần muốn phá vòng vây để đào tẩu mà không được.

Ðạo sĩ ở vô cùng vòng ngoài ném ám khí la lớn:

– úi chà, nguy tai, ám khí đã ném hết rồi.

Bảy người nghe thấy đạo sĩ la như vậy cùng nằm phục xuống đất. Tiếp theo đó thấy năm lưỡi phi đao lần lượt ném tới.

Thì ra đạo sĩ ấy nói: – Ám khí ném hết rồi .

chính là ám hiệu bảo mọi người nằm xuống đất.

Năm phi đao đó nhằm ngực Bành hòa thượng bắn tới, nguy hiểm vô cùng.

Nếu lúc thường Bành hòa thượng chỉ việc cúi đầu hay nằm sấp xuống về phía trước hoặc ngả người về phía sau là có thể tránh được, nhưng lúc này sau kẻ thù đang đứng gần thì làm sao mà giở những phương pháp đó ra được?

Vô Kỵ thấy vậy kinh hoảng vô cùng nhưng Bành hòa thượng đã đột nhiên tung mình nhảy lên cao hơn trượng.

Những phi đao kia đều bay lướt qua dưới chân y.

Tuy tránh được phi đao, Bành hòa thượng vẫn bị thiền trượng , đơn đao của Thiếu Lâm tăng, trường kiếm của đạo nhân phái Côn Luân nhắm chân y tấn công tới tấp..

Bành hòa thượng bắt buộc phải giở thế võ liều lĩnh ra, tả chưởng vỗ mạnh vào đầu Thiếu Lâm tăng một cái còn tay hữu giơ ra đoạt con đao của tăng nhân đó rồi thừa thế giơ con đao lên đẩy mạnh vào thiền trượng một cái.

Nhờ sức mạnh đó y mới bắn ra ngoài xa mấy trượng.

Tên hòa thượng của phái Thiếu Lâm bị Bành hòa thượng đánh một chưởng vào đầu, vỡ sọ chết ngay.

Bảy người kia tức giận vô cùng liền đuổi theo.

Bành hòa thượng vừa chạy được mấy bước vấp phải một tảng đá suýt té nhào.

Vì vậy sáu người nọ đuổi kịp và tiếp tục vây đánh hòa thượng.

Tăng nhân của phái Thiếu Lâm tay cầm thiền trượng thấy Bành hòa thượng đánh chết sư đệ của mình, nổi khùng như con trâu điên, xông lại tấn công và quát lớn:

– Bành hòa thượng, mi đã giết sư đệ của ta, ta phải thí mạng với mi!

Ðạo sĩ của phái Côn Luân liền nói:

– Y đã bị Yết Vĩ Câu của bần đạo đánh trúng dùi, chỉ trong chốc lát là chất độc chạy vào trong người y sẽ chết ngay.

Ngay lúc ấy mọi người nhìn thấy chân của Bành hòa thượng đã sưng vù, chưởng pháp tán loạn.

Ngộ Xuân vội thì thầm:

– Bành hòa thượng là sư phụ của đại ca tôi. Tôi phải làm thế nào cứu y thoát chết mới được.

Vô Kỵ biết Ngộ Xuân là một người anh hùng, tuy chàng ta bị thương nặng nhưng vẫn muốn xông ra cứu người. Nhưng trường hợp này chàng ta chỉ thí mạng thôi, không ích lợi gì.

Vô Kỵ nghĩ ra một kế bèn kề tai Ngộ Xuân khẽ nói:

– Thường đại ca, muốn đi cứu Bành hòa thượng phải không?

Ngộ Xuân đáp:

– Không cứu không được, Bành hòa thượng đã bị ám khí độc bắn trúng, nhưng tôi .. tôi …

Vô Kỵ lại hỏi:

– Tôi chỉ cho đại ca một phương pháp, đại ca có thể có thần lực trong nửa tiếng đồng hồ nhưng sau đó sẽ hao tổn nguyên khí rất nhiều đấy.

Vừa rồi Ngộ Xuân nghe Vô Kỵ nói về võ công của các môn phái rất rõ ràng, do đó chàng ta tin y là môn đồ của Trương Tam Phong thì thế nào cũng có bản lĩnh đặc biệt nên chàng ta vừa mừng vừa đáp:

– Phương pháp gì? Chú em nói mau lên để tôi ra cứu người. Sau đó dù có hao tổn một chút nguyên khí cũng không sao!

Vô Kỵ lại nói:

– Ðại ca kiếm một hòn đá nhọn đầu cho tôi!

Ngộ Xuân nhặt một hòn đá đưa cho Vô Kỵ và hỏi:

– Hòn này được chưa?

– Ðược rồi. Ðại ca cầm hòn đá này gõ mạnh vào hai bên đùi một cái!

Ngộ Xuân chỉ vào cạnh đùi hỏi:

– Có phải là chổ này không?

– Thấp xuống một chút! Phải rồi, nhưng sang bên trái nửa tấc! Ðược rồi, gõ đi!

Ngộ Xuân theo lời Vô Kỵ gõ mạnh một cái thấy đùi bên phải tên tái vô cùng.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Cách điểm huyệt này gọi là đề thần đả huyệt pháp, đại ca lại gõ vào chân trái đi!

Ngộ Xuân có vẻ ngần ngừ. Tuy chàng chưa học qua cách điểm huyệt nhưng cũng biết trong võ lâm không có môn điểm huyệt đó liền nghĩ thầm:

– Phái Võ Ðang tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, tất nhiên cách điểm huyệt của họ phải khác người.

Nghĩ đoạn, chàng gõ mạnh vào đùi bên trái một cái. Không ngờ chàng gõ xong, thấy từ lưng trở xuống tê tái vô cùng, nhất là hai chân cứng đờ không sao cử động được.

Ðang lúc ấy chàng thấy Bành hòa thượng nhảy một cái ra xa mấy trượng nhưng đã ngã lăn ra đất.

Chàng lo âu vô cùng đang định nhảy ra để cứu viện nhưng hai chân như bị tê liệt hẳn. Chàng kinh hãi vô cùng hỏi:

– Chú em họ Trương, sao thế này? …

Vô Kỵ cười thầm nghĩ:

– Ta đánh lừa đại ca, bảo đại ca tự điểm huyệt , thế là hai chân đại ca đã tê liệt rồi!

Y vừa nghĩ vừa giả bộ kinh hoảng đáp:

– úi chà! Có lẽ đại ca không biết điểm huyệt nên không biết cách dùng sức của mình. Cứ đợi thêm một lát nữa thì sẽ thấy sức mạnh gấp bội ngay.

Ngộ Xuân không phải người ngu nên hiểu ngay mình đã bị chú bé kia lừa.

Nhưng chàng cũng hiểu sỡ dĩ Vô Kỵ đánh lừa mình là vì sợ mình bị toi mạng một cách vô ích.

Chàng vừa kinh hãi, vừa lo âu vừa tức giận và cũng buồn cười nữa.

Lúc ấy Bành hòa thượng đã ngã lăn ra đất, nằm im hình như bị chất độc ở ám khí phát ra giết hại rồi.

Bảy người nọ thấy vậy nhưng không dám tới gần.

Ðạo nhân của phái Côn Luân liền lên tiếng nói:

– Hứa sư đệ, thư ném thêm hai phi đao nữa, xem y đã chết thật chưa?

Ðạo nhân ném phi đao liền giơ tay phải lên, phẩy một cái.

Hai tiếng “phập phập” vang lên.

Một lưỡi phi đao đã trúng vai bên phải, một mũi nữa bắn trúng chân bên trái của Bành hòa thượng.

Mọi người thấy Bành hòa thượng vẫn nằm im, tin chắc là y đã chết.

Ðạo sĩ phái Côn Luân lại nói tiếp:

– Tiếc thay y đã chết, không hiểu y giấu Bạch Quy Thọ ở đâu?

Thế rồi bảy người xúm lại để xem xét.

Bỗng nghe “Bùng, bùng, bùng, bùng, bùng” năm tiếng lớn, năm người trong bọn họ đã bị đánh bắn ra xa.

Vừa lúc ấy Bành hòa thượng đã đứng thẳng dậy, trông rất oai phong lẫm liệt, đầu vai và đùi trái của y vẫn còn hai mũi phi đao cắm sâu.

Thì ra Bành hòa thượng bị ám khí độc bắn trúng tự biết gượng không nổi liền giả bộ chết để dụ kẻ địch tới gần rồi dùng Ngũ Hành Chưởng đánh vào giữa ngực năm đối thủ. Còn Hiểu Phù và Ðinh Mẫn Quân là đàn bà nên hòa thượng không tiện đánh vào ngực họ.

Sư tỷ muội Hiểu Phù thấy năm kẻ đồng bọn bị đánh ngã kinh hãi vô cùng vội vàng nhảy ra xa.

Lúc ấy năm người đàn ông kia đang nằm phun ồng ộc máu tươi ra.

Có hai người trong bọn họ, nội công hơi kém không sao đứng dậy được.

Về phần Bành hòa thượng đã giở hết sức lực đánh năm địch thủ cùng một lúc nên cũng hết hơi sức, loạng choạng sắp ngã.

Ðạo sĩ phái Côn Luân gượng nói:

– Ðinh, Kỷ cô nương mau giết y đi!

Trong bọn người đối địch, một hòa thượng phái Thiếu Lâm đã chết, Bành hòa thượng cùng năm địch thủ bị thương nặng chỉ còn Ðinh Mẫn Quân và Kỷ Hiểu Phù là không suy suyển chút nào.

Nghe đạo nhân của phái Côn Luân bảo vậy, Ðinh Mẫn Quân nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ ta không biết dùng kiếm giết chết y hay sao mà ngươi phải bảo?

Ðoạn nàng liền múa kiếm xông lại chém vào cổ Bành hòa thượng.

Bành hòa thượng thở dài nghĩ thầm:

– Vì hai người này là đàn bà, ta không tiện tấn công vào ngực hai người để khỏi mang tiếng và tha chết cho họ. Ngờ đâu lòng nhân từ đó lại là tai họa diệt thân cho ta!

Bành hòa thượng thấy mũi kiếm của Mẫn Quân đã đâm tới, đành nhắm mắt đợi chết. Ngờ đâu nghe kêu “keng keng” hai tiếng, đúng là tiếng khí giới chạm nhau liền mở mắt ra nhìn mới hay Hiểu Phù đã giơ kiếm ra gạt kiếm của Mẫn Quân.

Mẫn Quân ngạc nhiên vô cùng vội hỏi:

– Cô làm gì thế?

Hiểu Phù đáp:

– Ðinh sư tỷ, Bành hòa thượng đã không nỡ ra tay giết chúng ta, thì chúng ta cũng không nên đuổi tận, giết tuyệt như vậy!

– Chị có định giết y đâu chỉ muốn bắt y thổ lộ chổ giấu Bạch Quy Thọ thôi.

– Y trúng phải ám khí có chất độc bị thương rất nặng, bây giờ chúng ta phải giải độc cho y rồi hãy hỏi sau.

Nói đoạn Hiểu Phù đi tới trước mặt đạo sĩ phái Côn Luân lên tiếng nói:

– Tây Linh sư huynh làm ơn đưa thuốc giải độc của sư huynh cho tôi!

Thì ra đạo nhân đó là Tây Linh Tử, còn người xử dụng phi đao là Tây Tiệp Tử đều là sư đệ của Tây Hoa Tử. Tây Linh Tử đáp:

– Trước hết cô nương phải trói chân tay hắn lại, bằng không tên hòa thượng ấy nhiều qụ kế, khó mà đề phòng lắm đấy…

Y vừa nói vừa thở hổn hển, tay đè lên vết thương trên ngực để mấu khỏi phun ra. Y bị Bành hòa thượng dùng Ngũ Hành Chưởng đả thương rất nặng.

Hiểu Phù ngẫm nghĩ giây lát, gật đầu lấy thắn lưng ra tới cạnh Bành hòa thượng, nhẹ nhàng nói:

– Bành đại sư, thông cảm nhé, không phải tự ý tôi muốn trói đại sư như thế này đâu.

Lúc ấy Bành hòa thượng thấy thuốc độc ở trên đùi bốc lên, mình mẩy chân tay tên tái dần, tự biết không có thuốc giải độc thì sẽ chết ngay. Vả lại, không để cho nàng ta trói thì nàng sẽ dùng kiếm chặt đứt gân tay, gân chân còn đau khổ hơn nhiều. Ðồng thời hòa thượng muốn ra tay đánh lén Hiểu Phù nhưng y thấy Ðinh Mẫn Quân cầm kiếm đứng cạnh, đành gượng cười đưa tay cho Hiểu Phù trói.

Tây Linh Tử lấy thuốc giải ra và nói rõ cách xử dụng.

Hiểu Phù rút hai phi đao ở trên vai và chân Bành hòa thượng rồi lại rút ám khí độc ra rồi mới rịt thuốc giải lên.

Ðinh Mẫn Quân lớn tiếng quát:

– Bành hòa thượng, sư muội của ta có lòng nhân từ, đã cứu ngươi thoát chết, vậy mi giấu Bạch Quy Thọ ở đâu, mau nói cho chúng ta rõ!

Bành hòa thượng ngẩng mặt lên trời cả cười đáp:

– Ðinh cô nương coi rẻ Bành Doanh Ngọc này quá! Trương ngũ hiệp của phái Võ Ðang đành tự tử chết chứ không chịu nói rõ chổ ở của nghĩa huynh mình. Doanh Ngọc này rất ngừng mộ lòng nghĩa khí của Trương ngũ hiệp. Tuy mỗ là kẻ bất tài nhưng cũng muốn bắt chước Trương Ngũ hiệp một phen.

Vô Kỵ nghe Bành hòa thượng nói máu nóng trong người sôi sùng sục, phát lòng mến mộ Bành hòa thượng vì từ khi cha mẹ y chết đến giờ y chưa thấy có ai có lòng thực hâm mộ cha y như vậy.

Ðinh Mẫn Quân cười nhạt đáp:

– Trương Thúy Sơn mù quáng nên mới kết hôn với yêu nữ của Ma Giáo, hay ho gì mà ngươi còn muốn bắt trước phái Võ Ðang của y …

Hiểu Phù vội xen lời ngăn cản:

– Sư tỷ …

Ðinh Mẫn Quân lại nói:

– Cô yên tâm, tôi không đả động tới Hân lục hiệp của cô đâu.

Nói xong, nàng quay lại dí mũi kiếm vào mắt phải của Bành hòa thượng và nói:

– Nếu ngươi không nói, ta đâm mù mắt phải của ngươi trước, rồi đâm mù mắt trái, cắt hai tai và cả mũi của ngươi. Nói tóm lại là ta sẽ hành hạ mà không làm cho ngươi chết ngay.

Mũi kiếm của nàng chỉ cách mắt của Bành hòa thượng chừng nửa tấc nhưng Bành hòa thượng không sợ hãi chút nào, trợn trừng mắt lên lạnh lùng trả lời:

– Bành mỗ nghe nói Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi hành sự rất độc ác đã lâu, những đệ tử của mụ ta thủ đoạn chắc cũng không kém gì. Ngày hôm nay, Doanh Ngọc này đã lọt vào tay mi thì mi muốn hành hạ như thế nào cũng được. Mi cứ việc giở những kiệt tác của mi ra đi.

Ðinh Mẫn Quân nhướn đôi lông mày, quát lớn:

– Tên giặc sói đầu táo gan thật, dám nhục mạ tới sư môn của ta phải không?

Nàng vừa nói vừa đâm kiếm vào mắt phải của Bành hòa thượng, tiếp theo lại dí mũi kiếm vào mắt trái của địch thủ. Tuy bị đâm mù một mắt, con mắt thứ hai đang bị kẻ địch uy hiếp, Bành hòa thượng vẫn lớn tiếng cả cười, càng trợn con mắt còn lại lên nhìn kẻ thù, không có vẻ gì nao núng.

Ðinh Mẫn Quân thấy Bành hòa thượng nhìn mình như vậy kinh hãi thầm nhưng vẫn quát hỏi tiếp:

– Ngươi không phải là người của Bạch Mi Giáo, hà tất phải hy sinh tính mạng cho Bạch Quy Thọ làm chi?

Doanh Ngọc ngang nhiên đáp:

– Ðạo làm người của một đại trượng phu phải như vậy, dù ta có giảng giải chắc ngươi cũng không hiểu gì đâu?

Mẫn Quân thấy đối thủ tuy không phản kháng được nhưng tinh thần vẫn bất khuất, lại có vẻ khinh miệt mình vô cùng nên nàng phẫn nộ khôn tả, đâm luôn vào mắt thứ hai của Bành hòa thượng.

Hiểu Phù vội đưa kiếm ra gạt và nói:

– Sư tỷ, hòa thượng này bướng bỉnh như vậy, dù sư tỷ có đâm chết y, y cũng không chịu nói đâu. Hà tất sư tỷ phải phí công làm chi?

Mẫn Quân đáp:

– Y mỉa mai sư phụ chúng tôi cố thủ đoạn ác độc, thì chở muốn cho y biết thủ đoạn tàn ác của chúng tôi như thế nào. Những kẻ yêu tà của Ma Giáo này sống trên đời chỉ chuyên làm hại người, nên chúng ta giết được tên nào là tích thêm được công đức từng ấy.

– Người này bướng bỉnh như vậy cũng là một anh hùng hảo hán. theo y tiểu muội thì nên tha cho y một phen.

– Phía chúng ta, hai vị sư huynh của phái Thiếu Lâm , một người bị giết, một người bị thương, còn hai đạo trưởng của phái Côn Luân và hai đại ca của phái Hải Sa đều bị thương nặng. Y ra tay như vậy chẳng độc ác bằng trăm ngàn lần chúng ta sao? Ta phế nốt mắt trái của y rồi lại tra hỏi, xem y có chịu nổi không?

Nàng vừa nói vừa nhanh tay nhắm mắt trái của Bành hòa thượng đâm luôn.

Nhưng trường kiếm của Hiểu Phù còn nhanh hơn đã khéo léo gạt trường kiếm của Mẫn Quân sang bên rồi nàng nói tiếp:

– Thưa sư tỷ, người ta bị trói chặt chân tay như vậy mà chúng ta ra tay giết hại, thế nào người trên giang hồ cũng chê cười chở em phái Nga Mi mình.

Ðinh Mẫn Quân trợn ngược đôi mắt quát lớn:

– Cô đứng ra xa, mặc tôi!

– Sư tỷ, chớ …

– Cô đã gọi tôi là sư tỷ thì cô phải nghe lời tôi, đừng nói lôi thôi làm gì nữa.

– Vâng!

Ðinh Mẫn Quân liền múa kiếm đâm thẳng vào mắt của Bành hòa thượng, lần này nàng tăng thêm ba thành công lực.

Hiểu Phù không nỡ nhẫn tâm nhìn lại giơ kiếm ra gạt.

Thế kiếm của sư tỷ nàng rất mạnh nên lúc ra kiếm nàng cũng dùng nội công để tăng cường sức mạnh.

Hai thanh kiếm chạm nhau nghe “keng” một tiếng, tia lửa bắn tung tóe.

Cánh tay hai người đều bị chấn động đến tê tái và cả hai cùng phải lui về phía sau hai bước.

Mẫn Quân cả giận quát lớn:

– Sư muội, sao cô đôi ba phen bênh vực yêu tăng của Ma Giáo này vậy? Chẳng hay cô có dụng tâm gì vậy?

Hiểu Phù đáp:

– Tôi khuyên chở đừng đối xử với người quá tàn nhẫn như vậy thôi. Chớ muốn người ta nói chổ giấu Bạch Quy Thọ ở đâu thì cứ việc thong thả mà hỏi.

Ðinh Mẫn Quân cười đáp:

– Cô tưởng tôi không biết tâm ý của cô hay sao? Cô hãy gác tay lên trán thử nghĩ xem. Hân lục hiệp của phái Võ Ðang đã mấy lần cho người tới xin cưới, tại sao cô cứ mượn cớ này cớ nọ để trì hoãn. Tại sao cha cô thúc giục cô, cô lại bỏ nhà ra đi?

– Ðó là việc riêng của tiểu muội, không liên can gì đến việc trước mắt đây, sao sư tỷ lại lôi kéo chuyện đó ra làm gì?

– Ai còn lạ gì cô ở trong phái Nga Mi mà lòng cô lại hướng về Ma Giáo.

– Chớ là sư tỷ, lúc nào tôi cũng kính nể, tại sao hôm nay chở bỗng dưng đem chuyện đó ra bêu xấu tôi như vậy?

– Nếu cô không có lòng hướng về Ma Giáo thì cô đâm ngay mắt tên hòa thượng này đi!

– Từ Quách sư tổ khai tôn lập phái đến giờ, các tôn tổ của các đời trước đều có rất nhiều người không xuất giá. Mộ cao đức của các tiền nhân, tiểu muội cũng muốn bắt chước mà không xuất giá. Ðó là lẽ thường tình, chứ có gì lạ đâu mà chở cứ hỏi dồn tôi như vậy?

– Tha hồ cô muốn nói rồng nói phượng tôi cũng mặc, nếu cô không đâm nốt mắt trái của tên tặc hòa thượng này thì tôi sẽ vạch hết những sự bí mật của cô cho mọi người hay.

Hình như Hiểu Phù đã trót làm một việc gì trái lương tâm nên nghe Ðinh Mẫn Quân nói vậy nàng không cãi bướng nữa, liền dịu giọng đáp:

– Mong chị nghĩ tình đồng môn, đừng có dồn ép tôi nữa.

– Tôi có bảo cô làm việc gì khó khăn đâu? Sư phụ sai chúng ta đi dò xét xem Tạ Tốn đang ẩn núp ở đâu. Hiện giờ vì hòa thượng này là người đã biết tin tức ấy nhưng y không chịu thổ lộ thì chớ, lại còn đả thương và giết chết mấy người trong bọn chúng ta. Tôi đâm mù mắt phải, cô đâm mù mắt trái của y như vậy rất công bằng, tại sao cô lại không dám hạ thủ?

– Tiểu muội không thể nhẫn tâm nên không nỡ hạ thủ đấy thôi.

– Nhẫn tâm ư? Sư phụ vẫn thường khen ngợi kiếm pháp của cô rất ác độc, tính nết rất cương nghở, không khác gì sư phụ. Nên sư phụ mới có ý định truyền ngôi trưởng môn cho cô …

Hai sư tỷ muội cãi nhau, những người có mặt đều ngạc nhiên vô cùng.

Lúc này mọi người mới hiểu rõ đôi chút, biết Diệt Tuyệt sư thái người trưởng môn của phái Nga Mi rất cưng Hiểu Phù, có ý định truyền lại ngôi trưởng môn cho nàng, vì vậy Ðinh Mẫn Quân ghen tức. Không hiểu lần này Ðinh Mẫn Quân đã biết rõ một việc bí mật gì của Hiểu Phù mà định bêu riếu sư muội ở trước mặt mọi người như vậy.

Vô Kỵ tuy còn nhỏ, nhưng rất trông ân oán, y nghĩ tới lúc cha mẹ y tự sát, Hiểu Phù đối với y rất tử tế.

Nay y lại thấy Hiểu Phù bị Ðinh Mẫn Quân áp bức như vậy chỉ muốn nhảy ra tát tai Ðinh Mẫn Quân mấy cái mới hả dạ.

Ðinh Mẫn Quân lại nói tiếp:

– Tôi hãy hỏi cô điều này, ba năm trước đây sư phụ triệu tập tất cả môn đồ, tụ họp trên kim đỉnh để truyền dậy hai pho kiếm pháp mà sư phụ mới sáng tác là Diệt Kiếm và Tuyệt Kiếm. Hôm đó tại sao cô lại không tới? Thấy cô vắng mặt sư phụ đã nổi trận lôi đình, bẻ gãy cả thanh trường kiếm và nói rằng từ nay trên đời này sẽ không có hai pho kiếm pháp đó nữa.

Hiểu Phù vội đáp:

– Hôm ấy tiểu muội đang ở Cam Châu, bỗng sinh bệnh, chân tay không cử động được. Việc này tiểu muội đã thưa cùng sư phụ rồi, tại sao sư tỷ còn nhắc lại?

– Việc ấy cô chỉ có thể giấu được sư phụ thôi, chứ giấu tôi sao được? Có một điều có điều nữa tôi định hỏi cô, nếu cô đâm mù mắt trái của tên hòa thượng này thì tôi không hỏi nữa.

– Sao chị không nghĩ đến tình đồng môn với nhau gì cả?

– Cô có chịu đâm không?

– Chị yên trí, dù sư phụ có truyền ngôi trưởng môn cho tiểu muội, tiểu muội cũng không dám nhận đâu.

– Giỏi lắm! Nói đi nói lại, cô cứ cho là tôi ghen tức với cô phải không? Có chổ nào tôi không bằng cô mà phải được cô nhường cho thì tôi mới chiếm được ngôi trưởng môn ấy …Cô có chịu đâm hay không?

– Nếu tiểu muội có làm việc gì không nên không phải, sư tỷ khiển trách tiểu muội đâu dám không thuận lòng, ở đây có mấy bạn của các môn phái, hà tất chở cứ phải áp bức tôi …

Nói tới đó, Hiểu Phù đã ứa nước mắt. Ðinh Mẫn Quân cười nhạt hỏi tiếp:

– Hừ, sao tôi lại không biết, trong lòng cô đang chửi rủa cô. Ba năm trước đây, cô ở Cam Châu có sinh bệnh ư? Sinh thì có sinh, nhưng không phải sinh bệnh mà là sinh ra một đứa con.

Nghe Ðinh Mẫn Quân nói chưa dứt, Hiểu Phù quay mình cắm đầu chạy ngay.

Biết nàng thế nào cũng bỏ chạy, Ðinh Mẫn Quân đã nhanh chân, tiến lên giơ kiếm ra ngăn lại và nói:

– Tôi khuyên cô ngoan ngoãn nghe lời tôi mà đâm ngay mắt của tặc hòa thượng này đi, bằng không tôi phải hỏi cho ra, coi cha của đứa bé là ai? Và hỏi cô tại sao một đệ tử của danh môn chính phái lại đi bảo vệ cho một yêu tăng của Ma Giáo như vậy?

– Chị …Chị có để cho em đi không?

Ðinh Mẫn Quân dí mũi kiếm vào ngực Hiểu Phù lớn tiếng hỏi tiếp:

– Con đẻ mà cô sinh ra hiện giờ ở đâu? Cô là vợ chưa cưới của Võ Ðang lục hiệp Hân Lợi Hanh tại sao cô lại đẻ con với người khác?

Vô Kỵ ngẩn người ra nghĩ thầm:

– Kỷ cô nương là một người hiền lành ngoan ngoãn, tại sao cô lại thất tiết, bất trinh như thế được?

Vô Kỵ chỉ là đứa trẻ mới mười ba tuổi, tất nhiên chưa hiểu rõ việc trai gái ra sao nhưng Ngộ Xuân, Bành hòa thượng và bọn Tây Linh Tử thì ngạc nhiên hết sức.

Hiểu Phù mặt nhợt nhạt , cứ tiến về phía trước.

Ngờ đâu, Ðinh Mẫn Quân không nể nang chút nào đã đâm ngay một kiếm vào cánh tay nàng, sâu đến tận xương.

Bị thương khá nặng, Hiểu Phù không sao nhịn được nữa, liền rút kiếm ra và nói:

– Nếu sư tỷ còn áp bức tôi nữa tôi sẽ không vị nể nữa đâu!

Ðinh Mẫn Quân biết chuyện ngày hôm này không sao hàn gắn lại được nữa liền nghĩ thầm:

– Ta đã vạch rõ việc bí mật của nàng cho mọi người rỗ tất nhiên nàng phải giết ta để diệt khẩu. Võ công của ta lại kém nàng nhiều nếu ra tay đấu thì thế nào ta cũng bị bại trận.

Nghĩ như vậy, nhân lúc Hiểu Phù không đề phòng, Ðinh Mẫn Quân đâm ngay vào cánh tay phải của nàng một nhát kiếm.

Sau nàng thấy Hiểu Phù nói như vậy liền múa kiếm tấn công luôn.

Hiểu Phù bị đâm nhát kiếm đó rất đau, lại thấy sư tỷ của mình ra tay toàn giở những thế kiếm rất ác độc nên nàng cũng phải dùng tay trái để chống đỡ.

Nàng biết nếu nhường nhởn thế nào nàng cũng bị người sư tỷ ác dộc bất nhân đó giết hại.

Nàng nhanh tay múa kiếm, chống đỡ luôn mười hai thế.

Những người có mặt tại đó đều là hàng hảo thủ của võ lâm thấy Hiểu Phù bị thương nặng như vậy biết là có khuyên giải cũng vô ích, hơn nữa không biết bênh ai cho phải nên người nào người nấy chỉ giương mắt nhìn nghĩ thầm:

– Phái Nga Mi là một trong bốn đại môn phái, kiếm pháp tất nhiên phải siêu tuyệt.

Hai chị em Hiểu Phù càng đấu càng kịch liệt.

Phần vì vết thương chảy máu ra nhiều, phần vì dùng tay trái cầm kiếm đối địch nên Hiểu Phù võ công tuy hơn hẳn Mẫn Quân thật nhưng nhất thời không sao thắng nổi đối thủ. Cũng may, xưa nay Ðinh Mẫn Quân vẫn e ngại tài ba của sư muội nên không dám dồn ép quá.

Nàng chỉ muốn chống đỡ và cầm cự cho tới khi Hiểu Phù mất máu nhiều rồi kiệt lực mà thảm bại.

Nàng đã thấy Hiểu Phù bắt đầu đuối sức, kiếm pháp rối loạn, hình như chịu đựng không nổi nữa, liền giở thế kiếm độc ra tấn công lia lịa.

Ðầu vai phải của Hiểu Phù lại bị đâm trúng một kiếm, máu tươi chảy ra như suối, chẳng trong mấy chốc đã ướt nửa cái áo, trông thật thảm thương.

Bành hòa thượng bỗng lên tiếng nói:

– Kỷ cô nương, mau lại đây đâm nốt mắt trái của mỗ đi, Bành mỗ cám ơn cô nương nhiều lắm rồi nên không thể nhìn cô nương bị giết thê thảm.

Tuy nhiên Hiểu Phù cũng dư hiểu là cả hai đều lâm vào ngõ cụt.

Lúc này dù nàng có đâm mù mắt của Bành hòa thượng đi nữa, Ðinh Mẫn Quân cũng không để cho nàng yên.

Nếu hôm nay nàng không nhân dịp này mà diệt trừ Ðinh Mẫn Quân thì sau này Ðinh Mẫn Quân sẽ gây họa lớn.

Thấy Ðinh Mẫn Quân càng đánh càng giở toàn thế kiếm hiểm độc, Bành hòa thượng vừa hét vừa chửi rủa:

– Con ác phụ không biết hổ thẹn! Thảo nào giang hồ đã đặt cho mi biệt hiệu Ðộc Thủ Vô Diệm Ðinh Mẫn Quân! Quả nhiên mặt mũi mi xấu như Chung Vô Diệm, lòng của mi độc như rắn rít. Nếu trên giang hồ này thiếu nữ nào cũng như mi, ai thấy cũng phải nôn mửa thì đàn ông trên thiên hạ đều phải đi tu.

Sự thực Ðinh Mẫn Quân tuy không phải là tuyệt sắc giai nhân, nhưng cũng không đến nỗi tệ lắm.

Bành hòa thượng rất hiểu đời và tâm lý của thiếu nượ. Bất cứ đàn bà con gái nào, dù xấu hay đẹp cũng không ưa người ta chê mình.

Y thấy tình thế nguy ngập đành đặt điều và gọi bừa cái biệt hiệu Ðộc Thủ Vô Diệm như vậy là để chọc tức Ðinh Mẫn Quân, khiến nàng ta tức giận mà quay lại đối phó với mình mà để cho Hiểu Phù có dịp thoát thân hay ít ra cũng có thời gian mà băng bó vết thương.

Ngờ đâu Ðinh Mẫn Quân cũng khôn ngoan và giảo hoạt vô cùng.

Nghe Bành hòa thượng nói xấu mình như vậy, trong lòng tức giận vô cùng nghĩ thầm:

– Ðể ta giết xong con nhãi Hiểu Phù này đã, còn tên hòa thượng khốn nạn kia, đã bị trói nằm đấy đào tẩu đi đâu cho được …

Nghĩ đoạn, nàng vẫn tiến lên tấn công Hiểu Phù mặc cho Bành hòa thượng tiếp tục mắng nhiếc:

– Kỷ nữ hiệp là một thiếu nữ trong sạch, trên giang hồ ai mà chẳng biết. Nhưng Ðộc Thủ Vô Diệm Ðinh Mẫn Quân không biết xấu hổ, tưởng mình xinh đẹp, chọc ghẹo Hân Lợi Hanh của phái Võ Ðang, định cướp người yêu của sư muội.Ngờ đâu Hân Lợi Hanh không thèm đếm xỉa tới nên Ðinh Mẫn Quân mới tức giận đem lòng oán hận mà hại nữ hiệp. Hà hà! Mi không soi gương mà xem … Hai gò má cao như trứng vịt, mồm to như tô máu, da mặt vàng khè, mình mẩy gầy gò như que củi. Con người xấu xí như thế, khi nào Hân lục hiệp thèm để ý đến? Không biết thân biết phận mi còn theo đuổi người ta mà tống tình luôn.

Ðinh Mẫn Quân nghe tới đó, không sao nhịn được, liền quay lại nhảy tới trước mặt Bành hòa thượng , giơ kiếm đâm luôn vào mồm y.

Ðột nhiên từ trong bụi rậm một người phi ra, vừa quát lớn vừa nhảy tới trước mặt Bành hòa thượng đỡ ngọn kiếm của Ðinh Mẫn Quân.

Thân pháp của người đó nhanh khôn tả.

Ðinh Mẫn Quân không kịp thu kiếm lại nên mũi kiếm đâm sụt vài trán của người đó, dồng thời người đó cũng kịp múa chưởng đánh vào ngực Ðinh Mẫn Quân một cái nghe “bình” một tiếng thật lớn.

Ðinh Mẫn Quân bị đánh bắn tung ra ngoài xa mấy bước ngã lăn ra đất, mồm hộc máu tươi, thanh kiếm của nàng vẫn còn cắm sâu trên trán của người kia.

Ai có mặt tại đó đều đoán chắc người lạ mặt ấy không thể sống sót được.

Tây Linh Tử nhìn kỹ mặt người nọ rồi kinh ngạc la lớn:

– Bạch Quy Thọ! Bạch Quy Thọ!

Hồi thứ 29

Ðiệp Cốc Chữa Bệnh

Thì ra người phi tới đỡ thế kiếm của Ðinh Mẫn Quân cho Bành hòa thượng là Bạch Quy Thọ, đàn chủ Huyền võ công của Bạch Mi Giáo.

Sau khi bị thương nặng, y được Bành hòa thượng che chở cho mới thoát được mấy cao thủ của các môn phái theo đuổi. Sau y thấy Bành hòa thượng bị bốn môn phái vây đánh nên mới theo dõi tới đây, vừa gặp lúc Bành hòa thượng lâm nguy nên y mới xông ra can thiệp.

Ðinh Mẫn Quân bị một chưởng chí mạng, gãy mấy xương sườn.

Hiểu Phù vừa hoảng hơn vội xé mấy vạt áo buộc vết thương trên cánh tay và vai rồi giơ tay cắt dây trói cho Bành hòa thượng rồi lẳng lặng bỏ đi.

Bành hòa thượng vội lớn tiếng gọi:

– Hãy khoan, Kỷ cô nương! Hãy để cho Bành hòa thượng có một lạy cám ơn đã nào!

Nói xong, y liền quỳ xuống lạy.

Hiểu Phù nhẹ nhàng tránh sang bên.

Bành hòa thượng lượm trường kiếm của Tây Linh Tử ở dưới đất và nói tiếp:

– Ðinh Mẫn Quân đã làm nhục cô nương, còn để cho ả sống làm gì?

Nói xong, y liền nhắm yết hầu của Ðinh Mẫn Quân múa kiếm đâm tới.

Hiểu Phù vội vã giơ kiếm gạt ra và nói:

– Nàng là sư tỷ của tôi, tuy vô tình với tôi thật nhưng tôi thì không thể vô nghĩa với nàng.

Bành hòa thượng lại nói:

– Chuyện đã xảy ra như vậy , nếu cô nương không giết ả, thì sau này ả sẽ làm hại cô nương, cô nương sẽ không trở tay kịp.

Hiểu Phù ứa nước mắt đáp:

– Tôi là một thiếu nữ bất hạnh nhất trần gian nhưng tất cả những gì xảy ra đều do số mệnh, xin Bành hòa thượng tha chết cho sư tỷ tôi.

– Kỷ nữ hiệp đã dậy, Bành mỗ đâu dám không tuân theo.

Hiểu Phù cúi đầu khẽ nói với Ðinh Mẫn Quân:

– Sư tỷ, mong sư tỷ bảo trông lấy thân!

Nói xong, nàng cắm kiếm vào bao, quay mình đi luôn.

Bành hòa thượng liền nói với bọn Tây Linh Tử:

– Bành mỗ với các ngươi không có thâm thù đại oán gì cả. Còn thiếu nữ họ Ðinh này vô cớ nói nhục Kỷ nữ hiệp, điều đó quí vị đã nghe rõ ràng. Sau này những lời nói đó quí vị sẽ truyền đến tai mọi người trên giang hồ thì Kỷ nữ hiệp còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này nữa. Vì vậy mỗ mới phải hạ độc thủ, giết quí vị bởi hoàn cảnh bắt buộc mà thôi. Mong quí vị xuống suối vàng cũng đừng trách mỗ!

Nói xong, y liền múa kiếm giết một lượt Tây Linh Tử, Tây Tiệp Tử, một tên tăng nhân của phái Thiếu Lâm và hai hảo thủ của phái Hải Sa.

Còn Ðinh Mẫn Quân thì y chỉ rạch một đường kiếm trên má vì y phải nghe theo lời của Hiểu Phù.

Ðinh Mẫn Quân thấy Bành hòa thượng cầm kiếm xông tới trước mặt, tưởng mình cũng sẽ bị giết nốt, sợ hãi đến mất hơn vía, nhưng nàng bị thương nặng quá, không sao kháng cự lại được đành phải nằm yên lớn tiếng chửi:

– Tên giặc sói đầu, mi đừng hành hạ ta làm chi, có giỏi thì giết ta ngay đi!

Bành hòa thượng vừa cười vừa đáp:

– Người xấu xí như ngươi, ta không dám ra tay giết đâu. Chỉ sợ mi xuống âm phủ làm cho muôn vàn ác qụ hoảng sợ mà chạy lên trên này thì nhân gian khốn khổ. Và ta còn sợ mi làm cho Diêm Vương cùng các phán quan nôn mửa nữa.

Nói xong, Bành hòa thượng cười ba tiếng lớn rồi vứt kiếm xuống đất, ôm xác Bạch Quy Thọ lên, khóc ba tiếng đoạn mới quay mình bỏ đi thẳng.

Lát sau, Ðinh Mẫn Quân hồi sức lại, lóp ngóp bò dậy, cầm kiếm chống xuống đất, loạng choạng bước ra khỏi rừng.

Trận dạ chiến kinh hơn động phách trong rừng đã kết thúc, Ngộ Xuân cùng Vô Kỵ đều thấy rõ.

Chờ Ðinh Mẫn Quân đi khỏi, hai người mới thở hắt ra một cái.

Vô Kỵ nói:

– Thường đại ca, Kỷ cô nương là vợ chưa cưới của Hân lục thúc tôi. Nhưng vừa rồi tại sao ả họ Ðinh lại nói là …Kỷ cô nương đã ngủ với người khác, đẻ được một đứa con, chẳng hay chuyện đấy có thật không?

Ngộ Xuân đáp:

– Thiếu nữ họ Ðinh nói bậy, chú đừng để ý tới làm chi?

– Ðại ca nói rất phải, nếu tôi gặp Hân lục thúc, thế nào cũng bảo chú ấy đánh cho Ðinh Mẫn Quân một trận để trả thù cho Kỷ cô nương.

– Ðừng! Ðừng! Chú em đừng có bao giờ cho Hân lục thúc hay chuyện này nghe không?

– Tại sao vậy?

– Câu chuyện đó không hay ho gì đâu, bất cứ gặp ai chú cũng không nên nhắc lại nhé!

– Vâng…Mà có phải đại ca sợ chuyện đó là thật không?

– Ðiều này tôi cũng không được rõ.

Tới ngày hôm sau Ngộ Xuân mới thấy các huyệt đạo được giải khai, chân tay không bị tê liệt như trước nữa.

Chàng bèn cõng Vô Kỵ lên, đi tới chổ sáu cái xác đang nằm ngổn ngang, ngắm nhìn một hồi mà thở dài nói:

– Tạ Tốn đã mất tích ở giang hồ đã hơn mười năm rồi mà người trong võ lâm vẫn vì y mà toi mạng rất nhiều. Không hiểu mối họa này tới ngày nào mới dứt được?

Sau đó chàng cùng Vô Kỵ ở lại trong rừng nghố đến nửa đêm, chờ sức khỏe khôi phục lại mới tiếp tục lên đường.

Ði được vài dặm tới đường cái quan, chàng liền nghĩ thầm:

– Hồ sư bá ẩn cư trong Hồ Ðiệp Cốc, chổ ở của ông ta tất phải là nơi khuất nẻo. Nay ta đi tới đường cái quan này, hay là ta đã đi lầm đường chăng?

Chàng đang định tìm kiếm một người thôn quê để dò hỏi, bỗng nghe có tiếng vó ngựa rồi có bốn tên lính Mông Cổ cầm trường kiếm phi ngựa tới mồm quát lớn:

– Cút mau , cút mau!

Chúng vừa phi ngựa đến phía sau Ngộ Xuân vội giơ kiếm lên chém vờ xuống xua đuổi chàng chạy về phía trước.

Ngộ Xuân vừa chạy vừa kêu khổ nghĩ thầm:

– Không ngờ hôm nay ta lại sa vào miệng hùm làm chú em họ Trương bị vạ lây nữa!

Lúc này võ công của chàng đã tiêu mất hết., dù có đấu với một tên lính Nguyên tầm thường cũng không địch nổi, đành phải lên bước một mà chạy về phía trước.

Chàng thấy trên đường cái có rất nhiều dân đang bị quân Nguyên xua đuổi tựa như đuổi một đàn cừu.

Chàng lại nghĩ tiếp:

– Như vậy quân Thát Ðát này chỉ hành hạ dân chúng thôi chứ không có dụng tâm bắt ta đâu.

Nghĩ đoạn, chàng liền theo đám đông dân chúng chạy. Tới ngã ba đường, chàng lại thấy một tên quan Mông Cổ cởi ngựa, dẫn theo sáu, bảy mươi tên quân, tên nào cũng cầm đại đao. Ai đi tới trước mặt tên quan đó cũng phải quỳ xuống vái lạy. Một người Hán làm thông ngôn đứng cạnh quát hỏi:

– Họ gì?

Khi một người dân trả lời xong thì tên lính Nguyên đứng cạnh bèn đá đít một cái hay tát tai rồi cho đi.

Sau rốt có người trả lời họ Trương liền bị tên lính bắt lại, đứng sang một bên. Sau đó một người thường dân, tay cầm một cái bị có một con dao làm rẫy mới mua cũng bị tên lính Nguyên bắt đứng sang bên.

Vô Kỵ thấy tình thế nghiêm trông liền kề tai Ngộ Xuân nói nhỏ:

– Thường đại ca hãy giả bộ té ngã, lăn vào trong bụi cỏ, mở ngay bao vứt con đao đi!

Ngộ Xuân liền quỳ xuống, lăn luôn vào trong bụi cỏ lau, tay cởi con đao đcó trên lưng ra giấu rồi giả bộ lóp ngóp bò dậy, mồm suýt xoa kêu đau đi khập khiễng tới trước mặt tên quan Mông Cổ.

Tên người Hán thông ngôn thấy vậy liền lên tiếng mắng chửi:

– Tên khốn nạn này không biết lễ phép gì cả! Ðến trước mặt đại nhân mà không cúi lạy vái chào!

Ngộ Xuân nghĩ đến chúa cũ của mình là Chu Tý Vương, cả nhà đều bị quân Mông Cổ giết sạch, thảm khốc vô cùng nên thà bị chúng giết chết chứ không chịu cúi đầu vái lạy tên quan Mông Cổ đó.

Một tên lính Nguyên thấy chàng bướng bỉnh liền giơ chân đá gạt chân chàng một cái. Ngộ Xuân quỵ ngay và quỳ xuống tức thì.

Người Hán thông ngôn lại quát hỏi:

– Ngươi họ gì?

Ngộ Xuân chưa kịp trả lời thì Vô Kỵ đã lên tiếng đỡ lời:

– Anh ấy là đại ca của tôi, họ Tạ.

Tên lính Nguyên đá vào mông Ngộ Xuân một cái quát lớn:

– Bước đi!

Ngộ Xuân tức giận vô cùng lóp ngóp bò dậy, trong lòng thề thầm:

– Trong đời ta, nếu không xua đuổi được quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi ta thề không làm người!

Rồi chàng cõng Vô Kỵ rảo chân tiến về phía Bắc.

Vừa đi được vài chục bước thì nghe phía sau có tiếng kêu khóc rất thê thảm, cả hai bèn quay lại thì thấy mấy người dân thường hồi nãy bị bọn lính Nguyên bắt đứng sang bên đều bị chặt đầu, xác ngã ngổn ngang.

Thì ra chính sách của nhà Nguyên lúc ấy rất tàn bạo, định tâm giết sạch người Hán nhưng không sao giết hết được nên tên Thái Sư Ba Diên liền hạ mật chỉ lệnh cho phép quan binh người Mông hễ thấy người Hán nào mang họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu là giết hết không ghê tay vì y nhân thấy người Hán chỉ có mấy họ đó là đông nhất, còn họ Triệu là họ của vua Tống Triều.

Ba Diên tính giết sạch người của những họ đó thì nguyên khí của Hán tộc bị tổn thương rất nặng.

Sau này vua Nguyên hay tin liền hạ chiếu chỉ thủ tiêu lệnh giết người bừa bãi của Ba Diên, nhưng số người thuộc năm họ nói trên đã bị chém giết rất nhiều rồi.

Lúc ấy chính sách cai trở của nhà Nguyên tàn bạo không kể siết, dân chúng người Hán chịu khổ sở vô cùng.

Ngộ Xuân không dám ngừng bước, vội rẽ ngang đi thẳng vào rừng. Ði được mấy dặm, chàng gặp một người tiều phu, liền hỏi thăm đường tới Hồ Ðiệp Cốc nhưng bác tiều phu đó lắc đầu.

Ngộ Xuân biết chổ ẩn cư của Hồ Thanh Ngưu thế nào cũng gần đây, chàng đành phải kiên tâm đi từ từ tìm kiếm.

Càng đi càng thấy cảnh đẹp vô cùng nhưng hai người nghĩ tới thảm trạng vừa rồi nên không còn tâm trí nào mà thưởng thức.

Không bao lâu, đi tới trước một vách núi, Ngộ Xuân thấy không còn có đường đi nữa, đang phân vân bỗng có mấy con bướm bay lượn.

Vô Kỵ liền lên tiếng nói:

– Chổ ở của Y tiên là Hồ Ðiệp Cốc, vậy chúng ta cứ theo đàn bướm này mà đi, xem có thể tới được không?

Ngộ Xuân nghe Vô Kỵ nói rất phải liền đi xuyên qua bụi hoa quả nhiên thấy có một con đường núi nhỏ tiếp liền theo con đường cũ.

Hai người càng đi càng thấy rất nhiều bướm, dồng thời hương thơm của hoa xông lên ngào ngạt.

Có một điều rất lạ khiến cả hai cùng ngạc nhiên vô cùng là những con bướm ở đây không sợ người chút nào, lúc bay tới đậu trên đầu, lúc lại đậu trên vai, vài con lại bay lượn quanh hai người hoài.

Hai người biết đã vào tới Hồ Ðiệp Cốc nên trong lòng phấn chấn vô cùng.

Ði đến quá ngọ hai người đã thấy bảy tám căn nhà lá cất bên cạnh một con suối trong veo.

Quanh những căn nhà đó có trồng rất nhiều hoa thơm cỏ lạ.

Ði tới trước căn nhà chính giữa Ngộ Xuân cung kính vái chào và nói:

– Ðệ tử là Ngộ Xuân xin bái kiến Hồ sư bá!

Lát sau trong nhà có một thằng bé chạy ra nói:

– Mời sư huynh vào!

Ngộ Xuân liền cõng Vô Kỵ lên đi thẳng vào trong căn nhà lá ấy, hai người thấy một người tuổi trạc trung niên, mặt mũi thanh tú, đang đứng xem một tên tiểu đồng sắc thuốc.

Trong nhà sặc mùi thuốc khó ngửi vô cùng.

Ngộ Xuân đặt Vô Kỵ ngồi xuống chiếc ghế cạnh đó rồi chàng quỳ lạy người trung niên kia và nói:

– Hồ sư bá vẫn được mạnh giỏi!

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Người này chắc là thần y, tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, mà người ta vẫn thường gọi là Ðiệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu đây.

Vô Kỵ vừa nghĩ tới đó người kia đã gật đầu trả lễ Ngộ Xuân và lên tiếng nói:

– Việc của Chu Tý Vương ta cũng đã biết rõ. Âu cũng tại số trời. Quân Mông Cổ chưa tới hồi tuyệt tận và bổn giáo chưa gặp lúc vinh quang.

Y vừa nói vừa chìa tay nắm lấy cổ tay Ngộ Xuân để thăm mạch, còn tay kia thì cởi áo chàng để xem vết thương rồi nói:

– Cháu bị Phiên tăng dùng Triệt Tâm chưởng đánh phải. Ðáng lẽ vết thương rất nhẹ nhưng vì sau khi bị thương cháu còn dùng sức quá nhiều để cho hơi lạnh công tâm nên lúc này có chữa cũng phải tốn nhiều thì giờ.

Ðoạn y lại khám tất cả các huyệt đạo trên người Ngộ Xuân một lượt.

Lát sau Hồ Thanh Ngưu bỗng hỏi:

– Tối hôm qua, cháu đã ra tay đấu với ai? Có phải người của phái Võ Ðang không?

Ngộ Xuân đáp:

– Thưa sư bá, không ạ!

Hồ Thanh Ngưu lại rờ tay vào hai bên dùi của Ngộ Xuân chàng khám một hồi , kế gầm nét mặt lại nói tiếp:

– Ngộ Xuân! Ta đã không gặp cháu bảy, tám năm rồi, không ngờ cháu lại biết nói dối như vậy. Vết thương của cháu sư bá chữa không nổi. Mời cháu ra khỏi nhà ngay!

Ngộ Xuân kinh hãi vô cùng vội đáp:

– Thưa sư bá, cháu đâu dám nói dối sư bá. Quả thật đêm hôm qua cháu chưa hề đánh nhau với ai, cháu đã mệt nhọc như vậy thì còn hơi sức đâu mà đánh với người nữa.

Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:

– Hai yếu huyệt ở hai bên dùi cháu rõ ràng đêm hôm qua bị người ta điểm trúng và kẻ địch của cháu đã xử dụng thủ pháp điểm huyệt của phái Võ Ðang. Lúc y điểm huyệt cháu vào lúc giữa giờ tý và sửu phải không?

Nghe Hồ Thanh Ngưu nói như vậy, Ngộ Xuân thất thanh cả cười và đáp:

– Ðó là tự cháu điểm huyệt cháu đấy!

Nói xong, chàng bèn kể chuyện đã xảy ra đêm hôm trước.

Hồ Thanh Ngưu nghe Ngộ Xuân nói Vô Kỵ bảo chàng cách điểm mấy yếu huyệt đó liền đưa mắt nhìn Vô Kỵ đôi ba lần.

Sau y lại nghe Ngộ Xuân kể tới chuyện Bành hòa thượng bị Ðinh Mẫn Quân đâm mù mắt phải liền thở dài nói:

– Bành hòa thượng là một tay hảo thủ kiệt xuất của bổn giáo, với chúng ta tuy không phải đồng tôn, nhưng cũng là đồng giáo, nếu lúc bấy giờ Bành hòa thượng được ta chữa ngay cho thì mắt của y có thể lành được. Bây giờ đã qua mấy tiếng đồng dù y có tới đây cầu chữa ta cũng không sao chữa khỏi được.

Nói tới đó y bèn quay lại hỏi Vô Kỵ:

– Ai dậy cậu bé thủ pháp điểm huyệt của phái Võ Ðang thế?

Ngộ Xuân đỡ lời đáp:

– Thưa sư bá, chú Vô Kỵ đây nguyên là con của Trương ngũ hiệp phái Võ Ðang.

Hồ Thanh Ngưu ngẩn người, mặt lộ vẻ tức giận hỏi tiếp:

– Y là người của phái Võ Ðang thực à? Sao cháu đem y tới đây làm chi?

Ngộ Xuân liền kể lại chuyện mình bảo vệ hai con của Chu Tý Vương đào tẩu, bị quân chặn bắt, may nhờ có Trương Tam Phong cứu. Sau cùng chàng nói tiếp:

– Ðệ tử chịu ơn của Thái sư phụ của chú ấy nên mới đem chú ấy tới đây để nhờ sư bá phá lóỷ cứu chữa chú ấy một phen.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:

– Cháu khảng khái thật. Nhưng Trương Tam Phong cứu cháu thoát chết chứ có cứu ta đâu. Cháu thấy sư bá có bao giờ phá lệ mà cứu chữa cho người ngoài nào không?

Ngộ Xuân vội quỳ xuống, lạy lia lịa van lơn:

– Thưa sư bá, cha của chú bé này không chịu xuất mại bạn hữu mà vui lòng tự tử, quả thật là một trang hảo hán hiếm có. Chính chú bé đây, tuy tuổi còn nhỏ như vậy nhưng cũng hào khí hơn người nên cháu mới dám đưa chú ấy đến đây nhờ sư bá cứu chữa.

Hồ Thanh Ngưu cười nhạt đáp:

– Thiên hạ có biết bao anh hùng hảo hán, ta thì giờ đâu đi chữa cho nhiều người? Nếu y không phải là người của phái Võ Ðang thì không sao. Y đã là nhân vật của “danh môn chính phái” thì sao còn tới đây cầu những người “tà ma ngoại đạo” như ta cứu chữa làm chi?

Ngộ Xuân lại nói:

– Mẫu thân của chú em họ Trương là con gái của Hân Giáo Chủ Bạch Mi Giáo. Như vậy chú ấy một nửa là người của bổn giáo chứ có phải là người hoàn toàn xa lạ đâu.

Nghe Ngộ Xuân nói như vậy, Hồ Thanh Ngưu đã bớt giận liền đáp:

– Cháu hãy đứng dậy, nếu y là con của Hân Tố Tố của Bạch Mi Giáo tất nhiên là ta lại đối xử một cách khác.

Ðoạn y đi tới trước mặt Vô Kỵ dịu giọng nói tiếp:

– Này cậu bé, xưa nay mổ vẫn có cái lệ này là nhất định không chữa cho người ngoài, tự nhận là hiệp nghĩa, danh môn chính phái. Mẹ của cậu là người trong bổn giáo, tất nhiên mỗ coi cậu cũng như người của bổn giáo vậy. Nhưng cậu phải nhận một điều này, khi nào mỗ chữa cho cậu khỏi bệnh thì cậu phải tới ở với ông ngoại của cậu là Hân Giáo Chủ của Bạch Mi Giáo. Cậu phải vào Bạch Mi Giáo chứ không được làm đệ tử của phái Võ Ðang nữa nghe không!

Vô Kỵ chưa kịp trả lời Ngộ Xuân đã đỡ lời nói:

– Thưa sư bá, sư bá ra điều kiện như vậy không được đâu, vỗ cháu đã nói trước với Trương Chân Nhân rồi nên Trương Chân Nhân cũng đã dặn trước là Hồ sư bá không được bắt Vô Kỵ nhập giáo và nếu Hồ sư bá chữa khỏi cho Vô Kỵ thì phái Võ Ðang cũng không mang ồn bổn giáo đâu.

Hồ Thanh Ngưu tức giận vô cùng, trợn ngược mắt la lớn:

– Hừ! Trương Tam Phong là cái thớ gì mà khinh thường chúng ta như thế? Việc gì ta phải chữa bệnh cho mọn hạ của y? Cậu bé, cậu nghĩ xem ta nói có đúng không?

Vô Kỵ biết hàn độc đã xâm nhập vào ngũ tạng lục phủ của mình rồi, đến Thái sư phụ là người võ công phi phàm mà cũng thúc thủ. Bây giờ mình có sống được hay không là nhờ ở vị y tiên này. Nhưng lúc lên đường, Thái sư phụ đã dặn ta luôn luôn đừng có gia nhập Ma Giáo mà bị trầm luân đời đời kiếp kiếp. Không hiểu sao Ma Giáo tồi bại ra sao mà Thái sư phụ với các vị sư bá, sư thúc lại ghét thậm tệ đến vậy. Nhưng Vô Kỵ đối với Thái sư phụ lại rất thành kính, y tin chắc vào lời nói của Chân Nhân nên y lại nghĩ thầm:

– Ðành để cho hàn độc trong người ta lan ra mà chết, chứ ta không thể nào trái lời dậy bảo của Thái sư phụ được!

Ðoạn y lớn tiếng đáp:

– Thưa Hồ tiên sinh, mẹ cháu là Hương chủ của Bạch Mi Giáo, cháu chắc Bạch Mi Giáo cũng là một giáo phái rất tốt. Nhưng Thái sư phụ cháu đã dặn bảo cháu không được gia nhập Ma Giáo, và trước khi đi, cháu đã nhận lời của Thái sư phụ rồi. Ðại trượng phu ở đời cần phải trọng chữ tín, nếu Hồ tiên sinh không chịu chữa cho cháu thì đành vậy. Nếu cháu là kẻ tham sống sợ chết, miễn cưỡng tuân theo lời của tiên sinh. Tiên sinh có chữa khỏi cho cháu đi nữa thì trên thế gian này cũng chỉ có thêm một kẻ bất tín bất nghĩa thôi, chứ không ích lợi gì cho ai!

Hồ Thanh Ngưu nghe Vô Kỵ trả lời như vậy cười nhạt nghĩ thầm:

– Thằng nhỏ này làm bộ làm tịch, ăn nói như một đấng anh hùng hảo hán. Ta cứ không chữa cho mi, thử xem mi có quỳ xuống đất mà van lơn không?

Ðoạn y liền nói với Ngộ Xuân:

– Cậu bé này đã quyết định như vậy, không gia nhập bổn giáo vậy cháu hãy cõng cậu ấy ra ngoài kia. Nhà ta không để cho người chết vì bệnh tật đâu!

Ngộ Xuân biết tính nết của sư bá mình rất ương ngạnh, y đã không chịu nhận lời chữa thì dù có cầu khẩn mãi cũng uổng công mà thôi.

Chàng liền quay sang Vô Kỵ nói:

– Này chú em, những nhân vật trong Ma Giáo tuy hành đạo khác mọi người nghĩa hiệp trong các danh môn chính phái, nhưng từ đời nhà Ðường đến giờ, đời nào trong Ma Giáo cũng có các nhân sĩ hùng kiệt, huống hồ ông ngoại của chú lại là Giáo Chủ của Bạch Mi Giáo, mẹ chú là Hương chủ của giáo phái ấy thì chú nhận lời Hồ sư bá của mỗ đi. Sau này Trương Chân Nhân có khiển trách mỗ xin chịu hết.

Vô Kỵ đáp:

– Vâng, Thường đại ca làm ơn dùng ngón tay gõ vào đốt xương sống thứ tám và thứ mười ba của tiểu đệ vài cái đi!

Ngộ Xuân cả mừng, theo lời Vô Kỵ, gõ luôn vào xương sống y vài ba cái.

Chàng bỗng thấy hai chân của Vô Kỵ cử động được và y đứng ngay dậy nói:

– Thường đại ca đã tận tâm như vậy. Thái sư phụ của tiểu đệ cũng không trách đại ca đâu!

Nói xong, y liền ngang nhiên đi ra.

Ngộ Xuân giật mình kinh hãi vội hỏi:

– Chú đi đâu thế?

Vô Kỵ đáp:

– Nếu tôi chết ở trong Hồ Ðiệp Cốc này sẽ làm mất danh tiếng của Ðiệp Cốc y tiên.

Nói tới đó Vô Kỵ liền giở khinh công cắm đầu chạy thẳng, Hồ Thanh Ngưu thấy vậy cười nhạt và nói:

– Hồ Thanh Ngưu này đã lừng danh giang hồ là kẻ thấy chết không cứu rồi! Những người chết ở trong căn nhà nhỏ này có riêng gì một thằng nhỏ này đâu?

Ngộ Xuân không để ý tới lời nói của y tiên vội cắm đầu đuổi theo Vô Kỵ.

Hai người tuy đều bị thương , nhưng vết thương của Ngộ Xuân nhẹ hơn, và bước đi lớn hơn nên chàng chỉ đuổi theo vài bước là đã đuổi kịp Vô Kỵ.

Chàng liền ẵm Vô Kỵ quay trở lại.

Vỗ hai tay không cử động được, Vô Kỵ không làm sao kháng cự lại được.

Ngộ Xuân thở hồng hộc, ẵm Vô Kỵ trở lại nói với Hồ Thanh Ngưu:

– Hồ sư bá nhất định không cứu chữa cho y phải không?

Hồ Thanh Ngưu vừa cười vừa đáp:

– Ta thành danh là thấy chết không cứu, chẳng lẽ cháu quên rồi sao?

Ngộ Xuân lại hỏi:

– Còn vết thương của cháu thì sư bá bằng lòng cứu chữa phải không?

– Phải!

– Ðệ tử đã nhận lời với Trương Chân Nhân là thế nào cũng giúp chú bé này. Ðệ tử không muốn người của danh môn chính phái bảo đệ tử của Ma Giáo là những kẻ vô tín vô nghĩa. Vậy bây giờ đệ tử không cần chữa nữa, chỉ xin sư bá cứu chữa cho chú em này, coi như đã chữa cho đệ tử vậy

– Cháu bị kẻ thù dùng Triệt Tâm chưởng đánh trọng thương, trong bẩy ngày tới nếu có lương y hạng nhất chữa cho thì sẽ khỏi. Nhưng quá bẩy ngày nữa mới cứu chữa thì dù vết thương có lành, võ công của cháu cũng bị phế hết. Qua mười bốn ngày không có thầy lang mát tay chữa cho, vết thương sẽ làm cháu toi mạng.

– Ðó là công quả của sư bá không cứu. Nhưng đệ tử có chết cũng không oán hận chút nào!

Vô Kỵ nghe hai người nói liền xen vào nói:

– Tôi không cần ông chữa cho, không cần ông chữa!

Nói xong, y lại quay đầu nói với Ngộ Xuân:

– Thường đại ca tưởng Vô Kỵ này là một tiểu nhân vô loài hay sao? Ðại ca đem tính mạng của mình ra đổi lấy tính mạng của đệ, thì dù đệ có còn sống cũng vô vị mà! Sự trao đổi đó thật vô nghĩa, vô lý hết sức!

Ngộ Xuân là một người rất có hào khờ, không thèm cãi với Vô Kỵ, vội cởi thắt lưng của mình ra, trói ngay Vô Kỵ vào ghế.

Vô Kỵ nói:

– Nếu đại ca không cởi trói cho tiểu đệ, đệ sẽ chửi ngay cho đấy!

Ngộ Xuân không thèm trả lời, Vô Kỵ liền lớn tiếng chửi bới:

– Hồ Thanh Ngưu thấy chết không cứu, thật ra không phải là người, không bằng súc sinh. Trong Ma Giáo có những người như thế, muốn tiểu gia nhập giáo thì khi nào tiểu gia chịu. Có ngờ đâu con người lại khốn nạn đến thế. Mười tám đời ông tổ nhà mi không biết lầm lỡ điều gì mới sinh ra mi, như chó như lợn vậy …

Y càng chửi càng lắm điều, chửi đến cả Hồ Thanh Ngưu lẫn Ngộ Xuân tức giận quá đỗi mà hóa ra phì cười.

Trói xong Vô Kỵ, Ngộ Xuân liền nói:

– Xin chào Hồ sư bá, xin cáo biệt chú em họ Trương, bây giờ tôi đi kiếm thầy lang để chữa đây.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Trong tỉnh An Huy này không có một thầy lang nào mát tay cả. Nhưng cháu đi liền bẩy ngày chưa chắc đã ra khỏi tỉnh An Huy này.

Ngộ Xuân ha hả cười nói tiếp:

– Có một sư bá thấy chết không cứu, tất phải có một sư điệt đáng chết mà không chết.

Nói xong, chàng lớn bước đi ngay.

Vô Kỵ thấy vậy la lớn:

– Hồ Thanh Ngưu nếu ngươi không chịu chữa cho Thường đại ca sẽ có ngày ngươi bị ta giết …Ta … ta ….

Vì quá lo lắng cho Ngộ Xuân, Vô Kỵ chỉ hét được mấy tiếng đã chết ngất.

Hồ Thanh Ngưu thấy vậy “hừ” một tiếng rồi lẩm bẩm nói:

– Trong Hồ Ðiệp Cốc này đã có nhiều kẻ chết rồi, nay thêm một người chết cũng không sao.

Ðoạn y thuận tay cầm nửa đoạn nhung hươu lớn, nhắm yếu huyệt ở sau chân Ngộ Xuân ném tới.

Ngộ Xuân bị ném trúng yếu huyệt, ngã quị xuống đất, không sao bò dậy được.

Tính nết của Hồ Thanh Ngưu rất lạ, nếu y đã không định cứu chữa thì dù bệnh nhân có van lơn, hay uy hiếp thế nào cũng mặc cho người đó chết, còn y đã có ý định cứu thì dù bệnh nhân có thất lễ hay đánh đập y, y cũng cứu chữa cho khỏi mới nghe.

Lời nói sau cùng của Vô Kỵ đã in sâu vào lòng y.

Y lại thấy Vô Kỵ tuy còn nhỏ tuổi, nhưng rất anh hùng, huống hồ Vô Kỵ lại là con của đồ đệ cưng của Trương Tam Phong, tất sau này Vô Kỵ đủ tư cách để gây họa cho y.

Y là một người đa mưu túc kế, suy tính một hồi lâu mới quyết định:

– Cả hai ta cùng không chữa cho. Trong Hồ Ðiệp Cốc này sẽ có thêm hai oan hồn nữa cũng chẳng hề chi.

Y bèn cởi trói cho Vô Kỵ rồi nắm lấy hai tay và hai chân thằng nhỏ, định vứt nó ra ngoài, để mặc sống chết. Nhưng y cảm thấy mạch cổ tay Vô Kỵ đập rất lạ nên vô cùng kinh ngạc liền đặt nó xuống đất, thăm mạch thử.

Y thấy mạch của Vô Kỵ khác hẳn mọi người, ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ y nhỏ tuổi thế này mà đã đả thông hết cả kinh kỳ bát mạch? Ta khổ tu chục năm nay mà vẫn chưa đả thông được kinh kỳ bát mạch, vậy mà thằng bé mới hơn mười tuổi đã đả thông được ư? Ừ phải, có lẽ lão Trương Tam Phong cưng thằng nhỏ này quá, nên không tiếc tiêu hao công lực mà đả thông cho nó cũng nên.

Y liền khám lại các huyết mạch của Vô Kỵ một hồi, thấy kinh kỳ bát mạch quả thật thông thương, không hề bị cản trở chút nào.

Y lại cởi hết áo quần của Vô Kỵ khám kỹ lưỡng một lần nữa rồi cười nhạt lẩm bẩm nói

– Trương Tam Phong ngu thật! Thương thằng nhỏ quá mà lại hóa ra làm hại nó. Nếu kinh kỳ bát mạch của thằng nhỏ chưa đả thông thì còn hy vọng cứu chữa được, bây giờ âm độc đã chạy vào ngũ tạng, lục phủ rồi thì chỉ có thần thánh hạ trần mới cứu nổi thằng nhỏ này thoát chết được. Ha, ha! Trương Tam Phong của phái Võ Ðang võ công thần thông cái thế như thế nào chứ theo sự nhận xét của ta thì y quả thật ngu xuẩn vô cùng.

Một lát sau, Vô Kỵ từ từ thức tỉnh, thấy Hồ Thanh Ngưu đang ngồi trên ghế nhìn thẳng vào lò thuốc trước mặt, ngẩn người ra nghĩ ngợi.

Ngộ Xuân thì đang nằm ở ngoài bãi cỏ.

Cả ba đều có ý nghĩ khác nhau, không ai nói chuyện với ai cả.

Thì ra Hồ Thanh Ngưu là một thầy lang rất giỏi, bất cứ bệnh gì, nghi nan. quái đản y cũng đều chữa khỏi nên y mới được người ta ban cho biệt hiệu là Y Tiên.

Nhưng chất hàn độc của Huyền Minh Thần Chưởng hiếm có trên thế gian này.

Người bị đánh trúng mà kinh kỳ bát mạch lại được đả thông như Vô Kỵ, mười năm có một.

Phàm là người giỏi về cờ, gặp thế khó thì dù quên ăn, quên ngủ cũng cố tìm ra cách phá. Hồ Thanh Ngưu là người rất giỏi về y lý, tâm lý cũng như vậy.

Y thấy Vô Kỵ mắc một bệnh lạ lùng nên y không muốn đuổi Vô Kỵ đi liền nghĩ thầm:

– Trước hết ta hãy chữa cho y khỏi đã, rồi sẽ nghĩ cách giết y sau!

Nhưng muốn xua đuổi những hồi hàn độc trong lục phủ ngũ tạng của Vô Kỵ ra có phải là chuyện dễ đâu.

Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ hơn tiếng đồng hồ, lấy mười hai miếng đồng nhỏ ra, vận nội lực vào ấn vào mười hai thường mạch với bát mạch, không cho thông thương với nhau. Cái gì là mười hai thường mạch? Ðó là tim, phế, tỳ , can, thận (ngũ tạng) với tâm bao là sáu bộ phận thuộc âm.

Còn đại trường, tiểu trường, đởm, bàng quang, tam tiêu là thuộc dương duy âm kiểu, dương kiểu là bát mạch.

Bát mạch này không thuộc hệ chính kinh âm dương, không phân biệt biểu lý phối hợp hay đạo kỳ hành nên mới gọi là kinh kỳ bát mạch.

Sau khi thường mạch với kinh kỳ bát mạch bị ngăn cách, những âm độc nằm trong ngũ tạng, lục phủ không thể liên lạc với nhau mà làm nguy đến tính mạng Vô Kỵ nữa, Hồ Thanh Ngưu giải hết huyệt đạo bị bế tắc ở chân tay rồi đốt ngải cứu chích vào hai yếu huyệt Vân Môn, Trung Phủ và các huyệt nhỏ ở hai cánh tay và các ngón tay của Vô Kỵ.

Y chích như vậy có thể làm giảm bớt âm độc trong lục phủ ngũ tạng Vô Kỵ nhưng vì thế mà Vô Kỵ cảm thấy đau đớn hơn cả những lần trước rất nhiều.

Nhưng Hồ Thanh Ngưu để mặc Vô Kỵ chịu đau, vẫn cứ dùng ngải chích khắp người Vô Kỵ như trước, chích đến nỗi người thằng nhỏ xám đen.

Vô Kỵ không chịu tỏ ra hèn nhát, nên nghĩ thầm:

– Ngươi chích ta như vậy để cho ta kêu đau, rên rỉ chứ gì? Nhưng ta cứ không rên và kêu la, coi ngươi còn giở trò gì nữa?

Vô Kỵ vẫn tươi cười chuyện trò, luận bàn về các huyệt đạo và kinh mạch với Hồ Thanh Ngưu.

Tuy y không biết tí gì về y lý nhưng y đã theo Tạ Tốn học qua thuật điểm huyệt nên cũng biết rõ hết vị trí các huyệt đạo.

So với vị thần y này, nhận xét của Vô Kỵ tuy vẫn còn non kém, nhưng Hồ Thanh Ngưu thấy Vô Kỵ bàn luận rất hợp với y mình nên cũng lấy làm thích.

Vừa chích ngải cho Vô Kỵ vừa nói thao thao bất tuyệt.

Vô Kỵ nghe, thỉnh thoảng biện luận vài câu, ra điều ta đây vốn là môn đồ phái Võ Ðang nên việc gì cũng hiểu thấu.

Hồ Thanh Ngưu lại phải giảng giải tường tận từng ly từng tý cho Vô Kỵ rõ.

Tới khi y biết là Vô Kỵ không hiểu tý gì về y lý cả, chỉ cãi bướng thôi thì y đã tốn không biết bao hơi sức.

Nhưng ở chốn thâm sơn cùng cốc, ngoài một tên tiểu đồng sắc thuốc ra Hồ Thanh Ngưu không có một người bạn nào để trò chuyện, hôm nay được nghe Vô Kỵ nói bậy nói bạ, nên y cũng cảm thấy bớt cô độc và khoan khoái vô cùng.

Hồ Thanh Ngưu chích xong mấy trăm huyệt đạo của Vô Kỵ thì trời đã sẩm tối.

Tiểu đồng đã dọn cơm ra mời hai người và đem ra một mâm cơm rau dưa ra ngoài cửa, để trên bãi cỏ cho Ngộ Xuân vẫn đang ở ngoài trời.

Lúc bấy giờ chân tay Vô Kỵ đã cử động được như thường, y liền xin phép Hồ Thanh Ngưu ra ngủ cạnh Ngộ Xuân.

Hồ Thanh Ngưu bằng lòng ngay, thế là Vô Kỵ ra ngoài bãi cỏ ngủ với Ngộ Xuân để tỏ vẻ có phúc cùng hưởng, có nạn cùng gánh với chàng.

Hồ Thanh Ngưu giả bộ không thấy nhưng trong lòng cũng nghĩ thầm:

– Thằng nhỏ này quả thật khác thường!

Sáng sớm hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại tốn nửa ngày trời để chích nốt các yếu huyệt ở kinh kỳ bát mạch cho Vô Kỵ.

Sau đó y lại cố công nghĩ ra một toa thuốc, liền sai tiểu đồng hốt thuốc và sắc cho Vô Kỵ uống.

Nhờ vậy Vô Kỵ thấy khỏe hơn trước nhiều.

Chiều hôm đó Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Vô Kỵ nữa.

Vô Kỵ nhân lúc ấy dùng lời lẽ khích bác để Hồ Thanh Ngưu cứu chữa cho Ngộ Xuân, nhưng Hồ Thanh Ngưu vẫn giữ vẻ mặt lầm lì, không hề tỏ vẻ bị kích động chút nào, hì hì cười và nói:

– Người ta ban cho ta cái ngoại hiệu là Ðiệp Cốc y tiên, không đúng chút nào. Trái lại ai bảo ta là kẻ thấy chết không cứu ta thích chí vô cùng.

Lúc ấy đang chích tới yếu huyệt nơi hội hợp thiếu dương với đới mạch của Vô Kỵ, Vô Kỵ lớn tiếng hỏi:

– Nơi đới mạch này thật kỳ dị. Hồ tiên sinh có biết người nào không có đới mạch này không?

Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên đáp:

– Nói bậy nào! Ai lại không có đới mạch.

Vô Kỵ liền bịa đặt:

– Thiên hạ bao la, chuyện kỳ lạ gì cũng có, huống hồ đới mạch này, với cháu thấy nó không có ích lợi gi cả.

– Sao cậu lại bảo đó là mạch vô dụng? Ta đã chước tác được một cuốn đới mạch luận, cậu đọc qua sẽ hiểu ngay.

Nói xong, y đi vào trong buồng lấy ra một cuốn bản thảo mỏng, đưa cho Vô Kỵ xem. Vô Kỵ giở trang thứ nhất thấy có viết: “Thập nhị kinh với kỳ kinh thất mạch đều thượng hạ cân lưu, duy có đới mạch là khởi ở bốn cạch bụng nhỏ, đi vòng quanh hông một vòng, tựa như một cái thắt lổng vậy …”

Tiếp theo đó Hồ Thanh Ngưu vạch rõ những chổ sai lầm của các y lý từ cổ đến giờ.

Vô Kỵ vừa ghi nhớ cặn kẻ.

Xem xong một lữt y liền trao trả cho Hồ Thanh Ngưu và lắc đầu nói:

– Cuốn sách này cháu đã đọc rồi. Thái sư phụ cháu, năm ba mươi tuổi có chước tác một cuốn sồ học đới mạch nhập môn thiển thuyết, cũng y như cuốn này của tiên sinh vậy. Không biết , có phải tiên sinh chép của Thái sư phụ cháu hay Thái sư phụ cháu chép của tiên sinh?

Hồ Thanh Ngưu ngẩn người giây lát trổi tức giận nghĩ thầm:

– Năm nay ta mới năm mươi tuổi, mà ngươi bảo Trương Tam Phong năm ba mươi đã chước tác sách này rồi. Năm nay Trương Tam Phong đã ngoài trăm tuổi, như vậy cuốn sách đó y đã chước tác hơn bảy mươi năm về trước? Có khác nào ngươi bảo ta chép trộm của Trương Tam Phong không? Ðới mạch luận này của ta soạn rất công phu, câu chữ nào trong đó cũng đều do ta cố nghĩ ra, mà tiền nhân chưa hề nói tới bao giờ. Ngươi bảo cuốn sồ học đới mạch nhập môn thiển thuyết của Trương Tam Phong cũng y như cuốn đới mạch của ta vậy. Cuốn sách của y đã là sồ học mà còn là nhập môn thiển thuyết thì đủ thấy thằng nhỏ này ăn nói bậy bạ quá chừng!

Y tức giận vô cùng, cố ý châm mạnh mũi kim vào bốn cạnh huyệt đạo của Vô Kỵ để cho máu tươi rỉ ra.

Vô Kỵ đau quá, suýt kêu thét nhưng y phải cố nhởn và mỉm cười nói:

– Nếu tiên sinh cho cháu nói bậy và không tin thì cháu xin đọc lại cuốn sồ học đới mạch nhập môn của Thái sư phụ cho tiên sinh nghe.

– Ðược, nếu cậu đọc sai một chữ hoặc sót nửa câu thì ta giết cậu ngay!

Thì ra, vừa rồi lúc Vô Kỵ cầm cuốn sách đới mạch luận lên coi, y sực nhớ tới Trần Hữu Lững, đệ tử của phái Thiếu Lâm đối phó với Thái sư phụ của y trên núi Tung Sơn như thế nào, y liền quyết định bắt chước Hữu Lượng để chọc tức Hồ Thanh Ngưu chơi. Vì vậy y mới cố đọc kỹ từng chữ một, đọc tới đâu nhớ tới đó.

Cho nên Hồ Thanh Ngưu vừa nói xong y liền ung dung lớn tiếng đọc hết cuốn đới mạch luận, không sai một chữ, không sót một câu.

Hồ Thanh Ngưu ngẩn người ra một hồi nghĩ thầm:

– Thằng nhỏ này chỉ đọc có một lần mà đã nhớ hết cuốn sách đó, quả là một kỳ tài vô song!

Nhưng Hồ Thanh Ngưu có biết đâu, ở Thiếu Lâm Tự còn có Trần Hữu Lượng tài ba không hề kém Vô Kỵ.

Nghĩ đoạn, Hồ Thanh Ngưu luôn miệng khen ngợi:

– Thông minh thật! Thông minh thật!

Nghĩ ngợi giây lát Hồ Thanh Ngưu muốn thử tài Vô Kỵ một lần nữa liền nói:

– Ta còn có một cuốn Tý Ngọ Châm Cứu kinh không biết Trương Tam Phong có chép miệng được của ta không?

Nói xong, y vào trong buồng lấy ra một bộ sách, mười hai cuốn đưa cho Vô Kỵ xem. Vô Kỵ thấy chữ viết chằng chịt, các bộ vị huyệt đạo, các phân lượng của các vị thuốc, giờ giấc nên châm cứu đều rất khó nhớ, nhưng y sực nghĩ: “Mười hai cuốn kinh này, đọc từ đầu chí cuối phải tốn ba bốn ngày trời, làm sao mà nhớ hết được? Ta hãy xem coi trong này có cách gì để chữa cho Thường đại ca không?

Nghĩ đoạn, y giở hết các cuốn, tới cuốn thứ chín thấy có nói về cách chữa chưởng thương. Quả nhiên trong đó có bài nói về cách chữa vết thương do Triệt Tâm chưởng, liền cả mừng, liền đọc đi đọc lại hai ba lượt để nhớ kỹ rồi y lại nghĩ tiếp:

– Bây giờ ta phải nghĩ cách chữa cho Thường đại ca chứ không nên dùng lời lẽ chọc tức vị y tiên này làm gì?

Y đọc đến trang cuối cùng thấy có viết về Huyền Minh Thần Chưởng. Dưới tả rõ vết thương như thế nào, triệu chứng như thế nào nhưng đến cách chữa thì thấy đề chữ “không”.”Vô Kỵ gấp cuốn sách lại, để bộ kinh y đó lên bàn và nói:

– Võ công của Hồ tiên sinh không bằng Thái sư phụ cháu, nhưng y học của Thái sư phụ cháu thì không bằng tiên sinh. Bộ kinh Tý Ngọ Châm Cứu này rất đại tinh thâm, quả thật Thái sư phụ cháu không thể chước tác nổi. Nhưng nói tới môn chữa các chưởng thương thì những tài học của tiên sinh cũng không hơn được Thái sư phụ cháu đâu.

Y bèn đọc hết hơn trăm thứ chưởng thương cho Hồ Thanh Ngưu nghe rồi nói tiếp:

– Về môn Huyền Minh Thần Chưởng mà cháu bị người ta đả thương, Thái sư phụ cháu không có cách gì chữa khỏi, không ngờ ngay cả Hồ tiên sinh cũng phải thúc thủ!

Hồ Thanh Ngưu cười nhạt đáp:

– Cậu khỏi cần nói khích ta làm gì? Rồi cậu sẽ thấy ta có thúc thủ và có chữa khỏi được cho cậu hay không? Nhưng ta chỉ sợ ta chữa khỏi được độc chưởng cho cậu mà tính mạng của cậu cũng không còn được bao lâu mà thôi!

Tuy thông minh nhưng Vô Kỵ cũng không sao hiểu thấu được ý nghĩa lời nói của Hồ Thanh Ngưu.

Vì Hồ Thanh Ngưu định chữa bệnh cho Vô Kỵ để thỏa mãn ý thích riêng, nhưng sau đó, để theo đúng luật lệ của mình không chữa cho người ngoài giáo, sẽ giết chết thằng nhỏ ngay.

Lúc ấy Vô Kỵ nhất tâm nhất chí, chỉ mong sao chữa khỏi bệnh cho Thường Ngộ Xuân nên y liền đáp:

– Nếu tiên sinh bảo là tính mạng của tôi không được bao lâu, thì dù tôi có đọc bộ Tý Ngọ Châm Cứu vô tiền khoáng hậu này chắc cũng không hại gì cho tiên sinh phải không?

Hồ Thanh Ngưu nghĩ thầm:

– Dù sao mi cũng không sống mà ra khỏi Hồ Ðiệp Cốc của ta thì dù mi có nhớ hết những y thuật của ta cũng chỉ có thể đem xuống âm ty mà chữa bệnh cho Diêm Vương hay Phán Quan thôi!

Ðoạn y gật đầu:

– Tất cả những y thư của ta để ở trong thư phòng, cậu muốn xem quyển nào cứ việc tự tiện lấy mà xem.

Hồ Thanh Ngưu tính nết rất cổ quái nhưng học thuật uyên bác, kiến thức cao siêu, quả thật là một kỳ tài trong thiên hạ.

Nhưng y gia nhập Minh Giáo nên rất ghét quan lại, phú thương và các đại phu.

Các cao thủ võ lâm của các danh môn chính phái cũng bị ghét thậm tệ.

Tính nết của y càng ngày càng quái dị.

Y là người có tuyệt học như vậy nhưng không ai nghiên cứu cùng với y, và y cũng không có một môn đồ nào cả.

Do đó y thường cảm thấy lẻ loi và buồn bã.

Nay y bỗng dưng có Vô Kỵ ở bên, tuy là một đứa bé, không biết tờ gì về y lý nhưng Vô Kỵ thông minh hơn người, lại tỏ ra khâm phục tài học của y nên y cũng lấy làm vui mừng thầm.

Ðược Hồ Thanh Ngưu cho phép đọc những sách thuốc ở trong thư phòng, Vô Kỵ ngày đóm chăm chú nghiền ngẫm đống sách quí báu đó, nhiều khi quên cả ăn lẫn ngủ, mỏi mệt vô cùng.

Y quyết tâm tìm cho ra phương pháp chữa khỏi vết thương cho Ngộ Xuân.

Còn Hồ Thanh Ngưu tưởng lầm là Vô Kỵ xem không hiểu sách thuốc của mình mà cứ giả bộ ngày đêm chăm chú học hỏi và làm như đã hiểu hết những điểm khó khăn bón trong, không thèm hỏi han gì đến mình cả nên y cũng để mặc cho Vô Kỵ đọc xuông, đọc hão.

Vả lại y thấy Vô Kỵ ham mê đọc những chước tác của y như vậy cũng lấy làm khoái chí lắm, nên y mới để yên cho Vô Kỵ tự do.

Mấy ngày hôm sau Vô Kỵ đếm đốt ngón tay thì thấy mình đến Hồ Ðiệp Cốc được sáu ngày rồi, y chợt nhớ lại lời nói của Hồ Thanh Ngưu khi y vừa mới tới: “quá bẩy ngày nữa mới cứu chữa thì dù vết thương có lành, võ công của cháu cũng bị phế hết. Qua mười bốn ngày không có thầy lang mát tay chữa cho, vết thương sẽ làm cháu toi mạng.”

Mấy ngày qua tuy Vô Kỵ đã kiếm ra đơn thuốc để chữa cho Ngộ Xuân nhưng y vẫn chưa dám ra tay, vỗ sợ nhỡ chữa lầm thì nguy hại cho Ngộ Xuân suốt đời.

Ðêm hôm đó, trời mưa rất lớn, Hồ Thanh Ngưu vẫn làm thinh không để cho Ngộ Xuân vào trong nhà ngủ nhờ.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Bây giờ ta đành phải đánh liều chữa cho Thường đại ca vậy!

Thế rồi y lén mởi tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu lấy tám mũi kim châm cứu đi tới cạnh Ngộ Xuân nói:

– Thường đại ca, mấy ngày nay tiểu đệ đã kiệt tâm, tận lực nghiền ngẫm những y thư của Hồ tiên sinh. Tuy tiểu đệ không thông hiểu cho lắm nhưng ngày giờ cấp bách, không thể nào trì hoãn được nữa, bây giờ tiểu đệ đành phải mạo hiểm châm cứu cho đại ca. Nếu không may đại ca có mệnh hệ nào thì tiểu đệ cũng xin chết theo.

Ngộ Xuân ha hả cười đáp:

– Sao chú em lại nói vậy!? Chú cứ việc chữa cho ngu huynh này đi. May trời run rủi, chú chữa khỏi được cho ngu huynh thì ngu huynh sẽ bêu xấu Hồ sư bá một phen cho mà coi! Bằng không may chú có châm nhầm huyệt đạo, ngu huynh có chết cũng cảm thấy sung sửng hơn là nằm ở ngoài trời, trên đất bùn lầy lội như thế này.

Vô Kỵ hai tay run lẩy bẩy, cầm kim nhắm huyệt đạo của Ngộ Xuân từ từ đỏm xuống. Người ta châm cứu thì không có máu rỉ ra, nhưng Vô Kỵ vỗ chưa quen nên có một vài chổ y châm trữt ra ngoài một chút vỗ thế có máu rỉ. Nhất là khi châm yếu huyệt dưới bụng, là nơi hiểm yếu của thân người, Vô Kỵ thấy máu rỉ nhiều quá, sợ hãi vô cùng, cuống cả chân tay. Bỗng nghe phía sau có tiếng người cười rất lớn, vội quay đầu lại nhỗn y mới hay đó là Hồ Thanh Ngưu.

Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu ra vẻ tự đắc nên xấu hổ vô cùng, nhưng cũng đánh liều hỏi:

– Thưa tiên sinh, nơi Quan Nguyên huyệt này của Thường đại ca sao cứ rỉ máu ra như vậy? Có cách gì cứu chữa không?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Tất nhiên phải có cách, nhưng việc gì ta phải nói cho cậu biết?

Vô Kỵ nghe Hồ Thanh Ngưu nói như vậy liền hiên ngang nó:

– Bây giờ xin một mạng đổi lấy một mạng. Tiên sinh làm ơn cứu mạng Thường đại ca hộ, cháu xin chịu chết ngay tức thì, như vậy tiên sinh có bằng lòng không?

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Ta đã nói không chữa là không chữa, cậu có chết cũng không ích lợi gì cho ta cả. Dù mười Vô Kỵ chết ngay tại đây ta cũng không chữa cho Ngộ Xuân đâu!

Vô Kỵ biết nói nhiều cũng vô ích liền nghĩ thầm:

– Chắc vì kim mềm quá nên ta mới châm trật như vậy, bây giờ biết đi đâu mà tìm kiếm kim khác?

Ðoạn y bèn bẻ ngay một cành trúc, lấy dao vót mấy cái châm thật nhọn. Nhờ có những châm trúc vừa cứng vừa dai nên Vô Kỵ châm luôn bốn yếu huyệt mà không trượt cái nào, cũng không thấy máu rỉ ra.

Một lát sau, Ngộ Xuân nôn ra mấy đống máu đen.

Vô Kỵ không biết mình châm như vậy có chữa khỏi được vết thương của Ngộ Xuân hay lại làm cho Ngộ Xuân bị nặng thêm vội quay lại nhỗn Thanh Ngưu.

Thấy mặt y tiên có vẻ chế nhạo nhưng hai mắt đã hiện ra đôi chút khen ngợi, Vô Kỵ mới yên tâm phần nào.

Y liền chạy vào trong nhà, giở những sách thuốc của Hồ Thanh Ngưu ra xem một hồi, rồi thảo một đồn thuốc, đưa cho tên tiểu đồng, nhờ gã theo đó mà sắc hộ.

Ðạo đồng đó cầm toa thuốc đưa cho Hồ Thanh Ngưu xem và hỏi có nên bốc và sắc không.

Hồ Thanh Ngưu chỉ “hừ” một tiếng và đáp:

– Buồn cười thật! Thôi được mi cứ bốc và sắc cho y.

Nhưng Ngộ Xuân uống xong thang thuốc này mà không chết thì số của y lớn thật!

Vô Kỵ nghe Hồ Thanh Ngưu nói vội giằng lấy toa thuốc, hấp tấp giảm bớt cân lượng mỗi vị rồi giao lại cho tiểu đồng đi sắc.

Chờ thuốc sắc xong, y liền mang tới trước mặt Ngộ Xuân nghẹn ngào nói:

– Thường đại ca hãy uống thuốc đi! Có khỏi hay không, đệ không dám cam đoan trước …

Ngộ Xuân vừa cười vừa nói đáp:

– Hay lắm! Hay lắm! Chú cứ yên trí đi, dù có là lang mù chữa cho ngựa chột cũng không sao mà!

Nói xong, chàng ta nhắm mắt bưng bát thuốc lón uống cạn.

Ðêm hôm đó, Ngộ Xuân bị đau bụng như có dao cắt và mửa ra máu liên tục.

Trời mưa tầm tã, sấm sét liên hồi, nhưng Vô Kỵ vẫn ở bên cạnh chàng hầu hạ, phục dịch cho tới sáng hôm sau.

Ngộ Xuân đã bớt đau bụng và khi mửa ra máu cũng không đau đớn như trước nữa và đã thấy nôn ra máu đỏ tươi rồi.

Ngộ Xuân cả mừng nói:

– Chú em! Thuốc của chú không giết ngu huynh mà bây giờ ngu huynh cảm thấy vết thương bớt đau hơn trước nhiều.

Vô Kỵ cả mừng vội hỏi:

– Ðại ca thấy tiểu đệ là thầy lang được đấy chứ?

Ngộ Xuân lại nói tiếp:

– Cha của ngu huynh đã đoán trước là ngu huynh thế nào cũng hay gặp tai nạn nhưng luôn gặp may mà được cứu thoát nên mới đặt tên cho ngu huynh là Ngộ Xuân , theo sự giải thích của cha ngu huynh thì ngu huynh luôn được những lang y mát tay cứu chữa khỏi chết và được hồi xuỏn. Hình như thang thuốc của chú em cân lượng hơi nặng một chút thì phải. Vì khi uống vào, bụng ngu huynh cảm thấy như có mấy chục con dao đâm chém loạn xạ ở trong dạ dầy.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Tiểu đệ giảm bớt cân lượng mà đại ca còn bảo là quá nặng ư?

Sự thật, cân lượng toa thuốc của Vô Kỵ không những nặng gấp bội mà y lại không biết thêm những vị khác để diều hòa làm thuốc dẫn.

Nếu Thường Ngộ Xuân không khỏe mạnh hơn người thường, có lẽ uống xong thang thuốc đó chàng đã ra ma rồi.

Hồ Thanh Ngưu rửa mặt xong từ từ bước ra thấy sắc mặt của Ngộ Xuân hồng hào nên kinh ngạc vô cùng nghĩ thầm:

– Một tên thông minh táo gan, một tên khỏe mạnh như trâu nên vết thương Triệt Tâm chưởng mới chữa khỏi được!

Ngày hôm đó, Vô Kỵ lại viết một toa thuốc cho Ngộ Xuân uống.

Uống luôn sáu bẩy ngày Ngộ Xuân đã lành mạnh như thường, chàng bèn nói với Vô Kỵ:

– Này chú em, vết thương trên người ngu huynh đã lành hẳn rồi, từ nay trở đi chú khỏi phải ra ngoài này ngủ đất với ngu huynh nữa.

Chúng ta chia tay nhau từ đây.

Trong hơn một tháng trời, Vô Kỵ và Ngộ Xuân đã cùng chung hoạn nạn với nhau, kết thành bạn tâm giao, nay chia tay, cả hai cùng quyến luyến không nỡ rời nhau.

Sau cùng Ngộ Xuân đành gạt lệ nói:

– Chú em đừng đau lòng, ba tháng sau ngu huynh sẽ tới đây gặp mặt chú. Nếu lúc ấy hơi hàn độc trong người của chú đã tan hết thì ngu huynh sẽ đưa chú trở về núi Võ Ðang để gặp Thái sư phụ liền.

Nói xong, chàng vào trong nhà bái biệt Hồ Thanh Ngưu và nói:

– Vết thương của đệ tử được lành mạnh là do chú em họ Trương ra tay chữa, nhưng cũng phải nhờ sách thuốc của sư bá!

Hồ Thanh Ngưu gật đầu đáp:

– Vết thương của cháu quả thật đã lành mạnh rồi, nhưng chỉ phải cái là cháu sẽ tổn thọ ba mươi năm.

Ngộ Xuân không hiểu vội hỏi:

– Sư bá nói thế là nghĩa làm sao?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Theo sức khỏe của cháu mà nói thì cháu có thể sống được đến năm tám mươi tuổi. Nhưng vì thằng nhỏ dùng thuốc sai lầm, châm cứu sai chổ, từ nay trở đi, hễ những ngày mưa bão là cháu sẽ thấy mình mẩy đau đớn khôn tả. Do đó cháu chỉ sống được đến năm mươi tuổi là cùng.

Ngộ Xuân lớn tiếng cả cười một hồi rồi khảng khái nói:

– Ðại trượng phu sống ở đời, mục đích là giúp người và đền ơn nước, nếu có thể kiến công lập nghiệp thì sống đến bốn mươi tuổi cũng là đủ lắm rồi, hà tất phải sống tới năm mươi, tám mươi làm gì? Nếu sống một cuộc đời tầm thường thì dù sống lâu trăm tuổi cũng chỉ ăn hại cơm gạo của thiên hạ mà thôi.

Hồ Thanh Ngưu nghe nói gật đầu, cho là Ngộ Xuân có lý nhưng y không nói thêm lời nào nữa.

Vô Kỵ tiễn Ngộ Xuân ra tới đầu đường vào Hồ Ðiệp Cốc rồi gạt lệ chia tay.

Ngộ Xuân đi rồi, Vô Kỵ đứng yên lặng một hồi nghĩ thầm:

– Ta chữa bậy, chữa bạ, làm lụy đến Thường đại ca mất tới ba mươi năm thọ. Vậy ta phải cố hết sức học cho thành nghề y để sau này chữa lại cho Thường đại ca được như bình thường.

Từ đó trở đi, hàng ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu, bốc thuốc cho Vô Kỵ để tiêu hết âm độc trong người thằng bé, còn Vô Kỵ thì suốt ngày chỉ đọc hết các sách thuốc, nhớ hết các vị thuốc, gặp vấn đề nào khó, không hiểu thì hỏi Hồ Thanh Ngưu ngay.

Hồ Thanh Ngưu cũng vui lòng cho Vô Kỵ biết.

Thoạt tiên Hồ Thanh Ngưu định chữa khỏi bệnh cho Vô Kỵ xong là hạ độc thủ giết hại thằng nhỏ liền, nhưng lúc này y cảm thấy nếu Vô Kỵ chết đi thì Hồ Ðiệp Cốc sẽ thiếu một người bạn tốt để chuyện trò với mình.

Vì vậy y không muốn Vô Kỵ chóng lành mà chỉ từ từ chữa cho thằng nhỏ thôi.

Mấy tháng sau, một hôm bỗng Hồ Thanh Ngưu phát giác, Quan Xung huyệt ở cạnh ngón vô danh, Thanh Lãnh Uyên ở khụu tay là Ly trúc ở đằng sau lông mày Vô Kỵ lúc châm cứu không thấy có phản ứng gì cả.

Y nghĩ mãi mà không tìm được cách gì để dồn những âm độc ở mấy yếu huyệt đó ra khỏi người Vô Kỵ nữa.

Sau đó luôn mười ngày, trên đầu đã xuất hiện thêm cả mấy trăm sợi tóc bạc mà y vẫn chưa nghĩ ra cách gì, nên y thở dài nói với Vô Kỵ:

– Thái sư phụ của cậu tuy có võ công cao, nhưng không biết tý gì về y lý cả. Ông ta cưng cậu quá mà hóa ra hại cậu. Sau khi cậu bị thương, ông ta lại giúp cậu đả thông kinh kỳ bát mạch, thật là ông ta đưa cậu tới chổ chết rồi!

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Không phải Thái sư phụ cháu đả thông kinh kỳ bát mạch cho cháu đâu!

Vô Kỵ ăn ở với Hồ Thanh Ngưu vài tháng, thấy tính nết của vị y tiên đó rất quái dị, nhưng y không phải là kẻ tiểu nhân, gian hiểm độc ác nên Vô Kỵ tin cậy mới đem thân thế của mình và vụ lên chùa Thiếu Lâm học Cửu Dương Thần Công như thế nào kể hết lại cho Hồ Thanh Ngưu nghe.

Hồ Thanh Ngưu ngẫm nghĩ giây lát rồi đột nhiên vỗ vào đùi đánh “đét” một cái rồi nói:

– Như vậy, chính lão tăng của phái Thiếu Lâm cố ý hại cậu đấy!

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội hỏi:

– Xưa nay cháu có quen biết đại sư ấy đâu? Tại sao đại sư ấy vô cớ lại hại cháu?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Việc này thì lạ thực. Cậu kể lại đầu đuôi câu chuyện ra sao một lần nữa cho tôi nghe xem!

Vô Kỵ nghĩ ngợi giây lát, rồi kể rất cặn kẽ câu chuyện cho Hồ Thanh Ngưu nghe, ngay cả những lời nói của mấy lão hòa thượng y cũng không bỏ sót.

Hồ Thanh Ngưu khoanh tay về phía sau, đi đi lại lại trong phòng mấy vòng, đột nhiên lớn tiếng nói:

– Nhất định là lão hòa thượng của phái Thiếu Lâm cố tình hãm hại cậu rồi. Thái sư phụ cậu là người không hiểu y lý và lại là người rất thành thật nên mới không nghĩ tới điều đó. Thiếu Lâm tăng Viên Chân là người rất giỏi về Cửu Dương Thần Công lại giúp cậu đả thông kinh kỳ bát mạch , tất nhiên nội công của y rất cao thâm, thì trong khi nắm tay cậu, tất nhiên y phải biết trong người cậu đang có chất âm độc làm lâm nguy. Vậy mà y vẫn đả thông kinh kỳ bát mạch cho cậu, như vậy y chẳng chủ tâm định hãm hại cậu là gì?

Vô Kỵ lại nói:

– Nhưng lúc y thọc tay qua vách tường, y đã có y định giúp cháu đả thông kinh kỳ bát mạch rồi. Lúc ấy y chưa nắm tay cháu thì làm sao biết cháu bị Huyền Minh Thần Chưởng đánh trúng?

Hồ Thanh Ngưu lắc đầu đáp:

– Tại sao Viên Chân định tâm hại cậu? Cậu bảo cậu với y không quen biết nhau bao giờ thì không lý gì định tâm hại câu ư? Nhưng cậu đã học được Cửu Dương Thần Công của phái Thiếu Lâm mà y không muốn cho môn thần công đó được truyền ra ngoài nên y mới có dã tâm ám hại cậu như thế.

– Theo ý cháu, phái Thiếu Lâm thế nào cũng có vài người hẹp lượng và độc ác, nhưng không khi nào họ lại hành sự đê hèn như thế. Dù sao Thiếu Lâm cũng là một danh môn chính phái.

– Danh môn chính phái thì sao? Cha mẹ cháu chẳng bị những người danh môn chính phái bức tử là gì? Họ tưởng họ là danh môn chính phái thì đối phó với những người mà họ coi là tà mà ngoại đạo, thì họ tha hồ hạ độc thủ, không nể nang chút nào được sao? Nhưng sự thật, người của chính phái chưa chắc hoàn toàn tốt, và người của Ma Giáo chưa chắc xấu hoàn toàn!

Mấy lời nói của Hồ Thanh Ngưu làm xúc động Vô Kỵ.

Nó nghĩ đến cha mẹ nó tự sát trên núi Võ Ðang mà những người có mặt đều thuộc danh môn chính phái cả, nhưng thấy cha mẹ nó tự tử lại không thèm ra tay ngăn cản. Ngay cả các sư bá, sư thúc của nó cũng chỉ đứng trơ mắt ra nhìn. Tuy người nào người nấy cũng tỏ vẻ rầu rĩ, nhưng trong lòng họ thế nào cũng cho rằng cái chết của hai vợ chồng Trương Thúy Sơn là xứng đáng lắm.

Lúc ấy Vô Kỵ đã có những tình cảm bất mãn, nhưng y không dám lộ ra cho Thái sư phụ và các sư bá, sư thúc rõ.

Lúc này Hồ Thanh Ngưu bỗng nhiên nhắc lại tâm sự Vô Kỵ ấp ủ bấy lâu nên y xúc động lớn tiếng khóc òa lên.

Hồ Thanh Ngưu đứng cạnh lạnh lùng nói:

– Thế sự là như thế đấy! Cậu gặp một việc đã lên tiếng khóc rồi, nếu cậu không chết thì sau này tha hồ mà khóc!

Vô Kỵ liền nờn thinh, vội lấy tay áo lau nước mắt cho thật khô.

Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:

– Từ đầu chờ cuối, cậu có được thấy mặt của Viên Chân không, mà cậu quyết đoán y là một người không xấu? Y không chịu để cho cậu thấy mặt, tất nhiên bên trong là có sự ám muội. Cậu bảo vô duyên vô cớ không khi nào y hạ độc thủ hại cậu. Ngay như tôi đây, cậu có biết tôi định giết cậu không hả? Vì bệnh của cậu quá kỳ lạ nên tôi mới chịu tận tâm chữa cho cậu, nhưng mà tôi cũng đã quyết định hễ chữa khỏi cho cậu là tôi sẽ giết cậu ngay.

Vô Kỵ nghe nói rùng mình kinh hãi, y cũng biết Hồ Thanh Ngưu là người như thế nào rồi, đã nói ra là phải làm cho bằng được nên y thở dài một tiếng và nói:

– Theo sự nhận xét của cháu thì chất âm độc trong người cháu không có cách gì xua đuổi hết được đâu, vậy tiên sinh không ra tay giết, cháu cũng sẽ chết, hình như người đời chỉ mong người khác chết mới sung sướng. Chúng tôi học võ luyện công há chẳng phải vì muốn giết người hay sao?

Hồi thứ 30

Tinh Cứu Y Lý

Hồ Thanh Ngưu đưa mắt nhìn lên trời, nghĩ ngợi giây lát rồi u oán nói:

– Hồi thiếu thời mỗ định tâm học y lý là để cứu nhân độ thế, nhưng mỗ cảm thấy càng cứu người bao nhiêu càng thấy trái với ý thiện của mình bấy nhiêu. Những người mà mộ cứu sống khi lành mạnh, lại quay trở về định giết hại mỗ. Có một thanh niên bị chém mười bẩy nhát đao, vết thương trầm trông sắp chết đến nơi, mỗ đã ba ngày ba đêm không ngủ, hao tổn biết bao tâm huyết cứu chữa cho y thoát chết. Sau đó mỗ lại kết nghĩa kim bằng với y, đối đãi thương mến nhau như hai anh em ruột. Ngờ đâu y lại ra tay giết hại em gái mỗ! Cậu có biết người đó là ai không? Người đó là một nhân vật thủ lĩnh của một danh môn chính phái đấy, và cũng là một anh hùng tiếng tăm lừng lẫy ngày nay.

Vô Kỵ thấy những thớ thịt trên mặt của Hồ Thanh Ngưu rung động luôn, thần sắc của y rất đau khổ, liền tỏ vẻ thương xót và nghĩ thầm:

– Không ngờ đời y lại trải qua những thảm cảnh như thế nên y mới khư khư ý định thấy chết không cứu!

Ðoạn Vô Kỵ liền hỏi:

– Tên vong ân bội nghĩa , lòng lang dạ sói ấy là ai? Sao tiên sinh không đi kiếm y mà trả thù?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Khi em gái tôi hấp hối, nó đã bắt tôi thề nặng là không được đi kiếm tên đó để trả thù, nếu tên đó gặp phải nguy hiểm tôi còn phải kiệt lực giúp y nữa. Ðáng lẽ tôi không nhận lời thề như thế nhưng em tôi thấy tôi làm thinh, cứ mở mắt trân tráo. Tôi thương em gái tôi, nó …nó … tốt bụng quá! Anh em chúng tôi mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ, khi nó sắp chết, chỉ yêu cầu tôi như vậy, tôi không nhận lời sao đành.

Y nói tới đó, nước mắt nhỏ ròng xuống hai má, Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Sự thật, Hồ tiên sinh không phải là người vô tình đâu! Chắc kẻ bất nghĩa kia là chồng hay người yêu của em gái y.

Hồ Thanh Ngưu đột nhiên quát lớn:

– Câu chuyện ngày hôm nay mà tôi thuật cho cậu nghe, từ giờ trở đi cấm cậu nhắc đến. Nếu cậu tiết lộ cho ai biết thì tôi sẽ có cách khiến cậu sống dở, chết dở.

Vô Kỵ định cãi lại vài câu, nhưng thấy Hồ Thanh Ngưu xúc động tột độ liền lặng thinh một hồi rồi dịu giọng nói:

– Vâng, cháu sẽ giữ gìn, không nói cho ai biết cả.

Hồ Thanh Ngưu xoa đầu Vô Kỵ một hồi, thở dài một tiếng rồi nói:

– Tội nghiệp! Tội nghiệp!

Ðoạn y liền quay mình vào trong.

Sau một ngày chuyện trò, tâm sự với Vô Kỵ, Hồ Thanh Ngưu nhận thấy âm độc trong người thằng nhỏ đã tản mác vào tam chiêu rồi, khó bề xua đuổi hết được, dù lão có giở hết tài ba y thuật ra cũng vô hiệu, nhiều lắm là giúp được thằng nhỏ sống thêm vài năm nữa thôi. Ðồng thời lão cũng thấy Vô Kỵ thông minh và khôn ngoan vô cùng biết chiều theo ý lão nên thái độ của lão đối xử với Vô Kỵ đã bắt đầu thay đổi.

Từ hôm đó trở đi, hễ nhàn rỗi đôi chút là Hồ Thanh Ngưu đem hết tài nghệ y lý và châm cứu ra chỉ dậy Vô Kỵ.

Vô Kỵ cũng chịu khó học tập nên lĩnh hội nhanh chóng hơn người.

Hồ Thanh Ngưu rất vui, không hề giấu giếm chút gì.

Khi thấy Vô Kỵ tiến bộ rất nhanh, Hồ Thanh Ngưu thở dài nói:

– Với tài trí thông minh của cậu, lại được gặp một danh sư thật lòng dậy bảo, chưa đến năm hai mươi tuổi cậu đã trở nên một danh y tài ba không kém gì Hoa Ðà và Biển Thước. Nhưng …hà, hà! Ðáng tiếc thật!

Thâm ý của Hồ Thanh Ngưu là bảo Vô Kỵ dù có học giỏi y thuật đến đâu mà số mệnh ngắn ngủi như vậy, thì sự khổ học ấy cũng vô dụng thôi.

Còn Vô Kỵ sở dộ chịu khó học y lý là mong sau này sẽ chữa cho Ngộ Xuân được trở lại như thường.

Ngày giờ thấm thoắt thoi đưa, thoáng cái đã được hai năm.

Vô Kỵ thêm hai tuổi, vừa tròn mười bốn tuổi.

Trong hai năm đó Ngộ Xuân có tới thăm y hai lần, có cho Vô Kỵ hay là Trương Tam Phong đã biết bệnh của Vô Kỵ chưa khỏi hẳn nên bảo Vô Kỵ cứ yên tâm ở lại Hồ Ðiệp Cốc để cho Hồ tiên sinh chữa cho. Bao giờ lành mạnh hẳn hãy trở về núi Võ Ðang.

Vô Kỵ lại hỏi về tin tức ở bên ngoài, Ngộ Xuân liền nói:

– Hai năm gần đây, người Mông áp bức người Hán ngày càng tàn bạo hơn trước. Ðời sống của dân chúng rất là cơ cực nên đâu đâu cũng có giặc giã nổi lên. Có lẽ thiên hạ sắp đại loạn đến nơi. Ðồng thời, các danh môn chính phái trên giang hồ đấu tranh với các tà giáo ngày một quyết liệt hơn trước, hai bên đều có rất nhiều người chết. Mối oán thù ngày càng kết, càng khó gỡ.

Mỗi lần Ngộ Xuân tới Hồ Ðiệp Cốc đều ở lại mấy ngày chơi với Vô Kỵ.

Lần cuối cùng chàng tới thì thấy y thuật của Vô Kỵ đã tiến bộ rất nhiều.

Vô Kỵ cẩn thận chuẩn mạch cho chàng rồi viết một toa thuốc, bảo chàng cứ theo đó mà uống thì thế nào cũng được tráng kiện như xưa.

Ngộ Xuân vừa cám ơn vừa bỏ toa thuốc vào trong túi.

Lần này Ngộ Xuân vào gặp Hồ Thanh Ngưu, hai người ở trong nội thất, đóng cửa lại chuyện trò thật lâu, mãi tới khuya mà vẫn chưa chịu tắt đèn đi ngủ.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Xưa nay Thường đại ca bất hòa với Hồ sư bá, tại sao lần này hai người lại nói chuyện với nhau lâu như thế? Có lẽ trong Ma Giáo đã xảy ra chuyện gì rất quan trông chăng? Ta không phải là người trong Ma Giáo nên không tiện hỏi lại Thường đại ca …

Sáng hôm sau, Ngộ Xuân từ biệt ra đi ngay.

Vô Kỵ tiễn chàng tới cửa Hồ Ðiệp Cốc. Trước khi chia tay, Ngộ Xuân nói:

– Chú em, mấy ngày nữa sẽ có một kẻ thù rất lợi hại, tới đây tìm Hồ sư bá. Ðáng lẽ ngu huynh đem chú ra bên ngoài tạm tránh vài ngày, nhưng Hồ sư bá có nói:

– Tuy kẻ thù lợi hại nhưng không làm gì nổi ta đâu, không việc gì phải sợ .

Tuy vậy, chú cũng nên cẩn thận tốt hơn!

Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, Vô Kỵ bèn hỏi lại:

– Kẻ thù của Hồ sư bá là hạng người thế nào?

– Ngu huynh cũng không rõ. Khi ngu huynh tới đây, dọc đường được hay tin đó vội đến đây báo cho sư bá rõ. Hồ sư bá là một người đao mưu túc trờ, ông ta bảo không hề gì thì việc này cũng không ngại lắm đâu. Tuy vậy huynh vẫn không yên tâm.

Vô Kỵ thấy Ngộ Xuân lo lắng cho mình như vậy, trong lòng cảm động vô cùng, Hai người trò chuyện một hồi lâu nữa rồi mới chịu chia tay.

Vô Kỵ trở về, thấy Thanh Ngưu vẫn bình tĩnh như thường, hình như Hồ y tiên không chuẩn bị chút nào để đối phó với kẻ địch cả.

Vô Kỵ không sao bình tĩnh được, mấy lần định hỏi nhưng y vừa lên tiếng là Thanh Ngưu ngăn cản ngay.

Y biết Thanh Ngưu không muốn y nhắc nhở đến chuyện ấy, nên cũng không dám hỏi tới nữa.

Sáu bẩy ngày sau, không những không có kẻ địch tìm đến Hồ Ðiệp Cốc gây sự mà cả những người thôn quê ở gần đấy cũng không ai đến nhờ Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cả. Ðêm hôm ấy, Vô Kỵ đang đọc một cuốn y thư, bỗng cảm thấy nặng đầu, chân tay mỏi mệt, liền lên giường nằm ngủ.

Sáng hôm sau, y thức dậy thấy nhức đầu vô cùng, đang định tìm kiếm thuốc giải cảm để uống nhưng ra đến ngoài khách sảnh thì thấy mặt trời đã xế bóng về phía tây, mới hay đã xế chiều.

Y kinh ngạc vô cùng nghĩ thầm:

– Sao giấc ngủ của ta lại dài thế? Chẳng lẽ ta bị bệnh chăng?

Ðoạn y bèn tự xem mạch, thấy vẫn khỏe mạnh như thường nên càng kinh hãi nghĩ tiếp:

– Hay là âm độc trong thân thể ta lại tái phát trở lại và ta đã tới ngày sắp chết chăng? Nghĩ tới đó, Vô Kỵ định đi tìm kiếm Hồ Thanh Ngưu để hỏi lại, nhưng tìm mãi vẫn không thấy lão đâu cả.

Mấy ngày gần đây, Vô Kỵ chỉ lo ngay ngáy suốt ngày, bây giờ bỗng không thấy hình bóng Hồ Thanh Ngưu đâu cả nên càng lo sợ.

Y đi ra ngoài vườn hoa, thấy một tên tiểu đồng đang khom lưng nhỏ cỏ, liền lên tiếng hỏi:

– Tiên sinh đâu?

Tiểu đồng đáp:

– Hồ tiên sinh không có ở trong phòng sao? Vừa rồi cháu đem nước vào cho tiên sinh, tiên sinh còn dậy cháu đừng có vào quấy nhiễu tiên sinh nữa.

Vô Kỵ ngẩn người giây lát rồi phì cười lẩm bẩm nói :

– Ta thật ngu quá! Sao lại không vào trong tìm kiếm ông ta mà lại đi khắp nơi làm gì?

Vô Kỵ đi tới trước cửa phòng của Hồ Thanh Ngưu, thấy hai cánh cửa đóng kín, liền nghĩ tới lời nói của tên tiểu đồng vừa rồi.

Y không dám lên tiếng gọi mà chỉ khẽ dặng hắng một tiếng.

Y liền nghe Hồ Thanh Ngưu ở trong phòng lên tiếng nói:

– Vô Kỵ, hôm nay tôi thấy khó chịu, cổ họng thấy đau. Cậu cứ việc một mình đọc sách như thường đi!

Vô Kỵ vâng lời ngay, nhưng y sợ bệnh của Hồ Thanh Ngưu có gì nặng chăng nên lại hỏi:

– Tiên sinh để cháu khám cổ họng xem nhé!

Hồ Thanh Ngưu trầm giọng nói:

– Khỏi cần! Tôi đã soi gương rồi và thấy không sao cả. Tôi cũng đã uống một liều Ngưu Hoàn Tây Giác Tán rồi.

Tối hôm đó, tiểu đồng mang cơm vào cho Hồ Thanh Ngưu.

Vô Kỵ cũng theo vào thì thấy sắc mặt của Hồ Thanh Ngưu rất tiều tụy.

Thấy lão đang nằm trên giường Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ đêm hôm qua, lúc ta ngủ say, kẻ địch đã tới quấy nhiễu chăng? Hồ tiên sinh đã đuổi được kẻ địch nhưng ông ta cũng bị thương chăng?

Vô Kỵ chưa kịp hỏi thăm thì Hồ Thanh Ngưu đã xua tay và nói:

– Cậu đi ra ngoài ngay! Cậu có biết tôi bị bệnh gì không? Bệnh đậu mùa đấy!

Vô Kỵ thấy tay và mặt của Hồ Thanh Ngưu quả có đầy những chấm đỏ.

Y nghĩ thầm:

– Bệnh đậu mùa này nguy hiểm lắm, nếu chữa không khéo thì rất dễ bị toi mạng, bằng không cũng bị rỗ mặt .

Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu bị bệnh thật chứ không phải bị kẻ địch đả thương mới yên dạ.

Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:

– Từ nay trở đi, cậu với tiểu đồng đừng vào phòng tôi nữa. Những bát đĩa, chén tách mà tôi dùng, đều phải rửa bằng nước sôi, mà các người cũng đừng dùng chung những thứ đó …Cậu Vô Kỵ, chi bằng cậu ra khỏi Hồ Ðiệp Cốc tới ở nhờ nhà người ta độ nửa tháng, đề phòng sự truyền nhiễm.

Vô Kỵ vội đáp:

– Khỏi cần! Tiên sinh bị bệnh mà cháu lại lánh mặt thì lấy ai hầu hạ tiên sinh? Dù sao cháu cũng hiểu rõ y lý hơn hai tiểu đồng kia.

Hồ Thanh Ngưu lại nói:

– Tốt hơn hết cậu hãy nghe lời tôi mà tránh khỏi chổ này thì hơn!

Dù Hồ Thanh Ngưu nói thế nào, Vô Kỵ cũng không chịu nghe.

Thanh Ngưu lại nói tiếp:

– Thôi được, nhưng cậu không được bước chân vào phòng ta đấy!

Từ ngày hôm đó, ba ngày liền, sáng nào Vô Kỵ cũng đứng ngoài phòng hỏi thăm. Y nghe giọng nói của Thanh Ngưu tuy hơi khàn, nhưng tinh thần vẫn sảng khoái. Lúc ăn còn ăn nhiều hơn ngày thường nên y đoán bệnh của Thanh Ngưu chắc cũng không nguy hiểm lắm.

Ngày nào Hồ Thanh Ngưu cũng ở trong phòng đọc những vị thuốc cho tiểu đồng bốc, sắc đưa vào trong phòng cho lão uống.

Ðến chiều ngày thứ tư, Vô Kỵ đang đọc cuốn Hoàng Ðế Nội Kinh, bỗng nghe có tiếng ngựa từ phía xa vông tới.

Y vội thu xếp sách lại nghĩ thầm:

– Hồ Ðiệp Cốc này là một nơi rất kờn đáo, trong hai năm nay, ngoài Thường đại ca ra, không một người lạ mặt nào tới đây thì những người đang đi tới có lẽ là những kẻ thù của Hồ tiên sinh cũng nên! Hiện giờ Hồ tiên sinh đang lâm bệnh nằm trong phòng, biết làm sao đây?

Ðoạn y liền chạy tới cửa phòng Hồ Thanh Ngưu lớn tiếng nói:

– Thưa tiên sinh, có mấy người cừi ngựa đang vào trong Hồ Ðiệp Cốc này, tiên sinh dậy nên đối phó ra sao?

Hồ Thanh Ngưu chưa kịp trả lời thì mấy người cừi ngựa đã tới trước cửa lều tranh.

Vô Kỵ nghe một người lớn tiếng nói:

– Anh em võ lâm đồng đạo chúng tôi tới đây cầu kiến Y Tiên, yêu cầu Hồ tiên sinh mở lòng từ bi chữa bệnh cho chúng tôi.

Lúc này Vô Kỵ mới an tâm, vội đi ra ngoài thi thấy một chàng mặt đen, tay dắt ba con ngựa, trên yên không có người, còn hai con nữa đều có người nằm phục, quần áo dính đầy máu. Hiển nhiên là hai người đó đã bị thương rất nặng.

Vô Kỵ liền tiến lên trả lời:

– Thật không may cho quí vở, các vị tới vừa lúc Hồ tiên sinh đang ốm nặng, nằm trong phòng, không sao chữa trở được cho các vở. Mong quí vị hãy đi kiếm danh y khác thì hơn.

Người nọ lại nói:

– Chúng tôi đi mấy trăm dặm đường mới tới được chốn này, hai người bạn tôi đang bị thương nặng, sắp chết tới nơi, mong cậu vào nói giúp với y tiên, hãy cứu chữa cho chúng tôi.

Vô Kỵ đáp:

– Hồ tiên sinh, đang mắc bệnh đậu mùa mấy ngày nay. Bênh của ông ta trầm trông lắm. Ðó là sự thật, chứ tôi không có ý nói dối với ông đâu!

Chàng nọ trù trừ giây lát, thở dài một tiếng rồi lại nói:

– Ba anh em chúng tôi đây là đồng môn. Sư huynh đệ chúng tôi lần này bị thương nặng, nếu không được y tiên cứu chữa cho thì thế nào chúng tôi cũng phải chết. Mong chú em hãy vào nói giúp một lời xem Hồ tiên sinh dậy ra sao?

Vô Kỵ lại hỏi:

– Vậy chẳng hay quí tính đại danh của ngài là gì?

Chàng nọ liền trả lời:

-Tên họ của chúng tôi không đáng nói ra, xin chú em cứ thưa cùng tiên sinh rằng chúng tôi là đệ tử của Tiên Vu trưởng môn của phái Hoa Sơn.

Nói tới đó, chàng ấy lảo đảo như sắp ngã, hình như y không sao chịu đựng được nữa. Bỗng y há mồm, hộc ra một đống máu tươi.

Vô Kỵ tiến lên một bước, giơ tay ra điểm một lúc sau yếu huyệt ở trước và sau lưng người đó. Chàng nọ liền cảm thấy khoan khoái dễ chịu ngay.

Y thấy Vô Kỵ còn nhỏ mà đã có tài như thế kinh ngạc vô cùng.

Vô Kỵ đi đến trước cửa phòng lên tiếng hỏi:

– Thưa tiên sinh, ngoài cửa có ba người bị thương rất nặng, tới đây định nhờ tiên sinh chữa cho, họ bảo họ là đệ tử của tên Tiên Vu trưởng môn phái Hoa Sơn.

Hồ Thanh Ngưu liền nổi giận đáp:

– Không chữa! Không chữa! Bảo họ đi ngay!

Vô Kỵ vâng lời, quay ra cửa trả lời với người nọ:

– Hồ tiên sinh chúng tôi đang đau nặng, không thể nào tiếp khách được, mong quí vị lượng thứ cho!

Chàng nọ cau mày, đang định tiếp tục cầu khẩn, nhưng người bé nhỏ nằm phục trên lưng ngựa, bỗng ngẩng đầu lên, giơ tay búng một cái.

Vô Kỵ thấy trước mặt có kim quang thấp thoáng và nghe “bộp” một tiếng.

Một mũi ám khí nho nhỏ rơi ngay giữa mặt bàn nơi phòng khách.

Người gầy gò ném ám khí đó liền nói:

– Cậu cầm bông kim hoa này vào cho anh chàng “thấy chết không cứu” và bảo cho y biết là chúng tôi đã bị chủ nhân của bông kim hoa này đả thương đấy! Và vị chủ nhân của ám khí này cũng sắp đến đây kiếm y đấy! Nếu y chịu chữa cho anh em chúng tôi thì anh em chúng tôi sẽ ở lại đây giúp chống lại kẻ địch. Tuy võ công của anh em chúng tôi không ra gì nhưng thêm ba người giúp sức, cũng đỡ lo phần nào.

Vô Kỵ thấy người ấy ăn nói ra vẻ tự đắc, trong lòng không thích chút nào. Nhưng y cũng đi đến cạnh bàn như ám khí lên. Bông kim hoa bằng vàng diệp, nhỏ như bông mai thật, rất tinh xảo và đẹp vô cùng. Ðoạn y đi tới trước phòng Hồ Thanh Ngưu cho lão hay. Hồ Thanh Ngưu liền nói:

– Cậu đem vào cho tôi xem!

Vô Kỵ khẽ đẩy cửa phòng, vén màn cửa lên, thấy trong phòng tối đen như mực, Hồ Thanh Ngưu mặt buộc một tấm vải xanh, chỉ để ló đôi mắt thôi.

Y kinh hãi nghĩ thầm:

– Không biết mặt của Hồ tiên sinh có những nốt đậu ra sao? Sau khi khỏi bệnh chẳng biết mặt Hồ tiên sinh có bị rỗ không?

Hồ Thanh Ngưu lại nói:

– Cậu hãy để bông hoa vàng ấy xuống bàn và mau lùi ra khỏi phòng.

Vô Kỵ vâng lời, trở ra và kéo khép cửa lại.

Hồ Thanh Ngưu gọi theo:

– Ba người đó dù sống hay chết có liên quan gì đến họ Hồ này đâu! Mà họ Hồ này sống hay chết cũng không cần ba vị đó quan tâm tới!

Hồ Thanh Ngưu vừa nói dứt, Vô Kỵ đã nghe “bộp” một tiếng, bông mai hoa vàng đã xuyên qua cửa, bay ra ngoài rơi xuống đất. Vô Kỵ ở với Hồ Thanh Ngưu hơn hai năm nhưng chưa hề thấy y tiên trổ tài võ nghệ bao giờ.

Y không ngờ, người trông văn nhã, yếu ớt như Hồ Thanh Ngưu mà lại có võ công cao siêu như thế. Nay Hồ Thanh Ngưu đang bị bệnh mà võ công không kém chút nào.

Vô Kỵ vội nhặt bông hoa mai vàng lên, đem trả lại người gầy gò.

Y vừa lắc đầu vừa nói:

– Quả thật y tiên chúng tôi bệnh rất nặng…

Y đang nói bỗng nghe có tiếng vó ngựa nhộn nhịp, tiếng bánh xe “lốc cốc” ở đằng xa vông tới, liền bước ra ngoài nhìn xem thì thấy một chiếc xe ngựa đã tới trước cửa, ngừng lại.

Một chàng thanh niên mặt vàng khè, ẵm một ông già đầu hói từ từ bước xuống xe lên tiếng hỏi:

– Chẳng hay Ðiệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh có nhà không? Chúng tôi là Thánh Thủ Giả Lam Giản Tiệp của phái Không Ðộng tới nhờ Hồ tiên sinh cứu chữa cho …

Chàng đó chưa nói dứt lời đã ngã lăn ra đất, ông già đầu hói nằm trong tay y cũng bị ngã té nhào theo.

Cả hai con ngựa kéo chiếc xe đo cũng mỏi mệt đến sùi cả bọt mép, quở cả bốn chân xuống.

Vô Kỵ nghe ba chữ phái Không Ðộng liền nghĩ đến những người đã lên núi Võ Ðang bức tử cha mẹ mình trong đó có cả vị trưởng môn của phái ấy.

Ông già đầu sói đây, tuy hôm đó không có mặt trên núi Võ Ðang nhưng y đoan chắc ông ta cũng không phải là người tử tế gì.

Y định cự tuyệt thì bỗng thấy trên đường núi có bốn năm người khập khiễng đi tới. Trong đám đó có người phải đỡ nhau mới bước đi được. Nhưng người nào người nấy đều bị thương.

Vô Kỵ cau mày không đợi những người đó tới gần, đã lớn tiếng nói:

– Hồ tiên sinh đang mắc bệnh đậu mùa, chưa biết sống chết ra sao thì làm sao mà cứu chữa cho các vị được, mong quí vị mau đi tìm danh y khác!

Lúc ấy mọi người đã tới gần, Vô Kỵ thấy tất cả có năm người, người nào người nấy mặt cũng nhợt nhạt như không có máu.

Tuy trên người không có thương tích gì và cũng không có vết máu như vậy đủ thấy họ bị nội thương rất kỳ dị.

Người đi đầu vừa cao vừa béo, thấy Thánh Thủ Giả Lam Giản Tiệp và người gầy gò vừa ném ám khí kim hoa liền gật đầu chào.

Ba người nhìn nhau gượng cười.

Thì ra bọn người này đều quen biết nhau.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng vội hỏi:

– Quí vị đều bị chủ nhân của kim hoa đả thương phải không?

Người to béo đáp:

– Phải!

Người đó quay đầu lại hỏi Giản Tiệp rằng:

– Giản huynh đã được gặp Hồ tiên sinh chưa?

Giản Tiệp lắc đầu nói:

– Ông chủ họ Lương vào thì may ra Hồ tiên sinh nể mặt mới chịu tiếp, chứ chúng tôi thì bao giờ ông ấy thèm chữa cho.

Vô Kỵ liền xen lời nói:

– Chủ nhân của kim hoa nọ là ai thế? Tại sao người đó lại hoành hành như vậy?

Người to béo nói:

– Chú em làm ơn vào bẩm với Hồ tiên sinh một tiếng là chủ tiệm vàng: “Nguyên Thịnh” ở Vu Hồ, tới cầu Hồ tiên sinh chữa bệnh cho.

Người vừa bị hộc máu biết Vô Kỵ không phải là một thiếu niên tầm thường liền đỡ lời ngay:

– Chú em quí tính đại danh là gì và có liên quan gì đến Hồ tiên sinh thế?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi cũng là bệnh nhân của Hồ tiên sinh. Ông ấy chữa tôi đã hơn hai năm mà bệnh vẫn chưa khỏi. Mà một khi Hồ tiên sinh sinh đã nói là không chữa thì không bao giờ ra tay chữa đâu, vậy quí vị còn ở đây làm gì nữa?

Trong khi Vô Kỵ đang nói, trước sau lại có bốn người nữa đi tới, có người cừi ngựa có người đi xe.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Hồ Ðiệp Cốc ở nơi hẻo lánh như vậy, ngoài những người trong Ma Giáo ra, người trên giang hồ ít ai biết. Những người này thuộc phái Không Ðộng và phái Hoa Sơn chứ không phải là người Ma Giáo, nhưng không hiểu tại sao họ đều bị thương và cùng tới đây một lúc cầu Hồ Thanh Ngưu chữa cho?

Trong lúc đêm khuya, trong căn nhà tranh chỉ nghe tiếng mở sách thuốc của Vô Kỵ và những tiếng rên rỉ của mấy người bị thương.

Ðột nhiên bên ngoài bỗng có tiếng chân hai người đi rất nhẹ tới, Vô Kỵ vội ngẩng đầu lên nhìn thì thấy một con nhỏ, với giọng thánh thót lên tiếng nói:

– Mẹ ơi, trong nhà này có đèn, có lẽ đã tới nơi rồi?

Tiếp theo một giọng thiếu phụ hỏi:

– Con có mệt không?

Tiếng con nhỏ đáp:

– Con không mệt. Thày lang chữa bệnh cho mẹ xong, mẹ sẽ khỏi đau ngay!

Thiếu phụ kia lại lên tiếng nói:

– Mẹ đỡ đau nhiều rồi …Thật tội nghiệp cho con tôi quá!

Vô Kỵ nghe nói tới đó, không còn hồ nghi gì nữa liền chạy vội ra ngoài cửa lớn tiếng gọi:

– Kỷ cô nương! Có phải Kỷ cô nương đó không? Cô nương cũng bị thương sao?

Dưới ánh sáng xanh mờ, Vô Kỵ thấy một thiếu phụ mặc áo xanh, tay dắt một đứa bé gái.

Thiếu phụ đó chính là Nga Mi nữ hiệp Kỷ Hiểu Phù. Khi lên núi Võ Ðang, Kỷ cô nương có gặp Vô Kỵ, lúc ấy mới có mười tuổi.

Từ đó đến nay đã bốn năm rồi, Vô Kỵ đã trở thành một thiếu niên.

Hai người gặp nhau trong đêm tối, đều ngạc nhiên vô cùng.

Giây lát sau, Vô Kỵ mới lên tiếng hỏi:

– Kỷ cô nương không nhận được cháu sao? Cháu là Trương Vô Kỵ đây. Hôm ở trên núi Võ Ðang, cha mẹ cháu tự tử, cháu đã gặp cô một lần.

Hiểu Phù nghe Vô Kỵ tự giới thiệu kinh ngạc vì không ngờ gặp lại Vô Kỵ nơi đây. Nàng là gái chưa chồng, mà tay lại dắt theo một đứa con.

Vô Kỵ thì lại là sư điệt của Hân Lợi Hanh, hôn phu của nàng. Tuy y vẫn chưa hiểu sự đời nhưng dù sao sau này cũng khó mà giải thích nổi, nên nàng vừa xấu hổ vừa ngượng, mặt đỏ bừng.

Nàng bị thương nặng, đột nhiên kinh hãi, không sao gượng nổi nên lảo đảo như sắp ngã. Con gái của nàng mới lên sáu, bẩy tuổi vội nắm lấy tay nàng. Nhưng nó nhỏ người sức yếu nên đỡ không nổi.

Vô Kỵ liền giơ tay ra đỡ lấy vai nàng và nói:

– Mời Kỷ cô nương vào trong nhà nghố một lát.

Dưới ánh sáng đèn, y thấy vai và cánh tay trái của nàng bị thương nặng, máu tươi rỉ ra thấm cả vải băng, ướt đẫm một khoảng vai. Nàng ho luôn.

Lúc này, y thuật của Vô Kỵ đã tiến nhiều, y nghe tiếng ho của Hiểu Phù là biết ngay là phổi bên trái của nàng cũng bị thương liền nói:

– Kỷ cô nương đã đối chưởng với kẻ địch bằng tay phải mà sức của đối phương quá mạnh nên cô nương đã bị thương ở thái âm, phế mạch!

Ðoạn y đi lấy bẩy mũi kim vàng, cách áo châm luôn vào bẩy yếu huyệt của Hiểu Phù. Nàng liền cảm thấy dễ chịu và đỡ đau đớn ngay. Nàng vừa mừng rỡ vừa phục thầm và nói:

– Thật không ngờ tôi lại được gặp cậu ở đây, mà ngày nay bản lĩnh y thuật của cậu lại cao siêu như thế!

Ðột nhiên con nhỏ khẽ rỉ tai Hiểu Phù hỏi:

– Mẹ, anh kia cũng làm được thầy lang hả mẹ? Mẹ đã bớt đau chưa?

Hiểu Phù nghe con gọi mẹ, mặt càng đỏ nhưng nàng biết giờ phút này không thể nào giấu Vô Kỵ được nữa nên nàng giới thiệu:

– Anh này tên là Vô Kỵ, cha anh ấy là bạn thân của mẹ đấy.

Rồi nàng quay lại nói với Vô Kỵ:

– Cháu …cháu nó tên là Bất Hối …

Nghĩ ngợi giây lát, nàng lại nói tiếp:

– Cháu nó họ Dương.

Vô Kỵ vừa cười vừa nói:

– Tên của cô em với tên của cháu thật là xứng đôi, cháu là Trương Vô Kỵ còn cô em là Dương Bất Hối.

Hiểu Phù thấy thần sắc của Vô Kỵ như thường, không có vẻ gì là trách móc mình nên mới yên tâm chút đỉnh.

Nàng lại nói với con gái:

– Anh Vô Kỵ tài ba lắm, mẹ đã khỏi đau rồi!

Dương Bất Hối tròn xoe đôi mắt to, long lanh nhìn Vô Kỵ một hồi.

Vô Kỵ thấy Bất Hối thơ ngây và lanh lợi cũng lấy làm thích, vì từ thủa bé đến giờ y không hề có một người bạn nhỏ nào cả. Chỉ có hôm ở trên đò được làm quen với Chu Chỉ Nhược nhưng hai người gặp gỡ nhau có một ngày rồi lại chia tay luôn.

Y vừa khoái chờ vừa nghĩ thầm:

– Nếu ta có một người em gái như thế này ta sẽ dắt nó đi chơi luôn.

Hiểu Phù thấy bọn Thánh Thủ Giả Lam Giản Tiệp bị thương nằm ngổn ngang trên mặt đất, chắc họ chưa được y tiên chữa cho nên nàng cũng không muốn được ưu đãi hơn, liền nói với Vô Kỵ:

– Mấy vị này đến trước tôi, sao cậu không chữa cho họ, bây giờ tôi đã đỡ nhiều rồi. Cậu chữa cho họ xong rồi hãy chữa cho tôi cũng không muộn.

Vô Kỵ đáp:

– Họ đến đây cầu Hồ tiên sinh chữa cho, nay Hồ tiên sinh đang lâm bệnh nặng thì làm sao chữa cho họ được? Nhưng mấy vị ấy nhất định không chịu đi, cháu đành phải để cho họ ở lại đây. Còn Kỷ cô nương tới đây không phải là cầu Hồ tiên sinh chữa cho nên cháu mới dám giúp cô nương như vậy. Có điều là cháu chỉ biết chút ít y lý thôi, nếu cô nương tin ở cháu thì cháu mới dám chữa.

Tiếp theo đó y viết một toa thuốc, bảo tiểu đồng đi bốc và sắc cho nàng uống.

Lần đầu tiên chữa thương, nối xương cho người Vô Kỵ không thể nào tránh khỏi sự bỡ ngỡ chậm chạp nên y phải tốn hơn hai tiếng đồng hồ mới chữa xong cho Hiểu Phù.

Hồi thứ 31

Vợ Chồng Tranh Hơn

Băng bó xong xuôi y lại nói với Hiểu Phù:

– Cô nương yên trí nghỉ một lát, chỉ chút nữa thuốc tê hết công hiệu thì cô sẽ bị đau đớn lắm đấy.

Mặc dù cương quyết không chịu cứu những người tới nhờ mình, nhưng Hồ Thanh Ngưu vẫn ngầm ưng thuận cho Vô Kỵ đem hết tài ba, sở học thu thập được trong suốt hai năm y ở Hồ Ðiệp Cốc ra chữa trở cho tất cả những bệnh nhân lục tục đến xin được điều trở.

Năm sáu ngày sau, vết thương của mọi người đã bớt, riêng có nội thương của Hiểu Phù là chưa thấy thuyên giảm chút nào. Vì nàng bị kẻ thù chấn thương nội tạng xong, lại còn bắt nàng phải uống thuốc độc nữa.

Vô Kỵ đã tìm ra căn bệnh của nàng rồi liền dung sinh long, cốt tô mộc, thổ cầu, ngũ linh chi, thiên kim tử và cáp phấn cho nàng uống để hóa giải những chất độc trong tạng phủ. Nhờ vậy nội thương của nàng mới thuyên giảm dần.

Lúc ấy mọi người đều ở bên ngoài, dựng tạm một cái lều mà ở dưới lớp rạ.

Còn Hiểu Phù ở riêng trong một căn nhà lá nhỏ cách đó hơn trượng chung với con gái. Căn nhà lá này do Vô Kỵ bảo các bệnh nhân kia giúp sức cất cho nàng.

Tuy Vô Kỵ vất vả vô cùng nhưng y cũng thu được rất nhiều kinh nghiệm các cách cứu chữa vết thương kỳ dị nhờ hỏi ý kiến của Hồ Thanh Ngưu.

Hôm đó, y vừa thức dậy, thấy mặt Hiểu Phù có một làn hắc khí hiện ra giữa đôi lông mày, thì kinh ngạc vô cùng.

Y tưởng thương thế của nàng tái phát trở lại, vội nắm lấy tay nàng bắt mạch thử, rồi bảo nàng nhổ ít nước bọt, hòa vào bách hợp tán để khám xem.

Quả nhiên y thấy độc khí trong người nàng lại mạnh hơn trước nên thắc mắc vô cùng liền vào trong nhà để hỏi Thanh Ngưu.

Thanh Ngưu thở dài mấy tiếng, chỉ cách chữa cho Vô Kỵ. Nhờ đó bệnh của Hiểu Phù giảm hơn trước nhiều.

Còn Giản Tiệp thì đầu lại loét hơn trước nhiều, hôi thối vô cùng.

Cứ như vậy, qua được vài ngày, mười lăm người bị thương, lúc đỡ lúc nặng thêm, có người đã khỏi được bẩy tám phần, ngờ đâu chỉ qua một đêm, bệnh tình trở lại trầm trọng.

Vô Kỵ hoài nghi vô cùng, bèn đi hỏi Hồ Thanh Ngưu.

Nhưng Thanh Ngưu chỉ trả lời vắn tắt:

– Những người đó bị thương kỳ lạ lắm, nếu vừa chữa đã khỏi ngay thì hà tất họ phải tới Hồ Ðiệp Cốc này van lơn chúng ta, cầu chữa làm gì?

Tối hôm đó, Vô Kỵ nằm trên giường suy nghĩ mãi, không sao ngủ được.

Y nghĩ thầm:

– Vết thương lành rồi lại đau trở lại là sự thường, nhưng không có lý nào mười lăm người đều như thế cả? Huống hồ đau đi đau lại mấy lần như vậy mới thật là lạ!

Trong khi y đang suy nghĩ, bỗng nghe bên ngoài cửa sổ có tiếng chân người dẫm lên lá khô. Tuy người đó đi rất nhẹ nhưng y vẫn nghe rất rõ.

Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, y bèn đứng dậy, đi tới cạnh cửa sổ, khoét một cái lỗ ngó ra bên ngoài.

Vô Kỵ thấy một bóng người lẩn khuất đằng sau cây hòe, hình dáng giống hệt Hồ Thanh Ngưu.

Y ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Hồ tiên sinh đi ra ngoài làm gì? Bệnh đậu mùa của ông ta đã khỏi rồi chăng?

Nhưng hành động của Hồ Thanh Ngưu có vẻ lén lút và lão đang tiến về phía căn nhà lá nhỏ của mẹ con Kỷ Hiểu Phù.

Vô Kỵ nghĩ tiếp:

– Hồ tiên sinh định đi hiếp Kỷ cô nương chăng? Tuy ta địch không nổi y nhưng mà mắt ta đã thấy, thế nào ta cũng phải can thiệp.

Ðoạn y liền vượt cửa sổ ra ngoài, rón rén đi theo Hồ Thanh Ngưu thì thấy y tiên lén vào căn nhà lá.

Căn nhà đó cất qua loa để ở tạm, nên không có tường và không có cửa. muốn ra vào lối nào cũng được.

Vô Kỵ lo ngại vô cùng, vội chạy đến phía sau nhà, nằm phục xuống đất, ngó vào bên trong thì thấy mẹ con Hiểu Phù đang nằm ôm nhau ngủ say.

Trong lúc ấy Hồ Thanh Ngưu móc túi lấy ra một viên thuốc bỏ vào bát thuốc để bên cạnh bàn rồi quay mình đi ra.

Vô Kỵ thấy mặt Hồ Thanh Ngưu vẫn che bằng một tấm vải xanh nên y không biết bệnh đậu mùa của y tiên đã khỏi hẳn chưa.

Chỉ trong thoáng cái, Vô Kỵ đã đoán ra được là Hồ tiên sinh nửa đêm lẻn ra ngoài để bỏ thuốc độc cho bệnh nhân uống. Thảo nào những đó đỡ rồi lại bị ốm lại.

Sau đó Hồ Thanh Ngưu lại đi đến chổ ngủ của bọn Giản Tiệp và Công Viễn.

Chờ mãi, y không thấy Hồ Thanh Ngưu ra, lại đoán chắc là một lúc đầu độc mười bốn người hẳn Hồ Thanh Ngưu phải tốn rất nhiều thời giờ Vô Kỵ bèn lẳng lặng đi tới căn lều của Hiểu Phù, cầm bát thuốc lên ngửi.

Bát thuốc đó nguyên là bát tiên thang, thuốc bổ để cho Hiểu Phù sáng hôm sau thức dậy uống liền. Nhưng y ngửi thấy bát thuốc đó có một mùi lạ xông lên.

Ðang nghĩ ngợi xem đó là thuốc gì thì bỗng nghe tiếng chân người đi rất nhẹ lướt qua, đoán là Hồ Thanh Ngưu đã đầu độc xong mười bốn người kia và trở về phòng ngủ.

Vô Kỵ đặt bát thuốc xuống, chui ra ngoài rồi mới lên tiếng khẽ gọi:

– Kỷ cô nương! Kỷ cô nương!

Hiểu Phù là người học võ, đáng lẽ tai mắt phải rất tinh, tuy ngủ say đến đâu, chỉ một tiếng động rất nhỏ là nàng cũng phải thức dậy liền.

Nhưng không hiểu tại sao Vô Kỵ gọi luôn mấy tiếng mà nàng vẫn không tỉnh lại.

Vô Kỵ đành phải chui vào trong lều, để tay lên vai nàng khẽ lấy gọi bẩy tám cái.

Hiểu Phù thức tỉnh, kinh hãi hỏi:

– Ai thế?

Vô Kỵ khẽ đáp:

– Cháu đây mà! Mời cô nương ra ngoài này, cháu có chút chuyện muốn nói!

Hiểu Phù thấy đêm khuya mà Vô Kỵ tới gọi mình và giọng nói có vẻ khẩn cấp thì biết là có việc quan trông nên nàng khẽ đặt Bất Hối xuống rồi ra ngoài lều.

Vô Kỵ liền nói:

– Bát thuốc của cô đã có người bỏ thuốc độc, vậy cô đem ra ngoài suối mà đổ đi. Nhưng cô nương đừng để cho ai thấy, còn nguyên nhân thì để đến ngày mai cháu sẽ thưa sau.

Hiểu Phù gật đầu, Vô Kỵ sợ người khác biết vội trở về phòng ngủ và cũng vào bằng cửa sổ.

Sáng hôm sau, mọi người ăn uống xong, Vô Kỵ và Bất Hối đang đuổi bướm, càng đuổi càng đi xa.

Hiểu Phù biết dụng ý của Vô Kỵ liền đi theo sau.

Ba người đi được hơn một dặm, đến một sườn núi, Vô Kỵ liền ngồi xuống đám cỏ. Hiểu Phù liền bảo Bất Hối:

– Bất nhi, con đừng đuổi bướm nữa! Con hãy đi hái một tí hoa dại, kết thành ba cái hoa cầu để cho mỗi người chúng ta đcó một cái .

Bất Hối nghe mẹ bảo, mừng rỡ vô cùng liền chạy đi.

Vô Kỵ chờ cho con nhỏ đi xa rồi mới lên tiếng hỏi:

– Thưa Kỷ cô nương, chẳng hay Hồ tiên sinh với Kỷ cô nương có thâm thù, đại oán gì chăng mà y định đầu độc cô như vậy?

Hiểu Phù ngẩn người giây lát đáp:

– Tôi với Hồ tiên sinh có quen biết nhau bap giờ đâu? Cho đến ngày hôm nay tôi cũng chưa được biết mặt ông ta ra sao cả. Như vậy tôi với ông ta làm sao có thù oán gì với nhau?

Nàng ngẫm nghĩ giây lát, nói tiếp:

– Cha tôi với sư phụ tôi có nói về Hồ tiên sinh, vẫn khen y thuật của ông ta như thần là một đệ nhất cao thủ đương thời. Nhưng cha tôi và sư phụ tôi cũng không quen biết ông ta bao giờ, như vậy tại sao ông ta lại đầu độc tôi?

Vô Kỵ bèn đem chuyện đêm qua kể cho nàng nghe rồi kết luận:

– Ðêm qua cháu ngửi thấy bát tiên thang của cô nương có mùi thiết tuyến thảo và thấu cốt khân xông lên. Hai vị thuốc đó cũng là thuốc chữa thương đó nhưng tính chất rất độc, nên khi dùng tới hai vị đó chỉ dùng rất ít thôi. Nhưng hai vị đó không thể nào uống lẫn với bát tiên thang đại bổ được. Tuy uống phải không đến nổi toi mạng nhưng có thể làm cho vết thương càng nặng và càng khó chữa.

Hiểu Phù nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi:

– Theo lời cậu thì cả mười bốn người kia cũng bị tiên sinh đầu độc sao? Việc này lạ lùng thật? Dù cha tôi hay phái Nga Mi chúng tôi ngẫu nhiên có điều gì thất lễ với Hồ tiên sinh đi chăng nữa thì ông ta chỉ hại một mình tôi thôi, tại sao ông ta lại hại cả mười bốn người kia làm gì?

– Thưa Kỷ cô nương, Hồ Ðiệp Cốc này là một nơi rất hẻo lánh, tại sao cô nương lại biết mà tới đây? Còn chủ nhân của bông kim hoa đã ra tay đả thương cô nương, chẳng hay là ai thế?

Những việc này không liên quan gì đến cháu, đáng lẽ cháu không nên hỏi, nhưng cháu cảm thấy việc trước mắt rất kỳ dị nên mới dám tò mò như thế.

Hiểu Phù mặt đỏ bừng, suy nghĩ giây lát rồi đáp:

– Cậu đã cứu tôi thoát chết, tôi đâu dám giấu cậu điều gì. Tuy tuổi cậu tuy nhỏ, nhưng cậu đối với con Bất Hối của tôi rất tử tế. Tôi có tâm sự đau khổ, nên ngoài cậu ra, trên đời này tôi không bao giờ thổ lộ cho người thứ hai nào rõ đâu.

Nói tới đó, hai hàng nước mắt của nàng nhỏ ròng xuống má.

Nàng lấy khăn tay ra, lau sạch những giọt lệ đó rồi mới nói tiếp:

– Hơn hai năm trước đây, vì gây hấn với một vị sư tỷ, tôi không dám về núi Nga Mi gặp sư phụ và cũng không dám về nhà.

Vô Kỵ liền chặn lời:

– Hừ con Ðộc Thủ Vô Diệm Ðinh Mẫn Quân vô liêm sĩ, cô nương đừng sợ nó!

Hiểu Phù ngạc nhiên hỏi:

– Ủa, sao cậu biết tên sư tỷ tôi?

Vô Kỵ bèn đem chuyện đêm hôm ẩn trong rừng, cùng Ngộ Xuân thấy Kỷ cô nương cứu Bành hòa thượng nói cho Hiểu Phù nghe.

Hiểu Phù chờ Vô Kỵ kể xong, khẽ thở dài một tiếng đáp:

– Cổ nhân dậy không sai chút nào, muốn người không biết chuyện thì đừng có làm, tai mắt thiên hạ rất tinh, không thể nào giấu được.

Vô Kỵ lai hỏi:

– Thưa cô nương, Hân lục thúc của cháu tuy là người rất tốt, nhưng cô nương không thích chú ấy thì khỏi phải làm vợ chú ấy, có sao đâu? Lần sau, cháu có gặp lục thúc, cháu bảo chú ấy đừng ép cô nương nữa.

Hiểu Phù nghe Vô Kỵ nói một cách ngây thơ như vậy, không sao nhịn được cười, mặc dù đang buồn rầu. Nàng nói:

– Không phải thế đâu! Không phải tôi không ưa lục sư thúc của cậu và cũng không phải tôi cố ý làm chuyện không nên không phải với anh ấy đâu.

Nói tới đó, nàng thấy vẻ mặt của Vô Kỵ rất ngây thơ liền nghĩ thầm:

– Tâm trí thằng nhỏ này như một tờ giấy trắng, ta không nên đem những chuyện yêu đương ra kể lể cho nó nghe làm gì? Huống hồ việc của ta không liên can gì đến việc trước mắt cả.

Ðoạn nàng kể tiếp:

– Tôi với Ðinh sư tỷ cãi nhau xong, tôi không trở về núi Nga Mi nữa, liền đem con Bất Hối tới núi Thuấn Canh ở cách đây ba trăm dặm để ẩn náu. Hơn hai năm qua, suốt ngày tôi chỉ làm bạn với những người nông dân cầy cấy và mót củi ở đó. Ðời sống của tôi cũng được yên ổn. Không ngờ nửa tháng trước đây, tôi dẫn con Bất Hối lên thở trấn mua vải thì thấy trên tường có vẽ một cái vòng thuật quan và một thanh kiếm nhỏ.

Ðó là tín hiệu của phái Nga Mi dùng để triệu tập các đồng môn.

Tôi ngạc nhiên và hoảng sợ vô cùng liền suy nghĩ:

– Tuy tôi với Ðinh sư tỷ bất hòa, nhưng không phải lỗi tại tôi. Ngày nay thấy ám hiệu đó, tôi chắc là có đồng môn nào đó đang ngộ nạn nên tôi không thể nào không ra tay cứu viện …

Nghĩ tới đó, tôi liền đi thẳng tới thành Phục Dương. Ðến trong thành Phục Dương, tôi lại thấy nhiều ám hiệu nữa hẹn đến tụ họp ở Lâm Hoài Cát tửu lầu. Tôi liền đánh liều, dắt con Bất Hối tới đó.

Khi tới nơi, tôi đã thấy có bẩy tám người trong võ lâm đang chờ. Có cả Giản Tiệp cảu phái Không Ðộng và mấy anh em Tiết Công Viễn đã quen biết nhau từ lâu.

Tôi liền đánh bạo lên tiếng hỏi xem họ đợi chờ ai? Thì ra họ cũng như tôi, thấy ám hiệu cầu cứu của đồng môn gọi nên họ mới cùng nhau tới đây.

Họ chỉ biết có thế thôi.

Tôi và mấy người nọ đợi mấy ngày liền, không có đồng môn của mình tới, sau đó lại có mấy người nữa lần lượt đến.

Những người đó cũng là đồng môn của Thần Quyền Môn và phái Nam Thiếu Lâm.

Họ cũng bảo là thấy ám hiệu cầu cứu của đồng môn nên tới đây phó ước.

Ngày hôm sau, lại có mấy người nữa tới, chúng tôi bàn tán một hồi, ai nấy đều hoài nghi vô cùng, chắc là bị kẻ địch đùa cợt cũng nên?

Lúc bấy giờ chúng tôi có tất cả mười lăm người thuộc chín môn phái. Nếu quả thật có kẻ địch ngấm ngầm mưu hại thì kẻ địch đó làm sao lại biết được ám hiệu của cả chín môn phái? Tôi có dắt theo con Bất Hối, nên rất sợ gặp phải việc hung hiểm, hơn nữa tôi cũng không muốn gặp các bạn đồng môn của tôi nên khi thấy không phải là là đồng môn ngộ nạn cầu cứu, tôi liền dắt con Bất Hối xuống lầu đi về nhà.

Tôi đang xuống lầu bỗng nghe phía dưới lầu có tiếng kêu lốc cốc, tựa như có người cầm gậy gõ vào bậc thang, tiếp theo đó lại có tiếng ho, rồi tôi thấy một bà cụ tóc bạc phơ, lưng gù, từ từ đi lên lầu.

Bà ta đi mấy bước lại ho một tiếng, trông rất tội nghiệp.

Một cô bé độ mười hai mười ba tuổi đỡ bà ta đi.

Tôi thấy bà cụ đau nặng như vậy liền tránh sang bên, nhường đường cho bà ta liền.

Còn cô bé rất đẹp, thân thanh cốt tú, dễ mến.

Bà cụ đó tay phải chống một cây gậy gỗ, ăn mặc rất mộc mạc, có vẻ là một bà cụ nghèo nàn. Nhưng tay trái bà ta lại cầm một chuỗi hạt vàng chói lọi.

Tôi ngừng chân lại, nhìn chuỗi hạt đó, hạt nào cũng có hình hoa mai.

Vô Kỵ nghe nói tới đó, liền xen lời hỏi:

– Bà cụ ấy có phải là chủ nhân của bông mai vàng không?

Hiểu Phù gật đầu mấy cái, móc túi lấy ra một bông mai vàng đưa cho Vô Kỵ xem. Bông mai đó cũng như bông của người hộc móc tươi đã đưa cho Hồ Thanh Ngưu.

Vô Kỵ không ngờ chủ nhân của bông mai vàng lại là một bà cụ ốm yếu nặng như vậy chứ không như y đã tưởng tượng là một người rất hung ác nên y ngạc nhiên vô cùng. Hiểu Phù lại nói tiếp:

– Bà cụ đó vừa lên tới trên lầu lại ho luôn mồm một hồi.

Cô bé nói:

– Bà hãy uống một viên thuốc nhé!

Bà cụ gật đầu, cô bé liền lấy một cái lọ sứ, đổ ra một viên thuốc đưa cho bà cụ nuốt. Bà ta uống xong viên thuốc đó liền lẩm bẩm nói:

– A di đà Phật!A di đà Phật!

Hai mắt bà ta lim dim, mồm vẫn lẩm bẩm tiếp:

– Chỉ có mười người lăm người thôi à? Cháu thử hỏi xem sao người của phái Côn Luân và phái Võ Ðang không thấy tới?

Lúc bà cụ lên tới lầu, không ai để ý tới, tưởng là mình nghe lầm.

Cô bé kia thấy mọi người làm thinh bèn hỏi:

– Này, các người kia, bà tôi hỏi các người tại sao phái Côn Luân và phái Võ Ðang không có người nào tới cả?

Mọi người đều ngơ ngác nhìn nhau, không một ai trả lời được câu hỏi đó.

Một lát sau, Giản Tiệp mới lên tiếng:

– Cô bé nói gì thế?

Cô bé đó trả lời:

– Bà tôi hỏi tại sao không thấy người nào của phái Võ Ðang và phái Côn Luân tới đây?

-Chẳng hay cô với bà cụ là nhân vật thế nào?

Bà cụ lại ho một hồi nữa rồi ra tay thật nhanh như một cái bóng, lướt sang Ðông đánh một quyền, chạy sang Tây đánh một quyền.

Chỉ trong chốc lát mười bốn người kia và tôi đã bị đánh ngã hết.

Bà ta ra tay một cách đột ngột, thân pháp lại nhanh, sức lực rất mạnh.

Không những tôi chưa hề thấy mà cả mấy người kia cũng vậy, không một ai có thể chống đỡ được nên tất cả đều bị bà ta điểm huyệt hay bị bở thương.

Tiếp theo đó, bà cụ ấy giơ tay trái lên, tung một cái, mười lăm bông mai vàng ở trong chuỗi hạt của bà ta bay ra, bắn vào cánh tay của mười lăm người chúng tôi, nhưng không làm ai bị tổn thương chút nào .

Sau đó bà ta quay lại, vởn vào vai cô bé kia và nói: “A di đà Phật!”

Ðoạn bà ta ngất ngưởng đi xuống lầu. Một lát sau, mọi người chỉ còn nghe tiếng gậy chống kêu lốc cốc và tiếng ho của bà ta ở đằng xa vông lại.

Hiểu Phù nói tới đó, Bất Hối đã kết xong ba cái vòng hoa, vừa cười vừa chạy tới nói :

– Mẹ, để con đcó vòng hoa này cho mẹ nhé!

Nói xong, cô bé liền quàng vòng hoa lên cổ mẹ. Hiểu Phù vừa cười vừa nói tiếp:

– Lúc ấy trên tửu lầu, mười lăm người đều nằm ngổn ngang, không sao cử động được …

Bất Hối liền xen lời nói:

– Mẹ đang kể chuyện về bà cụ độc ác ấy phải không? Thôi mẹ ạ, đừng kể nữa, con sợ lắm!

Hiểu Phù liền bảo:

– Con ngoan, hãy đi kiếm hoa và kết thành vài vòng cho anh Vô Kỵ đi!

Bất Hối nhìn Vô Kỵ hỏi:

– Anh thích hoa mầu gì?

Vô Kỵ đáp:

– Anh thích màu hồng, nhưng cũng phải có màu trắng và vòng càng to anh càng thích.

Bất Hối giang hai tay ra và hỏi:

– To chừng này phải không?

Vô Kỵ gật đầu , Bất Hối vui vẻ chạy đi.

Hiểu Phù lại nói tiếp:

– Trong lúc tôi mơ mơ màng màng liền thấy có mấy người đi tới. Những người đó đều là phổ kỵ, đầu bếp…của tửu lầu đó. Chúng khiêng chúng tôi vào trong bếp, lúc ấy con Bất Hối cứ khóc thét lên và bám sát bên cạnh tôi. Tên trưởng quầy, tay cầm một tờ giấy, mồm dặn bảo những tên phổ kỵ còn tay kia chỉ Giản Tiệp nói: “Bôi vào đầu tên này một ít thuốc cao!”

Một tên phổ kỵ đứng cạnh đó cầm sẵn hộp thuốc cao liền bôi lên trên đỉnh đầu Giản Tiệp. Tên trưởng quầy lại xem tờ giấy chỉ một người khác và nói: “Chặt tay phải lắp sang tay trái, chặt tay trái lắp vào tay phải cho y!” Hai tên đầu bếp liền lấy hai con đao thật bén, thi hành theo lời tên trưởng quầy ngay.

Cũng may là tôi không bị khổ hình kỳ quái gì cả. Y chỉ bắt tôi uống một bát thuốc thật ngọt. Nhưng lúc ấy tôi không còn hơi sức đâu mà chống cự lại. Mười lăm người bị bọn đó hành hạ xong, tên trưởng quầy lại nói: “Mỗi người trong các vị đã bị một vết thương không thể cứu chữa được và chỉ có thể sống sót được mười ngày hay nửa tháng mà thôi. Nhưng chủ nhân của kim hoa đã nói là bà ta thương hại các người nên chỉ cho một con đường sống. Vậy các người hãy mau mau đến Hồ Ðiệp Cốc, van lơn Hồ Thanh Ngưu, một lang y có biệt hiệu là Ðiệp Cốc Y Tiên, cứu chữa cho. Nếu y chịu ra tay thì các ngươi mới mong sống được. Nhưng y có cái tật là thấy chết không cứu nên nếu các người không van xin tới cùng thì không bao giờ y chịu chữa cho đâu. Các người cứ việc nói rõ cho Hồ Thanh Ngưu biết là chủ nhân của kim hoa không bao lâu sẽ tới kiếm y. Bảo y sớm lo hậu sự đi.”

Tên trưởng quầy nói xong, liền thuê xe cho chúng tôi đi tới đây.

Vô Kỵ càng nghe càng ngạc nhiên vô cùng liền hỏi:

– Theo như cô nương vừa nói thì tên trưởng quầy và bọn đầu bếp, phổ kỵ đều là thủ hạ của bà già độc ác ấy?

Hiểu Phù đáp:

– Tất nhiên chúng là thủ hạ của bà ta rồi, nhưng không hiểu tại sao bà ta lại đối xử với chúng tôi như vậy? Nếu bảo bà ta có thù với chúng tôi, thì bà ta giết chết chúng tôi dễ như trở bàn tay, tại sao bà ta lại chỉ cho chúng tôi đến đây cầu y tiên chữa cho? Hơn nữa bà ta lại nói là bà ta cũng sẽ tới đây kiếm Hồ tiên sinh trả thù? Chẳng lẽ bà ta làm cho chúng tôi bị thương kỳ lạ như vậy là vì muốn thử xem tài của Hồ tiên sinh có đúng như biệt hiệu của ông ta không?

Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Cháu nghe Thường đại ca nói rằng Hồ tiên sinh có một kẻ thù và người đó sắp tới đây tìm ông ta để báo thù. Người đó tất nhiên là bà cụ này rồi, vậy lẽ ra Hồ tiên sinh phải mau mau chữa khỏi cho các người, để đồng tâm hiệp lực chống đỡ kẻ thù chung chứ? Nhưng tại sao ông ta lại bảo không chữa rồi lại ngấm ngầm dạy cháu những phương pháp cứu chữa như thế? Rồi tại sao, nửa đêm ông ta lại lén ra đầu độc các vị? Cốt để cho các sinh vị dở chết, dở sống, cứ dở dở dang dang như vậy? Bên trong thể nào cũng có sự bí ẩn gì đây?

Hai người bàn tán một hồi lâu, vẫn không nghĩ ra được nguyên do.

Lúc ấy Bất Hối đã làm được một cái vòng hoa lớn đem tới đeo vào cổ Vô Kỵ.

Vô Kỵ liền dặn Hiểu Phù:

– Từ giờ trở đi, nếu bát thuốc nào không phải do tay cháu bưng tới thì cô nương đừng uống nhé! Ðêm khuya , lúc ngủ cô nên để khí giới bên cạnh, phòng khi đối phó với những kẻ đến hãm hại. Bây giờ cô không nên bỏ đi vội, hãy chờ cháu bốc thêm vài thang thuốc cho cô uống, chữa nội thương lành hẳn rồi hãy đem em Bất Hối lén trốn đi cũng chưa muộn.

Hiểu Phù gật đầu rồi dặn lại Vô Kỵ:

– Người họ Hồ này độc ác, cậu ở với y cũng nguy hiểm lắm, chi bằng cậu cùng bỏ đi với chúng tôi, có phải hơn không?

Vô Kỵ trầm ngâm không trả lời…

Ðêm hôm đó, Vô Kỵ không ngủ, chờ đến canh ba quả nhiên lại thấy Hồ Thanh Ngưu từ trong phòng lén ra và xuống dưới căn nhà tranh của Hiểu Phù đầu độc như đêm trước .

Ba ngày liền, Hiểu Phù vì không uống thuốc độc của Hồ Thanh Ngưu nên vết thương lành rất nhanh.

Còn bọn Giản Tiệp, Công Viễn và mấy người kia thì lúc khỏi lúc đau lại nên đã có người nổi giận mà thốt ra những lời oán trách.

Họ đổ lỗi tại y thuật của Vô Kỵ quá kém.

Vô Kỵ không thèm để ý tới những lời oán trách đó trong bụng nghĩ thầm:

– Qua được đêm nay ta có thể cùng mẹ con Kỷ cô nương lén trốn đi xa được rồi. Bệnh của ta không khỏi được thì ta cũng không trở về núi Võ Ðang nữa, để khỏi làm đau lòng Thái sư phụ và các sư bá sư thúc. Ta sẽ kiếm một nơi rất lẩn khuất, ẩn náu để từ từ đợi chết.

Nghĩ tới đó, Vô Kỵ rầu rĩ vô cùng, liền đi tới trước cửa phòng y tiên hỏi thăm vài câu.

Y lại nghĩ tới ác bà kim hoa sớm muộn cũng sẽ tới đây tầm thù. Không biết y tiên sẽ đối phó ra sao, nên y lên tiếng hỏi:

– Hồ tiên sinh ở Hồ Ðiệp Cốc này bấy nhiêu lâu, chẳng lẽ không thấy buồn phiền hay sao? Sao tiên sinh không đi nơi khác du ngoạn một phen cho đỡ buồn?

Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên vô cùng liền đáp:

– Tôi đang mắc bệnh đi sao được?

Vô Kỵ lại nói:

– Tiên sinh cứ mướn một chiếc xe lừa, lấy vải bịt hết cửa xe lại, không cho gió lọt vào thì không còn lo sợ gì nữa!

Hồ Thanh Ngưu thở dài một tiếng rồi đáp:

– Cậu có lòng tốt đối với tôi như vậy, nhưng thiên hạ rộng lớn, đi tới đâu cũng thế cậu ạ. Mấy ngày hôm nay ngực cậu có thấy đau không? Hơi độc ở đan điền có xông lên không làm nguy không?

Vô Kỵ trả lời:

– Hàn độc đó càng ngày càng mạnh hơn trước nhiều, dù sao cũng không có thuốc gì chữa rồi nên cháu cũng mặc cho nó hoành hành.

Hồ Thanh Ngưu ngẫm nghĩ giây lát rồi lại nói:

– Bây giờ tôi đọc cho cậu một cái toa, cậu cho tiểu đồng đi bốc và sắc ngay. Toa đó là Ðương Quy, Viễn Chí, Sinh Ðịa, Ðộc Hoạt, Phòng Phong, canh hai khi uống thì cần Xuyên Sơn Giác làm dẫn, nghe chưa! Và phải uống một cách thật mau chóng đấy nhé!

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng vì biết rằng năm vị thuốc đó không những không phải là thuốc chữa bệnh cho mình mà còn có một hai vị xung khắc với căn bệnh của mình nữa. Ðồng thời dùng Xuyên Sơn Giác làm dẫn thì càng vô lý nên y hỏi lại:

– Thưa tiên sinh, mỗi vị thuốc đó cân lạng bao nhiêu?

Hồ Thanh Ngưu nổi giận đáp:

– Ta đã nói rồi, có mau bước đi không?

Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu nổi giận, càng ngạc nhiên vì từ khi tới Hồ Ðiệp Cốc đến giờ, hàng ngày y với Hồ Thanh Ngưu đàm luận y lý, dược tính thì Hồ Thanh Ngưu coi y nửa như đồ đệ, nửa như bằng hữu.

Lúc nào Hồ Thanh Ngưu đối với y cũng tử tế, không bao giờ quát mắng và hò hét.

Vô Kỵ tức giận vô cùng, trở về phòng ngủ, nghĩ thầm:

– Ta có lòng tốt khuyên y đi xa để lánh nạn, không ngờ lại bị y mắng và còn khai bừa một toa thuốc lừa cho ta uống.

Khi nào ta lại mắc mưu y?

Nghĩ tới đó, Vô Kỵ nằm trên giường trằn trọc mãi, không sao ngủ được.

Sau y sực nghĩ lại:

– Ðương quy, Viễn Chí … có tên thuốc mà không có cân lượng! Cổ kim không có toa thuốc nào giống như thế cả. Hay là y muốn ngầm bảo ta …Ðương Quy nghĩa là nên đi về chăng? Viễn Chí là bảo ta nên để chí vào phương xa, tức là cao chạy xa bay. Còn Sinh Ðịa và Ðộc Hoạt lại càng rõ ràng hơn nữa, nghĩa là y tiên bảo ta chỉ có cách đó mới có thể sống sót. Còn Phòng Phong có nghĩa là gì? Phải rồi, y bảo ta đề phòng, đừng tiết lộ ra phong thanh. Ông ta lại nói, canh hai dùng Xuyên Sơn Giác làm dẫn, mau uống …tức là y bảo ta xuyên qua núi mà chạy nhanh đừng có đi theo con đường cái quan, và canh hai này phải đi ngay!

Nghĩ đoạn, Vô Kỵ hiểu rõ hảo ý của Hồ Thanh Ngưu vội ngồi dậy mặc quần áo định đi ngay, nhưng y sực nghĩ lại:

– Chắc Hồ tiên sinh biết thế nào đại họa cũng sẽ tới, nên mới bảo ta cao bay xa chạy. Nhưng lúc này kẻ địch chưa tới tại sao ông ta không nói rõ cho ta biết mà lại phải nói úp úp mở mở như vậy? Nếu ta ngu xuẩn mà không đoán ra được có phải là lỡ mất đại sự không? Lúc này đã qua canh hai, ta cần phải hành động mau mới được.

Vô Kỵ tuy nhỏ tuổi nhưng lòng hiệp nghĩa rất cao nên y lại nghĩ tiếp:

– Chắc thế nào Hồ tiên sinh cũng có ẩn tình chi đây nên không nói được, vì thế bấy lâu ông ta vẫn chưa chịu đào tẩu, hoặc ông ta ngấm ngầm xếp đặt một kế hoạch rất khéo để đề phòng kẻ địch rồi chăng? Còn ta, ta đâu bỏ được mẹ con Kỷ cô nương mà đi một mình?

Y liền lẻn ra ngoài phòng, đi tới lều tranh của Hiểu Phù, khẽ vỗ vai nàng một cái và kề tai nói nhỏ:

– Kỷ cô nương, mau thức dậy!

Hiểu Phù vội ngồi dậy hỏi:

– Có phải cậu Vô Kỵ đấy không?

Vô Kỵ chưa kịp trả lời thì đã cảm thấy sau lưng có tiếng gió, định quay lại chống đỡ nhưng y đã thấy trên vai và lưng tê tái. Thì ra y đã bị kẻ địch điểm huyệt, ngã xuống đất. Kẻ địch ra tay rất nhanh, điểm huyệt xong lại gạt thế chưởng của Hiểu Phù sang một bên và thuận tay điểm nốt yếu huyệt của nàng.

Ðêm hôm đó, trăng khuyết, ánh trăng không sáng lắm nhưng Vô Kỵ cũng thấy rõ là kẻ địch chính là Hồ Thanh Ngưu nên y hoài nghi vô cùng.

Y lại thấy Hồ Thanh Ngưu dùng hai tay bóp miệng Hiểu Phù, buộc nàng phải há ra, rồi móc túi lấy một viên thuốc nhét vào.

Hiểu Phù ngửi mùi thuốc đó đã thấy nhức óc, biết ngay đó là thuốc rất độc. Nhưng chân tay nàng không cử động được, nàng không sao chống cự nổi nên đưa mắt nhìn đứa con gái nằm cạnh, lòng rầu rĩ nghĩ thầm: “Bất Hối con ơi, số kiếp của mẹ con hẩm hiu thật, số kiếp con lại càng khổ hơn. Từ nay, mẹ không sao trông nom con được nữa.

Người nọ đang nhét viên thuốc vào mồm nàng, chợt thấy Vô Kỵ đột nhiên nhảy lên. Người nọ kinh hãi quay đầu lại nhìn, rồi nghe “bịch” một tiếng lưng người đó đã bị Vô Kỵ đánh trúng một chưởng thật mạnh.

Thì ra Vô Kỵ nhờ được học cách giải huyệt của Tạ Tốn, nên sau khi bị điểm huyệt y liền vận nội công tự giải được ngay.

Rồi y dùng Thần Long Bái Vĩ nhằm yếu huyệt ở sau lưng đối phương đánh tới. Tuy võ công của kẻ địch giỏi gấp bội Vô Kỵ nhưng y không ngờ Vô Kỵ bị điểm huyệt rồi mà lại tự giải huyệt được, hơn nữa chưởng pháp của Vô Kỵ rất thần kỳ, ảo điệu. Ðồng thời y đang mải ép Hiểu Phù uống thuốc nên không sao chống đỡ được thế công của Vô Kỵ. Bị đánh trúng vào yếu huyệt, y uể oải ngã ngay ra đất tức thì.

Y vừa ngã, cái khăn buộc mặt cũng bị tung ra. Vô Kỵ thấy rõ mặt y bỗng kinh hãi kêu thất thanh một tiếng.

Thì ra người đó không phải là Hồ Thanh Ngưu mà lại là một thiếu phụ rất đẹp, Vô Kỵ liền lớn tiếng hỏi:

– Bà …bà là ai?

Người đàn bà đó bị đánh trúng một chưởng vào đúng yếu huyệt sau lưng, đau đến mặt tái mét, không nói nên lời.

Vô Kỵ liền giải huyệt cho Hiểu Phù và nói:

– Cô nương hãy lấy kiếm dí vào ngực người đàn bà này, đừng để bà ta cử động, cháu vào thăm Hồ tiên sinh xem ra sao?

Vô Kỵ lo âu vô cùng, sợ Hồ Thanh Ngưu đã bị người đàn bà này giết hại vì y tưởng người đàn bà đó là đồng đảng của ác bà kim hoa.

Vô Kỵ chạy thẳng một mạch đến trước cửa phòng Hồ Thanh Ngưu, đập mạnh một cái và lớn tiếng gọi:

– Tiên sinh! Tiên sinh có việc gì không?

Y không nghe Hồ Thanh Ngưu trả lời, sợ hãi vô cùng, vội lấy đá lửa ở trên bàn thắp sáng ngọn nến tại đó rồi mở chăn ra xem, cũng không thấy Hồ Thanh Ngưu đâu cả. Trong lúc Vô Kỵ chạy vào trong phòng, trong lòng đoán chắc Hồ Thanh Ngưu đã bị người đàn bà kia giết hại, xác bỏ nằm trên mặt đất.

Nhưng bây giờ, vào tới phòng y tiên, không thấy ông ta đâu cả y yên tâm hơn trước nghĩ thầm:

– Hồ tiên sinh đã bị kẻ địch bắt cóc đi rồi chăng? Có lẽ lúc này ông ta chưa bị giết đâu! Ðoạn y định cầm nến chạy ra bên ngoài xem bỗng nghe dưới gầm giường có tiếng thở rất nhẹ, liền cầm nến rọi xem thì thấy Hồ Thanh Ngưu , chân tay bị trói chặt, đang nằm dẫy giụa trên mặt đất.

Y cả mừng vội nói:

– Tiên sinh! Cháu đến cứu tiên sinh đây!

Kế đó y liền kéo Hồ Thanh Ngưu ra, thấy mồm của Hồ Thanh Ngưu bị nhét một quả hạnh đào rất lớn nên y tiên không nói được.

Vô Kỵ lấy quả hạnh đào đó ra rồi mới cởi trói cho Hồ Thanh Ngưu.

Tay chân của Hồ Thanh Ngưu bị trói bằng những sợi gân bò và dây tơ chằng chịt, không sao cởi được.

Vô Kỵ đành phải lấy dao nhỏ cắt hết những sợi dây đó mới cởi trói được cho Hồ Thanh Ngưu.

Hồ Thanh Ngưu vội hỏi:

– Người đàn bà kia đâu?

Vô Kỵ đáp:

– Nàng ta đã bị cháu điểm huyệt, chắc không thể nào đào tẩu được đâu!

Hồ Thanh Ngưu vội nói:

– Cậu dẫn nàng vào đây cho tôi. Mau lên! Nếu chậm thì không kịp đâu!

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao vậy?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Mau dẫn nàng lại đây. Bằng không, cậu hãy lấy ba viên Ngưu Hoàn Huyết Kiệt đơn đưa cho nàng uống. Thuốc để ở ngăn kéo thứ tư ấy, may lên!

Y tiên luôn mồm thúc giục, còn thần sắc thì có vẻ hoảng sợ .

Vô Kỵ biết Ngưu Hoàn Huyết Kiệt đơn là một thứ thuốc giải độc rất linh nghiệm, chỉ một viên là đủ để chữa được bệnh ngộ độc rất nặng.

Y không dám hỏi thêm, liền đi lấy thuốc và chạy thẳng đến lều tranh đưa cho thiếu phụ đó và quát lớn:

– Mau uống đi!

Thiếu phụ nọ mắng lại:

– Bước ra! Ai khiến tiểu tặc có lòng tốt như vậy?

Vô Kỵ liền đáp:

– Ðây là Hồ tiên sinh bảo tôi đem đến cho bà uống đấy.

Thiếu phụ lại quát lớn:

– Bước ra! Bước ra!

Vô Kỵ không hiểu dụng ý của Hồ Thanh Ngưu ra sao nhưng y cũng đoán trong khi nữ tặc này trói Hồ Thanh Ngưu đã trúng phải ám khí độc của y tiên. Nhưng chắc Hồ Thanh Ngưu không muốn nữ tặc này chết nên y liền điểm huyệt luôn vào hai yếu huyệt ở trên vai của thiếu phụ nọ để cho đối thủ không sao kháng cự được rồi y nhét luôn ba viên thuốc vào mồm.

Những tiếng động của Vô Kỵ đã làm cho Bất Hối thức dậy, trợn tròn mắt, ngơ ngác nhìn.

Vô Kỵ liền nói với Hiểu Phù:

– Cô nương, chúng ta đem nữ tặc này lên trên nhà để Hồ tiên sinh xét xử.

Thế rồi y cùng Hiểu Phù mỗi người xách một tay thiếu phụ, đem vào trong buồng ngủ của Hồ Thanh Ngưu.

Hồ Thanh Ngưu vẫn nằm ngửa trên mặt đất, vừa thấy mặt thiếu phụ đã vội hỏi:

– Ðã uống thuốc chưa?

Vô Kỵ đáp:

– Bà ta uống rồi.

Hồ Thanh Ngưu có vẻ yên tâm nói tiếp:

– Ðược lắm! Ðược lắm!

Vô Kỵ liền đỡ Hồ Thanh Ngưu dậy, Thanh Ngưu đi tới trước mặt thiếu phụ, vạch mi mắt nàng lên xem, sau lại nắm tay thăm mạch, bỗng kinh hãi hỏi:

– Em …Tại sao em lại bị ngoại thương như thế này? Ai đã đả thương em?

Giông nói của y tiên có vẻ kinh hoảng và thương xót lắm. Thiếu phụ nọ bĩu môi đáp:

– Hỏi đồ đệ quí của anh sẽ biết!

Hồ Thanh Ngưu quay lại hỏi Vô Kỵ:

– Có phải cậu đả thương nàng không?

Vô Kỵ đáp:

– Vâng, bà ta đang định …

Vô Kỵ vừa nói tới đó, Hồ Thanh Ngưu đã giơ tay lên tát luôn hai cái.

Vô Kỵ không để ý nên không sao tránh được.

Bị hai cái tát đó, Vô Kỵ thấy nổ đom đóm mắt, tối tăm mặt mũi muốn chết giấc.

Hiểu Phù thấy vậy vội rút trường kiếm ra quát hỏi:

– Ngươi làm gì thế ?

Hồ Thanh Ngưu không coi lưỡi kiếm của Hiểu Phù ra gì, vẫn ung dung quay lại hỏi thiếu phụ:

– Em có thấy đau ngực không, Ðừng ngại thế nào anh cũng chữa cho em khỏi!

Thái độ của Hồ Thanh Ngưu đối với thiếu phụ nọ rất ân cần, chứ không lì lì như mọi ngày.

Trái lại, mặt thiếu phụ kia lạnh lùng khôn tả.

Vô Kỵ rờ tay lên mặt, thấy hai má sưng húp, y càng mơ hồ không hiểu gì cả.

Hồ Thanh Ngưu giải huyệt cho thiếu phụ kia, rồi lấy mấy viên thuốc giải độc cho nàng uống.

Sau đó, y tiên lại ẵm nàng đặt lên giường, lấy chăn đắp phủ lên người.

Hồ Thanh Ngưu nhìn thiếu phụ nọ một hồi khẽ nói:

– Lần này em đã uống thuốc độc, lại thêm bị đả thương, nếu anh chữa khỏi thì từ nay trở di chúng ta đừng đua với nhau nữa nhé!

Thiếu phụ kia vừa cười vừa nói:

– Chút ít thương tích nhẹ đó nghĩa lý gì nhưng còn thuốc độc gì, anh làm sao mà chữa cho em khỏi thì em phục anh lắm. Nhưng em chỉ e bản lĩnh của Y Tiên không làm sao bằng được Ðộc Tiên mà thôi!

Nói xong, nàng tủm tỉm cười, trông rất nhu mì và lẳng lơ.

Vô Kỵ thấy vậy, biết tình cảm giữa hai người rất mật thiết.

Y lại nghe Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:

– Mười năm trước anh đã nói là Y Tiên không sao bằng được Ðộc Tiên nhưng em cứ không tin. Ðấu với nhau như vậy làm gì? Lần này anh chỉ mong Y Tiên thắng Ðộc Tiên, bằng không anh cũng không muốn sống một mình làm chi nữa?

Thiếu phụ khẽ cười đáp:

– Nếu em đi đầu độc người khác thì anh để mặc em và giả bộ thua em phải không? Hà, hà, lần này em tự đầu độc thì anh phải giở hết tài ba mới được!

Hồ Thanh Ngưu khẽ vuốt tóc nàng, thở dài một cái và nói:

– Anh lo ngại lắm, em đừng nói nhiều nữa, mau nhắm mắt lại. Nếu em ngấm ngầm vận nội công để cho khó chữa thì anh đến phải bó tay chịu thua, như vậy không được công bằng chút nào.

Thiếu phụ mỉm cười đáp:

– Không khi nào em lại làm thế đâu, anh yên chờ!

Nói xong, nàng nhắm nghiền hai mắt, mồm vẫn tủm tĩm cười.

Hiểu Phù và Vô Kỵ thấy hai người đối đáp với nhau như vậy đều ngẩn người, không hiểu gì cả.

Hồ Thanh Ngưu quay lại, vái Vô Kỵ một cách rất lễ phép rồi nói:

– Vừa rồi tôi nóng nảy, đã lỡ tay đánh cậu, mong cậu lượng thứ cho!

Vô Kỵ hậm hực đáp:

– Cháu thật không hiểu tiên sinh làm cái trò quỷ gì thế?

Hồ Thanh Ngưu giơ tay lên tát luôn vào má mình hai cái nói tiếp:

– Cậu đã có ơn lớn cứu tôi thoát chết nhưng vì tôi quá lo ngại cho nhà tôi mà lỡ tay xúc phạm tới cậu.

Vô Kỵ quá ngạc nhiên hỏi:

– Bà …bà đây là quý phu nhân?

Hồ Thanh Ngưu gật đầu đáp:

– Chính nhà tôi đấy!

Xưa nay Hồ Thanh Ngưu rất nghiêm trang nên Vô Kỵ rất kính nể.

Lúc này Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu tự tát má mình như vậy, đủ thấy y tiên đã thành tâm xin lỗi rồi, lại thấy thiếu phụ kia là vợ của Hồ Thanh Ngưu nên lửa giận của y đã tắt hết.

Hồ Thanh Ngưu lấy hai cái ghế ra mời Hiểu Phù và Vô Kỵ ngồi và tiếp:

– Câu chuyện ngày hôm nay, chắc hai vị lấy làm lạ lắm. Bây giờ chúng tôi cũng không giấu giếm làm gì nữa. Nhà tôi họ Vương, tên Nạn Cô, là sư muội của tôi khi hai chúng tôi còn còn đang học võ. Ngoài luyện tập võ công, tôi còn chuyên theo y lý còn nàng thì chuyên học độc dược. Nàng nói, người ta học võ là để giết người và môn độc dược cũng là để giết người, quý hồ tinh thông độc thuật thì võ công cao siêu gấp bội. Nhưng y đạo là thuật để chữa bệnh cứu người trái hẳn với võ thuật. Tôi thấy lời nói của nàng cũng phải nhưng tôi đã trót học y đạo rồi nên đành phải theo học tới cùng. Hai chúng tôi mỗi người học một môn nhưng chúng tôi lại rất yêu nhau. Sư phụ tôi liền đứng chủ hôn cho phép chúng tôi cưới nhau. Trên giang hồ người ta gọi tôi là Y Tiên còn vợ tôi là Ðộc Tiên. Thuật xử dụng độc của nàng thần diệu vô cùng, không những không ai sánh kịp mà có lẽ nàng còn giỏi hơn cả sư phụ tôi là khác. Ðã mấy lần nàng đầu độc kẻ thù bằng thuốc độc chết người, kẻ bị trúng độc kiếm tôi cứu chữa cho. Tôi chẳng biết nếp tẻ gì cả, liền chữa cho người đó khỏi. Lúc ấy tôi bất đắc dộ lắm nhưng tôi có biết đâu lại làm phật ý vợ tôi. Ðộc Tiên đầu độc người mà Y Tiên lại chữa khỏi, nàng cho như vậy là tôi tự cho tôi giỏi hơn nàng.

Hiểu Phù nghe Hồ Thanh Ngưu giải thích, lắc đầu vì trong lòng cho rằng Hồ Thanh Ngưu vô lý và làm bậy.

Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:

– Xưa nay nàng đối với tôi rất nhu mì ôn thuận, tình thâm nghĩa nặng. Sau cùng tôi biết làm như vậy là không đẹp với nàng nên tôi đã thề nặng rằng những người đã bị nàng đầu độc thì tôi quyết không ra tay cứu. Cũng chính vì thế tôi mới nổi tiếng là “thấy chết không cứu”. Nhà tôi thấy tôi đã hối cải nên đã tha thứ cho những việc đã qua. Ngờ đâu, tôi hối cải được vài năm lại xẩy ra câu chuyện em gái tôi bị Tiên Vu Thông, người của phái Hoa Sơn dụ dỗ, và cuối cùng chết về tay y. Nhưng cho tới lúc thở hơi cuối cùng em tôi vẫn còn yêu y, bắt tôi phải thề nặng, nhận lời lo lắng cho tên giặc ấy. Tôi thấy em gái tôi chết mà không chịu nhắm mắt nên đành phải nhận lời. Bất ngờ nhà tôi lại cho Vu Thông uống một thứ độc rất lợi hại nên những bắp thịt của y cứ bị thối dần và y chỉ sống được ba năm là cùng. Vu Thông biết tôi đã nhận lời của em tôi nên y liền tới cầu cứu khiến tôi khó sử vô cùng.

Hiểu Phù liền xen lời nói:

– Vu Thông hiện giờ là trưởng môn của phái Hoa Sơn, võ công rất lợi hại , cũng có đôi chút tên tuổi trên giang hồ. Có người bảo y là một tay nghĩa hiệp nữa. Ngờ đâu, y lại là một kẻ tiểu nhân ty tiện đã làm hại em gái của tiên sinh. Tiên sinh còn cứu y làm gì? Huống hồ em gái của tiên sinh đã chết rồi thì làm sao còn biết được chuyện đó nữa.

Vô Kỵ cũng xen vào:

– Không, không. Người tuy đã chết xuống âm phủ, nhưng vẫn còn biết chuyện trên thế gian chứ không phải không biết tí gì như Kỷ cô nương nói đâu!

Hồ Thanh Ngưu thở dài nói tiếp:

– Tuy chúng ta không biết rõ chuyện dưới âm thực hư ra sao, nhưng tôi nghĩ, nếu tôi làm trái ý nhà tôi thì sau này tôi còn có thể cứu vãn chứ tôi làm trái ý em tôi thì .. tủi cho vong hơn của nó dưới suối vàng. Vì vậy, tôi mới phải giở hết tài ba ra để cứu tên gian tặc Vu Thông kia. Không ngờ lần ấy nhà tôi không cãi vã với tôi nửa lời chỉ nói: “Ðược lắm! Y đạo của Ðiệp Cốc Y Tiên quả thật thần thông quảng đại. Nhưng tôi, Ðộc tiên Vương Nạn Cô đây vẫn không chịu phục. Chúng ta lại thi tài một lần nữa xem ai cao tay hơn ai?”

Tôi đã hết sức xin lỗi nhưng nhà tôi nhất định không nghe.

Thế là từ đó, nhà tôi cứ cố công nghiên cứu các loại thuốc độc để đầu độc các nhân vật giang hồ rồi bảo họ phải tìm tới đây nhờ tôi cứu chữa cho.

Nói tới đó, y tiên có vẻ ăn năn hối hận khôn tả.

Hiểu Phù đưa mắt nhìn Vương Nạn Cô đang nằm ở trên giường và nghĩ thầm:

– Bà này hành động quái gở như vậy, thật xứng đáng với biệt hiệu Ðộc Tiên. Nhưng nàng không đầu độc ai là đã phúc đức cho người đó rồi, chứ có ai dám đầu độc nàng mà nàng lại bị thảm độc như vậy. Còn Hồ tiên sinh sợ vợ đến nước đó kể cũng tức cười.

Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:

– Bảy năm trước, có một đôi vợ chồng già đi bắn trúng khí độc, tới đây cầu tôi cứu chữa. Hai vợ chồng ấy là chủ nhân của Linh Xà đảo ngoài Ðông Hải, võ công rất cao siêu và lạnh lùng khác hẳn các môn phái ở Trung Nguyên này. Cả hai đều là những nhân vật thuộc vai vế là Kim Hoa lão bá, chồng là Ngân Diệp tiên sinh, đã lừng danh khắp thiên hạ từ mấy chục năm về trước. Người trên giang hồ đều sợ hãi. Tôi không dám cự tuyệt một cách trắng trợn. Nhưng tôi đâu dám chữa vì ngại làm cho nhà tôi tức giận thêm nữa nên tôi liền thăm mạch cho ông bà ta xong liền nói: “Ðảo chủ Ngân Diệp tiên sinh bị độc thương quá nặng, không có thuốc gì cứu chữa nổi. Còn phu nhân Kim Hoa bà bà trúng độc không nặng lắm, có thể dùng nội công của bản mình mà đẩy chất độc ra ngoài là khỏi ngay!”

Sau đó tôi hỏi họ xem ai đã hạ độc thủ, hãm chất độc lợi hại đến thế thì Kim Hoa lão bá cho tôi rõ đó là một nhân vật rất lợi hại của phái Bạch Ðà bên Tây Vực chứ không liên quan gì tới nhà tôi cả. Nhưng tôi đã thề là chỉ chữa cho đệ tử của Minh Giáo thôi nên tôi không phá lệ mà chữa cho hai ông bà ấy. Lão phu nhân ấy hứa tặng tôi một món quà rất hậu nhưng tôi nghĩ tới tình vợ chồng của chúng tôi nên từ chối. Người chồng không ép tôi chữa chỉ lắc đầu chán nản rồi rầu rĩ bỏ đi ngay. Tôi biết là không chữa cho họ thì sau này thế nào cũng mang họa vào thân nhưng tôi coi tình nghĩa vợ chồng nặng hơn nên không ngại gì cả.

Hiểu Phù và Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu ương ngạnh quá chừng cũng nực cười.

Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:

– Gần đây Ngộ Xuân tới Hồ Ðiệp Cốc thăm Vô Kỵ, dọc đường có gặp một bà lão, bà ta nhờ y truyền lời cho tôi hay là tôi nói không sai chút nào. Ngân Diệp tiên sinh đã chết. Ngộ Xuân đi khỏi vài ngày thì nhà tôi bỗng trở về. Nàng thấy có người lạ thì dùng thuốc mê làm cho Vô Kỵ bất tỉnh …

Nghe tới đó, Vô Kỵ mới sực nhớ:

– Thảo nào đêm hôm ấy ta ngủ say đến thế, mãi tới sáng ngày hôm sau mới tỉnh. Hôm ấy ta cứ ngỡ ta bị bệnh tái phái mà không biết tí nào!

Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:

– Tôi thấy nhà tôi trở về một cách đột ngột mừng rỡ vô cùng. Nàng liền cho tôi hay tin Kim Hoa bà bà đã quay trở lại Trung Nguyên. Vì vậy dù vẫn còn tức giận tôi mà nàng cũng phải về nhà cho tôi hay tin đó. Nàng bắt tôi phải giả bộ bị bệnh đậu mùa, không tiếp kiến ai cả để chúng tôi được ở yên trong phòng mà nghĩ cách đối phó lại bà ta. Chúng tôi biết võ công của bà ta cao siêu vô cùng, chúng tôi làm cách nào cũng không thể trốn thoát được, nhưng Kim Hoa bà bà có một tính nết rất lạ lung là bà ta muốn giết ai cũng vậy chỉ đánh có ba thế võ thôi. Nếu người đó chống đỡ nổi ba thế ấy, bà ta sẽ tha liền. Mấy ngày sau bọn Công Viễn, Giản Tiệp và Kỷ cô nương lần lượt tới đây. Tôi nghe nói về những vết thương của bọn họ thì biết ngay là Kim Hoa bà bà có ý thử thách, coi tôi có giữ lời hứa năm xưa, không chữa cho người ngoài mà chỉ chữa cho đệ tử của Minh Giáo không. Bà ta hạ độc thủ kỳ lạ khiến mỗi người bị một vết thương rất quái dị. Vì bà ta biết rằng tôi rất thích chữa những bệnh kỳ lạ, hễ thấy những bệnh quái dở đó là thế nào tôi cũng ra tay chữa thử. Nhưng tôi đã biết đó là ý định của bà ta, nếu tôi ra tay chữa cho một người là tôi sẽ bị bà ta trả thù một cách thảm khốc. Vì vậy tuy tôi muốn chữa lắm mà vẫn phải bó tay. Sau Vô Kỵ hỏi tôi cách chữa ra sao tôi mới gián tiếp bảo cậu ấy nhưng tôi đã phải thanh minh trước rằng Vô Kỵ là đệ tử của phái Võ Ðang, không liên quan gì đến tôi cả. Vương Nạn Cô thấy Vô Kỵ theo cách của tôi mà chữa khỏi cho nhiều người như vậy nàng có vẻ không vui nên đêm đêm lẻn ra ngoài bỏ thuốc độc cho mọi người uống. Ðó là nàng vẫn tiếp tục tranh được thua với tôi.

Hồ Thanh Ngưu ngưng lại giây lát rồi nói tiếp:

– Mấy ngày gần đây nàng thấy Kỷ cô nương lành mạnh một cách nhanh chóng lạ thường chắc là thuốc độc của mình không công hiệu. Nàng liền điều tra mới rõ cậu Vô Kỵ đã phát giác ra hành động bí mật của nàng. Vì vậy nàng mới định hạ độc thủ hại Vô Kỵ. Ðáng lẽ tôi không can thiệp vào nhưng đêm hôm qua lúc Vô Kỵ tới trước cửa phòng khuyên tôi nên đi ra ngoài du ngoạn để tránh đại họa thì tôi bỗng động lòng thương cậu bé, khai một toa thuốc ngầm bảo cậu Vô Kỵ đào tẩu ngay. Sở dĩ lúc ấy tôi không dám nói trắng ra là vì lúc ấy có Vương Nạn Cô đứng cạnh. Nhưng nàng là người rất thông minh, lại biết rành dược nên nghe toa thuốc tôi đọc cho Vô Kỵ biết ngay là vô lý nên nàng chỉ suy nghĩ giây lát thì hiểu ngay ý định và mưu kế của tôi. Nàng vội lấy dây trói chân tay tôi lại, rồi lấy mấy thứ thuốc độc ra uống và nói: “Lang quân! Chúng ta nên vợ nên chồng hơn hai mươi năm trời, dù bể cạn, đá mòn tình nghĩa của đôi ta cũng không thể nào phai nhạt, không hiểu tại sao lang quân cứ coi thường độc thuật của em. Bất cứ em dùng độc gì để hại người anh cũng chữa khỏi được. Lần này em quyết uống thứ độc này, nếu anh chữa khỏi thì em mới chịu thua anh”. Tôi nghe nàng nói vậy kinh hãi vô cùng, liền định chịu thua nàng nhưng mồm tôi đã bị nàng nhét trái hạnh đào, không sao nói ra tiếng được.

Y tiên vừa nói vừa lắc đầu. Hiểu Phù và Vô Kỵ ngẩn người nhìn nhau, vừa bực mình vừa tức cười vì họ thấy hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu quả thật kỳ lạ.

Hồ Thanh Ngưu vì quá yêu vợ mà hóa ra sợ vợ còn Vương Nạn Cô thì luôn luôn muốn giỏi hơn chồng, sau cùng còn không tiếc thân, tự phục độc để thử thách chồng nữa.

Vô Kỵ sực nghĩ ra một kế vội khẽ nói:

– Chẳng hay sư mẫu uống thứ độc gì thế? Phải dùng thứ thuốc gì mới chữa khỏi?

Hỏi xong y vội giơ tay ra hiệu bảo Hồ Thanh Ngưu đừng nói.

Thanh Ngưu đưa mắt nhìn vợ, đã hiểu được ngầm ý của Vô Kỵ nên đáp:

– Mấy năm nay nhà tôi nghiên cứu độc học, tiến bộ hơn trước nhiều nên tôi không thể nào biết rõ nàng đã uống thứ thuốc độc nào? Vì vậy tôi không còn biết dùng vị thuốc nào để cứu chữa cho nàng.

Vô Kỵ liền dùng ngón tay chấm vào nước trè, viết lên trên mặt bàn:

– Tiên sinh viết vị thuốc ấy ra cho cháu đi!

Y viết như vậy nhưng mồm thì nói tiếp:

– Nếu vậy sư mẫu không có thứ thuốc nào cứu chữa được sao?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Bây giờ chỉ có mình nhà tôi là mới biết dùng thứ thuốc gì để cứu chữa thôi. Nhưng tính nết nàng rất bướng bỉnh, nàng thà chịu chết chứ không bao giờ chịu nói ra cho tôi biết đâu.

Mồm y tiên nói thế mà tay lại viết:

– Nàng đã uống tam trùng là rết, rắn, nhện độc và tam thảo là Thất Bộ, Ðoạn Trường và Tẩu Hỏa Khuẫn …

Y lại viết thêm một cái toa chữa.

Vô Kỵ lại viết tiếp:

– Tiên sinh cũng uống tam trùng và tam thảo đi để cháu thử cứu chữa cho tiên sinh trước!

Hồ Thanh Ngưu ngẫm nghĩ giây lát đã hiểu rõ mưu của Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Phương pháp này tuy nguy hiểm nhưng có thể cứu vãn được tình thế nan giải này!

Vô Kỵ lại nói:

– Y thuật của tiên sinh như thế mà không biết được sư mẫu đã uống những thứ thuốc gì ư?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Tôi đoán là nhà tôi uống những thứ độc nhất như tam trùng tam thảo chẳng hạn chứ không còn thứ thuốc nào khác đâu. Cậu thử nghĩ xem, tam trùng thuộc âm tính, tam thảo thuộc dương tính, người ta chỉ uống một trong sáu thứ đó cũng khó chữa lắm rồi, huống hồ uống liền sáu thứ một lúc! Nếu dùng thuốc chữa độc tính của tam trùng thì phải làm cho âm suy dương thịnh, như vậy là lại làm cho độc tính của tam thảo nặng thêm. Trái lại cũng thế. Cậu thử nghĩ xem, thân người ta là máu và thịt thì chịu làm sao nổi sự xung đột của sáu thứ độc dược ấy.

Nói tới đó, y xua tay nói tiếp:

– Hai vị đã ra đi nếu Vương Nạn Cô chết tôi cũng không sống đâu!

Hiểu Phù và Vô Kỵ đồng thanh nói:

– Mong tiên sinh bảo trông thân thể và tiên sinh cũng nên khuyên sư mẫu vài lời.

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Nếu nhà tôi chịu nghe lời khuyên của tôi thì đâu đến nỗi này!

Nói tới đó, y tiên nghẹn ngào, Hiểu Phù và Vô Kỵ liền cáo lui ra ngay.

Hồ Thanh Ngưu lẹ tay điểm luôn hai yếu huyệt ở lưng và ở vai một cái rồi nói:

– Hiền nội! Người chồng này bất tài, không sao chữa khỏi cho em được, nên anh chỉ còn có một cách là theo em xuống âm phủ một thể để có vợ có chồng ở dưới âm với nhau.

Nói xong, y móc túi Vương Nạn Cô lấy mấy gói thuốc bột.

Quả nhiên y tiên đoán không sai, những gói thuốc ấy chính là tam trùng và tam thảo. Vương Nạn Cô bị điểm huyệt không sao cử động được nhưng miệng nàng vẫn nói được như thường vội lên tiếng nói:

– Lang quân chớ có uống những thuốc độc này!

Hồ Thanh Ngưu không nghe, cứ việc mở mấy gói thuốc độc ấy ra, uống một hơi. Vương Nạn Cô cả kinh la lớn:

– Sao anh uống nhiều thế? Bấy nhiêu thuốc đủ giết chết hơn ba mươi người đấy!

Hồ Thanh Ngưu cười nhạt rồi ngồi xuống cái ghế đầu giường. Lát sau y thấy trong bụng như bị dao cắt, biết là Ðoạn Trường lâm nguy trước.

Một lát sau nữa, năm thứ thuốc độc kia cũng lần lượt phá phách.

Y tiên không sao chịu đựng nổi. Vương Nạn Cô liền la lớn:

– Lang quân, em có thứ thuốc cứu được sáu thứ độc này!

Hồ Thanh Ngưu đau đớn run rẩy, hai hàm răng cũng run cầm cập , lắc đầu đáp:

– Anh không …tin…anh sắp chết đến nơi rồi …

Vương Nạn Cô lại la lên:

– Anh mau chóng uống Ngọc Long Tô hợp tán và dùng kim châm vào yếu huyệt giải độc thì khỏi liền.

Thanh Ngưu lại đáp:

– Khỏi cũng vô ích mà!

Vương Nạn Cô vừa cười vừa nói tiếp:

– Em uống lượng rất ít, anh hãy cứu chữa cho em trước rồi em chữa cho anh sau. Mau lên kẻo không kịp cứu chữa cho anh đấy.

Hồ Thanh Ngưu lại trả lời:

– Anh nhất tâm, nhất trí yêu thương em, mà em thì cứ hiếu thắng đòi thi đua với anh hoài, anh nhận thấy sống như thế này thật vô vị quá thì chết còn hơn. ối chà! …ối chà …

(Thiếu một đoạn))

Hồi thứ 32

Nhờ Vã Lúc Hấp Hối

Vô Kỵ thấy trong bọc áo của Hiểu Phù có bảy tám lạng bạc, liền lấy bỏ vào túi để sử dụng.

Tuy y không biết núi Côn Luân cách đó bao xa, nhưng y nghĩ mấy lạng bạc đó cũng đủ làm lộ phí đi đến nơi.

Hai đứa bé đi nửa ngày mới ra khỏi Hồ Ðiệp Cốc.

Bất Hối chân nhỏ, bước đi rất ngắn nên đã mỏi mệt không đi nữa được.

Nghỉ ngơi lâu một lúc, hai đứa bé lại tiếp tục lên đường.

Tối hôm đầu, hai đứa không tìm được khách điếm để trọ, đi mãi đến trời tối hẳn mà vẫn còn lang thang trong rừng núi, bốn bề chỉ nghe tiếng sài lang rú và tiếng cú kêu.

Bất Hối kinh hãi đến khóc òa lên, Vô Kỵ cũng sợ, nhưng trong hoàn cảnh này y phải gượng làm ra gan dạ.

Y thấy bên cạnh đường có một cái hang, liền kéo Bất Hối vào đó ẩn nấp.

Y ôm Bất Hối vào lòng và lấy tay bịt tai con nhỏ lại để nó không nghe tiếng rú của thú dữ.

Ðêm đó, hai đứa bé vừa đói vừa sợ nên không sao ngủ được.

Sáng hôm sau, Vô Kỵ hái ít trái cây rừng cùng Bất Hối ăn, xong hai đứa lại tiếp tục đi.

Ði đến chiều tối mà vẫn chưa ra khỏi rừng núi.

Bất Hối đột nhiên thất thanh la lớn và chỉ tay vào một cỗ thụ bên đường.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn rồi cũng hoảng sợ, vội kéo Bất Hối ù té chạy.

Thì ra trên cây đó có hai cái xác đang treo lủng lẳng.

Hai đứa chạy được mười bước thì vấp phải đá, cùng té một lượt.

Vô Kỵ đánh bạo quay đầu lại nhìn, y càng kinh ngạc và buột miệng la lớn:

– Hồ tiên sinh.

Thì ra hai cái xác treo lủng lẳng trên cành cây đó vừa bị gió thổi, một cái quay mặt trở lại, nên Vô Kỵ mới nhận ra là Hồ Thanh Ngưu.

Còn một cái xác nữa, tóc dài xõa xuống lưng, y nhận ngay ra là xác của một thiếu phụ.

Nhìn y phục y lại nhận ra là Vương Nạn Cô, vợ của Thanh Ngưu.

Trong lúc trời tranh sáng tranh tối, gió thổi ào ào làm hai xác phất phới, trông lại càng rùng rợn.

Vô Kỵ định trần một lát rồi tự an ủi:

– Không sợ, không sợ.

Kế y bò dậy, từ từ đi tới gần, quả nhiên thấy hai cái xác treo lơ lửng trên cây chính là vợ chồng Hồ Thanh Ngưu.

Y thấy mặt hai vợ chồng Thanh Ngu có ánh sánh vàng lấp lóe, nhìn kỹ mới rõ mặt của hai người đều có cắm bông mai vàng.

Lúc nầy Vô Kỵ mới hiểu và nghĩ thầm:

– “Thì ra hai vợ chồng Hồ tiên sinh vẫn không sao thoát khỏi bàn tay độc ác của Kim Hoa lão bà”.

Y lại thấy một cái xe lừa mục nát nằm dưới khe suối, còn con lừa thì bị chết chìm dưới nuớc.

Trời đã tối, biết không thể nào tiếp tục đi nữa, y đành cùng Bất Hối nằm ngủ dưới gốc cỗ thụ.

Ngủ tới nửa đêm bỗng nghe có tiếng dã thú cắn nhau.

Vô Kỵ thức tỉnh, mở mắt ra nhìn thì thấy có năm sáu con sài lang đang kêu rú và tranh ăn xác con lừa.

Y vội cõng Bất Hối leo lên cành.

Mấy con sài lang nghe tiếng động liền chạy lại quây quần dưới gốc cây, ngửng đầu lên nhìn. Một lát sau chúng lại quay trở xuống khe núi tiếp tục ăn xác con lừa.

Nhưng chúng vẫn thèm ăn thịt người hơn nên lại quay lại gốc cây chầu chực.

Chờ trời sáng hẳn chúng mới bỏ đi.

Vô Kỵ thấy rõ lũ sài lang đã đi xa rồi liền cõng Bất Hối leo xuống.

Ðoạn, y cởi sợi dây treo vợ chồng Thanh Ngưu để buông hai cái xác xuống, bỗng nghe kêu “bộp” một tiếng, trong người Nạn Cô có một cuốn sách rơi ra, Vô Kỵ vội lượm lên xem, mới hay đó là một quyển sổ viết chữ bằng tay, ngoài bìa đề “Ðộc vật đại toàn”.

Y mở ra xem, thấy viết chằng chịt các thứ độc vật, cách sử dụng và cách phá giải.

Y liền bỏ vào trong túi rồi đặt hai cái xác vào một chỗ, nhặt những cục đá và đất, đắp lên thành một cái mộ.

Y quỳ xuống lạy rồi mới dắt Bất Hối lên đường.

Trưa hôm đó chúng đã đi tới đường cái quan, không bao lâu thì vào một thị trấn nhỏ.

Y định mua cơm ăn, nhưng tới nhà nào cũng thấy bỏ trống không một bóng người.

Bất đắc dĩ y đành tiếp tục lên đường nữa.

Suốt dọc đường ruộng lúa đều bị khô héo và đất nứt nẻ.

Lúc nầy đang là mùa gặt mà sao ruộng chỉ mọc đầy những cây gai và cỏ khô thôi.

Cảnh hoang vu lạnh lùng!

Vô Kỵ kinh hãi thầm, nhưng y thấy Bất Hối có thể nhịn đói được mà không kêu khóc, nên cũng đỡ phiền.

Hai đứa bé đi được một lát, lại thấy bên đường có mấy cái xác nằm ngổn ngang, khô héo, hai má hóm lép, chỉ thoáng trông, Vô Kỵ cũng biết ngay những người đó chết vì đói.

Càng đi xa thêm, Vô Kỵ càng thấy người chết đói càng nhiều trong lòng càng hoảng sợ và nghĩ:

– Không có thức ăn như thế này, có lẽ ta với Bất Hối cũng chết đói như họ mất!

Ði tới chiều hôm đó, đến một nơi rừng rậm, Vô Kỵ thấy xa xa có khói bốc lên, trong lòng cả mừng.

Lúc đi tới gần chỗ đó y thấy năm người đang quây quần một nồi nồi nước sôi và đang bỏ thêm củi vào lò. Những người đó nghe có tiếng chân đi tới, đều quay đầu lại nhìn, thấy Vô Kỵ và Bất Hối là hai đứa trẻ, đều tỏ ra hớn hở.

Hai tên trong bọn liền đứng dậy vẫy tay gọi:

– Bé con, mau lại đây.

Vô Kỵ hỏi:

– Anh em chúng cháu đi mấy ngày đường rồi, không có chút gì ăn cả. Các chú làm ơn cho chúng cháu ăn một ít, cháu xin tạ lại bằng tiền bạc.

Một người đáp:

– Cháu có tiền bạc đấy à? Hãy lấy ra cho ta xem nào?

Vô Kỵ vội móc túi lấy ra một nén bạc.

Người nọ vội cướp nén bạc, miệng thì la:

– Hay lắm! Người lớn đi cùng hai cháu đâu! Họ đi đâu thế ?

Vô Kỵ đáp:

– Chúng cháu chỉ có hai anh em thôi, chớ không có người lớn nào cả.

Năm người nọ đều ha hả cả cười. Hai người trong bọn lại còn ca hát nhảy múa.

Ðói bụng quá, Vô Kỵ nhìn vào cái nồi, xem bên trong nấu những gì?

Y chỉ thấy toàn là cỏ xanh.

Một người trong bọn túm cổ Bất Hối nói:

– Con dê non này vừa béo vừa non. Bữa ăn tối nay của chúng ta thật là ngon lành quá!

Người thứ hai xen lời:

– Phải đấy, còn thằng nhỏ thì để ngày mai hãy ăn.

Vô Kỵ nghe nói, kinh hãi vô cùng bèn quát lớn:

– Ngươi bắt em ta làm gì? Có buông ra không?

Người đó không thèm trả lời, xé luôn cái áo rách của Bất Hối rồi thò tay vào trong lấy ra một con dao găm vừa cười vừa lẩm bẩm nói:

– Ðã lâu ta không được ăn thịt dê non như thế này.

Y vừa nói vừa xách Bất Hối đem sang bên để giết.

Liền đó, một người cầm cái bát, chạy theo nói:

– Ðệ hứng máu dê để nấu bát canh tiết chẳng hơn bỏ phí của trời sao? Các huynh có biết canh tiết dê ngon lắm không?

Vô Kỵ sợ hãi đến nỗi mất hết hồn vía. Y thấy bọn người kia định giết chàng thực, chớ không phải bông đùa, liền lớn tiếng hỏi:

– Các ngươi định ăn thịt người? Các ngươi không sợ phải tội hay sao ?

Một người gầy còm đến nỗi chỉ còn da bọc xương đứng dậy đáp:

– Ba tháng nay ông chưa được ăn một hạt gạo nào, không ăn thịt người thì thịt bò thịt dê đâu ăn?

Y vừa nói vừa sợ Vô Kỵ chạy, vội giơ tay ra túm cổ thằng nhỏ.

Vô Kỵ né sang bên tránh, rồi giơ tay trái lên gạt tay của đối phương, tay phải tát luôn vào lưng tên đó một chưởng.

Tên ấy bị đánh một chưởng đã nằm gục xuống đất không sao cử động được, Vô Kỵ lại tung mình nhảy tới cạnh Bất Hối.

Tên nọ thấy y lại gần, vội quát lớn:

– Mi tới gần, ta sẽ giết mi.

Y vừa nói vừa giơ dao đâm vào ngực Vô Kỵ.

Vô Kỵ giơ chân đá vào cổ tay tên ấy một cái.

Tên nọ đau chịu không nổi, vội tung con dao đi.

Vô Kỵ bồi thêm một đá nữa, trúng ngay càm dưới của đối thủ.

Tên ấy đang hả mồm định quát tháo, bị Vô Kỵ đá phải càm dưới, hàm răng dập ngay lại, đứt một tí đầu lưỡi máu phun ra rất nhiều, ngã lăn ra đất chết giấc ngay.

Vô Kỵ đỡ Bất Hối dậy.

Ðang lúc ấy y nghe phía sau lưng có tiếng gió liền thấy hai tên nữa nhảy xổ lại định tấn công.

Vô Kỵ chỉ né sang bên, hai tên kia đã đánh hụt.

Nhanh tay, Vô Kỵ túm cổ hai tên ấy, và đập mạnh vào nhau một cái.

Hai đầu va vào kêu “bốp” một tiếng, hai kẻ địch cùng chết giấc.

Chỉ còn lại một tên. Tên này thấy Vô Kỵ võ công khá cao siêu, nhưng y khi thị đối thủ hãy còn nhỏ, nên không sợ hãi, vội rút dao găm ra, hung hăng tiến tới chém. Thấy mình tay không, Vô Kỵ trong lòng hơi sợ, nhảy sang phải, né sang trái, tránh luôn ba thế dao của địch. Nhát dao thứ tư của tên nọ tấn công càng mạnh hơn, nhưng Vô Kỵ vẫn tránh né khỏi.

Tên nọ đâm hụt, té luôn về phía trước.

Vô Kỵ thuận tay đánh mạnh vào mông đít kẻ địch một cái, tên nọ bị bắn tung lên, rồi té về phía trước, đầu cắm vào trong nồi nước.

Cả nồi nước sôi lẫn cái lò lửa đều đổ lăn, nước bắn tung toé. Tên nọ chỉ dẫy dụa được vài cái rồi chết tốt.

Lúc ấy Vô Kỵ chợt nghe có tiếng chân nhiều người đi tới.

Vừa thoát chết xong, Bất Hối lại nghe có tiếng người, liền nhảy xổ vào lòng Vô Kỵ.

Ngửng đầu lên nhìn, Vô Kỵ nhận ra người quen, lòng mới yên, vội lên tiếng gọi:

– Dãn đại gia, Tiết đại gia.

Thì ra năm người đi tới đó là Dãn Tiệp, Tiết Công Viễn với hai người đồng môn của Hoa Sơn đều được Vô Kỵ chữa khỏi, còn người đi sau cùng là một thanh niên tuổi trạc hai mươi, diện mạo oai hùng, trán rộng mà Vô Kỵ chưa hề gặp.

Với giọng không thân thiện cho lắm, Dãn Tiệp lên tiếng hỏi:

– Chú em họ Trương cũng ở đây à? Còn mấy người này tại thế sao?

Y vừa nói vừa chỉ năm người bị Vô Kỵ giết.

Vô Kỵ hậm hực kể hết đầu đuôi, sau cùng nói:

– Ăn cả thịt người sống thì chúng còn có coi pháp luật và trời ra gì nữa đâu !

Dãn Tiệp liếc nhìn Bất Hối, đột nhiên nhỏ dãi rồi lại thè lưỡi ra liếm môi và lẩm bẩm:

– Khốn nạn thật, năm ngày năm đêm chưa được ăn một hột gạo nào, chỉ ăn vỏ cây và rễ cỏ.

Hà! thịt non và trắng trẻo như thế kia…

Vô Kỵ thấy mắt Dãn Tiệp tia đầy lửa trông không khác gì một con sài lang thật rùng rợn, biết điềm chẳng lành, Vô Kỵ vội ôm Bất Hối vào lòng, Công Viễn hỏi:

– Mẹ con nhỏ đâu?

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Nếu ta nói thật là Kỷ cô nương đã chết thì thế nào chúng cũng không buông tha cho Bất Hối đâu.

Ðoạn y liền đáp:

– Kỷ cô nương đi đong gạo sắp quay trở lại.

Bất Hối vội cãi:

– Không, không, mẹ em bay lên trên trời rồi!

Bọn Dãn Tiệp và Công Viễn rất giàu kinh nghiệm, nghe lời nói của hai đứa trẻ, biết ngay Hiểu Phù đã chết nên Công Viễn cười lạt và tiếp:

– Ðong gạo? Quanh đây năm trăm dặm, nếu chú kiếm ra được một hạt gạo thì tôi chịu chú tài giỏi lắm.

Dãn Tiệp đưa mắt ra hiệu, rồi cùng Công Viễn nhảy xổ lại. Dãn Tiệp hai tay như hai cái kềm sắt, nắm chặt lấy hai cánh tay Vô Kỵ, Công Viễn thì một tay bịt mồm, một tay aÜm luôn con Bất Hối lên.

Vô Kỵ cả kinh hỏi:

– Hai vị làm gì thế ?

Dãn Tiệp vừa cười vừa đáp:

– Phủ Phụng Dương này mất mùa, đi hàng nghìn dặm cũng không thấy một ruộng lúa, tất cả dân chúng ở đây đều đói khát. Ngay anh em chúng tôi cũng vậy, không sao chịu nhịn đói nổi, mới phải làm như vậy. Vả lại con nhỏ này có phải là người nhà hay em cậu đâu mà cậu phải bảo vệ? Ðể yên chúng tôi hành động. Lát nữa tôi sẽ chia cho cậu một phần ăn cho đỡ đói.

Vô Kỵ lớn tiếng mắng:

– Các người uổng là anh hùng hảo hán. Cô bé mồ côi yếu ớt như thế mà các ngươi cũng không buông tha. Nếu tin này lan truyền khắp mọi nơi, tôi thử hỏi các người có thể làm người được không?

Dãn Tiệp cả giận, tay trái vẫn nắm chặt hai cánh tay của Vô Kỵ, tay phải giơ lên đấm cho Vô Kỵ mấy quyền, rồi quát mắng:

– Chúng ta sẽ thiến cả tiểu súc sinh này một thể. Chúng ta đang hiềm con dê con kia không đủ ăn.

Vì Dãn Tiệp là một cao thủ của phái Không Ðộng, nên Vô Kỵ không thể nào chống cự lại.

Hai tên sư đệ của Công Viễn đã lấy dây tới trói Bất Hối và Vô Kỵ lại. Biết không còn hy vọng thoát nạn, Vô Kỵ vừa tức giận vừa hối hận đã trót chữa khỏi cho bọn người này. Y có ngờ đâu bọn người này lại đem ơn báo oán như thế.

Dãn Tiệp lại chửi tiếp:

– Tiểu súc sinh, mi chữa khỏi cho lão gia nên mi cho là đã thi ơn với lão gia phải không?

Chắc lúc nầy mi đang chửi rũa thầm lão gia chớ gì ?

Vô Kỵ đáp:

– Như vậy không phải là đem ơn báo oán hay sao? Ta với các ngươi vô thân vô cố, nếu ta không ra tay cứu chữa cho, thì bây giờ các ngươi có còn sống sao được?

Công Viễn xen lời nói:

– Hừ, lúc chúng tôi bị thương, chúng tôi đã để lộ thái độ rất xấu và lố bịch là khác. Cậu đã thấy hết, nếu cậu đem những chuyện ấy nói ra cho thiên hạ rõ, thì sau nầy chúng tôi còn mặt mũi nào mà làm người nữa? Hôm nay quả thực chúng tôi đói quá, nếu không có mấy miếng thịt ăn cho đỡ lòng thì chúng tôi cũng chẳng sống được. Cậu đã cứu giúp chúng tôi thì cũng nên cứu tới cùng.

Lúc nầy, mặt của Dãn Tiệp hung ác vô cùng còn Công Viễn cười khì khì, lộ vẻ nham hiểm hết sức.

Càng nhìn mặt chúng, Vô Kỵ càng sờn lòng lớn tiếng nói:

– Tôi là đệ tử của phái Võ Ðang, cô bé là đệ tử của phái Nga Mi. Các ngươi giết hai chúng tôi không sao, nhưng Võ Ðang thất hiệp và Diệt Tuyệt sư thái khi nào chịu để yên cho các người?

Công Viễn vừa cười vừa nói:

– Việc nầy chỉ trời biết, đất biết, cậu biết, tôi biết, chờ tới khi chúng tôi đã nuốt cậu vào bụng rồi, cậu hãy đi nói cho Trương Tam Phong hay cũng chưa muộn.

Dãn Tiệp ha hả cười và đỡ lời:

– Trong lúc bụng đói như cào thế nầy, dù là anh em ruột hay con ruột ta cũng phải xẻo một miếng thịt mà ăn tạm.

Nói xong, y quay lại quát bảo hai sư đệ của Công Viễn:

– Mau nhóm lửa lên. Còn đợi chờ gì nữa ?

Một tên vội nhặt cái chảo dưới đất đem ra suối lấy nước, còn một tên thì nhóm lửa.

Trong khi ấy, người thanh niên hiên ngang kia vẫn ngồi yên lặng, chẳng nói chẳng rằng.

Dãn Tiệp trợn mắt hỏi:

– Từ Tiểu Xá, dù chú không thích thịt dê cũng bị dính mùi hôi vào người.

Thanh niên nọ không hiểu nghĩ sao vội rút một lưỡi dao găm ra và nói:

– Ðệ tài nhứt là chọc tiết heo và dê.

Nói xong, y để dao lên mồm, một tay xách Vô Kỵ, một tay xách Bất Hối, tiến thẳng ra phía suối.

Thanh niên nọ xách Vô Kỵ và Bất Hối đi được mười mấy bước thì Công Viễn bỗng gọi theo:

– Tiểu Xá, chú chọc tiết chúng ở chỗ ấy được rồi, hà tất phải đi đâu xa nữa.

Tiểu Xá quay đầu lại trả lời, nhưng mồm y cắn lưỡi dao nên nói không rõ tiếng, không ai biết y nói gì. Nhưng chân y vẫn tiếp tục đi.

Công Viễn lại nói:

– Bảo chú chọc tiết ở chỗ ấy, sao chú lại đi nữa ?

Thì ra y là người giảo hoạt, đa mưu kế, thấy thần sắc của Tiểu Xá có vẻ khác, nên y ngại một mình thanh niên đó nuốt chửng mồi ngon. Nhưng Tiểu Xá đã đặt Vô Kỵ và Bất Hối xuống, cắt dây trói cho hai đứa và khẽ nói:

– Chạy mau đi!

Vô Kỵ cám ơn thiếu niên xong, dắt tay Bất Hối cắm đầu ù té chạy.

Dãn Tiệp và Công Viễn thấy vậy tức giận vô cùng, tung mình đuổi theo nhưng Tiểu Xá đã giơ dao cản lại và quát lớn:

– Hai người ngừng chân lại !

Dãn Tiệp và Công Viễn ngạc nhiên.

Dãn Tiệp quát hỏi:

– Chú làm gì thế?

Tiểu Xá đáp:

– Chúng ta không nên bắt nạt trẻ nít, bằng không thiên hạ sẽ cười cho đấy!

Công Viễn cả giận:

– Ðói lắm rồi, đến mẹ ta, cũng phải chọc tiết để ăn thịt.

Y vừa nói vừa ra hiệu cho hai sư đệ:

– Mau đuổi theo bắt ngay chúng lại.

Vô Kỵ thấy Bất Hối vừa chạy vừa té, liền aÜm nó lên để chạy cho nhanh nhưng vì thế lại càng chậm thêm, nên không bao lâu đã bị hai tên đệ tử của phái Hoa Sơn đuổi kịp. Vô Kỵ bèn đặt Bất Hối xuống rồi quay lại đánh luôn hai người kia mỗi người một chưởng. Một trong hai người giơ chưởng lên đỡ, bị chưởng lực của Vô Kỵ đẩy lui mấy bước, tên đó cả giận và quát lớn:

– Thằng khốn nạn này cũng khá lợi hại đấy!

Rồi cả hai tên đều rút dao ra xông lại chém.

Vô Kỵ đã định tâm thí mạng nên không sợ hãi gì hết, một mặt chống đỡ hai kẻ địch, một mặt bảo Bất Hối chạy mau.

Ðàng kia, Dãn Tiệp và Công Viễn cũng rút khí giới ra tấn công thanh niên họ Từ.

Thanh niên đó đã nhịn đói mấy ngày, nên không còn hơi sức, không như bọn Dãn Tiệp và Công Viễn đi tới đâu giết người cướp của đến đó, tuy cũng đói, nhưng còn mạnh hơn Tiểu Xá nhiều.

Ðấu được một lúc, y đã bị Dãn Tiệp đâm trúng một dao vào đùi, máu tươi chảy ra rất nhiều. Chàng thấy địch không lại hai tên nọ, nếu tiếp tục đấu nữa sẽ bị toi mạng, nên y đột nhiên ném dao vào người Công Viễn.

Công Viễn vội né tránh. Thừa dịp đó, Tiểu Xá liền ù té chạy.

Bọn Dãn Tiệp không thèm đuổi theo, lo tiến về phía Vô Kỵ.

Tiểu Xá vừa chạy vừa quay đầu lại nói với Vô Kỵ:

– Chú em họ Trương đừng hoảng sợ, mỗ đi gọi người tới cứu chú đây.

Dãn Tiệp và Công Viễn tiến lên vây đánh nên không bao lâu bắt được Vô Kỵ và Bất Hối trói lại.

Rồi Dãn Tiệp trợn trừng mắt lên mắng chửi:

– Tên họ Từ phản trắc !

Lần thứ hai bị bắt trói, Vô Kỵ bị chúng đánh sưng cả mặt mũi, quần áo rách tơi bời, tiền bạc trong túi rơi cả ra mặt đất.

Y nghĩ thầm:

– Thì ra vị Từ đại ca đó tên là Từ Ðạt. Người này hào khí can vân, quả là một người bạn tốt, nhưng chỉ tiếc ta sắp chết đến nơi không thể kết bạn với y.

Y vừa cúi xuống thấy dưới gốc cây ở cách đó chừng bốn năm thước, có mười mấy cây nấm màu rất đẹp, y liền nghĩ ra một kế và nghĩ thầm:

– Không biết những nấm này tên gì độc hay không? Nhưng trong sách nói những loại nấm độc đều có màu sắc rất tươi đẹp. Vậy những nấm kia tất nhiên là những cây nấm rất độc rồi, như vậy Bất Hối may ra được sống sót.

Y không nghĩ đến cứu sống cho mình vì y yên trí là chất hàn độc trong người không sao khỏi được dù hôm nay y có thoát nạn cũng chỉ sống thêm được vài tháng nữa thôi. Nên y chỉ mong cứu thoát được Bất Hối để hoàn thành nhiệm vụ mà Hiểu Phù phó thác cho y.

Ðoạn y đi lần đến chỗ gốc cây, thuận tay hái luôn mớ nấm đó.

Lúc ấy trời tối, mọi người đang đói bụng nên không để ý đến hành động của y.

Vô Kỵ bỗng nhìn về phía Từ Ðạt đào tẩu, nhảy phắt lên và la lớn:

– Từ đại ca đã đem người tới đây à? Cứu tôi với, cứu tôi với!

Bọn Dãn Tiệp tưởng là thật, vội nhặt khí giới nhảy lên để chuẩn bị chống đỡ.

Nhân lúc bốn người đang nhìn về phía xa, Vô Kỵ nhảy lui về sau hai bước bỏ những cây nấm vào chảo nước.

Bọn Dãn Tiệp không thấy có kẻ địch tới liền quay lại mắng chửi:

– Thằng khốn nạn, mi điên hả? Dù mi có kêu la đến đâu cũng không có người đến cứu đâu!

Vô Kỵ vội nói:

– Tiết đại gia, tôi khát lắm, hãy cho tôi uống một bát nước nóng thì dầu có chết tôi cũng không hiện hồn lên khuấy nhiễu đại gia đâu!

Công Viễn vừa cười vừa đáp:

– Ðược, mi muốn uống một bát nước sôi à? Có hại gì đâu.

Nói xong, y liền múc một bát nước sôi đưa cho Vô Kỵ.

Vô Kỵ vói cầm và vừa đưa bát nước sôi tới mũi, đã lớn tiếng khen:

– Thơm quá, thơm quá!

Những nấm trong chảo, khi nấu chín, quả thật tiết ra mùi thơm xông lên.

Bọn Dãn Tiệp đang đói vô cùng, bỗng ngửi thấy mùi nấm thơm vội giựt bát nước của Vô Kỵ lại, rồi Dãn Tiệp uống trước, vừa lấy lưỡi liếm môi vừa nói:

– Ngọt và thơm thực !

Nói xong, y lại múc thêm một bát nữa, uống liền.

Công Viễn cũng nhanh tay tìm bát, múc uống mấy bát.

Tiếp sau đó, hai đệ tử của phái Hoa Sơn, mỗi người cũng uống hai bát.

Trong lúc chúng đang đói, bỗng uống được hai bát canh nấm, tên nào tên ấy đều thấy dễ chịu. Dãn Tiệp còn vớt những nấm trong chảo ra, ăn lấy ăn để! Không người nào hỏi coi tại sao trong chảo bỗng dưng lại có nấm như thế ?

Ăn xong ít nấm, Dãn Tiệp vừa vỗ bụng vừa nói:

– Cũng may, uống được hai bát nước và ăn được ít nấm, nên đỡ đói lòng, có như thế lát nữa ăn thịt dê mới ngon.

Nói xong, Dãn Tiệp ngó Vô Kỵ, mai mỉa:

– Xưa nay đệ tử của Võ Ðang và Nga Mi ở trên giang hồ vẫn xưng hùng xưng bá, ngờ đâu ngày hôm nay chúng lại bị chúng ta ăn từng miếng thịt ngon, hưởng từng miếng mỡ béo, chắc khi Trương Tam Phong và Diệt Tuyệt lão ni hay chuyện này thế nào cũng ức chết đi đấy nhỉ, cậu bé họ Trương?

Vô Kỵ tức giận vô cùng, quát lớn:

– Dãn đại gia, nếu ngươi không ngại võ lâm cười chê và thật tình đói đến mờ ám lương tri và muốn ăn thịt người thật, thì cứ đem tôi ra mà ăn trước đi. Tôi chỉ yêu cầu các người buông tha cô em nầy ra. Nó còn bé, thịt không thơm ngon đâu. Như vậy tôi có chết cũng không oán hận chút nào mà còn biết ơn đại gia nữa.

Công Viễn bèn hỏi:

– Sao lạ vậy?

– Là vì lúc mẹ cô ta hấp hối có nhờ tôi đưa cô ta đi đến tận nơi giao cho cha cô ta. Vậy các người ăn thịt tôi cũng đủ no lòng, ngày mai các người sẽ mua được bò, dê và gạo ngay, với số tiền của tôi mang theo. Vậy các người hãy thả cô ta đi cho tôi được tròn chữ tín.

Dãn Tiệp thấy Vô Kỵ sắp chết đến nơi mà còn không sợ hãi và vẫn biết giữ tình nghĩa như vậy, nên cũng chút động lòng và định hỏi lại ý kiến Công Viễn.

Vô Kỵ thấy Dãn Tiệp cũng lưỡng lự, bèn nói tiếp:

– Nhị vị đại gia, người nằm đàng kia bề nào cũng chết rồi, mấy vị có còn đói thì ăn thêm thịt của y.

Dãn Tiệp vừa cười vừa đáp:

– Mấy người nằm chết đằng kia chỉ có da bọc xương thôi, chúng vừa già vừa dai, vừa hôi vừa cứng, ai dại gì không ăn thịt dê non lại ăn thịt dê già làm chi? Nhưng để ta hỏi lại ý kiến của Công Viễn xem.

Công Viễn nghe vậy liền chận lời:

– Tha cho con nầy thì cũng được, nhưng chỉ e nó tiết lộ cho người khác và người khác truyền đi thì sau nầy bọn Viễn Kiều, Liên Châu tìm chúng ta mà trả thù, liệu Dãn đại ca có thể đối phó được chúng không?

Dãn Tiệp gật đầu và lẩm bẩm nói:

– Ừ! Sao tôi hồ đồ thế mà không chịu nghĩ đến hậu quả tai hại?

Vô Kỵ là người có cốt khí, dù y có bị giết hay đánh đập cũng không bao giờ van lơn kẻ địch nữa câu, nhưng lúc nầy y thấy bọn vô loại sắp đem mình ra ăn sống nuốt tươi, nên trong lòng cũng hơi sợ, muốn van lơn vài câu, may ra có cứu vãn được không. Nhưng bây giờ thì cậu thấy sự thể đã khẩn cấp lắm rồi liền lớn tiếng bảo Bất Hối:

– Em Bất Hối, em thề với họ là sau nầy quyết không nói lại câu chuyện bữa nay đi !

Bất Hối ngơ ngơ, ngác ngác không hiểu gì cả, vừa khóc vừa nói:

– Không thể ăn anh tôi được! Không thể ăn anh tôi được!

Trong khi Vô Kỵ bối rối vì bọn vô loại không chấp nhận lời đề nghị của cậu, còn Bất Hối thì phân vân không hiểu gì cả; hết ngó Vô Kỵ đến nhìn bọn Dãn Tiệp, Công Viễn.

Thình lình Dãn Tiệp cười ha hả, vừa nói:

– Thôi, không nói lôi thôi gì nữa, chúng ta hãy ăn thịt con bé trước, rồi hãy xử trí thằng tiểu tử sau.

Nói xong, y dùng tay trái túm lấy gáy Bất Hối, tay phải giơ dao lên.

Bỗng y la lớn:

– Oái chao ơi!…

Y la được một tiếng đã loạng choạng, nên buông Bất Hối ra và vứt con dao xuống đất.

Công Viễn kinh hãi hỏi:

– Dãn huynh sao thế?

Y vừa hỏi vừa cúi xuống xem, ngờ đâu y cũng không sao đứng thẳng dậy được, kế ngã lên trên người Dãn Tiệp.

Hai tên đệ tử của phái Hoa Sơn cũng vậy, không rên rỉ được nửa tiếng, đã lăn chết liền.

Vô Kỵ thấy vậy, liền la lớn:

– Cám ơn trời đất !

Ðoạn y lăn tới cạnh con dao, nhặt lên, cắt đứt dây trói cho Bất Hối trước, rồi bảo Bất Hối cắt dây cho y.

Bất Hối run bây bẩy, nên lỡ tay cắt sướt da của Vô Kỵ hai chỗ.

Hai đứa thoát chết, mừng rỡ khôn tả, ôm chặt lấy nhau.

Một lát sau, Vô Kỵ tới gần bốn tên nọ xem thì thấy tên nào tên ấy mặt xám xịt, chân tay co quắp chết một cách rùng rợn.

Vô Kỵ bèn dắt Bất Hối ra khỏi rừng, đang tìm đường đi thì bỗng thấy ở phía Ðông có ánh lửa.

Kế đó bảy tám người, tay cầm khí giới, đang rảo bước đi tới.

Vô Kỵ và Bất Hối mới thoát chết nên còn sợ hãi, liền chui vào bụi trốn.

Bọn người kia tới gần, Vô Kỵ mới nhận ra người đi đầu chính là Từ Ðạt, tay cầm bó đuốc, tay cầm cây thương, lớn tiếng quát bảo:

– Những ác tặc ăn thịt người, có mau nộp mạng không?

Bảy tám người theo Từ Ðạt chạy vào trong rừng rậm, thấy bọn Dãn Tiệp và Công Viễn nằm sóng sượt trên mặt đất, đều ngạc nhiên vô cùng.

Từ Ðạt lớn tiếng gọi:

– Chú em họ Trương, chú không việc gì đấy chứ? Chúng tôi đến cứu chú đây.

Vô Kỵ thấy Từ Ðạt có lòng tốt, cảm động đến ứa nước mắt nên vừa chui ra vừa trả lời:

– Từ đại ca, tiểu đệ ở đây nè !

Từ Ðạt cả mừng, vừa ôm Vô Kỵ vào lòng vừa nói:

– Chú em họ Trương, không ngờ chú em còn bé mà lại có lòng hiệp nghĩa. Tôi chỉ sợ chú bị bọn ác tặc giết và ăn thịt! Không ngờ ác giả ác báo, thiện giả thiện báo, cố nhân dạy không sai chút nào.

Sau chàng hỏi Vô Kỵ vì sao bọn Dãn Tiệp lại chết ráo, thì Vô Kỵ bèn kể cho mọi người nghe, ai nấy đều khen là cậu thông minh.

Từ Ðạt lại nói:

– Mấy người này đều là bạn chí thân của tôi, chơi nhau từ hồi nhỏ đến giờ. Hôm nay, các bạn ấy giết một con bò và đang nấu ăn trong chùa hoàng Giác, tôi tới gọi một tiếng là các anh em đi ngay với tôi. Nhưng, nếu chú em không khôn ngoan lanh lợi thì chúng tôi có đến đây cũng đã muộn rồi.

Nói xong, chàng liền giới thiệu Vô Kỵ với bảy tám người bạn kia.

Người mặt to lớn, họ Thanh tên hòa, người thứ hai họ Ðặng tên Dư, người thứ ba mặt đen, dong dỏng cao, họ Hoa tên Vân.

Còn hai anh em người mặt trắng là Ngô Lương và Ngô Trinh.

Người đi sau cùng là một hòa thượng mặt rất xấu xí, càm dưới vênh ra đằng trước.

Bất Hối thấy những người mới tới đều có vẻ hung tợn và xa lạ nên càng run sợ.

Vả lại, khi vừa trải qua một trận hãi hùng và suýt chết vì bọn đòi ăn thịt người bởi quá đói, nên chạy vào núp sát mình Vô Kỵ.

Vô Kỵ thấy vậy, bèn vỗ về:

– Em đừng sợ gì cả. Những người này toàn là bà con với mình, đến đây để cứu mình đó. Em yên lòng, mình đã thoát khỏi bọn vô loại ăn thịt người rồi.

Ðoạn Vô Kỵ day qua vái Từ Ðạt và mấy người kia, vừa nói:

– Hai chúng tôi hết sức cám ơn quý vị đã động lòng háo nghĩa mà không ngại điều nguy hiểm, đồng tâm hiệp lực để cứu thoát khỏi bị ăn thịt. Về sau nầy, nếu may ra tôi có thể về được tới núi Võ Ðang, gặp lại thái sư phụ và các vị sư bá, sư thúc của tôi thế nào tôi cũng thưa lại để được dịp tìm quý vị đền ơn xứng đáng.

Từ Ðạt cười ha hả và nói:

– Chú em họ Trương khéo khách sáo thì thôi. Chính mỗ cũng không dè bọn ấy lại ác độc, vô lương tâm đến thế.

Dù có đói thì ăn rau, ăn cỏ đỡ lòng, chớ sao lại nỡ tâm ăn thịt đồng loại như vậy !

Hồi thứ 33

Cùng đi Côn Luân

Từ Ðạt day lại chỉ nhà sư mặt mày hung tợn, có rất nhiều vết thẹo, hai mắt hỏm sâu nhưng rất có thần nói thêm:

– Ðây là Chu đại ca, tên là Nguyên Chương, hiện đang tu ở chùa hoàng Giác, hình thù xấu xí nhưng bụng dạ rất tốt.

Hoa Vân vừa cười vùa xen vào:

– Anh ấy là Hòa thượng rất phong lưu vì không phải tụng kinh niệm Phật mà suốt ngày chỉ ăn thịt, uống rượu bằng thích.

Bất Hối thấy Nguyên Chương xấu xí như vậy, trong lòng thêm hãi sợ càng núp sát vào sau lưng Vô Kỵ .

Nguyên Chương vừa cười vừa nói:

– Tôi là hòa thương, tuy ăn thịt, nhưng không thèm ăn thịt người như những kẻ khác đâu, cô em đừng sợ mỗ.

Thanh Hòa cũng lên tiếng:

– Nồi thịt bò của chúng ta đang nấu ở trong chùa, chắc đã chín rồi.

Hoa Vân đã vội tiếp:

– Thôi, chúng ta hãy trở về chùa đánh chén đi. Cô em nầy để tôi cõng cho.

Y vừa nói vừa cõng Bất Hối, rồi lớn bước đi ngay.

Vô Kỵ thấy những người ấy vui vẻ và tốt bụng trong lòng cũng mừng thầm, liền đi theo bọn họ.

Ði được bốn năm dặm, đã tới một cái chùa, xuyên qua đại điện, đã ngữi được mùi thịt bò rất thơm ngon.

Ngô Lương vội la:

– Thịt đã chín rồi!

Từ Ðạt nói:

– Chú em họ Trương ở đây nghỉ ngơi, để chúng tôi đi bưng thịt bò ra cho ăn.

Vô Kỵ với Bất Hối, ngồi sát nhau trên một tấm thảm bồ đoàn ở giữa đai điện.

Nguyên Chương, Từ Ðạt, Thanh Hòa, Ðặng Dư, mỗi người một tay bưng từng bát, từng chậu thịt bò ra.

Anh em Ngô Lương, Ngô Chính thì xách tĩn rượu trắng đi theo.

Thế rồi, mọi người xúm quanh lại trước bàn thờ ăn nhậu một cách sung sướng vô cùng.

Hoa Vân nói:

– Từ đại ca, Vô Kỵ , với Bất Hối đã đói bụng mấy ngày rồi, lúc này hai đứa nó được ăn thịt bò, tất nhiên đều sung sướng hơn cả những người kia.

Hoa Vân bỗng lên tiếng:

– Từ đại ca này, giáo quy của chúng ta điều nào cũng tốt riêng có điều cấm ăn thịt là hơi hỏng thôi.

Vô Kỵ nghe nói, rùng mình kinh hãi thầm nghĩ:

– Thì ra những người này đều theo Minh Giáo cả. Quy luật của Minh Giáo chỉ cho phép ăn rau đậu và lễ Ma vương. Sao họ lại ăn thịt bò như thế này?

Từ Ðạt đáp:

– Yếu nghĩa thứ nhứt của Minh Giáo chúng ta là phải hành thiện khứ ác, ăn thịt như thế này tuy không nên phải thực, nhưng điều này chỉ là điều cấm thứ yếu thôi. Hiện giờ nơi đây, không có gạo, không có rau đậu, nếu chúng ta không ăn thịt bò thì ngồi chịu chết đói sao?

Ðặng Dư vỗ tay tán thành:

– Từ đại ca sáng suốt và nói rất hợp lý. Thôi, chúng ta ăn đi.

Trong lúc mọi người đang cao hứng ăn nhậu, bỗng nghe có tiếng chân người đi tới, tiếp theo có tiếng gõ cửa.

Thanh Hòa nhảy phắt lên la lớn:

– Nguy tai! Người nhà của Trương viên ngoại tới kiếm con bò chăng?

Chàng vừa nói dứt, đã nghe tiếng cửa chùa bị có người đẩy ra, và liền theo đó gia đinh vênh váo đi vào. Một trong hai tên đầy tớ ấy lên tiếng trước:

– Giỏi lắm! Thì ra con bò đực lớn của Trương viên ngoại đã bị các ngươi ăn trộm và hiện đang ăn vụng ở nơi đây! Chứng cớ hẳn hòi, các ngươi không còn chối cãi được nữa đấy nhé?

Nói xong, tên ấy túm luôn ngực Nguyên Chương còn tên kia thì lớn tiếng mắng chửi:

– Ngày hôm nay tang chứng đầy đủ, xem các người còn chạy chối đàng nào. Ngày mai chúng ta sẽ đưa các ngươi lên quan, để các nha sai đánh cho các ngươi một trận đòn chí chết mới thôi.

Nguyên Chương vừa cười vừa đáp:

– Hai ngươi nói bậy thật, sao hai ngươi dám vu oan cho chúng ta ăn trộm con bò của Trương viên ngoại? Ta là người tu hành, ngươi đổ cho ta ăn thịt không sợ mang tội?

Tên ác bộc chỉ vào bát và chậu thịt bò, quát hỏi:

– Những bát và chậu nầy không đựng thịt bò thì còn thịt gì nữa ?

Nguyên Chương đưa mắt ra hiệu, rồi lại cười hì hì đáp:

– Ai bảo là thịt bò?

Hai tên Ngô Lương, Ngô Chính đi tới phía sau lưng hai tên ác bộc, quát lớn một tiếng, rồi nắm chặt hai cánh tay, khiến chúng không sao cử động được.

Nguyên Chương rút một con dao găm ra, vừa cười vừa nói:

– Không dám nói dối hai vị đại ca, thịt chúng tôi đang ăn đây là thịt người, chớ không phải thịt bò ! Hôm nay, chúng tôi đã để cho hai vị thấy, đành phải ăn nốt hai vị để diệt khẩu, chớ biết làm sao bây giờ?

Vừa nói dứt chàng đã xé toạt áo của một tên ác bộc ra, và đưa mũi dao lên khẽ cứa qua một cái, máu tươi rỉ ra.

Tên ác bộc ấy hãi sợ vô cùng, vội quỳ xuống van lạy:

– Xin… quý vị… tha…

Nguyên Chương vội lượm một nắm thịt bò nhét luôn vào mồm hai tên ác bộc và quát lớn:

– Nuốt ngay đi.

Hai tên ấy không dám nhai, cứ vội nuốt trọng, mặt nhăn nhó, trông thật tức cười.

Nguyên Chương lại đi xuống bếp, lấy một nắm lông bò lên, cũng nhét vào mồm, bắt hai tên ấy nuốt như trước. Thấy hai tên ác bộc đã cố nuốt hết nắm lông bò ấy rồi, Nguyên Chương lại nói tiếp:

– Hai ngươi đi nói cho viên ngoại hay là chính ta đã ăn trộm con bò đực của ông ta và cũng đã làm thịt ăn mất trồi. Chúng ta vui lòng mỗ bụng ra đối chất, xem ai ăn thịt bò mà không cạo sạch lông?

Nói xong chàng lật ngược con dao, dùng sóng dao lướt qua bụng tên nọ một cái. Tên ấy vừa cảm thấy con dao lạnh buốt lướt qua bụng, đã sợ hãi, thết lớn một tiếng.

Anh em họ Ngô ha hả cười, giơ chân lên đá vào đít hai tên nọ một cái thật mạnh.

Hai tên nọ bị đá bắn ra ngoài điện, mọi người mới yên trí ăn nhậu, vừa cười vừa mắng chửi hai tên ác bộc, thường ngày đã ỷ vào thế lực của Trương viên ngoại hà hiếp người lành.

Lần nầy, chúng sợ bị mỗ bụng đối chất, nhứt định chúng không dám nói cho viên ngoại biết chuyện chúng ta ăn trộm bò đâu.

Vô Kỵ vừa buồn cười vừa phục thầm hành động của những người đó, liền nghĩ:

– Mặt mũi của hòa thượng họ Chu nầy tuy khó coi, nhưng anh ta hành sự rất nhanh nhẩu và chế ngự hai tên kia không cử động được và cũng không nói lời nào vào đâu được. Thủ đoạn của anh ta lợi hại vô cùng.

Bọn Thanh Hòa, Ðặng Dư đã nghe Từ Ðạt kể cho biết rồi, nên họ đều rõ chuyện Vô Kỵ hy sinh tánh mạng để cứu Bất Hối, ai nấy đều yêu mến Vô Kỵ là một thiếu niên hiệp nghĩa và coi cậu như một người bạn thân, cứ tiếp mời rượu thịt luôn.

Mọi người uống đã ngà ngà say.

Ðặng Dư thở dài và nói:

– Người Hán chúng ta bị bọn Mông Cổ đè nén đau khổ biết bao, hôm nay còn làm cho chúng ta không có cơm ăn, hoàn cảnh thế này làm sao sống được?

Hoa Vân vỗ đùi tiếp lời:

– Chúng ta đã thấy dân chúng ở phủ Phụng Dương nầy chết gần phân nửa. Theo ý tôi thì trên thiên hạ nầy đâu đâu cũng thế thôi, nếu cứ ngồi yên mà chịu chết đói thà đi thí mạng với bọn Thát Ðát còn hơn.

Từ Ðạt cũng lớn tiếng nói:

– Ngày nay, mạng người không bằng mạng chó, mạng heo cũng như chú em và cô em đây, suýt tí nữa thì bị chui vào bụng người khác rồi. Khắp thiên hạ, có không biết bao nhiêu lương dân trở thành bò dê, chúng ta là đấng nam nhi đại trượng phu, nếu lúc nầy không ra tay cứu mọi người thì còn gọi làm sao được là anh hùng hào kiệt nữa ?

Thanh Hòa cũng xen lời nói:

– Phải đấy! Hôm nay chúng ta may mắn trộm một con bò đực về ăn. Ngày mai, chưa chắc chúng ta sẽ lấy trộm được như vậy nữa. Vả lại, vô số anh hùng hào kiệt cũng không đủ ăn đủ mặc như ta, chẳng lẽ họ đi làm giặc hết sao ?

Mọi người càng nói càng tức giận, cứ luôn mồm chửi bọn quan binh Mông Cổ hại người.

Nguyên Chương bèn lên tiếng nói:

– Chúng ta cứ ở đây chửi đổng như vậy, chẳng hay đã làm rụng được cái lông nào của bọn Mông Cổ chưa? Nếu ai là người có cốt khí đi giết quân Mông Cổ ngay có hơn là ngồi đây chửi đổng không?

Thanh Hòa, Ðặng Dư, anh em họ Ngô, Hoa Vân đều đồng thanh la lớn:

– Ði! Ði!

Từ Ðạt lại nói:

– Chu đại ca, đại ca còn làm cái trò hòa thượng nầy nữa không? Chắc đại ca đã chán ghét cái trò ấy phải không? Trong tất cả anh em đây, anh là người lớn tuổi, chúng tôi xin ủng hộ anh làm thủ lãnh.

Nguyên Chương không từ chối, liền đáp:

– Ngày hôm nay chúng ta cùng đồng sinh cộng tử, có phúc cùng hưởng, có họa cùng gánh.

Mọi người cùng cầm bát rượu lên uống cạn, rút dao ra chém xuống mặt bàn thật là hào khí vô cùng.

Bất Hối cứ trợn tròn hai mắt nhìn mọi người, không hiểu họ nói những gì, trong lòng có vẻ sợ hãi.

Còn Vô Kỵ đang nghĩ:

– Thái sư phụ đã dặn ta luôn, là chớ có làm quen với những người trong Ma Giáo, nhưng ta thấy Ngộ Xuân đại ca và Từ đại ca đây đều là người trong Ma Giáo cả, mà lại tốt bụng gấp bọn Dãn Tiệp, Công Viễn những đệ tử của danh môn chánh phái gấp vạn lần!

Xưa nay Vô Kỵ vẫn kính phục Trương Tam Phong, nhưng từ khi được từng trải thì y nhận thấy sự nhận xét người trong Ma Giáo của thái sư phụ hơi thiên một chút. Tuy vậy y vẫn không dám trái lời dạy bảo của thái sư phụ.

Nguyên Chương lại nói:

– Người hảo hớn đã nói là phải làm. Lúc nầy chúng ta đều no bụng cả rồi thì chúng ta phải hành sự ngay đi. Ngày hôm nay, nhà Trương viên ngoại đang thiết tiệc đãi bọn quan quân Mông Cổ, chúng ta hãy đi tới đó giết bọn giặc cướp nước ấy trước.

Hoa Vân đáp:

– Hay lắm! Hay lắm !

Nói xong y bèn cầm dao đứng dậy, Từ Ðạt vội cản lại:

– Khoan đã!

Ðoạn chàng vào trong bếp lấy ra một tay nảy đựng mười mấy cân thịt bò, đưa cho Vô Kỵ và nói:

– Chú em họ Trương còn ít tuổi nên không thể nào theo chúng tôi để chém giết bọn cướp nước được. Vậy chú em hãy đi đi. Trước khi chia tay, chúng tôi đã nghèo xác xơ, trong túi không có nửa phân bạc, chỉ có mấy cân thịt bò nầy để tặng chú em lên đường. Nếu may ra chúng tôi không chết thì sau nầy chúng ta sẽ được dịp gặp nhau, và sẽ lại ăn một bữa thịt bò thật no nữa.

Vô Kỵ đỡ lấy tay nảy thịt bò, đáp:

– Mong các vị thành công đuổi được bọn Mông Cổ ra khỏi bờ cõi để bá tánh đều có bữa cơm ăn.

Nguyên Chương, Từ Ðạt, Thanh Hòa nghe Vô Kỵ nói đều rùng mình sờn lòng và đồng thanh đáp:

– Chú em họ Trương nói rất phải. Chúng ta sẽ tái ngộ một ngày gần đây.

Mọi người rút khí giới và đi ra khỏi chùa.

Thấy bọn họ đi rồi, Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Lần nầy họ đi giết quân Mông Cổ, nếu ta không vướng Bất Hối thì cũng theo họ ngay.

Họ chỉ có bảy người, chắc không địch lại kẻ địch quá đông đâu. Rồi đây bọn Mông Cổ với tráng đinh của nhà Viên ngoại sẽ đuổi theo tới đây chém giết cho kỳ sạch. Ta không ở lại đây được .

Ðoạn Vô Kỵ xách tay nải thịt bò, dắt Bất Hối ra khỏi chùa đó.

Trong đêm tối, hễ thấy đường là đi, hai đứa trẻ đi được năm sáu dặm bỗng thấy phía Bắc có ánh sáng đỏ rực trời, ngọn lửa bốc lên rất mạnh.

Vô Kỵ biết là bọn Nguyên Chương, Từ Ðạt đã thành công, hiện giờ có lẽ đang đốt nhà Viên ngoại.

Vô Kỵ mừng rỡ vô cùng. Ðêm hôm đó, hai đứa lại ngủ trong rừng.

Sáng sớm hôm sau, cả hai lại đi về phía Tây.

Suốt dọc đường chịu đói, chịu rét khổ sở khôn tả.

Cũng may cha mẹ Bất Hối đều là những tay võ nên con nhỏ cũng khỏe mạnh hơn người, vì vậy đi xa như thế mà không hề sinh bệnh, thỉnh thoảng cảm mạo sơ sài.

Vô Kỵ hái thuốc sống trong rừng cho cô bé uống là khỏi ngay.

Hai đứa nhỏ cứ ngày đi đêm nghỉ, đi một chốc lại nghỉ một chốc nên mỗi ngày chỉ đi được độ hơn hai mươi dặm.

Chúng đi được mười lăm, mười sáu ngày mới tới biên giới tỉnh Hà Nam.

Lúc ấy Hà Nam cũng đang lâm vào tình trạng mất mùa, xác người chết đói nằm ngổn ngang đầy đường.

Vô Kỵ đã tự chế cung tên để bắn chim và giết thú, nướng ăn đỡ lòng.

Cũng nhờ vậy, bữa no bữa đói, hai đứa lại may mắn giữa đường không gặp một quan quân Mông Cổ nào, cũng không gặp một nhân vật giang hồ nào.

Còn những tên gian đồ vô loại thường, thì địch sao nổi Vô Kỵ.

Một hôm, ở giữa đường Vô Kỵ gặp một ông già đang nói chuyện phiếm, y bèn hỏi thăm Tọa Vọng Phong trên núi Côn Luân ở đâu thì ông già trợn trừng đôi mắt, kinh hãi trả lời:

– Núi Côn Luân ở cách đây hàng mười vạn dặm. Nghe nói hồi xưa, chỉ có Ðường Tăng đi thỉnh kinh mới qua đó thôi. Cậu với cô bé chẳng lẽ điên rồi hay sao mà định đi đến đó? Nhà các cháu ở đâu, mau mau đi về đi.

Vô Kỵ nghe nói, nản chí vô cùng và nghĩ thầm:

– Núi Côn Luân xa như vậy, chắc không thể nào đi đến nơi được. Ta đành về núi Võ Ðang gặp Thái sư phụ trước rồi hãy quyết định sau.

Nhưng y lại sực nghĩ:

– Người ta đã nhờ vã mình lúc hấp hối, thì dù đường sá khó khăn đến đâu mình cũng không thể giữa đường bỏ dở như thế được. Ðời sống của mình rất ngắn ngủi, nếu trước khi chết mình không đưa được Bất Hối tới nơi tới chốn thì thật là không nên không phải với Kỷ cô nương.

Thế rồi, y không nói chuyện với ông già kia nữa, liền dắt tay Bất Hối đi luôn.

Hai đứa đi được hơn mười ngày, quần áo rách tả tơi, mặt mũi tiều tụy khôn tả.

Ðiều đó không khiến Vô Kỵ phiền não, y chỉ bực mình nhứt là Bất Hối cứ hỏi mẹ luôn, mà hễ không thấy mẹ là con bé lại khóc lóc hàng nửa ngày.

Ngày nào cũng vậy, y phải tốn biết bao hơi sức mới khuyên Bất Hối nín khóc.

Một hôm cả hai tới sông Trú Mã, trời về cuối thu sang đông, gió bấc rét mướt.

Hai đứa bé quần áo rách rới, càng không chịu nổi giá lạnh.

Vô Kỵ liền cởi chiếc áo rách của mình cho Bất Hối mặc.

Bất Hối thấy vậy hỏi:

– Ðại ca không rét sao?

Vô Kỵ đáp:

– Anh không rét, anh đang nóng lắm.

Nói xong, chàng ta nhảy nhót vài cái cho đỡ run.

Bất Hối lại nói:

– Anh đối đãi với em tử tế quá, anh cũng rét mà lại đưa áo cho em mặc.

Ðột nhiên Bất Hối biết nói như người lớn. Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng.

Ðang lúc ấy bỗng nghe phía sau sườn núi có tiếng khí giới va chạm và có tiếng chân di động, kế Vô Kỵ lại nghe một thiếu nữ la lớn:

– Ác tặc, mi đã trúng Tán Môn Ðinh tẩm độc của ta rồi. Mi càng chạy nhanh bao nhiêu càng chóng chết bấy nhiêu.

Vô Kỵ liền kéo Bất Hối nằm phục xuống bụi lau ẩn núp.

Hai người chưa nằm yên đã thấy một chàng tuổi trạc ba mươi, thân hình vạm vỡ, đang chạy tới.

Cách sau chàng ta chừng mấy trượng, có một thiếu nữ tay cầm song đao đuổi theo.

Người đàn ông chạy loạng choạng mấy bước, đột nhiên ngã lăn ra mặt đất.

Thiếu nữ đuổi tới nơi vừa cười vừa nói:

– Ác tặc, ta bảo mi thế nào mi cũng chết bởi tay cô nương có sai đâu?

Chàng nọ đột nhiên nhảy phắt lên, múa song chưởng đánh vào ngực thiếu nữ một cái.

Thế võ của chàng ta phát ra trước khi chết nên sức lực càng mạnh lạ lùng.

Thiếu nữ nọ bị đánh trúng hai chưởng vứt song đao ra xa rồi ngã lăn ra đất.

Chàng nọ thở hổn hển, thò tay về phía sau lưng, rút mũi Ðinh Tán Môn ra, hậm hực nói:

– Ðưa thuốc giải cho tôi !

Thiếu nữ đáp:

– Muốn giết thì giết, ta nhứt định không đưa thuốc giải.

Chàng nọ nhặt luôn con dao, dí mũi dao vào cổ nàng, tay phải thì cho vào túi khám xét, khám mãi không gặp thuốc giải.

Thiếu nữ liền cười nhạt, nói:

– Lần nầy sư phụ phái chúng tôi đi bắt anh, chỉ trao ám khí độc mà không trao thuốc giải.

Bây giờ tôi bị anh kềm chế thì tôi cũng không muốn sống nữa, còn anh cũng chưa chắc thoát chết được đâu.

Chàng thanh niên tức giận vô cùng, cầm mũi đinh Tán Môn có độc kia ném vào vai thiếu nữ và quát lớn:

– Này cho cô nếm mùi độc của Tán Môn. Cô là người trong phái Côn Luân…

Chàng ta nói chưa dứt thì chất độc trên lưng đã bộc phát, người anh mềm nhũn, anh ngã lăn ra đất nằm sóng sượt.

Thiếu nữ muốn bò dậy, nhưng vết thương ở ngực quá nặng cũng khạc ra một đống máu tươi rồi ngồi phịch xuống.

Thế là, một nam một nữ đều nằm lăn ra bên lề đường, hô hấp nặng nề như sắp chết.

Từ khi chữa khỏi cho bọn Dãn Tiệp và Công Viễn rồi bị chúng trả ơn bằng cách định giết mình mà ăn thịt Vô Kỵ càng ngán người võ lâm nên chàng ta cứ núp một bên, ló đầu ra xem chớ không dám can thiệp cứu chữa cho hai người ấy.

Lát sau, nghe chàng thiếu niên thở dài mấy tiếng và nói:

– Ngày hôm nay Tô Tập Chi chết ở điếm Trú Mã nầy mà vẫn ân hận vì không hiểu rõ mình lỗi gì với phái Côn Luân của cô, nên không nhắm mắt êm xuôi. Chẳng hay Chiêm cô nương có thể nào cho tôi biết rõ nguyên nhân chăng?

Lời của chàng lúc này không có vẻ gì tức hận. Thiếu nữ nọ, họ Chiêm tên là Xuân, cũng biết thứ ám khí có chất độc rất lợi hại nàng sẽ cùng chàng kia chết đến nơi, nên nản chí và u oán đáp:

– Ai bảo anh lén xem sư phụ luyện kiếm! Trong khi sư phụ luyện pho Long Hình Nhứt Bút kiếm thì ai không được phép, dù là đệ tử ruột đi nữa mà lén xem cũng bị tội tức thì. Huống hồ anh là người ngoài.

Tập Chi kêu lên một tiếng rồi nói tiếp:

– Khốn nạn thật! Ðáng chết! Ðáng chết !

Chiêm Xuân càng nổi giận, nói:

– Anh sắp chết đến nơi mà còn cả gan mắng sư phụ tôi phải không?

Tập Chi đáp:

– Tôi chửi thì đã sao nào? Chẳng lẽ tôi chửi oan? Tôi đi qua núi Bạch Ngưu thì ngẫu nhiên thấy sư phụ cô luyện kiếm. Lòng hiếu kỳ thúc đẩy tôi mới đứng lại xem một hồi. Tôi đâu phải là một người thông minh tài trí tới mức chỉ đứng xem một lúc mà đã học được hết pho kiếm pháp đó? Nếu quả thật tôi có bản lãnh như thế thì mấy tên đệ tử Côn Luân đã làm gì nổi tôi nào? Chiêm cô nương, nói thật cho cô nương hay, sư phụ của cô là Thiên Cầm Tiên Sinh nhỏ nhen quá. Ðừng có nói là tôi chưa học được một thế hay nửa miếng của pho kiếm ấy mà dù tôi có học được đôi chút đi nữa, tội của tôi cũng không đến nỗi chết kia mà.

Chiêm Xuân lẳng lặng, lòng nghĩ thầm:

– Sư phụ mình cũng quá câu chấp. Thấy anh Tập Chi lén xem luyện kiếm liền phái sáu sư huynh ta đuổi theo và bắt giết. Nếu không, ta đâu đến nỗi toi mạng như thế này? Người nầy nói là y chưa học lóm võ công của sư phụ chắc thật chớ không phải bịa đặt đâu .

Tập Chi lại tiếp:

– Thế sư phụ cô đưa ám khí bôi độc cho các cô mà không đưa cho thuốc giải phải không ?

Ðấy, cô xem, trong võ lâm có một trưởng môn nào lại có thủ đoạn hèn như thế không? Ðồ khốn nạn…

Chiêm Xuân dịu giọng nói:

– Tô đại ca, tiểu muội hại anh như vậy, trong lòng bứt rứt vô cùng. Nhưng, bây giờ tôi cũng chết theo anh, có lẽ là số kiếp chúng ta như vậy. Chỉ tội nghiệp cho đại tẩu, công tử và tiểu thơ ở nhà thôi. Tôi thật ăn năn quá.

Tập Chi thở dài nói:

– Hai năm trước, nhà tôi đã chết vì đau ốm, chỉ còn lại một đứa con trai và một đứa con gái thôi. Ngày mai, chúng nó sẽ mồ côi, đã không mẹ nay còn mất cha!

– Nhà anh còn những ai nữa? Có ai trông nom hai đứa trẻ đó không?

– Lúc nầy, chúng đang được chị dâu tôi trông nom. Tánh nết của chị dâu tôi nóng nảy và điêu ngoa. Lúc nhà tôi còn sống, chị dâu tôi còn nể nang phần nào. Ôi! Từ nay trở đi hai đứa trẻ sẽ khổ sở vô cùng.

Chiêm Xuân là người rất tốt bụng, nghe Tập Chi nói, ứa nước mắt và khẽ đáp:

– Tất cả mọi việc đều do em gây nên cả.

– Ðiều nầy không thể trách cô được. Cô thừa lệnh rất nghiêm của sư phụ cô chớ cô có thù gì tôi đâu. Sự thật tôi bị cô ném phải ám khí có chất độc tôi chết đã đành, hà tất tôi còn đánh cô một chưởng và dùng ám khí ném lại cô như thế. Bằng không nếu tôi nói thật sự tình cho cô hay, thì cô là người nhân từ chắc cô cũng chịu trông hộ hai trẻ cho tôi.

– Tôi là hung thủ đã giết anh, sao anh lại còn bảo tôi là người nhân từ?

– Tôi không trách cô. Thực đấy! Tôi không trách cô đâu!

Lúc nãy hai người đánh nhau trí mạng, bây giờ hai người lại an ủi nhau.

Nghe tới đó Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Hai người nầy tâm địa đều hiền lành cả, huống hồ nhà người họ Tô lại còn hai đứa trẻ mồ côi không ai nuôi nấng dạy bảo.

Ðoạn, Vô Kỵ nghĩ tới đời sống cô đơn của mình với Bất Hối, quả thật là gian truân khổ sở vô cùng, nên y liền đi ra khỏi bụi lau lên tiếng hỏi:

– Chiêm cô nương, thuốc độc bôi trên Tán Môn Ðinh kia là thứ thuốc độc gì thế ?

Tập Chi và Chiêm Xuân đột nhiên thấy từ trong bụi lau có một thiếu niên và một thiếu nữ chui ra, ngạc nhiên vô cùng.

Lại nghe Vô Kỵ hỏi, cô càng kinh ngạc thêm.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Tại hạ hơi biết chút y học, vết độc thương của hai vị may ra có thể chữa khỏi được, hồ quý cô nương nói rõ thuốc đó thuộc loại gì?

Chiêm Xuân đáp:

– Thuộc loại thuốc độc gì? Tôi cũng không được biết, chỉ thấy vết thưng ngứa lắm mà không đau chút nào. Theo lời nói của sư phụ tôi thì ai bị Tán Môn Ðinh ném trúng, chỉ sống được bốn tiếng đồng hồ là cùng.

Vô Kỵ nói tiếp:

– Ðể tôi xem thử vết thương của hai vị ra sao?

Tập Chi và Chiêm Xuân thấy Vô Kỵ còn ít tuổi, quần áo lại lam lũ, mặt mũi tiều tụy, trông như một tên ăn xin vậy thì làm sao tin được y có thể chữa khỏi cho mình.

Tập Chi lại nói:

– Hai chúng tôi chết đến nơi rồi, cậu đừng ở đây nói lôi thôi nữa. Cậu làm ơn đi xa hộ chúng tôi.

Vô Kỵ không trả lời, cứ việc cúi xuống nhặt mũi Tán Môn Ðinh đưa lên mũi ngửi. Những ngày gần đây, hễ được rỗi rãi là Vô Kỵ giở cuốn Ðộc Vật Ðại Toàn của Nạn Cô ra nghiên cứu, nên rõ hết tất cả những độc vật, độc dược trên đời. Y ngửi mùi thơm thơm đó, biết ngay thuốc độc bôi ám khí lấy ở một thứ hoa độc tên là Thanh Ðà La. Thứ hoa nầy vốn dĩ không có độc tính; dù uống cả một bát nước hoa đó cũng không việc gì, nhưng chất ấy hòa hợp với máu tươi thì biến thành một chất độc rất nặng, và mùi đang tanh hôi biến thành mùi thơm của hoa Lan. Vô Kỵ liền lên tiếng nói:

– Ám khí nầy bôi chất độc của hoa Thanh Ðà La đấy.

Chiêm Xuân không biết ám khí đó bôi bằng thuốc độc gì, nhưng nàng biết trong vườn hoa của sư phụ có trồng Thanh Ðà La nên nàng ngạc nhiên và hỏi:

– Sao cậu lại biết ?

Vì nàng biết hoa Thanh Ðà La này là một thứ hoa độc, xuất xứ ở Tây Vực chớ ở trong Trung Thổ nầy hiếm lắm.

Vô Kỵ gật đầu đáp:

– Tất nhiên tôi có biết thì tôi mới nói.

Nói xong, y dắt tay Bất Hối và bảo:

– Chúng ta đi thôi!

Chiêm Xuân vội gọi lại:

– Chú em nếu chú biết cách chữa thì làm ơn cứu hai chúng tôi với.

Sự thật Vô Kỵ có lòng muốn cứu hai người đó nhưng y sực nghĩ tới bộ mặt hung ác của Dãn Tiệp và Công Viễn đang đòi ăn thịt người, liền sờn lòng quyết không chữa cho hai người nầy nữa.

Tập Chi cũng lên tiếng:

– Cậu em, vừa rồi tại hạ có mắt mà không biết Thái Sơn, xin cậu đừng trách cứ nữa nhé !

Vô Kỵ nghe hai người nói như vậy, nghĩ ngợi giây lát rồi đáp:

– Thôi được, để tôi chữa thử xem.

Nói xong, y liền giơ tay ra điểm vào yếu huyệt giữa ngực và hai bên vai của Chiêm Xuân để cho nàng khỏi đau đã, rồi lên tiếng nói:

– Chất hoa Thanh Ðà La nầy hễ gặp máu mới sinh ra độc, nên dù có uống vào trong bụng cũng không hề gì. Hai vị trước hết hãy lấy mồm hút chất độc ở vết thương ra, hút tới khi nào thấy vết máu trong vết thương đã tươi mới thôi!

Tập Chi và Chiêm Xuân nghe vậy đều ngượng ngập, nhưng họ nghĩ lại cứu sống tánh mạng quan trọng hơn mà vết thương của người nào cũng vậy, tự mình không thể nào hút lấy được, đành phải lần lượt hút máu độc lẫn cho nhau.

Vô Kỵ kiếm quanh đó lấy được hai vị thuốc, bỏ vào mồm nhai nát rồi rịt lên vết thương cho hai người, kế nói:

– Ba vị thuốc nầy có thể khiến cho hơi độc tạm thời không thể lâm nguy. Chúng ta hãy tới thị trấn phía đàng kia, tôi sẽ đến tiệm thuốc hốt vài thứ thuốc để chữa độc thương cho hai vị.

Vết thương của hai người đang ngứa ngáy khó chịu, sau khi rịt thuốc sống của Vô Kỵ vào liền cảm thấy mát mẻ dễ chịu ngay, đồng thời cũng cảm thấy chân tay không còn tê tái nữa.

Cả hai đồng cảm ơn Vô Kỵ luôn mồm đoạn bẻ một cành cây làm gậy để chống, rồi từ từ tiến về phía thành thị.

Trong khi đi đường, Chiêm Xuân hỏi Vô Kỵ là học trò của ai.

Vô Kỵ không muốn nói rõ, chỉ bảo mình biết chữa từ hồi nhỏ thôi.

Ði được một lúc lâu, bốn người tới Sa Hà Ðiếm, liền vào khách điếm nghỉ ngơi.

Vô Kỵ vội viết một toa thuốc bảo phổ kỵ đi hốt.

Cũng may, năm đó tỉnh Hà Nam chưa hề bị thiên tai nên dân cư còn bát cơm và manh áo mặc. Mặc dầu thỉnh thoảng cũng bị quan binh Mông Cổ tới quấy nhiễu, nhưng ở thị trấn Sa Hà Ðiếm nầy các tiệm buôn bán vẫn mở cửa như thường.

Phổ kỵ cầm toa thuốc của Vô Kỵ đi hốt thuốc về, Vô Kỵ liền đem thuốc vào bếp sắc hộ, rồi mang ra cho Chiêm Xuân và Tập Chi uống.

Bốn người ở khách điếm đó luôn ba ngày, ngày nào Vô Kỵ cũng thay đổi toa thuốc hay thay thuốc rịt bên ngoài.

Ðến ngày thứ tư, Tập Chi và Chiêm Xuân đã lành mạnh như thường, cả hai đều cám ơn Vô Kỵ khôn tả.

Họ hỏi Vô Kỵ và Bất Hối định đi đâu thì Vô Kỵ liền cho biết là mình và Bất Hối định lên Tọa Vong Phong trên núi Côn Luân.

Chiêm Xuân liền nói:

– Tô đại ca, tánh mạng của chúng ta còn là nhờ chú em nầy. Nhưng năm vị sư huynh của tôi còn đang đi khắp nơi tìm kiếm đại ca, như vậy việc nầy vẫn chưa kết liễu đâu, chi bằng đại ca đi cùng chúng tôi lên núi Côn Luân một phen có hơn không?

Tập Chi nghe nói kinh ngạc hỏi:

– Lên núi Côn Luân?

Chiêm Xuân đáp:

– Phải, tôi dẫn đại ca lên núi Côn Luân bái kiến sư gia và thưa rõ với sư gia là đại ca chưa học lóm được một thế hay nửa miếng Long Hình Nhất Bút kiếm. Nếu được gia sư lượng thứ cho, đại ca không còn bị quấy nhiễu nữa. Bằng không, hậu quả sẽ không sao tưởng tượng được.

Tập Chi nghe nói, trong lòng tức giận vô cùng, hầm hực nói:

– Phái Côn Luân của cô nương hà hiếp người ta quá lắm, tôi chỉ nhìn có một cái thôi mà suýt tý nữa bị xuống âm phủ.

Chiêm Xuân với giọng nhu mì khuyên chàng:

– Tô đại ca nên nghĩ hộ tiểu muội, việc nầy, kể ra rất khó. Tôi nói cho gia sư hay là đại ca chưa học một thế kiếm nào, chưa chắc gia sư đã tin đâu. Tiểu muội bị khiển trách cũng không sao, nhưng rủi năm vị sư huynh của tiểu muội lỡ tay đã thương đại ca thì tiểu muội thật áy náy vô cùng.

Hai người vào chết ra sống cùng chung hoạn nạn trong mấy ngày liền nên đã nẩy nở tình yêu, yêu dấu lẫn nhau do đó Tập Chi nghe Chiêm Xuân nói như vậy, bao nhiêu sự tức tối đều tiêu tan.

Chàng lại nghĩ:

– Phái Côn Luân người nhiều thế mạnh, nếu chúng cứ theo dõi mà quấy nhiễu ta, không sớm thì chầy tánh mạng ta cũng sẽ bị kết liễu .

Chiêm Xuân thấy Tập Chi ngẩn người ra nghĩ ngợi, liền nói tiếp:

– Ðại ca cứ đi cùng tôi một phen, nếu đại ca có việc gì rất khẩn cấp, thì chờ đi Côn Luân xong tiểu muội sẽ giúp đại ca làm xong việc đó.

Tập Chi cả mừng đỡ lời:

– Ðược, cứ thế vậy. Nhưng không biết tôn sư có chịu tin lời nói đó không?

– Xưa nay sư phụ vẫn cưng em, nếu em cứ khăng khăng van cầu thì chắc gia sư cũng sẽ tha thứ cho anh.

Tập Chi biết là nàng đã có lòng yêu mình, nên chàng cũng cảm thấy cởi mở vô cùng, liền nói với Vô Kỵ :

– Chú em, chúng ta cùng lên núi Côn Luân cả.

Chiêm Xuân cũng xen lời nói:

– Dãy núi Côn Luân dài hàng nghìn dặm và có rất nhiều ngọn không biết Tọa Vong Phong ở nơi nào. Mình cứ tới đó đã rồi hỏi thăm thì thế nào cũng sẽ kiếm ra được.

Ngày hôm sau, Tập Chi thuê một chiếc xe lớn để cho Vô Kỵ và Bất Hối ngồi, còn mình và Chiêm Xuân cưởi ngựa.

Ði tới thị trấn lớn ở phía trước, Chiêm Xuân lựa mua mấy bộ quần áo mới cho Vô Kỵ và Bất Hối mặc.

Hai người tắm rửa và thay quần áo xong, Tập Chi thấy Vô Kỵ rất anh tuấn và Bất Hối cũng xinh đẹp lạ lùng, đều vỗ tay khen ngợi.

Bắt đầu từ lúc này trở đi, hai đứa nhỏ mới khỏi cảnh đi đường khổ sở, ăn được ngon, ngủ kỹ, thân thể cũng khỏe mạnh và béo tốt dần.

Càng đi, tiết trời càng lạnh. Suốt dọc đường nhờ Tập Chi và Chiêm Xuân trông nom cho, vì hai người đều là những nhân vật có tên tuổi trong võ lâm nên đi suốt dọc đường được bình an.

Khi tới Tây Vực, Vô Kỵ mới hay thế lực của phái Côn Luân quả thật hùng hậu nên bốn người đi đến đâu cũng không bị ngăn cản.

Nhưng ở miền Tây Bắc nầy, cát vàng rất nhiều và gió lạnh buốt xương.

Vô Kỵ còn có thể chịu nổi, chớ Bất Hối thì suốt ngày run cầm cập.

Không bao lâu, đã tới eo núi Tam Thánh của dãy núi Côn Luân, rồi khi vào trong eo núi, mọi người chỉ thấy cỏ xanh mọc khắp nơi có rất nhiều hoa thơm cỏ lạ. Tập Chi với Vô Kỵ đều không ngờ trong cõi hoang vu giá lạnh nầy lại có cảnh đẹp nh động tiên.

Thì ra eo núi Tam Thánh nầy bốn bề đều có vách núi ngăn cản gió lạnh nên cảnh trong eo nầy mới được tươi đẹp như thế.

Ðồng thời, từ khi Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Ðạo lập môn phái, trong bảy tám mươi năm trời, đã tốn không biết bao hơi sức để chỉnh đốn và còn sai đệ tử đi Giang Nam, Thiên Trúc bứng đem về những hoa thơm cỏ lạ trồng cho thêm đẹp.

Chiêm Xuân đưa ba người tới Thiết Cầm Cư, chỗ ở của Thiết Cầm Hà Thái Xung.

Vừa vào đến cửa đã thấy các sư huynh đệ của nàng có vẻ gay cấn vô cùng.

Những người đó chỉ gật đầu chào nàng chớ không hề nói năng gì cả.

Chiêm Xuân nghĩ thầm:

– Không biết đã xầy ra chuyện gì mà các sư huynh đệ ta có vẻ gay cấn như thế.

Ðoạn nàng kéo một người sư muội lại gần hỏi:

– Sư phụ có ở nhà không ?

Người sư muội đó chưa kịp trả lời, nàng đã nghe tiếng quát tháo của Thái Xung từ trong nhà vọng ra:

– Ðồ vô dụng, vô dụng! Có việc gì bảo các ngươi làm là không ai làm nên trò trống gì cả !

Như vậy, ta còn thâu các ngươi làm đệ tử làm chi?

Tiếp theo đó, nàng lại nghe tiếng đập bàn rất lớn, nàng khẽ nói với Tập Chi:

– Sư phụ em đang nỗi giận, chúng ta không nên vào yết kiến lúc nầy để sáng mai xem sao.

Thái Xung đột nhiên lớn tiếng hỏi:

– Con Chiêm Xuân đâu? Nó về chưa? Tại sao nó không vào gặp ta? Nó lén lút nói với ai bên ngoài thế? Không biết nó có mang thủ cấp của họ Tô về đây không?

Chiêm Xuân nghe sư phụ nói vậy biến sắc, vội vào nội đường quỳ xuống vái lạy và thưa:

– Ðệ tử xin bái kiến sư phụ.

Thái Xung lại hỏi:

– Ta sai con đi làm việc đó, chẳng hay con làm xong chưa? Còn tên tiểu tặc họ Tô đâu?

Chiêm Xuân đáp:

– Người họ Tô đang chờ đợi ngoài kia để vào thỉnh tội với sư phụ. Y nói chỉ là người ngu dốt, chỉ tình cờ thấy sư phụ luyện kiếm, nhưng kiếm pháp của bổn phái tinh diệu vô cùng, chẳng hiểu gì hết và cũng không học được nửa miếng.

Nàng theo sư phụ lâu năm biết tánh sư phụ rất tự phụ vì thế nàng cố ý nói Tập Chi khen ngợi võ công của thầy để Thái Xung trong lòng cởi mở thì sẽ vui vẻ mà tha tội cho Tập Chi.

Nếu là lúc thường mà nàng nói vậy thì Thái Xung trúng kế nàng ngay. Nhưng hôm nay, Thái Xung đang nóng nảy, nên nghe Chiêm Xuân nói vậy, chỉ dùng giọng mũi hừ một tiếng và nói:

– Việc này con đã làm xong, đáng khen lắm. Con hãy giam tên họ Tô vào thạch thất ở phía hậu sơn để mai mốt ta sẽ xử y sau.

Chiêm Xuân thấy sư phụ đang nổi giận, không dám van lơn nữa, vâng lời ngay rồi nàng lại hỏi thăm:

– Thưa sư phụ, năm vị sư mẫu đều mạnh giỏi cả? Ðể con vào trong vái lạy.

Thì ra Thái Xung có vợ và nàng hầu, tất cả năm người. Y cưng nhất người thiếp thứ năm .

Muốn cầu sư phụ tha tội cho Tập- Chi, Chiêm Xuân định vào nhờ sư mẫu nói giúp.

Ngờ đâu nàng vừa nói xong, Thái Xung tỏ vẻ rầu rĩ, thở dài một tiếng và đáp:

– Con vào thăm cô Năm đi, cô ấy đang đau nặng. Cũng may con về kịp mới được gặp mặt cô ta.

Chiêm Xuân ngạc nhiên hỏi lại:

– Cô Năm đau ra sao, chẳng hay bệnh gì thế, thưa sư phụ.

Thái Xung thở dài đáp:

– Nếu biết là bệnh gì thì may mắn lắm rồi. Ta mời bảy thầy lang tên tuổi đến khám bệnh mà thầy nào cũng không biết cô ta bệnh gì. Một người đẹp như hoa như ngọc mà sưng… Hà!

Thôi, không nói nữa…

Y vừa nói vừa lắc đầu lia lịa rồi tiếp:

– Ta thâu bấy nhiêu đồ đệ mà không một tên nào là hữu dụng. Bảo chúng đi Trường Bạch Sơn kiếm nhân sâm, mà gần hai tháng rồi chưa đứa nào trở về. Bảo chúng đi kiếm Tuyết Liên, Thủ Ô về chữa cho cô Năm mà những tên đó đều về tay không cả.

Chiêm Xuân nghĩ thầm:

– Từ đây đi tới núi Trường Bạch xa hàng vạn dặm, đi trong bao nhiêu lâu làm sao mà về kịp được.

Dù có tới núi Trường Bạch cũng chưa chắc tìm đưc những củ nhân sâm thật già. Còn Tuyết Liên và Thủ Ô là những thứ thuốc rất quý báu có thể cải tử hồi sinh, kiếm cả đời chưa chắc đã thấy, nhứt thời đi tìm kiếm thì làm sao mà ra.

Sư phụ yêu tiểu thiếp đó còn hơn cả tính mạng mình, nay bà ta mắc bệnh nặng và bất trị thì tất nhiên ông ta phải nổi giận mà mắng lây những người khác.

Thái Xung lại nói tiếp:

– Ta đã dùng nội lực để thăm kinh mạch của cô Năm thì thấy không có triệu chứng gì khác lạ. Hừ, nếu cô Năm mà không khỏi thì ta sẽ giết hết cả những thầy lang trên thiên hạ nầy.

Chiêm Xuân chờ Thái Xung nói xong, liền nói theo:

– Con xin phép sư phụ vào thăm cô Năm.

– Ðược, để sư phụ dẫn con vào.

Chiêm Xuân vừa bước vào phòng đã ngửi thấy sặc mùi thuốc. Nàng bèn vén màn lên, thấy mặt cô Năm sưng vù tựa như Trư Bát Giái vậy, hai mắt sâu hõm, xung quanh mắt sưng đến mí, mắt không sao mở lên được, hơi thở rất nặng. Cô Năm là một giai nhân tuyệt đẹp, bằng không Thái Xung đâu đến nỗi say mê nàng như vậy, nhưng lúc này nàng đau ốm, mặt mũi trở nên xấu xí, cả Chiêm Xuân cũng phải thương tiếc thầm.

Thái Xung lại bảo Chiêm Xuân:

– Con ra bảo những thầy lang băm ấy vào coi mạch lại xem sao.

Nhưng, vú già hầu hạ trong phòng đã lẹ làng đi ra.

Một lát sau, Chiêm Xuân nghe tiếng xích kêu “loon coon”, tiếp theo đó là bảy thầy lang mặc áo dài đi vào, chân đều bị xiềng xích sắt quấn chặt vào nhau.

Người nào người nấy mặt mũi tiều tụy, thần sắc đau khổ.

Thì ra bảy người nầy đều là những thầy lang có tên tuổi ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Cam Túc… Thái Xung sai đệ tử đi các nơi nửa thỉnh nửa bắt cóc đem lên núi Côn Luân.

Bảy vị danh y đó mỗi người phát biểu một ý kiến, có người bảo cô Năm bị phù, có người bảo cô Năm bị trúng tà.

Nhưng các toa thuốc của họ đã viết đem đi hốt thuốc cho cô Năm uống đều không làm cho bệnh cô Năm thuyên giảm tí nào trái lại, người của cô Năm càng ngày càng sưng vù thêm, nên Thái Xung nổi giận xiềng chặt bọn họ lại và bảo:

– Nếu họ không chữa khỏi bệnh cho cô Năm, thì ta sẽ chôn sống họ theo trong mộ của cô Năm.

Bảy thầy lang đó đã nghĩ hết phương pháp mà không sao chữa cho cô Năm thuyên giảm.

Họ cũng biết không thể nào sống sót mà trở về quê quán nếu cô Năm có bề gì, nên mỗi lần họ vào thăm bệnh xong trở ra ngoài là bàn tán về toa thuốc nầy, về toa thuốc kia và lớn tiếng tranh luận, ông nầy công kích ông kia, vu cho nhau đã làm cho căn bệnh của cô Năm nặng thêm chớ không ai chịu lỗi về mình cả.

Lần nầy cũng vậy, vừa xem mạch xong là họ ra ngoài lại cãi vã nhau.

Thái Xung vừa lo, vừa giận, vừa lớn tiếng mắng chửi họ.

Nhờ vậy, bảy lang y đó mới không cãi vã nhau nữa.

Chiêm Xuân thấy vậy liền nghĩ tới Vô Kỵ , nàng bèn thưa với Thái Xung:

– Thưa sư phụ con ở Hà Nam có đưa về đây một vị lang y, tuổi tuy còn nhỏ nhưng mát tay, thế nào cũng giỏi hơn những lang y kia nhiều.

Thái Xung cả mừng nói:

– Sao con không nói sớm cho thầy hay! Mau mời ông ta vào đây đi!

Thì ra, mỗi khi một danh y mời tới là Thái Xung đối xử rất cung kính, nhưng khi danh y đó trở nên lang băm thì y trở mặt.

Chiêm Xuân ra ngoài khách sảnh đưa Vô Kỵ vào.

Vừa thấy mặt, Vô Kỵ nhận ngay ra Thái Xung là người trong bọn năm xưa đã lên núi Võ Ðang và bức tử cha mẹ mình nên y tức giận thầm.

Nhưng Thái Xung không nhận ra y vì đã cách bốn năm năm rồi, vả lại tướng mạo và thân hình của Vô Kỵ đã thay đổi rất nhiều.

Vô Kỵ là một thiếu niên mười bốn mười lăm tuổi, gặp Thái Xung mà không thèm chấp tay thi lễ còn liếc mắt nhìn về phía khác.

Nhưng lúc nầy vì phải nhờ đến Vô Kỵ nên y cũng không chấp nhất, bèn hỏi Chiêm Xuân:

– Con nói đưa thầy lang vào, vậy thầy lang ấy đâu ?

Chiêm Xuân đáp:

– Chú em nầy là thầy lang đấy! Tuy nhỏ tuổi nhưng y học của chú ấy rất cao, có lẽ giỏi hơn cả các vị danh y kia nhiều.

Có vẻ không tin, Thái Xung chỉ dùng giọng mũi hừ một tiếng.

Chiêm Xuân lại nói:

– Ðệ tử bị trúng phải chất độc của hoa Thanh Ðà La may nhờ chú em này chữa khỏi.

Thái Xung nghe nói cũng giật mình và nghĩ thầm:

– Trúng phải chất độc của Thanh Ðà La mà không có thuốc giải độc của ta thì người trúng độc thể nào cũng chết. Thằng nhỏ nầy chữa khỏi được chất độc đó kể cũng lạ thật .

Ðoạn y ngắm Vô Kỵ một hồi rồi hỏi:

– Thiếu niên kia, cậu biết chữa bịnh thật à?

Nghĩ đến cảnh cha mẹ mình đã chết một cách thê thảm nay lại thấy bộ mặt của Thái Xung hung ác, Vô Kỵ càng ghét y. Nhưng vốn là người lương thiện, xa nay thù ai cũng vậy, chỉ một thời gian ngắn thôi, bằng không, khi nào cậu chịu chữa bệnh cho Hiểu Phù và bọn Dãn Tiệp. Cậu biết rõ phái Côn Luân cũng có liên can tới cái chết của cha mẹ nhưng cậu không thể bắt chước Hồ Thanh Ngưu, thấy chết không cứu, nên rốt cuộc cậu đã cứu chữa cho Tập Chi và Chiêm Xuân. Cũng như lúc nầy chẳng hạn, cậu nghe Thái Xung nói mình như một đứa con nít, trong lòng tuy không vui, nhưng cậu vẫn gật đầu nhận chữa.

Vô Kỵ vừa bước chân vào trong phòng đã ngửi thấy mùi kỳ lạ xông lên mũi nhưng một lát sau cậu đã thấy mùi kỳ lạ ấy phai lạt dần, rồi giây phút sau lại nồng lên như trước.

Y ngạc nhiên vô cùng, bèn tiến tới giường cô Năm, ngắm nhìn mặt cô ta một hồi, kế nắm tay thăm mạch rồi đột nhiên lấy một cây kim vàng ra chăm luôn vào bộ mặt sưng vù của nàng.

Thái Xung kinh hãi, vội quát hỏi:

– Cậu làm gì thế?

Y vừa quát vừa giơ tay định kéo Vô Kỵ lại, nhưng Vô Kỵ đã rút mũi kim kia ra.

Có một điều lạ là mặt Cô Năm không có nước vàng hay máu mủ gì rỉ ra cả.

Thái Xung để một tay ở phía sau lưng Vô Kỵ , định điểm vào yếu huyệt của cậu, nếu y thấy nàng thiếp của y lâm nguy.

Sau y thấy cô Năm vẫn nằm yên, nên thâu tay lại.

Vô Kỵ đưa mũi kim lên mũi ngửi, gật đầu mấy cái.

Lúc nầy, Thái Xung mới thấy có chút ít hy vọng, và lên tiếng hỏi:

– Cậu… cậu… em… xem bệnh của tiện nội có hy vọng chữa khỏi không?

Y là tôn trưởng của một môn phái, mà chịu Vô Kỵ là cậu em như thế, kể ra cũng nể Vô Kỵ vô cùng.

Vô Kỵ không trả lời, bỗng cúi mình chui luôn vào gầm giường cô Năm xem xét một hồi rồi lại mở cửa sổ ngó ra ngoài vườn hoa.

Thấy cử chỉ của Vô Kỵ , Thái Xung cũng ngạc nhiên vô cùng.

Vô Kỵ lại nhảy qua cửa sổ, thưởng thức các thứ hoa thơm cỏ lạ ngoài vườn.

Cô Năm ưa trồng hoa, nên trong vườn đó đều trồng những thứ hoa rất quý.

Một lát sau, Vô Kỵ gật đầu mấy cái, hình như đã nghĩ ra được phơng pháp cứu chữa, rồi quay trở vào trong phòng, và trả lời Thái Xung:

– Bệnh này có thể chữa khỏi, nhưng tôi không muốn chữa. Chiêm cô nương, chúng ta đi ra thôi.

Chiêm Xuân vội khuyên:

– Chú em họ Trương, nếu chú chữa khỏi bệnh cho cô Năm thì phái Côn Luân này, từ già chí trẻ, đều chịu ơn đức của chú vô cùng.

Vô Kỵ chỉ vào mặt Thái Xung, đáp:

– Thiết Cầm tiên sinh đây cũng là người đã bức tử cha mẹ tôi, như vậy, tôi chữa bịnh cho người của ông làm gì !

Thái Xung nghe Vô Kỵ nói vậy, giật mình kinh ngạc và vội hỏi:

– Chú em quý tính danh là gì? Lệnh tôn và lệnh đường là ai?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi họ Trương, phụ thân tôi đệ tử thứ năm của phái Võ Ðang.

Thái Xung rùng mình nghĩ thầm:

– Thế ra thiếu niên này là con trai của Trương Thúy Sơn !

Ðoạn, y bèn vái chào Vô Kỵ và nói tiếp:

– Hồi lệnh tôn còn sống cùng tại hạ kết giao rất thân. Từ khi lệnh tôn tự sát qua đời tới giờ, tại hạ vẫn thương tiếc luôn…

Muốn nhờ vả Vô Kỵ cứu chữa cho người hầu thiếp cưng của mình, Thái Xung mới nói láo như vậy.

Chiêm Xuân cũng nói giúp sư phụ:

– Sau khi lệnh tôn và lệnh đường quá cố, gia sư đã khóc mấy ngày và thường nói với chúng tôi rằng: “Trương ngũ hiệp là bạn tri kỷ nhất trong đời của gia sư đấy.”

Vô Kỵ bán tín bán nghi, nhưng xưa nay tính cậu không hay nhớ dai những mối thù hận, nên ngẫm nghĩ giây lát, liền đáp:

– Phu nhân không phải mắc bệnh quái dị gì đâu. Bà bị rắn độc Kim Ngân Huyết xà cắn đấy.

Thái Xung với Chiêm Xuân đồng thanh hỏi:

– Kim Ngân Huyết xà?

Hồi thứ 34

Kim Ngân Huyết Xà

Bởi họ chưa hề nghe nói tới thứ rắn quái lạ ấy bao giờ.

Vô Kỵ đáp:

– Phải, loại rắn độc này tôi chưa hề thấy, nhưng khi tôi đâm kim vào mặt bà, rồi ngửi mũi kim thì nghe có mùi thơm đàn hương. Hà tiên sinh thử xem mười ngón chân của phu nhân coi có phải đầu ngón chân nào cũng có vết răng nhỏ không?

Thái Xung vội dở mền đắp người thiếp cưng ra xem thì quả nhiên ngón chân nào cũng có một vết răng nhỏ và đen, bằng hạt gạo thôi, nếu không nhìn kỹ, không sao thấy được.

Thái Xung, lại càng tin tưởng Vô Kỵ thêm, liền nói:

– Phải, phải, quả thực ngón chân nào cũng có một vết răng. Chú em cao minh lắm. Chú đã biết rõ căn bệnh của tiện thiếp rồi, tất có thể chữa khỏi bệnh. Nếu tiện thiếp được lành mạnh như thường, tôi sẽ trọng thưởng chú.

Nói tới đó, y quay lại quát bảo bảy lang y kia:

– Các người chỉ được cái nói dóc là không ai bằng. Người thì bảo nàng phong hàn. Toàn là nói bậy nói bạ. Thế sao các người không kiếm thấy những vết răng ấy?

Vô Kỵ vội đỡ lời:

– Bệnh của phu nhân vốn dĩ kỳ lạ lắm, mấy vị lang y ấy không biết rõ căn bệnh đó là sự thường, tiên sinh không nên trách họ mà nên tha họ về nhà ngay thì hơn.

Thái Xung đáp:

– Ðược, được, đã có đại giá giáng lâm thì tại hạ còn giữ chúng ở lại làm chi. Những lang băm này chỉ được cái tài nói dóc, ăn hại là không ai bằng. Xuân, con cho chúng nó mỗi người một trăm lạng bạc để làm lộ phí rồi bảo chúng đi về tức thì.

Bảy thầy lang thoát chết đều mừng rỡ vô cùng hấp tấp đi liền vì họ sợ Vô Kỵ cũng là lang băm như họ thì họ sẽ bị vạ lây, chưa biết chừng bị Thái Xung giết cả lũ cũng nên.

Vô Kỵ nói:

– Tiền bối làm ơn bảo người dọn cái giường của phu nhân sang bên. Dưới gầm giường có hai lỗ nhỏ, đó là lối ra vào của hai con rắn Kim Ngân Huyết Xà đấy!

Thái Xung liền tự tay mình xách cái giường dời sang bên, vì sợ gọi đầy tớ làm sẽ chậm trễ thì người thiếp cưng của y đau đớn thêm chút nữa. Quả nhiên, y vừa đem cái giường ra khỏi chỗ cũ là thấy chỗ chân tường có hai cái lỗ nhỏ. Y vừa mừng vừa giận, vội lớn tiếng kêu gọi:

– Chúng bay mau lấy diêm sinh ra để ta hun cho rắn độc chạy ra rồi ta bầm chém nó ra là nghìn vạn mảnh.

Vô Kỵ xua tay cản:

– Không được, không được. Cần phải có hai con rắn độc ấy mới chữa khỏi cho phu nhân.

Nếu tiền bối giết chúng đi thì bệnh của phu nhân không thể nào chữa khỏi được.

– À thế! Vậy chú em cho tôi biết nguyên nhân tại sao tiện thiếp lại trúng phải nọc độc của hai con rắn ấy?

Vô Kỵ chỉ tay ra vườn hoa bên ngoài cửa sổ:

– Hà tiên sinh, bệnh của Tôn phu nhân là do tám cây hoa Linh Chi Lan kia gây nên.

– Tám cây đó tên là Linh Chi Lan à. Tôi có biết tên những cây đó đâu! Có người bạn thấy rồi lúc trồng hoa ở Tây Vực đem về tám cây lan đó tặng tôi. Hoa của những cây đó có mùi thơm như trầm, màu sắc của cánh hoa rất đẹp, không ngờ những cây đó lại là mối họa như vậy.

– Theo sách thuốc nói thì những cây Linh Chi Lan này gốc tròn như trái cầu, màu đỏ như lửa, trong có chất độc rất mạnh. Ðể hậu sinh cho đào lên xem có đúng thế không?

Lúc ấy, các đệ tử của Thái Xung đã biết tin Vô Kỵ chữa bệnh quái dị cho ngũ sư mẫu của chúng bèn tới cả nơi đây để xem.

Các nam đệ tử thì không tiện vào phòng, còn sáu nữ đệ tử với Chiêm Xuân đứng bên cạnh sư phụ.

Họ nghe Vô Kỵ nói vậy liền có hai nữ đệ tử đi lấy xuổng cuốc đào luôn cây lan độc lên.

Quả nhiên gốc cây tròn như trái cầu và đỏ như lửa.

Hai nữ đệ tử nghe nói cây này rất độc nên không dám mó tay vào.

Vô Kỵ lại dặn:

– Hai vị làm ơn đào cả tám cây lên lấy hết gốc cây để bỏ vào trong cối giã và cho thêm năm hột gà, một bát tiết gà, trộn chung vào giã, cho tới lúc nát thành hồ. Nhưng hai chị nên cẩn thận, đừng để nước bám vào người thì nguy đa!

Chiêm Xuân lại đi lấy hai cái ống tre nhỏ ra cho Vô Kỵ sử dụng.

Một lát sau, hai đệ tử đó đã giã xong tám gốc cây, Vô Kỵ liền đổ xuống đất quây thành một vòng tròn, một đầu để hở một miệng rộng chừng hai tấc, rồi dặn mọi người rằng:

– Lát nữa quý vị có thấy điều chi khác lạ thì xin quý vị cứ việc đứng yên mà xem, đừng nói chuyện và kêu la, e hai con rắn độc ấy kinh hoảng rồi xông lại cắn nghe! Bây giờ các vị mau đi lấy chút cam thảo, bông gòn nhét vào lỗ mũi đi.

Ai nấy đều làm theo lời dặn cảu Vô Kỵ cũng dùng bông gòn và cam thảo nhét vào lỗ mũi.

Sau y lấy lửa đốt những lá cây lan ở trước hai cái lỗ.

Chỉ trong giây lát, từ lỗ hỗng bên trái một con răn chui ra, da đỏ hồng như máu, đầu có mòng vàng chóe.

Con rắn ấy từ từ bò ra, mọi người mới thấy rõ nó có bốn chân, mình dài chừng tám tấc.

Con rắn ấy vừa bò ra khỏi lỗ, thì bên phải cũng có con rắn nữa bò ra.

Con rắn sau này nhỏ và ngắn hơn một chút, màu bạc.

Thấy hai con rắn quái dị ấy, Thái Xung và các môn đồ đều im hơi lặng tiếng.

Hai con rắn thè lưỡi liếm vai nhau, trông rất thân mật và âu yếm, rồi chúng từ từ bò vào giữa vòng thuốc dưới đất.

Chờ chúng vào trong vòng rồi, Vô Kỵ vội cầm một cái que trúc khẽ gạt đuôi con rắn màu bạc.

Nhanh như chớp, mọi người chỉ thấy thấp thoáng ánh sáng bạc một cái là nó đã chui vào trong ống tre.

Con màu vàng cũng định chui vào nhưng ống tre chỉ có thể đựng một con thôi, nên con thứ hai ngẩng đầu kêu vù vù.

Tiếng kêu cảu nó tựa như tiếng ống tiêu nghe rất êm tai.

Vô Kỵ lại đưa ống tre thứ hai đến trước mặt con màu vàng rồi lấy que tre gạt đuôi nó, con này cũng chui vào trong ống tre.

Vô Kỵ vội lấy nút nhét chặt hai ống tre, mọi người mới dám thở mạnh.

Vô Kỵ lại bảo:

– Hay lấy cho tôi mấy thùng nước nóng, rửa sạch những thuốc độc dưới này đi, bằng không rất nguy hiểm!

Sáu nữ đệ tử vội xuống bếp xách sáu thùng nước nóng lên và rửa sạch căn phòng đó liền.

Vô Kỵ bảo mọi người đóng kín cửa sổ lại, sai người lấy mấy vị thuốc: Hồng hoàn , Minh Phàn, Ðại hoàn , Cam Thảo… v.v… giã thành bột trộn với vôi sống bỏ vào ống tre có con rắn màu bạc.

Mọi người liền nghe con rắn bên trong kêu vù vù con màu vàng ở ống tre bên kia cũng lên tiếng kêu như vậy.

Ðoạn Vô Kỵ mở nút ống tre có con rắn màu vàng thì con rắn ấy bò ra tới cạnh ống tre kia, vòng quanh mấy bận tỏ vẻ lo lắng, rồi đột nhiên nó chạy ngay lên trên giường, chui ngay vào trong chăn cô Năm.

Thái Xung kinh hãi toan can thiệp, nhưng Vô Kỵ vội xua tay và khẽ lật cái chăn bông lên thì thấy con rắn màu vàng đó đang cắn chặt ngón chân giữa bên chân trái cảu cô Năm.

Vô Kỵ mừng rỡ nói:

– Những chất độc của hai con rắn này ở trong người cô Năm bây giờ đã được chính con rắn đó hút ra.

Lát sau mình con rắn đó sưng vù lên to gấp năm sáu lần lúc nó chưa hút máu.

Lúc này, màu của nó lại càng vàng và chói lọi thêm.

Vô Kỵ lại mở cái nút tre thứ hai, con rắn vàng ở trên giường nhảy xuống bò tới ống tre, mồm nhả máu độc để cho con rắn bạc ăn.

Vô Kỵ liền bảo với Thái Xung:

– Thế này ta có thể yên bụng. Mỗi ngày cứ cho chúng hút độc ra hai lần. Hữu sinh xin viết một toa thuốc cho Tôn phu nhân uống để chóng khỏi sưng và cho được khỏe mạnh thêm.

Liền sau đó, Vô Kỵ kê đơn trao Thái Xung sai người đi hốt thuốc về sắc cho cô Năm uống.

Từ khi chính mắt mình theo dõi Vô Kỵ chữa bịnh cho người ái thiếp thứ năm vị trưởng môn của phái Côn Luân không ngớt vừa ngạc nhiên vừa kinh dị trước phương pháp lạ đời và rợn người của thầy lang tí hon, tuổi chưa thành nhơn mà y thuật không đo lường được.

Thật Thái Xung không ngờ trên đời võ lâm của mình đã từng gặp biết bao trường hợp vượt quá sức tưởng tượng nhưng ông chưa hề chứng kiến một cảnh tượng nào quái đản như cảnh Vô Kỵ chữa bịnh.

Sau đó, Thái Xung đưa Vô Kỵ ra ngoài thư phòng rồi khen ngợi:

– Tài ba của chú em thần diệu thật. Tại sao chú em lại biết cách chữa như vậy, có thể cho tại hạ rõ được không?

Vô Kỵ đáp:

– Trong sách Ðộc Vật Ðại Toàn có ghi rõ đôi Kim Ngân Huyết Xà nầy là độc vật thứ ba mươi bảy của tất cả các thứ độc vật trên thiên hạ. Tuy vậy, nó có một đặc điểm là thích ăn những thứ độc như: Nhân Ngôn, Hạ Ðỉnh Hồng, Mật Công, v.v… Ngoài vườn có trồng Linh Chi Lan cũng là thứ hoa lan có chất độc rất lợi hại, nên mới dụ đôi rắn này tới.

– Thì ra là thế!

– Loại Kim Ngân Huyết Xà bao giờ cũng có đôi, sống chung với nhau. Vừa rồi tôi dùng Hồng hoàn , Cam Thảo đổ vào trong ống tre để cho con cái có màu bạc đau đớn, con đực màu vàng hay tin vội đi hút máu độc ở chân phu nhân ra cứu con cái. Ba tiếng đồng hồ nữa, tôi lại lấy thuốc trị con đực, con cái thế nào cũng đi hút mau độc để chữa cho con đực. Như vậy, cứ cho chúng lần lượt hút máu, chất độc trong người phu nhân sẽ hết dần.

Ngày hôm đó, Thái Xung liền thiết tiệc khoản đãi Vô Kỵ và Bất Hối.

Vô Kỵ không muốn nói rõ lai lịch của Bất Hối cho mọi người rõ vì cô bé đó là đứa con ngoại tình của Hiểu Phù, nếu nói ra sợ tai tiếng cho phái Nga Mi, nên lúc Thái Xung hỏi lai lịch Bất Hối thì Vô Kỵ chỉ trả lời một cách mơ hồ.

Mấy ngày sau, bịnh của cô Năm lành mạnh dần và cô đã bắt đầu ăn uống được, tới ngày thứ mười thì khỏi hẳn.

Cô Năm bèn cho dọn một mâm cơm thật thịnh soạn để mình đích thân cảm tạ Vô Kỵ và có cho Chiêm Xuân ngồi tiếp.

Tuy còn tiều tụy nhưng nàng vẫn đẹp như xưa.

Thái Xung mừng rỡ vô cùng, nhân lúc sư phụ cao hứng.

Chiêm Xuân yêu cầu sư phụ thâu nhận Tạp Chi làm môn đồ, Thái Xung ha hả cười và nói:

– Xuân, mưu kế cảu con khôn khéo thật. Ta thâu thằng nhỏ họ Tô làm môn đồ tất nhiên sau này ta phải truyền pho kiếm Long Hình Nhất Bút cho nó, như vậy trước kia nó có xem lỏm một lần cũng không sao mà!

Chiêm Xuân vừa cười vừa đáp:

– Thưa sư phụ, nếu người họ Tô ấy không xem lỏm sư phụ luyện kiếm đệ tử không phải lùng bắt và làm sao gặp được Trương thế huynh đây? Tất nhiên cũng phải nói đó là sư phụ và cô Năm có hồng phúc, nhưng kể ra thì tên họ Tô ấy cũng có một phần công lao.

Cô Năm liền bảo Thái Xung:

– Tướng công thâu bấy nhiêu đồ đệ, rốt cuộc không đứa nào giúp ích mình cả. Chiêm cô nương đã nói vậy, chắc thằng nhỏ họ Tô không phải là người tầm thường thì tướng công có thâu thêm một đồ đệ nữa cũng không sao. Biết đâu sau này tên họ Tô ấy lại chẳng là người đệ tử đắc lực nhất của tướng công?

Xưa nay cô Năm nói gì, Thái Xung cũng đều nghe nên cô Năm vừa nói xong, y đã nhận lời liền:

– Nếu em bảo thâu thì tôi thâu nó, nhưng có một điều nầy…

Cô Năm vội hỏi:

– Ðiều gì thế?

Thái Xung nghiêm nét mặt đáp:

– Y là môn hạ của tôi thì phải nhứt tâm nhứt chí học tập chớ không được si mê Chiêm Xuân và định lấy con nhỏ này làm vợ. Việc ấy tôi cấm triệt để.

Chiêm Xuân mặt đỏ bừng, cuối đầu e lệ.

Cô Năm khúc khích cười và tiếp lời:

– Ối chà! Sao tướng công lại nói thế? Mình là sư phụ thì phải làm gương mẫu cho đồ đệ mới được. Mình đã tam thê, tứ thiếp mà lại cấm đồ đệ lấy nhau nghĩa lý gì?

Lời nói vừa rồi của Thái Xung là nói bông nói đùa Chiêm Xuân thôi, nên y nghe cô Năm nói vậy liền ha hả cười và nói sang chuyện khác:

– Thôi, tiếp tục uống rượu đi!

Lúc ấy bỗng con sen bưng một cái khay gỗ, trên khay có một ấm rượu, đem tới trước mâm cơm rồi con sen rót luôn cho mỗi người một chén.

Vô Kỵ thấy thứ rượu đó màu vàng khè, đặc như hồ, mùi thơm xông lên mũi.

Thái Xung nói:

– Chú em họ Trương, đây là rượu Hổ Phách Mật Lê tửu của bổn phái, chế bằng một thứ lá sản xuất trên đỉnh núi tuyết, chỉ có núi Côn Luân này mới có. Thứ lê ấy gọi là Hổ Phách Mật Lê. Rượu này ngon vô cùng, nhưng không thể uống nhiều được.

Vô Kỵ không biết uống rượu, nhưng y đưa lên mũi ngửi, mùi thơm xông lên và tim phế cảm thấy mát rợi.

Y định uống một hớp bỗng nhiên nghe hai con rắn Kim Ngân ở trong lồng, đồng thanh khẽ kêu “vù, vù”.

Vô Kỵ sực tỉnh ngộ, liền nói lớn:

– Rượu này không thể uống được.

Mọi người đều ngạc nhiên, đặt chén rượu xuống bàn liền.

Vô Kỵ lấy hai cái ống tre ra, mở nút cho con rắn đực bò ra.

Con Huyết xà màu vàng liền uống cạn chén rượu của Vô Kỵ, rồi lại bò tới phía trước mặt bàn uống cạn ba chén rượu của những người kia nữa.

Vô Kỵ nhốt con rắn ấy xong, lại thả con rắn cái ra để cho nó uống nốt ba chén còn dư.

Ðôi Huyết xà này rất quyến luyến nhau, chỉ thả một con ra, cái hay đực cũng vậy, thì không còn nào chịu bỏ đi hết.

Ðồng thời chúng rất ngoan ngoãn nghe lời chủ nhân của chúng. Nhưng cùng thả một lúc không những khó bắt chúng lại vào lồng, mà không biết chừng chúng còn nổi khùng cắn cả chủ nhân của chúng nữa.

Cô Năm vừa cười vừa nói:

– Chú em, đôi rắn độc của chú biết uống rượu thật là kỳ thú lắm.

Vô Kỵ lại nói:

– Lão tiền bối làm ơn bảo người nhà đem một con chó hay một con mèo ra đây.

Một lát sau, người nhà của Thái Xung đem ra một con chó màu vàng.

Vô Kỵ lấy một chén rượu ở trước mặt Thái Xung đổ vào mồm con chó ấy.

Con chó vàng chỉ rên rỉ vài tiếng mồm mũi hộc máu tươi, tai cũng rỉ máu rồi nằm lăn ra chết ngay.

Cô Năm hãi sợ vô cùng, giọng run run nói:

– Rượu này có độc hay sao? … Ai… ai định hãm hại chúng ta thế? Chú em, sao chú biết trước như vậy?

Vô Kỵ đáp:

– Ðôi rắn Kim Ngân Huyết Xà này rất thích ăn uống những thứ có độc. Chúng ngửi trong rượu có chất độc, nên chúng thích thú và kêu vù vù…

Thái Xung sầm nét mặt lại, giơ tay nắm chặt lấy cổ tay con thị tỳ nọ, khẽ hỏi:

– Ai bảo mi đem rượu độc này ra thế?

Thị tỳ hãi sợ, đến mất hồn vía, ngập ngừng đáp:

– Con…, con không biết rượu đó có chất độc bên trong… con đem ở trong bếp ra.

Thái Xung lại hỏi tiếp:

– Mi đi từ trong bếp ra tới đây, có gặp ai không?

Thị tỳ đáp:

– Lúc con đi qua hành lang có gặp chị Hạnh Phương, chị ấy níu con lại nói chuyện, rồi chị ấy mở cái nắp ấm rượu ra ngửi một hồi.

Thái Xung, cô Năm và Chiêm Xuân đều đưa mắt nhìn nhau.

Thì ra Hạnh Phương là thị tỳ thân cận của người vợ cả.

Vô Kỵ nói:

– Thưa Hà tiên sinh, hậu bối trù trừ mãi không muốn nói ra, mà chỉ ngấm ngầm dò xét thôi.

Tiên sinh thử nghĩ xem, tại sao bỗng dưng đôi Kim Ngân Huyết Xà tới đây hút máu cắn đầu ngón chân của phu nhân?

Vấn đề này rất dễ giải đáp. Trước hết phu nhân có ngộ phải chất độc chậm phát, trong máu mới có chất độc, mới dụ hai con rắn tới hút máu và truyền độc sang người phu nhân như vậy. Tôi chắc người bỏ thuốc độc chậm phát trước kia với người bỏ thuốc độc vào trong ấm rượu này là một.

Thái Xung chưa kịp trả lời, đã thấy tấm màn cửa vén lên, có một bóng người thấp thoáng.

Vô Kỵ cảm thấy bên dưới vú đau nhức, biết có người đã điểm trúng yếu huyệt mình.

Tiếp theo đó một giọng nói rất nhọn:

– Phải, chính ta đã bỏ thuốc độc đấy.

Người đó vừa nói vừa bước vào phòng.

Vô Kỵ thấy người đó là một người đàn bà trung niên, hai mắt rất oai, mặt đầy sát khí.

Người đàn bà ấy vừa bước vào, đã lên tiếng hỏi Thái Xung:

– Tôi bỏ nước dãi con rít độc vào trong ấm rượu đấy. Anh làm gì được tôi nào?

Thấy mặt người đàn bà đó, cô Năm có vẻ sợ hãi vội đứng dậy cung kính chào:

– Thái thái.

Thì ra người đàn bà đó chính là vợ cả của Thái Xung, họ Ban tên Thục Nhân, võ công còn cao siêu hơn Thái Xung nhiều. Xưa nay Thái Xung rất sợ nàng ta. Tuy sợ vợ, nhưng y vẫn thích lấy nàng hầu, vợ lẽ, nên y lấy hết người này đến người khác nhưng y lấy thêm một người thì càng sợ vợ cả thêm.

Thấy vợ đột nhiên tới, Thái Xung không dám nói nửa lời, Thục Nhân đã lên tiếng hỏi trước:

– Tôi hỏi anh, chính tôi đã bỏ thuốc độc vào trong ấm rượu đấy, anh làm gì được tôi nào?

Thái Xung đáp:

– Em không thích thanh niên này thì thôi. Nhưng em hành sự không phân nếp tẻ gì hết. Nếu anh không kịp hay biết, lỡ uống phải chén rượu có thuốc độc thì sao?

Thục Nhân nói tiếp:

– Tất cả người có mặt tại đây đều khốn nạn. Dù các người có chết cũng không sao, tôi lại được an nhàn hơn.

Nàng vừa nói vừa cầm ấm rượu lên thử xem thấy trong ấm còn hơn nửa.

Nàng liền rót đầy một chén đem tới trước mặt Thái Xung và nói:

– Thoạt tiên ta định đầu độc cho 5 người chết một lúc, nhưng tên tiểu quỉ này đã phát giác thì ta tha chết cho bốn người, còn một người thể nào cũng phải chết. Chén rượu này, ai uống cũng thế thôi. Lão quỷ quyết định bảo ai uông thì lên tiếng ngay đi?

Nói xong, nàng rút thanh kiếm ra, cầm nơi tay.

Thì ra Thục Nhân là nữ đệ tử võ công kiệt xuất nhất của phái Côn Luân tuổi còn lớn hơn Thái Xung, và nhập môn cũng trước hơn. Hồi Thái Xung còn trẻ rất anh tuấn, nên y rất được người sư tỷ này yêu mến. Sư phụ của họ đấu với một tay cao thủ của Minh Giáo mà đột nhiên chết không để lại một lá chúc thư nào, nên các đệ tử mới tranh giành ngôi chưởng môn mà tàn sát lẫn nhau. Thục Nhân cực lực giúp Thái Xung hai người liên hiệp ra tay, tất nhiên sức mạnh phải hơn các sư huynh đệ khác. Kết quả Thái Xung cướp được ngôi chưởng môn ấy. Y mang ơn người sư tỷ này bèn lấy nàng làm vợ. Hồi thiếu thời, hai người rất yêu nhau, nhưng bây giờ cả hai đã có tuổi, nhất là Thục Nhân chóng già hơn, y tự biết mình có lỗi với vợ, nên lúc nào cũng vậy, y kính sợ người sư tỷ này như một vị sư trưởng hay một con cọp vậy.

Lúc ấy, y thấy vợ để chén rựơu ở trước mặt mình, không dám phản đối gì cả, trong lòng nghĩ thầm:

– Tất nhiên ta không rồi. Ta cũng không để cho cô Năm, và con Xuân uống. Vô Kỵ là ân nhân của ta, khi nào ta lại bắt y uống, chỉ có con bé đi với Vô Kỵ không phải họ hàng thân thích hay môn đồ của ta, thì ta bắt nó uống là phải hơn hết.

Nghĩ đoạn y bèn đứng dậy, cầm chén rượu độc đưa cho Bất Hối và nói:

– Cô bé kia, uống chén rượu này đi.

Bất Hối thất kinh, vì nàng mới thấy con chó vàng vừa to vừa béo đã uống xong chén rượu là chết liền, khi nào nàng dám uống, nên vừa khóc vừa đáp:

– Rượu có thuốc độc, tôi không uống, tôi không uống!

Thái Xung liền túm ngực và định đổ rượu vào mồm bắt nó uống nhưng Vô Kỵ đã nghiêm nghị nói:

– Ðể tôi uống cho.

Thái Xung trù trừ, lòng không nỡ.

Thục Nhân ghét nhứt cô Năm, tưởng phen nầy thế nào cũng giết được ả thị tỳ đáng ghét ấy, ngờ đâu Vô Kỵ ở đâu cứu nàng thoát nạn, nên Thục Nhân ghét lây Vô Kỵ.

Bây giờ, nàng thấy Vô Kỵ đòi uống chén rượu độc ấy mà Thái Xung thì không nỡ, liền lên tiếng:

– Thiếu niên này kỳ lạ lắm, biết đâu ngươi chẳng có thuốc giải trong người, nên mới dám đòi uống thay thế. Nhưng, ngươi uống một chén không đủ ngấm đâu, vậy phải uống hết ấm rượu kia mới được.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn Thái Xung, mong y nói hộ vài lời để Thục Nhân khỏi bắt mình uống.

Ngờ đâu y lại cúi đầu, có lẽ sợ hãi không dám nói nửa lời.

Chiêm Xuân và cô Năm cũng không dám nói gì cả bởi sợ lên tiếng là sẽ bị Thục Nhân ghét lây bắt uống nốt nửa ấm rượu độc kia.

Vô Kỵ thấy mọi người bạc bẽo và ích kỷ như vậy, trong lòng chán nản và cũng nghĩ thầm:

– Tính mạng mấy người này đều do ta cứu cho, nay tới phiên ta ngộ nạn thì chúng khoanh tay bỏ mặc, không nói nửa lời.

Ðoạn y liền dặn Chiêm Xuân:

– Này Chiêm cô nương, sau khi tôi chết, cô làm ơn đưa cô em này đến Tọa Vong Phong để gặp cha em. Chẳng hay cô có giúp được việc này không?

Chiêm Xuân đưa mắt nhìn Thái Xung, thấy sư phụ gật đầu, liền đáp:

– Ðược, tôi nhận lời.

Nàng nói vậy, nhưng trong lòng lại nghĩ:

– Dãy núi Côn Luân dài hàng nghìn dặm, ta biết ngọn Tọa Vong ở đâu mà đưa cô bé này đến đó.

Vô Kỵ thấy Chiêm Xuân nhận lời một cách thiếu thành thật như vậy, biết những người nầy đều là những kẻ bạc bẽo, có nói nhiều cũng vô ích thôi, y liền cười lạt và tiếp:

– Bây giờ tôi mới thấy bộ mặt thật của một môn phái vẫn tự hào là môn phái chính đại trong võ lâm xưa nay. Hà tiên sinh, đưa chén rượu kia cho tôi.

Thấy Vô Kỵ khinh thị mon phái mình, Thái Xung cả giận chỉ mong Vô Kỵ chóng chết giờ phút nào hay giờ phút ấy, nên y cầm cả ấm rượu đổ luồn vào mồm Vô Kỵ tức thì. Bất Hối ôm lấy Vô Kỵ khóc.

Thục Nhân cười lạt nói:

– Dù y thuật của người có cao siêu đến đâu cũng không thể nào giải được rượu độc này.

Nàng vừa nói vừa giơ tay ra điểm luôn mấy yếu huyệt ở sau lưng Vô Kỵ, rồi lại dùng cán kiếm điểm Thái Xung, cô Năm, Chiêm Xuân và Bất Hối bốn người, mỗi người hai yếu huyệt, và nói:

– Hai giờ sau, ta sẽ trở lại giải huyệt cho các người.

Lúc nàng đưa tay điểm huyệt, Thái Xung và Chiêm Xuân hãi sợ đến nỗi đứng yên cho nàng điểm chớ không dám tránh né.

Ðiểm huyệt mọi người xong, Thục Nhân quát bảo hai thị tì bên cạnh:

– Ði thôi.

Chờ cho hai con nhỏ ra khỏi phòng, nàng mới đi ra và đóng luôn hai cánh cửa lại, rồi vừa đi vừa cười lạt.

Rượu độc vào trong bụng, Vô Kỵ cảm thấy đau nhức không sao chịu đựng được, sau y lại thấy Thục Nhân ra khỏi và đóng kín cửa lại, liền nghĩ:

– Mi đã đi khỏi, chắc ta chưa phải chết đâu.

Ðoạn y theo phương pháp giải huyệt của Tạ Tốn, ngấm ngầm vận hơi sức để giải các yếu huyệt vừa bị Thục Nhân điểm, rồi y lấy mấy sợi tóc thò vào mồm ngoáy cổ họng vài cái.

Giây phút sau, y đã nôn rượu ra gần hết.

Thấy Vô Kỵ tự giải huyệt được, Thái Xung và Chiêm Xuân đều kinh ngạc vô cùng.

Thái Xung định chạy lại ngăn cản, nhưng y đã bị điểm huyệt rồi, dù có võ công rất cao cũng không làm gì được, đành trố mắt nhìn thôi.

Vô Kỵ thấy trong bụng vẫn còn đau như bị dao cắt, nên cố gắng mửa thêm, nhưng chất độc đã dính chặt vào ruột rồi, không thể nào mửa ra được nữa.

Y quyết định rời khỏi chốn nguy hiểm này trước, rồi hãy nghĩ cách giải độc sau, nên vội giải huyệt cho Bất Hối, nhưng thủ pháp điểm huyệt của Thục Nhân rất kỳ lạ.

Vô Kỵ giải mãi không sao giải được cho con nhỏ, đành phải ẳm nó lên, ngó qua cửa sổ, thấy bên ngoài không một bóng người nào, y bèn để con nhỏ ra phía ngoài cửa sổ ấy.

Nếu Thái Xung vận hơi sức tự giải huyệt thì trong khoảng nửa tiếng đồng hồ cũng có thể giải được, nhưng y thấy Vô Kỵ sắp đào tẩu, lỡ nó thoát khỏi lát nữa vợ y vào hỏi, lại có sự phiền phức.

Huống hồ để cho một thằng nhỏ tay không của phái Võ Ðang bị bắt giữ trong Tam Thánh Ðường của phái Côn Luân mà tự đào tẩu thoát rồi đem sự vong ân phụ nghĩa của mình tuyên bố cho thiên hạ rõ thì mình là tôn sư nhứt thời của một đại môn phái còn mặt mũi nào xuất đầu lộ diện trên giang hồ nữa? Nên dù sao đi nữa y cũng phải ngăn cản Vô Kỵ mới được. Y vừa hít mạnh hơi một cái, đang định lên tiếng kêu gọi vợ và các môn hạ, nhưng Vô Kỵ đã biết trước như thế, nên vội móc túi lấy ra một viên thuốc màu đen nhét luôn vào mồm cô Năm và nói:

– Viên thuốc này là Tín Thạch hoàn , uống vào bụng, mười hai giờ sau sẽ nát gan đứt ruột chết. Thuốc giải độc của nó tôi sẽ để trên một cây lớn cách đây chừng ba mươi dặm, và có ghi dấu để dễ kiếm. Ba giờ sau, Hà tiên sinh có thể phái người tới chỗ đó lấy về đây cho cô Năm uống thì vô sự. Nếu không may, tôi chưa ra khỏi núi này và bị bắt lại, thì sẽ có thêm một người chết theo tôi.

Thái Xung không ngờ Vô Kỵ lại khôn ngoan đến thế. Y ngẫm nghĩ giây lát, rồi khẽ nói:

– Phái Côn Luân chúng tôi tuy không phải là đầm rồng hang hổ gì, nhưng cậu và cô bé kia chưa chắc đã qua khỏi được các chòi canh của bổn sơn.

Vô Kỵ biết Thái Xung không nói ngoa, liền lạnh lùng tiếp:

– Tôi thiết nghĩ, ngoài tôi ra không ai có môn thuốc giải độc nào có thể chữa khỏi cho phu nhân.

– Thôi được chú giải huyệt hộ tôi, để tôi đưa chú ra khỏi bổn sơn.

Thái Xung bị điểm ở hai yếu huyệt Phong Trì và Kinh Môn, Vộ Kỵ lại giải Thiên Trụ, Thương Khốc mấy yếu huyệt khác, nên cứ xoa bóp mãi không thấy công hiệu gì cả.

Cả hai người đều kinh hãi vô cùng, sau Vô Kỵ nghĩ:

– Thủ pháp điểm huyệt của phái Côn Luân lợi hại thật, Hồ tiên sinh đã dạy ta bảy phương pháp giải huyệt, mà bây giờ ta đã sử dụng cả bảy phương pháp ấy cũng không thấy công hiệu gì cả.

Thái Xung cũng nghĩ:

– Thằng nhỏ này biết phương pháp giải huyệt như thế, và thủ pháp y lại quái dị lạ thường đủ thấy y cũng tài ba lắm. Thục Nhân điểm bảy tám yếu huyệt mà không làm gì nổi y. Ta thấy các người có tên tuổi trong võ lâm đều khen ngợi và kính phục Trương Tam Phong vô cùng, trước kia không tin chút nào, bây giờ mới rõ lời đồn của thiên hạ không ngoa. Cũng may, bữa nọ trên núi Võ Ðang ta không ra tay đối với các cao thủ của họ, bằng không ta bị đánh tơi bời rồi. Nay cứ xem thằng nhỏ này đã lợi hại như thế rồi, sau này nó lớn lên, tất nhiên thế nào cũng lợi hại gấp chín gấp mười.

Y có biết đâu, môn phản điểm huyệt của Vô Kỵ là do Tạ Tốn dạy, mà phương pháp giải huyệt thì do Hồ Thanh Ngưu truyền. Sự thực Vô Kỵ chưa học được một thành bản lãnh nào của phải Võ Ðang.

Thái Xung thấy Vô Kỵ giải huyệt cho mình không công hiệu chút nào liền nghĩ ngay được một kế, vội bảo:

– Chú em đưa ấm nước cho tôi uống vài ngụm.

Không hiểu tại sao Thái Xung lại bỗng nhiên đòi uống nước như vậy, Vô Kỵ có vẻ hòai nghi, nhưng y nghĩ lại tính mạng của thị thiếp cưng của đối thủ đang nằm trong tay mình, chắc đối thủ không khi nào dám ra tay ám hại mình, nên y đem ấm nước lại, cầm cho Thái Xung uống, nhưng y không uống hẳn chỉ ngậm trong mồm, rồi phun thẳng vào yếu huyệt ở khủyu tay.

Cánh tay vừa hoạt động được, Thái Xung liền quay mấy vòng để giải nốt yếu huyệt bị điểm kia.

Từ khi lên Tam Thánh Ðường trên núi Côn Luân này tới giờ Vô Kỵ thấy Thái Xung lo âu buồn phiền vì bệnh quái dị của cô Năm hoài, y sợ vợ, cưng nàng hầu, nhu nhược hèn nhát, không khác gì một người đàn ông thường không chút chí khí chút nào. Ðến giờ Vô Kỵ mới thấy Thái Xung ra tay tỏ lộ võ công, y cũng phải kinh hãi và nghĩ thầm:

– Không ngờ vị chưởng môn của phái Côn Luân lợi hại đến thế, ta cứ khinh thường y hoài, nay mới biết võ công của y quả cao siêu hơn người và đáng là chưởng môn của một phái lớn. Nếu ngụm nước vừa rồi y phun vào mặt hay ngực ta thì chắc ta chết ngay.

Thái Xung giải xong hai yếu huyệt, liền bảo Vô Kỵ:

– Chú em hãy cho cô Năm uống nước giải độc trước, rồi tôi đa chú em ra khỏi sơn cốc này.

Vô Kỵ từ từ lắc đầu, không chịu nghe. Thái Xung nóng lòng vô cùng nói tiếp:

– Tôi là chưởng môn của phái Côn Luân, có khi nào lại thất tín với cậu bé như chú? Lỡ chất độc bộc phát, mà chú đã đi khỏi thì sao?

– Tiên sinh cứ yên trí, thứ thuốc độc này không bao giờ bột phát một cách bất ngờ đâu.

– Thôi được, chúng ta lẳng lặng đi ngay vậy.

Hai người nhảy qua cửa sổ, Thái Xung giơ tay hốt qua lưng Bất Hối một cái, yếu huyệt của con nhỏ được giải liền. Thủ pháp của y lẹ làng và mạnh mẽ vô cùng, Vô Kỵ thấy vậy cũng phải thán phục, hai mắt tỏ vẻ ngưỡng mộ. Từ khi y gặp Thái Xung tới giờ, chưa hề có vẻ kính phục nh thế bao giờ.

Thái Xung nhìn mặt y hiểu ngay nên có vẻ đắc chí, mồm tủm tỉm cười, mỗi tay dắt một đứa nhỏ đi vòng qua vườn hoa phía sau, rồi dò cửa ngách đi ra.

Tam Thánh Ðường có tất cả chín căn. Ba người ra khỏi cửa ngách vườn hoa, lại phải đi qua một con đường khúc khủyu trồng hoa, rồi lại xuyên qua rất nhiều sảnh hay phòng, nếu không có Thái Xung dẫn đường cho, Vô Kỵ phải lạc lối, dù không bị một đệ tử nào của phái Côn Luân ngăn cản, hai đứa nhỏ cũng chưa chắc ra khỏi được Tam Thánh Ðường này.

Muốn đi nhanh hơn, Thái Xung ẳm Bất Hối lên tay trái dắt Vô Kỵ giở khinh công ra, chạy thẳng về phía Tây Bắc.

Nhờ có Thái Xung nắm tay và dắt đi, Vô Kỵ cảm thấy như lơ lửng trên không, một cái nhảy nhót là đi xa hơn trượng.

Vừa đi y vừa nghe gió thổi qua tai kêu vù vù hình như còn nhanh hơn cưỡi ngựa nữa.

Chỉ trong thoáng cái, ba người đã đi hơn hai mươi dặm.

Không những không tốn một tí hơi sức nào, Vô Kỵ còn cảm thấy như là đi mây về gió, dễ chịu vô cùng.

Ba người đang đi thật nhanh, bỗng nghe có tiếng đàn bà gọi:

– Hà Thái Xung! Hà Thái Xung, có mau đứng lại không…

Tiếng gọi ấy theo gió truyền tới, hình như người đàn bà ấy đang ở phía đàng xa, và cũng hình như đang ở bên cạnh vậy.

Vô Kỵ nhận ngay ra người đàn bà ấy chính là Thục Nhân.

Trù trừ giây lát, Thái Xung đành phải ngừng chân lại thở dài và nói:

– Chú em mau dắt cô bé chạy đi. Nhà tôi đã đuổi theo tới, tôi không thể nào tiếp tục đưa hai người đi nữa.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Như vậy y cũng không đến nỗi đểu giả lắm.

Vừa nghĩ y vừa đáp:

– Hà tiên sinh cứ quay trở lại đi. Viên thuốc tôi cho cô Năm uống không phải là thuốc độc và cũng không phải là Thạch Tín hoàn gì cả, tiên sinh cứ yên trí mà quay trở lại.

Thái Xung nghe Vô Kỵ nói vậy vừa tức giận vừa kinh ngạc, quát hỏi:

– Có thực không phải thuốc độc không?

– Chính tay tôi đã cứu cô Năm thoát chết, khi nào tôi lại đang tay đầu độc để giết hại cô?

Lúc ấy, tiếng gọi của Thục Nhân càng ngày càng gần.

– Hà Thái Xung… Thái Xung… liệu ngươi có chạy thoát được không?

Sở dĩ Thái Xung phải đem Vô Kỵ và Bất Hối đào tẩu nhu vậy là hoàn toàn chỉ vì cô Năm của y.

Bây giờ, Thái Xung đã biết viên thuốc của Vô Kỵ cho nàng hầu cưng của mình uống không phải là thuốc độc, và biết mình đã bị mắc lỡm thì trong lòng tức giận khôn tả, bèn giơ tay lên tát luôn Vô Kỵ mấy cái bạt tai.

Bị đánh bốn cái tát liền, hai má Vô Kỵ sưng húp, máu tươi rỉ ra đầy mồm, đau đớn vô cùng.

Y lại thấy cái tát thứ năm của Thái Xung đánh tới vội giở thế võ Kháng Long Hữu Hối trong Giáng Long Thập Bát Chưởng của Tạ Tốn dạy ra chống đỡ.

Nếu y học được toàn vẹn môn võ này thì công lực mạnh không thể tưởng tượng được, nhưng y chỉ học được một chút thôi thì địch sao nổi người chưởng môn của phái Côn Luân?

Thái Xung thấy thằng nhỏ giơ chưởng phản công lại, thế võ rất đặc biệt, hiển nhiên là một tay cao thủ thuộc hạng thượng thặng nên y khẽ kêu “ủa” một tiếng, rồi né người tránh sang bên. Thuận tay y lại đánh luôn một chưởng vào mắt bên phải của thằng nhỏ.

Vô Kỵ thấy thế võ của mình không ăn thua gì mà còn bị đối phương đánh thêm một chưởng, mắt bên phải sưng húp ngay. Y tự biết võ công và hơi sức của mình còn kém quá, nên y buông xuôi tay xuống, không phản kháng nữa.

Không ngờ Thái Xung vẫn đánh lấy đánh để, mặc dầu thằng nhỏ đã không phản kháng rồi.

Y ra tay không vận dụng nội lực, bằng không y chỉ đánh một chưởng là Vô Kỵ chết liền.

Tuy vậy, Vô Kỵ bị đánh chưởng nào cũng thấy tối tăm mặt mũi. đau đớn vô cùng.

Ðang lúc Thái Xung đánh sướng tay thì Thục Nhân đã dẫn hai môn đồ đuổi theo tới.

Nàng đứng cạnh xem, không nói nửa lời, nhưng thấy Vô Kỵ cứ đứng yên chịu đòn, trong lòng không cảm thấy thích thú chút nào, nàng bèn lên tiếng bảo Thái Xung:

– Anh đánh con nhỏ thử xem?

Thái Xung quay lại đánh luôn Bất Hối một cái tát.

Con nhỏ chịu không nổi khóc òa lên.

Vô Kỵ cả giận:

– Ngươi muốn đánh cứ việc đánh ta, hà tất bắt nạt một con nhỏ như thế?

Thái Xung lại đánh thêm Bất Hối cái nữa.

Vô Kỵ không sao nhịn được, xông lại dùng đầu hút luôn vào bụng Thái Xung một cái.

Hồi thứ 35

Tuyết Lãnh Song Nữ

Thục Nhân cười nhạt nói:

– Người ta, một thằng nhỏ nh thế mà còn có tình nghĩa biết cứu bạn lúc lâm nguy, chứ có phải như anh là kẻ vô tình bạc nghĩa như thế đâu.

Thái Xung thấy vợ mắng nhiếc mình như vậy, mặt đỏ bừng liền chộp lấy gáy Vô Kỵ quăng ra ngoài xa, quát lớn:

– Thằng nhãi con này đi mà gặp cha mẹ mi đi!

Y ném một cái thật mạnh, đầu Vô Kỵ nhằm một tảng đá lớn mép núi đâm tới.

Vô Kỵ không sao cự được, bị Thái Xung ném ra như bay và trông thấy đầu của mình sắp va vào tảng đá vỡ sọ vọt óc đến nơi…

Bỗng nhiên có một sức mạnh ở bên cạnh phi tới lôi mạnh người Vô Kỵ sang bên.

Vô Kỵ chưa hoàn hồn, hai chân đã đứng xuống mặt đất, mắt sưng húp, chỉ trông thấy được chút xíu thôi, nhưng y cũng quay đầu lại nhìn xem người nào đã ra tay cứu giúp mình.

Y thấy một thư sinh trạc trung niên, mặc áo dài trắng đứng cách chỗ mình chừng năm thước. Thục Nhân, Thái Xung đều nhìn nhau kinh ngạc vô cùng vì vợ chồng họ không biết thư sinh đó tới lúc nào và ở đâu tới mà dù người đó có núp sẳn đàng sau tảng đá thì vợ chồng y thế nào cũng biết.

Tại sao từ nãy giờ không ai hay một tí gì cả nên cả vợ chồng y mới ngạc nhiên như thế. Vả lại cái ném của Thái Xung ít nhất cũng có năm sáu trăm cân sức mà thư sinh chỉ dùng tay áo khẽ cuộn một cái đã tiêu giải được sức mạnh đó và đặt Vô Kỵ đứng sang bên một cách nhẹ nhàng vô cùng đủ thấy thế võ của y cao siêu biết bao. Nhưng vợ chồng Thái Xung thấy chàng ta tuổi trạc bốn mươi, mặt mũi trông rất thanh tú bảnh trai, đôi mày vừa dài vừa xuôi xuống hai bên, cạnh mép có mấy vết hằn khá sâu.

Thư sinh cứ đứng yên ở đó chẳng nói chẳng rằng, ngửng mặt nhìn nơi khác hình như đang nghĩ ngợi điều gì vậy.

Thái Xung ho một tiếng rồi hỏi:

– Các hạ là ai, tại sao lại ra tay can thiệp đến việc của phái Côn Luân chúng tôi?

Thư sinh nọ cúi đầu vái chào đáp:

– Thế ra ngài là Thiết Cầm tiên sinh Hà tiền bối đấy. Tại hạ ngưỡng mộ anh danh đã từ lâu, chẳng hay vị này có phải là Hà phu nhân không? Còn tại hạ đây là Dương Tiêu.

Chàng ta vừa nói xong hai chử Dương Tiêu, Thái Xung, Thục Nhân và Vô Kỵ ba người không hẹn mà nên, đều thất thanh kêu ủa một tiếng.

Tiếng kêu của Vô Kỵ vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, còn tiếng kêu của vợ chồng Thái Xung vừa kinh ngạc vừa tức giận, chỉ nghe tiếng kêu “xọet xọet” hai tiếng, hai nữ đệ tử của phải Côn Luân đã rút trường kiếm ra khỏi bao rồi chúng xoay ngược hai thanh kiếm đưa cho sư phụ và sư mẫu.

Vợ chồng họ Hà cầm hai thanh kiếm đó rồi múa kiếm xông vào tấn công luôn bảy tám thế, thế kiếm nào của họ cũng nhằm những yếu huyệt của kẻ địch mà điểm tới.

Dương Tiêu tựa như không hay biết gì hết, y nghe tiếng kêu của Vô Kỵ chứa đầy sự mừng rỡ, trong lòng cũng lấy làm ngạc nhiên bèn liếc nhìn thằng nhỏ, thấy mặt dính đầy máu tươi, mặt sưng húp không còn ra vẻ người chút nào. Nhưng y vẫn trông thấy vẻ vui mừng lộ ra trên bộ mặt sưng vù đó.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Ngài… có phải là Quang Minh Sứ Giả của Minh Giáo Bát Dương Tiêu đấy không?

Dương Tiêu gật đầu đáp:

– Cậu bé, sao cậu biết tên họ của tôi như vậy?

Vô Kỵ chỉ Bất Hối rồi tiếp:

– Cô bé này là con gái của bác đấy!

Nói xong y kéo tay bất hối tới gần và nói tiếp:

– Em Bất Hối, mau lại chào cha em đi! Chúng ta đã kiếm thấy cha em rồi đấy.

Bất Hối trợn tròn đôi mắt nhìn chòng chọc vào Dương Tiêu và nói:

– Ông có phải là cha tôi không? Mẹ tôi đâu? Tôi phải đi tìm mẹ tôi.

Thì ra Bất Hối cứ nghĩ đến mẹ là khóc, suốt dọc đường, Vô Kỵ cứ dỗ dành bảo nó tới đây là để tìm mẹ nó.

Dương Tiêu nghe nói giật mình, túm lấy đầu vai Vô Kỵ vội hỏi:

– Cậu em, nên nói rõ ra một chút, con bé này là con của ai? Mẹ nó là ai thế?

Chàng dùng sức nắm, Vô Kỵ đau buốt tận xương nhưng vẫn không chịu hèn kém nên không kêu đau. Nhưng rút cuộc y vẫn phải kêu “ớ” một tiếng rồi mới nói ược.

– Bất Hối là con gái của bác, mẹ em là Kỷ Hiểu Phù nữ hiệp của phái Nga Mi đấy.

Mặt đã nhợt nhạt, Dương Tiêu nghe Vô Kỵ nói như vậy lại càng nhợt nhạt hơn nữa, giọng run run đáp:

– Nàng… nàng có con gái thật? Hiện giờ… nàng đang ở đâu?

Chàng ta vừa nói vừa giơ hai tay ra ẳm Bất Hối thấy hai má con nhỏ bị Thái Xung đánh hai chưởng sưng húp lên nhưng vẫn còn vẻ giống Hiểu Phù.

Chàng đang nghĩ đi nghĩ lại, đột nhiên thấy trên cổ Bất Hối có một sợi dây tơ màu đen, liền khẽ kéo ra xem. Quả nhiên thấy đầu dây có một cái thiết bài, trên mặt có khắc một cái mặt nạ ma quỷ đang múa nanh múa vuốt.

Ðó là Thiết Ma lệnh của Minh Giáo mà chàng đã tặng cho Hiểu Phù đeo.

Lúc này chàng không còn hoài nghi gì nữa, liền ôm chặt Bất Hối và hỏi :

– Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?

Bất Hối đáp:

– Mẹ con mất rồi, con đang đi tìm mẹ con, cha có thấy mẹ con không?

Dương Tiêu thấy con mình tuổi quá nhỏ, ăn nói không rõ rệt liền đưa mắt nhìn Vô Kỵ có ý hỏi xem sao.

Vô Kỵ thở dài một tiếng rồi đáp:

– Thưa bác họ Dương, tôi nói ra bác đừng đau lòng nhé! Kỷ cô nương đã bị sư phụ của nàng đánh chết rồi, lúc sắp chết…

Dương Tiêu quát lớn:

– Ngươi nói dối, ngươi nói dối.

Chỉ nghe cắc một tiếng, bả vai của Vô Kỵ bị chàng bóp vỡ.

Tiếp theo đó cả Dương Tiêu lẫn Vô Kỵ đều ngã ra đất. Dương Tiêu tay vẫn ôm chặt con gái mình.

Dương Tiêu đột nhiên nghe tin Hiểu Phù đã chết y liền chết giấc tức thì.

Vô Kỵ bị chàng bóp đau quá mà té ngã, vợ chồng Thái Xung đưa mắt nhìn nhau rồi cả hai cùng chĩa mũi kiếm dí vào giữa mí mắt và yết hầu của Dương Tiêu.

Thì ra Dương Tiêu là một nhân vật rất quan trọng trong tay Minh Giáo, có thù oán rất lớn với phái Côn Luân.

Năm xưa Du Long Tử cao nhân tiền bối của phái Côn Luân đấu với Dương Tiêu thất bại, vì thế uất ức mà chết liền.

Sư phụ của Thục Nhân và Thái Xung hai người cùng chết trong tay Minh Giáo nhưng họ không biết đích thực hung thủ là ai, tuy vậy họ vẫn nghi ngờ hung thủ là Dương Tiêu, nay vợ chồng y đột nhiên gặp kẻ thù giữa đường, trong lòng phân vân không biết đối xử ra sao vì vợ chồng y biết võ công của Dương Tiêu rất cao thâm. Tuy Dương Tiêu là kẻ thù của sư môn nhưng hai vợ chồng không dám ra tay đấu ngay. Ngờ đâu vợ chồng y thấy kẻ địch đột nhiên chết giấc ngã lăn ra trước mặt, thật là dịp may trời ban cho nên cả hai đều gí mũi kiếm vào chỗ hiểm của Dương Tiêu tức thì.

Thục Nhân liền bảo Thái Xung rằng:

– Chúng ta hãy chặt đứt cánh tay của y rồi hãy tính sau.

Thái Xung vâng lời liền.

Lúc này Dương Tiêu vẫn chưa hồi tỉnh, Vô Kỵ thì đau đến toát mồ hôi lạnh nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo. Tuy y đã bị Dương Tiêu bóp vỡ xương trên bả vai, nhưng y không bao giờ nhớ thù cũ nên y thấy tình thế của Dương Tiêu nguy cấp như vậy, y dùng ngón chân điểm vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Dương Tiêu một cái.

Bách Hội huyệt ở ngay giữa, chỉ khẽ đụng vào một cái là người ta thức tỉnh liền, nên Dương Tiêu tỉnh dậy ngay mở mắt ra nhìn, thấy một mũi kiếm đang dí ở giữa lông mày và lại thấy một thanh kiếm đang nhằm cánh tay trái mình chém xuống.

Chàng định ra tay chống đỡ nhưng tình thế không cho phép vì mũi kiếm của Thục Nhân đang dí vào chỗ yếu hiểm ở giữa lông mày của mình khiến chàng không thể nào cử động được, chàng liền vận chân khí vào cánh tay.

Thái Xung vừa chém xuống cánh tay trái của chàng, bỗng thấy lưỡi kiếm bị trượt tuột sang bên tựa như chạm phải vật gì trơn vậy, nhưng tay áo của chàng cũng đỏ ngầu vì dù sao tay chàng cũng bị chém trầy da đôi chút.

Lúc ấy thân hình của Dương Tiêu đột nhiên lướt về phía trước hai trượng hình như có người dùng dây cột vào cổ chàng mà kéo đi vậy.

Mũi kiếm của Thục Nhân đang dí giữa đôi lông mày, rạch phải mũi mồm, ngực sâu chừng nữa tấc.

Nếu lúc này Thục Nhân không bỡ ngỡ mà dí thanh kiếm xuông sâu chừng nửa tấc nữa thì chàng đã bị thảm họa phân thây mổ bụng rồi.

Chàng vừa lướt ra khỏi chỗ nguy hiểm liền đứng thẳng người dậy, thân pháp của chàng nhanh nhẹn như điện chớp. Người khác chưa chắc đã có ai làm được như chàng.

Chàng vừa đứng dậy, hai chân đã nhảy lên dẫm mạnh xuống một cái, hai thanh kiếm cuả vợ chồng Thái Xung đã bị gãy.

Với kiếm pháp của vợ chồng Thái Xung cao như vậy mà võ công của Dương Tiêu có cao siêu hơn thế nữa cũng chưa chắc chỉ một thế đã dẫm gãy kiếm của hai người được, nhưng vì thế võ Dương Tiêu quá quái dị nên vợ chồng Thái Xung kinh ngạc, đứng ngẩn người, không kịp thâu kiếm lại mới bị đại bại như vậy.

Ðồng thời Dương Tiêu còn đá tung hai khúc kiếm gãy lên bắn thẳng vào hai vợ chồng Thái Xung.

Cả hai đành giơ thanh kiếm gãy lên chống đỡ.

Tuy đã gạt được hai khúc kiếm gãy nhưng tay họ cũng cảm thấy tê tái.

Họ kinh hãi vô cùng, vội lùi về phía sau rồi một người đứng phía tây bắc, một người đứng phía đông nam, tay vẫn cầm thanh kiếm gãy xử dụng Lưỡng Nghi kiếm phép của phái Côn Luân ra đối địch.

Dương Tiêu cũng biết kiếm pháp Lưỡng Nghi của phái Côn Luân rất lợi hại, tuy chàng không sợ, nhưng muốn thắng hai người ít nhất phải đấu năm sáu mươi hiệp mới được.

Nhưng lúc này chàng mãi nghĩ tới sự sống chết của Hiểu Phù, làm gì còn có tâm chí mà đấu tranh nữa, huống hồ tay và mặt chàng đều bị thương khá nặng, nếu cứ để máu chảy hoài thì cũng phiền lắm, nên chàng lạnh lùng nói:

– Phái Côn Luân ngày càng thoái hóa? Hôm nay, ta hãy tạm tha cho hai ngươi. Sau này thế nào ta cũng tìm tới vợ chồng nhà người thanh toán chuyện hôm nay.

Rồi một tay vẫn ẳm Bất Hối, một tay dẫn Vô Kỵ, chân chàng không thấy cử động mà chàng đã lùi về phía sau hơn trượng, rồi quay mình lẹ một cái, đã đi xa mấy trượng.

Vợ chồng Thái Xung thấy vậy đều nhìn nhau kinh hãi, chỉ mong tên đại ma đầu ấy mau mau rời khỏi nơi này, nên vợ chồng y đâu dám đuổi theo.

Dương Tiêu tay ẳm, tay dắt hai đứa nhỏ, một hơi chạy thẳng mấy dặm rồi ngừng lại hỏi Vô Kỵ:

– Cậu hãy kể cho tôi biết chuyện Hiểu Phù ra sao?

Dương Tiêu đi rất nhanh mà chàng vừa nói ngừng là ngừng ngay, riêng có Vô Kỵ không sao đứng yên lại được, vẫn bị cái đà đưa mình lớt thẳng về phía trước.

Nếu Bất Hối không giơ tay ra kéo y lại thì y đã té ngã rồi.

Y vừa đứng vững, mồm vẫn thở hồng hộc, đã phải trả lời liền:

– Kỷ cô nương đã chết rồi! Bác tin cũng được mà không tin cũng đươc. Tại sao bác bóp vỡ xương bả vai của cháu như thế?

Dương Tiêu có vẻ ăn năn rồi hỏi tiếp:

– Tại sao nàng lại bị giết?

Uống phải rượu độc của Thục Nhân, Vô Kỵ tuy đã nôn ra gần hết ở giữa đường, lại uông thêm thuốc giải độc rồi mà chất độc vẫn chưa tan hết, nên trong bụng vẫn thấy đau như thường.

Y liền lấy Kim Ngân Huyết Xà ra cho chúng cắn ngón tay trái mình để hút độc.

Một mặt y từ từ kể rõ câu chuyện tại sao quen biết Hiểu Phù, chữa bịnh cho nàng ra sao và Diệt Tuyệt sư thái giết nàng… nhất nhất đều nói cho Dương Tiêu rõ.

Y vừa nói hết câu chuyện thì cũng vừa lúc hai con rắn đã hút hết chất độc trong người y ra rồi.

Dương Tiêu lại hỏi Vô Kỵ lúc Hiểu Phù sắp chết có nói gì không, rồi chàng ứa nước mắt và tự nói:

– Ác ni Diêt Tuyệt bắt ép nàng tới đây giết hại ta, nếu nàng nhận lời thì nàng đã lập công lớn với phái Nga Mi và có thể thừa kế địa vị chưởng môn. Hà! Em Hiểu Phù ơi, em đành chết cũng không chịu nói cho ác ni hay sự thật. Em chỉ cần giả bộ nhận lời đưa ác ni tới đây, như vậy có phải chúng ta được gặp nhau và em cũng không bị ác ni giết không?

Vô Kỵ xen lời nói:

– Kỷ cô nương là chính trực, nàng không chịu ngấm ngầm hạ độc thủ giết ác bá và cũng không muốn lừa dối ân sư.

Dương Tiêu gượng cười và nói:

– Cậu quả thật là tri kỷ của Hiểu Phù. Có ngờ đâu ân sư của nàng lại nỡ động thủ giết nàng như vậy.

Vô Kỵ lại nói:

– Cháu nhận lời của Kỷ cô nương đem em Bất Hối đến đây cho bác.

Dương Tiêu rùng mình vội hỏi:

– Em Bất Hối là ai thế?

Chàng vừa hỏi vừa quay đầu lại hỏi Bất Hối:

– Con họ gì? Tên là gì?

– Con họ Dương tên là Bất Hối.

Dương Tiêu ngẩng mặt lên trời rú một tiếng thật dài, những lá cây ở chung quanh đều bị tiếng rú của chàng rụng tơi bời.

Một lát lâu chàng lại nói tiếp:

– Con quả thật họ Dương. Dương Bất Hối, Bất Hối. Hay! Hiểu Phù, em tuy bị ta cưỡng bách nhưng em vẫn không hối hận chút nào.

Khi Vô Kỵ nghe Hiểu Phù kể cho biết mối tình nghiệp duyên của hai người rồi, lúc này thấy Dương Tiêu anh tuấn đẹp trai như vậy, tuy tuổi của chàng ta hơi lớn một chút, nhưng vẫn là người đẹp trai và đầy đủ phong độ so sánh với lục sư thúc của y thì chàng này vẫn dễ được thiếu nữ yêu mến hơn, nên Vô Kỵ nhận thấy Hiểu Phù bị hãm hiếp mất trinh và lại nhất tâm yêu chàng, như vậy cũng không thể trách cứ nàng được.

Xương bả vai trái bị bóp gãy, Vô Kỵ đau đớn chịu không nổi, lúc này muốn tìm kiếm ra thuốc để nối xương và trị đau không phải là chuyện dễ, nên y đành phải nắn nót cho những xương vỡ ăn vào khớp trước và hái một ít thuốc rịt lên cho khỏi sưng đã rồi y lại bẻ hai cành cây lấy vỏ và cành cây buộc lên bả vai.

Thấy Vô Kỵ tuổi hãy còn nhỏ nhưng thủ pháp chữa thương rất thuần thục, Dương Tiêu trong lòng cũng kinh ngạc vô cùng.

Vô Kỵ băng bó xong liền nói:

– Bác Dương Tiêu, cháu không phụ lời Kỷ cô nương đã đem em Bất Hối tới đây cho bác rồi. Cháu xin từ biệt ở đây.

Dương Tiêu vội nói:

– Cậu đi xa hàng vạn dặm đem con gái đến cho tôi, thế nào tôi cũng phải đền lại ơn đó.

Cậu muốn gì cứ việc nói đi, trừ phi những việc gì mà Dương mỗ làm không được hay trên thế gian này không có vật đó thì tôi đành chịu.

Vô Kỵ cười ha hả đáp:

– Bác Dương Tiêu, bác coi thường Kỷ cô nương quá, thực uổng cho cô ta hy sinh tính mạng vì bác.

Dương Tiêu biến sắc mặt quát hỏi:

– Cậu nói gì thế?

Vô Kỵ đáp:

– Kỷ cô nương không coi thường cháu mới nhờ cháu đưa Bất Hối tới đây cho bác. Nếu cháu định cầu lợi thì cháu không là người mà Kỷ cô nương đã dám nhờ vả.

Y vừa nói, trong lòng vừa nghĩ:

– Suốt dọc đường em Bất Hối gặp bao nhiêu tai nạn, lần nào cũng đem thân ra gánh vác hộ, nếu ta là quân tham lợi vô nghĩa, ngày hôm này cha con bác làm sao mà trùng phùng được như vầy.

Y không thích đem những công lao của mình ra nói cho Dương Tiêu hay là ngay giữa đường bị hung hiểm như thế nào cũng không nhắc nhở tới, y chỉ nói qua loa vài câu rồi cúi mình vái chào đi luôn.

Dương Tiêu gọi lại:

– Hãy khoan đã, cậu giúp tôi nhiều việc như vậy, ta Dương Tiêu xưa nay có thù cấp báo,có ơn phải đền. Cậu hãy theo tôi về đàng nhà ở một năm để tôi truyền thụ cho cậu vài thế võ hay hiếm có trên thiên hạ này.

Vô Kỵ đã chính mắt trông thấy chàng ta dẫm gãy trường kiếm trên tay vợ chồng Thái Xung, võ công hiếm thấy trên thiên hạ. Học được một thế hay nửa miếng sau này cũng có ích lợi cho mình, nhưng Vô Kỵ nghĩ đến lời dặn của thái sư phụ đừng nên đi lại với người trong ma giáo. Huống hồ y tự nhận đời sống chỉ có nửa năm thôi, dù có học được võ công vô địch thiên hạ cũng vô ích nên y bèn trả lời:

– Ða tạ bác đã có lòng như vậy, nhưng cháu là đệ tử của phái Võ Ðang không dám học võ của phái khác.

Dương Tiêu ủa một tiếng, rồi nói tiếp:

– Thế ra cậu là phái Võ Ðang đấy. Hân Lợi Hanh, Hân Lục Hiệp.

Vô Kỵ vội đỡ lời:

– Hân Lục hiệp là sư thúc của cháu. Từ khi cha cháu khuất núi, Hân lục thúc đối đãi với cháu như con vậy. Cháu lại nhận lời Kỷ cô nương đưa em Bất Hối đến Côn Luân này, như vậy đã hổ thẹn với lương tâm.

Dương Tiêu thấy Vô Kỵ nói vậy liền xua tay và nói tiếp:

– Như vậy sau này chúng ta sẽ tái ngộ.

Nói xong chỉ thấy chàng nhún mình một cái, đã đi xa mấy trượng. Bất Hối lớn tiếng kêu gọi:

– Vô Kỵ đại ca, Vô Kỵ đại ca…

Nhưng Dương Tiêu đã giở khinh công ra đi nhanh như bay, không bao lâu tiếng kêu Vô Kỵ đại ca của Bất Hối và hình bóng của cha con Dương Tiêu đã mất dạng rồi.

Vô Kỵ đứng yên giây lát.

Y với Bất Hối đi hàng vạn dặm như hình với bóng khắn khít vô cùng, nay đột nhiên chia tay tất nhiên trong lòng cũng buồn.

Lúc ấy y lại thấy xương bả vai đau nhức, liền đi vòng qua sơn lãnh tìm một chỗ thật hẻo lánh để kiếm thuốc rịt cho khỏi đau, nhưng y lại sợ gặp phải bọn Thái Xung nên cứ phải đi vào chỗ có cây cỏ rậm rạp nhất.

Núi Côn Luân này có rất nhiều hoa cỏ, cây lá, nhưng hoa cỏ nơi đây khác hẳn những thứ ở Trung Nguyên.

Y kiếm mãi không có một vị thuốc nào ghi trong sách thuốc của Thanh Ngưu cả.

Ði được hai mươi dặm đường rồi, vết thương không thể chịu được, Vô Kỵ liều ngồi vào trong đống đá lởm chởm để nghỉ ngơi, bỗng nghe phía tây bắc có tiếng chó sủa vọng tới, chỉ thoáng nghe y đã đoán ngay ra trong đó có trên mười con và tiếng sủa chúng càng ngày càng gần hình như chúng đang đuổi theo con mồi.

Trong lúc chó sủa bỗng có một con khỉ chạy tới, Vô Kỵ thấy trên đùi nó có mang theo mũi tên.

Con khỉ ấy chạy đến chỗ cách Vô Kỵ hơn mười trượng cứ chạy quanh dưới gốc cây, không sao leo được lên trên cành nữa, phần vì bị thương nặng, phần vì quá mỏi mệt nên nó chỉ chạy quanh được hai vòng đã nằm phục xuống đất.

Vô Kỵ chạy lại xem, thấy con khỉ tỏ vẻ van lơn cầu khẩn.

Vô Kỵ thấy vậy động lòng nghĩ thầm:

– Ta bị người của phái Côn Luân đuổi cũng tơi bời như mi, chứ có khác gì đâu .

Y lại nghĩ đến con Ngọc Hỏa Hầu ở ngoài Băng Hỏa đảo liền ẳm con khỉ lên khẽ rút mũi tên ra và lấy thuốc Kim Thương Dược rịt vào vết thương cho con vật.

Lúc ấy lũ chó đã tới gần, Vô Kỵ vội phanh áo ra giấu con khỉ vào trong người rồi cài khuy lại.

Y vừa cài tới cái nút dưới đã có mười mấy con chó săn to lớn phi tới bao vây và sủa lia lịa, hình như chúng đã ngửi thấy hơi con khỉ nên cứ chạy quanh Vô Kỵ nhe răng múa nanh dương oai.

Tuy vậy, chúng vẫn không dám nhảy xổ lại.

Thấy lũ ác khuyển đó rất hung ác, Vô Kỵ cũng sợ hãi nếu vứt con khỉ giấu trong người ra đàng xa, lũ chó sẽ không bao vây mình nữa.

Nhưng y được cha mẹ dạy bảo nên có lòng hiệp nghĩa từ hồi nhỏ, mặc dầu đối với con dã thú, y cũng không muốn phụ bạc, nên y nín thở nhảy vượt qua đầu lũ chó cắm đầu chạy thẳng.

Lũ chó săn lại kêu sủa đuổi theo.

Người chạy nhanh sao bằng chó, Vô Kỵ chỉ chạy được hơn mười trợng đã bị mười mấy con ác khuyển đuổi theo tới và cảm thấy dưới đùi đau nhức vô cùng.

Thì y đã bị một con chó dẫn đầu cắn phải, liền quay lại đánh một chưởng vào đầu con ác khuyển ấy.

Con chó nọ bị đánh lộn một vòng chết giấc tức thì, những con chó khác không sợ hãi gì hết đều xông cả lại tấn công.

Vô Kỵ tay đấm chân đá cố hết sức chống đỡ cầm cự, nhưng vì bả vai trái bị thương, cánh tay trái không cử động được nên không bao lâu tay trái của y đã bị một con chó cắn phải. Thế là những con khác đều xông vào lại nhằm đầu, mặt, vai, lưng y mà cắn lia lịa.

Trong lúc y bị cắn túi bụi, mơ mơ màng màng thì nghe tiếng quát tháo rất thánh thót rồi tiếng quát đó hình như càng ngày càng xa rồi y cảm thấy mắt mũi tối tăm không biết gì hết cả.

Trong lúc mê man bất tỉnh, Vô Kỵ mơ thấy vô số sài lang hổ báo xông lại cắn xé, y há mồm kêu la nhưng không sao kêu thành tiếng được.

Trải qua không biết bao lâu y mới thấy lũ thú dữ đó rút lui.

Rồi bỗng nghe có tiếng người nói:

– Bớt nóng rồi, có lẽ không chết đâu.

Vô Kỵ mở mắt ra nhìn, thấy mình đang nằm trong căn phòng nhỏ, có một người tuổi trạc trung niên đứng trước mặt, y liền hỏi:

– Ðại.. đại thúc làm.. làm sao…

Y mới nói được mấy câu đã thấy người nóng như lửa và khắp mình đau đớn.

Lúc này y mới từ từ nghĩ tới lúc mình đã bị một đàn chó vây cắn.

Người nọ liền xua tay hỏi:

– Cậu, cậu hãy nằm yên, cũng may số cậu rất lớn nên không chết. Thế nào, bây giờ cậu thấy bớt phải không?

Vô Kỵ không trả lời, vẫn mơ màng hỏi:

– Tôi.. tôi đang ở đâu thế? …

Y vừa nói tới đó cảm thấy vết thương đau nhức không chịu được liền ngất xỉu.

Ðến khi thức tỉnh, Vô Kỵ không thấy người trung niên nữa, liền nghĩ thầm:

– Rõ ràng số mạng ta không còn bao lâu nữa hà tất ta chịu dày vò như thế này hoài .

Y cúi đầu trông thấy trước ngực, cổ, cánh tay và đùi đều băng bó, mùi thuốc xông lên mũi, lúc này y mới biết đã có người cứu y về đây và rịt thuốc cho.

Vô Kỵ ngửi mùi thuốc đó biết ngay người chữa thương cho mình không biết nhiều về thuốc, vì y ngửi trong những thuốc đó có mùi Hạnh Nhân, Phòng Phong, Mã Tiền, Nam Tinh.

Những vị thuốc này chỉ có thể chữa chó điên cắn thôi, nhưng những con chó của y không phải là chó điên.

Những vết thương trên người y là bị thương chớ không phải trúng độc, vậy thuốc này không hợp chữa cho y nên càng khiến y đau đớn thêm. Nhưng y không biết hiện giờ đang ở đâu và không đủ sức để ngồi dậy, đành phải đợi đến sáng mai, người tuổi trung niên kia tới sẽ hỏi sau.

Sáng hôm sau, quả nhiên người đó đã vào thăm, Vô Kỵ liền lên tiếng:

– Cám ơn đại thúc đã cứu cháu.

Người nọ lạnh lùng đáp:

– Không phải tôi cứu cậu đâu, cậu đừng cám ơn tôi làm chi.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Ðây là nơi nào thế? Ai đã cứu tôi tới đây?

– Ðây là Hồng Mai sơn trang, tiểu thư chúng tôi cứu cậu đấy. Cậu thấy đói chưa, ăn một bát cháo cho đỡ một chút nhé.

Nói xong y liền đưa bát cháo thịt cho Vô Kỵ.

Ăn được mấy muỗng, Vô Kỵ thấy khó chịu, đầu óc choáng váng, liền để bát cháo xuống không ăn nữa.

Vô Kỵ nằm tại đó tám ngày liền mới miễn cưỡng ngồi dậy được, nhưng tay vẫn còn yếu ớt, không còn sức lực nào, y tự biết vì mất máu quá nhiều nhất thời không sao khỏi được.

Người trung niên hàng ngày đem cơm và thay thuốc cho y, tuy sắc mặt người đó rất đáng ghét nhưng Vô Kỵ vẫn cám ơn.

Ðồng thời Vô Kỵ thấy người đó không thích nói chuyện nên dù chàng có rất nhiều nghi vấn cũng không dám hỏi.

Hôm đó, y thấy người nọ vẫn đem những thuốc Phong Phong, Nam Tinh, v.v… vào rịt cho mình, không sao nhịn được liền hỏi:

– Ðại thúc, những thuốc này không hợp chữa vết thương của tôi, mong đại thúc đổi mấy vị thuốc khác hộ tôi.

Chàng nọ trợn trừng mắt lên nhìn Vô Kỵ một hồi rồi trả lời:

– Những thuốc này là ông chủ khai toa cho tôi đi hốt, lầm sao được? Cậu bảo thuốc này không hợp chữa bệnh cho cậu, tại sao cứu cậu khỏi chết? Thật đấy, cậu hãy còn nhỏ,trẻ con cứ hay ăn nói bậy bạ. Ông chủ chúng tôi tuy là người rất đại lượng và rất khoan hồng, dù có nghe cậu nói như vậy cũng không trách cứ cậu đâu, nhưng cậu cũng nên biết điều một tí từ rày không nên hỏi như thế nữa.

Nói xong y rịt thuốc đó lên vết thương.

Vô Kỵ đành gượng cười để cho y rịt thuốc.

Người nọ rịt thuốc cho Vô Kỵ xong liền nói:

– Cậu em, vết thương của cậu cũng đã lành lặn rất nhiều, cậu nên đi cảm ơn ông chủ, bà chủ và tiểu thư đã cứu sống cậu đó.

Vô Kỵ đáp:

– Vậy đại thúc làm ơn dẫn tôi đi cám ơn ngay đi.

Người nọi đưa Vô Kỵ ra khỏi căn phòng nhỏ, đi qua một hành lang thật dài, liền xuyên qua hai khách sảnh, rồi mời đi đến một cái phòng ấm.

Lúc ấy đã là mùa đông, dãy núi Côn Luân lại càng giá lạnh hơn những nơi khác, nhưng trong phòng này thì lại ấm áp như mùa xuân.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn xung quanh không thấy lò sởi để nơi đâu mà tại sao căn phòng này ấm áp như vậy, nên y ngạc nhiên vô cùng.

Y thấy chính giữa có một bức tranh cổ, trên bàn nhỏ có một lọ hoa mai, trên giải huyệt đều phủ đệm gấm, trong đời y chưa hề trông thấy nhà ai lại phú quý xa hoa như vậy.

Y cúi nhìn thấy quần áo rách rưới nên thấy hổ thẹn vô cùng.

Trong phòng ấm không có một ai, người trung niên vẻ mặt vẫn cung kính hết sức vừa chào vừa nói:

– Thằng nhỏ bị chó cắn đã lành mạnh, con dẫn y tới để cảm tạ lão gia và thái thái.

Nói xong mấy lời đó, y buông xuôi tay đứng yên, không dám thở mạnh.

Một lát sau bỗng thấy một thiếu nữ trạc mười sáu tuổi từ sau bình phong đi ra, nàng liếc nhìn Vô Kỵ một cái và hỏi:

– Anh Kiều Phúc, sao anh đưa y tới đây như vậy? Anh không thấy người y đầy chí rận hay sao?

Kiều Phúc cung kính đáp:

– Dạ dạ!

Vô Kỵ đã tự tủi, trong lòng áy náy không yên rồi, nay nghe thiếu nữ nói lại càng xấu hổ, mặt đỏ bừng thêm. Y cũng biết bộ áo của y bên trong quả có rất nhiều rận chí thực, liền nghĩ thầm:

– Tiểu thư này nói rất phải, trong mình ta quả thật có rất nhiều chí rận.

Y đưa mắt nhìn cô bé nọ, thấy gương mặt trái xoan và xinh đẹp vô cùng, không biết nàng mặc lụa nhiễu hay thứ gì cứ thấy có ánh sáng lấp lóe, tay nàng đeo một đôi vòng vàng, những đồ trang sức quý báu ấy Vô Kỵ cũng chưa hề trông thấy bao giờ.

Y lại nghĩ:

– Trong lúc ta bị lũ chó vây cắn, hình như có nghe tiếng quát tháo của một thiếu nữ mà Kiều Phúc đại thúc lại bảo tiểu thư của y cứu ta thoát chết, vậy ta phải cám ơn tiểu thư mới phải.

Nghĩ đoạn y liền quì xuống vái lạy rồi nói:

– Cám ơn tiểu thư cứu tôi thoát chết. Trương Vô Kỵ suốt đời không bao giờ quên ơn.

Thiếu nữ kia ngơ ngác rồi đột nhiên khúc khích cười nói:

– Kiều Phúc, bác làm gì thế? Bác đùa tên ngốc tử này phải không?

Kiều Phúc vừa cười vừa đáp:

– Chị Tiểu Phụng, thằng ngốc này vái chị mấy lạy chị chịu không nổi hay sao? Thằng này quê mùa lắm, nó tưởng chị là tiểu thư ấy.

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi vội đứng lên nghĩ thầm:

– Nguy tai, mình cứ tưởng con sen này là tiểu thư.

Y xấu hổ và ngượng nghịu vô cùng.

Tiểu Phụng nhịn cười, ngắm nhìn Vô Kỵ, thấy mình Vô Kỵ đầy những vết máu, băng bó khắp nơi, mùi hôi xông lên rất khó ngửi nên con nhỏ phải bịt mũi lại và nói:

– Lão gia thái thái đang bận việc, cậu khỏi cần vào cám ơn, để tôi dẫn cậu đi chào tiểu thư trước.

Nói xong, Tiểu Phụng rảo chân đi trước dẫn đường, vì không dám đi gần Vô Kỵ nó sợ những con rận chí nhảy sang người nó.

Vô Kỵ theo sau Tiểu Phụng và Kiều Phúc, đi đến đâu cũng trông thấy những thị tỳ, đầy tơ đều ăn mặc sa hoa và những đài lầu các đều trang hoàng lịch sự.

Vô Kỵ sinh trưởng ở Băng Ðảo mười năm liền, rồi lên núi Võ Ðang và ở Hồ Ðiệp Cốc ăn uống và ở đều giản dị, chất phác nên y có ngờ đâu trên thế gian lại có nhà hào quý như thế này.

Ði được một lát tới trước một đại sảnh lớn, thấy trên có tấm bảng đề ba chữ “Hãn Kháng Cư”, Tiểu Phụng đi thẳng vào trong sảnh một lát sau trở ra vẫy tay gọi.

Kiều Phúc liền dẫn Vô Kỵ vào tới cửa sảnh, trong lòng kinh hãi vô cùng, vì y thấy có hơn ba mươi con chó dữ chia làm ba hàng ngồi chồm hổm trên mặt đất.

Một thiếu nữ mặc áo lông hồ ly trắng, ngồi trên cái ghế da hổ, tay cầm một cây roi da, mồm khẽ quát:

– Yết hầu!

Một con chó bỗng tung mình nhảy lên nhắm yết hầu của một người đứng cạnh tường cắn luôn.

Vô Kỵ thấy tình cảnh tàn nhẫn như thế, không sao chịu được, thất thanh kêu “ối chà”

một tiếng. Ðồng thời y thấy con chó đã cắn được một miếng thịt đang nhai ngồm ngoàm rồi, y định thần nhìn kỹ mới hay người đứng sát tường đó là một hình nhân làm bằng da.

Khắp hình nhân đó chỗ nào là yếu huyệt đều có treo một miếng thịt.

Thiếu nữ nọ lại quát:

– Bụng dưới!

Con chó thứ hai nhảy vồ miếng thịt ở bụng dưới của hình nhân kia tức thì. Lúc này Vô Kỵ mới biết những con chó dữ này đã luyện tập quen rồi nên nàng kia bảo chúng cắn đâu là cắn trúng chỗ đó. Y ngẩn người ra đứng nhìn một hồi, nhận ngay ra trong lũ chó này có mấy con đã cắn mình trong núi ngày nọ. Y lại hồi tưởng tiếng quát lũ chó ngày nọ và nghe tiếng quát của thiếu nữ này y như một, y mới biết ngày hôm đó chính thiếu nữ này đã chỉ huy mấy con chó ấy.

Ðáng lẽ Vô Kỵ tới đây là cám ơn thiếu nữ đã cứu mình khỏi chết, nhưng bây giờ y đã biết mình bị thương như vậy là do thiếu nữ tạo ra cho nên y tức giận vô cùng và nghĩ thầm:

– Thôi, thôi, nàng có lũ chó dữ trợ giúp ta là gì nổi nàng đâu, sớm biết như vầy thì đành chết trong núi hoang còn hơn về nhà nàng dưỡng thương.

Nghĩ đoạn y liền giật hết những vải băng bó trên người vứt ngay xuống đất, quay người đi ra liền.

Kiều Phúc kinh hãi vội gọi:

– Này, này, cậu làm gì thế? Tiểu thư ngồi kia sao cậu không đến mà vái lạy đi?

Vô Kỵ giận dữ đáp:

– Hừ! Bảo ta đa tạ nàng hày sao? Thế những con chó dữ đã cắn ta không phải của nàng à?

Thiếu nữ nghe Vô Kỵ nói như vậy, quay đầu lại nhìn, trông thấy Vô Kỵ tức giận vô cùng liền vẫy tay gọi:

– Chú em lại đây!

Vô Kỵ quay đầu lại, bốn mắt nhìn nhau, y bỗng thấy trống ngực đập rất mạnh, vì y thấy thiếu nữ đó tuổi trạc mười bảy, mười tám, mặt mũi xinh đẹp vô cùng, da nàng trắng như ngọc ngà. Y đã gặp rất nhiều người đẹp mà trong đời y chưa thấy một người nào đẹp như nàng, khiến y vừa trông thấy đã động lòng nên y cúi đầu xuống không dám nhìn nàng nữa, hai má cứ đỏ bừng lên.

Thiếu nữ lại nói:

– Chú em lại đây!

Vô Kỵ ngẩng đầu lên nhìn, thấy mắt nàng tựa như có pháp thuật cầu hồn khiến y không sao kháng cự được, nên tiến tới từ từ mà không hay biết. Thiếu nữ đứng dậy nắm hai tay y, y cảm thấy khắp mình mẩy run bây bẩy như bị điện giật. Y định rút tay lại nhưng thấy hai bàn tay của thiếu nữ mềm mại không nỡ rút tay ra.

Thiếu nữ nọ lại hỏi:

– Chú em giận tôi phải không?

Bị một lũ chó cào cấu xé đau đớn như vậy, Vô Kỵ làm sao mà không tức giận?

Nhưng lúc này y cảm thấy người nàng có mùi thơm như hoa lài đưa tới, khiến y ngây ngất hầu như sắp chết giấc tại chỗ nên không tức giận được, liền lắc đầu đáp:

– Không!

Thiếu nữ lại hỏi tiếp:

– Tôi họ Chu tên là Cửu Chân, còn chú em tên họ là chi?

– Tôi là Trương Vô Kỵ.

– Vô Kỵ, Vô Kỵ! cái tên này tao nhã lắm, chú hãy ngồi xuống đây.

Nói xong nàng chỉ cái ghế bên cạnh bảo Vô Kỵ ngồi.

Thấy nàng bảo ngồi xuống cái ghế bên cạnh, Vô Kỵ trong lòng mừng rỡ liền ngồi xuống ngay.

Cửu Chân chờ Vô Kỵ ngồi yên rồi lại khẽ quát:

– Giữa ngực!

Lại một con chó nhảy lên cắn vào giữa ngực hình nhân. Nhưng miếng thịt trên ngực hình nhân đó đã bị con chó trước ngoạm mất rồi. Con chó liền cắn luôn miếng thịt ngang hông ăn luôn.

Cửu Chân nổi giận quát mắng:

– Ðồ tham ăn, không nghe lời ta dạy.

Nàng vừa nói, vừa cầm roi lên quất con chó ấy hai cái, chiếc roi ấy có rất nhiều gai nhỏ, nàng chỉ quất có hai roi, lng con chó đã chảy máu ra liền. Có lẽ con chó đói đã lâu nên dù bị đòn vọt nh vậy vẫn không buông mồi ra trái lại còn gầm gừ nữa, Cửu Chân nói:

– Mi không nghe lời ta phải không?

Nàng lại giơ tay lên quất trên lng con chó mấy roi nữa, con chó lăn lộn dưới đất, máu me đầm đìa, thủ pháp quất roi của nàng rất linh động, bất cứ con chó lăn lông tránh né thế nào cũng không tránh khỏi đòn vọt.

Sau cùng con chó bị đánh đau qua nằm phục xuống đất kêu là rất khẽ.

Cửu Chân vẫn không ngừng tay, đánh con chó chỉ còn thoi thóp mới nói tiếp:

– Kiều Phúc, đem con chó xuống rịt thuốc.

Kiều Phúc vâng lời ôm con chó ra khỏi sảnh.

Lũ chó kia thấy vậy đều sợ hãi nằm yên không cử động.

Cửu Chân quay trở lại cái ghế lông hổ ngồi xuống quát tiếp:

– Ðùi bên trái! Cánh tay phải… mắt…

Từng con một theo lời nàng nhảy lên cắn vào những bộ vị của hình nhân, Cửu Chân thấy những con chó đã nghe lời liền vừa cười vừa nói với Vô Kỵ:

– Chú em, chú xem những con súc sinh này có khốn nạn không? Không cho chúng một trận roi độc thì chúng không nghe lời mình.

Vô Kỵ tuy bị lũ chó này cắn mình đau đớn như vậy, nhưng nay thấy chúng bị đánh thảm thiết như thế, trong lòng cũng không nỡ.

Cửu Chân thấy Vô Kỵ không trả lời vừa cười vừa hỏi:

– Chú đã bảo không giận tôi rồi, sao tôi hỏi chú không trả lời? Tại sao chú lại lên tới Tây Vực này, cha mẹ chú hiện giờ ở đâu, có được mạnh giỏi không?

Hồi thứ 36

So Tài Trong Vườn Hoa

Vô Kỵ thấy Cửu Chân hỏi như vậy, nghĩ thầm:

– Mình rách rới tiều tụy như thế này, nếu nhắc đến tên tuổi của cha mẹ và Thái sư phụ thì chỉ làm nhục cho mấy vị tiền bối thôi.

Nghĩ đoạn y liền đáp:

– Cha mẹ tôi đã mất sớm, thấy ở Trung Nguyên không thể sống được, phiêu lưu đây đó, rồi ra tới đây.

Cửu Chân vừa cười vừa nói tiếp:

– Tôi bắn con khỉ, ai bảo cậu giấu diếm nó vào trong người làm chi? Suýt tí nữa bị đàn chó xé tan xương nát thịt.

Cửu Chân khẽ vỗ vai Vô Kỵ một cái, với giọng đùa cợt, nói tiếp:

– Trước mặt tôi, chú em cứ nhận đi thì hơn, chối làm chi nữa?

Nàng đang nói, bỗng sực nghĩ ra một việc, vội hỏi tiếp:

– Chú đã học qua võ công chưa? Chú đánh một chưởng võ sọ tả tướng quân của tôi, chắc chưởng lực của chú cũng mạnh lắm?

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Tả tướng quân nào thế?

Cửu Chân mỉm cười, quay đầu kêu gọi:

– Tiền tướng quân.

Nàng vừa dứt lời, đã có một con chó to lớn dữ tợn, nhảy ra nằm phục dưới chân nàng.

Nàng lại gọi tiếp:

– Sa kỵ tướng quân.

Lại có một con chó nữa nhảy ra lúc này Vô Kỵ mới biết những chó của nàng đều được phong làm tướng quân cả. Nào là Chinh Ðông tướng quân, Bình Khấu tướng quân, Oai Viễn tướng quân… Nàng chỉ huy rất giỏi, tựa như một vị đại nguyên soái vậy.

Vô Kỵ thấy nàng bảo mình đánh chết con chó cưng của nàng, trong lòng lấy làm ăn năn vô cùng, liền nói:

– Lúc ấy trong lòng tôi rối loạn, có lẽ ra tay hơi nặng một chút. Hồi nhỏ, tôi có theo cha tôi học hai ba năm quyền đạo, chứ sự thật tôi không biết gì là võ công hết.

Cửu Chân gật đầu, rồi nói với Tiểu Phụng rằng:

– Tiểu Phụng, đưa chú em đi tắm rửa thay y phục nhé!

Tiểu Phụng bịt mồm cười đáp:

– Vâng.

Rồi con thị ty dẫn Vô Kỵ đi ra, Vô Kỵ vẫn còn quyến luyến tiểu thư kia, ra tới sảnh mà còn quay đầu lại nhìn, ngờ đâu lúc ấy Cửu Chân cũng nhìn theo Vô Kỵ chỉ thấy đôi ngươi của nàng lóng lánh và xinh đẹp khôn tả.

Vô Kỵ xấu hổ vô cùng, mặt đỏ bừng, quay đầu đi luôn, y không để ý phía trước mặt nên vấp vào bậc cửa tẽ ngã xuống đất, đồng thời y cũng cảm thấy các vết thương đau đớn vô cùng, nhưng y không dám rên rỉ, vội vàng đứng dậy ngay.

Tiểu Phụng khúc khích cười và nói:

– Ai trông thấy tiểu thư chúng tôi, cũng đều mất hồn mất vía, không ngờ cậu nhỏ tuổi như vậy mà đã có bụng dạ bẩn như thế rồi.

Vô Kỵ xấu hổ, liền nhanh chân đi trước.

Ði được một lát Tiểu Phụng ở phía sau vừa cười vừa gọi:

– Cậu định vào thư phòng của bà chủ hay sao? Quay trở lại theo tôi đi lối này cơ.

Vô Kỵ biết mình đã nhầm đường, vội vàng quay trở lại.

Tiểu Phụng liền đưa Vô Kỵ tới một cái phòng nhỏ rồi bảo với Kiều Phúc rằng:

– Tiểu thư bảo đưa y đi tắm rửa và thay cho y một bộ quần áo sạch sẽ.

Một lát sau, Vô Kỵ tắm rửa xong, thấy Kiều Phúc đem bộ quần áo vải xanh tới, kiểu đầy tớ cho Vô Kỵ mặc, Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

– Ta có phải là đầy tớ của các ngươi đâu, sao lại cho ta mặc quần áo thế này.

Y định không mặc, nhưng bộ quần áo cũ đã rách rới, hở hang, nên y lại nghĩ:

– Nếu lát nữa tiểu thư gọi ta vào nói chuyện mà ta mặc quần áo dơ bẩn và hở hang như thế này, chắc thế nào nàng cũng không vui. Sự thực dù ta có làm đầy tớ cho nàng đi nữa, cũng không sao mà.

Nghĩ đoạn, Vô Kỵ liền mặc luôn bộ quần áo đó.

Ngờ đâu, ngày này qua ngày nọ, trong mười mấy ngày liền, Vô Kỵ không thấy tiểu thư gọi tới mặt mà cả mặt Tiểu Phụng cũng không gặp được nốt.

Vô Kỵ suốt ngày ngớ ngẩn, chỉ nghĩ đến bộ mặt, tiếng cười, giọng nói của tiểu thư, y cảm thấy trên đời này không có người nào đáng yêu bằng tiểu thư.

Lại qua hơn một tháng nữa, những vết thương của Vô Kỵ đã lành hẳn, nhưng những vết sẹo trên mặt không sao mất đi được…

Trong những ngày ở trong sơn trang này, cứ một tuần hơi hàn độc trong ngươi Vô Kỵ lại nổi lên một lần, càng ngày càng trầm trọng thêm.

Ngày hôm đó, hơi hàn độc lại nổi lên, Vô Kỵ nằm trên giường, đắp chăn trùm kín mít, rét quá, y chịu không nổi hai hàm răng cứ run cầm cập.

Kiều Phúc vô phòng để bọc áo, quay mình đi ra liền.

Vô Kỵ chịu đựng cho đến nửa đêm mới thấy đỡ rét, liền ngồi dậy, mở bọc áo ra xem. Y thấy một bộ áo lông dê mới may, trong lòng mừng rỡ vô cùng. Nhưng phải nói bộ áo này cũng may kiểu đồng bộc, y đoán chắc nhà họ Chu này đã coi y như một tên tôi tớ trong nhà rồi.

Tánh Vô Kỵ xa nay vẫn ôn hòa, trong lòng không tức giận chút nào, mà chỉ nghĩ:

– Không ngờ ta mới ở đây có một tháng mà Tết đã đến nơi rồi, Hồ tiên sinh bảo ta chỉ sống được sang năm là cùng. Vậy ta chỉ được ăn nốt cái Tết này thôi, chứ sang năm ta không còn ở trên đời này mà đón Tết nữa rồi.

Trong nhà của các phú hộ, chỉ có ngày Tết là vui vẻ náo nhiệt nhất, từ trên chí dưới, người nào cũng bận rộn, quét vôi sơn cửa giết bò mổ heo tưng bừng và tấp nập khôn tả. Vô Kỵ cũng phải ra tay giúp Kiều Phúc làm các việc vặt, y mong ngày Tết chóng tới, vì y nghĩ:

– Ngày mùng một Tết, người nhà thế nào cũng phải vào trong đại sảnh mừng tuổi ông bà chủ và tiểu thư, ta chỉ mong được gặp nàng một lần nữa, rồi ta bỏ đi liền. Ta sẽ vào trong thâm sơn cùng cốc kiếm chỗ chết cho thực tĩnh mịch, khỏi suốt ngày phải làm bạn với bọn đồng bộc như bọn Kiều Phúc chẳng hạn.

Lâu lâu Vô Kỵ mới nghe tiếng pháo nổ, ngày Nguyên Ðán đã tới y liền theo người quản gia vào trong đại sảnh để mừng tuổi chúc Tết chủ nhân.

Y thấy một đôi vợ chồng tuổi trạc trung niên, mặt mũi thanh tú đang ngồi ở chính giữa sảnh, bảy tám chục gia nhân đều quỳ cả xuống vái lạy. Người nhiều quá ông bà chủ không nhận ra ai là ai cả.

Vô Kỵ chỉ thấy vợ chồng người đó tủm tỉm cười và nói:

– Mọi người đều vất vả suốt năm ai nấy đều biết thủ phận làm lụng thực đáng khen ngợi.

Ông bà chủ nói xong, đã có hai người phụ trách phân phát lỳ xì cho mọi người. Vô Kỵ cũng được thưởng bốn lạng bạc. Nhưng y không thấy mặt tiểu thư, trong lòng thất vọng vô cùng, tay cầm bốn lượng bạc cứ đứng ngẩn người ra như một tượng đá.

Ðang lúc ấy y bỗng nghe có tiếng nói vừa yểu điệu vừa nhu mì ở bên ngoài vọng vào:

– Biểu ca, năm nay anh tới sớm thế?

Vô Kỵ nhận ngay ra tiếng nói ấy là của Cửu Chân, rồi y lại nghe tiếng nói của một người đàn ông lên tiếng:

– Ðến mừng tuổi cậu và mợ, anh đâu dám tới chậm bao giờ.

Vô Kỵ mặt đỏ bừng, trái tim đập mạnh như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực, hai tay toát mồ hôi lạnh. Y trông mong đã hai tháng nay rồi, bây giờ mới lại nghe được tiếng nói của Cửu Chân, làm sao y không như con người mất hồn mất vía? Y lại nghe giọng nói của một thiếu nữ khác lên tiếng:

– Sư ca tới sớm thế? Không biết sư ca nhất tâm tới đây chúc Tết cậu mợ, hay là mừng tuổi cô em họ kia?

Nàng ấy vừa nói dứt lời, Vô Kỵ đã trông thấy ba người bước vào. Bọn đầy tớ đều lui xuống nhà dưới, hay ra ngoài cổng hết, riêng có Vô Kỵ như người mất hồn cứ đứng yên nơi đó mà nhìn, tới khi Kiều Phúc kéo áo y một cái, y mới biết tránh sang một bên.

Vô Kỵ thấy Cửu Chân đi bên trái, một thiếu niên lạ mặt đi ở giữa, còn phía bên kia là một thiếu nữ. Cả ba người tuổi sấp sỉ nhau.

Ngày hôm nay Vô Kỵ thấy Cửu Chân mặc cái áo lông màu hồng khiến bộ mặt càng xinh đẹp thêm.

Từ khi nàng vào tới trong sảnh hai mắt của Vô Kỵ cứ chăm chú nhìn thẳng vào mặt nàng, nên y không biết thiếu nữ, và thanh niên kia xấu đẹp ra sao? Hai người ấy mặc áo hồng hây lục? Ðến cả hai người ấy chúc Tết cho ông bà chủ như thế nào, nói những gì ông bà chủ nói lại những gi ra sao, y đều không để ý tới.

Lúc ấy mắt của y chỉ trông thấy một Cửu Chân và tai chỉ nghe lời nói của một mình nàng ta thôi. Sự thực lúc bấy giờ tuổi của y còn trẻ lắm, chưa biết tình yêu là gì cả và y cũng không phải là kẻ hiếu sắc. Nhưng lần này là lần đầu mà y nhận thấy sắc đẹp khả ái đáng ngưỡng mộ có thế thôi.

Người nào cũng thế, không riêng gì Vô Kỵ, mối tình đầu tiên của đời mình bao giờ cũng thiết tha, say đắm hơn, nên y cứ ngẩn ngơ như người mất hết hồn vía, ngắm nhìn bộ mặt xinh đẹp như tiên của của Cửu Chân. Y cảm thấy nhìn thêm giờ phút nào trong lòng cảm thấy khoan khoái giờ phút ấy, chứ sự thực trong lòng y không có một chút tà tâm nào hết.

Lúc ấy tất cả kẻ hầu người hạ đều đi khỏi, chỉ còn lại một mình Vô Kỵ đang đứng trong đại sảnh ngắm nhìn và nghe Cửu Chân nói chuyện với cha mẹ cùng hai nười kia thôi.

Cửu Chân nói:

– Cha mẹ cho phép con với biểu ca và Thanh muội đi vào trong vườn dạo chơi một lát nhé?

Cha mẹ nàng chỉ mỉm cười và gật đầu nhận lời thôi, chứ không nói gì cả.

Ba thanh niên nam nữ đó, sát cánh nhau đi thẳng vào vườn phía sau, không bảo mà nên, Vô Kỵ cũng lưng thửng theo sau. Nhưng y không dám đi gần.

Hôm ấy đúng là ngày mùng một Tết, tất cả người hầu kẻ hạ ở trong sơn trang được tự do chơi đùa, kẻ cờ bạc, người nhậu nhẹt không ai để ý đến ai hết.

Lúc này Vô Kỵ mới trông thấy rõ mặt người thiếu niên kia quả thật anh tuấn và ôn nhã. Chàng ta chỉ mặc một cái áo bào đoạn màu vàng, mà không thấy giá lạnh, đủ thấy nội công của chàng ta cao thâm như thế nào.

Còn thiếu nữ lạ mặt nọi, mặc áo lông điểm màu đen, thân hình mảnh khảnh, ăn nói và cử chỉ rất tao nhã, mặt đẹp không kém gì nàng Cửu Chân.

Nhưng lúc này Vô Kỵ chỉ nhận thấy có mỗi một mình Cửu Chân là đẹp như tiên, và đẹp nhất thiên hạ mà thôi.

Ba người vừa đi, vừa nói, tiến thẳng vào trong vườn hoa.

Thiếu nữ nọi hỏi Cửu Chân rằng:

– Chị Cửu Chân, chị đã luyện thêm được hai môn Nhất Dương Chỉ công chưa? Chị biểu diễn cho chúng tôi xem để chúng tôi sáng mắt ra có được không?

Cửu Chân đáp:

– Sao cô cứ bắt tôi phải bêu xấu như vậy để làm gì, dù tôi có luyện thêm mười năm nữa, cũng không thể nào giỏi bằng môn Lăng Hoa Hốt Huyệt của nhà họ Võ cô được.

Thiếu niên nọ vừa cười vừa xen vào nói:

– Hai cô nương đừng có khiêm tốn như thế nữa. Ai chả biết hai vị đều khét tiếng là Tuyết lãnh Song Chu, võ công của hai vị đều lợi hại không thể tưởng tượng được.

Cửu Chân đáp:

– Tôi cứ luyện tập lấy một mình, như người mù chống gậy mò đường như thế bằng sao được sư huynh, muội? Lúc nào tập cũng có nhau, tất nhiên võ công của anh với cô em phải tiến bộ nhanh gấp mười tôi.

Hình như thanh niên nọ sợ Cửu Chân nổi giận vội đỡ lời:

– Cô Cửu Chân nói như vậy không đúng, vì cô có hai sự phụ, cậu và mợ cùng dạy cô trong một lúc, chả hơn chúng tôi nhiều hay sao?

Cửu Chân cướp lời nói:

– Em nói đùa cô Thanh đấy thôi, chưa chi anh đã bênh vực cô ta rồi.

Nói xong nàng quay đi, không nói thêm nữa.

Thanh niên nọ vội cười và nói tiếp:

– Biểu muội cũng thân mà sư muội cũng thế, đối với hai cô tôi đều mến ngang nhau.

Cửu Chân bỗng quay đầu lại hỏi:

– Biểu ca, nghe nói sư phụ anh lại thâu thêm một nữ đệ tử nữa phải không?

Thanh niên nọ đáp:

– Phải.

Thiếu nữ nọ hình như định chọc tức nàng ta, vội đỡ lời:

– Chị Chân ơi! Tiểu sư muội của em đẹp lắm, lại khéo ăn nói nữa, ai thấy cô ta cũng phải mến.

Chàng thanh niên nghe nói như vậy, biết nói móc mình, vội xoay sang vấn đề khác, vừa cười vừa hỏi Cửu Chân rằng:

– Biểu muội, đưa anh vào thăm những vị đại tướng quân giữ cửa cho cô, có được không?

Cửu Chân tười cười đáp:

– Ðược lắm.

Thế rồi nàng dẫn hai người đi thẳng vào Hãn Kháng Cư.

Vô Kỵ vẫn ở đàng xa theo sau nhưng y thấy ba người vừa nói vừa đùa, vì xa quá, nên không sao nghe rõ họ nói những gì.

Nhưng chân vẫn tiếp tục đi theo, tiến thẳng về phía chuồng nhốt chó.

Cửu Chân ra dấu cho tên giữ chó, thả lũ chó dữ ra. Ðàn chó nghe lệnh nàng nằm sắp hết.

Thiếu niên nọ cứ khen ngợi luôn mồm.

Cửu Chân thấy biểu ca khen lại càng đắc chí thêm.

Thiếu niên vừa cười vừa nói:

– Biểu muội này, chúng ta lâu lắm không gặp nhau. Tôi hỏi cô vấn đề này, bấy lâu nay cậu mợ đã truyền thụ cho cô những môn võ công gì? Cô hãy biểu diễn cho chúng tôi xem thử, có được không?

Cửu Chân ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

– Mấy hôm trước cha em có dạy em một môn bút pháp, nhưng em chưa thuộc lắm, bấy giờ biểu ca với Thanh muội chỉ điểm hộ em.

Thiếu niên và thiếu nữ đều tán thành và nói:

– Cô đừng khiêm tốn như thế nữa, biểu diễn cho chúng tôi được sáng mắt đi.

Cửu Chân chỉ giơ tay ra hiệu, người đầy tớ nuôi chó vội lấy đôi bút phán quan treo trên vách xuống.

Vô Kỵ thấy trên vách có treo rất nhiều khí giới, nhưng đều là Phán quan bút cả, cái thì dài, cái thì ngắn, nên y mới đoán ngày thường Chu tiểu th thiện xử dụng Phán quan bút.

Cha y, Trương Thúy Sơn, có biệt hiệu là Ngân Câu Thiết Hoạch, một tay xử dụng Phán quan bút khét tiếng trong thiên hạ. Nên lúc giảng võ công cho y thường nói tới Phán quan bút và móc sắt nhiều. Vì thế y cũng thuộc rất nhiều thế võ Phán quan bút, nên nghĩ thầm:

– Ta thấy cha nói, từ xa tới nay, trong võ lâm cha hề có người đàn bà nào xử dụng Phán quan bút cả, nay Chu tiểu thư này dám xử dụng tới môn khí giới đó, chắc võ công của nàng phải cao siêu lắm.

Y đã say mê Cửu Chân, nay thấy nàng xử dụng khí giới như của cha mình, lại càng thêm mến phục. Cửu Chân cầm xong bút vào tay, khẽ giơ bút bên trái lên và nói:

– Thanh muội, cô làm ơn ra đối địch với tôi, vì biểu diễn Phán quan bút này một mình không sao biểu diễn được.

Thiếu nữ nọ cũng biết nàng định tâm bêu xấu mình, nên lắc đầu đáp:

– Võ nghệ của em non nớt lắm, đối địch với chị sao được?

Cửu Chân thúc giục mãi, thiếu nữ kia vẫn không chịu ra đấu.

Thiếu niên nọ thấy vậy, sợ hai người sẽ vì vấn đề nhỏ mọn này mà gây gổ với nhau, nên chàng vội tiến ra, chắp tay chào và nói:

– Biểu muội, để tôi hầu cô đấu chơi vài hiệp, nhưng cô phải nương tay đôi chút mới được, bằng không, yếu huyệt của tôi bị Phán quan bút của nhà họ Chu này điểm trúng,thì Vệ Bích tôi sẽ không được ăn Tết đấy.

Thấy biểu huynh khen ngợi mình một cách khéo léo như vậy, Cửu Chân khoái chí vô cùng, vừa cười vừa giả bộ quát mắng:

– Biểu ca xảo quyệt lắm, thôi hãy coi thế võ của em mà chống đỡ đi.

Nói xong nàng múa bút xông lại tấn công tức thì.

Thấy song bút của nàng nhanh như điện chớp, Vệ Bích vẫn không tránh né gì hết, hình như chàng đã đoán biết nàng không dám giết hại mình.

Ngờ đâu thế bút của Cửu Chân rất ác độc, cứ nhằm đúng các yếu huyệt mà tấn công.

Chỉ thoáng cái song bút của nàng đã sắp tấn công trúng vào yếu huyệt của Vệ Bích rồi.

Nguy hiểm đến tính mạng tới nơi, Vệ Bích vẫn ung dung cười và hỏi:

– Có thật cô em định giết chết biểu ca này không?

Mọi người chỉ thấy ánh sáng xanh thấp thoáng và nghe kêu keng mấy tiếng thì ra Vệ Bích đã rút trường kiếm ra, gạt song bút của Cửu Chân sang bên liền.

Thấy chàng lanh lẹ như vậy, Cửu Chân cũng phải lớn tiếng khen ngợi:

– Thủ pháp của biểu huynh cao siêu lắm.

Nàng vừa nói vừa múa song bút, trông như hai luồng khói trắng, bao vây lấy Vệ Bích, Vô Kỵ thấy vậy, cũng phải khen phục thầm. Y sực nghĩ đến lời nói của cha y xưa kia:

– Phán quan bút là lợi khí dùng để điểm huyệt, sở dĩ võ khí mà lại gọi là bút là vì trong cái võ lại có cái văn, nên thế võ của môn khí giới hay chú trọng nhất là ung dung, tao nhã, nếu người không biết xử dụng cứ đánh bừa đánh bãi, giở toàn lực ra thi thố thì võ công của người đó không sao đi tới mức cao siêu được.

Lúc này Vô Kỵ thấy đường bút của Cửu Chân rất hoạt và rất đẹp, liền nghĩ thầm:

– Môn bút pháp này của nàng cũng tựa nh môn bút pháp ỷ thiên đồ long công của cha ta, đều thoát thai ở thủ pháp mà ra cả.

Chàng lại ngắm nhìn kiếm pháp của Vệ Bích thấy kiếm pháp của chàng này tinh vi lắm, vì y không biết xử dụng kiếm nên không thể biết rõ cái hay của kiếm pháp được.

Hai người đấu được một lúc, Vệ Bích đã có vẻ nao núng dần, và Cửu Chân càng đánh càng hăng hái và càng thắng thế.

Bỗng Vệ Bích kêu ối chà một tiếng và vội nhảy lùi ra phía sau ba bước, Cửu Chân không chịu ngưng tay, lại còn nhảy tới định điểm vào hai yếu huyệt ở ngực và bụng của chàng kia. Vệ Bích vội giơ kiếm lên, thè lưỡi, nói:

– Tôi xin đầu hàng, tiểu thư tha thứ cho.

Nói xong, chàng ta hơi khuỵu hai chân, làm như quỳ lại vậy.

Cửu Chân khoái chí vô cùng, vừa cười vừa nói:

– Cảm ơn anh đã nương tay cho.

Nàng vừa nói vừa quay người ném luôn đôi bút vào thẳng vách bên phía đó một cái, chỉ nghe kêu coong, coong hai tiếng, hai cây bút đã cắm ngập tận đuôi.

Không ngờ tay nàng mảnh khảnh như vậy mà sức lực lại mạnh như thế.

Vô Kỵ đứng phía sau nàng, bỗng buột miệng lớn tiếng khen ngợi:

– Giỏi quá!

Y theo sau Cửu Chân tới chuồng chó này đã lâu, nhưng không ai để ý tới y hết. Lúc này y thấy lỡ nói như vậy, ân hận vô cùng.

Mọi người đều quay đầu lại nhìn.

Thoạt tiên Cửu Chân tưởng y chỉ là một tiểu đồng khác, nên không thèm để ý tới, và sự thực nàng đã quên bẳng câu chuyện Vô Kỵ bị chó cắn hồi hai tháng trước rồi.

Nàng chỉ quay lại nói với Vệ Bích rằng:

– Biểu ca, mấy thế bút pháp của em có nhiều chỗ còn trống và dại lắm, mong anh chỉ điểm cho để em biết mà sửa lại.

Vệ Bích vừa cười vừa đáp:

– Nếu tôi biết chỉ điểm cô thì tôi chả đến nỗi bị bại trận như thế? Biểu muội, môn võ công của cô lợi hại và trông đẹp mắt lắm. Chẳng hay gọi là thế bút gì nhỉ?

Cửu Chân hay tay chống nạnh không trả lời mà còn hỏi lại:

– Anh thử đoán xem, tên nó là gì?

Vệ Bích gãi đầu, gãi tai một hồi rồi đáp:

– Cậu có tiếng là người giỏi bút pháp, môn bút pháp nầy hình như thoát thai trong sách vỡ nào ra phải không?

– Phải. Vậy anh có biết dựa theo thủ pháp của nhà nào không?

– Thôi, cô đừng có khảo văn như thế nữa. Tôi ngu xuẩn như thế này biết sao được mà cô cứ bảo tôi đoán?

Vô Kỵ đứng cạnh đó thấy Cửu Chân chuyện trò với Vệ Bích vui vẻ như vậy trong lòng bỗng cảm thấy bực tức một cách khôn tả. Lúc này y chỉ muốn làm thế nào đánh bại được thanh niên kia mới hả dạ thôi. Lúc ấy trong ngực thấy nóng hổi, liền buột miệng nói ra:

– Căn cứ vào cuốn chữ thiếp Ðại Giang Ðông Khứ.

Thì ra Cửu Chân là dòng dõi của Chu Tử Liễu, thiếu nữ họ Võ kia tên là Võ Thanh Anh dòng dõi Võ Tam Thông, cả hai đều thuộc dòng Thư hương cùng Võ Tu Văn nhất cả. Võ Tam Thông với Chu Tử Liễu đều là đệ tử và triều thần của Nhất Ðăng đại sư, võ công cũng xuất xứ của một môn phái nhưng hơn trăm năm sau truyền mấy đời con cháu, võ công của hai nhà thay đổi và biến hoá rất nhiều. Ví dụ Võ Ðôn Nho và Võ Tu Văn đều vái đại hiệp Quách Tĩnh làm sư phu tuy cùng học môn Nhất Dương Chỉ thần công, nhưng võ công của họ lại gần giống như phái Thần Cái Hồng Thất Công, Vệ Bích là anh con cô cậu với Cửu Chân vái cha nàng Thanh Anh là sư phụ. Chàng là người anh tuấn, tính nết lại ôn nhu hòa thuận, nên Cửu Chân với Thanh Anh đều ngấm nghé yêu chàng.

Cửu Chân với Thanh Anh, cả hai tuổi ngang nhau, sắc cũng đẹp như nhau, võ học của hai ngời cũng không hơn kém gì nhau mấy. Hai ba năm trước đây đã được các người trong võ lâm ở dãy Côn Luân này ban cho hai nàng cái biệt hiệu Tuyết Lãnh Song Chu. Vệ Bích đã so sánh thầm nhưng thấy hai nàng đều đẹp như tiên cả, không nỡ cự tuyệt lòng yêu của nàng nào hết, nên ba người cứ gần nhau, tuy bề mặt thì rất khách khứa, nhưng hễ có dịp là hai nàng dùng lời lẽ châm biếm nhau liền và không nàng nào chịu nhường nhịn nàng nào hết, riêng Thanh Anh thì kín đáo hơn. Nàng là bạn đồng học với chàng Vệ Bích, ngày đêm được gần gũi chàng nên nàng được nhiều dịp may hơn Cửu Chân.

Ba người đột nhiên nghe tên tiểu đồng thốt ra câu chữ thiếp Ðại Giang Ðông Khứ đều ngạc nhiên vô cùng.

Sự thật, Vệ Bích với Thanh Anh võ nghệ đều song toàn, sao lại không biết võ công của Cửu Chân thoát thai ở hai chữ thiếp Ðại Giang Ðông Khứ, nhưng không chịu nói ra mà thôi.

Lúc ấy Vô Kỵ tuổi mới mười bốn mười lăm, tướng mạo cũng không có gì đặc biệt hơn người bỗng nhiên lại nói ra được câu chữ thiếp Ðại Giang Ðông Khứ như vậy.

Thoạt tiên ba người đều cảm thấy kỳ lạ vô cùng, nhưng Vệ Bích và Thanh Anh chỉ hơi ngẩn người ra giây phút đã hiểu ngay và nghĩ thầm:

– Chắc tiểu đồng này xưa nay vẫn hầu hạ lão gia với tiểu thư luyện võ, trong lúc truyền thụ võ công cho Cửu Chân, cha nàng thể nào chả nói cái tên ấy cho nàng nghe nên tiểu đồng này mới biết được như vậy.

Còn Cửu Chân thì biết khi cha mình truyền võ công cho mình rất bí mật quyết không có người thứ ba nghe thấy được, nàng liền nghĩ:

– Chẳng lẽ thằng nhỏ này ngấm ngầm nghe lóm xem trộm và đã học được võ công của bổn môn rồi chăng? Việc này ta phải điều tra cho ra mới được.

Nghĩ đoạn liền quát hỏi:

– Nhỏ kia, tên mi là chi? Tại sao mi biết môn võ công đó là dựa theo chữ thiếp Ðại Giang Ðông Khứ?

Vô Kỵ nghe tiểu thư hỏi tên họ mình như vậy, mủi lòng vô cùng, nghĩ thầm:

– Ta đã nói cho cô biết rồi, sao cô không ghi nhớ trong lòng chút nào.

Nghĩ đoạn y bèn trả lời:

– Tên tiểu nhân là Trương Vô Kỵ, vừa rồi tiểu nhân buột mồm nói đó thôi. Chẳng biết có trúng hay không?

Cửu Chân kêu ủa một tiếng rồi hỏi:

– Thế ra cậu là thằng nhỏ bị các tướng quân của ta cắn trọng thương phải không?

Nàng nghĩ đến việc Vô Kỵ dùng chưởng đánh vỡ sọ con chó tả tướng quân, biết y là người có võ công nên mới hoài nghi liền nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ y là người mà kẻ thù của cha ta phái tới đây nằm vùng để dọ thám hay sao,bằng không, cái tên của môn võ công độc đáo của cha ta, y là một đứa trẻ nhỏ như thế làm sao mà biết được.

Nghĩ đoạn nàng liền nói:

– Ta nghĩ ra rồi, ta nghĩ ra rồi.

Nàng định dò hỏi thêm, liền thoáng thấy Vệ Bích với Thanh Anh sát cánh ngồi bên nhau và đang thì thầm to nhỏ không biết đang nói những gì. Lòng ghen nổi lên, nàng không hỏi Vô Kỵ nữa mà lại lên tiếng hỏi:

– Biểu muội, vừa rồi chị với biểu ca đã biểu diễn xoàng xĩnh võ công ra rồi, bây giờ biểu muội biểu diễn một pho võ công để chúng tôi được thưởng thức chứ?

Thanh Anh với Vệ Bích đang chuyện trò thân mật, không biết họ cố ý hay vô tình cứ trò chuyện mãi không đếm xỉa tới nàng Cửu Chân.

Cửu Chân thấy họ không thèm trả lời mình, cả giận liền cười nhạt nói:

– Ðường bút pháp của tôi tuy tầm thường, nhưng tôi chắc võ công của nhà họ Võ chưa chắc đã chống đỡ nổi.

Thanh Anh ngẩng đầu lên, cũng khinh khỉnh đáp:

– Sư ca biết chị là người hiếu thắng nên mới nhường nhịn cho chị như vậy. Thế mà chị còn tỏ vẻ đắc chí như thế.

Cửu Chân hậm hực hỏi:

– Ai khiến anh ấy nhường tôi? Cô thử hỏi anh ấy xem, anh ấy có thể chống được thế Song Khuyết Quy Nguyệt không?

Thanh Anh đáp:

– Chị tưởng chúng tôi đều là những kẻ ngu ngốc cả hay sao? Sao không nhận ra thế võ của chị xuất xứ ở bài văn Ðại Giang Ðông Khứ của Tô Ðông Ba. Nếu sư huynh tôi quả thật không biết rõ thế võ đó thì tại sao chờ chị xử dụng tới bí quyết chữ Nguyệt trong câu văn “Nhất Tốn hoàn Trù Giang Nguyệt” mới buông tay chịu thua?

Cửu Chân nghe nói ngẩn người ra nghĩ thầm:

– Phải đấy, mình vừa xử dụng tới bí quyết chữ Nguyệt thì biểu ca nhận thua liền. Thì ra sư huynh muội nàng đã sớm biết rõ rồi, như vậy có khác gì họ đã coi mình là một con ngu ngốc mà đùa giỡn hay sao? Rồi chắc lúc vắng mặt mình thế nào họ chaÜng bịa đặt những câu chuyện nói xấu mình Nghĩ tới đó nàng xấu hổ quá hoá giận, liền lớn tiếng nói:

– Dù có biết, biểu ca chưa chắc đã gỡ được miếng võ đó của tôi, mà dù biểu ca có thật tâm nhường tôi đi chăng nữa thì Thanh muội chưa chắc đã bằng được biểu ca, cứ khẩu thuyết như vậy mà vô bằng. Ðấy! Cô thử xem đến thằng nhỏ nhà tôi nó cũng biết rõ miếng võ đó, biết nói mà không biết là thì có gì là lạ đâu.

Thanh Anh đứng dậy, sầm nét mặt lại nói:

– Biểu ca, chúng ta đi về nhà đi. Người ta ví chúng ta như là một tên tiểu đồng đầy tớ, chúng ta hà tất ở đây để bị sỉ nhục làm chi?

Vệ Bích vừa cười vừa đáp:

– Sư muội hà tất giận dữ làm gì? Biểu muội nói đùa chúng ta đấy thôi. Còn thằng nhỏ chân lấm tay bùn này là cái thá gì, trong nhà cô ấy có không biết bao nhiêu mà kể thì chú ý tới nó làm chi?

Vô Kỵ nghe Vệ Bích khinh thị mình như vậy, không sao chịu nhịn được, tức giận vô cùng.

Y lại nghe Cửu Chân nói:

– Ðược lắm, các người khinh thị thằng nhỏ chân lắm tay bùn này của tôi phải không? Cô Thanh Anh, cô đấu với y ba hiệp chưa chắc cô đã thắng nổi y.

Thanh Anh đáp:

– Hừ! Khi nào tôi thèm ra tay đấu với những hạng người này. Chị Cửu Chân, chị đừng có khi em như thế nhé!

Vô Kỵ lớn tiếng xen lời nói:

– Võ cô nương, tôi cũng là người có cha mẹ sinh ra. Ai mà chẳng là người cơ chứ, đã chắc đâu cô là hạng người cao quý hơn tôi.

Thanh Anh không thèm nhìn Vô Kỵ chỉ nói với Vệ Bích rằng:

– Sư ca, chịu để em bị thằng nhỏ kia nó cãi lại như thế hay sao, sao sư ca không giúp em chút nào.

Vệ Bích thấy nàng sắp khóc, đã mềm lòng. Vẫn biết trong lòng y đối với hai nàng này đều coi trọng như nhau, nhưng y biết võ công của sư phụ y cao siêu khôn lường, y mới học ược đôi ba thành thôi, muốn học võ công giỏi thêm thì thế nào cũng phải lấy lòng sư muội này nên y nói với Cửu Chân rằng:

– Biểu muội, có phải võ công của thằng nhỏ này khá cao siêu không để cho tôi đấu thử nó xem sao nhé!

Cửu Chân biết Vệ Bích định tâm giúp sư muội liền nghĩ thầm:

– Thằng nhỏ họ Trương này không biết lai lịch nó ra sao, chi bằng để biểu ca thử nó ta sẽ biết lai lịch của nó ngay.

Nghĩ đoạn nàng liền đáp:

– Ðược lắm, để y lĩnh giáo võ công tuyệt học của nhà họ Võ xem sao? Sự thật em cũng không biết nó là đệ tử của môn phái nào.

Vệ Bích ngạc nhiên hỏi:

– Thế ra thằng nhỏ này không phải học võ công nhà cô hay sao?

Cửu Chân nhìn Vô Kỵ và nói:

– Ngươi trả lời biểu thiếu gia, ngươi là môn hạ của ai và thuộc môn phái nào đi.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Các người khinh thị ta như vậy khi nào ta lại nói rõ môn phái và cha mẹ ta để làm nhục thái sư phụ và cha mẹ đã khuất núi của ta đi. Huống hồ ta đã chính thức luyện võ công của phái Võ Ðang bao giờ đâu.

Nghĩ đoạn y liền đáp:

– Tôi mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ, lưu lạc giang hồ không có học qua võ công gì hết,chỉ có nghĩa phụ của tôi chỉ điểm qua loa thôi. Nhưng mắt nghĩa phụ tôi đã mù, không trông thấy tôi luyện võ công có đúng hay không.

Cửu Chân lại hỏi:

– Nghĩa phụ của ngươi tên là gì, thuộc môn phái nào?

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Tôi không thể nói ra được.

Vệ Bích cả cười xen lời nói:

– Với tầm mắt của ba người chúng ta, dù sao cũng nhận xét ra được y thuộc môn phái nào ngay.

Nói xong y từ từ đi tới trước mặt Vô Kỵ rồi vừa cười vừa hỏi:

– Nhỏ kia, ngươi hãy tiếp ta ba hiệp thử xem.

Nói xong, y quay lại đưa mắt ra hiệu cho Thanh Anh. ý của y định nói cho nàng hay rằng:

– Sư muội chớ có giận dữ, để tôi đánh cho thằng nhỏ này một trận cho sư muội khỏi tức.

Nhưng y có biết đâu người đã sa vào trong lới tình thì lúc nào cũng để ý đến lời ăn lẽ nói và hành động của người yêu, nên lúc y đưa mắt ra hiệu cho sư muội. Cửu Chân đều để y hết. Cửu Chân thấy Vô Kỵ ra đấu liền vẫy tay bảo y lại và rỉ tai khẽ dặn bảo:

– Võ công của biểu ca tôi cao cờng lắm, vừa rồi cậu đã trông thấy rồi. Cậu đừng có mong thắng nổi anh ấy, quý hồ cậu chống đỡ được ba hiệp như vậy cũng là gỡ sĩ diện cho tôi rồi.

Nói xong, nàng khẽ vỗ vai Vô Kỵ một cái tỏ vẻ cổ võ.

Vô Kỵ cũng biết mình không phải là địch thủ của Vệ Bích, nếu ra đấu với đối thủ thì chỉ có mang lấy cái nhục và để cho bọn người kia giỡn đùa giải trí thôi. Nhưng đứng trước mặt Cửu Chân, y đã cảm thấy tinh thần mê man hỗn loạn, sau lại thấy nàng rỉ tai nói, hơi thơm xông lên mũi, y không còn chủ kiến gì, trong lòng liền nghĩ thầm:

– Tiểu thư đã bảo ta gỡ sĩ diện cho nàng, như vậy ta không nên để nàng thất vọng. Rồi y cứ như là người mất hồn, lửng thửng đi ra tới trước mặt Vệ Bích tựa như một phỗng đá vậy.

Vệ Bích liền cười và nói:

– Tiểu tử hãy tiếp thế võ của ta.

Nói xong y tát luôn Vô Kỵ hai cái kêu “bộp, bộp” hai tiếng. Vô Kỵ định giơ tay lên chống đỡ nhưng đối phương đánh nhanh quá, mặt y đã bị đánh hai cái, hai má sưng vù và đều có vết ngón tay đỏ hồng. Vệ Bích biết Vô Kỵ không phải là người được truyền thụ võ công của nhà họ Chu nên không sợ mất sĩ diện của cậu mình và của Cửu Chân nên mới ra mạnh như thế. Tuy vậy, hai chưởng của y vẫn chưa xử dụng tới nội lực, bằng không Vô Kỵ đã bị đánh rụng cả răng và chết giấc tức thì liền.

Cửu Chân lớn tiếng gọi:

– Vô Kỵ đánh lại đi!

Vô Kỵ nghe tiếng tiểu thư gọi, tinh thần lại phấn chấn liền múa quyền đánh luôn. Vệ Bích né mình tránh khỏi và khen ngợi rằng:

– Tiểu tử này cũng có một hai miếng võ đấy.

Nói xong y len nhảy sang phía sau Vô Kỵ liền.

Vô Kỵ vội quay người lại, nhưng Vệ Bích nhanh tay túm lấy sau gáy y và nhắc bổng y lên cao vừa cười vừa nói:

– Cho mi té xuống như chó ăn phân vậy.

Nói xong y vứt Vô Kỵ xuống đất một cái thật mạnh.

Vô Kỵ theo Tạ Tốn và cha học võ công mấy năm nhưng vì thời gian quá ngắn, hai là vì lúc ấy y hãy còn ít tuổi, ba vì Tạ Tốn chỉ dạy y nhớ kỹ những thế võ và khẩu thuyết thối chứ không để y thực tập đối địch nên vừa gặp Vệ Bích, một đệ tử của danh môn, võ nghệ cao siêu, tất nhiên y phải cuống quýt không biết giở thế võ nào ra chống đỡ cho phải. Lúc này y bị ném không biết nên dùng tay hay dùng chân chống xuống đất cho khỏi té. Nhưng tới khi y vừa quyết định thì trán và mũi của y đã va mạnh xuống đất, máu tươi chảy ròng ra rồi Thanh Anh vỗ tay khen ngợi và khúc khích cười nói:

– Chị Cửu Chân, võ công của nhà họ Võ chúng em có được không?

Cửu Chân vừa xấu hổ vừa tức giận, nàng biết nếu bảo võ công của nhà họ Võ không ra gì thì sợ mất lòng Vệ Bích. Nếu bảo võ công của họ cao siêu thì bực mình với Thanh Anh nên nàng cứ sầm nét mặt lại không nói năng gì hết.

Vô Kỵ vừa bò dậy có vẽ sợ hãi liếc nhìn Cửu Chân thấy nàng rầu rĩ liền nghĩ thầm:

– Dù có hy sinh đến tính mạng đi chăng nữa, ta cũng phải cố lấy lại sĩ diện cho tiểu thư mới thôi.

Nghĩ đoạn y lại nghe Vệ Bích vừa cười vừa nói:

– Biểu muội, thằng nhãi kia đến mấy miếng võ tầm thường cũng không biết thì còn nói cái gì môn phái nữa.

Vô Kỵ đột nhiên xông lên đá luôn một cái vào bụng đối thủ, Vệ Bích vừa cười vừa kêu la:

– Oái chà!

Người chàng ngửa về phía sau tránh né, đồng thời giơ tay ra bắt cái chân của Vô Kỵ chưa kịp thâu hồi và thuận tay vứt luôn ra bên ngoài.

Chàng mới dùng có ba thành sức lực thôi, Vô Kỵ đã bị văng đi nhanh như mũi tên đam thẳng vào vách tường liền.

Cũng may trong lúc nguy cấp y vội dùng sức xoay người nhảy lên nên lưng y mới va vào vách trước.

Tuy tránh khỏi vỡ đầu vỡ mặt nhưng y cũng cảm thấy đau như bị búa giáng và những xương hầu như bị nứt vỡ vậy, thế là y tựa như một đống bùn nằm gục xuông dưới chân tường một cách mềm nhũn không sao đứng dậy được nữa.

Tuy bị đau hầu như chết giấc, Vô Kỵ vẫn lo ngại Cửu Chân nên trong lúc mơ mơ màng màng y còn nghe nàng nói:

– Thôi, chúng ta đi vào trong vườn hoa chơi đi!

Giọng nói của nàng có vẻ tức giận vô cùng.

Không hiểu sức lực ở đâu tới, Vô Kỵ bỗng nhảy phắt lên tung mình về phía trước múa chưởng đanh luôn Vệ Bích một cái. Chưởng ấy của y là một thế trong Giáng Long Thập Bát Chưởng.

Môn chưởng pháp này có oai lực mạnh nhất trong các môn chưởng pháp của thiên hạ. Năm xưa Hồng Thất Công và Quách Tỉnh đã đánh bại quần hùng cũng nhờ pho chưởng này, đủ thấy pho chưởng ấy lợi hại biết bao, chỉ tiếc rằng Tạ Tốn chưa học được hết pho chưởng pháp đó nên chỉ day được cho Vô Kỵ có một chút xíu thôi.

Lúc này Vô Kỵ đánh chưởng đó ra oai lực của y chưa được một thành của nguyên chưởng pháp. Tuy vậy khi chưởng y đánh ra vẫn có tiếng gió kêu vù vù.

Vệ Bích vội múa chưởng lên chống đỡ kêu “bộp” một tiếng, thân hình của chàng cũng phải lảo đảo mấy cái và lui về phía sau một bước.

Thanh Anh thấy vậy cũng phải thất thanh kêu ủa một tiếng và ngạc nhiên vô cùng.

Thì ra ông tổ của nàng là Võ Tu Văn tuy có vái Quách Tỉnh làm sư phụ thực nhưng vì tư chất rất kém nên chưa học hết đợc pho chưởng pháp Giáng Long Thập Bát Chưởng này, truyền đến cha nàng lại càng kém thế hơn nữa, tuy biết thế chưởng trong Giáng Long Thập Bát Chưởng này thật, nhưng không hiểu sao không có một chút oai lực nào cả.

Thanh Anh vẫn thường thấy cha mình luyện pho chưởng pháp này ở trong mật thất, luyện vài thế lại nghĩ ngợi một hồi.

Mười mấy năm trời ngày nào cũng luyện và nghĩ ngợi như vậy mà rốt cuộc vẫn không thu lượm được kết quả gì hết. Từ Tu Văn đến Thanh Anh, hơn một trăm năm nay nhà họ Võ truyền năm đời rồi, người đời nào cũng cố công nghiên cứu mà rốt cuộc cũng vẫn không đi đến đâu.

Ðiều này không phải con cháu nhà họ Võ ngu ngốc đần độn mà do sự chưa hiểu thấu tinh yếu của pho chưởng đó chứ không liên can gì đến thông minh trí tuệ hết, chưa biết chừng người càng thông minh bao nhiêu lại càng không sao luyện được. Cũng như Quách Tỉnh với vợ là hoàng Dung, hoàng Dung thông minh hơn Quách Tỉnh nhiều mà không sao học biết được pho chưởng pháp này, sau đó Quách Tỉnh dạy cho các đồ đệ, đồ tôn nhưng không một người nào có thể học hiểu pho chưởng pháp này cả. Vì vậy Giáng Long Thập Bát Chưởng mới thât truyền dần như thế.

Vô Kỵ không biết lại lịch của pho chưởng đó, cứ giơ song chưởng lên chống đỡ, liền thấy cánh tay tê tái, ngực bị đè khó thở, máu trong người đảo lộn vội nhảy tréo sang bên múa quyền đánh mạnh vào phía sau lưng Vô Kỵ một cái.

Vô Kỵ lại đưa chưởng về phía sau cũng xử dụng một thế trong Giáng Long Thập Bát Chưởng mà hất tay của đối thủ đi.

Vệ Bích thấy chưởng của Vô Kỵ thần diệu vô cùng, vội nhảy về phía sau tránh né, nhưng đầu vai của chàng đã bị ba ngón tay của Vô Kỵ quét phải.

Tuy chàng không thấy đau đớn gì cả nhưng Cửu Chân với Thanh Anh đã trông thấy rõ Vệ Bích quả thật đã thua thế võ ấy rồi.

Trước người đẹp, chịu sao nổi sự thất bại ấy, thoạt tiên Vệ Bích thấy Vô Kỵ tuổi còn nhỏ và lại là tôi tớ, dù có thắng nổi thằng nhỏ cũng không vẻ vang gì nên chàng chỉ muốn giỡn đùa y một chút để cho Thanh Anh cười một trận thôi. Vì thế chàng chỉ giở có hai ba thành sức lực ra mà đánh Vô Kỵ, ngờ đâu, lúc này thua liền hai thế, quát lớn một tiếng:

– Tiểu quỷ, mi không sợ chết hay sao?

Quát xong, chàng múa quyền đánh thẳng vào ngực Vô Kỵ một cái, thế quyền này của chàng bên trong bao hàm ba luồng sức lực.

Nếu kẻ địch dùng toàn lực chống đỡ, chỉ chống đỡ được luồng thứ nhất thôi, tất nhiên không thể nào ngờ được có luồng sức thứ hai dồn dập lấn áp tới, mà dù kẻ địch có chống đỡ được luồng thứ hai thì cũng không sao chống đỡ được luồng sức thứ ba, nếu người nào võ học kém cỏi bị quyền pháp này đánh dù không chết cũng bị thương nặng.

Thế quyền ấy chàng ta đã xử dụng toàn lực ra nhưng dù sao chàng cũng không phải là kẻ hung ác, chàng chỉ mong gỡ lại sĩ diện chứ không muốn đánh chết tên tiểu đồng của nhà biểu muội, cho nên chàng chỉ xử dụng tới luồng sức thứ hai thôi chứ không cho luồng sức thứ ba ra.

Vô Kỵ thấy quyền pháp của đối phương lợi hại, y vội xử dụng thế thứ ba của Giáng Long Thập Bát Chưởng ra chống đỡ.

Vệ Bích thấy Vô Kỵ giơ chưởng ra nghênh đón, thế chưởng của y quái dị vô cùng, và thấy luồng chưởng lực thứ nhất của mình tựa như đã vứt vào trong bể lớn, vô hình vô ích ngay. Chàng kinh hãi vô cùng chưa kịp nghĩ ngợi gì thì luồng sức thứ hai của mình đã bị đánh bắn trở lại rồi và chỉ nghe kêu “cách” một cái, xương cánh tay trái của chàng đã bị gãy.

Cũng may vì lòng nhân từ, chàng không xử dụng nốt luồng sức thứ hai, bằng không sức phản chấn càng mạnh hơn thế nữa và chàng còn bị thương nặng hơn thế này.

Cửu Chân với Thanh Anh thấy vậy đều kinh hãi la lớn và chạy lại xem Vệ Bích bị thương ra sao, thì thấy Vệ Bích gượng cười nói:

– Không sao, chỉ vì nhất thời tôi sơ ý đó thôi.

Cửu Chân và Thanh Anh thấy người yêu bị thương càng đau lòng vô cùng.

Cả hai không hẹn mà nên, giơ chưởng lên đánh Vô Kỵ cùng một lúc.

Lúc ấy, Vô Kỵ thấy mình dùng chưởng đánh gãy tay Vệ Bích đã sợ hãi đến ngẩn người ra, tuy cũng thấy song chưởng của hai nàng đánh tới nhưng y không hề né chút nào nên y bị một chưởng đánh vào ngực và một chưởng trúng vai nên y liền thổ huyết ra ngay.

Y vừa phẫn uất vì bị hai người đả thương, phần vì vết thương trong người, liền nghĩ thầm:

– Ta vì cô nương mà chiến đấu một cách chí mạng như vậy, cũng vì gỡ lại sĩ diện cho cô nương, ta cố hết sức để chiến thắng mà bây giờ cô nương lại đánh ta.

Vệ Bích thấy hai nàng đánh Vô Kỵ thổ huyết ra liền la lớn:

– Hai vị hãy khoan tay.

Hai nàng đều nghe lời ngừng tay lại ngay, chàng giơ chưởng trái lên, mặt lầm lì, đánh luôn Vô Kỵ một chưởng.

Vô Kỵ vội tránh né, Cửu Chân liền lên tiếng gọi:

– Biểu ca bị thương như vậy hà tất phải chấp trách một thằng nhỏ như thế làm chi, tất cả mọi lẽ là do em lầm lỗi hết, xin anh đừng ra tay đánh nó nữa.

Ngày thường nàng là người rất kiêu ngạo không bao giờ cúi đầu nhận lỗi với ai hết, ngày hôm nay nàng đã chịu nhận lỗi như thế thực là hiếm có lắm nếu nàng không trông thấy người yêu bị đánh gãy tay nàng cũng không chịu lép vế như vậy.

Ngờ đâu, Vệ Bích nghe nàng nhận lời như vậy càng tức giận thêm, cười nhạt và nói:

– Biểu muội, tiểu đồng của biểu muội bản lãnh cao cường thật, em có lầm lỗi gì đâu, chỉ vì anh không chịu phục nên mới bị đánh như thế đấy thôi.

Nói xong, chàng dùng cánh tay trái đẩy Cửu Chân sang bên và múa quyền đánh Vô Kỵ tiếp.

Vô Kỵ muốn lùi về phía sau tránh né, ngờ đâu Thanh Anh đã dùng song chưởng đỡ khiến y không có đường lui vì vậy quyền của Vệ Bích mới đánh trúng mũi của Vô Kỵ khiến máu mũi chảy ra ròng ròng.

Thì ra Thanh Anh là người đa mưu hơn Cửu Chân nhiều, nàng ngầm ngầm trợ giúp Vệ Bích mà không hề lộ hành tích trợ giúp đó cho Vệ Bích lấy lại được sĩ diện thì trong lòng cũng cám ơn nàng.

Võ công của Vô Kỵ vốn dĩ kém Vệ Bích xa lại thêm có hai nàng trợ giúp ra mặt nên chỉ trong thoáng cái Vô Kỵ đã bị ba người chân đá tay đấm trúng luôn bảy tám miếng, lại thổ luôn mấy lần huyết nữa.

Nhưng y là người rất có cốt khí, dưới sự phẫn uất vẫn cứ cố nghiến răng mím môi chịu đựng, tuy một địch ba nhưng đến giai đoạn chí tử này, y bèn đem hết võ công của Tạ Tốn và quyền pháp của Võ Ðang do cha y dạy mà đối phó.

Hồi thứ 37

Tạ Tốn Thiệt Tạ Tốn Giả

Mặc dầu công lực của y không đủ, chân tay không có sức lực nhưng những võ học của các đại môn phái nhất là ba miếng võ trong Giáng Long Thập Bát Chưởng lại càng lợi hại thêm, nên mới chống đỡ được ngót một tiếng đồng hồ mà chưa bị đánh té.

Cửu Chân quát hỏi:

– Thằng nhỏ khốn kiếp này, mi ở đâu tới Liên hoàn trang này quấy nhiễu. Có phải mi không muốn sống nữa đấy không?

Nàng thấy Vệ Bích giơ tay trái lên nhằm vai trái của Vô Kỵ đánh xuống nhưng Vô Kỵ đã nhanh tay đẩy mạnh vào người chàng ta một cái, chàng thấy chỗ vết thương đau không thể nào chịu được, tức giận vô cùng, liền vận hết mười thành công lực vào cánh tay bên kia rồi nhằm kẻ địch đánh tới. Vô Kỵ định tránh né nhưng đã thấy phía sau có Cửu Chân và Thanh Anh giữ chặt lấy hai vai không để cho y tránh đi đâu hết.

Vô Kỵ biết phen này không sao tránh nổi và lại tức hận Cửu Chân nên cứ nhắm mắt đưa người về phía trước để mặc cho Vệ Bích đánh chết.

Ðang lúc chưởng của Vệ Bích sắp đánh tới người Vô Kỵ thì bỗng có tiếng quát tháo rất oai nghiêm:

– Hãy khoan.

Vô Kỵ liền thấy có một bóng vàng phi tới và giơ chưởng lên gạt chưởng của Vệ Bích sang bên. Y thấy người đó giơ tay ra gạt một cách nhẹ nhàng mà Vệ Bích không đứng yên được, loạng choạng lùi về phía sau mấy bước rồi ngã phịch xuống đất.

Nhưng người nọ đã lẹ chân đi tới cạnh chàng ta và nhanh tay túm lấy đầu vai chàng ta kéo lên. Nhờ vậy Vệ Bích mới khỏi ngã ngồi xuống.

Cửu Chân vừa thấy người đó, đã vội lên tiếng:

– Cha!

Thanh Anh cũng gọi:

– Chu bá phụ, Chu bá phụ!

Vệ Bích thở hổn hển một hồi rồi cũng lên tiếng chào:

– Chào cậu!

Thì ra người đó là Chu Trường Linh, cha của Cửu Chân. Thấy Vệ Bích bị đánh gãy tay tên đầy tớ vội chạy lên phi báo cho trang chủ hay nên Trường Linh mới vội vàng xuống dưới này, y thấy ba người vây đánh Vô Kỵ liền đứng cạnh xem, sau y thấy Vô Kỵ nguy hiểm đến tính mạng mới ra tay cứu như vậy.

Trường Linh thấy Vô Kỵ người dính đầy vết máu, thân mình loạng choạng nhưng vẫn nghiến răng mím môi cố giữ thăng bằng để đứng vững chứ không chịu ngã ngồi xuống, y cũng phải khen ngợi Vô Kỵ là một thằng nhỏ rất có cốt khí.

Y liếc nhìn con gái mình với Thanh Anh, thấy cả hai đang có vẻ tức giận, liền đột ngột giơ tay ra tát cho Cửu Chân một cái và quát mắng:

– Giỏi lắm, giỏi lắm. Mày làm như vậy, sau này còn mặt mũi nào gặp tổ tiên ở dưới chín suối nữa?

Cửu Chân được cha cưng từ nhỏ chưa hề bị mắng một câu nào, không ngờ hôm nay trước mặt người ngoài, bị cha mắng còn đánh một bạt tai làm nàng choáng váng đầu óc, không còn biết gì nữa.

Lát sau, nàng mới khóc oà lên.

Trường Linh lại mắng tiếp:

– Tao cấm mày không được khóc.

Tiếng nói của y oai nghiêm và mạnh đến nỗi chấn động cả nóc nhà, khiến bụi trên trần bay xuống mù mịt.

Cửu Chân sợ hãi không dám khóc nữa.

Trường Linh nói tiếp:

– Họ Chu chúng ta là giòng thế gia, đời nào cũng tự mệnh là hiệp nghĩa, cụ Cao tổ của con Liễu Công phò trợ Nhất Ðăng đại sư tới quan Tể tướng nước Ðại Lý. Sau lại trợ thủ thành Tương Dương, tiếng tăm lừng lẫy trong thiên hạ. Ðến đời ta lại có đứa con bất hiếu bất nghĩa như thế kia. Ba người lớn vây đánh một thằng nhỏ, lại còn muốn giết chết nó nữa, mày thử nghĩ xem, có xấu hổ không? Có hổ thẹn không?

Y tuy lớn tiếng trách mắng con gái mình, nhưng Vệ Bích và Thang Anh đứng cạnh đó, nghe những lời mắng ấy, tựa như từng lưỡi dao cắm sâu vào trái tim chúng, cũng xấu hổ vô cùng. Vô Kỵ thấy Trường Linh vẻ mặt chính khí như vậy, trong lòng cũng thán phục vô cùng và nghĩ thầm:

– Phải, thị phi phân minh như thế mới là người hiệp nghĩa chứ.

Y thấy Trường Linh càng giận bao nhiêu, da mặt vàng khè bấy nhiêu, người run bây bẩy, hơi thở hõn hễn.

Còn bọn Vệ Bích ba người cứ cúi đầu nhìn xuống đất, chứ không dám liếc nhìn. Vô Kỵ thấy mặt Cửu Chân một bên sưng vù, chắc cái tát của cha nàng mạnh lắm, nên mới sưng to như thế.

Nhưng y thấy nàng vừa xấu hổ, vừa sợ hãi trông thật tội nghiệp, muốn khóc mà không dám, y đành nghiến răng mím môi, tiến lên nói với Trường Linh rằng:

– Thưa lão gia, việc này không việc gì đến tiểu thư.

Y vừa lên tiếng tự giựt mình kinh hãi. Thì ra lúc này y mới hay giọng nói của y đã khan, không sao nói thành tiếng được vì cổ họng đã bị Vệ Bích đả thương rất nặng mà nên.

Trường Linh thấy Vô Kỵ nói, tuy không nghe rõ y nói gì, nhưng cũng quay lại hỏi:

– Chú em nhỏ biết xử dụng Giáng Long Thập Bát Chưởng, chắc chú là đệ tử của Cái Bang phải không?

Vô Kỵ không muốn thổ lộ môn phái của mình cho ai nghe, nay Trường Linh lại hỏi mình có phải là đệ tử của Cái Bang không, liền ầm ừ gật đầu.

Trường Linh thấy y nhận là đệ tử của Cái Bang liền mắng bọn Vệ Bích tiếp:

– Môn chưởng pháp đó do Bang Chủ của Cái Bang là Cửu Chỉ thần cái Hồng Thất Công truyền lại, năm xưa cụ ấy oai trấn đại giang Nam Bắc, với hai họ Chu, Võ của chúng ta có liên can rất mật thiết.

Nói tới đó, y quay đầu lại, nói với Thanh Anh rằng:

– Quách Tỉnh, Quách đại hiệp là sư phụ của Từ Văn Công, ông tổ của cháu. Cháu đã biết cậu bé xử dụng Giáng Long Thập Bát Chưởng, tại sao cháu còn ra tay đánh y như vậy?

Lời lẽ của y rất nghiêm nghị, đối với Vệ Bích và Thanh Anh cũng không nể nang chút nào. Vô Kỵ nghe vậy cũng phải hoảng sợ, không yên.

Trường Linh lại hỏi Vô Kỵ tại sao tới sơn trang này mà mặc quần áo tiểu đồng như thế? Y một mặt bảo người lấy thuốc thiết đả và thuốc cao tiếp xương ra chữa cho Vô Kỵ và Vệ Bích.

Cửu Chân biết cha mình còn tức giận, nàng không dám giấu diếm, bèn kể rõ câu chuyện mình đi săn gặp Vô Kỵ giấu con khỉ trong người, rồi bị lũ chó vây cắn như thế nào, rồi đưa y về sơn trang cứu chữa kể rõ cho cha hay.

Cửu Chân, Vệ Bích, Thanh Anh xấu hổ vô cùng, đứng dậy một cách bẻn lẻn.

Trường Linh lại quát mắng ba tên đầy tớ nuôi lũ chó:

– Lũ ác khuyển đâu, thả chúng ra đây.

Ba tên đầy tớ đó vâng lời, liền thả lũ chó ra ngay.

Cửu Chân thấy cha mình mặt vẫn lầm lì, không biết cha định làm gì lũ chó, liền khẽ gọi:

– Cha…

Trường Linh không để cho Cửu Chân nói tiếp, đã cười nhạt và nói:

– Mày nuôi lũ chó này, lại thả chúng đi cắn người, mày còn bảo chúng đến cắn tao nữa phải không?

Cửu Chân vừa khóc vừa nói:

– Thưa cha, con đã biết lỗi rồi.

Trường Linh, chỉ dùng giọng mũi “hừ” một tiếng, chứ không nói gì cả đi thẳng đến chỗ bọn chó đang đứng, múa hai chưởng, chỉ nghe kêu “lốp bốp” bốn tiếng, Bốn con chó săn đã bị y đánh vỡ sọ nằm lăn ra đất chết liền.

Mọi người thấy vậy đều hoảng sợ, đứng yên không dám nói nửa lời.

Trường Linh vẫn tiếp tục, chân đá, tay đấm, hơn ba mươi con chó dữ đều bị y đánh chết hết. Vệ Bích với Thanh Anh nhìn nhau sợ hãi và nghĩ thầm:

– Tuy chúng ta biết võ công của ông rất cao siêu nhưng chưa bao giờ thấy ông ta ra tay bao giờ. Không ngờ võ công của ông ta lại lợi hại như vậy, không biết tới năm nào tháng nào ta mới luyện tới mức đó được.

Chỉ trong chốc lát, Trường Linh đã giết chết hết lũ chó, ẳm Vô Kỵ lên đem về phòng dưỡng thương.

Không bao lâu Chu phu nhân và Cửu Chân cũng đều tới trông nom thuốc thang cho Vô Kỵ vì lũ chó cắn, nên mất máu quá nhiều, người đã yếu đuối, lại thêm lần này bị thương khá nặng nên y mê man bất tỉnh liền mấy ngày.

Tới khi hồi tỉnh y liền tự khai toa thuốc chữa lấy cho mình hốt thuốc và sắc uông, nhờ vậy vết thương của y mới chóng lành.

Trường Linh thấy y dùng thuốc như thần càng phục và kính trọng thêm.

Vô Kỵ dưỡng thương hơn hai mươi ngày liền.

Trong những ngày đó, Cửu Chân cứ đến ngồi cạnh giường kể chuyện cổ tích hoặc thổi sáo cho y nghe.

Sau khi lành mạnh, Vô Kỵ đã đi lại được, ngày ngày Cửu Chân cũng ở gần y nửa ngày. Theo quy tắc của nhà họ Chu, thì buổi sáng học võ, buổi chiều học văn, tập viết, võ công của nhà họ Chu thoát thai ở bút pháp, chữ càng đẹp bao nhiêu thì võ công càng cao siêu bấy nhiêu.

Thư phòng của Cửu Chân bày biện rất đẹp và đầy đủ tiện nghi, bên trong có treo bài thơ của Ðỗ Mục và hai bức tranh sơn thủy.

Cửu Chân ngày nào tập viết cũng đưa cho Vô Kỵ một cây bút và một tờ giấy, bảo y học viết.

Hai người ngồi đối diện nhau ở trước một cái bàn nhỏ, thỉnh thoảng ngước đầu nhìn nhau, mỉm cười. Sự thích thú này bút mực không sao tả hết được.

Ngay những lúc Cửu Chân theo cha học võ, cũng cho Vô Kỵ đi theo và cho Vô Kỵ ngồi cạnh lúc xem cha biểu diễn.

Thỉnh thoảng nàng gọi Vô Kỵ ra tập tay đôi với mình, tất nhiên võ công của nàng cao siêu hơn Vô Kỵ nhiều nên nàng chỉ điểm cho y luôn.

Từ khi rời khỏi Băng Hỏa Ðảo, bước chân vào Trung thổ đến giờ, số kiếp Vô Kỵ thật hẩm hiu, suốt ngày bôn ba đây đó, khổ sở, đau đớn biết bao, có bao giờ được sống cuộc đời an nhàn sung sướng như thế này đâu.

Thoáng cái đã tới trung tuần tháng hai, ngày hôm đó Cửu Chân với Vô Kỵ đang tập viết trong phòng, bỗng thấy Tiểu Phụng chạy vào bẩm:

– Thưa tiểu thư, Dao nhị gia ở Trung Nguyên đã về tới đây.

Cửu Chân mừng rỡ vô cùng, vứt bút xuống la lớn:

– Trời ơi, mừng quá, tôi chờ ông ta suốt nửa 5 trời, bây giờ mới thấy ông ta về tới.

Nói xong, nàng kéo tay Vô Kỵ và nói:

– Chú Vô Kỵ, chúng ta ra ngoài đó thăm Dao nhị thúc đi, xem nhị thúc có mua đủ đồ cho tôi không?

Hai người dắt tay nhau, chạy ra ngoài đại sảnh, Vô Kỵ hỏi:

– Dao nhị thúc là ai thế?

Cửu Chân đáp:

– Là anh em kết nghĩa của cha tôi, biệt hiệu của ông ta là Thiên Lý Truy Phong, tên là Dao Thanh Toàn, năm ngoái cha tôi nhờ chú ấy, đem lễ vật vào Trung Nguyên biếu một người bạn, tôi có nhờ chú ấy mua phấn son dùm rồi đi qua Hàng Châu mua kim chỉ thêu và bút mực cùng sách vở, không biết chú ấy có mua đủ những thứ ấy cho tôi không?

Nên biết Chu gia trang xây ở trong dãy núi Côn Luân tại Tây Vực, những đồ dùng của các cô tiểu thư phải đi xa hàng nghìn dặm cũng không sao mua được. Nên mỗi khi muốn mua, phải sai người đi Trung Nguyên mới mua được. Mỗi lần đi mua như vậy tính đến hai ba năm trời. Vì vậy, hễ người nào có dịp đi Trung Nguyên là Cửu Chân nhờ mua tất cả những đồ trang sức dùm.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, lúc sắp tới gần cửa đại sảnh, đã nghe tiếng khóc hu hu, cả hai đều ngạc nhiên và kinh hãi.

Khi hai người vào tới trong sảnh lại càng kinh ngạc thêm, thì ra hai người trong thấy Trường Linh với một người tuổi trạc trung niên vừa cao vừa gầy, đang quỳ dưới đất, ôm nhau khóc nức nở. Người nọ mặc quần áo trắng như để tang vậy, lưng cột một sợi dây kết bằng cỏ. Cửu Chân đi đến gần hai người liền gọi:

– Dao nhị thúc.

Trường Linh vẫn lớn tiếng khóc và bảo với Cửu Chân rằng:

– Cửu Chân con ơi, đại nhân Trương Ngũ gia của chúng ta… Trương Ngũ gia đã… chết rồi.

Cửu Chân kinh ngạc hỏi:

– Khi… nào… lại có chuyện đó? Ông ta… mất tích mười mấy năm người ta nói ông ta chả bình yên về tới núi Võ Ðang rồi là gì?

Người mặc áo tang, tức Dao Thanh Toàn nức nở khóc và đáp:

– Chúng ta ở nơi xa xôi hẻo lánh này, chả biết tin tức gì hết. Thì ra bốn năm trước đây, Trương ân nhân của chúng ta đã cùng phu nhân tự vận chết rồi. Chú chưa lên tới núi Võ Ðang, ở dọc đường đã nghe tin ấy rồi. Sau khi chú lên đến trên núi, gặp Tống đại hiệp và Dư đại hiệp, mới biết rõ sự tình, hà…

Vô Kỵ càng nghe càng kinh hãi, sau cùng y không còn nghi ngờ gì cả, y biết những người này vừa nói đại ân nhân Ngũ gia đó chính là cha mình, Trương Thúy Sơn! Ðồng thời y lại trông thấy Trường Linh với Thanh Toàn khóc một cách thê thảm như vậy và Cửu Chân cũng ứa nước mắt, y không sao nhịn được nữa, định tiến lên thổ lộ thân phận của mình cho mọi người hay, nhưng y sự nghĩ:

– Từ trước tới giờ ta tự nhận là đệ tử của Cái Bang, bây giờ nói rõ chân tướng của mình ra, chỉ sợ Chu bá phụ với chị Cửu Chân không tin thôi, và còn bảo ta mạo nhận là con Thúy Sơn để cầu ơn, và còn bị họ khinh và coi thường là đằng khác.

Một lát sau, y lại nghe trong nhà tiếng khóc vang dội, Chu phu nhân, do hai con sen đỡ vừa khóc vừa đi ra ngoài đại sảnh, rồi Chu phu nhân hỏi Thanh Toàn những tin tức đó ra sao?

Vì qua đau đớn, Thanh Toàn quên cả hành lễ với người chị dâu kết nghĩa đó. Chỉ mải kẻ rõ tình hình vợ chồng Thúy Sơn tự vận ra sao cho Chu phu nhân nghe.

Vô Kỵ tuy cố nhịn, không khóc ra tiếng, nhưng nước mắt lả chả tuông xuống hai má rồi.

Y thấy mọi người trong sảnh đều khóc nên không ai để ý đến cái khóc của y.

Trường Linh đột nhiên giơ chưởng lên, đánh mạnh vào mặt bàn một cái, cái bàn gãy ra làm hai tức thì.

Ðánh gãy cái bàn đó xong, Trường Linh lại bảo với Thanh Toàn rằng:

– Nhị đệ hãy kể cho ngu huynh hay những người nào đã lên núi Võ Ðang bức tử nghĩa công nghĩa tẩu như vậy?

Thanh Toàn đáp:

– Sau khi đệ hay tin chẳng lành đó, đáng lẽ về đây ngay để báo tin cho đại ca hay, nhưng đệ cần phải điều tra xem tên họ của những người đó trước đã. Thì ra những người lên núi Võ Ðang bức tử ân công của chúng ta không ai xa lạ, chính là ba vị thần tăng của phái Thiếu Lâm với mấy người đệ tử của chúng, ngoài ra còn có nhiều người khác nứa. Ðệ ngấm ngầm đi khắp nơi dò hỏi, nên mới mất nhiều thì giờ như vậy.

Thế rồi Thanh Toàn kể hết những người của phái Thiếu Lâm, Không Ðộng, Nga Mi, Côn Luân, Hải Sa, Cự Kinh, Thần Quyền… Phàm những người nào đã lên núi Võ Ðang bức tử Thúy Sơn, như Không Văn đại sư, Hà Thái Xung, Tỉnh huyền sư thái, tất cả những người đó y cũng đều nói hết.

Trường Linh thở dài mấy tiếng lại hỏi tiếp:

– Nhị đệ, những người mà nhị đệ vừa kể ra đều là những hảo thủ số một số hai trong thiên hạ, đáng lẽ chúng ta không dám trêu ngươi tới một người nào trong những người đó cả, nhưng ngũ gia có ơn với chúng ta lớn như vậy, thì chúng ta dù có tan xương nát thịt cũng phải trả thù hộ Ngũ gia mới phải.

Thanh Toàn đáp:

– Ðại ca nói rất phải, nhờ có Ngũ gia, anh em ta mới còn sống sót đến ngày nay. Thì bây giờ chúng ta có hy sinh vì Ngũ gia chúng ta cũng được ơn Ngũ gia sống thêm mười mấy năm rồi. Tiểu đệ ân hận nhất là không được gặp mặt Trương công tử thôi, bằng không đệ cũng có thể truyền đạt ý kiến của đại ca cho công tử hay, và tốt hơn hết là chúng ta mời công tử đến đây ở, để hầu hạ phụng dưỡng suốt đời, như vậy mới tạm gọi là đền ơn được một phần nào của Ngũ gia.

Chu phu nhân lại luôn mồm hỏi tình hình của vị Trương công tử đó.

Thanh Toàn đáp:

– Ðệ chỉ biết Trương công tử hiện giờ đang bị thương nặng, còn đi chữa và nhờ ai chữa thì đệ không được rõ lắm, hình như năm nay Trương công tử mới lên chín thôi. Có lẽ Trương Tam Phong đã truyền thụ võ công tuyệt thế cho công tử rồi, như vậy sau này Trương công tử sẽ là người chưởng môn của phái Võ Ðang cũng nên?

Vợ chồng Trường Linh vội quỳ xuống đất cảm tạ trời đất đã cho giòng họ Trương có người nối tông nối dõi.

Thanh Toàn lại nói tiếp:

– Ðại ca sai đệ đem nhân sâm vương trông ngàn năm Thiên Sơn Tuyết Liên giấy ngọc sư trấn, dao găm ô kim v. v… đi biếu Trương Ngũ gia. Tiểu đệ đã đem lên núi Võ Ðang giao cho Tống đại hiệp, nhờ chuyển giao cho Trương công tử rồi.

Trường Linh nghe Thanh Toàn nói như vậy liền gật gù:

– Như vậy thì tốt lắm.

Ðoạn y quay lại nói với con gái rằng:

– Nhà ta đã thụ ơn lớn của Trương Ngũ gia, con hãy kể chuyện này cho chú em họ Trương nghe nhé.

Cửu Chân vâng lời và dắt Vô Kỵ vào thư phòng của cha mình. Rồi nàng chỉ cho Vô Kỵ xem một bức tranh lớn treo trên tường.

Vô Kỵ thấy bức tranh đó, trên góc phải đề rằng: “Trương công Thúy Sơn ân đức độ”.

Thấy tên cha mình, Vô Kỵ ứa nước mắt, nên thấy lờ mờ bức tranh đó vẽ một võ sĩ thiếu niên anh tuấn, tay trái cầm móc bạc, tay phải cầm bút sắt, đang kịch chiến với năm kẻ hung ác, Vô Kỵ biết chàng thiếu niên anh tuấn đó là cha mình tuy gương mặt vẽ không giống lắm nhưng quần áo và hình dáng cũng phảng phất phần nào.

Dưới đất có hai người đang nằm, đó là Trường Linh và Thanh Toàn cạnh đó có hai người nữa, đầu đã bị chặt lìa. ở góc dưới về phía bên trái, có lẽ một thiếu phụ mặt lộ nét sợ hãi, người đó chính là Chu phu nhân, trong tay bồng một đứa bé.

Vô Kỵ lấy tay áo chùi nước mắt để nhìn rõ mặt đứa bé ấy. Chàng thấy mặt của đứa bé đó có một cái nốt ruồi đen, nên biết ngay con bé đó tức là nàng Cửu Chân đang ở cạnh mình. Bức tranh đó đã vàng khè, đủ thấy là một bức tranh đã lâu lắm rồi.

Cửu Chân chỉ bức tranh, giải thích cho Vô Kỵ biết rõ những chuyện gì đã xảy ra.

Thì ra lúc Cửu Chân mới ra đời và vì lánh mặt kẻ thù, nên Trường Linh phải đem vợ con chạy lên miền Tây Vực này.

Ngờ đâu giữa đường kẻ thù đuổi kịp, hai sư đệ bị kẻ địch giết chết.

Y với Thanh Toàn cũng bị đánh té, và kẻ địch đang định ra tay giết luôn hai người.

Nhưng may nhờ Thúy Sơn đi ngang qua, đánh lui kẻ địch, cứu cả nhà Trường Linh thoát nạn. Lúc ấy là lúc Thúy Sơn chưa đi Băng Hỏa Ðảo.

Kể xong câu chuyện đó Cửu Chân có vẻ buồn, rồi lại nói tiếp:

– Chúng tôi phải đi tới chỗ hẻo lánh này để ẩn náu. Mãi đến hồi năm ngoái chúng tôi mới hay tin tức Trương ân công ở hải ngoại về. Cha tôi đã thề không bước chân vào Trung Nguyên nữa, nên mới nhờ Dao nhị thúc đi núi Võ Ðang để biếu lễ vật cho Trương ân công. Ngờ đâu…

Nói tới đây, đã có một thư đồng vào mời nàng ra lịnh đường để hành lễ.

Cửu Chân vội vàng trở về phòng, thay bộ quần áo trắng, rồi cùng Vô Kỵ vào trong hậu đường.

Khi tới nơi, Vô Kỵ đã thấy linh vị đã bày ra với hai cây nến trắng vừa cao vừa to, đang cháy. Trên bài vị có viết “ân công Trương đại hiệp, huý Thúy Sơn chi linh linh vị”.

Vợ chồng Trường Linh và Thanh Toàn đang quỳ dưới đất, khóc lóc rất thê thảm.

Cửu Chân và Vô Kỵ cũng quỳ xuống vái lạy. Trường Linh vuốt đầu Vô Kỵ vừa nức nở:

– Chú em quỳ lại như vậy là nên lắm, nên lắm! Bởi Trương đại hiệp này là người khẳng khái lỗi lạc, xứng đáng là một kỳ nam tử có một không hai trên đời này. Tuy chú không quen biết ông ta và cũng vô thân vô cố, nhưng chú vái ông ta như vậy cũng nên lắm.

Trước hoàn cảnh này, Vô Kỵ càng không dám nhận mình là con của Thúy Sơn, chàng nghĩ thầm:

– Dao nhị thúc này nghe tin đồn hơi sai, bảo ta năm nay mới lên tám lên chín thôi. Nếu lúc này ta nói rõ ra, chưa chắc họ đã tin.

Vô Kỵ vừa nghĩ tới đó bỗng nghe Thanh Toàn hỏi:

– Ðại ca, vị Tạ gia kia…

Trường Linh vội ho một tiếng, nháy mắt ra hiệu.

Thanh Toàn hiểu ý ngay liền đổi giọng nói:

– Ta nên xử trí vị Tạ Nghi ấy ra sao? Có nên phát tang hộ ân công không?

Trường Linh đáp:

– Tùy chú, cứ dựa theo tình thế mà làm.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Rõ ràng ta nghe nói y là Tạ gia mà sao bây giờ y lại gọi Tạ Nghi như vậy? Tạ gia? Tạ gia. Chẳng lẽ y nói đến nghĩa phụ ta chăng?

Ðêm hôm đó, Vô Kỵ nghĩ đến cha mẹ đã khuất núi và nghĩa phụ đang sống cơ cực một mình trên Băng Hỏa Ðảo. Chàng cứ trằn trọc mãi không sao yên giấc được.

Sáng hôm sau Vô Kỵ nghe bước chân ai rón rén và ngửi thấy mùi thơm xông lên mũi, vội quay đầu lại nhìn, thì thấy Cửu Chân bưng trên tay cái thau nước rửa mặt đi vào.

Chàng ngạc nhiên hỏi:

– Chị Cửu Chân, sao… chị… lại bưng…

Cửu Chân đáp:

– Ðầy tớ và con sen đều đi hết rồi. Tôi phục dịch chú như vậy đã sao nào?

Vô Kỵ càng kinh ngạc vội hỏi:

– Tại sao những người ấy lại đi hết?

Cửu Chân đáp:

– Ðêm hôm qua, cha tôi cho họ đi hết, mỗi người đều được một số tiền tối hậu để về nhà làm ăn sinh sống, chớ ở đây nguy hiểm cho họ lắm.

Ngừng giây lát, nàng lại nói tiếp:

– Chú rửa mặt đi, cha tôi có việc muốn nói với chú đấy.

Vô Kỵ rửa mặt qua loa. Cửu Chân cầm sẳn cái lược chải đầu cho y.

Xong đâu đấy, hai người liền bước ra khỏi phòng.

Sơn trang rất rộng lớn. Từ trước tới giờ vẫn có hơn trăm đầy tớ và thị nữ, bây giờ chúng đi hết, nên toà nhà rộng lớn đó trở nên vắng vẻ và lạnh lùng.

Trường Linh thấy hai người đi vào liền nói:

– Chú em họ Trương, tôi kính trọng chú là một thiếu niên anh hùng, nên định giữ chú ở lại đây mười năm Nhưng bây giờ, bỗng có một việc xảy ra rất đột ngột, bắt buộc chúng ta phải chia tay. Chú đừng có trách phiền tôi nhé.

Nói xong, y bưng một cái mâm, trên bàn có đựng mười hai nén vàng và mười hai nén bạc cùng một thanh kiếm, rồi nói tiếp:

– Ðây gọi là chút quà của gia đình tôi! Chú hãy nhận lấy mà tiêu dùng. Nếu lão phu thoát nạn, sau này chúng ta còn có dịp được gặp mặt nhau…

Nói tới đây y nghẹn ngào, không thể nói tiếp được nữa.

Vô Kỵ vội né mình tránh sáng bên, dõng dạc đáp:

– Thưa bác, tuổi cháu tuy còn trẻ và vô dụng thực Nhưng cháu không phải là kẻ ham sống sợ chết. Bây giờ quý phủ đang bị nguy nan, lẽ nào cháu lại tự tránh nạn, dù không giúp được bác chút nào, nhưng cháu cũng xin ở lại để cùng bác và chị cùng sinh cùng tử…

Trường Linh khuyên mãi, Vô Kỵ nhất định không nghe liền thở dài và nói tiếp:

– Hà, chú còn bé, không biết cái gì là nguy hiểm cả. Ðể tôi nói cho chú rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng trước hết chú phải thề sẽ không tiết lộ câu chuyện này cho ai nghe hết và không được hỏi thêm một câu nào.

Vô Kỵ vội quỳ xuống đất, lớn tiếng thề:

– hoàng thiên ở trên xin chứng minh, nay bác Trường Linh kể cho tôi biết chuyện này, nếu tôi tiết lộ với người khác nghe, hay là tôi lắm mồm hỏi thêm thì tôi sẽ bị nghìn lưỡi dao phân thây. Trường Linh vội đỡ y dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ. Ðoạn y lại phi thân nhảy lên mái nhà xem xét sợ có người nghe lóm, rồi mới nhảy xuống, đi vào thư phòng, rỉ tai Vô Kỵ:

– Tôi nói chú nghe câu chuyện này, chú chỉ ghi nhớ trong đầu óc chứ đừng hỏi lại tôi, đề phòng những kẻ khác nghe trộm.

Vô Kỵ gật đầu, Trường Linh lại nói tiếp:

– Hôm qua Dao nhị đệ về cho chúng tôi hay tin Trương ân công đã quá cố. Ðồng thời chú ấy còn đem theo một người họ Tạ tên là Tốn biệt hiệu Kim Mao sư vương…

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, mình mẩy và tay chân run lẩy bẩy. Trường Linh lại nói tiếp:

– Vì Tạ đại hiệp này là anh em kết nghĩa với Trương ân công, nhưng Tạ đại hiệp đã kết thù kết oán với các môn phái. Sở dĩ vợ chồng Trương ân công tự sát là cũng vì không muốn tiết lộ chỗ ở của nghĩa huynh. Không hiểu sao Tạ đại hiệp lại về đến Trung thổ này và đã ra tay báo thù cho Trương ân công, giết rất nhiều kẻ thù địch. Nhưng chỉ có một mình Tạ đại hiệp thì làm sao địch nổi bấy nhiêu người, nên rốt cuộc đã bị thương nặng. Dao nhị đệ là người rất khôn ngoan, đã cứu người đem về đây. Không bao lâu nữa kẻ địch của y sẽ đuổi tới đây. Kẻ địch người đông thế mạnh, với lực lượng chúng tôi như thế này thì làm sao chống nổi những kẻ đó? Tôi đã xả thân để báo ơn, quyết chí vì Tạ đại hiệp mà chết. Nhưng chú với y không có liên can gì hết, hà tất phải hy sinh làm gì? Chú em họ Trương ơi, lời tôi đã nói hết rồi, chú hãy mau mau đi đi! Kẻ địch mà tới đây thì sẽ tan xác hết, đi muộn một tí thì thiệt mạng ngay.

Vô Kỵ nghe Trường Linh nói như vậy, nóng lòng sốt ruột vô cùng. Vừa kinh hãi, vừa mừng rỡ, chàng không ngờ nghĩa phụ lại tới đây, nên lên tiếng hỏi:

– Hiện giờ ông ta ở…

Trường Linh vội giơ tay phải lên bịt miệng y, và rỉ tai khẽ nói:

– Ðã bảo chú đừng có hỏi, kẻ địch thần thông quảng đại lắm. Nếu lỡ lời một chút là nguy đến tính mạng của Tạ đại hiep ngay. Chú đã quên lời thề vừa rồi sao?

Vô Kỵ gật đầu, Trường Linh lại nói tiếp:

– Tôi đã nói rõ cho chú hay rồi. Tôi coi chú như một người bạn thân, tôi không hề giấu diếm chú một tí gì hết. Vay chú hãy rời khỏi nơi đây mau đi.

Vô Kỵ đáp:

– Bác nói rõ cho cháu hay rồi, cháu lại càng không muốn đi nữa.

Trường Linh thở dài một tiếng, lại tiếp:

– Việc này không thể trì hoãn được, ta phải hành động ngay.

Nói đoạn y liền cùng Cửu Chân và Vô Kỵ chạy thẳng ra ngoài cửa lớn, đã thấy Chu phu nhân và Thanh Toàn, ôm mấy bọc áo đang chờ sẳn, hình như định đi xa.

Nhìn trước nhìn sau, Vô Kỵ không thấy hình bóng nghĩa phụ mình đâu cả.

Trường Linh lấy đá ra, quẹt lửa, châm một bó đuốc lên, rồi đốt luôn cánh cửa lớn, chỉ trong giây lát, ngọn lửa đã bốc lên chọc trời và lan đi khắp nơi.

Thì ra trang viện lớn bên trong có mấy trăm nóc nhà ấy đã tưới sẳn dầu, nên ngọn lửa cháy ngùn ngụt tới đó liền.

Ở dãy núi Côn Luân tại Tây Vực, từ xưa tới nay vẫn sản xuất dầu hỏa.

Người ta thấy mạch dầu ở dưới đất phun lên, nên dân cư ở vùng đó đều lấy về để thắp và đun nấu.

Chu gia trang thật rộng lớn, từ cổng chính đến cổng sau dài ngót hai dặm, nhưng nhờ có dầu lửa trợ giúp, ngọn lửa cháy rất nhanh, không bao lâu sơn trang trang hoàng và đồ sộ đó đã hoá ra tro.

Vô Kỵ thấy vậy, cảm động và nghĩ thầm:

– Bao nhiêu tâm huyết và của cải mấy đời nhà họ Chu đều hoá ra tro cả, sở dĩ họ hy sinh như vậy cũng chỉ vì nghĩa phụ ta. Người khí khái như thế này trên thế gian hiếm có.

Ðêm đó, vợ chồng Trường Linh, Cửu Chân, Vô Kỵ, bốn người vào nằm nghỉ trong một cái hang núi. Còn Thanh Toàn thì điều khiển năm tên đệ tử thân tín của Trường Linh.

Tay nào tay nấy đều cầm khí giới, đi lại ngoài cửa động canh gác.

Ba ngày sau, ngon lửa tiêu Chu gia trang mới tắt hẳn.

Cũng may kẻ địch chưa tới nơi.

Tối hôm đó Trường Linh đem vợ con, đệ tử, Thanh Toàn và Vô Kỵ đi sâu vào trong hang núi, qua một đường hầm vừa dài vừa tối om, rồi mới đến mấy cái phòng xây bằng đá ở dưới mặt đất. Trong mấy căn thạch thất đó, đã có sẳn lương thực, nước uống đầy đủ cả. Chỉ có một điều là oi bức vô cùng.

Cửu Chân thấy Vô Kỵ cứ dùng tay áo lau mồ hôi vừa cười vừa nói:

– Chú Vô Kỵ, chú có biết tại sao lại oi bức như thế không? Chú có biết nơi đây là ở đâu không?

Thấy Cửu Chân hỏi như vậy, Vô Kỵ lại ngửi thấy mùi khen khét, Vô Kỵ liền tỉnh ngộ ngay, đáp:

– Thế ra chúng ta đang ở dưới mặt đất của trang viện đấy à?

Cửu Chân gật đầu trả lời:

– Chú thông minh thật.

Thấy Trường Linh dụng tâm chu đáo vậy, Vô Kỵ càng phục thêm.

Kẻ địch có tới tấn công, thấy Chu gia trang đã bị thiêu rụi, thì chúng thể nào cũng đi những nơi xa để tìm kiếm, chứ quyết không đoán tới Tạ Tốn lại núp ở dưới sơn trang cháy đó. Y thấy thạch thất đằng kia có cửa sắt đóng kín, đoán chắc nghĩa phụ mình đang núp trong đó, tuy trong lòng y rất mong được gặp nghĩa phụ, nhưng hiện giờ vẫn còn nhiều nguy cơ lắm, đến cả Trường Linh cũng không dám chuyện trò với Tạ Tốn, thì mình đâu dám. Nhỡ vì hở cơ mà làm lỡ đại sự thì mình có toi mạng cũng không sao, nhưng luỵ tới nghĩa phụ và tính mạng của gia đình họ Chu thì tội nghiệp biết bao!

Mọi người trong hầm được nửa ngày, hơi nóng đã giảm dần, đang giở chăn ra định ngủ, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập ở xa vọng lại, không bao lâu đã tới trên đỉnh đầu rồi, và còn nghe một người với giọng ồ ồ nói:

– Chắc lão tặc Chu Trường Linh đã bảo vệ Tạ Tốn chạy mất rồi, chúng ta phải chạy mau mới được.

Mọi người tuy ở dưới đất, nhưng vẫn nghe tiếng nói và tiếng động bên trên.

Sở dĩ nghe rõ như vậy, là cố nhiên ống sắt thông hơi thông lên trên mặt đất.

Một lát sau, mọi người lại nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp và dần dần đi ra, rồi mất liền.

Ðêm hôm đó, trước sau có đến năm bọn người, tới rồi lại đi.

Những bọn người đó, có phái Côn Luân, Cự Kình bang, và còn hai bọn người nữa, không ai hiểu bọn đó thuộc môn phái nào.

Nhưng chỉ biết mỗi bọn ít nhất cũng có bảy tám người, nhiều thì hơn mười người.

Chúng đều có cầm khí giới và cưỡi ngựa, nên bên dưới nghe tiếng kêu loảng xoảng và tiếng ngựa hí liên tiếp.

Không bọn nào là không chửi rủa một hồi rồi mới đi, thấy vậy Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Nếu nghĩa phụ ta không bị thương nặng, thì chúng ta coi bọn yêu ma tiểu xú ấy ra cái thá gì đâu.

Chờ bọn người thứ năm đi xa rồi, Thanh Toàn liền lấy những nút gỗ đậy mấy cái ông thông hơi lại. Như vậy tiếng nói của mọi người ở dưới hầm này không sợ bị những người ngẫu nhiên đi qua trên mặt đất nghe được.

Nhưng Thanh Toàn vẫn phải hạ thấp giọng xuống nói:

– Ðể đệ đi xem vết thương của Tạ đại hiệp xem có đỡ chút nào không?

Trường Linh gật đầu. Thanh Toàn đi tới cạnh cửa sắt, giơ tay lên bấm cái nút ở trên tường, cửa sắt đó từ từ mở ra liền. Rồi y tay cầm ngọn đèn, tiến vào thạch thất.

Lúc này Vô Kỵ không sao chịu nhịn được nữa, bèn đứng dậy tiến tới phía sau Thanh Toàn dòm ngó.

Y thấy một chàng vừa cao vừa vạm vỡ, đang nằm quay mặt vào trong.

Ðột nhiên trong thấy nghĩa phụ, y không sao cầm được nước mắt, Thanh Toàn lên tiếng khẽ hỏi:

– Thế nào Tạ đại hiệp đã đỡ nhiều chưa, có muốn uống nước không?

Ðột nhiên có một luồng gió ở bên trong thổi ra, ngòn đèn dầu trong tay Thanh Toàn tắt liền. Vô Kỵ nghe kêu “bùng” một tiếng mới hay Thanh Toàn đã bị Tạ Tốn dùng chưởng đánh bắn ra ngoài cửa sắt, rồi ngã xuống đất một cái thật mạnh.

Vô Kỵ lại nghe Tạ Tốn lớn tiếng kêu la:

– Các bọn cẩu tặc của phái Thiếu lâm, phái Côn luân, phái Không động lại cả đây đi, ta Kim mao sư vương Tạ Tốn có khi nào sợ chúng bây.

Trường Linh cũng lên tiếng:

– Nguy tai. Tạ đại hiệp lại mê sảng rồi.

Nói xong, y liền đi tới trước cửa, nói vọng vào trong phòng.

– Chúng tôi đay là bạn chứ không phải là địch đâu.

Tạ Tốn ha hả cười và đáp:

– Bạn cái quái gì, các mi tưởng nói khéo là lừa dối được ta hay sao?

Nói xong, y bước ra ngoài cửa sắt, giơ chưởng lên đánh mạnh vào ngực Trường Linh một cái. Chưởng lực đó mạnh vô cùng khiến ngọn đèn trong phòng cũng nhấp nháy suýt tắt. Trường Linh không dám chống đỡ, chỉ quay mình tránh né. Tạ Tốn lại múa cả quyền, nhằm Chu phu nhân đánh tới.

Chu phu nhân không biết võ công, nếu bị Tạ Tốn đánh trúng quyền đó, thế nào cũng toi mạng. Bất đắc dĩ Trường Linh và Cửu Chân đành phải giơ tay lên chống đỡ thế quyền đó. Vô Kỵ thấy sự biến cố đột ngột như vậy, cũng phải hãi sợ đến đứng đờ người ra.

Tạ Tốn múa song chưởng như gió, lợi hại vô cùng, nên Trường Linh không dám phản kháng, chỉ lui tránh thôi.

Chưởng của Tạ Tốn đánh không trúng Trường Linh, quét phải vách đá, những đá bụi trên tường rơi cả xuống mặt đất, đủ thấy chưởng lực của y mạnh như thế nào. Nếu người bị y đánh trúng, không chết cũng bị thương nặng.

Lúc ấy Vô Kỵ đã trong thấy rõ, Tạ Tốn tóc dài phủ vai, hai mắt như điện, mặt dính đầy vết máu, mồm thở hổng hộc, càng đánh chưởng thế của y càng hùng mạnh.

Chu phu nhân và Cửu Chân sợ hãi vô cùng, phải núp trong góc.

Trường Linh thấy chưởng lực của Tạ Tốn đánh tới đành phải đẩy một cái bàn gỗ ra chống đỡ. Bị Tạ Tốn đánh trúng hai quyền, cái bàn đó vỡ tan tành.

Vô Kỵ không biết xử trí ra sao cho phải, mồm há hốc, cứ đứng ngẩn người ra nhìn.

Y đã nhận thấy Tạ Tốn này phải là nghĩa phụ của y, vì nghĩa phụ của y hai mắt đã mù, mà đôi mắt của người này sáng quắt, trông thật oai vệ.

Lúc ấy y lại thấy người đó đánh một chưởng tới, Trường Linh đã lui tới vách đá không còn đường lối mà tránh né nữa liền giơ tay lên chống đỡ và la lớn:

– Tạ đại hiệp, tôi không phải là kẻ địch của đại hiệp, tôi không chống cự đâu.

Người nọ không thèm đếm xỉa tới, đánh luôn một chưởng vào ngực Trường Linh.

Ðau đớn không chịu nổi, Trường Linh cau có mồm la lớn:

– Tạ đại hiệp có tin lời nói của tôi không?

Người nọ lại quát tiếp:

– Cẩu tặc, hãy chịu một quyền của ta đã.

Vừa nói y vừa múa quyền đánh Trường Linh.

Trường Linh bị quyền đó đánh mạnh quá nên mồm phun máu tươi với giọng run run đáp:

– Ðại hiệp là nghĩa huynh của ân công chúng tôi, dù đại hiệp có đánh tới chết đi chăng nữa, tôi cũng không chống đỡ chút nào.

Y vừa nói vừa bị người kia đánh thêm một quyền và một chưởng nữa.

Chỉ thấy y rú lên một tiếng rất thảm khốc rồi người mềm nhũn, ngã gục xuống đất.

Người nọ vẫn không buông tha, còn tiến lên bồi thêm một quyền nữa.

Vô Kỵ chạy lại múa quyền chống đỡ quyền của đối phương.

Quyền lực của người nọ mạnh vô cùng, khiến Vô Kỵ bị chấn động suýt tắt thở, nhưng y vẫn không sợ chết, mồm la lớn:

– Ngươi không phải là Tạ Tốn, ngươi không phải…

Người nọ nổi giận đáp:

– Tiểu quỷ, mi biết cái gì?

Y vừa nói vừa giơ chân đá, Vô Kỵ vội né tránh sáng bên, mồm vẫn nói tiếp:

– Ngươi giả mạo Tạ Tốn định mưu mô gì thế? Ta bảo ngươi là giả… giả…

Trường Linh đang nằm gục dưới đất nghe Vô Kỵ nói như vậy, từ từ gượng ngồi dậy, chỉ vào mặt người kia và nói:

– Ngươi… ngươi không phải, ngươi lừa ta…

Nói tới đó, y liền hộc một đống máu tươi nữa và phun cả vào mặt người giả mạo Tạ Tốn rồi người ngả về phía trước.

Ðồng thời y thuận tay điểm luôn vào yếu huyệt dưới vú bên phải của người giả mạo kia.

Sau khi bị thương nặng, Trường Linh đã địch không lại người nọ, nhưng nhờ lúc phun máu té ngã, xuất kỳ bất y xử dụng thủ pháp Nhất Dương chỉ gia truyền ra điểm luôn vào yếu huyệt đối phương.

Thủ pháp Nhất Dương chỉ điểm huyệt quả thật thiên hạ vô song, người giả mạo kia tuy võ công cao cường thật, nhưng vừa bị điểm huyệt một cái, đã cứng đờ ra không cử động được. Trường Linh còn giơ tay ra điểm thêm hai chỉ vào hai bên hông của người đó nữa.

Thế là Tạ Tốn giả hiệu chịu đựng không nổi chết giấc tức thì, Cửu Chân và Vô Kỵ vội đỡ Trường Linh dậy.

Một lát sau, Trường Linh đã từ từ hồi tĩnh liền lên tiếng hỏi Vô Kỵ:

– Y… Y…

Vô Kỵ đáp:

– Thưa bác, bây giờ cháu không còn dấu diếm được nữa, người có ơn với bác, chính là cha của cháu, còn Kim Mao sư vương chính là nghĩa phụ của cháu, cháu nhận nhầm sao được?

Trường Linh lắc đầu, có vẻ không tin, Vô Kỵ lại nói tiếp:

– Cha nuôi cháu hai mắt đã mù, người này mắt vẫn lành mạnh, đó là một điềm sơ hở lớn nhất. Cha nuôi cháu, lúc đi ra Băng đảo mới bị mù. Người ngoài không ai hay biết điều đó, cả người giả mạo cũng vậy.

Cửu Chân nắm tay Vô Kỵ và hỏi:

– Chú Vô Kỵ, chú quả thật là con của đại ân nhân chúng tôi đấy à? Thế thì tốt quá, tốt quá. Trường Linh vẫn chưa tin, Vô Kỵ liền kể hết câu chuyện của mình ra cho mọi người nghe. Thanh Toàn đứng cạnh, hỏi y về tình hình trên núi Võ Ðang, vợ chồng Thúy Sơn tự vẫn ra sao, thấy y nói đúng hết, lúc ấy mọi người mới tin hẳn, riêng Trường Linh vẫn còn hồ nghi, lên tiếng nói:

– Nếu lời nói của thằng nhỏ này không đúng sự thật, chúng ta thất lễ với Tạ đại hiệp thì sao? Thanh Toàn rút con dao găm ra dí vào mắt phải tên nọ và hỏi:

– Bạn kia, Kim mao sư vương hai mắt đã mù, bạn muốn bắt chước ông ta thì phải bắt chước đến nơi đến chốn chứ. Ngày hôm nay ta hủy đôi mắt này của ngươi đã.

Ta họ Dao, đã bị mắc hởm ngươi, nếu không có chú em này biết rõ có phải tính mạng của Chu đại ca ta bị mất một cách oan uổng không?

Nói xong, y kề mũi dao vào tận mí mắt của tên nọ, tên kia ha hả cười đáp:

– Ngươi có gan thì cứ việc giết ta đi, ngươi tưởng ta Khai bia thủ Hổ báo này là hạng người hèn nhát mà sợ mi doạ nạt như thế này.

Trường Linh kêu ủa một tiếng rồi hỏi:

– Ồ thế ra ngươi là Khai bia thủ Hổ báo, là người của phái Không động đấy?

Hổ Báo lớn tiếng đáp:

– Phải, các môn phái của thiên hạ đều biết rõ, ngươi Chu Trường Linh định trả thù cho Trương Thúy Sơn nên chúng ta mới phải ra tay hạ ngươi trước, cổ nhân đã dạy, kẻ ra tay trước là anh hùng, ngươi đã biết chưa?

Thanh Toàn quát mắng:

– Tên này ác độc thật.

Vừa nói y vừa hạ thấp con dao găm, định đâm vào ngực Hổ Báo, Trường Linh giơ tay trái ra nắm lấy cổ tay của Thanh Toàn và khuyên rằng:

– Nhị đệ, hãy khoan đã, nếu y quả thật là Tạ đại hiệp thì tội của anh em chúng ta đến vạn kiếp cũng không sao chuộc được.

Thanh Toàn đáp:

– Chú em này đã nói rõ rồi, đại ca còn hồ nghi gì nữa? Nếu không quả quyết thì tránh sao được đại hoạ đã tới trước mắt đây?

Trường Linh lắc đầu nói tiếp:

– Chúng ta đành chịu chém nghìn nhát đao, chứ đừng có lỡ đã thương đến một sợi tóc của nghĩa huynh ân công chúng ta.

Vô Kỵ vội xen lời nói:

– Thưa bác, người này nhất đinh không phải là nghĩa phụ cháu, nghĩa phụ cháu biệt hiệu là Kim Mao sư vương, vì tóc vàng mới được cái biệt hiệu đó, bác xem, người này tóc đen nhánh như thế kia, như vậy phải sao được?

Ngẫm nghĩ giây lát, Trường Linh gật đầu mấy cái rồi dắt tay Vô Kỵ đi và nói tiếp:

– Chú em hãy theo tôi lại đàng này.

Hai người ra khỏi thạch thất lại ra khỏi hang đá, đi tới một sườn núi cao chót vót, ở phía sau núi, rồi người ngồi sát cạnh nhau trên một tảng đá. Nhìn trước nhìn sau, thấy không có ai theo cả, Trường Linh mới lên tiếng hỏi:

– Chú em, nếu người này không phải là Tạ đại hiệp, thì chúng ta phải giết y mới được. Nhưng trước khi hạ thủ giết y, chúng ta cần phải biết rõ sự thể, không còn hoài nghi một tí gì nữa, chú cho lời nói của tôi có phải không?

Vô Kỵ đáp:

– Ðó là bác đã tôn kính chau và nghĩa phụ cháu, bác cẩn thận như vậy rất phải, nhưng người đó nhất định không phải là nghĩa phụ của cháu, bác cứ yên tâm mà giải quyết y đi.

Trường Linh khẽ thở dài một tiếng và nói tiếp:

– Chú em có biết không, hồi tôi còn trẻ tôi đã bị mắc lừa nhiều người lắm, cho nên ngày hôm nay tên giả mạo ấy đánh tôi như thế mà tôi vẫn không chị đánh lại là vì sợ lỡ tay đánh nhầm người mà nên. Vì việc này quan trọng lắm, hễ lỡ tay một cái không thể nào cứu vớt được nữa. Sự sống chết của tôi không quan trọng lắm, nhưng điều cần nhất là phải làm thế nào, bảo vệ cho chú với Tạ đại hiệp được bình yên vô sự, nên tôi cần phải hỏi rõ chú xem, hiện giờ Tạ đại hiệp ở đâu? Như vậy tôi mới thực yên tâm. Nhưng tôi không tiện mở miệng hỏi như vậy.

Vô Kỵ cảm động vô cùng liền đáp:

– Bác vì cha và nghĩa phụ đã thiêu hủy gia tài và sự nghiệp trị giá trên trăm vạn và người bác lại bị thương nặng như vậy, chẳng lẽ cháu không tin hay sao? Nên tình hình của nghĩa phụ ra sao, bác không cần hỏi cháu cũng sẽ nói cho bác hay.

Thế rồi y đem chuyện cha mẹ y với Tạ Tốn, phiêu lưu trên Băng hỏa đảo, ở luôn trên đảo đó mười năm ra sao, rồi ba người làm bè để quay trở về như thế nào, đều kể rõ cho Trường Linh nghe hết. Tất nhiên câu chuyện đó, là do cha mẹ y kể lại cho y biết, nhưng y nói ra vẫn linh động và rõ ràng vô cùng.

Trường Linh đã trải qua bao nhiêu hoạn nạn, nên làm việc gì cũng hết sức thận trọng, y nghe Vô Kỵ kể rõ câu chuyện, nhận thấy không sai một ly một tí nào, mới ngửng lên trời, thở nhẹ một tiếng, rồi lẩm bẩm nói:

– Ân nhân trên trời linh thiêng, xin minh giám cho Chu Trường Linh tôi ngày nay vẫn chưa chết, thế nào cũng tận hết năng lực của tôi nuôi dưỡng chú em Vô Kỵ nên người, nhưng lúc cường địch đang theo dõi, mà võ nghệ của tôi lại non kém, mong ân nhân phù hộ chúng tôi được bình yên vô sự.

Nói xong y quỳ xuống vái lại.

Vô Kỵ vừa đau lòng vừa cảm động cũng quỳ xuống vái theo.

Trường Linh đứng dậy nói:

– Bây giờ trong lòng tôi không còn nghi ngờ gì nữa Côn Luân, Không động, Thiếu lâm, Nga mi, những phái đó phái nào cũng nhiều người thế mạnh.

Hồi thứ 39

Vàng Ở Trong Dầu

Vô Kỵ đáp:

– Gian mưu của các bác đã bị tôi biết hêt, những mưu kế đó vô dụng rồi. Dù bác có bắt ép tôi đi Băng Hỏa đảo thì tôi cứ chỉ đông, nam, tây, bắc bừa đi để cho mọi người cùng chết cả, bác tưởng tôi không dám làm thế sao?

Trường Linh nghĩ thầm:

– Y nói cũng phải, bây giờ ta không nên giở mặt với y vội, hãy bảo con gái ta nghĩ cách khác đối phó.

Nghĩ đoạn y liền dùng sức đơn điền lớn tiếng nói vọng lên:

– Chúng ta ở đây bình yên cả, các người ở trên đó cứ yên tâm.

Tiếng nói của Trừng Linh làm chấn động sơn cốc và chỉ nghe xung quanh có tiếng vang dội trở lại:

– Các người cứ yên tâm.. các người cứ yên tâm.. .

Trường Linh sực nghĩ ra một điều:

– Ối chà, nguy tai. Ta không nên kêu gọi như vậy, nhỡ những tuyết hai bên sườn núi lở xuống thì sao?

Quả nhiên hai bên vách núi đã có tuyết lác đác rơi xuống.

Cũng may vì vách núi thẳng tắp không có tuyết nhiều mấy nên chưa gây nên tuyết băng, tuy vậy Trường Linh cũng không dám kêu gọi tiếp.

Y đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh để xem địa thế, y thấy vách núi quá dốc không thể nào leo lên được nữa, mà bên dưới thì sâu không đáy. Dù xuống tới đáy thung lũng chắc cũng không có lối ra.

Y nhận thấy chỉ có cách duy nhất là men theo sườn núi bò lên, nên y liền nói với Vô Kỵ rằng:

– Chú em chớ có nghi ngờ vớ vẫn làm chi. Nói tóm lại tôi không bao giờ bắt chú em đưa đi tìm Tạ Tốn làm chi. Nếu quả thật có việc ấy thì tôi, họ Chu đây, sẽ bị muôn vạn mũi tên bắn chết và sau khí chết sẽ không có đất chôn.

Y thề nặng như vậy không phải là nói dối Vô Kỵ đâu, vì sự thật y biết có bắt ép Vô Kỵ cũng vô ích, đành chỉ có dùng kế dụ dỗ cho thằng nhỏ tự bằng lòng dẫn mình đi mới hy vọng.

Vô Kỵ thấy Trường Linh thề nặng như vậy mới hơi khoan tâm.

Trường Linh lại nói tiếp:

– Chúng ta cứ từ từ bò lên, chú đừng có nhảy xuống nữa nghe chưa?

Vô Kỵ đáp:

– Nếu bác không bắt ép tôi thì tôi tự tự làm chi?

Trường Linh gật đầu, lấy dao găm lột vỏ cây thành một sợi dây thừng, một đầu cột vào lưng mình.

Hai người cứ theo sườn núi từ từ leo lên.

Leo như vậy liệu có thoát hiểm không, chính Trường Linh cũng không sao biết được, nhưng chỉ thấy một cách là cứ thấy lối đi cứ việc leo lên thôi.

Vách núi rất dốc lại thêm tuyết phủ càng trơn tuột thêm, đã có hai lần Vô Kỵ trượt chân suýt té nhưng nhờ có Trường Linh giữ lại nên không việc gì.

Vô Kỵ không cám ơn Trường Linh chút nào, trong lòng còn nghĩ thầm:

– Ngươi chỉ biết lấy được con đao Ðồ Long chớ đâu có thực tâm cứu ta?

Hai người bò hàng nửa ngày, tay chân đầu gối đều bị sướt rỉ cả máu ra mà vẫn không bò đi được bao xa vì sườn núi quá dốc.

Trường Linh trong lòng kêu khổ thầm vì hai người vừa bò tới một chỗ núi bằng rộng chừng mấy trăm trượng, ba mặt là trời, một mặt là núi cao chót vót. Lúc này lên không được, xuống cũng không xong, nơi đây cây cối cũng không có, dã thú cũng không, lấy gì mà ăn? nơi đây chắc chết đói mất.

Thấy Trường Linh rầu rĩ, Vô Kỵ lại mừng rỡ vô cùng, vừa cười vừa nói:

– Bác Trường Linh, bác dùng bao mưu kế và hy sinh bao tiền bạc mà kết quả đi tới trên bàn đá này, bây giờ dù bác có được con đao Ðồ Long chăng nữa, liệu bác có làm gì được không?

Trường Linh quát mắng:

– Chú đừng có nói bậy nói bạ nữa.

Ăn hai nắm tuyết rồi vận khí, nghỉ ngơi trong giây lát, trong lòng Trường Linh nghĩ thầm:

– Tuy lúc này ta mỏi mệt thật, nhưng tinh lực ta vẫn còn, nếu ở đây có đói thêm một ngày nữa cũng chưa chắc đã nghĩ ra được cách thoát khỏi chốn nguy hiểm này .

Nghĩ đoạn y bèn đứng dậy nói tiếp:

– Nơi đây không có lối đi, chi bằng ta quay về lối cũ để tìm lối thoát vậy!

Vô Kỵ đáp:

– Chúng ta cứ ở đây chơi có hơn không? Hà tất phải quay về làm chi?

Trường Linh nghe Vô Kỵ nói như vậy càng tức giận thêm, nhưng y biết nếu còn dồn ép nữa thì thằng nhỏ thế nào cũng nhảy xuống vực sâu liền nên y đành phải dịu giọng mà khuyên bảo Vô Kỵ rằng:

– Thôi được, chú em hãy ở đây nghỉ ngơi một lát để tôi tìm đường thoát rồi quay trở lại rước chú em sau. Chú đừng có đi ra ngoài mép núi nhỡ lỡ chân ngã xuống thì nguy hiểm lắm đấy!

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

– Tôi sống hay chết không dám làm phiền bác lo tới. Lúc này bác còn mơ mộng tôi sẽ dẫn bác đi Băng Hoa đảo nữa hay sao. Xin bác hãy dẹp ý nghĩ đó đi!

Trường Linh không trả lời, quay trở lại con đờng cũ, đi tới cạnh cây thông lớn mà hồi nãy y nhờ nó mà thoát hiểm. Y ngó về phía bên trái thấy đờng lên lại càng hung hiểm.

Một mình y đi không phải vướng víu tất nhiên phải nhanh hơn.

Vừa bò đi được nửa tiếng đồng hồ y đã tới một sườn núi. y thấy đằng trước không còn lối đi nữa.

Y thở dài đứng ngẩn người ra một hồi, chán nản vô cùng rồi quay trở lại chỗ cũ.

Vô Kỵ thấy mặt y rầu rĩ như vậy không cần hỏi cũng biết phía trước cũng không còn lối thoát rồi.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Trong người ta có âm hàn cực độc, chữa mãi cũng không khỏi, đếm đốt ngón tay thì ngày hôm nay số mạng của ta cũng sắp kết thúc đến nơi, dù có chết ở đây hay đâu cũng vậy mà thôi. Nhưng bác họ Chu này có phúc không chịu hưởng chỉ vì tham tâm mà đến nỗi theo ta đến chỉn trên trời dưới tuyết này thật là đáng thương hại thôi .

Lúc đầu y rất ghét Trường Linh vì thấy Trường Linh dùng gian kế đánh lừa y cho nên y định sau khi thoát hiểm sẽ chế nhạo Trường Linh vài câu cho bõ tức.

Nhưng bây giờ y thấy không có lối thoát nữa mà Trường Linh thì rầu rĩ nản chí vô cùng nên y đã quên hết sự tức giận hỗi nãy, trái lại còn thương hại Trường Linh nữa là khác.

Y liền dịu giọng khuyên bảo Trường Linh rằng:

– Bác Trường Linh, tuổi bác như vậy cũng đã được hưởng các thứ vinh hoa phú quý rồi, lúc này dù bác có phải rời bỏ chốn trần tục này chăng nữa cũng không lấy gì làm ân hận cho lắm, hà tất bác phải rầu rĩ nh thế làm chi?

Sở dĩ Trường Linh vẫn chịu nhường nhịn Vô Kỵ là vì y vẫn còn mong dụ dỗ được thằng nhỏ đưa mình đi Băng Hoa đảo.

Bây giờ y thấy không còn hy vọng sống sót nên nghĩ thầm:

– Sở dĩ ta bị sa chân xuống chỗ tuyệt vọng này hoàn toàn vì thằng nhỏ này mà nên hết .

Y càng nghĩ càng tức giận vô cùng, hai mắt hầu như đổ lửa, giận dữ nhìn thẳng vào mặt Vô Kỵ.

Xưa nay Vô Kỵ thấy mặt Trường Linh lúc nào cũng hiền từ, nay đột nhiên thấy mặt y bỗng nhiên biến thành hung ác không khác gì dã thú, y sợ hãi vô cùng, vừa kinh hãi vừa kêu la đứng dậy quay đầu ù té chạy.

Trường Linh vừa đuổi theo vừa quát lớn:

– Làm gì có đường mà mi hòng tẩu thoát!

Y vừa quát vừa giơ tay ra đình chộp Vô Kỵ, quyết tâm dày vò Vô Kỵ một hồi cho dể cho thằng nhỏ sống dở chết dở chịu đựng đau đớn rồi mới ra tay giết chết sau.

Vô Kỵ vừa lướt về phía trước một bước bỗng thấy thấy vách núi bên trái hình như có một cái hang tối om, y không hề nghĩ ngợi chút nào, liền đâm đầu chui vào cái hang đó tức thì.

Chỉ nghe “xoẹt” một tiếng ống quần của Vô Kỵ đã bị Trường Linh chộp phải và xé rách.

Ðùi của thằng nhỏ cũng bị cào xước một miếng thật lớn.

Vô Kỵ cứ thí màng mà bò vào bên trong đồng thời tay trái y dùng thế Thần Long Bái Vĩ đánh ra một chưởng.

Tuy võ công của Trường Linh cao siêu hơn Vô Kỵ nhiều nhưng y cũng phải kiêng nể thế Thần Long Bái Vĩ này mà không dám đuổi sát thằng nhỏ.

Tuy vậy y vẫn khom mình bò vào đuổi theo.

Vô Kỵ cứ cắm đầu bò thẳng vào bên trong, bỗng nghe “bộp” một tiếng, trán của y đã va phải một mỏm đá.

Y thấy mắt nỏ đom đóm, đau đến tận tim, nhưng y biết lúc này Trường Linh đã giở mặt thì thế nào y cũng dùng thủ đoạn độc ác dể đối phó với mình.

Tuy y không sợ chết thật nhưng nếu bị Trường Linh giở thủ đoạn hạ độc thủ đánh gãy chân, gãy tay, vỡ sọ ra chết dần chết mòn thì y chịu sao nổi.

Vì vậy y cứ nhịn đau mà chui thẳng vào, chỉ mong thoát thân khỏi bàn tay độc của Trường Linh thôi.

Cũng may hang đá đó càng vào bên trong càng nhỏ lại.

Bò vào được mấy trượng Vô Kỵ thấy bên trong chỉ mình có thể chui lọt thôi.

Y biết Trường Linh to béo như thế không thể nào chui thêm vào được nữa nên mới bớt lo.

Y lại bò vào sâu thêm mấy trượng nữa, thấy đằng trước có ánh sáng, trong lòng mừng rỡ vô cùng lại càng cố sức bò nhanh hơn.

Trường Linh thấy hang quá nhỏ, không thể nào chui thêm được vừa lo vừa tức giận.

Y lớn tiếng kêu gọi:

– Chú em, đừng bò vào nữa! Tôi không đánh đập chú đâu!

Vô Kỵ khi nào chịu nghe lời y, vẫn cứ tiếp tục bò vào bên trong.

Trường Linh liền vận sức vào bàn tay đánh mạnh vào vách đá.

Ngờ đâu đá trong hang đá đó rắn vô cùng, y chỉ thấy bàn tay đau nhức nhối chứ không thấy vách đá suy suyển chút nào.

Y liền lấy con dao găm trong túi ra định đục rộng hang núi để chui vào đuổi bắt bằng được Vô Kỵ. Nhưng y chỉ đục được vài cái thì con dao đã gãy làm đôi liền còn vách núi chỉ có mấy vết sạt nhỏ thôi.

Y lại càng nổi giận thêm, liền vận sức vào hai vai rồi chui mạnh vào bên trong.

Quả nhiên người y chui sâu thêm được hơn thước nhưng y muốn tiếp tục chui thêm vào thì không thể nào chui thêm được nữa.

Không những y không thể chui vào được mà y cũng không ngờ vách đá lại đè chặt lấy ngực và lưng không sao thở được.

Trường Linh cảm thấy muốn tắt thở, khó chịu, muốn lùi trở ra nhưng người y đã bị kẹp chặt trong vách đá.

Lúc này y muốn tiến cũng không được mà thoát cũng không xong, sợ hãi đến mất vía.

Y dùng hết sức bình sinh đẩy mạnh vào vách đá, nhờ vậy mới lui ra được một chút.

Y thấy ngực đau rát vô cùng và xương sườn cũng đã bị gãy mất một cái rồi.

Lại nói Vô Kỵ bò thêm mấy trượng nữa thấy phía trước càng ngày càng sáng thêm.

Y bò thêm một quãng nữa đột nhiên thấy ánh sáng mặt trời chiếu lòa mắt.

Y nhắm mắt lại định thần giây lát rồi mới mở mắt ra nhìn, mới hay trước mặt là một thung lung mọc đủ các loại hoa muôn mầu muôn vẻ.

Y lớn tiếng hoan hô rồi chui ra khỏi hang đá.

Cửa hang đá đó cách mặt đất chừng hơn trượng, y chỉ khẽ nhảy một cái đã xuống tói mặt đất liền.

Y thấy dưới chân là những ngọn cỏ nhỏ, êm dịu vô cùng.

Mũi y thấy những mùi hoa thơm ngào ngạt, tai lại nghe thấy tiếng muôn chim đua hót, xung quanh trên cây nào cũng có đầy trái chín treo lủng lẳng.

Y thật không ngờ chui vào cái hang đá tối tăm mà lại tới được một nơi đầy hoa thơm, cỏ lạ, đẹp không khác gì động tiên như thế này.

Lúc ấy Vô Kỵ quên cả đau đớn, rảo bước chạy thẳng về phía trước.

Y chạy được hơn hai dăm đường mới thấy một tòa núi cao ngăn lối đi.

Thì ra thung lung xanh biếc này được bao vây bởi những ngọn núi cao chót vót, hình như từ thời Bành tổ tới giờ chưa có bước chân người tới đây vậy.

Những ngọn núi này vừa cao vừa dốc, thật người thờng không thể tới được.

Vô Kỵ mừng rỡ vô cùng, thấy trên mặt đất có bẩy tám con dê đang ăn cỏ.

Chúng trông thấy Vô Kỵ đi tới cũng không sợ hãi chỉn chạy tờ nào.

Y lại thấy trên cây cạnh đó có mười mấy con khỉ đang nhảy nhót chơi đùa một cách bạo dạn vô cùng.

Y đoán những loài thú dữ như hổ báo không thể nào vượt được núi cao như thế này để vào trong thung lung nên lũ dê rừng và khỉ kia mới bạo dạn như thế.

Y liền nghĩ thầm:

– Trời xanh tử tế với ta thật, xếp đặt cho ta được vào trong tiên cảnh này như vậy dù ta có chôn thân nơi đây cũng được mãn nguyện lắm rồi .

Nghĩ đoạn, y từ từ quay lại chỗ cửa hang thì nghe thấy Trường Linh ở bên trong nói vọng ra:

– Chú em Vô Kỵ ơi chú đã ra được ngoài đó rồi, chú đành để tôi một mình ở trong hang đá này sao? Chú không sợ tôi chết đói luôn ở đây hay sao?

Vô Kỵ lớn tiếng cả cười đáp:

– Ở đây thú lắm bác Trường Linh ạ!

Rồi y hái trái cây lạ để ăn.

Y chưa đưa tới mồm đã có một mùi thơm ngọt bay lên tận mũi rồi.

Trái cây đó ngon và còn giòn hơn đào, thơm hơn táo, mềm hơn lên.

Y ném một trái vào trong hang, mồm lớn tiếng nói:

– Bác Trường Linh, hãy nhặt lấy mà ăn đi!

Trái cây đó va vào hai bên vách đá, khi lăn tới trước mặt Trường Linh thì đã bị dập nát hết cả rồi nhưng Trường Linh vẫn nhặt lấy, ăn cả vỏ lẫn hột.

Ngờ đâu, ăn xong trái cây đó y càng thấy đói tợn liền lớn tiếng kêu gọi:

– Chú em ơi, hãy cho tôi thêm vài quả nữa đi!

Vô Kỵ đáp:

– Bụng bác xấu như vậy có chết đói cũng đáng lắm, nếu muốn ăn nữa thì cứ ra đây mà hái lấy!

Trường Linh vội trả lời:

– Người tôi to quá, không sao chui lọt qua cái hang này được.

– Bác hãy cắt đôi người thì chui ra được ngay.

Trường Linh nghe thấy Vô Kỵ nói như vậy liền nghĩ thầm:

– Mưu cơ của ta đã bại lộ, thế nào Vô Kỵ nó cũng bỏ mặc ta, để ta chết đói dần nó mới trả được mối thù ta đã lừa dối nó .

Nghĩ vậy y liền không thèm van lơn nữa mà lại lớn tiếng mắng chửi:

– Tên tiểu quỉ kia, dù trong động ấy có trái cây để cho mi ăn thật nhưng liệu có đủ cho mi ăn suốt đời không? Ta ở nơi đây tuy bị đói mà chết nhưng mi có hơn gì ta đâu, rồi mi cũng sẽ bị chết đói như ta vậy.

Vô Kỵ tha hồ cho Trường Linh mắng chửi.

Y ăn hơn mười trái cây lạ thấy bụng đã no liền nằm dài trên thảm cỏ nghỉ ngơi.

Một lát sau y thấy trong động có một làn khói tỏa ra.

Y ngạc nhiên vô cùng nhưng liền hiểu ngay.

Thì ra Trường Linh đã lấy cành cây khô đốt cháy đình dùng khói hun cho Vô Kỵ chết ngạt.

Nhưng y đâu có biết trong hang lại thông ra một thung lũng tiên.

Như vậy dù y có đốt nghìn vạn gánh củi cũng chả làm gì nổi Vô Kỵ, huống hồ y chỉ đốt có một đống cành cây nhỏ nhỏ thôi.

Vô Kỵ thấy vậy buồn cười vô cùng liền giả ví bị ngạt ho một hồi, làm như bị ngạt thở vậy. Trường Linh thấy vậy liền lớn tiếng nói:

– Chú em mau ra đây, tôi xin thề không giết hại chú đâu!

Vô Kỵ lại lớn tiếng kêu: “ối chà..” rồi giả như chết giấc, giây lát sau y liền bỏ đi nơi khác không thèm đếm xỉa tới Trường Linh nữa.

Vô Kỵ đi được hơn hai dặm, thấy trên vách núi có nớc tuyết tan chảy xuống thành một cái thác. Dưới ánh sáng mặt trời trông như một con rồng ngọc lớn, thật là tráng lệ. Nước thác ấy chảy xuống một cái đầm xanh biếc.

Không hiểu tại sao nước chảy xuống rất nhiều mà cái đầm ấy vẫn không sao đầy nổi.

Vô Kỵ đứng ngắm cảnh tiên ấy một hồi rồi y cúi xuống thấy chân tay mình mẩy bị bùn đất dính đầy, bẩn thỉu vô cùng do lúc chui qua hang núi mà nên.

Vô Kỵ liền cởi giầy vớ ra, thò chân xuống đầm đình rửa.

Ngờ đâu y vừa thò chân xuống nước vội kêu “ối” một tiếng rồi nhảy bắn lên liền.

Thì ra nước ở trong đầm đó lạnh như đá, chân y vừa nhúng vào đã đau nhức hơn nhúng vào nước sôi.

Y vội giơ bàn chân lên xem thấy da thịt đã đỏ hồng và sưng vù lên.

Nếu ngâm lâu chút nữa thì chân của y sẽ bị nứt da cũng nên. Y thè lưỡi lẩm bẩm nói:

– Lạ thực! Lạ thực…

Y sinh trưởng ở Băng Hoa đảo, những nước băng tuyết lạnh đến thế nào cũng đã dùng rồi, nhưng chưa hề thấy lạnh như nước trong đầm này bao giờ.

Còn một điều lạ hơn nữa, tuy nước trong đầm lạnh như vậy mà tại sao lại không bị đóng băng?

Y biết trong nước ở đây chắc có chất gì lạ nên lui ra xa hai bước.

Bỗng nghe mấy tiếng “ộp ộp” liền có ba con nhái cực lớn, mình đỏ như máu từ trong đầm nhảy ra.

Thân mình những con nhái này to gấp bốn năm lần những con nhái thường.

Chúng vừa lên khỏi mặt nước, từ người chúng liền có một luồng hơi, tựa như băng tuyết bốc lên.

Vô Kỵ thấy những con nhái đó kỳ dở như vậy, lòng hiếu kỳ thúc đẩy liền tiến lên định bắt lấy một con đểnh chơi.

Y rón rén bước tới, nhanh tay vồ luôn một con.

Tay của y vừa đè trúng con nhái đó đã thấy một luồng hơi ấm áp truyền qua cánh tay chạy thẳng vào trong người y.

Ngờ đâu con nhái đó rất hung ác, dùng sức duỗi mạnh một cái đã thoát khỏi bàn tay của Vô Kỵ rồi quay lại cắn chặt lấy tay Vô Kỵ không chịu nhả.

Vô Kỵ cả kinh vội dùng tay trái lôi kéo.

Không ngờ răng con nhai đó vô cùng sắc bén, bám chắc vào thịt của y nên y kéo mãi mà không sao gỡ nó ra được.

Y sợ kéo mạnh thì cả một miếng thịt ở cánh tay sẽ bị con nhái dứt đứt ra.

Ðang lúc Vô Kỵ không biết sử trí ra sao thì hai con nhái kia nhanh như điện chớp đã nhảy lại cắn luôn vào hai chân y.

Y kinh hoảng vô cùng, dồn sức vào năm ngón tay trái, bóp mạnh bụng con nhái đỏ đang cắn tay minh.

Y bỗng thấy bàn tay nóng hổi và dính đầy máu tươi.

Lúc này y mới biết những con nhái này chuyên hút máu những sinh vật khác để sống cho nên người chúng mới đỏ như máu và chúng mới có thể sống được trong đầm nước giá lạnh kia.

Y lại lấy chân lần lượt dẫm chết hai con khác rồi mới từ từ kéo răng chúng ra khỏi người.

Y thấy những vết răng của ba con nhái vẫn còn in sâu vào thịt mình nên trong lòng vừa sợ hãi vừa tức giận vô cùng.

Y chỉ ba con nhái chết mắng chửi:

– Nhái kia! Mi dám hà hiếp ta phải không? Chó dữ đã cắn ta, cả mi, một con nhái nhỏ như vậy mà cũng cắn ta nữa sao? Ðằng nào ta cũng đang đói, để ta ăn thịt các ngươi xem các người còn bắt nạt được ta nữa hay không?

Y trông thấy ba con nhái đỏ béo mập nghĩ rằng thịt chúng chắc phải ngon lắm liền nhặt ít cành cây khô, rồi móc túi lấy đá lửa ra để nhóm nướng ba con nhái ấy. Nướng được một lát mùi thơm đã bốc lên ngào ngạt.

Vô Kỵ biết thịt nhái đã chín, không cần nghĩ xem chúng có độc hay không, xé ngay một cái dùi, đưa lên mồm nhai ngấu nghiến.

Y thấy thịt những con nhái đó ngon lạ thường.

Y cảm thấy không có thứ thịt nào thơm ngon cho bằng nên chỉ trong nháy mắt y đã ăn hết cả ba con.

Nửa tiếng đồng hồ sau, Vô Kỵ thấy trong người nóng ran như lửa thiêu.

Hơi nóng từ trong bụng phát ra, chạy rần rật lan ra khắp tứ chi.

Rồi y cảm thấy dễ chịu vô cùng, tựa như đang được ngâm mình trong bồn nước ấm vậy. Hóa ra loại nhái đỏ này là giống vật kỳ lạ nhất trên thế gian này. Chúng sinh sống ở những nơi vô cùng giá lạnh, nhưng lại chí dương, bằng không làm sao chúng sống được ở những nơi lạnh như thế.

Nếu là người thường chỉ ăn một con, cũng đổ máu mồm, tai, mũi ra mà chết ngay tức thì. Nhưng may thay cho Vô Kỵ bị Huyền Minh Thần Chưởng đánh trúng, trong người tích tụ rất nhiều âm độc nên thành ra dĩ độc trị độc. Chất nhiệt độc của thịt nhái thì tiêu tan hết còn hơi hàn độc trong người y cũng giảm bớt rất nhiều.

Ngẫu nhiên gặp may như vậy Vô Kỵ vẫn không rõ nguyên ủy, chỉ thấy mình mẩy mỏi mệt, hai mắt buồn ngủ thôi.

Nhưng y sợ trong lúc ngủ say, những con nhái khác từ trong đầm nhảy ra hút máu mình nên gắng gượng thức tỉnh đi rời xa cái đầm ấy.

Nhưng y chỉ đi được một dặm thì không còn cố nổi nữa liền nằm lăn ra bãi cỏ, nhắm mắt ngủ ngay.

Ðến lúc Vô Kỵ thức tỉnh y đã thấy mặt trăng ở trên đỉnh đầu rồi.

Y biết lúc này đã nửa đêm, cảm thấy trong bụng vẫn còn hơi nóng cho nên biết loài nhái đỏ rất bổ cho y.

Vừa rồi y ngủ được một giấc khá lâu, trong người tâm thận tương giao, thủy hỏa tương tế khiến tinh thần y sang khoái vô cùng.

Y giơ chân, duỗi tay thây sức lực của mình dồi dào hơn trước rất nhiều liền ngồi xuống để vận khí.

Y muốn dồn hơi nóng đó chạy khắp người qua các kinh mạch thử xem nhưg y chỉ thử được giây lát đã thấy mặt mũi tối tăm, đầu óc choáng váng, mồm buồn nôn đành ngừng vận khí, thở dài một tiếng rồi tự nói:

– Ta tưởng đã may mắn ăn được những con nhái chí dương đó là ta có thể vận hơi nóng đó qua kinh mạch để chữa khí lạnh trong người. Nhưng âm độc của Huyền Minh Thần Chưởng độc như thế ta làm sao mà chữa được!

Cũng may y đã coi thường việc đó rồi nên cũng không thất vọng cho lắm.

Ðến trưa ngày hôm sau, y cảm thấy đói liền bẻ một cành cây khá dài, thọc vào trong đầm nước.

Khuấy vài cái đã thấy có ba bôn con nhái đỏ cắn dính vào cành cây liền.

Vô Kỵ liền lấy đá đập chết mấy con nhái đó rồi nhúm lửa lên nướng, trong lòng nghĩ thầm:

– Nhất thời ta chưa thể chết được thì cũng phải giữ lại một chút lửa mồi .

Nghĩ đoạn y liền lấy ít tro phủ lên đống than đủ để cho lửa khỏi tắt.

Y nghĩ đến Trường Linh, có lẽ lúc này đói lắm, thương hại liền hái mấy trái cây ném cho Trường Linh.

Mấy ngày hôm sau, Vô Kỵ đang mải đắp một cái lò thì bỗng nghe thấy có tiếng kêu của một con khỉ. Tiếng kêu có vẻ đau đớn lắm.

Y lần theo tiếng kêu đó, chạy tới cạnh đầm nước thấy một con khỉ nhỏ đang kêu la nhảy nhót.

Thì ra lưng nó đã bị ba con nhái đỏ cán chặt và đang hút máu.

Trong đầm lại còn có hai con nhái nữa đang định nhảy ra cắn theo.

Vô Kỵ phi thân chạy tới, tay phải nắm lấy con khỉ xách ra cách đầm nước thật xa rồi đập chết ba con nhái đỏ.

Y thấy ngón và cổ tay phải của con khỉ đã bị một con nhái cắn đứt.

Con khỉ đau đớn kêu “chít chít” liên tục.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Ta ở nơi đây một thân một mình không có bạn buồn tẻ vô cùng. Bây giờ có con khỉ này làm bạn cũng được khuây khỏa phần nào đây

.

Nghĩ đoạn y liền bẻ hai cành cây, ghép vào cổ tay và kiếm ít thuốc sống, nhai nát đắp vào vết thương cho con thú.

Tuy nhiên trong thung lũng này muốn kiếm đủ các vị thuốc cũng rất khó khăn.

Mấy vị thuốc mà Vô Kỵ đã kiếm được chưa chắc đã được linh hiệu cho lắm nhng nhờ y băng bó và nối xương rất khéo léo nên chỉ sáu bẩy hôm sau vết thương của con khỉ đã lành lặn rồi.

Con khỉ biết ơn y, ngay ngày hôm sau liền hái rất nhiều trái cây tươi đem đến cho y.

Có lẽ no còn cho những con khác hay nên vài ngày sau Vô Kỵ đã trở thành thầy lang của đa số khỉ và vượn nơi đây.

Vượn khỉ bị bệnh cũng tương tự như người vậy.

Chúng có mụn nhọt thì Vô Kỵ rịt thuốc hút mủ, khi chúng bị ngã thì Vô Kỵ dùng thuốc chỉ huyệt và băng bó cho.

Tuy hơi bận rộn nhưng Vô Kỵ rất thích thú nghĩ thầm:

– Ta học được y thuật chữa cho người thật không bằng chữa cho thú vật vì ít nhất loài thú không biết phản trắc, trái lại chúng còn biết ơn, đem thức ăn đến cho ta nữa .

Vô Kỵ sống cuộc đời như vậy được hơn một tháng, ngày nào cũng nướng nhái đỏ ăn nên chất kịch độc trong người đã giảm dần.

Hôm đó trời mới sáng tinh sương, y vân còn chưa thức giấc bỗng thấy có một bàn tay lưới rờ vào mặt.

Y giật mình thức tỉnh trợn mắt ra nhìn thấy có một con vượn trắng to gần bằng người ngồi ở bên cạnh, tay ẳm con khỉ nhỏ.

Con khỉ đó chính là con khỉ bị nhái cắn đã được Vô Kỵ chữa khỏi.

Con khỉ nhỏ luôn mồm kêu chít chít chỉ tay vào bụng con vượn trắng.

Vô Kỵ đã ngửi thấy mùi hôi thối thấy trên bụng con vượn trắng có đầy máu mủ chảy ra.

Y thấy bụng con thú đó có một cái nhọt rất lớn liền vừa cười vừa nói:

– Ðược! Ðược, khỉ con, thì ra mày lại đem bệnh nhân đến đây cho ta xem mạch phải không?

Con vượn trắng liền chìa tay ra, trong lòng bàn tay nó có một trái bàn đào to bằng quả bưởi, cung kính đưa cho Vô Kỵ.

Vô Kỵ chưa hề thấy trái bàn đào nào lại to như thế nghĩ thầm:

– Hồi xưa, lúc mẹ ta còn sống có kể chuyện cho ta nghe ở dãy núi Côn Luân có một nữ tiên gọi là Vương Mẫu chuyên trồng đào, bầy tiệc đào tiên cho quần tiên tới dự. Tuy chuyện đó không phải là chuyện thật nhưng trên núi Côn Luân là nơi xuất sứ của bàn đào thì quả đúng là sự thật .

Nghĩ đoạn y vừa cười vừa nói tiếp:

– Ta không thu tiền chữa bệnh, dù không có trái đào tiên này thì ta vẫn chữa cho mi như thường.

Nói xong, y rờ tay vào bụng con vượn trắng, khẽ nắn bóp mấy cái, liền giật mình kinh hãi.

Thì ra cái mụn nhọt ở trên bụng con vượn trắng to bằng cái đấu, sờ tay vào thấy nó cứng vô cùng.

Vô Kỵ đã đọc rất nhiều sách thuốc nhưng chưa thấy có cuốn nào nói tới loại mụn to như thế này bao giờ.

Y nhận thấy nếu cái mụn đó mà hóa mủ thì sợ không còn có thể nào mà chữa cho nổi.

Y lại thăm mạch cho con vượn thấy mạch của nó không lấy gì làm nguy hiểm cho lắm.

Y gạt lông con thú sang hai bên để tìm kiếm miệng cái mụn.

Y càng ngạc nhiên và kinh hãi thêm khi thấy cái mụn đó vuông chằn chặn như miệng một cái hộp.

Bốn bề lại có những đường chỉ khâu.

Như vậy hiển nhiên là đã có tay người nhúng vào chứ không sai.

Con vượn này tuy khôn ngoan thật nhưng nó cũng không thể nào tự khâu cho mình như vậy được.

Vô Kỵ xem xét kỹ cái mụn mới biết là do trong mụn có chứa một vật.

Chính vật gồ lên ấy làm lâm nguy huyết mạch khiến chúng không lưu thông đều được, khiến cho trong bụng con vượn cứ thối mãi không khỏi.

Vậy muốn chữa cái nhọt này thì phải lấy vật được khâu vào trong bụng con thú ra mới mong chữa được.

Nói đến dùng dao mổ cắt những vết thương hay mụn nhọt thì Vô Kỵ đã được Hồ Thanh Ngưu truyền dạy rồi.

Y muốn mổ bụng con thú ra để lấy vật được díu trong bụng nó nhưng không nỗi lúc ấy y không có dao và cũng không có đủ thuốc nên không sao mổ cho con thú được.

Ngẫm nghĩ giây lát y liền lượm một hòn đá nhọn, mài cho thật sắc, dùng làm dao mổ bụng cho con vượn.

Con vượn đó đã già lắm và rất tinh khôn.

Nó biết Vô Kỵ sẽ chữa bệnh cho nó nên tuy bụng đau nhức nhưng nó cúng cố chịu đựng không dẫy dụa chút nào.

Vô Kỵ cắt hai đường chỉ bên phải và phía trên ra rồi lật da bụng con vượn lên xem.

Y thấy trong bụng con vượn có một cái bọc vải dầu, y càng ngạc nhiên vô cùng nhưng chưa mở cái bọc đó ra vội, để sang một bên trước rồi lại lo khâu bụng con vật lại. Không có kim chỉ y phải lấy răng con nhái đỏ làm kim. lấy sợi vỏ cây làm chỉ.

Y dùng răng con nhái đỏ xuyên thủng lỗ, luồn sợi vỏ cây vào rồi thắt nút ngay lại.

Miễn cừơng lắm y mới khâu được lại cái bụng con thú.

Vì vậy y phải mất nửa ngày mới làm xong.

Con vượn tuy rất khỏe nhưng lúc này nó cũng đau đến nỗi nằm yên không cử động chút nào.

Vô Kỵ đem cái bọc vải dầu đi ra đầm nước rửa sạch máu rồi mở ra xem.

Thì ra trong cái bọc vải đó có ba cuốn kinh thư mong mỏng.

Nhờ có tấm vải dầu bọc kỹ nên để trong bụng bấy nhiêu lâu mà vẫn không hề suy suyển chút nào.

Trên bìa sách có viết mấy chữ hình dáng cong queo nên Vô Kỵ không hiểu đo là những chữ gì.

Y vội mở những cuốn kinh đó ra xem, thấy bên trong đều là văn tự quái dị, nhưng mỗi hàng chữ đó đều được chú thích bằng một hàng chữ hán nho nhỏ.

Vô Kỵ định thần xem mấy trang đầu mới hay những dòng chữ đó đều dùng để dạy người ta luyện khí công.

Y từ từ đọc, đột nhiên trống ngực đập mạnh vì trong đó có hai hàng chữ mà hình như y đã được đọc ở đâu rồi.

Y cố nhớ lại mãi mới nhớ ra được lào Thiếu Lâm Cửu Dương Công mà mình đã học được ở Thiếu Lâm Tự.

Nhưng khi y tiếp tục đọc thì ở bên dưới lại không giống.

Y thuận tay giở mấy trang sau ra xem lại thấy có mấy dòng kinh hoảng văn rất quen thuộc.

Y nhận ngay ra đó chính là Võ Ðang Nội Công Tâm Pháp mà cha y đã truyền cho y hồi hãy còn nhỏ.

Y vội đóng cuốn kinh hoảng thư đó lại suy nghĩ:

– Kinh thư này là kinh hoảng thư gì mà trong lại có cả Thiếu Lâm Cửu Dương Công và Võ Ðang Nội Công Tâm Pháp như thế ?

Nghĩ tới đó y sực nhớ ra lúc Trương Tam Phong thái sư phụ dắt y lên chùa Thiếu Lâm chữa bệnh có kể cho y nghe một câu chuyện như sau:

– Sư phụ của thái sư phụ là Giác Viễn đại sư, học được Cửu Dương Chân Kinh, trước khi viên tịch có đọc lại kinh văn của cuốn chân kinh đó. Lúc ấy có thái sư phụ y cùng với Quách Tường nữ hiệp và Vô Sắc Ðại sư của Thiếu Lâm Tự. Ba người đứng cạnh đó lắng nghe, mỗi người ghi nhớ được một phần vì thế võ công của Võ Ðang, Nga Mi và Thiếu Lâm ba phái tiến bộ rất nhiều. gần trăm năm nay ba phái được nổi danh trên võ lâm là thế. Chẳng lẽ đây lại là bọ Cửu Dương Chân Kinh đã bị người ta lấy trộm đi chăng?

Phải, thái sư phụ ta nói: Cửu Dương Chân Kinh giết hại chú ở trong một cuốn kinh tên là Lăng Già. Có lẽ cuốn kinh này là Lăng Già Kinh cũng nên còn những chữ hán ghi chú nhỏ này là Cửu Dương Chân Kinh đây. Nhưng tại sao lại được khâu ở trong bụng con vượn như thế này ?

Hóa ra cuốn chân kinh đó quả nhiên là Cửu Dương Chân Kinh, còn tại sao lại được giấu ở trong bụng con vượn như vậy thì lúc bấy giờ không một ai được biết hết.

Nguyên chín mươi năm về trước, Tiêu Tương Tử cùng Doãn Khắc Tây lẻn vào trong chùa Thiếu Lâm lấy trộm đực cuốn chân kinh hoảng này, Giác Viễn Ðại sư hay biết liền đuổi theo chúng tới đỉnh núi Hoa Sơn.

Tới đó chúng không còn cách nào chạy thoát thân được. Nhân nhìn thấy một con vượn ở gần đó, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây nghĩ ra đực một kế, liền mổ bụng con vượn, díu bộ kinh hoảng văn vào bên trong rồi khâu lại.

Sau đó Giác Viễn, Trương Tam Phong và Dương qua ba người đuổi tới khám xét người chúng không tìm thấy cuốn chân kinh đó liền buông tha.

Chúng đem con vượn xuống núi. Sự mất còn của Cửu Dương Chân Kinh trở thành một nghi án rất lớn trong võ lâm gần một trăm năm nay.

Sau Tiêu Tương Tử với Doãn Khắc Tây đem con vượn đó lên Tây Vực, . Vì chúng nghi ky lẫn nhau, người nào cũng sợ người kia giết mình hay học được võ công trước mình nên không ai dám mổ bụng con vượn lấy kinh đó ra cả.

Rốt cuộc đi tới đỉnh núi Thần Phong trong dãy Côn Luân chúng cùng giở âm mưu ra giết hại lẫn nhau. Thế là cả hai tên gian tặc đó đều bị giết chết và cuốn kinh thư vẫn còn nằm trong bụng con vượn đến tận ngày hôm nay.

Ðúng ra võ công của Tiêu Tương Tử giỏi hơn Doãn Khắc Tây một bực nhưng vì ở trên núi Hoa Sơn y đã bị Giác Viễn đại sư đánh trúng một quyền trong người đã bị trọng thương nên tới khi hai người trở mặt y đíu với Doãn Khắc Tây bị đối thủ giết chết trước.

Lúc Doãn Khắc Tây sắp chết có gặp Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Ðạo. Bởi lương tâm cắn rứt nên y nhờ Hà Túc Ðạo nói cho Giác Viễn đại sư hay cuốn kinh thư đang ở trong bụng con vượn.

Nhưng lúc y nói thần trờ đã mê sảng nên lời nói không được rõ ràng cho lắm.

Hà Túc Ðạo nghe y nói “Kinh ở trong hầu” mà lại nghe thành “Kinh ở trong đầu”.

Sau đó Hà Túc Ðạo có giữ lời hứa tới chùa Thiếu Lâm nói lại cho Giác Viễn đại sư nghe lời nói ấy, nhưng Giác Viễn đại sư không hiểu “Kinh ở trong đầu” là gì.

Cũng vì cuộc gặp gỡ này mà Hà Túc Ðạo đã gây nên một cuộc phong ba rất lớn trên Thiếu Lâm Tự. Trong võ lâm mới có thêm hai phái Võ Ðang và Nga Mi là thế.

Còn về phần con vượn thì nó cũng gặp may lắm.

Nó ở trên dãy núi Côn Luân, chuyên hái đào tiên để ăn.

Nên từ đó đến giờ hơn chín mươi năm nay vẫn khỏe mạnh như thường.

Lông trên mình nó từ đen đã biến thành trắng như tuyết rồi.

Lúc ấy cuốn kinh thư ở trong bụng làm cho nó đau bụng luôn luôn và mụn nhọt trên đó cứ khi khỏi khi đau.

Ngày hôm nay, nó lại may mắn được Vô Kỵ mổ bụng lấy kinh văn ra cho.

Với con vượn như vậy là nó đã lại gặp được một sự may mắn lớn lao.

Nhưng những chuyện dĩ vãng khúc khuỷu như thế thì Vô Kỵ nghĩ làm sao cho ra được.

Trong khi y nghĩ ngợi liền cầm lấy trái đào của con vượn trắng tặng cho lên ăn.

Y thấy thơm ngon vô cùng, còn ngon hơn cả những trái cây vô danh ở trong thung lung này nữa, ăn xong quả đào tiên đó y thấy bụng đã lưng lưng liền nghĩ thầm:

– Năm xưa thái sư phụ đã nói: nếu ta học được Cửu Dương Thần Công của Võ Ðang, Thiếu Lâm và Nga Mi ba phái thì những khí âm độc ở trong người ta sẽ hết ngay. Nhưng Cửu Dương Thần Công của cả ba phái đó đều thoát thai từ Cửu Dương Chân Kinh hết. Nếu cuốn kinh văn này quả thật là Cửu Dương Chân Kinh thì ta cứ theo sách mà học còn hơn là học thần công của ba môn phái kia. Ðằng nào ở trong thung lũng này ta cũng không có việc gì để làm hết, thì ta cứ theo kinh này mà luyện tập vậy, dù ta có đoán sai đi chăng nữa, và bộ kinh này không có lợi gì cho ta, thậm chí có hại đi nữa thì cực lắm chết cũng là thôi .

Thế là từ đó trở đi y cứ theo ba cuốn kinh văn đó mà luyện tập thần công.

Vô Kỵ sợ trong lúc ngủ say bị bọn khỉ vượn lấy trộm nghịch xé mất sách nên y phải lấy ba hòn đá thật lớn đè lên hai cuốn thứ hai và thứ ba còn tay thì cầm cuốn thứ nhất.

Trước hết y đọc đi đọc lại vài ba lần cho thật thuộc lòng rồi theo phương pháp trong sách mà luyện tập.

Y nghĩ thầm:

– Dù ta có học được hết thần công va xua đuổi được những hàn khí âm độc ra khỏi tạng phủ nhưng ta bị giam giữ ở trong thung lũng này dù võ công của ta có cao siêu đến đâu cũng không thể nào thoát ra được. ở trong thung lũng này ta còn có rất nhiều thì giờ, ta cứ thong thả mà luyện tập cũng không muộn .

Y đã có ý định như vậy nên càng luyện tập càng tiến bộ nhanh chóng vô cùng.

Chỉ trong bốn tháng ngắn ngủi như vậy mà y đã luyện được hết cuốn kinh thứ nhất rồi.

Năm xưa Ðạt Ma Tổ Sư viết hai cuốn Cửu Âm Chân Kinh và Cửu Dương Chân Kinh võ học kỳ thư, một âm một dương, tương hỗ tương thành, tương sinh tương khắc, không phân biệt cao thấp hơn kém gì hết. Nhưng võ công ở trong cuốn Cửu Dương Chân Kinh thì chú trọng dùng khí, bảo vệ tính mạng của con người còn cuốn Cửu Âm Chân Kinh thì chú trọng chiến thắng khắc địch.

Về mặt nội công thì Cửu Dương Chân Kinh hơn Cửu Âm Chân Kinh, còn về thế võ kỳ ảo và biến hóa nhanh chóng thì Cửu Âm Chân Kinh lại hơn.

Năm xưa vợ chồng Trần Huyền Phong lấy trộm được quyển hạ Cửu Âm Chân Kinh tụ tập các thức võ công kỳ diệu mà trong cuốn Cửu Dương Chân Kinh không có đã gây nên bao phong ba bão táp trên giang hồ.

Nhưng nếu luyện thành công Cửu Dương Chân Kinh thì bất cứ võ công kỳ lạ huyền ảo đến đâu cũng không thể nào đả thương được.

Vô Kỵ luyện xong cuốn kinh văn thứ nhất, y bấm đốt ngón tay tính ngày giờ, nhận thấy ngày mà Thanh Ngưu bảo y chết vì hơi độc trong người phát tán đã qua lâu rồi.

Nhưng y chỉ thấy người khỏe mạnh, chân khí toàn thân lưu thông như thường không có vẻ gì là đang có trọng bệnh cả.

Khi xưa hơi hàn độc thỉnh thoảng làm y lâm nguy bây giờ hai ba tháng rồi y mới cảm thấy có một lần thôi nhưng rất nhẹ.

Lúc này y đã biết cuốn kinh thư đó dù không phải là Cửu Dương Chân Kinh thì cũng rất có ích cho sức khỏe của mình. Hơn nữa y lại thường thường ăn những con nhái huyết, trong người càng thấy ấm áp thêm.

Ngoài ra con vượn trắng cám ơn y đã chữa khỏi bệnh cho nó nên nó thường đem Bàn đào lớn đến cho y ăn.

Cho tới khi y đã luyện đến cuốn thứ hai thì y thấy hơi hàn độc trong người đã mất hẳn.

Ðúng ra lúc này nếu y còn tiếp tục ăn nhái huyết thì thế nào cũng sẽ trúng độc chí dương nhưng vì y đã luyện thành công một nửa Cửu Dương Thần Công, hai lại được ăn thứ Bàn đào dở chủng đó luôn nên không sợ chất độc nào làm hại hết.

Thịt nhái huyết có tính chí dương như vậy lại càng tăng thêm công lực Cửu Dương Thần Công cho y.

Hàng ngày Vô Kỵ ngoài việc luyện Cửu Dương Thần Công ra thì đùa rỡn với khỉ vượn.

Nhưng khi y hái được trái cây vẫn thường chia cho Trường Linh nên y vô lo vô lự, tự do tự tại sống một cuộc đời sung sướng như tiên vậy.

Riêng có Trường Linh sống ở đình đài nho nhỏ, lên không được, xuống cũng không xong, y cảm thấy một ngày lâu tựa một năm vậy.

Ðến mùa đông băng tuyết phủ đầy núi, gió rét thấu xương càng khốn khổ thêm.

Vô Kỵ luyện đến cuốn kinh thứ ba đã không sợ nóng lạnh gì nữa.

Y muốn tắm thì nhảy xuống đầm nước lạnh.

Y không thấy lạnh chút nào vì trong người y chân khí lưu động tự nhiên sinh ra một sức mạnh để chống đỡ lại giá rét bên ngoài.

Răng của những con nhái huyết tuy sắc bén thật nhưng lúc này cũng không cắn nổi y nữa. Nước trong đầm lạnh buốt như thế cũng không làm gì nổi y.

Nhưng cuốn Cửu Dương Chân Kinh này càng luyện trở về sau càng thấy khó vô cùng.

Y tập luyện chậm hơn trước nhiều nên cuốn thứ hai y phải mất trọn một năm mới luyện xong.

Cuốn sau cùng y phải luyện hơn hai năm mới hoàn toàn thành công.

Nửa đêm ngày hôm đó Vô Kỵ giở đến trang cuối cùng của cuốn chân kinh mà luyện tập, trong lòng nửa mừng rỡ nửa cảm thấy hoang mang.

Y lọt vào thung lung này đã được hơn bốn năm Từ một thằng nhỏ đã trở thành một thanh niên thân hình khá to lớn.

Trong bốn năm nay không biết thế giới bên ngoài biến đổi như thế nào y ở bên trong luyện thành công Cửu Dương Thần Công.

Trong những ngày giờ đó thỉnh thoảng y cũng theo lũ khỉ leo lên vách núi, đứng trên cao nhìn xuống phía xa.

Với công lực của y bây giờ muốn đi ra khỏi thung lung này không phải là chuyện khó nhưng y thấy người đời nham hiểm, xảo trá.

Hễ nghĩ tới những chuyện dĩ vãng là y rùng mình sợ hãi.

Y thường nghĩ thầm:

– Ta hà tất phải đi ra bên ngoài tìm kiếm những sự phiền não đó làm gì? Chi bằng ta sống cho hết đời ở thung lũng thần tiên này có hơn không ?

Vô Kỵ đào một cái hốc ở vách núi sâu đôi ba thước, rồi lấy miếng vải dầu bao Cửu Dương Chân Kinh cùng cả cuốn Y Kinh của Y tiên Hồ Thanh Ngưu và cuốn Ðộc Kinh của Vương Nạn Cô lại, dấu vào trong rồi lấp lại.

Làm xong chàng còn dùng ngón tay viết lên trên vách đá mấy chữ thật lớn: “Nơi chôn kinh của Trương Vô Kỵ”

Trong lúc chàng luyện tập thần công chỉ chăm chú vào mấy cuốn kinh thư không cảm thấy buồn tẻ chút nào, bây giờ chàng đã luyện thành môn Cửu Dương Thần Công đó rồi, không có việc gì làm nữa nên cảm thấy buồn chán vô cùng liền nghĩ thầm:

– Lúc này bác Trường Linh có tới hãm hại ta, ta cũng không sợ gì hết chi bằng ta sang bên đó nói chuyện với y cho đỡ buồn có hơn không?

Nghĩ đoạn chàng liền khom người chui vào trong hang núi.

Lúc chàng vào thung lũng chàng mới có mười lăm tuổi, thân hình còn bé nhỏ.

Bây giờ đến khi đi ra thì chàng đã là một thanh niên mười chín tuổi rồi.

Thân hình chàng còn vạm vỡ cao lớn hơn người thường nữa nên không sao chui lọt cái hang động đó được nữa.

Chàng vội nín hơi vận Xúc Cốt Công lên (Thần công rút cho khớp thu nhỏ lại).

Chỉ trong thoáng cái người của chàng còn thu nhỏ hơn cả khi xưa nên chàng chui qua cái hang đó một cách rất dễ dàng.

Lúc ấy Trường Linh đang ngồi tựa bên vách đá ngủ gật.

Y đang mơ thấy trong nhà có thết tiệc, kẻ hầu người hạ tấp nập, thân bằng cố hữu xu nịnh khiến y cảm thấy oai phong sung sướng vô cùng.

Y đột nhiên cảm thấy đầu vai có người vỗ mấy cái.

Y giật mình thức tỉnh vội mở mắt ra nhìn liền thấy một cái bóng đen vừa cao vừa gầy đang đứng trước mặt.

Y đứng dậy, vẫn còn chưa hoàn hồn lớn tiếng hỏi:

– Ngươi… Ngươi là…

Vô Kỵ mỉm cười đáp:

– Bác Trường Linh! Bác không nhận ra được tôi hay sao? Tôi là Trương Vô Kỵ đây mà.

Trường Linh vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vừa nổi giận.

Y hậm hực nhìn Vô Kỵ hồi lâu rồi mới lên tiếng hỏi:

– Sao? Chú em đã cao lớn như thế này rồi à? Hừ! Sao bấy nhiêu lâu chú không sang đây nói chuyện với tôi? Tôi đã van lơn chú mãi mà chú vẫn cứ bỏ mặc tôi một mình ở ngoài này?

Vô Kỵ mỉm cười nói:

– Tôi sợ vào đây lại bị bác đánh đập!

Trường Linh bỗng nhiên giơ tay phải ra giở môn cẩm nã thủ túm chặt đầu vai Vô Kỵ quát hỏi:

– Thế sao hôm nay chú không sợ …

Y đột nhiên cảm thấy bàn tay nóng hổi, cánh tay rung động rất mạnh.

Y vôi buông tay ra thây ngực vẫn còn đau ngầm.

Y sợ hãi vội lui về phía sau ba bước ngẩn người ra nhìn Vô Kỵ rồi hỏi tiếp:

– Chú… Chú…Ðây là môn võ công gì thế?

Sau khi luyện thành công Cửu Dương Thần Công ngày hôm nay lần đầu tiên Vô Kỵ mới sử dụng tới.

Chàng thấy oai lực của nó tuyệt luân.

Trường Linh là một cao thủ hạng nhất trong võ lâm mà bị thần công của chàng chấn động nhẹ một cái mà đã phải buông ra.

May mà chàng mới sử dụng có một thành công lực thôi, nếu chàng sử dụng toàn lực chắc chắn tay của đối thủ phải bị chấn động gãy luôn.

Chàng thấy Trường Linh có vẻ sợ hãi trong lòng khoái chí vô cùng vừa cười vừa hỏi tiếp:

– Thế nào? Môn võ công của tôi có khá không?

Trường Linh lại hỏi:

– Môn võ công đó tên là gì vậy?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi cũng không được biết, có lẽ là môn Cửu Dương Thần Công cũng nên.

Trường Linh giật mình kinh hãi vội hỏi tiếp:

– Sao chú lại luyện tới mức thành công môn đó được Vô Kỵ không giấu giếm liền kể chuyện mình chữa bệnh cho con vượn trắng như thế nào, thấy trong bụng nó có mấy cuốn kinh rồi theo mấy cuốn kinh đó luyện tập như thế nào kể hết lại cho Trường Linh nghe.

Trường Linh nghe Vô Kỵ kể như vậy vừa tức giận vừa đố kỵ, trong lòng nghĩ thầm:

– Ta chịu khổ sở ở trên ngọn núi cao chót vót này bốn năm trời mà thằng nhỏ thì lại luyện được thành công môn thần công kỳ ảo nhất thiên hạ này.

Hồi thứ 40

Thôn Nữ Áo vải

Do chỉ biết oán trách Vô Kỵ, y không nghĩ tới tự y nghĩ hết kế này, mưu nọ để hãm hại Vô Kỵ nên mới có kết cục ngày nay như vậy. Mà y chỉ thấy đối phương quá may mắn còn mình thì quá sui xẻo tuy vậy y vẫn cố nén lửa giận xuống làm ra vẻ tươi cười hỏi tiếp:

– Vậy cuốn Cửu Dương Chân Kinh đâu? Cho tôi xem chốc lát có được không?

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

– Cho ngươi xem cũng không sao, chẳng lẽ trong chốc lát mà ngươi lại nhớ được hết ngay hay sao?

Nghĩ đoạn chàng liền đáp:

– Tôi đã chôn ở trong thung lung kia rồi, để ngày mai tôi sẽ mang sang đây cho bác xem.

Trường Linh lại hỏi:

– Sao chú chóng lớn thế? Mà người chú to lớn như vậy thì làm sao mà chui được vào cái hang nhỏ kia?

– Cái hang đó cũng không nhỏ hẹp cho lắm. Quý hồ cứ rụt người lại dùng sức chém mạnh một cái thì sẽ qua được ngay.

– Chú bảo tôi có thể chui qua được không?

– Ðược, ngày mai chúng ta thử xem. Bên trong đó rộng lớn và có nhiều cảnh đẹp lắm, chứ quanh năm ngày tháng ở trên cái bình đài nho nhỏ này chịu sao nổi.

Nói tới đó chàng nghĩ thầm:

– Chắc Trường Linh không thể nào chui lọt được đâu nhưng ta vận công nắn bóp xương vai, ngực và hông cho y may ra có thể giúp y chui qua được .

Trường Linh thấy Vô Kỵ đang nghĩ ngợi vừa cười vừa nói tiếp:

– Chú em tử tế thật, không nhớ những mối thù cũ. Trước kia có những điều gì không phải xin chú lượng thứ cho!

Nói xong, y vội chắp tay vái chào.

Vô Kỵ trả lễ xong liền đáp:

– Bác Trường Linh! Hà tất bác phải đa lễ như thế làm gì? Ngày mai chúng ta nghĩ cách ra khỏi nơi đây.

Trường Linh cả mừng vội hỏi:

– Chú bảo có thể rời khỏi nơi đây?

– Những con khỉ còn có thể ra vào thung lũng được thì tại sao chúng ta lại không qua được?

– Sao chú không ra ngay từ những ngày trước mà lại phải chờ đến bây giờ mới ra?

– Trước kia tôi không muốn đi ra là vì tôi không muốn bị người ta hà hiếp. Nhưng bây giờ tôi không sợ nữa, muốn ra thăm Thái sư phụ cùng sư thúc, sư bá tôi nữa.

Trường Linh ha hả cười vỗ tay tán thành:

– Hay lắm! Hay lắm!

Rồi y lui lại hai bước, đột nhiên thấy thân hình y lảo đảo kêu “ối chà” một tiếng.

Vô Kỵ thấy y một chân dẫm hụt về phía sau, người té xuống vực thẳm.

Vô Kỵ kinh hãi vô cùng vội nhoài người ra ngoài sườn núi cúi đầu xuống gọi:

– Bác Trường Linh, bác có việc gì không?

Chàng liền nghe thấy bên dưới có tiếng kêu rên rất nhỏ vọng lên.

Chàng mừng rỡ vô cùng nghĩ thầm:

– Cũng may, y không té xuống vực, nhưng lúc này chắc thế nào y cũng bị thương nặng .

Nghe thấy tiếng rên rỉ của Trường Linh chàng đoán Trường Linh bị té cách sườn núi chừng mấy trượng thôi.

Chàng liền định thần nhìn kỹ thì thấy bên dưới có một cây thông lớn mọc nhô ra lưng chừng núi.

Trường Linh đang nằm vắt ngang trên cành cây, không hề cử động chút nào.

Vô Kỵ nhận xét tình thế, chàng biết mình với công lực bây giờ có thê nhảy xuống bên dưới ẳm Trường Linh rồi lại nhảy lên bình đài được nên chàng nhịn hơi, nhằm một cành cây bên dưới rồi tung mình nhẹ nhàng nhảy xuống.

Ngờ đâu lúc chân chàng sắp đụng tới cành cây, chỉ còn cách độ nửa thước nữa là đến nới thì đột nhiên thấy cành cây đó gãy rời rơi xuống vực liền.

Thế là chàng không còn có chỗ nào để hạ chân nữa.

Dù chàng có luyện được Cửu Dương Thần Công tuyệt đỉnh rồi nhưng chàng cũng vẫn là người đâu phải là chim chóc đâu mà lúc đang rơi có thể bay lên được.

Sự việc xảy ra nhanh như điện chớp, chàng hiểu ngay gian kế của Trường Linh.

Chàng nghĩ thầm:

– Thì ra y dùng gian kế để hại ta. Y đã bẻ gãy cành cây đó cầm trên tay chờ lúc ta nhảy xuống liền buông tay cho cành cây rơi xuống .

Lúc này tuy đã biết rõ gian kế của Trường Linh nhưng đã quá muộn rồi vì người chàng đang lao vun vút xuống vực thẳm.

Trường Linh ở trên bình đài nhỏ này suốt bốn năm ròng nên một ngọn cỏ, một hòn đá y đều biết rõ hết.

Trong lúc đêm tối y liền giả tảng bị té ngã bị thương xuống vực.

Y đoán chắc Vô Kỵ thế nào cũng nhảy xuống cứu y.

Quả nhiên y đã thi hành được gian kế đó.

Vô Kỵ đã bị mắc lỡm ngã xuống vực thẳm muôn trượng.

Y ha hả cười, leo theo sợi dây mây dài ở cạnh cây thông lên trên bình đài.

Vừa leo y vừa nghĩ thầm:

– Lần đầu tiên ta không thể chui lọt được cái hang ấy chắc vì ta nóng lòng sốt ruột chui qua mà bị gãy xương sườn. Lúc này thằng nhỏ còn to lớn hơn ta nhiều, nó có thể chui qua được thì tất nhiên ta cũng có thể chui qua được. Ta lấy được cuốn Cửu Dương Chân Kinh rồi sẽ tìm đường về nhà. Sau này ta luyện thành công môn Cửu Dương Thần Công đó sẽ là thiên hạ vô địch. Như vậy cũng không phí công ta bị giam lỏng nơi này mấy năm trời. Thực khoái quá, hà hà…

Y càng nghĩ càng khoái chí liền chui ngay vào trong hang, bò được một quãng đã tới chỗ bốn năm trước y bị đè gãy xương sườn.

Y liền nghĩ thầm:

– Người thằng nhỏ to lớn hơn ta, nó chui lọt tất nhiên ta chui lọt chứ !

Y nghĩ như vậy rất phải trừ một điều y không nghĩ tới là Vô Kỵ đã luyện thành công phương pháp Xúc Cốt Công trong Cửu Dương Thần Công rồi còn y thì chưa.

Trường Linh bình tâm tĩnh trươnø từ từ chui vào trong động.

Y từng tấc một tiến vào phía trong.

Quả nhiên lần này y đã tiến bộ hơn bốn năm trước nhiều.

Y đã len vào hơn được một trượng nhưng chỉ tới mức đó chứ không thể nào tiến lên thêm được một li nào nữa.

Trường Linh tự biết nếu cố gượng len vào thì cũng sẽ bị gãy xương sườn như bốn năm trước nhưng y vẫn định thần và cố hết sức ép người lại chui thêm.

Quả nhiên y lại bò thêm được ba thước nữa nhưng lúc này y đã thấy nghẹt thở, tim đập mạnh như trống đánh, sắp sửa chết giấc đến nơi.

Y biết có vào nữa thì chỉ có ngạt thở mà chết thôi nên phải lui ra trước rồi tính toán sau.

Ngờ đâu lúc vào thì dùng sức đầu ngón chân đẩy có thể đưa người vào được, bây giờ lui ra thì hai tay không thể nào lấy sức như chân mà đẩy ngược lại được.

Thế là y đành thúc thủ nằm yên tại chỗ chịu chết nghĩ thầm:

– Thân hình của Vô Kỵ cao lớn hơn ta nhiều, y đã chui qua được sao ta lại không chui được? Tại sao ta lại chịu bó tay nằm nơi đây ?

Có ngờ đâu trên đời có nhiều chuyện khiến người ta không thể tưởng tượng được.

Cũng vì thế mà một tay cao thủ võ lâm, văn võ toàn tài bị kẹt chặt trong hang đá, tiến không được mà thoái cũng không xong.

Lại nói về Vô Kỵ mắc phải gian kế của Trường Linh, người bị rơi thẳng xuống vực.

Trong lúc chàng đang bị rơi trong lòng cứ tự hận nghĩ thầm:

– Vô Kỵ ơi! Vô Kỵ ơi! Mi thật là đồ vô dụng quá. Mi đã biết rõ Trường Linh là một kẻ gian trá vô cùng, tại sao ngươi lại còn mắc hỡm y? Ðáng chết lắm! Ðáng chết lắm!

Tuy chàng vẫn tự mắng chửi thầm nhưng chàng vẫn cố nghĩ cách để cứu mình.

Chàng cảm thấy chân khí trong người vẫn lu thông như thường liền vận khí tung mình nhảy lên để khỏi rơi nhanh như vậy thì lúc tới mặt đất sẽ tan xương nát thịt.

Nhưng người đang lơ lửng ở trên không, không có chỗ để mượn sức thì làm sao mà nhảy trở lên được.

Chàng chỉ nghe tiếng gió thổi qua tai kêu vù vù và hai mắt lòa đi vì ánh sáng do tuyết phản chiếu tới.

Vô Kỵ biết lúc này sự sống chết của mình như chỉ mảnh treo chuông.

Chàng bỗng thấy chỗ cách xa hơn trượng có một đống tuyết lớn.

Chẳng cần biết dưới đống tuyết đó là vật gì chàng liền lộn một vòng đâm thẳng về đống tuyết đó, cố tung mình nhảy lên một cái.

Nhưng chàng từ trên cao muôn trượng rớt xuống, sức mạnh biết bao nếu là người thường thì đã nát bấy thành đống thịt vụn trên đống tuyết đó rồi.

Nhưng Vô Kỵ nhờ có oai lực của Cửu Dương Thần Công nên chàng chỉ nghe mấy tiếng “cách” và hai dùi thì đau nhức vô cùng.

Thì ra xương dùi của chàng đã bị gãy hết.

Tuy chàng bị thương nặng nhưng thần chí vẫn tỉnh táo.

Chàng thấy những thanh củi bay tứ tung cùng với tuyết.

Hóa ra dưới đống tuyết chàng rơi xuống là củi và cỏ khô của người nông dân nào đó tích trữ cho mùa đông.

Chàng nghĩ thầm:

– Nguy hiểm thật! Nếu dưới đống tuyết này không phải là củi và cỏ khổ mà là một tảng đá thì có phải ta đã ô hô ai tai rồi không!

Chàng dùng tay từ từ bò ra khỏi đống củi và lăn xuống dưới đất rồi chàng xem xét lại hai chân. Thở nhẹ một cái chàng bắt đầu nối lại những chỗ gãy và nghĩ thầm:

– Ít nhất ta cũng phải nằm yên nơi đây một tháng hai chân mới có thể lành lại và đi lại được.

Như vậy cũng không sao, dù hai chân chưa kịp khỏi không đi lại được chăng nữa, hai tay của ta vẫn còn lành lặn chả đến nỗi bị ngồi yên một chỗ mà chết đói đâu. Ðống củi này tất nhiên là củi nhà nông tích trữ như vậy gần đây thế nào cũng có người ở .

Chàng định kêu la cầu cứu nhưng chợt nghĩ:

– Trên thế gian này người ác nhiều quá. Một mình ta nằm ở nơi đây trên đống tuyết này dừơng thương còn hơn là cầu cứu nhầm phải người ác còn nguy hại hơn .

Vì vậy chàng cứ nằm yên trên mặt tuyết đợi cho những chỗ xương gãy từ từ liền lại chứ không lên tiếng kêu cứu.

Chàng ngủ liền ba hôm thấy bụng đã đói ran nhưng chàng biết lúc mới tiếp xương không nên cử động làm ảnh hưởng đến chỗ nối.

Chỉ một sơ xuất nhỏ có thể là lệch xương khiến suốt đời tàn tật liền.

Cho nên chàng chỉ ăn tạm vài nắm tuyết cho đỡ đói.

Trong ba ngày đó chàng ngẫm nghĩ :

– Từ nay trở đi ta phải cẩn thận lắm mới được bằng không ta sẽ bị mắc hỡm phải kẻ khác ngay. Phải biết rằng sau này ta chưa chắc đã được gặp may như từ trước đến nay, gặp toàn những chuyện thật nguy nan nhưng đều thoát chết như vậy .

Ðêm hôm thứ tư chàng đang nằm yên sử dụng thần công cảm thấy trong người nhẹ nhàng dễ chịu, vết thương ở dùi chàng tuy nặng thật nhưng thần công của chàng lại luyện cao thêm được mấy thành.

Trong lúc bốn bề im lặng như tờ chàng bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng chó sủa vọng tới. Tiếng chó càng ngày càng gần.

Hình như là có mấy con chó săn đó đang đuổi theo thú dữ vậy.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ lại là mấy con chó săn của chị Chu Cửu Chân nuôi chăng? Chó của chị ta đã bị Trường Linh đánh chết hết cả rồi nhưng có lẽ trong bốn năm qua biết đâu chị ta lại chẳng nuôi được lứa khác rồi .

Chàng ngửng đầu lên nhìn về phía tiếng chó sủa thì thấy có một người đang chạy tới, đằng sau có ba con chó rất to đuổi theo, vừa sủa vừa cắn.

Người đó có vẻ mệt mỏi vô cùng nên hai chân loạng choạng, chạy được vài bước lại ngã một cái nhưng người đó sợ mấy con chó dữ kia lại gượng đứng dậy chạy tiếp.

Vô Kỵ nghĩ tới mấy năm trước mình cũng bị lũ chó bao vây tấn công, lửa giận bốc lên ngùn ngụt.

Chàng định ra tay cứu người kia nhưng khổ nỗi hai chân chàng bị gãy không sao đi lại được. Ðột nhiên chàng nghe thấy người kia rú lên một tiếng rất thảm khốc rồi ngã lăn ra đất tức thì. ba con ác khuyển liền nhảy lên lưng người đó cắn xé luôn.

Vô Kỵ cả giận quát gọi:

– Ác cẩu, có giỏi lại đây!

Ba con chó hình như nghe hiểu tiếng người, chúng tức thì quay đầu lại nhảy xổ tới nhanh như bay.

Chúng đánh hơi thấy Vô Kỵ không phải là người quen thuộc liền sủa lên mấy tiếng rồi xông vào định cắn.

Vô Kỵ muốn thử xem môn thần công của mình mới luyện được có oai lực ra sao liền chìa tay ra búng vào mũi mỗi con ác khuyển một cái.

Ba con chó lần lượt chết liền. Vô Kỵ không ngờ mình chỉ ra tay rất nhẹ như vậy mà đã giết chết ba con chó liền.

Chàng thấy oai lực của Cửu Dương Thần Công như thế cũng phải kinh hãi thầm.

Chàng lại nghe thấy tiếng người nọ rên rỉ .

Tiếng kêu của anh ta rất yếu ớt, chàng liền lên tiếng hỏi:

– Vị đại huynh kia, bị chó cắn ra sao? Có bị nhiều vết thương không?

Người nọ đáp:

– Tôi… tôi…có lẽ chết mất… tôi…

– Hai đùi của tôi đã gãy mất không làm sao đi lại được. Mời huynh hãy cố bò lại đây để tôi xem xét vết thương cho!

– Vâng.. vâng…

Người nọ vừa trả lời vừa thổ ra máu cố gượng bò về phía Vô Kỵ.

Nhưng y chỉ có thể bò tới cách chỗ Vô Kỵ nằm chừng hơn trượng kêu “ối chà” một tiếng rồi gục xuống đất không sao cựa quật được nữa.

Hai người cách nhau hơn trượng, một người không thể bò tiếp được nữa còn một người không thê lết lại được.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Ðại ca bị thương ở đâu thế?

– Tôi…ngực…bụng… đều bị chó cắn…ruột đã lòi ra …

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi. Chàng biết ruột đã lòi ra thì khó mà sống được lắm nên chàng lại hỏi tiếp:

– Tại sao lũ chó ấy lại đuổi theo cắn huynh như vậy?

– Tôi…nửa đêm đi đuổi theo heo rừng…có một tiểu thư với một công tử đang ngồi dưới một gốc cây trò chuyện…Tôi thấy không thấy rõ mới chạy tới gần xem…Tôi…ối chà!

Y kêu lớn một tiếng rồi nằm yên lặng ngay.

Người nọ chưa dứt lời Vô Kỵ đã đoán được thế nào hai người đó cũng là Cửu Chân và Vệ Bích đêm khuya rủ nhau ra nơi đó hò hẹn chứ không sai.

Sau vì người quê mùa này không may bắt gặp Cửu Chân mới thả chó cắn chết y.

Chợt có tiếng vó ngựa ngày một gần rồi chàng thấy có hai người cỡi ngựa tiến đến nơi.

Từ khi luyện Cửu Dương Thần Công tới giờ mắt chàng sắc bén hơn lúc trước rất nhiều.

Tuy ở trong đêm tối chàng vẫn trông thấy rõ hai người cưỡi ngựa đó một nam một nữ.

Thiếu nữ nọ đột nhiên thất thanh la lớn:

– Ủa tại sao cả ba Bình Tây tướng quân của em đều chết hết thế này?

Người lên tiếng đó chính là Chu Cửu Chân và ba con chó bị Vô Kỵ giết chết là của nàng.

Người đi cạnh nàng chính là Vệ Bích.

Y vôi xuống ngựa kinh ngạc nói:

– Lạ thật, có hai người chết tại đây nữa!

Vô Kỵ nghe thấy Vệ Bích nói như vậy liền nghĩ :

– Nếu bây giờ chúng lại hãm hại ta thì phen này ta nhất định không tha cho chúng đâu .

Cửu Chân thấy người nhà quê bụng bị chó cắn rách, lòi cả ruột ra chết rất thảm khốc còn Vô Kỵ thì quần áo rách rới khôn tả, mặt mũi đầy râu mọc xồm xoàm đang nằm yên dưới đất không thấy cử động, chắc cũng bị chó cắn chết.

Nàng còn muốn tiếp tục chuyện trò với Vệ Bích nên không muốn ở lại đó lâu.

Nàng vội nói:

– Biểu ca, chúng ta đi thôi! Hai tên chân lấm tay bùn này láo thực! Lúc sắp chết còn cố gắng đánh chết ba vị tướng quân của em.

Nói xong, nàng quay đầu ngựa về phía tây di liền.

Tuy Vệ Bích thấy ba con chó đều chết một cách kỳ lạ trong lòng đang thắc mắc nhưng thấy Cửu Chân đã phóng ngựa đi xa.

Y không kịp xem xét kỹ nữa cũng vội vàng nhảy lên mình ngựa phóng theo luôn.

Vô Kỵ nghe tiếng cười nói của Cửu Chân ở đằng xa vọng tới trong lòng càng tức giận thêm.

Chàng cũng lấy làm lạ, bốn năm trước đây lúc mới gặp Cửu Chân chàng coi nàng như một nàng tiên.

Lúc bấy giờ nàng chỉ giơ một ngón tay lên chỉ, dù nàng có bảo Vô Kỵ nhảy vào núi lửa hay vào vạc dầu sôi chàng cũng làm ngay không do dự chút nào.

Nhưng tối hôm nay gặp lại, không hiểu sao sức hấp dẫn của Cửu Chân như biến mất rồi. Chàng cứ tưởng là nhờ đã luyện thành Cửu Dương Thần Công mà nên.

Nhưng chàng đâu có biết mối tình đầu bao giờ cũng vậy, tới rất nhanh mà đi cũng vậy.

Sau này khi đầu óc tỉnh táo mỗi khi nghĩ tới những chuyện si mê của mình trước đây Vô Kỵ lại tự cười thầm.

Sáng sớm hôm sau, trên trời đã thấy một con chim ưng lượn di lượn lại định ăn có xác người và mấy con chó chết ở trên mặt đất.

Nhưng có lẽ nó không ăn xác chết cũng nên vì nó không lao xuống mổ xác người nông phu và mấy con chó mà lại bay xà xuống mổ Vô Kỵ.

Chàng ta giơ tay ra đã bắt ngay được cổ con ác điểu, chỉ khẽ bóp một cái, con chim ưng đã chết liền.

Chàng vừa mừng vừa lẩm bẩm nói:

– Thật là trời tặng cho ta bữa ăn sáng này.

Chàng vội nhổ lông chim ưng và xé đùi nó ra ăn ngấu nghiến.

Tuy thịt con chim còn sống, nhưng chàng đã nhịn đói ba ngày nên thấy ngon vô cùng.

Chàng chưa ăn hết con thứ nhất thì con thứ hai đã bay tới, một mặt chàng bắt chim ăn cho đỡ đói, một mặt nằm yên trên tuyết để dưỡng thương, đợi chờ xương gãy liền lại.

Mấy ngày liền trên cánh đồng hoang đó không có người nào đi qua cả, bên cạnh có ba cái xác chó chết và một cái xác người, may lúc đó đang mùa đông giá lạnh nên mấy cái xác đó không hui thúi và chàng là người đã từng quen sống cô độc nên cũng không thấy buồn tẻ và đau khổ gì.

Chiều một ngày nọ, chàng đang luyện công bỗng thấy hai con chim ưng bay lượn trên không một hồi lâu mà không dám bay xà xuống.

Mải nhìn con chim ưng ở trên không lượn đi lượn lại, thấy những điệu bay bổng của nó rất đẹp, Vô Kỵ đang ngẩn người ra nhìn, bỗng nghe từ đằng xa có tiếng chân người đi tới, tiếng chân đi rất nhẹ, hình như tiếng chân phụ nữ vậy.

Chàng quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy có một thiếu nữ, tay đang xách một cái giỏ đi tới.

Nàng nọ trông thấy xác người và xác chó nằm ngổn ngang trên mặt đất liền kêu “ủa” một tiếng rồi ngừng bước lại, ngẩn ra nhìn.

Vô Kỵ định thần ngắm kỹ, thấy thiếu nữ nọ tuổi chạc độ mười bẩy mười tám, ăn mặc quần áo vải, hiển nhiên là một thiếu nữ nghèo nàn ở trong làng.

Tóc vàng và bù rối, da mặt ngăm ngăm đen, trán và gò má gồ cao, mồm méo, mũi xếch trông thật xấu xi vô cùng.

Nhưng đôi mắt nàng rất đẹp và thân hình lại đẹp khôn tả.

Nàng thôn nữ đó tiến gần một bước, thấy Vô Kỵ trợn mắt nhìn mình, liền giật mình kinh hãi và hỏi:

– Người…người chưa chết hay sao?

Vô Kỵ đáp:

– Tôi chưa chết.

Người hỏi đã vô lý mà người trả lời cũng rất lý thú.

Cả hai người nghĩ lại đều không sao nhịn được cười rồi đồng thanh cười xoà.

Thiếu nữ nọ cười xong mới lên tiếng hỏi tiếp:

– Thế anh nằm ở đây làm chi? Có đói không?

– Tất nhiên là đói lắm chứ nhưng tôi không đi được đành phải nằm đây phó thác số mạng cho trời.

Thiếu nữ xấu xí liền nhếch mép cười rồi nàng lấy trong giỏ ra ba cái bánh bao đưa cho Vô Kỵ.

Vô Kỵ liền nói:

– Cám ơn cô nương!

Chàng vừa nói vừa đỡ lấy mấy cái bánh đó nhưng không ăn ngay.

Thiếu nữ đó lại hỏi tiếp:

– Anh sợ bánh của tôi có thuốc độc hay sao mà không dám ăn như thế?

Vô Kỵ đã bốn năm không nói chuyện với ai cả, thỉnh thoảng chỉ nói với Trường Linh ở trong hang núi vài câu nhưng chàng không thấy có thú vị gì hết.

Bây giờ chàng thấy thiếu nữ mặt mũi tuy xấu xí nhưng lời lẽ ăn nói rất phong phú trong lòng mừng rỡ vô cùng liền đáp:

– Cô nương cho bánh này tôi quý lắm nên không nỡ ăn!

Lời nói của chàng hơi có vẻ đùa giỡn.

Xưa nay chàng là một người rất thành thật, trung hậu, không bao giờ biết lẻo mép như thế cả.

Nhưng không biết tại sao trước mặt một thiếu nữ xấu xí như thế này chàng lại cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm và bỗng nhiên lại thốt ra những lời đùa cợt như trên.

Thiếu nữ nọ nghe chàng nói như vậy hai mắt bỗng lộ vẻ tức giận, bằng giọng mũi “hừ” một tiếng.

Vô Kỵ hối hận vô cùng vội cầm bánh lên ăn vì hoảng sợ chàng ăn ngấu nghiến nên bị tắc nghẹn ở trong họng, sặc sụa một hồi.

Thiếu nữ nọ thấy vậy đang nổi giận bỗng bật cười rồi nói:

– Cám ơn trời đất! Ngươi tên bát quái xấu xí kia chắc cũng không phải là người tử tế gì cho nên ông trời mới phạt ngươi như vậy! Tại sao người khác không bị té gãy dùi mà ngươi lại bị té ngã như vậy?

Vô Kỵ thấy nàng cười, hai mắt lộ vẻ rất giảo hoạt tinh quái, trong lòng kinh hãi nghĩ thầm:

– Sao đôi mắt của nàng lại giống mắt của mẹ ta thế? Lúc mẹ ta sắp tắt thở lừa dối lão hòa thượng Thiếu Lâm Tự đôi mắt của người cũng giống hệt như thế này .

Nghĩ tới đây chàng bỗng ứa nước mắt ra.

Thiếu nữ nọ hiểu lầm vội nói:

– Tôi không cướp bánh lại của anh nữa đâu, anh đừng khóc! Không ngờ anh lại là một tên ngu ngốc vô dụng đến thế!

Vô Kỵ đáp:

– Có phải tôi sợ cô nương cướp lại bánh mà tôi khóc đâu. Ai thèm mấy chiếc bánh này. Tôi đang nghĩ tới việc riêng của tôi đấy chứ.

Thiếu nữ nọ đã bỏ đi được mấy bước rồi bỗng nghe chàng nói như vậy vội quay người lại hỏi:

– Tâm sự gì thế! Không ngờ anh ngô nghê ngốc nghếch như thế này mà cũng có tâm sự gì nữa !

Vô Kỵ thở dài một tiếng rồi đáp:

– Tôi nghĩ đến mẹ tôi. Mẹ tôi đã khuất núi rồi!

Thiếu nữ nọ phì cười hỏi tiếp:

– Mẹ anh vẫn hay cho anh ăn bánh luôn phải không?

Vô Kỵ đáp:

– Tất nhiên mẹ tôi vẫn cho tôi bánh luôn nhưng vừa rồi sở dĩ tôi nhớ đến mẹ tôi là vì lúc cô cười trông giống mẹ tôi lắm!

Thiếu nữ nọ nổi giận hỏi tiếp:

– Chết đến nơi mà còn lẻo mép như thế phải không? Tôi già lắm phải không? Già như mẹ anh có phải không?

Nói xong, nàng cúi xuống nhặt một que củi đánh Vô Kỵ mấy cái.

Lúc này chàng muốn cướp que củi của nàng dễ như trở bàn tay nhưng chàng cứ để nguyên cho nàng đánh mồm vẫn ung dung nói:

– Lúc mẹ tôi qua đời, mặt xinh đẹp lắm!

Thiếu nữ nọ vênh mặt hỏi tiếp:

– Anh cười tôi xấu xí lắm phải không? Như vậy tức là anh không muốn sống nữa, để tôi lôi cái dùi anh cho anh biết thân!

Nói xong, nàng cúi xuống định kéo dùi Vô Kỵ.

Thấy vậy Vô Kỵ kinh hãi vô cùng đến biến sắc mặt vì lúc ấy xương dùi của chàng mới bắt đầu liền, sợ nàng ta kéo một cái thì công tiếp xương của mình đều tiêu tan hết.

Cho nên chàng nhặt vội một nắm tuyết vo lại chờ, nếu thiếu nữ mà đụng vào dùi mình thì chàng ném luôn vào nhân trung nàng cho nàng chết giấc luôn tại chỗ.

Cũng may thiếu nữ nọ chỉ có y định dọa nạt Vô Kỵ thôi, thấy chàng biến sắc mặt như vậy liền cất tiếng hỏi ngay:

– Xem anh chàng hoảng sợ đến thế kia kìa! Ai bảo anh nói bông tôi?

Vô Kỵ đáp:

– Nếu tôi định tâm nói bông cô nương thì cái dùi của tôi khỏi rồi sẽ bị té ngã luôn ba lần nữa và suốt đời không bao giờ lành lặn lại được!

Thiếu nữ nọ thấy chàng thề độc như vậy cười khúc khích rồi hỏi tiếp:

– Mẹ anh là một mỹ nhân, tại sao anh lại lấy ba ta mà ví với tôi? Chẳng lẽ anh thấy tôi cũng đẹp hay sao?

Vô Kỵ ngẩn người ra trong giây lát rồi đáp:

– Tôi cũng không hiểu tại sao? Chỉ nhận thấy cô có vẻ rất giống mẹ tôi thôi. Tuy cô không đẹp bằng mẹ tôi nhưng tôi thích nhìn mặt cô lắm.

Thấy hình dáng và điệu bộ của nàng ta trông giống như mẹ mình nên Vô Kỵ ngẩn người ra nhìn một cách ngây ngất.

Thiếu nữ quay đầu lại thấy mặt chàng ngớ ngẩn như vậy vội hỏi:

– Tại sao anh lại thích ngắm nhìn tôi? Anh phải kể cho tôi nghe đi!

Ngơ ngác giây lát Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Tôi không thể nói ra được! Tôi chỉ cảm thấy trông cô rất giống mẹ tôi, trông thấy cô là trong lòng tôi khoan khoái và dường như được an ủi vô cùng, chỉ mong cô đừng có lừa dối khinh miệt và hãm hại tôi thôi!

– Hà! Hà! Thế thì anh nhầm to rồi! Tôi là người thích hãm hại người khác.

Nói tới đây nàng đột nhiên gõ luôn hai que củi vào dùi gãy của Vô Kỵ. hành động của nàng quá đột ngột và thanh củi nàng gõ đúng vào chỗ xương gãy làm cho Vô Kỵ thất kinh la lớn:

– Ối chà!

Chàng thấy thiếu nữ cười khúc khích quay đầu lại làm mặt xấu trêu mình.

Rồi nàng đi xa dần mà chân chàng thì đau nhức không chịu nổi.

Vô Kỵ đang nằm mơ chợt tỉnh giấc nghĩ tới một việc mà xưa nay chàng chưa hề nghĩ tới bao giờ:

– Không hiểu tại sao mẹ ta lại cứ thích làm cho người khác đau khổ như thế? Mắt của nghĩa phụ chính mẹ ta đã làm mù. Dư tam sư bá bị tàn phế cũng chính do mẹ ta mà nên. Cả nhà Long Môn Tiêu Cục ở phủ Lâm An cũng bị mẹ ta tàn sát giết sạch. Không hiểu mẹ ta là người tốt hay người xấu?

Nghĩ tới đó chàng lại nhìn lên trời ngắm trăng sao một hồi lâu rồi thở dài một tiếng lẩm bẩm:

– Bất cứ mẹ ta là người xấu hay tốt cũng vậy, bà vẫn là mẹ của ta!

Rồi chàng lại nghĩ tiếp:

– Nếu mẹ ta còn sống trên cõi đời này thì ta thương yêu mẹ ta biết bao!

Chàng nghĩ tới thôn nữ kia không hiểu tại sao nàng bỗng dưng đánh vào hai đùi gãy của mình như thế nên chàng lại nghĩ ngợi triền miên.

Vô Kỵ cứ nghĩ vơ vẫn như vậy và nằm trên mặt tuyết hai ngày nữa cũng không thấy thiếu nữ kia quay trở lại nữa.

Chàng đoán chắc nàng ta không bao giờ trở lại nữa.

Ngờ đâu chiều ngày thứ ba thôn nữ kia tay cầm cái rổ ở phía sau núi đi tới hỏi:

– Trư Bát Giới xấu xí ới, đã chết đói chưa?

– Mới chết đói nửa người thôi còn nửa kia chưa chết!

Thiếu nữ nọ thấy chàng trả lời như vậy cười khúc khích ngồi xuống cạnh chàng.

Ðột nhiên nàng giơ chân đá bộp vào chân đau của chàng một cái và hỏi:

– Nửa này chết hay còn sống?

Vô Kỵ lớn tiếng kêu la:

– Ối chà! Cô nương này vô lương tâm thực!

Thiếu nữ lại hỏi:

– Sao anh bảo tôi vô lương tâm? Anh đối với tôi đã tử tế gì chưa?

Vô Kỵ ngẩn người ta giây lát rồi nói:

– Hôm trước cô nương đánh tôi đau như vậy mà tôi không giận cô. Hai ngày hôm nay tôi còn nhớ cô nữa là khác!

Thiếu nữ mặt đỏ bừng đang định nổi giận nhưng cũng cố nén nói:

– Ai khiến anh, Trư Bát Giới xấu xí nhớ nhung tôi làm chi? Những cái gì mà anh nghĩ tới chắc không hay ho gì cả? Chắc trong bụng anh đang chửi tôi vừa xấu vừa độc ác chứ gì?

Vô Kỵ đáp:

– Cô không xấu nhưng không hiểu tại sao cô cứ muốn làm cho người khác đau đớn mới thích thú như thế?

Thiếu nữ nọ cười khúc khích trả lời:

– Người khác không đau khổ thì làm sao tỏ được niềm thích thú của tôi?

Nàng thấy Vô Kỵ có vẻ không vui nên nàng không nói tiếp nữa. Sau nàng lại thấy tay chàng đang cầm chiếc bánh ăn dở, nàng thấy cách ba ngày rồi mà chàng ta vẫn chưa ăn hết chỗ bánh đó liền hỏi:

– Miếng bánh này để mãi đến giờ mà chưa ăn hết! Có phải vì bánh không ngon đấy không?

– Không phải thế! Vì tôi thấy bánh này là của cô nương nên không nỡ ăn đấy thôi!

Thiếu nữ biết chàng nói thật bỗng cảm thấy bẽn lẽn nói tiếp:

– Tôi đã đem bánh mới đến đây cho anh ăn.

Nói xong, nàng lấy trong rổ ra rất nhiều thức ăn.

Ngoài mấy thứ bánh lại còn có một con gà quay và một cái đùi dê thui thơm phưng phức cầm trên tay vẫn còn nóng hổi.

Vô Kỵ mừng rỡ vô cùng vì hơn bốn năm nay chàng chỉ ăn có hoa quả với nhái huyết và thật chim nướng ngoài ra chưa được ăn thật gia súc chín.

Bây giờ chàng được ăn đùi gà quay nên thấy thơm ngon vô cùng.

Thiếu nữ nọ thấy chàng ăn có vẻ rất ngon lành liền tủm tỉm cười ngồi xếp chân bằng tròn xuống ngắm chàng ăn và nói:

– Trư Bát Giới xấu xí kia ăn trông ngon miệng thế! Tôi trông anh ăn cũng lấy làm thích thú lắm. Tôi đối với anh đúng là khác hẳn. Dù tôi không hại anh, anh cũng có thể làm cho tôi vui thú được.

Vô Kỵ vội đỡ lời:

– Người ta thích thú cô cũng thích thú thật chứ?

Thiếu nữ nọ cười nhạt đáp:

– Hừ! Tôi đã nói cho anh biết trước rồi trong lòng tôi lúc này đang thích thú nên không hại anh. Chưa biết chừng một ngày nào nếu tôi cảm thấy không còn thích nữa tôi lại làm cho anh bán sống bán chết ngay. Lúc ấy anh đừng có trách cứ tôi nhé!

Vô Kỵ lắc đầu nói:

– Từ thủa bé tới giờ tôi đã bị những người xấu hãm hại cho tới lớn rồi. Càng bị hãm hại bao nhiêu tôi càng cứng cỏi bấy nhiêu…

– Thôi anh đừng tự phụ nữa! Ðấy, rồi anh sẽ thấy!

– Chỗ đùi tôi lành hẳn tôi sẽ đi thật xa. Lúc ấy cô nương có muốn hành hạ tôi hay hại tôi cũng không kiếm thấy nổi tôi nữa.

– Nếu vậy trước hết tôi chém gãy lìa chân của anh trước để anh không thể rời xa tôi được nữa.

Nghe nàng nói vậy Vô Kỵ rùng mình sợ hãi vì chàng biết ai chứ cô thôn nữ này đã nói thì làm.

Thiếu nữ kia thấy Vô Kỵ ngẩn người ra nhìn mình liền thở dài biến sắc mặt lên tiếng hỏi:

– Bát Giới xấu xí kia, anh không xứng đáng để tôi chặt gãy đôi cẳng chó của anh chút nào cả!

Nói xong, nàng bỗng đứng phắt dậy, cướp lại những miếng thật gà, đùi dê mà Vô Kỵ chưa kịp ăn tới vứt ra xa và còn nhổ một bãi nước bọt vào mặt Vô Kỵ nữa.

Vô Kỵ ngẩn người ra nhìn, thấy nàng không có vẻ giận giữ, cũng không có vẻ khinh mình. Trái lại mặt nàng trông rất khổ não như đang có nỗi đau đớn phải giấu điếm đi không thể thổ lộ ra cho ai biết.

Vô Kỵ vốn là người hay động lòng trắc ẩn nên định khuyên giải nàng vài câu nhưng lúc này không nghĩ ra câu gì thích hợp để khuyên nhủ cả.

Thiếu nữ thấy thái độ của Vô Kỵ như vậy liền đột nhiên quát hỏi:

– Bát Giới đang nghĩ ngợi gì thế?

– Tại sao bỗng dưng cô nương lại buồn bực? Cô nương có thể cho tôi biết được không?

Thấy lời nói của chàng dịu dàng ngọt ngào nàng không sao giữ được lòng sắt đá nên ngồi phịch xuống cạnh Vô Kỵ ôm mặt khóc.

Thấy nàng thiểu não như vậy Vô Kỵ lại hỏi:

– Ai hà hiếp cô nương? Cứ cho tôi hay, sau khi chân tôi lành lặn tôi sẽ đi trả thù cho cô nương.

Thiếu nữ nín khóc ngay quay mình lại đáp:

– Không ai hà hiếp tôi cả, chỉ tại số kiếp của tôi xui xẻo mà nên, vì tôi nhớ thương một người và không bao giờ quên nổi người đó được.

Vô Kỵ gật đầu hỏi:

– Có phải hắn còn trẻ tuổi và đối đãi với cô nương rất bất nhân phải không?

– Phải, hắn còn trẻ, tính tình rất kiêu ngạo. Tôi bảo hắn theo tôi đi để gần gũi bên nhau suốt đời, hắn không chịu đi theo thì chớ lại còn sỉ nhục tôi, mắng tôi, đánh tôi, lại còn cắn tôi chảy máu nữa!

Vô Kỵ cả giận nói tiếp:

– Người đó hung ác và bướng bỉnh như vậy từ giờ trở đi cô nương đừng nghĩ tới hắn nữa!

Thiếu nữ nọ nước mắt lng tròng đáp:

– Nhưng…Nhưng không hiểu tại sao tôi cứ nhớ hắn. Hắn đi thật xa lánh mặt tôi còn tôi thì tìm hắn khắp nơi mà không thấy.

Nghe thiếu nữ nói Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Tình yêu lạ thật, mình không thể nào cưỡng ép được.

Cô nương đây mặt tuy xấu xí nhưng lòng dạ thật chí tình. Tính nết nàng có vẻ lạ lùng nhưng cũng có lẽ vì mối đau thương này gây nên cả .

Nghĩ đoạn chàng liền dịu giọng khuyên nhủ:

– Cô nương khỏi phải đau lòng như thế làm chi! Trên thế gian này thiếu gì đàn ông, cô nương hà tất phải lưu luyến một người đàn ông độc ác và phụ bạc như thế làm chi?

Thiếu nữ thở dài, ngước mắt nhìn về phía xa bâng khuâng.

Vô Kỵ biết nàng vẫn không sao quên được người yêu nên mới nói thêm:

– Dù sao người đàn ông đó cũng chỉ mới đánh cô nương có một lần thôi, hoàn cảnh của tôi còn bi đát hơn hoàn cảnh của cô nương nhiều.

– Anh nói gì? Anh bị một cô gái đẹp lừa dối hay sao?

– Thật ra nàng không định tâm lừa dối tôi mà chính tôi vì thấy nàng đẹp quá mà mê mẩn.

Ngẫm cho cùng tôi không xứng kết duyên với nàng.

Trong lòng tôi cũng không nghĩ tới điều đó nhưng hai cha con nàng đã ngầm bày độc kế đặng hãm hại tôi một cái thảm khốc vô cùng.

Nói xong, chàng vén tay áo lên cho thiếu nữ kia xem những vết sẹo chằng chịt trên cánh tay và nói:

– Cô nương xem, đây là những vết răng lũ chó của cô ta nuôi. Chúng đã cắn tôi, làm tôi đau đớn quằn quại.

Thiếu nữ nọ thấy tay chàng có nhiều vết sẹo như vậy liền nổi giận:

– Có phải con tiện tỳ Chu Cửu Chân hại anh đấy không?

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao cô lại biết rõ như vậy?

– Con tiện tỳ ấy ưa thích nuôi chó dữ. Quanh vùng này mấy trăm dặm ai ai cũng đều biết rõ.

– Những vết thương này lành lặn đã lâu rồi và tôi cũng đã từ lâu không thấy đau nữa. Tôi còn sống sót là đủ, tôi cũng không giận cô ta làm chi.

Thiếu nữ và Vô Kỵ nhìn nhau không chớp mắt, nàng không tìm thấy có vẻ gì hằn học thoáng qua trong đôi mắt chàng nên hỏi:

– Tên họ anh là gì? Sao anh lại tới đây?

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Từ khi ta trở về Trung Thổ đến giờ, ai ai cũng muốn dò la tung tích của nghĩa phụ ta. Họ dùng tới tất cả Những mưu kế hoặc quyến rũ, hoặc lừa gạt hoặc cưỡng bức nên ta mới khổ sở thế này. Từ nay về sau ta cứ coi như là Trương Vô Kỵ đã chết rồi. Trên thế gian này không còn ai biết đến chỗ ở của Tạ Tốn, nghĩa phụ ta nữa. Dù sau này có gặp người lợi hại gấp mười lần Trường Linh ta cũng sẽ không lọt vào âm mưu của người đó nữa. Chúng cũng không thể nào hại nghĩa phụ ta nổi .

Nghĩ đoạn chàng liền trả lời:

– Tên tôi là A Ngưu, cô cứ gọi là thằng Bò cũng được!

Thiếu nữ nọ mỉm cười hỏi tiếp:

– Thế họ là gì?

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Ta không nên dùng họ “Trương”, họ “Hân” hay họ “Tạ”. Chữ “Trương”

Với chữ “Hân” thiết âm là “Tăng” thì ta cứ dung họ là “Tăng” vậy. Nghĩ đoạn chàng liền đáp:

– Tôi họ Tăng, còn cô nương tên họ là gì?

Thiếu nữ thấy Vô Kỵ hỏi như vậy rùng mình một cái đáp:

– Tôi không có!

Một lát sau nàng lại từ từ nói tiếp:

– Cha tôi không nhận tôi là con, hễ thấy tôi là định giết chết tôi ngay, như vậy tôi theo họ của cha tôi sao được. Mẹ tôi lại bị tôi giết chết, tôi không thể theo họ mẹ được. Tôi xấu xí như thế này, từ nay trở đi anh cứ gọi tôi là Xú cô nương hay cô bé xấu xí cũng được rồi!

Vô Kỵ kinh ngạc hỏi tiếp:

– Cô…Cô giết chết mẹ cô? Làm gì có chuyện ấy!

– Việc này nói ra thì dài lắm. Tôi có hai người mẹ, người mẹ sinh ra tôi là cả, mãi cũng không có con. Tới khi cha tôi lấy bà mẹ hai, bà này sinh được hai anh và một chị đều được cha tôi mừng lắm. Sau này mẹ tôi sinh ra tôi mà tôi lại là con gái. Bà mẹ hai được cha tôi tin cậy và nuông chiều và bên ngoại của bà ta lại có vây cánh nên mẹ tôi thường bị bà ta hà hiếp. Mẹ tôi chỉ có khóc thầm thôi. Hai anh và chị tôi lại lợi hại lắm cứ giúp bà hai hà hiếp mẹ tôi. Anh bảo tôi biết làm sao được cơ chứ?

– Ðáng lẽ cha cô phải công bằng đối xử mới phải.

– Chỉ vì cha tôi bênh bà hai nên tôi mới dùng dao đâm chết mẹ hai tôi.

Vô Kỵ nghe nàng kể tới đó kêu “ủa” lên một tiếng kinh ngạc vô cùng. Chàng tuy là người Võ lâm, mấy năm nay cũng đã được trông thấy người ta giết người luôn. Ðáng lẽ không lấy gì làm lạ nhưng chàng nghe một cô gái quê tầm thường như thế này mà dám dùng dao giết người đã là lạ rồi mà trong lúc kể chuyện vẻ mặt nàng trông lại rất bình thản không có vẻ gì là khích động cả. Sau chàng lại nghe nàng từ từ nói tiếp:

– Mẹ tôi thấy tôi gây ra mối họa lớn ấy liền bảo vệ tôi đào tẩu ngay. Nhưng chi tôi đã theo dõi đuổi tới, bắt tôi đem trở về. Mẹ tôi ngăn cản không được nên đã tự tử chết ngay tại chỗ.

Anh thử nghĩ xem có phải tính mạng của mẹ tôi cũng do tôi giết hại không? Nếu cha tôi trông thấy tôi thế nào cũng giết chết tôi ngay có phải thế không?

Vô Kỵ nghe lời nói đó trống ngực đập rất mạnh nghĩ thầm:

– Tuy số ta xui xẻo thật, cha mẹ đều mất sớm nhưng hồi còn sống êm ai biết bao. cả hai người đều thơng yêu ta khôn tả. So sánh với cảnh ngộ của cô bé này thì cuộc đời ta còn sung sướng hơn nhiều .

Nghĩ tới đó chàng càng thông cảm với thiếu nữ kia liền dịu giọng hỏi:

– Cô rời khỏi nhà từ bao lâu rồi? Từ khi rời khỏi nhà cô vẫn sống một mình bên ngoài hay sao?

Thiếu nữ nọ gật đầu.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

– Cô định đi đâu thế?

– Tôi cũng không biết nên đi đâu cả. Trên thế gian này bao la biết bao. Tôi chạy hết Ðông lại sang Tây chỉ mong đừng có gặp phải cha, anh chị tôi thôi.

Nàng càng kể Vô Kỵ càng cảm thấy nàng rất đáng thương. Năm xưa chàng không quản vạn dặm xa xôi hộ tống Bất Hối lên tới miền tây này cũng chỉ vì thấy cô bé tội nghiệp thôi. Lúc này chàng thấy thiếu nữ kia rất tội nghiệp liền lên tiếng hỏi tiếp:

– Chờ chân tôi lành lặn, tôi sẽ đưa cô đi tìm đại ca nọ, hỏi xem y có còn thương cô nữa không?

– Nếu anh ấy đánh tôi cắn tôi thì sao?

– Hừ! Nếu y dám động đến người hay một sợi tóc của cô thì tôi cũng không để cho y yên đâu!

– Nếu anh ấy không nghĩ đến tôi, không thèm nói chuyện với tôi nửa lời thì sao?

Thấy nàng hỏi như vậy Vô Kỵ ngẩn người ra không biết trả lời ra sao cho phải.

Chàng nghĩ thầm:

– Dù Võ công của ta cao siêu đến đâu ta cũng không thể bắt buộc một người đàn ông yêu một thiếu nữ mà y không ưng được…

Nghĩ đoạn chàng liền cương quyết đáp:

– Tôi sẽ cố hết sức giúp cô!

Thiếu nữ đột nhiên ha hả cười hoài, cời đến nỗi cúi mình người ngả nghiêng trông như người khùng.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng hỏi:

– Tại sao cô lại cười như thế?

– Anh thử nghĩ xem, anh là người như thế nào mà bắt buộc được người khác phải nghe theo lời anh? Hơn nữa tôi đã đi tìm kiếm chàng ta khắp nơi cũng không thấy. Không biết bây giờ anh ấy có còn sống ở trên đời nữa không? Anh có tài ba gì mà anh bảo sẽ cố hết sức giúp tôi? Ha..Ha…

Vô Kỵ định trả lời tiếp nhưng thấy thiếu nữ kia cười đến mặt đỏ bừng không nói nên lời nên chàng cũng không dám nói tiếp nữa.

Thấy chàng ngập ngừng như vậy nàng liền mỉm cười hỏi:

– Anh muốn nói gì thế?

– Nếu cô còn cười tôi tôi sẽ không nói nữa!

– Hừ! Anh bảo tôi đừng cười nhưng tôi đã trót cười rồi…

– Tôi có lòng tốt và thành tâm muốn giúp cô như thế thật mà cô lại cười tôi như vậy thì cô thật không phải với tôi.

– Tôi hỏi anh, vừa rồi anh định nói gì thế?

– Tôi thấy cô sống cô đơn, có nhà mà không được về như vậy thật đáng thương vô cùng.

Còn tôi đây cũng giống cô, cha mẹ tôi cũng khuất núi rồi. Tôi không có một người anh chị em nào hết. Vừa rồi tôi định nói nếu chàng hung ác kia không còn đếm xỉa gì tới cô nữa thì chúng ta cùng kết bạn với nhau. Lúc cô buồn tôi có thể nói chuyện để cô khỏi sầu muộn nhưng cô bảo tôi không xứng đáng thì tùy cô vậy!

Hồi thứ 41

Oai Lực Vô Biên

Thiếu nữ nọ thấy Vô Kỵ nói như vậy liền cả giận đáp:

– Anh không xứng đáng thật chứ không phải là tôi nói ngoa chút nào. Dù sao chàng hung ác kia cũng còn đẹp trai hơn anh trăm nghìn lần. Không hiểu tại sao bỗng nhiên tôi lại ngu xuẩn đến thế. Cứ ở đây nói chuyện phiếm với anh làm chi cho bực mình thêm?

Nói xong, nàng vứt chỗ thật gà dê còn lại xuống đất lấy chân dẫm nát be bét rồi mới quay đầu chạy thẳng.

Những cử chỉ vô lý của thiếu nữ nọ không làm cho Vô Kỵ tức giận mảy may.

Chàng nghĩ thầm:

– Cuộc sống của cô ta quá đau khổ nên tính nết của cô ta mới hay cáu kỉnh như thế. Ta cũng không nên trách cứ cô ta làm chi!

Vô Kỵ vừa nghĩ xong thì có tiếng chân người chạy lại, thì ra thiếu nữ nọ đã quay lại vẻ mặt hậm hực lớn tiếng hỏi Vô Kỵ:

– Bát Giới xấu xí kia! Chắc trong lòng anh vẫn tấm tức, bảo tôi xấu xí như vậy mà còn khinh rẻ anh phải không?

Vô Kỵ lắc đầu đáp:

– Ðâu có! Cũng vì mặt của cô không đẹp lắm nên mới gặp nhau tôi đã muốn làm bạn với cô ngay. Nếu mặt cô không bỗng dưng xấu như thế này…

Thiếu nữ bỗng kinh hãi vội hỏi:

– Anh…Sao anh lại biết tôi trước kia không xấu xí như thế này?

– Vì lần này tôi gặp cô thấy mặt cô sưng lên hơn lần trước nhiều, da cũng đen hơn nhiều.

Nếu mặt cô vốn dĩ xấu xí như thế này thì không bao giờ có sự thay đổi như thế được.

– Tôi…tôi…Mấy ngày tôi không dám soi gương, không ngờ bộ mặt tôi lại xấu xí hơn trước!

– Mặt xấu hay đẹp không can hệ gì cả, quý hồ có lòng tốt là được rồi. Mẹ tôi dạy tôi, thường bảo những người đàn bà càng đẹp thì trong lòng càng độc ác, càng khéo lừa dối người. Vì vậy mẹ tôi đã dặn tôi phải đề phòng những người đàn bà ấy mới được.

Thiếu nữ kia không có tâm chí đâu mà nghe những lời nói đó của Vô Kỵ nên nàng vội hỏi:

– Lần đầu tiên anh gặp tôi thấy tôi không đến nỗi xấu xí như thế này phải không?

Vô Kỵ biết nếu trả lời “phải” thì nàng ta thế nào cũng đau lòng lắm. Nên chàng chỉ ngẩn người ra nhìn và trong lòng thì đau xót thay cho nàng thôi.

Thiếu nữ đó rất thông minh, thấy sắc mặt Vô Kỵ như thế đã biết chàng muốn nói gì rồi nên nàng hai tay bưng mặt khóc hậm hực nói:

– Tôi hận anh lắm! Tôi hận anh lắm!

Nói xong, nàng nọ bỏ đi, không thấy quay trở lại nữa.

Vô Kỵ nằm thêm hai ngày nữa, tối hôm đó có một con sói đói kiếm ăn, vừa đi vừa hếch mõm lên đánh hơi.

Chờ cho tới khi con sói tới cạnh mình Vô Kỵ giơ quyền lên đấm một cái con sói đó chết tốt. Nhờ vậy mà chàng lại có thức ăn.

Mấy ngày hôm sau, chân của Vô Kỵ đã lành nhiều rồi, có lẽ chỉ bẩy tám ngày nữa là có thể đi lại được như thường.

Chàng nghĩ thầm:

– Thôn nữ nọ không thấy quay trở lại nữa. Tiếc rằng hôm đó ta không hỏi tên họ nàng là gì.

Không hiểu tại sao mặt nàng càng ngày lại càng xấu thêm như vậy?

Nghĩ mãi chàng không hiểu tại sao cả rồi chàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Ngủ tới nửa đêm chàng bỗng nghe có tiếng động làm chàng thức tỉnh.

Chàng lắng tai nghe biết ngay có nàng ở đàng xa đi tới.

Lúc này Cửu Dương Thần Công của chàng đã luyện tới mức ba thành Hỏa Hầu rồi, dù có ngủ say tới đâu xung quanh trong vòng chục trượng hễ có tiếng động gì dù nhỏ là chàng hay biết ngay.

Chàng thấy có mấy người đi tới giật mình kinh hãi.

Tuy chân vẫn chưa đi được nhưng chàng đã có thể ngồi dậy.

Chàng nhìn về phía đó thấy dưới ánh trăng lờ mờ có bóng bẩy người đang đi tới.

Người đi trước thân hình mảnh khảnh, chàng nhịn ngay ra là thiếu nữ xấu xí kia, nhưng sau người theo sau nàng hình như có vẻ canh gác nàng sợ nàng bỏ trốn vậy.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ nàng đã bị cha và anh chị bắt được chăng? Nhưng tại sao lại tới nơi đây làm chi?

Chàng đang nghĩ thì thiếu nữ nọ với sáu người kia đã tới gần.

Trông thấy rõ mặt sau người kia Vô Kỵ giật mình hoảng sợ vô cùng.

Thì ra sáu người đó không phải ai xa la.

Phía bên trái ba người là Võ Thành Anh với cha nàng là Võ Liệt và sư huynh là Vệ Bích còn ba người đi bên phải là vợ chồng người trưởng môn của phái Côn Luân là Hà Thái Sung với Ban Thục Nhàn và người đi ngoài cùng là Ðinh Mẫn Quân người của phái Nga Mi.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Sao nàng lại quen với những người này? Chẳng lẽ nàng là người trong Võ lâm, đã biết rõ tung tích ta mới đem bọn người này tới để bắt ta để hỏi chỗ ở của nghĩa phụ ta chăng?

Nghĩ tới đó, Vô Kỵ hồ nghi và tức giận vô cùng.

Chàng lại nghĩ tiếp:

– Ta với ngươi không thù không oán gì với nhau, thế mà người dám hại ta như vậy… Hiện nay tuy hai chân ta vẫn cha cử động được. Sáu người kia người nào cũng võ nghệ cũng rất cao cường mà cả thôn nữ kia chưa biết chừng cũng là một cao thủ trong võ lâm. Hay là ta cứ giả bộ nhịn lời họ đi kiếm nghĩa phụ ta. Chờ cho chân ta lành hẳn lúc ấy ta sẽ xử với chúng sau .

Nếu là bốn năm về trước thế nào Vô Kỵ cũng sẽ thí mạng cho đối phương hành hạ ép buộc chàng ta vẫn nghiến răng không chịu nói.

Nhưng lúc này tuổi chàng đã lớn hơn nữa chàng đã luyện thành mấy thành công lực của Cửu Dương Thần Công tất nhiên tâm trí ổn định vững vàng hơn trước nhiều.

Dù chàng có gặp nguy nan gì cũng biết trầm tĩnh mà đối phó.

Vì vậy chàng chỉ cười nhạt mà không sợ hãi chút nào nên ngoài sự tức giận chàng còn đau lòng cho nhân tình thế thái nữa.

Chàng đành liều, nằm ngửa người ra khoanh tay lên gối đầu không thèm đếm xỉa gì tới bọn người đang đi tới nữa.

Thôn nữ nọ chạy tới trước mặt Vô Kỵ, lẳng lặng nhìn chàng hồi lâu rồi mới từ từ quay người đi.

Vô Kỵ thấy nàng thở dài một tiếng tuy rất nhẹ nhưng chàng cũng thấy được tiếng thở đó chứa đầy ai oán.

Chàng bèn cười nhạt nghĩ thầm:

– Muốn chém giết cứ việc ra tay đi hà tất phải giả bộ thương tiếc ta như thế làm chi?

Lúc ấy Vệ Bích đã múa trường kiếm và nói:

– Ngươi bảo trước khi chết thế nào cũng phải gặp mặt một người đã. Ta tưởng người đó phải là một thiếu niên anh tuấn đẹp trai như Phan An chẳng hạn, có ngờ đâu lại là một tên Trư Bát Giới. Hà Hà! Buồn cười thật. Quả thật người này với ngươi đúng là một đôi có một không hai ở trên mặt đất này…

Thôn nữ không hề tức giận chút nào chỉ lạnh lùng đáp:

– Phải! Trước khi chết tôi muốn tới đây trông thấy y một phen vì tôi muốn hỏi rõ y một câu này. Khi hiểu rõ câu chuyện đó rồi thì tôi dù có bị giết chết cũng cam lòng.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng vì chàng không hiểu ý nghĩa của lời nói của hai người. Hình như chàng nhịn thấy tình hình khác hẳn tưởng tượng của chàng vừa rồi. Sáu người kia vây bắt nàng và định giết hại nàng rồi nàng đòi phải tới đây để gặp mình nói có việc cần phải hỏi mình đã. Chàng nghĩ vậy liền hỏi:

– Cô nương có việc gì thế?

Thôn nữ đáp:

– Tôi có một câu muốn hỏi anh. Anh phải thật lòng trả lời cho tôi nhé!

– Nếu cô hỏi tôi viẹc của tôi việc gì tôi cũng có thể trả lời cô ngay được. Nếu cô hỏi việc người khác thì dù cô có chém tôi một nghìn nhát đao hay dù bắn tôi hàng vạn mũi tên tôi cũng không thổ lộ nửa câu cho cô biết đâu.

Sở dĩ chàng nói như vậy là vì chàng sợ thôn nữ kia hỏi tung tích của Tạ Tốn. Cho nên chàng phải nói như thế để chận họng thôn nữ kia trước.

Thôn nữ đó cười nhạt và nói tiếp:

– Việc của người thì quan hệ gì, hà tất tôi phải quan tâm tới. Tôi hỏi anh câu này, hôm nọ anh nói hai chúng ta đều là trẻ mồ côi khốn khổ, là những kẻ vô gia cư. Anh hứa bằng lòng kết bạn với tôi phải không? Lời của anh nói có thật không?

Vô Kỵ ngồi dậy, thấy hai mắt của nàng kia chứa đầy những đau đớn chàng vội đáp:

– Phải! Tôi nói thật đấy.

– Anh không chê tôi xấu xí mà bằng lòng sống với suốt đời đấy chứ?

Vô Kỵ thấy nàng nói như vậy ngạc nhiên vô cùng nhưng chàng không muốn làm nàng đau lòng bèn an ủi:

– Tôi không quan tâm đến vấn đề xấu hay đẹp ấy. Nếu cô muốn tôi gần cô để trò chuyện thì lúc nào tôi cũng sẳn sàng.

Thôn nữ với giọng run run hỏi tiếp:

– Vậy anh có bằng lòng cưới tôi làm vợ không?

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi, không lên tiếng được. Chàng lẩm bẩm tự nói:

– Tôi, tôi… không nghĩ tới… việc lấy vợ…

Chàng nghe Vệ Bích và Thanh Anh cùng thất thanh cả cười.

Vệ Bích còn chế nhạo:

– Ðấy ngươi xem, đến một anh chàng quê mùa xấu xí như thế này mà cũng không thèm cưới ngươi thì dù chúng ta không giết, ngươi sống ở trên đời này cũng chán lắm chi bằng đập đầu vào tảng đá lớn này chết quách còn hơn.

Vô Kỵ ngắm nhìn thôn nữ một hồi, thấy nàng ta cứ cúi đầu xuống, nước mắt nhỏ ròng trông thật tội nghiệp. Không biết nàng đau lòng vì sắp chết đến nơi hay vì bị người ta chê là xấu xí hoặc giơ nàng không chịu nổi những lời mỉa mai của Vệ Bích và Thanh Anh chăng?

Chàng cảm động vô cùng nghĩ thầm:

– Sau khi cha mẹ ta khuất núi, ta phải lưu lạc đây đó, đã chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ, bị không biết bao nhiêu người hà hiếp. Thiếu nữ này người mảnh khảnh yếu ớt như thế kia, tuổi lại kém mình mà cuộc đời của nàng lại còn đáng thương hơn mình nhiều. Giờ phút này không hiểu tại sao nàng lại hỏi ta vấn đề đó? Ta không nên làm nàng đau lòng nhỏ lệ và bị người khác làm nhục như thế. Huống hồ lời nói của nàng vừa rồi là thành thật hỏi chứ không giả dối chút nào hết. Có lẽ ngoài cha mẹ và nghĩa phụ ra ta cha hề được một người nào quan tâm đến ta như thế. Sau này ta đối đãi với nàng rất tử tế tất nhiên nàng cũng đối đãi với ta như vậy. Hai người cùng sống chung cho tới bạc đầu nhưvậy chẳng hơn là ta sống trơ trọi một mình hay sao?

Chàng thấy thiếu nữ kia chân tay run lẩy bẩy đang định cất bước rời khỏi chỗ mình ngồi chàng vội giơ tay trái ra nắm chặt lấy tay phải nàng lớn tiếng nói:

– Cô nương, tôi thành tâm vui lòng cưới cô làm vợ, chỉ mong cô đừng bao giờ bảo tôi là người không xứng đáng với cô là được.

Thiếu nữ nọ nghe chàng nói như vậy đôi ngươi bỗng sáng quắc, vẻ mặt hớn hở khẽ đáp:

– A Ngưu đại ca, anh không nói dối tôi đấy chứ?

– Tôi không biết lừa dối ai bao giờ. Từ nay về sau tôi sẽ hết sức thương yêu cô, trông nom cô, bất cứ có ai đến hà hiếp cô dù kẻ địch có bao nhiêu người và có lợi hại đến đâu tôi cũng bảo vệ cho cô được chu toàn. Dù có phải hy sinh tính mạng tôi cũng không sao miễn là thấy cô sung sướng, quên hết đau khổ trong dĩ vãng là được.

Thiếu nữ nọ liền ngồi ngay xuống mặt đất, dựa vào vai chàng, tay trái của nàng nắm luôn tay phải của Vô Kỵ.

Nàng định thần giây lát lại lên tiếng nói:

– Anh A Ngưu, anh đã bằng lòng lấy em làm vợ, em rất cám ơn. Người xấu xí như em thế này mà anh không hiềm tỵ chút nào. Mấy năm trước đây trái tim của em đã thuộc về người khác, nhưng lúc ấy người đó không thèm đếm xỉa đến em, nếu bây giờ người đó thấy em xấu xí như thế này chắc đến liếc nhìn em cũng không muốn. Tên tiểu quỉ chết non ấy…

Thanh Anh thấy hai người âu yếm nhau như vậy lạnh lùng nói:

– Y đã bằng lòng cưới ngươi rồi, chuyện tình cũng đã nói xong thì ngươi phải đứng đậy đi ngay chứ.

Thôn nữ nọ từ từ đứng dậy, nhìn Vô Kỵ và nói:

– Anh A Ngưu, em sắp chết đến nơi rồi, dù không chết em cũng không thể lấy anh được, nhưng em rất thích nghe những lời của anh vừa nói. Xin anh đừng giận em, lúc nào nhàn rỗi chỉ mong anh nhớ đến em trong chốc lát cũng đủ lắm rồi.

Nghe lời nói đó của thôn nữ rất nhu mì và ảo não.

Vô Kỵ không sao nhịn được liền ứa nước mắt ra.

Ban Thục Nhàn đã lên tiếng khàn khàn hỏi:

– Thế nào? Chúng ta đã để cho ngươi được toại nguyện rồi. Ðể cho ngươi gặp người này một lần thì ngươi cũng phải giữ lấy chữ tín mà nói cho chúng ta hay chỗ ở của ngươi chứ.

Thôn nữ nọ đáp ngay:

– Ðược, tôi đã ẩn núp ở nhà người kia.

Nàng vừa nói vừa chỉ vào Võ Liệt.

Võ Liệt bỗng biến sắc mặt vội mắng chửi:

– Nói bậy nào!

Vệ Bích lại hỏi :

– Chúng ta hỏi ngươi tại sao ngươi lại giết chết cô em họ ta là Chu Cửu Chân? Chẳng hay ai đã xúi bẩy ngươi như thế?

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội hỏi:

– Giết chết cô… Cửu Chân thật?

Vệ Bích trợn trừng mắt nhìn chàng hậm hực hỏi:

– Người cũng biết cô Cửu Chân hay sao?

Vô Kỵ đáp:

– Ðại danh của Tuyết Lãnh Song Chu lừng lẫy như thế, ai mà chẳng biết tới.

Thanh Anh nhếch mép tủm tỉm cười nhưng lại quát hỏi:

– Này! Chẳng hay ngươi bị ai xui khiến?

Thôn nữ đáp:

– Người xúi ta đi giết chết Cửu Chân chính là vợ chồng Hà Thái Sung thuộc phái Côn Luân và Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi.

Võ Liệt quát lớn:

– Ngươi đừng có giở giọng ly gián như thế nữa, không ai tin đâu.

Nói xong, y múa chưởng đánh mạnh thôn nữ kia.

Chưởng của y đi tới đâu làm tuyết bay tung tới đó.

Thôn nữ đó không dám chống đỡ chưởng của Võ Liệt, vội lẹ chân tránh luôn.

Thân pháp của nàng rất kỳ ảo nên không ai trông thấy rõ nàng tránh né ra sao.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Thế ra…nàng quả là người trong Võ lâm. Nàng đã giết chết Chu Cửu Chân cũng vì ta mà nên. Ta đã cho nàng hay ta bị Chu Cửu Chân đánh lừa, những vết sẹo trên người ta là những vết chó cắn của lũ ác khuyển do Cửu Chân nuôi. Nhưng ta đâu có bảo nàng đi giết người đâu? Ta cứ tưởng vì bộ mặt xấu xí mà khiến tính nết của nàng quái dị nh thế nhưng có ngờ đâu nàng lại ra tay giết người như vậy .

Vệ Bích và Thanh Anh cùng múa trường kiếm chia ra tả hữu xông lại tấn công.

Vô Kỵ ngồi yên xem.

Thấy nàng thôn nữ đó nhảy sang đông, tránh sang tây chỉ chú ý tránh né chưởng lực của Võ Liệt thôi chứ không đếm xỉa đến hai thanh trường kiếm của Thanh Anh và Vệ Bích.

Ðột nhiên nàng xoay người một cái đã tới cạnh Thanh Anh liền.

Nàng giơ tay lên tát đối thủ một cái như trời giáng, thuận tay cướp luôn cả trưng kiếm của Thanh Anh nữa.

Thanh Anh kinh hãi thất thanh kêu la ngã ngửa người về phía sau.

Sự thật nàng ta có bị thương nặng đâu, nhưng vì nàng sợ bộ mặt bị thương trở nên xấu xí, và thấy trên má, chỗ bị tát, đau như dao cắt.

Trong lòng lại càng kinh hãi thêm.

Võ Liệt giơ chưởng trái ra, định ấn vào người thôn nữ.Nhưng nàng nọ né luôn, đồng thời múa trường kiếm chém vào kiếm Vệ Bích một cái.

Vô Kỵ thấy cổ tay của thôn nữ nọ xoay một cái rất kỳ lạ, thanh trường kiếm của Vệ Bích đã rời khỏi tay y, bay tung lên trên trời liền đồng thời đúng lúc ấy hai yếu huyệt nơi đùi nàng cũng đã bị Võ Liệt dùng Nhất Dương chỉ điểm trúng.

Nàng chỉ kêu hự một tiếng rất khẽ rồi ngồi phịch xuống đùi Vô Kỵ.

Thân hình nàng mềm nhũn không sao cử động được đủ thấy Nhất Dương chỉ của Võ Liệt lợi hại biết dường nào.

Nhưng Võ Liệt cũng là người khá quang minh nên y chỉ điểm cho nàng mất hết sức lực phản kháng thôi chứ không hề bị đau đớn chút nào.

Bằng không y chỉ điểm chếch lên một chút nàng không những bị phế hết võ công mà còn toi mạng nữa là khác.

Thanh Anh nhặt thanh trường kiếm của Vệ Bích lên hậm hực nói:

– Con nhãi xấu xí này, ta không thể để cho ngươi chết một cách chóng vánh đâu! Ta phải chặt hai tay, hai chân của ngươi đi, để mặc ngươi ở đây cho chó sói ăn thật.

Nàng vừa nói vừa giơ thanh kiếm lên nhằm cổ tay của thôn nữ nọ chém xuống.

Võ Liệt vội ngăn cản:

– Hãy khoan!

Y vừa nói vừa gạt thanh kiếm của con gái sang một bên, đồng thời y nói với thôn nữ:

– Ngươi cứ nói người xúi giục ngươi là ai, ta sẽ cho người chết một cách chóng vánh, bằng không hừ..hừ… ta sẽ chặt chân tay ngươi trước để cho ngươi lăn lộn trên mặt tuyết kêu đau, muốn chết cũng không được.

Tuổi tuy còn trẻ nhưng thôn nữ kia can đảm vô cùng.

Nàng mỉm cười nói:

– Nếu các người cứ bắt tôi phải nói ra tôi không thể giấu diếm các người mãi được. Sự thật như thế này, Cửu Chân muốn lấy một người đàn ông, không ngờ có một cô nương xinh đẹp khác cũng muốn lấy chàng ấy. Hai người thiếu nữ đẹp ngang nhau nên chàng thanh niên kia không biết lấy ai bỏ ai. Thế cho nên nàng thiếu nữ xinh đẹp kia liền xúi tôi giết chết cô nương Cửu Chân. Ðáng lẽ việc này tôi phải giữ bí mật…

Nàng đang định nói tiếp Thanh Anh đã mất hết sắc mặt, giơ kiếm lên, nhằm giữa ngực nàng ta đâm tới.

Xem thái độ của Thanh Anh, Vệ Bích và của Cửu Chân ba người thiếu nữ nọ đã đoán biết tám chín phần về chuyện bí mật của ba người nên bây giờ nàng mới đặt điều như vậy là để chọc tức Thanh Anh, thế nào Thanh Anh cũng nhịn không được mà đâm chết nàng luôn.

Như vậy nàng không sợ bọn chúng hành hạ bằng cách chặt gãy chân tay nữa.

Thanh kiếm của Thanh Anh sắp đâm tới ngực thôn nữ kia thì bỗng thấy có vật giơ phải tới mà không hề có chút tiếng động gì cả.

Vật đó vừa đụng vào lưỡi kiếm Thanh Anh đã thấy hổ khẩu tay bị chấn động rất mạnh, thanh kiếm của nàng cũng bị gãy bắn ra đằng xa hơn hai mươi trượng mới rơi xuống đất.

Trong bóng tối, không ai nhìn rõ thanh bảo kiếm của Thanh Anh làm sao mà lại bị bắn tung đi như thế.

Mọi người biết Thanh Anh có dùng sức ném thanh kiếm đi cũng không sao đi xa như thế được.

Mấy người thấy thiếu nữ kia được một người nào đó rất mạnh giúp sức ngấm ngầm cả sáu đều kinh ngạc vội lui về phía sau mấy bước, nhìn trước nhìn sau tìm kiếm kẻ cường địch kia. Nhưng không thấy hình bóng người nào cả.

Ai nấy đều ngơ ngác nhìn nhau, hòai nghi vô cùng, Võ Liệt khẽ hỏi:

– Thanh Nhi, con có việc gì không?

Thanh Anh đáp:

– Hình như có một cái ám khí nào đó rất lợi hại đã đẩy bật thanh kiếm của con đi.

Võ Liệt lại đưa mắt nhìn xung quanh quả thực không thấy có hình bóng ai cả lẩm bẩm nói:

– Hay là con nhãi này có phép thuật chăng?

Võ Liệt kinh ngạc vô cùng nghĩ thầm:

– Rõ ràng là vừa rồi nó đã bị ta dùng Nhất Dương chỉ điểm trúng thì còn hơi sức đâu mà đẩy được trường kiếm của Thanh Anh con gái ta văng đi xa như thế được. Võ công của con nhãi này tà quái thật .

Nghĩ đoạn y liền tiến lên giơ chưởng đánh vào vai trái của thôn nữ kia một chưởng.

Nếu chưởng đó đánh trúng thì xương đầu vai của thôn nữ kia thế nào cũng bị vỡ tan.

Y định phế hết Võ công của đối phương rồi để cho con gái mình đánh đập cho bõ tức.

Bàn tay của Võ Liệt chỉ còn bẩy tám tấc là đánh tới vai của thiếu nữ kia.

Y yên trí xương vai của nàng thế nào cũng vỡ ngờ đâu thôn nữ nọ giơ chưởng trái lên chống đỡ chưởng của Võ Liệt liền.

Hai chưởng vừa chạm nhau Võ Liệt đã thấy trước ngực nóng ran, chưởng lực của đối phương mạnh không sao tưởng tượng được.

Y chỉ kêu “ủa” một tiếng người đã bị chưởng lực của đối phương đẩy bắn lên cao, bay ra ngoài xa mới rơi xuống.

Cũng may Võ công của y rất thâm hậu nên lưng vừa chạm mặt đất đã đứng dậy được ngay. Nhưng y vẫn cảm thấy khí huyết trong người đảo lộn, mặt mũi tối sầm.

Y định vận nội công để chống lại nhưng vẫn không đủ sức mà phải ngã gục xuống đất.

Vệ Bích và Thanh Anh thấy vậy cả kinh vội chạy lại đỡ Võ Liệt dậy nhưng Hà Thái Sung đã la lớn:

– Hãy để cho ông ta nằm nghỉ giây lát dưỡng thương đã!

Thanh Anh quay đầu lại giận dữ hỏi:

– Ông nói gì thế?

Tuy nàng nói như vậy nhưng trong lòng nghĩ thầm:

– Cha ta đã bị kẻ địch ám hại ngươi lại còn muốn đổ thêm dầu vào lửa? Không tới đây cứu giúp thì chớ lại còn nói mỉa mai nữa?

Hà Thái Sung đáp:

– Trong lúc khí huyết đảo lộn nên để ông ta nằm yên mới khỏi nguy hiểm.

Vệ Bích tình ngộ ngay khẽ đặt sư phụ xuống đất.

Hà Thái Sung với Ban Thục Nhàn hai vợ chồng đưa mắt nhìn nhau, trong lòng kinh ngạc vô cùng.

Vì hai người đã ra tay đấu với thôn nữ đó rồi, tuy thấy võ công củ đối thủ khá tinh diệu thật nhưng nội công chưa thể tới mức thượng thừa như thế.

Vừa rồi hai vợ chồng thấy thôn nữ kia đấu chưởng với Võ Liệt rõ ràng nàng ta đã dùng nội công thượng thặng đánh bắn Võ Liệt ra xa hơn trượng nên hai người mới hoài nghi như thế. Không riêng hai người mơ hồ mà cả thôn nữ nọ cũng ngạc nhiên hết sức vì sau khi bị Võ Liệt dùng Nhất Dương chỉ điểm trúng yếu huyệt đã phải té ngã luôn vào lòng Vô Kỵ, chân tay không thể cử động được.

Nàng trông thấy rõ Thanh Anh múa kiếm xông tới định giết chết mình.

Nhưng nàng không thể trông thấy từ đâu có vật gì đó bay tới đánh bật thanh kiếm của Thanh Anh bắn đi.

Sau đó nàng lại cảm thấy hai yếu huyệt nơi đùi vừa bị điểm bỗng có một luồng hơi nóng hổi như lửa đỏ, dồn vào trong người nàng và giải luôn huyệt cho nàng nữa.

Nàng vội cúi đầu nhìn xuống mới hay hai tay của Vô Kỵ đang nắm cổ chân mình, hơi nóng từ đó cứ ngùn ngụt bốc lên khiến nàng cảm thấy dễ chịu vô cùng.

Nàng chưa kịp nghĩ ngợi đã thấy chưởng của Võ Liệt đánh tới liền thuận tay chống đỡ luôn. Nàng quyết dù bị gãy cổ tay cũng không để cho kẻ địch đánh vỡ xương vai mình.

Ngờ đâu lúc hai chưởng chạm nhau, nàng đã thấy Võ Liệt bị chưởng của mình đẩy bắn ra xa hơn một trượng.

Nàng ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ tên Bát Giới xấu xí này lại là một đại cao thủ Võ lâm cao siêu không thể tưởng tượng được chăng?

Hà Thái Sung có vẻ sợ hãi chưởng lực của thôn nữ kia không dám đối chưởng với nàng vội rút kiếm ra khỏi bao và nói:

– Ðể ta lãnh giáo Võ công của cô nương này.

Thôn nữ vừa cười vừa và nói:

– Tôi không có kiếm.

Hà Thái Sung dùng chân trái móc trường kiếm của Thanh Anh đang nằm dưới đất hất mạnh một cái, thanh kiếm đó cán kiếm ở phía trước, lưỡi ở phía sau là là bay tới trước ngực thôn nữ nọ.

Thiếu nữ giơ tay ra bắt luôn lấy thanh kiếm đó.

Dù sao Hà Thái Sung cũng là trưởng môn của một đại môn phái nên y không muốn tấn công tiểu bối trước bèn nói:

– Cô tấn công trước đi, tôi nhường cho cô ba thế trước rồi mới phản công.

Thôn nữ liền múa kiếm đâm thẳng luôn vào bụng dưới đối thủ.

Hà Thái Sung nổi giận trầm giọng nói:

– Tiểu bối thật vô lễ!

Y liền giơ kiếm lên chống đỡ ngay, chỉ nghe thấy “cách” một tiếng hai thanh kiếm đều gãy cả. Hà Thái Sung biến sắc mặt nhảy lùi ra ngoài xa chừng hơn trượng. Thiếu nữ lẩm bẩm nói:

– Tiếc thực!Tiếc thực!

Thì ra Vô Kỵ truyền Cửu Dương Thần Công vào trong người nàng nhưng nàng không biết phát huy oai lực của thần công nên mới để cho cả hai thanh kiếm cùng gãy như thế.

Nếu nàng biết vận sức tấn công thì chỉ kiếm của địch thủ gãy thôi chứ thanh kiếm của nàng không việc gì hết.

Ban Thục Nhàn ngạc nhiên hỏi Hà Thái Sung rằng:

– Làm sao thế?

Hà Thái Sung vẫn thấy cánh tay tê tái gượng cười đáp:

– Nó có tà thuật chắc!

Ban Thục Nhàn rút trường kiếm ra, sầm nét mặt nói:

– Ðến lượt tôi lãnh giáo xem!

Thiếu nữ nọ giơ hai tay lên tỏ ý muốn nói rằng mình không có kiếm.

Ban Thục Nhàn chỉ thanh kiếm của Vệ Bích nằm ở trên mặt đất chỗ cách nàng chừng hai mươi trượng nói tiếp:

– Cô nương hãy lấy thanh kiếm kia mà sử dụng.

Thiếu nữ nọ biết hễ rời khỏi Vô Kỵ là mình không còn công lực lợi hại như thế nữa nên nàng không dám ra nhặt lấy đành phải giơ thanh kiếm gãy lên nói:

– Thôi để tôi sử dụng thanh kiếm gãy này cũng được vậy.

Ban Thục Nhàn cả giận nghĩ thầm:

– Con nhãi này làm bộ thật, nó khinh thường ta quá .

Ban Thục Nhàn không như Hà Thái Sung lúc nào cũng phải giữ thân phận của một cao nhân tiền bối nên nàng không nói không rằng đã múa kiếm nhắm cổ địch thủ đâm luôn.

Thôn nữ giơ đoạn kiếm gẫy lên chống đỡ.

Kiếm pháp của Ban Thục Nhàn lanh lẹ vô cùng thấy đối thủ giơ kiếm lên chống đỡ vội xoay thế đâm luôn xuống vai trái của địch thủ.

Thôn nữ lại lấy thanh kiếm gãy chống đỡ.

Ban Thục Nhàn lại xoay kiếm từ dưới hông bên phải lên.

Mụ tấn công liền tám đường kiếm nhng không hề dám cho kiếm của mình động vào thanh kiếm của địch.

Thì ra Ban Thục Nhàn thấy nàng thôn nữ vừa ra tay, tuy không rõ nguyên nhân ra sao nhưng cũng đoán được nội lực của nàng ta mạnh vô cùng.

Vì vậy mụ mới quyết định phát huy những sở trường của kiếm pháp của mình không cho đối phương có dịp may giở nội lực ra thi thố.

Quả nhiên thôn nữ kia cứ phải đỡ trái, đỡ phải nên bị nguy hiểm luôn.

Với kiếm pháp của nàng tuy không bằng Ban Thục Nhàn cũng có thể chống đỡ hơn trăm hiệp đấu nhưng khổ nỗi tay nàng chỉ có một đoạn kiếm gãy, hai chân lại không dám xê dịch nhiều vì thế kiếm pháp cũng kém đi.

Ðấu thêm một lát, kiếm của Ban Thục Nhàn đã đâm trúng cánh tay trái của nàng một nhát. Kiếm pháp của phái Côn Luân có phải tầm thường đâu.

Ban Thục Nhàn đã đâm trúng địch thủ một kiếm thì khi nào mụ để cho địch thủ có dịp trở tay.

Tiếp theo đó nàng thôn nữ kêu “ối” một tiếng đầu vai nàng đã bị đâm trúng một kiếm nữa. Nàng lớn tiếng hỏi:

– Này, anh không giúp tôi nữa hay sao. Anh cứ để yên cho người ta hà hiếp tôi vậy hay sao?

Ban Thục Nhàn lùi lại phía sau hai bước giơ kiếm lên ngang hông nhìn bốn phía xung quanh không thấy có một bóng người nào cả.

Tiếp theo đó mụ ta liền múa kiếm xông lại đâm chém thôn nữ nọ liên tiếp.

Thôn nữ múa kiếm lên chống đỡ luôn ba thế.

Kiếm của đối phương nhanh kỳ lạ, nàng chống đỡ cũng nhanh tuyệt luân.

Ban Thục Nhàn thấy kiếm nào đâm sắp trúng đến nơi cũng bị đối phương chống đỡ được nên mụ cũng phải buột miệng khen:

– Con nhãi này đỡ cũng khá nhanh đấy.

Thôn nữ cũng không vừa mắng lại:

– Mụ giặc cái kia, kiếm pháp của mụ cũng khá nhanh đấy.

Dù sao Ban Thục Nhàn cũng là một tay kiếm lão luyện hơn nên thôn nữ kia cứ chăm chú mà chống đỡ thì không sao chứ nàng lên tiếng nói, hơi sao lãng một chút đã thấy cổ tay đau nhức, thanh kiếm gẫy bắn luôn ra xa.

Thôn nữ vừa kinh hãi thất thanh kêu “ủa” một tiếng thì kiếm thứ hai của Ban Thục Nhàn đã đâm tới bên dưới hông của nàng.

Ðinh Mẫn Quân đứng cạnh đó xem thấy lúc này có dịp may không kịp rút kiếm ra liền múa chưởng sử dụng thế Thôi Song Vọng Nguyệt xông lại tấn công vào lưng thôn nữ kia.

Ðồng thời Thanh Anh cũng tung mình nhảy lên phải chân đá vào hông nàng thôn nữ.

Bị mấy người cùng tấn công một lúc, thôn nữ nọ sợ hãi không tưởng tượng được, hầu như trái tim nàng muốn nhảy bật tung ra khỏi lồng ngực vậy.

Nhưng nàng bỗng cảm thấy khắp mình mẩy nóng ran như ngã vào đống lửa vậy, nàng vội giơ tay lên búng luôn vào trường kiếm của Ban Thục Nhàn nhưng lúc đó nàng cũng bị chưởng của Ðinh Mẫn Quân và cước pháp của Thanh Anh đánh trúng. chỉ nghe thấy mấy tiếng “ối chà…ối” thảm khốc vô cùng, Ðinh Mẫn Quân và Thanh Anh đã bị đẩy bắn lùi về phía sau và thanh kiếm trong tay Ban Thục Nhàn cũng bị gãy làm đôi.

Thì ra Vô Kỵ thấy tình thế quá nguy ngập liền dồn hết chân khí sang người thiếu nữ kia.

Lúc này Vô Kỵ đã luyện Cửu Dương Thần Công đã được ba thành công lực rồi, oai lực mạnh vô cùng nên nàng thôn nữ giơ tay búng một cái mà thanh trường kiếm của Ban Thục Nhàn phải gãy làm đôi.

Còn hai tay của Ðinh Mẫn Quân và chân của Thanh Anh đều bị sức mạnh của Cửu Dương Thần Công chín động đến gãy rục cả.

Hà Thái Sung, Võ Liệt và Vệ Bích ba người thấy oai lực của Cửu Dương Thần Công như vậy đều kinh hãi đến đờ người ra.

Ban Thục Nhàn vứt thanh kiếm gãy xuống đất hậm hực nói:

– Ði thôi, như vậy còn không đủ xấu hổ hay sao?

Mụ ta trợn mắt nhìn chồng tỏ vẻ oán hận vô cùng.

Hà Thái Sung không dám trái lệnh, hai người liền quay mình đi luôn. chỉ trong thoáng cái vợ chồng Hà Thái Sung đã đi thật xa và mất bóng liền còn Vệ Bích tay đỡ sư phụ, tay đỡ sư muội từ từ đi khỏi. cả ba đều sợ hãi thôn nữ kia thừa thắng mà đuổi theo nhưng họ không thể nào bắt chước vợ chồng Hà Thái Sung mà đào tẩu được nên cứ một bước là hãi sợ một bước.

Ðinh Mẫn Quân bị gẫy hai tay nhưng chân vẫn lành lặn nên nàng ta nghiến răng mím môi chịu đựng một mình rời khỏi chốn ấy.

Thôn nữ nọ đắc chí vô cùng ha hả cười một hồi:

– Anh Bát Giới xấu xí ơi, anh thực….

Nàng mới nói được có thế đã thấy nghẹt thở chết giấc liền.

Thì ra Vô Kỵ giúp nàng đẩy lui cường địch rồi chàng liền rụt tay lại.

Trong người của thôn nữ đang chứa đầy Cửu Dương chân khí nay Vô Kỵ bỗng buông tay ra, nàng cảm thấy như người bị hư thoát, chân tay rã rời không còn một chút hơi sức nào cả. Vô Kỵ giật mình kinh hãi nhưng chàng biết liền vội dùng ngón tay khẽ dờ vào nhân trung nàng và vận thần công dồn sang.

Lúc này thôn nữ kia mới từ từ tỉnh giấc.

Nàng mở to mắt ra nhìn thấy mình đang nằm trong lòng Vô Kỵ và thấy chàng ta đang nhìn mình khúc khích cười mới xấu hổ vô cùng liền tung mình đứng dậy rồi đột nhiên giơ tay lên nắm lấy tai chàng mà véo một cái thật mạnh, mồm thì mắng:

– Anh Bát Giới xấu xí, anh lừa dối em. anh có võ công lợi hại như vậy mà anh không cho em biết.

Vô Kỵ bị nàng ta véo tai đau quá la lớn:

– Em làm gì thế?

– Ai bảo anh gạt em?

– Anh có gạt em bao giờ đâu. Anh chỉ không nói cho em biết là anh có biết võ công thôi.

Mà em cũng vậy có nói cho anh biết là em có võ công đâu.

– Ðược! Em tha thứ cho anh lần này, vừa rồi nhờ anh giúp cho một tay em mới hạ được kẻ cường địch. Như vậy là lấy công chuộc tội, em không truy cứu việc ấy nữa. Bây giờ chân của anh đã đi được chưa?

– Chưa.

– Cũng may, người có lòng tốt bao giờ cũng được đền bù. Nếu em không nhớ anh, quay lại đây tìm thăm anh lạnh lung cuối thì anh cũng không ra tay cứu em được. Nếu em sớm biết anh có bản lĩnh cao cường như thế này thì em không thèm đi giết con nhãi Chu Cửu Chân hộ anh làm gì.

– Anh có bảo em đi giết nàng đâu!

– Anh vẫn còn nhớ nhung con bé đẹp đẽ đó. chỉ tại em không phải nên đã giết hại ý trung nhân của anh.

– Chu cô nương không phải là ý trung nhân của anh, dù nàng có đẹp đến đâu cũng không liên can gì đến anh hết.

– Thế thì lạ thực, con nhỏ ấy đã hãm hại anh đến mức đó, em giết nó đi để trả thù cho anh như vậy không nên hay sao?

– Người hãm hại anh quá nhiều, nếu người nào cũng phải giết hết cho bõ tức thì giết làm sao cho xuể. Huống hồ có Những người định tâm hại anh mà về phần anh thì lại thấy họ tội nghiệp và đáng thương lắm. Cũng như Cửu Chân chẳng hạn, suốt ngày nàng cứ nơm nớp lo sợ không yên, chỉ sợ Vệ Bích không yêu nàng và chàng ta sẽ lấy nàng Thanh Anh làm vợ.

Ðấy em thử xem, nàng ta sống như thế có cái gì sung sướng nào?

Thôn nữ nọ sầm nét mặt nổi giận hỏi:

– Có phải anh mỉa mai em đấy không?

Vô Kỵ ngẩn người ra giây lát, chàng không ngờ nói tới Cửu Chân lại khiến cho cô bé này nổi giận như vậy nên chàng vội đổi giọng:

– Không! Không! Tôi nói mỗi người có một số kiếp riêng đó thôi. Người khác không làm mất lòng cô, cô giết hại người ta như vậy thì không tốt.

Thôn nữ cười nhạt đáp:

– Anh học võ nếu không dùng để giết người thì học làm chi?

– Chúng ta học võ là để tự vệ chứ có phải để giết người đâu?

– Tôi phục anh lắm, thế ra anh là một người rất chính nhân quân tử, một người rất tốt bụng đấy.

Vô Kỵ cúi đầu liếc nhìn nàng thấy thái độ và cử chỉ của cô ta trông rất quen, nhưng chàng không nhớ đã gặp ở đâu rồi thôi. Nàng thôn nữ bỗng ngửng mặt lên hỏi:

– Anh làm gì thế?

– Mẹ tôi vẫn thường cho tôi là người quá hiền lành. Lúc mẹ tôi nói chuyện thái đọ cũng giống như em vậy!

Hồi thứ 42

Nhện Độc Phản Kháng

Nàng nọ bất giác đỏ bừng mặt, trách mắng:

– Anh đừng có nói bậy! Thế ra anh nói tôi giống mẹ anh còn anh thì giống cha anh phải không?

Miệng tuy khiển trách nhưng mặt nàng vẫn tỏ vẻ vui cười.

Vô Kỵ vội cải chính:

– Trời ơi! Nếu tôi có lòng như thế thì trời đánh thánh vật tôi ngay.

– Nói bông một tý không sao, việc gì anh phải thề nặng như vậy…

Nàng vừa nói tới đó phía Ðông Bắc có một tiếng rú lảnh lót.

Hai người nhận ngay ra tiếng rú đó của một người đàn bà.

Sau đó hai người lại nghe thấy có tiếng rú ở gần đó đáp lại.

Người rú sau là Ðinh Mẫn Quân mới đi khỏi.

Thôn nữ biến sắc mặt:

– Phái Nga Mi lại có người tới đấy!

Hai người nhịn thấy tiếng rú đằng xa lại còn lớn hơn tiếng rú của Mẫn Quân ở gần đó, đủ thấy công lực của người đó cao Mẫn Quân nhiều.

Mẫn Quân nghe tiếng rú đó liền ngương bước lại không đi nữa.

Vô Kỵ cùng thôn nữ nọ nhìn về phía Ðông Bắc xem là ai tới.

Lúc ấy trời đã bắt đầu tảng sáng, hai người thấy một bóng người màu xanh lướt tới cạnh Mẫn Quân.

Vô Kỵ trông thấy thiếu nữ đó nói với Mẫn Quân vài lời, đưa mắt nhìn nàng thôn nữ và Vô Kỵ rồi nàng ta tiến lại gần.

Bước đi của nàng ta rất nhỏ nhưng rất nhanh. chỉ trong thoáng chốc nàng đã tới chỗ cách hai người chừng bốn năm trượng.

Vô Kỵ thấy nàng đó xinh đẹp vô cùng, tuổi trạc mười by, mười tám.

Chàng ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

– Nghe tiếng rú và thấy thân pháp của nàng ai cũng phải đoán chắc nàng lớn tuổi hơn Mẫn Quân, ngờ đâu nàng ta lại còn nhỏ tuổi hơn cả mình nữa .

Chàng thấy thiếu nữ đó đeo một thanh đoản kiếm, nhưng không rút khí giới ra, chỉ tay không tới gần.

Mẫn Quân thấy nàng đó đi tới gần hai người liền lên tiếng cảnh báo:

– Chu sư muội hãy cẩn thận, Võ công của nó như là có yêu thuật vậy.

Thiếu nữ nọ gật đầu với giọng nói rất văn vẻ hỏi:

– Chẳng hay hai vị quý tính đại danh là gì? Tại sao hai vị lại đả thương sư tỷ tôi như vậy?

Nàng nọ tới gần, trông thấy mặt nàng ta rất quen, chờ tới khi nàng nọ lên tiếng hỏi Vô Kỵ mới nghĩ ra:

– Thế ra nàng là Chu Chỉ Nhược cô nương mà ta đã gặp gỡ trên sông Hán Thủy. Trương thái sư phụ ta dẫn nàng lên núi Võ Ðang, tại sao nàng lại thành môn hạ của phái Nga Mi được?

Chàng nóng lòng muốn dò hỏi tình hình của Trương Tam Phong gần đây ra sao. Nhưng chàng lại nghĩ thầm:

– Trương Vô Kỵ đã chết rồi. Ta bây giờ chỉ là một người nhà quê, Bát Giới xấu xí, họ Tăng tên A Ngưu. Nếu ta không nhẫn nại chỉ để sơ hở một chút thì cho người ta biết tên tuổi thật của mình thì sau này tai họa đến tới tấp. Bất cứ trước mặt ai ta cũng không thể tiết lộ thân phận của ta được. Như vậy nghĩa phụ mới khỏi bị tai vạ và cha mẹ ta mới khỏi chết oan và uất hận mãi mãi.

Nghĩ tới cái chết của cha mẹ, nghĩ tới nghĩa phụ đang sống độc thân ngoài hoang đo, dù có nguyên nhân lớn đến đâu chàng cũng không dám cho ai biết mình là ai cả.

Nàng thôn nữ nọ cười nhạt một tiếng và trả lời Chu Chỉ Nhược:

– Hồi nãy lệnh sư tỷ dùng song chưởng sử thế Võ Thôi Song Vọng Nguyệt đánh vào sau lưng của ta rồi tự nhiên gãy hai tay chứ có việc gì đến ta đâu mà trách cứ ta được? Cô nương thử hỏi lại lệnh sư tỷ xem ta có đánh nửa miếng, một thế võ nào vào người y thị chưa?

Chỉ Nhược quay lại, đưa mắt nhìn Mẫn Quân có ý hỏi. Mẫn Quân nổi giận xen lời nói:

– Sư muội hãy đưa hai người này đi gặp sư phụ để sư phụ định đoạt xử trí với chúng.

Chỉ Nhược đáp:

– Nếu hai vị này quả thật không định tâm thất lễ với sư tỷ thì theo ý tiểu muội ta chỉ nên cười xòa một tiếng, bỏ qua mà hóa thù thành bạn …

Mẫn Quân cả giận quát mắng:

– Sao sư muội lại giở mặt định giúp người ngoài như thế? !

Vô Kỵ thấy thần sắc của Mẫn Quân hung ác như vậy lại nghĩ tới năm xưa ở trong rừng rậm, mọi người vây đánh Bành hòa thượng vì vậy mà Hiểu Phù gây gổ với Mẫn Quân.

Ngày hôm nay việc cũ tái diễn, Mẫn Quân cũng áp bức người sư muội nhỏ tuổi này.

Chàng liền lo thầm cho Chỉ Nhược.

Không ngờ chàng thấy Chỉ Nhược tôn kính Mẫn Quân vô cùng.

Nàng còn vái Mẫn Quân và nói:

– Tiểu muội xin nghe lời dặn bảo của sư tỷ chứ không dám trái lệnh sư tỷ đâu.

– Ðược, cô hãy ra tay bắt ngay con nhãi này và đánh gãy hai tay của nó đi!

– Vâng! Sư tỷ làm ơn lược trận hộ cho tiểu muội!

Nói xong, Chu Chỉ Nhược quay lại nói với nàng thôn nữ kia:

– Tiểu muội vô lễ, muốn lãnh giáo mấy thế võ cao siêu của chị.

Thôn nữ cười nhạt đáp:

– Muốn đánh cứ việc đánh, việc gì mà phải nói lôi thôi như thế ?

Nói xong, nàng ta nhanh như chớp, xông lại tấn công Chu Chỉ Nhược liền ba chưởng.

Chỉ Nhược nhảy sang bên để né tránh, giơ tay trái lên giở thế Cẩm Nã Thủ ra lấy công làm thủ, thế nào cũng tinh xảo vô cùng.

Vô Kỵ nội công cao cường, nhưng Võ công lại không biết mấy, nay chàng thấy Chỉ Nhược đấu với thôn nữ kia, hai người ra tay đấu nhanh vô cùng.

Chỉ Nhược dùng miên chưởng của phái Nga Mi, chân tay và thân hình rất nhanh nhẹn, còn chưởng pháp của nàng thôn nữ kia thì quái dị vô cùng.

Càng xem Vô Kỵ càng thấy thán phục, càng quan tâm.

Chàng cũng không biết mong cho ai được ai thua nên chàng chỉ muốn hai người đó đừng có ai bị thương cả.

Hai nàng đấu được hơn hai mươi hiệp người nào cũng ngộ hiểm luôn.

Chàng bỗng nghe thôn nữ kêu “trúng” một tiếng chưởng của nàng đã chặt đúng đầu vai của Chu Chỉ Nhược.

Ðồng thời chàng cũng lại nghe thấy “xoẹt” một tiếng.

Thì ra tay áo của thôn nữ đã bị Chỉ Nhược xé rách một mnh.

Hai người không hẹn mà nên, cùng lui lại phía sau, mặt đỏ bừng.

Thôn nữ nọ lên tiếng khen ngợi:

– Lợi hại thật! Lợi hại thật!

Nàng định tiến lên tấn công tiếp nhưng nàng đã thấy Chỉ Nhược loạng choạng mấy bước, hầu như sắp té ngã.

Vô Kỵ thấy vậy không đành liền lớn tiếng gọi:

– Cô …cô…

Lòng quan tâm của chàng hiện rõ lên mặt.

Chu Chỉ Nhược thấy một người đàn ông, quần áo lam lũ, râu tóc rất dài, bỗng nhiên quan tâm đến mình như vậy, nàng ngạc nhiên thầm.

Mẫn Quân liền hỏi Chỉ Nhược:

– Sư muội có việc gì không?

Chu Chỉ Nhược tay trái vởn vào đầu vai của sư tỷ, loạng choạng và lảo đảo một hồi.

Ðinh Mẫn Quân bị nội công của thiếu nữ kia làm gãy hai tay đã biết đối thủ lợi hại vô cùng. chỉ có sư muội mà sư phụ vẫn khen hàng ngày, bảo nàng thông minh, ngộ tính rất cao, tiến bộ thần tốc là may ra chống đỡ nổi kẻ thù thôi.

Phần vì nàng thấy sư phụ có ý định truyền ngôi trưởng môn cho người sư muội này, bề ngoài nàng làm ra vẻ rất mến thương người sư muội nhưng sự thật trong lòng nàng ghen ghét một cách thậm tệ.

Cho nên nàng muốn bảo người sư muội đánh thắng người thiếu nữ nọ thì nàng có thể trả được thù bị đánh gãy tay, bằng không sư muội có bị nguy hiểm hoặc bị thương mất mạng nàng cũng hả dạ.

Như vậy đủ thấy tâm địa của Mẫn Quân ác độc vô cùng.

Nay nàng thấy Chỉ Nhược đấu với thôn nữ nọ hơn hai mươi hiệp mới bại, thấy Võ công của sư muội cao siêu hơn mình nhiều.

Nàng ghen tức vô cùng.

Nay lại thấy người sư muội đó vịn vào vai mình để giữ thăng bằng cho khỏi ngã mới hay sư muội đã bị thương rất nặng.

Nàng sợ thiếu nữ nọ truy kích vội nói luôn:

– Chúng ta đi thôi!

Thế rồi hai sư tỷ muội dìu nhau đi ngay về phía Ðông Bắc.

Thôn nữ nọ đã thấy sắc mặt của Vô Kỵ liền cười nhạt và mỉa mai :

– Anh Bát Giới xấu xí ơi, trông thấy cô gái đẹp hồn anh đã bay lên trời rồi.

Vô Kỵ đang định giải thích nhưng nghĩ lại:

– Nếu ta không thổ lộ thân thế việc này không thể nói rõ ra được, chi bằng ta không nói thì hơn .

Nghĩ đoạn chàng liền đáp:

– Nàng ta đẹp hay không, có việc gì đến tôi. Tôi quan tâm lo ngại cô bị thương đấy chứ?

– Anh nói thật hay nói dối thế?

Vô Kỵ lại nghĩ tiếp:

– Sự thật là ta quan tâm tới cả hai nàng .

Nghĩ xong chàng mới đáp:

– Tôi nói dối cô làm chi? Không ngờ phái Nga Mi lại có những người môn hạ trẻ tuổi mà vô cùng cao siêu như thế rồi.

– Cao siêu, cao siêu cái gì?

Vô Kỵ nhìn theo Chu Chỉ Nhược thấy lúc tới nàng đi rất lẹ mà bây giờ sao bước đi loạng choạng như thế.

Chàng nghĩ tới khi xưa, lúc ở trong thuyền trên sông Hán Thủy, nàng ta cho mình ăn uống, còn được nàng ta tặng cho khăn tay để lau nước mắt.

Vì vậy chàng vội khấn thầm, chỉ mong nàng ta bị thương nhẹ thôi.

– Bỗng dưng nói chuyện đó ra làm chi? chỉ trong vài ngày nữa chân anh sẽ khỏi, chúng ta đi đây đi đó, thưởng ngoạn phong cảnh như vậy chẳng thích thú biết bao?

Thôn nữ quay đầu lại vẻ mặt u sầu:

– Anh Ngưu, em muốn nhờ anh một việc này nhưng anh đừng có giận em nhé!

– Việc gì cô cứ nói, nếu tôi có thể làm được tôi không bao giờ từ chối đâu.

Thôn nữ nắm tay Vô Kỵ và hỏi:

– Anh A Ngưu, em ở Trung Nguyên đi xa hàng vạn dặm tới đất Tây Vực này chỉ có tìm kiếm anh ta thôi. Trước kia em còn dò biết được một chút tông tích, nhưng đến bây giờ thì không hay tin của anh ấy nữa. Không khác gì kim chìm dưới đáy biển vậy. Sau khi chân đã lành mạnh, anh giúp em tìm kiếm anh ấy rồi em sẽ đi du ngoạn sơn thủy với anh. Chẳng hay anh có nhận lời không?

Vô Kỵ nghe nàng nọ nói xong, chàng không sao nén nổi lòng tức giận được chỉ kêu “hừ” một tiếng. Thôn nữ vội nói tiếp:

– Anh đã nhịn lời không tức giận rồi, sao bây giờ lại tức giận như vậy?

– Ðược, tôi nhận lời giúp đỡ cô đi tìm kiếm y.

Thôn nữ mừng rỡ vô cùng la lớn:

– Anh A Ngưu, anh thật tốt với em quá!

Nói xong, nàng nhìn về phía chân trời, hai mắt đăm chiêu, mồm khẽ nói:

– Chúng ta tìm thấy anh ấy rồi, anh ấy biết tôi đi tìm anh ấy bất nhiêu lâu liệu anh ấy có còn giận tôi không? Anh ấy nói gì tôi sẽ ngoan ngoãn nghe lời anh ấy!

– Chẳng hay người yêu của em tốt như thế nào mà em cứ nhớ nhung hắn hoài như vậy?

– Anh ấy tốt như thế nào em không thể nói ra được. Anh A Ngưu, anh bảo chúng ta có thể tìm thấy anh ấy không? Khi anh ấy gặp em liệu có còn mắng chửi em như trước nữa không?

Vô Kỵ thấy thiếu nữ đó si tình như vậy không muốn làm mất hứng của nàng nên an ủi rằng:

– Em có lòng kiên trì như vậy thì thế nào anh ta cũng phải cảm động mà thương em chứ.

Thôn nữ nghe chàng nói như vậy mồm lẩm bẩm:

– Anh ấy động lòng thương em…

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Cô bé này si tình với người yêu như vậy. Nếu ở trên đời này ta cũng có một người quan tâm đến ta như thế, nhớ nhung ta như vậy thì đời ta dù có phải chịu khổ sở thêm chút nữa ta cũng rất vui lòng .

Chàng vừa nghĩ vừa đưa mắt nhìn vết chân của Chu Chỉ Nhược với Ðinh Mẫn Quân ở trên mặt tuyết rồi lại nghĩ tiếp

– Nếu vết chân của Mẫn Quân là vết chân của ta để lại, ta được đi sát cánh với nàng Chỉ Nhược..

Chàng đang nghĩ ngợi đột nhiên nghe thôn nữ la lớn:

– Phải đi mau mới được, nếu muộn thì không kịp đâu.

Vô Kỵ đưng o tưởng, bị tiếng kêu la của thôn nữ làm cho thức tỉnh vội hỏi:

– Việc gì thế?

– Thiếu nữ của phái Nga Mi đã chịu tha mạng cho chúng ta, giả bị thương để rút lui, nhưng còn Ðinh Mẫn Quân nhất định bảo nàng ta phải bắt đem chúng ta về trình sư phụ chúng, như vậy Diệt Tuyệt sư thái thế nào cũng ở gần đây. Lão ni đó hiếu thắng lắm, thế nào nó chẳng tới đây?

Vô Kỵ nghĩ tới Diệt Tuyệt sư thái dùng chưởng giết chết Hiểu Phù, tàn nhẫn và độc ác biết nhường nào, mãi cho tới bây giờ chàng vẫn còn sợ hãi nên vội đáp:

– Lão ni đó lợi hại lắm, chúng ta địch không lại đâu.

– Anh đã gặp mụ ta rồi hay sao?

– Tôi chưa gặp mặt bà ta bao giờ, nhưng bà ta là trưởng môn của phái Nga Mi thì có phải tay tầm thường đâu?

Thôn nữ cau mày nghĩ ngợi giây lát liền chạy lại chỗ đống củi lấy mấy cành củi lớn, lột vỏ cây bện thành dây thừng, cột mấy thanh củi đó lại thành một cái xe trượt tuyết vậy.

Ðoạn nàng bảo Vô Kỵ duỗi thẳng chân nằm trên xe đó rồi nàng ở phía trước kéo chạy như bay.

Khinh công của nàng ta lợi hại vô cùng chỉ trong khoảnh khắc đã chạy được bốn năm chục dặm liền.

Vô Kỵ không nghe thấy tiếng nàng thở mạnh cũng khen phục thầm.

Chàng sợ nàng mệt vội lên tiếng:

– Này, hãy nghĩ chân giây lát đã!

– Cái gì này với chả này? Chẳng lẽ em không có tên hay sao?

– Em không nói thì làm sao tôi biết được tên em là gì? Chẳng lẽ em bảo tôi cứ gọi em là cô bé xấu xí mãi hay sao? Trong mắt tôi, tôi nhịn thấy em đẹp lắm!

Thôn nữ phì cười, ngừng chân giây lát giơ tay lên vuốt tóc trả lời:

– Thôi được, nói cho anh biết tên tôi cũng không sao. Tên tôi là Thù Nhi.

– Thù Nhi, Thù Nhi, chắc em lầm, tên em là Châu thì đúng hơn. Chứ có ai đặt tên con là Thù đâu?

– Không phải là Châu đâu, mà chính là Thù thật đấy. Thù là Tri Thù. Con nhện ấy mà…

Vô Kỵ ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Sao lại có người lấy tên con nhện làm tên mình như vậy?

Thù Nhi đáp:

– Tên của em đúng như thế đấy, nếu anh sợ hãi thì đừng có gọi nữa.

– Cái tên đó có phải do cha mẹ em đặt cho không?

– Hừ! Nếu không do cha mẹ đặt cho thì khi nào em chịu cái tên đó. Cái tên đó là do mẹ em đặt cho đấy. mẹ em dậy em luyện môn Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ môn Võ công này phải bắt đủ một nghìn con nhện độc để luyện tập” nên mới đặt cho em cái tên ấy.

Nghe thấy Thù Nhi nói tới Thiên Thù Tuyệt Hộ Công, Vô Kỵ rùng mình kinh hãi.

Thù Nhi lại tiếp:

– Em luyện môn Võ công đó từ hồi còn nhỏ nhưng Võ công của em còn kém lắm. Khi nào em học thành công môn Võ công này thì em không còn sợ mụ Diệt Tuyệt sư thái nữa. Anh có muốn xem không?

Nói xong, nàng móc túi lấy ra một cái hộp nhỏ vàng chói ra.

Nàng vừa mở nắp hộp lên Vô Kỵ đã thấy trong cái hộp đó có hai con nhện to bằng hai ngón tay cái đang nhúc nhích bò lên.

Trên lưng con nào cũng có vân ngũ sắc trông rất sáng.

Các con nhện thường chỉ có tám chân nhưng hai con nhện này lại có tới mười hai chân. Chàng sực nghĩ tới cuốn độc kinh của Vương Nạn Cô.

Trong cuốn kinh đó có nói tới Những con nhện độc, con nào có trên mình vân hoa thì độc khôn tả.

Nếu nó lại có đủ mười chân thì lại độc kỳ lạ, bị nó cắn phải không có thuốc gì chữa khỏi. Chàng thấy hai con nhện này có tới mười hai chân và không thấy cuốn kinh nói tới nhưng chàng cũng đoán chắc hai con này còn độc hơn nhiều.

Thù Nhi thấy chàng có vẻ sợ hãi liền vừa cười vừa nói:

– Anh cũng là tay sành sỏi đấy. Biết được những con nhện của em là báu vật. Anh hãy đợi chờ một lát.

Nói xong, nàng nhảy lên cao, quan sát xung quanh một hồi rồi mới nhảy xuống nói tiếp:

– Chúng ta hãy đi thêm một quãng đường nữa đã, rồi em sẽ kể chuyện hai con nhện này cho anh nghe.

Nàng lại kéo cái xe tuyết chạy thêm bảy tám dặm, tới cạnh một sơn cốc, nàng đỡ Vô Kỵ sang một bên, nhặt mấy hòn đá lớn đặt lên trên xe rồi chạy thẳng vào trong sơn cốc.

Chạy tới sườn núi nàng bỗng ngương lại nhảy sang một bên để mặc cái xe trượt và mấy hòn đá kia rơi thẳng xuống vực , chỉ nghe bên dưới có mấy tiếng động ầm ầm một hồi lâu.

Vô Kỵ quay đầu nhìn lại thấy trên mặt tuyết có vết hằn in xuống, tựa như vết xe nặng vậy. Chàng nghĩ thầm:

– Không ngờ cô bé này lại thông minh đến thế. Diệt Tuyệt sư thái có theo dấu vết mà đuổi tới thì cũng chỉ tưởng chúng ta đã rơi xuống vực, chết một cách đau đớn rồi .

Thù Nhi ngồi xổm xuống nói:

– Anh nằm lên lưng em để em cõng cho!

– Em cõng tôi như vậy thì mệt chết.

Thù Nhi lườm chàng:

– Mệt hay không tôi không biết hay sao?

Vô Kỵ không dám nói nhiều liền nằm phục lên lưng nàng.

– Anh sợ ôm chặt quá tôi chết ngạt hay sao mà cứ nhẹ tay nhẹ chân như thế làm người ta nhột không chịu được!

Thấy nàng nói như vậy Vô Kỵ liền ôm chặt lấy cổ nàng để mặc nàng cõng chạy.

Ngờ đâu nàng ta lại tung mình nhảy lên trên cây.

Từ cành này chuyền qua cành khác, nàng nhảy qua by tám chục ngọn cây mới đến cạnh một vách núi.

Nàng liền nhảy xuống dưới đất, khẽ đặt Vô Kỵ xuống, mồm tủm tỉm cười:

– Chúng ta làm một cái chuồng bò nơi đây anh nghĩ sao?

– Làm chuồng bò để làm gì?

– Ðể cho một con bò đực ở! Tên anh là A Ngưu, anh chẳng là con bò là gì?

– Khỏi phải lợp mái làm chi, chỉ bốn năm ngày nữa là cùng, chân anh sẽ lành lặn ngay. Sự thật ra thì lúc này anh cũng có thể miễn cưỡng đi được rồi.

– Hừ, miễn cưỡng ư? Ðã là Bát Giới xấu xí lại què thêm cái cẳng bò nữa thì thật là đẹp quá!

Nói xong, nàng bẻ một cành cây quét sạch đống tuyết cạnh đống đá đi.

Vô Kỵ thấy Thù Nhi săn sóc mình chu đáo như vậy, trong lòng cũng cảm động vô cùng.

Rồi chàng lại thấy nàng miệng ca hát, tay bẻ cành cây để lợp lên trên hai tảng đá làm thành một cái nóc nhà con con có thể nằm lọt được hai người.

Thù Nhi lợp xong căn nhà đó lại ôm một tảng băng tuyết thật lớn để lên trên nóc nhà.

Nàng khuân hết tảng này tới tảng khác, chỉ trong giây lát nàng đã khuân được rất nhiều tuyết để lên trên đó.

Nàng làm như vậy để cho người ngoài không còn biết có một căn nhà dưới đống đá này rồi nàng mới ngừng tay, lấy khăn tay ra lau mồ hôi dặn bảo Vô Kỵ:

– Anh hãy đợi chờ em ở đây để em đi kiếm thức ăn về!

– Anh cũng không đói lắm, em đã mệt rồi, hãy nghỉ ngơi chốc lát đã rồi hãy đi kiếm cũng chưa muộn!

– Anh đối xử với em như vậy thì anh phải thật lòng mới được, chứ chỉ tốt đầu lưỡi, bụng giả dối như thế em không thích đâu.

Nói xong, nàng giở khinh công ra chạy thẳng vào trong rừng rậm.

Vô Kỵ ngồi trên tảng đá nghĩ đến giọng nói của Thù Nhi nhu mì yểu điệu, cử chỉ nhẹ nhàng, thái độ ung dung, không có một điểm nào không phải là của một tuyệt sắc giai nhân cả. Nhưng không hiểu tại sao bộ mặt trái xoan của nàng lại xấu xí đến như thế?

Chàng lại nghĩ tới lúc mẹ chàng sắp tắt thở có dặn bảo chàng rằng:

– Người con gái nào càng xinh đẹp bao nhiêu càng khéo lừa dối người ta bấy nhiêu. Con cần phải cẩn thận nhớ kỹ lời của mẹ mà đề phòng Những hạng con gái đó!

Thù Nhi này mặt không đẹp, nhưng đối với chàng rất tốt nên chàng đã có lòng muốn lấy Thù Nhi rồi. Nhưng chàng lại nghĩ Thù Nhi đã có một người nhân tình, lúc nào nàng ta cũng nhớ nhung tới người đó mà không coi mình vào đâu cả.

Chàng ngồi nghĩ vẫn nghĩ vơ một hồi thì Thù Nhi đã xách hai con gà tuyết về.

Rồi nàng đốt lửa nướng gà để ăn. thật gà ấy ngon tuyệt trần. chỉ trong nháy mắt Vô Kỵ đã ăn hết một con mà vẫn còn thòm thèm.

Thù Nhi thấy vậy tủm tỉm cười, lại ném luôn hai cái đùi gà định để dành cho chàng ăn nốt. Hai cái đùi đó là đùi con gà phần nàng, Vô Kỵ định từ chối, nàng cả giận:

– Anh muốn ăn cứ việc ăn đi! Ai khiến anh giơ bộ tốt bụng như thế làm chi? Tôi rất ghét Những người giơ dối như vậy. Hễ gặp những người đó là tôi lấy dao đâm thủng người chúng vài ba nhát ngay.

Vô Kỵ không dám nói thêm liền cắm cúi ăn nốt hai cái đùi đó.

Ăn xong thấy mồm dính đầy mỡ gà, chàng lấy một nắm tuyết ở trên mặt đất để rửa mặt rồi dùng tay áo lau chùi.

Thù Nhi ngẫu nhiên quay đầu lại, thấy mặt Vô Kỵ đã rửa sạch liền ngẩn người ra nhìn chàng.

Thấy nàng cứ nhìn mình chòng chọc như vậy Vô Kỵ ngượng vô cùng liền hỏi:

– Em nhìn anh như thế làm gì?

– Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

– Vừa đúng hai mươi!

– Thế thì anh lớn hơn em vừa hai tuổi, tại sao anh lại giữ bộ râu ria xồm xoàm như thế kia làm gì?

– Tôi vẫn sống một mình ở trong thâm sơn cùng cốc, không thấy một bóng người nào cả nên cũng không nghĩ tới chuyện cạo râu.

Thù Nhi lấy ra con dao con, cán vàng giắt ở trong người rồi đè mặt Vô Kỵ xuống từ từ cạo râu cho chàng.

Vô Kỵ thấy lưỡi dao rất sắc bén, đi tới đâu râu ria rụng tới đó.

Chàng thấy hai bàn tay nàng da rất mởn và mềm mại.

Chàng nhịn không nổi nên động lòng liền.

Chàng vốn dĩ là người thật thà chất phác, nhưng từ khi gặp Thù Nhi đến giờ chàng không hiểu tại sao cứ cảm thấy Thù Nhi như là người bạn rất thân của mình, quen biết từ hồi còn nhỏ vậy.

Cho nên chàng mới tìm chuyện nói đùa với nàng.

Thù Nhi cạo râu cho Vô Kỵ xong, nàng nhìn mặt chàng ngẩn người ra một lát rồi thở dài một tiếng.

Vô Kỵ hỏi:

– Sao em lại thở dài như vậy?

Thù Nhi không trả lời, tiếp tục cạo những lọn tóc con ở hai bên thái dương và sau gáy cho chàng rồi mới búi cho chàng một cái búi tóc. Không có thoa vàng hay thoa bạc để cắm vào giữa búi tóc cho chàng nàng liền lấy một cành cây vót nhọn để dùng tạm.

Lúc này Vô Kỵ được nàng sửa soạn cho, tuy áo quần còn rách rưới nhưng thần thái khác hẳn, anh tuấn hơn người.

Chàng đã biến thành một thiếu niên đẹp trai ngay rồi.

Thù Nhi vừa thở dài vừa nói:

– Anh A Ngưu! Không ngờ anh lại là người đẹp trai như thế này!

Vô Kỵ thấy nàng nói như vậy liền nghĩ thầm:

– Chắc thế nào nàng cũng đau lòng vì bộ mặt xấu xí như thế của nàng .

Nghĩ đoạn chàng bèn lấy lời lẽ giảng giải để an ủi nàng:

– Trên thế gian này Những vật gì thật đẹp thường thường có cái xấu ở bên trong. Người ta mặt đẹp hay xấu có can hệ gì đâu? chỉ nhất là phải có tấm lòng lương thiện thì mới tốt.

Nghe chàng nói như vậy Thù Nhi cười nhạt hỏi lại:

– Tâm địa lương thiện tốt là như thế nào? Anh thử nói cho tôi nghe xem!

Thấy nàng hỏi như vậy Vô Kỵ ngẩn người ra không biết trả lời ra sao cho phải, giây phút sau chàng mới thốt ra được một câu:

– Tâm địa lương thiện là không đi giết hại người khác. Không đi giết hại người ta em cảm thấy trong lòng thư thái và vui vẻ yên lòng lắm!

– Em không giết hại người trong lòng thấy khó chịu liền! phải giết hại kẻ thù thật thơm khốc em mới cảm thấy yên dạ và vui tươi. Trong lòng mới được thảnh thơi…

– Lý lẽ của em thật vô lý hết sức!

– Nếu không vì giết hại người em luyện môn Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ này để làm gì? Và em cũng không bị khổ sở, đau đớn vô cùng trận như thế này. Chẳng lẽ vì em thích chơi đùa mà theo học môn Võ công ấy hay sao?

Nói xong, nàng lấy cái hộp vàng nho nhỏ ra.

Nàng mở nắp hộp, dùng hai ngón tay trỏ, thò vào trong hộp.

Hai con nhện hoa ở trong từ từ bò tới, cắn luôn hai đầu ngón tay nàng , chỉ thấy nàng hít mạnh một hi, hai ngón tay rung động, vận nội công để chống lại chất độc của hai con nhện kia.

Hai con nhện cứ hút máu ở tay nàng đồng thời huyết mạch ở hai đầu ngón tay Thù Nhi cũng chuyển vận đem theo chất độc ở trong người hai con nhện vào trong máu nàng.

Vô Kỵ thấy mặt nàng rất nghiêm trang, đồng thời ở giữa ấn đường và hai bên huyệt thái Dương của nàng có một làn hắc khí nhợt nhạt hiện lên.

Nàng cứ nghiến răng chịu đựng đau đớn.

Một lát sau thấy mũi nàng nhỏ mồ hôi từng hạt xuống. Nàng luyện công như vậy chừng nửa tiếng đồng hồ.

Hai con nhện hút máu nàng, bụng phình lên, mình no tròn như hai trái cau rồi mới rớt xuống đáy hộp và ngủ say liền.

Thù Nhi vận công hồi lâu, hắc khí ở trên mặt mới mất dần, da mặt của nàng lại hồng như trước rồi nàng thở một hơi thật dài.

Vô Kỵ ngửi thấy hơi thở của nàng thơm ngọt vô cùng nhưng có một điều lạ, càng ngửi chàng càng cảm thấy đầu óc choáng váng, hình như trong hơi thở của nàng cũng có chất độc rất mạnh.

Thù Nhi mở trừng hai mắt, mồm tủm tỉm cười.

Vô Kỵ liền hỏi:

– Phải luyện tới mức nào mới gọi là hoàn toàn thành công?

– Luyện tới khi hai con nhện hoa kia biến thành mầu đen, hết đen thành trắng lúc ấy chất độc trong người chúng đã hết, chúng sẽ chết liền. Bao nhiêu chất độc ở trong người chúng đều chạy sang người em cả. phải luyện đủ một nghìn con, lúc ấy mới gọi là tiểu thành. Muốn Võ công của mình luyện tới mức thượng thừa thì phải luyện tới sáu by nghìn con hay cả vạn con mới mong thành công được.

Vô Kỵ nghe Thù Nhi nói như vậy cũng phải sờn lòng, sởn tóc gáy hỏi tiếp:

– Ở đâu ra được nhiều nhện hoa như thế?

– Một mặt thì tìm kiếm khắp ni, một mặt cũng phải nuôi chúng nữa, chúng cũng đẻ trứng, nở con như Những con nhện thường vậy.

– Trên thiên hạ này có biết bao nhiêu thứ võ công cao siêu không thể tưởng tượng được, sao em không theo học, lại cứ đi theo học chi thứ độc này như vậy? Thứ độc của loài nhện hoa này mạnh vô cùng. Vẫn biết em có phương pháp chế ngự chất độc này nhưng dù sao trong người mang độc mạnh như vậy cũng chỉ có hại hơn là có lợi.

– Vẫn biết trên thiên hạ này có nhiều môn võ công lợi hại nhưng không có môn nào lợi hại hơn môn Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ này. Khi em đã luyện thành công thì nội công thâm hậu của anh đã chắc gì đã chịu nổi một ngón tay em đâm vào người?

Nói xong, nàng vận khí vào ngón tay đâm ngay vào thân cây cạnh nàng. Tuy công lực của nàng chưa luyện đến mức thành công nhưng nàng cũng đâm sâu vào thân cây đến nửa tấc. Vô Kỵ hỏi tiếp:

– Môn võ công này do má em dậy cho phải không? Vậy võ công này có phải tự bà luyện thành không?

Thấy Vô Kỵ nói tới mẹ mình, hai mắt của Thù Nhi đột nhiên lóe lên như hai tia chớp ác độc. Trông nàng không khác gì một con thú dữ trực vồ mồi.

Nàng hậm hực nói:

– Luyện môn Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ này có một điều khiến người ta không được mãn ý cho lắm là khi luyện tới tám trăm con trở lên, mặt của mình cứ xấu xí dần đi. Khi luyện tới nghìn con thì lại còn xấu xí khủng khiếp nữa. Mẹ em đã luyện được năm trăm con thì gặp cha em. Mẹ em sợ bộ mặt xấu xí sẽ bị cha em chán mà ghét bỏ nên đã tự phế võ công của mình đi mà trở thành một người đàn bà bình thường, tay không đủ sức trói gà. Mặt mẹ em tuy đẹp trở lại nhưng khi bị mẹ ghẻ và anh chị tôi hà hiếp bắt nạt không còn sức lực đâu nữa mà đánh trả lại. Rốt cuộc còn bị toi mạng nữa là khác. Hừ! Ðấy anh xem, bộ mặt đẹp có ích lợi gì không? Mẹ em là một người rất xinh đẹp và tao nhã, chỉ vì hiếm hoi, cha em mới phải lấy nàng hầu….

Vô Kỵ đưa mắt liếc nhìn bộ mặt nàng một lần nữa rồi khẽ nói:

– Thế ra…em vì luyện võ công …

– Phải! Vì luyện võ công mà bộ mặt em mới xấu xí như thế này. Hừ! Nên người phụ bạc kia mới không thèm đếm xỉa đến em. Sau này em luyện thành công võ công này rồi, sẽ đi kiếm y, nếu không có người đàn bà khác ở cạnh y thì thôi, bằng không…

– Em chưa thành hôn với người ta và cũng không có hẹn ước chi hết, chẳng qua chỉ…chỉ …

– Cứ việc nói thẳng ra, sợ gì mà anh cứ ấp úng như thế? Có phải anh định nói chẳng qua chỉ có em yêu dấu chàng ta chứ chàng ta có yêu em đâu, có phải không. Ðơn tư cũng vậy mà tương tư cũng vậy đã sao nào? Em yêu anh ấy thì em không muốn trong trái tim anh ấy có người đàn bà thứ hai, nếu anh ấy phụ bạc em, em sẽ cho anh ấy nếm mùi Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ của em.

Vô Kỵ mỉm cười, không cãi vã với nàng nữa, trong lòng nghĩ thầm:

– Tính nết của Thù Nhi thật lạ, lúc tử tế thì hiền lành ngoan ngoãn, lúc trở mặt thì hung ác, dã man, bướng bỉnh không thể tưởng tượng được…

Chàng lại nghĩ tới Trương thái sư phụ và đại sư bá, nhở sư bá mọi người vẫn thường nói Những sự phân biệt phải trái chính tà trong võ lâm như thế nào.

Nay chàng thấy môn Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ của Thù Nhi là một môn võ rất độc ác nên chàng cho đó thế nào cũng thuộc tà phái và mẹ nàng cũng thuộc nhân vật tà phái nốt.

Chàng càng suy nghĩ càng sợ hãi và gớm nàng biết mấy.

Thù Nhi không biết Vô Kỵ đang nghĩ gì, nàng cứ chạy ra chạy vào một hồi.

Thì ra nàng đã hái rất nhiều hoa rừng để bày biện cho căn nhà nhỏ đó.

Vô Kỵ thấy nàng xếp đặt và bày biện căn nhà đó rất tao nhã và xinh tươi vô cùng.

Ðủ thấy yêu đẹp là thiên tính của con người, nhưng nàng lại để cho bộ mặt bị chất độc làm cho xấu xí như thế nên chàng liền nói:

– Em Thù Nhi! Sau khi anh khỏi chân, anh sẽ đi kiếm thuốc để chữa cho khuôn mặt em khỏi phải sưng lên như thế.

Thù Nhi nghe thấy Vô Kỵ nói như thế mặt bỗng tỏ vẻ sợ hãi vội nói:

– Không…Không! Em không cần! Em chịu đựng bao nhiêu khổ sở mới luyện được tới mức này. Anh định phế hết cả Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ của em hay sao?

– Anh sẽ nghĩ cách chữa cho em để võ công của em không bị tan mất và mặt em không bị sưng như thế này.

– Không được đâu! Nếu có cách gì thì ông tổ của mẹ em lại không biết hay sao? Vì môn võ công này là môn gia truyền của mẹ em. Trên thiên hạ này chỉ có Ðiệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu mới có bn lĩnh kinh người đến thế, nhưng… ông ta chết lâu rồi!

– Em biết Hồ Thanh Ngưu đấy à!

Thù Nhi trợn tròn mắt lên nhìn chàng:

– Cái gì thế? Có chuyện kỳ lạ gì thế? Ðiệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu tiếng tăm lừng lẫy khắp trên thiên hạ ai mà chẳng nghe biết tới tên họ của ông ta.

Nói xong, nàng lại thở dài một tiếng rồi nói tiếp:

– Nhưng dù ông ta còn sống đi chăng nữa, ông ấy vốn có tiếng là thấy chết không cứu thì cũng chẳng mong mỏi gì được.

Vô Kỵ nghe thấy nàng nói như vậy liền nghĩ thầm:

– Cô bé này tử tế với ta như thế, thể nào ta cũng nghĩ cách gì để báo đền cho nàng. Nàng không biết tài ba của Hồ Thanh Ngưu đã truyền thụ hết cho ta rồi. Nhưng bây giờ ta không nên cho nàng biết rõ chuyện ấy làm chi. Ðể sau này khi ta đã nghĩ được cách chữa cho mặt nàng, chừng ấy ta nói cho nàng hay, hẳn nàng sẽ mừng rỡ và ngạc nhiên vô cùng chứ chẳng chi .

Hai người chuyện trò một hồi thấy trời đã tối đen như mực liền chui vào trong cái nhà con đó, ngồi tựa lưng vào một tảng đá mà ngủ.

Ngủ đến nửa đêm Vô Kỵ bỗng nghe thấy có tiếng nức nở khóc, chàng liền thức tỉnh định thần nhìn kỹ mới hay Thù Nhi đang khóc thầm.

Chàng vội ngồi dậy, khẽ vỗ vào vai nàng hai cái, an ủi rằng:

– Thù Nhi! Em đừng khóc nữa! Tại sao em lại đau khổ như vậy?

Ngờ đâu Thù Nhi nghe giọng nói êm dịu của chàng lại càng đau lòng thêm.

Rồi nàng gục đầu vào vai Vô Kỵ lớn tiếng khóc lóc thơm thiết.

Vô Kỵ lại hỏi:

– Thù Nhi! Có việc gì thế em? Có phải em đang nhớ tới mẹ em không?

Thù Nhi gật đầu nức nở đáp:

– Mẹ em chết lâu rồi, em chỉ còn có một thân một mình, cơ khổ thế này, ai cũng ghét bỏ em, ai cũng không thương em!

Vô Kỵ kéo áo của mình lên lau nước mắt cho nàng:

– Anh thương em! Anh sẽ đối đãi với em rất tử tế.

– Em không cần anh đối đãi với em tử tế! Người mà em yêu, y không thèm đếm xỉa đến em, đánh em, mắng em và người đó lại còn cắn cả em nữa.

Với giọng run run, Vô Kỵ đỡ lời Thù Nhi:

– Em nên quên người phụ bạc đó đi. Anh sẽ cưới em làm vợ, anh sẽ đối xử với em rất tử tế.

Thù Nhi lớn tiếng nói:

– Không…Không! Em không quên y được đâu. Nếu anh còn bảo em quên y đi nữa thì em không chơi với anh nữa.

Vô Kỵ xấu hổ vô cùng, cũng may ở trong bóng tối, Thù Nhi không trông thấy bộ mặt sượng sùng đỏ như gấc của chàng.

Một lát sau cả hai người cùng im lặng.

Thù Nhi bỗng nói:

– Anh A Ngưu có phải anh giận em không?

– Anh tự hỏi tại sao anh lại nói những lời ấy ra làm chi? Không nên khuyên bảo em như vậy mới phải.

– Không! Không, anh vừa nói anh bằng lòng lấy em làm vợ, sẽ đối đãi tử tế với em. Em thích nghe những lời ấy, anh nói lại cho em nghe đi!

Vô Kỵ nổi giận:

– Em đã không chịu quên người nọ rồi, còn bảo anh nói lại những lời lẽ đó làm chi?

Thù Nhi giơ tay ra nắm lấy tay Vô Kỵ với giọng rất em dịu:

– Anh A Ngưu, anh đừng giận em! Em đã lỡ lời, em không nên, không phải, em xin lỗi anh nhé! Nếu anh cưới em thật, em sẽ đâm mù hai mắt anh ngay và còn giết chết anh nữa là khác.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội hỏi lại:

– Em nói gì thế?

– Anh đui mù rồi không trông thấy được mặt em xấu xí như thế nào và anh cũng không lên núi Nga Mi tìm kiếm con bé họ Chu xinh đẹp kia nữa. Nếu anh còn nhớ nhung con nhỏ ấy em sẽ dùng ngón tay độc đâm chết anh luôn, rồi em cũng tự tử theo.

Nàng nói tự nhiên lắm, hình như nàng cho làm như thế là hợp với kinh thiên địa nghĩa lắm.

Vô Kỵ nghe thấy nàng nói tới con nhỏ họ Chu trên núi Nga Mi giật mình kinh hãi đến thót một cái.

Ðang lúc ấy phía đàng xa có tiếng nói của một người già vọng tới:

– Phái Nga Mi của Chu cô nương tới đây có làm cản trở công việc của các người không?

Thù Nhi nghe nói giật mình kinh hãi nhảy ngay lên khẽ nói:

– Diệt Tuyệt sư thái đã tới đấy!

Tiếng nói của nàng rất khẽ nhưng người bên ngoài vẫn nghe được liền nghiêm nghị trả lời:

– Phải! Diệt Tuyệt sư thái đây!

Người bên ngoài nói câu thứ nhất hãy còn cách Vô Kỵ xa lắm nhưng khi người đó nói câu thứ hai đã tới gần căn nhà nhỏ của hai người rồi.

Thù Nhi biết phen này nguy tai đến ni, nàng ôm lấy Vô Kỵ định kiếm cách đào tẩu nhưng đã muộn mất rồi.

Một lát sau, hai người nghe thấy tiếng người bên ngoài nói tiếp:

– Có ra ngay không? Các người còn núp làm chi nữa?

Thù Nhi nắm tay Vô Kỵ vén cỏ lau lên từ từ bước ra ngoài.

Nàng thấy một lão ni đầu tóc bạc ph ph đứng cách căn nhà nhỏ chừng hai trượng.

Người đó chính là đưng kim trưởng môn của phái Nga Mi, Diệt Tuyệt sư thái.

Phía sau sư thái chừng mấy chục trượng có mười hai người chia làm hai hàng đang đi tới.

Khi tới gần những người đó đều đứng sang hai bên, ở cạnh sư thái.

Trong Những người đó có bốn nơi cô, bốn thiếu nữ và bốn người đàn ông, tất cả đều là đệ tử của sư thái. Ðinh Mẫn Quân và Chu Chỉ Nhược đều có mặt trong đó.

Bốn người đàn ông đứng ở phía sau các ni cô và mấy thiếu nữ.

Trong phái Nga Mi từ Quách Tường sư tổ sáng lập ra đã truyền được mấy đời, người trưởng môn bao giờ cũng là đàn bà hết vì vậy các nam đệ tử không được học hỏi những môn Võ công thượng thặng nên địa vị cứ phải kém về các nữ đệ tử.

Diệt Tuyệt sư thái vẻ mặt lạnh lùng ngắm nhìn Thù Nhi một hồi nhưng không nói năng gì cả. Vô Kỵ đã được mục kích sư thái dùng chưởng đánh giết Hiểu Phù, thủ đoạn tàn nhẫn và ác độc vô cùng nên chàng thấy mặt sư thái đã sợ hãi rồi, chàng cứ đứng núp ở phía sau Thù Nhi trong lòng nghĩ thầm: “Nếu lão ni ra tay đánh Thù Nhi dù ta có địch không nổi cũng phải thờ mạng với mụ một phen ”

Diệt Tuyệt sư thái với giọng mũi “hừ” một tiếng rồi quay lại hỏi Ðinh Mẫn Quân:

– Có phải con nhãi này không?

Ðinh Mẫn Quân cung kính đáp:

– Vâng!

Mọi người chỉ kịp nghe thấy kêu “lách cách” hai tiếng còn Thù Nhi chỉ “hự” lên một tiếng người đã bắn ra xa ngoài ba trượng, cổ tay gãy nát, nằm chết giấc ở trên mặt tuyết.

Vô Kỵ chỉ thấy một cái bóng người thấp thoáng, mới hay Diệt Tuyệt sư thái giở khinh công chớp nhoáng, lướt tới cạnh Thù Nhi giở Võ thuật ảo diệu ra đánh gãy hai tay của nàng, làm nàng bắn tung chết giấc ngoài xa.

Xong rồi sư thái lại lẹ làng trở về chỗ cũ, đứng thẳng, vượng chãi như một cây cổ thụ trông thật vô cùng hùng dũng.

Những động tác của sư thái nhanh như điện chớp, không ai trông thấy rõ, lại cứ tưởng như sư thái đã dùng phép thuật hạ Thù Nhi.

Riêng có Vô Kỵ là trông thấy rõ mồn một, nhưng chàng cũng phải công nhận thần tốc của Những động tác ấy nhanh ngoài óc tưởng tượng.

Vì vậy mà chàng khiếp sợ liền.

Hồi thứ 43

Vây Tiểu Ma Giáo

Diệt Tuyệt sư thái quắc mắt nhìn Vô Kỵ quát lớn:

– Bước ra đây!

Chu Chỉ Nhược tiến lên một bước bẩm báo:

– Thưa sư phụ! Người này đã bị gãy hai chân nên không đi lại được.

Diệt Tuyệt sư thái liền ra lệnh:

– Làm hai cái cáng tuyết đem chúng nó đi!

Trừ Ðinh Mẫn Quân các đệ tử khác đều vâng lời, mười một người nhanh nhẩu làm hai cái cáng tuyết, hai nữ đệ tử khiêng Thù Nhi còn hai người nam đệ tử khiêng Vô Kỵ kéo chạy theo sư thái về phía Tây.

Vô Kỵ chỉ quan tâm đến tính mạng của Thù Nhi chứ không nghĩ đến sự sống chết của mình. Ði được hơn mười dặm chàng mới nghe Thù Nhi rên rĩ .

Chàng lớn tiếng hỏi:

– Thù Nhi, em bị thương ra sao? Có bị nội thương không?

– Em bị đánh gãy hai xương cổ tay, nhưng nội tạng không việc gì.

– Em dùng khủyu tay trái thúc vào phía dưới khủyu tay phải chừng ba tấc rưỡi, chỗ co cánh tay rồi lại dùng tay phải thúc như vậy sẽ thấy bớt đau đớn liền.

Thù Nhi chưa kịp trả lời thì Diệt Tuyệt sư thái đã kêu “ủa” một tiếng quay đầu lại trợn mắt lên nhìn Vô Kỵ và hỏi:

– Thằng nhỏ này sao lại tinh thông y lý như vậy? Tên họ ngươi là gì?

– Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.

– Sư phụ của ngươi là ai?

– Sư phụ của tại hạ là một lưng y vô danh, suốt đời ở một tiêu trấn nơi thôn dã, dù có nói ra sư thái cũng không biết được đâu.

Sư thái chỉ dùng giọng mũi “hừ” một tiếng rồi quay đi không thèm hỏi Vô Kỵ nữa.

Mọi người đi một hơi cho tới sáng tỏ mới ngừng chân để nghỉ ngơi.

Họ lấy lưng khô ra ăn. Chu Chỉ Nhược chia cho Vô Kỵ với Thù Nhi mỗi người ba cái bánh bao.

Người miền bắc Trung Quốc không ăn cơm như người miền nam. Họ ăn bánh bao hấp không nhân.

Nàng thấy Vô Kỵ đã cạo râu và búi tóc lên, vẻ mặt bây giờ khác hẳn đi, trông không khác gì một thiếu niên đẹp trai dũng mãnh, trong lòng cũng kinh ngạc thầm.

Mọi người nghỉ ngơi được hai tiếng đồng hồ lại lên đường nhằm phía tây trực chỉ.

Họ đi như vậy luôn ba ngày ba đêm, hình như có việc khẩn cấp cần giải quyết ngay vậy.

Bất cứ là đi đường hay lúc nghỉ ngơi Vô Kỵ không thấy đệ tử của phái Nga Mi nói năng gì cả. Người nào người nấy như ngậm thẻ.

Chàng muốn dò biết họ đi như thế chằm mục đích gì nhưng không sao dò la ra được.

Bấy giờ chân chàng đã lành lặn, có thể đi lại được rồi nhưng chàng vẫn giơ vờ như chưa khỏi, thỉnh thoảng lại rên rố như trước để Diệt Tuyệt sư thái không để ý đề phòng.

Nếu có dịp may thì chàng sẽ giải cứu cho Thù Nhi và đào tẩu luôn.

Chàng thấy những nơi đi ngang qua đều là hoang mạc mênh mông, không có một bụi cây ngọn cỏ nên chàng sợ tẩu thoát chưa được bao xa đã bị người của phái Nga Mi đuổi theo. Chàng chưa dám hành động ngay chỉ nắn xương nối khớp cho Thù Nhi.

Diệt Tuyệt sư thái liếc mắt trông thấy nhưng không ngăn cản.

Mọi người đi được hai ngày nữa.

Trưa hôm đó đã tới một bãi sa mạc mênh mông rộng lớn, tuyết ở dưới đất đã tan hết, hai cái cáng tuyết vẫn y nguyên nên Vô Kỵ và Thù Nhi vẫn được nằm yên như trước.

Bọn người đang đi bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa từ phía tây chạy tới.

Sư thái ra tay ra hiệu, các đệ tử liền ẩn thân phía sau đồi cát, phái hai người cầm đoản kiếm dí vào lưng Vô Kỵ va Thù Nhi.

Họ làm như vậy với mục đích rất rõ rệt, trong khi phái Nga Mi phục kích kẻ địch Vô Kỵ và Thù Nhi đừng có lên tiếng báo hiệu cho kẻ địch của họ biết bằng không hai người đệ tử kia sẽ dùng đoản kiếm giết chết ngay.

Lúc ấy tiếng vó ngựa càng lúc càng nhộn nhịp nhưng vẫn còn cách xa lắm.

Họ phải phải khá lây mới tới trước mặt bọn người phái Nga Mi.

Một lát sau, bọn người cưỡi ngựa đã tới, một người trong bọn đột nhiên trông thấy vết chân trên cát liền ngừng ngựa lại để quan sát.

Tĩnh Hư sư thái giơ phất trần lên, phất một cái, mười một đệ tử của phái Nga Mi đã nhảy xổ ra vây chặt lấy bọn kỵ sĩ kia.

Vô Kỵ ngửng đầu lên nhìn thấy bọn họ chỉ có bốn người thôi, người nào người nấy đều mặc áo bào trắng. Trên mũ và áo đều có thêu một bó lửa đỏ hồng.

Bốn người đó biết trúng đã lọt vào ổ phục kích của địch liền đồng thanh hò reo và rút khí giới ra nghênh địch.

Tĩnh Hư sư thái lớn tiếng ra lệnh:

– Bọn chúng đều là người của Ma Giáo, không được để cho tên nào chạy thoát hết!

Tuy người của phái Nga Mi nhiều hơn nhưng họ không lợi dụng số đông mà vây đánh số ít kẻ địch kia.

Họ nghe lời của Tĩnh Hư sư thái kia liền có hai nữ đệ tử và hai tên nam đệ tử xông lên chặn lối đi của kẻ địch.

Bốn người bên Ma Giáo cầm giáo cong cong ra tay rất hung ác nhưng mười hai đệ tử của phái Nga Mi được phái đi Tây Vực lần này đều được lựa chọn rất kỹ nên người nào người nấy Võ nghệ rất cao cường.

Hai bên đấu với nhau được by tám mươi hiệp đã có ba người của Ma Giáo bị đâm chém ngã ngựa, còn một người cuối, Võ công rất lợi hại, chém một nam đệ tử của phái Nga Mi bị thương nơi vai trái rồi tháo đường bỏ chạy.

Y chạy được vài trượng Tĩnh Huyền sư thái quát lớn:

– Ri xuống!

Vở sư thái ấy thân pháp rất nhanh, chỉ nhún mình nhảy đôi ba cái, đã lướt tới sau lưng người kia, giơ phất trần lên quýt luôn vào dùi trái của y.

Người nọ vội khua đao chống đỡ nhưng Tĩnh Huyền sư thái đã đổi thế khác. chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, sau ót người kia đã bị Tĩnh Huyền đánh trúng.

Thế là người ấy đã bị ngã ngựa liền.

Không ngờ người đó rất hung tợn, đã bị thương như vậy mà còn muốn thờ mạng với kẻ địch, y giưng hai cánh tay nhảy xổ lại định chộp lấy Tĩnh Huyền.

Nhưng Tĩnh Huyền đã nhanh chân tránh sang bên, tay trái phất cái phất trần vào mặt đối thủ. Lúc ấy cái lồng chim cột ở cổ ngựa bỗng có ba con bồ câu trắng bay ra, đang định vỗ cánh bay đi thì Tĩnh Hư đã lớn tiếng hỏi:

– Lạ thật, chúng làm cái trò ma quái gì thế kia?

Sư nữ ấy vừa nói vừa móc túi lấy ba viên Thiết Liên Tử ra ném mấy con chim kia.

Hai con chim trúng phải ám khí rơi ngay xuống đất tức thì.

Còn viên Thiết Liên Tử thứ ba bị kẻ địch dùng tay áo phất mạnh một cái nên mũi viên ám khí đó không bắn trúng được con chim cuối.

Như vậy con chim sau cùng đã thoát chết.

Các đệ tử khác của phái Nga Mi đều lấy ám khí ra ném theo nhưng không sao ném trúng được.

Con chim đó đã bay lên trên mây và đi về phía đông bắc mất hút liền.

Tĩnh Hư phất tay trái một cái, các nam đệ tử đã lôi bốn tù nhân trước mặt nữ trưởng môn. Từ đầu chờ cuối Diệt Tuyệt sư thái chỉ khoanh tay đứng đó xem chứ không hề lên tiếng và ra tay đánh địch.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

– Ðối với Thù Nhi bà ta lại đích thân ra tay đánh, như vậy là ba ta coi trọng Thù Nhi lắm. Có lẽ vì Ðinh Mẫn Quân bị chín gẫy hai tay nên lão ni mới coi trọng Thù Nhi như vậy. Nếu lúc nãy lão ni ra tay thì con chim bồ câu kia bay thoát làm sao được. Nhưng không hiểu tại sao bà ta cứ để mặc cho các đệ tử ra tay đối phó mọi việc như thế?

Nên biết rõ Tĩnh Hư và Tĩnh Huyền đều là những tay cao thủ có tên tuổi trên giang hồ, có thể đảm đương hoặc chủ trì một việc lớn của Võ lâm được.

Nay họ thấy Ma Giáo chỉ có bốn người tới thôi tất nhiên họ phải xông ra vây đánh, chứ không phải đợi chờ Diệt Tuyệt sư thái ra tay nữa.

Mà lúc ấy cả Tĩnh Hư và Tĩnh Huyền cùng ra tay một lúc như thế họ đã coi bốn người kia khá cao rồi.

Lúc này có một nữ đệ tử nhặt hai con bồ câu chết đem ti và rút một cái ống nho nhỏ buộc ở dưới cánh chim ra, đưa trình lên cho Tĩnh Hư xem.

Tĩnh Hư xem xong tờ giấy đó liền thưa với Diệt Tuyệt sư thái:

– Thưa sư phụ, Ma Giáo đã biết chúng ta vây đánh Quang Minh Ðỉnh rồi. Lá thư này là thư chúng gửi cho Bạch Mi Giáo yêu cầu phái đó ra tay giúp sức.

Sư nữ đó lại xem tờ giấy thứ hai, lại bẩm tiếp với sư phụ:

– Thưa sư phụ, thư này cũng giống với thư trước, chỉ tiếc rằng đã để cho một con chim đưa tin bay thoát.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:

– Có gì đáng tiếc nào? Ðể cho quần ma tụ tập lại cả một nơi, rồi chúng ta tiêu diệt cả một lúc như vậy chẳng thích thú hay sao? Như vậy chúng ta đỡ phải chạy Ðông, chạy Tây đi khắp mọi nơi lùng bắt chúng.

Vô Kỵ nghe nói thư đó gửi cho Bạch Mi Giáo để cầu cứu liền giật mình nghĩ thầm:

– Giáo Chủ của Bạch Mi Giáo là ông ngoại của ta. Hừ, lão ni này kiêu ngạo như vậy chắc đâu địch nổi ông ngoại ta!

Chàng muốn thừa cả cứu Thù Nhi đào tẩu nhưng lúc này chàng thấy sắp có tín tuồng vui diễn ra nơi đây nên chàng cũng muốn ở lại xem.

Chàng lại nghe Tĩnh Hư hỏi bốn người mặc áo trắng kia:

– Các người còn gọi ai tới giúp sức nữa? Tại sao các người lại biết tin sáu đại môn phái đến vây đánh Ma Giáo?

Bốn người mặc áo bào trắng ngửng mặt lên trời ha h cười, tiếng cười nghe rất bi thơm rồi đột nhiên bốn người đó đều ngã lăn sấp xuống đất, không cử động chút nào.

Mọi người thấy vậy đều giật mình, hai tên nam đệ tử của phái Nga Mi chạy lại cúi xuống xem liền la lớn:

– Sư tỷ, bốn người này đều chết cả rồi!

Thì ra bốn người áo bào trắng đó đã tắt thở cả , nhưng người nào người nấy đều lộ vẻ vui cười.

Tĩnh Huyền thấy vậy nổi giận nói:

– Bọn yêu ma này đã phục độc tự tử chết rồi. Không ngờ những thuốc độc này lại lợi hại đến thế, chúng vừa uống vào đã chết liền.

Tĩnh Hư liền ra lệnh:

– Mau khám người chúng coi xem có gì không?

Bốn sư đệ kia vâng lời khám xét bốn cái xác kia ngay, mỗi người khám một cái.

Họ đang định thò tay vào túi những cái xác đó thì Chu Chỉ Nhược đã lớn tiếng kêu gọi:

– Các vị sư huynh hãy cẩn thận đề phòng trong túi có thuốc độc đấy!

Bốn người đàn ông kia giật mình kinh hãi vội thu tay lại và lấy khí giới ra gạt thử túi áo của Những cái xác đó xem sao, thấy túi nào cũng có cái gì đó ngọ nguậy.

Thì ra trong túi của bọn người Ma Giáo, túi nào cũng có hai con rắn nhỏ rất độc.

Nếu không được Chu Chỉ Nhược báo cho kịp thời thì bốn đệ tử kia đã bị rắn độc cắn chết rồi.

Các đệ tử khác thấy vậy đều kinh hãi đến biến sắc mặt, cùng nhau chửi rủa những giáo đồ của Ma Giáo hành sự quá ác độc.

Diệt Tuyệt sư thái thấy vậy liền lạnh lùng nói:

– Các con ở Trung Nguyên tới đây, ngày hôm nay lần đầu tiên được gặp giáo đồ của Ma Giáo. Bốn tên kia chẳng qua chỉ là vô danh tiểu tốt thôi mà đã âm độc thế rồi. Nếu các con gặp phải Những nhân vật thủ lĩnh của chúng thì liệu các con có còn xác đem về núi Nga Mi chôn cất không?

Ngừng giây lát sư thái lại nói tiếp:

– Tĩnh Hư đã lớn tuổi như vậy mà làm việc còn sơ suất như thế, thật không bằng Chỉ Nhược chút nào.

Tĩnh Hư bị sư phụ mắng, mặt đỏ bừng, vái lạy nhịn lỗi.

Tối hôm đó, mọi người ngủ lộ thiên trên bãi sa mạc, đốt một đống lửa lớn để canh phòng vì ai cũng biết nơi đây là sào huyệt của Ma Giáo, giáo chúng của Ma Giáo xuất hiện luôn. Ðến lúc canh hai, đàng xa có tiếng chuông lạc đà kêu” lon con” vọng tới.

Mọi người nghe thấy tiếng động đó đều giật mình thức giấc.

Tiếng chuông lạc đà đó ở phía Tây Nam vọng tới, hừm một lát sau phía Tây Bắc cũng có tiếng chuông lạc đà nhanh hơn.

Mọi người càng thêm ngạc nhiên, giây lát sau cả phía tây bắc cũng có tiếng chuông như vậy đổ dồn.

Rồi bỗng nhiên cả bốn phía tựa như có ma tri vậy.

Lúc ấy tiếng chuông lạc đà lại lúc gần lúc xa, càng lâu càng nhỏ rồi đột nhiên phía đông nam lại có tiếng chuông thật lớn tựa như đàn chim bay tới chứ không phải là lạc đà.

Các đệ tử của phái Nga Mi chưa hề tới sa mạc lần nào, nay lại nghe thấy tiếng chuông lạc đà kêu quái dị như vậy ai nấy đều tỏ vẻ sợ hãi thầm.

Diệt Tuyệt sư thái liền la lớn tiếng hỏi:

– Vị cao nhân nào đi tới, xin cứ hiện thân ra tưng kiến, hà tất phải giơ dạng thần quỉ như thế để làm chi? Như vậy không được lễ phép chút nào!

Tiếng nói của sư thái vọng đi rất xa, những người ở trong vong mấy chục dặm đều nghe rõ mồn một.

Quả nhiên bà ta vừa dứt lời tiếng chuông đã im bặt ngay, hình như chủ nhân tiếng chuồn đó sợ hãi sư thái không dám giở trò ma quỉ nữa.

Sáng ngày hôm sau mọi người bình yên vô sự, nhưng đến canh hai đêm hôm đó, trống vừa điểm canh hai, tiếng chuồn lạc đà lại vang lên như đêm hôm trước, bỗng xa bỗng gần, bỗng Ðông, bỗng Tây. Diệt Tuyệt sư thái cũng lên tiếng trách mắng như hôm trước nhưng lần này người lắc chuông không nghe lời bà ta như trước nữa.

Tiếng chuông vân kêu không ngớt có lúc tựa như một đàn lạc đà ào ào phóng tới, nhưng sắp tới lại biến mất khiến cho mọi người đầu óc căng thẳng đinh tai nhức óc vô cùng.

Vô Kỵ và Thù Nhi nhìn nhau cười, tuy hai người không hiểu tiếng chuông của ai, tại sao lại kêu quái dị như vậy nhưng hai người cũng biết đó là cao thủ Ma Giáo ra tay làm cho các môn đồ phái Nga Mi lục thần bất an, vì vậy cả hai đều nguồn cười vô cùng.

Diệt Tuyệt sư thái phẩy ta ra hiệu cho các đệ tử nằm xuống nghỉ ngơi đừng để ý tới những tiếng động đó làm chi.

Tiếng chuông đó kêu một hồi và biến đổi rất nhiều trò lạ nhưng vì môn đồ phái Nga Mi không đếm xỉa tới nên người rung chuông đó cũng cảm thấy thiếu hứng thú.

Ðột nhiên ở phía chính Bắc có mấy tiếng chuông thật lớn rồi im lặng ngay.

Như vậy đủ thấy thủ đoạn của sư thái vẫn cao cường hơn khiến kẻ địch không giở trò đó ra được nữa.

Sáng sớm hôm sau mọi người quýn khăn áo lại đang định lên đường.

Vô Kỵ và Thù Nhi bỗng thấy cạnh mình có một người đang nằm ngủ say và ngáy rất lớn.

Từ đầu đến chân người đó phủ bằng một cái chăn rất bẩn không lộ ra một cái chân, cái tay nào cả còn đít thì chổng rất cao.

Tiếng ngáy càng ngày càng lớn, ai nấy thấy vậy đều kinh ngạc hết sức vì tối hôm qua, phút nào cũng có người canh gác hết mà người đó vào lúc nào không ai hay biết hết.

Diệt Tuyệt sư thái là người có Võ công cao siêu như thế dù có gió thổi ngọn cỏ lung lanh, hoa ri, lá rụng cũng không thể thoát được tai mắt của bà ta được.

Không hiểu tại sao trong đám đông lại có thêm một người như vậy mà đến lúc này bà ta mới biết.

Vì thế ai nấy đều kinh hãi, cả Diệt Tuyệt sư thái cũng kinh ngạc và hổ thẹn vô cùng.

Lúc ấy đã có hai người tay cầm trường kiếm đi tới gần người kia quát hỏi:

– Ai đấy? Ðịnh làm trò gì thế này?

Người đó vẫn ngáy khò khó như thường, không thèm trả lời các đệ tử của phái Nga Mi. Một tên đệ tử liền giơ kiếm lên hất cái chăn đó lên.

Liền thấy một người đàn ông nằm trên cát ngủ rất say sưa.

Tĩnh Hư thấy người đó táo gan như vậy chắc phải là tay có Võ công cao siêu lắm nên vị sư nữ đó tiến lên một bước và hỏi:

– Các hạ là ai thế, đến đây có việc gì thế?

Tiếng ngáy của người kia càng kêu to hn, tựa như sấm vậy.

Tĩnh Huyền thấy người đó vô lễ như vậy, tức giận vô cùng liền múa phất trần xông lại chằm mông người đó đánh luôn.

Bỗng nghe kêu “vù” một tiếng, cái phất trần ở trong tay Tĩnh Huyền đã bay thẳng lên trên cao hơn mười trượng.

Mọi người đều ngửng đầu lên nhìn theo bỗng nghe Diệt Tuyệt sư thái la lên:

– Tĩnh Huyền hãy cẩn thận!

Tiếng nói của sư thái vừa dứt thì người đàn ông mặc áo bào dài kia đã đi xa mấy trượng rồi, Tĩnh Huyền đã bị hắn ôm đi theo.

Tĩnh Hư với Tô Mộng Thanh một nữ đệ tử niên trưởng khác tay cầm khí giới vội giở khinh công ra đuổi theo người đàn ông kia, nhưng thân pháp của người đó nhanh không thể tưởng tượng ra được nên hai người không sao đuổi kịp.

Diệt Tuyệt sư thái rú lên một tiếng rất thanh thoát rồi rút thanh bảo kiếm Thiên ra đuổi theo liền.

Sư thái là người trưởng môn của phái Nga Mi võ công khác hẳn mọi người, chỉ trong giây lát sư thái đã vượt qua mặt Tĩnh Hư với Tô Mộng Thanh hai người rồi. chỉ thấy ánh sáng lấp loáng một cái, sư thái đã múa kiếm đâm vào sau lưng người kia liền.

Nhưng vì người nọ chạy quá nhanh nên mũi kiếm của sư thái chỉ thiếu có hơn thước là đâm trúng nên người nọ không bị thương chút nào.

Người nọ tuy ẳm Tĩnh Huyền nhưng chân vẫn chạy nhanh không kém gì sư thái. Hình như y định khoe khoang Võ công của mình với Diệt Tuyệt sư thái vậy. Y không chạy xa mà cứ chạy vòng quanh mọi người. Diệt Tuyệt sư thái đã đâm liền mấy kiếm mà không sao đâm trúng y được. chỉ nghe “bộp” một cái phất trần của Tĩnh Huyền đã rơi xuống đất.

Lúc ấy Tĩnh Hư với Mộng Thanh cũng ngừng chân lại.

Hai người đứng thở hổn hển mà nhìn hai cao thủ đang đuổi nhau. nơi đây tuy là sa mạc mà hai tay cao thủ kia chạy nhanh như bay như thế mà không thấy có chút bụi cát nào bị tung lên cả.

Các đệ tử của phái Nga Mi thấy Tĩnh Huyền bị người ta bắt đi mà nằm yên trong lòng kẻ địch như một cái xác không hồn, không hề cử động chút nào, ai nấy đều lo lắng và kinh hãi vô cùng.

Vì mọi người xưa nay vẫn biết vị sư tỷ đó đã học gần hết võ công của sư phụ rồi mà không hiểu tại sao vừa rồi người sư tỷ đó mới chỉ đánh có một thế võ đã bị người kia bắt cóc liền. Mọi người đang định tiến lên ngăn cản nhưng nghĩ đến oai danh của sư phụ và sợ sư phụ trách phạt nên không người nào dám tiến lên hết.

Ai nấy chỉ đứng mà lo ngại thôi.

Ðồng thời họ cũng mong sư phụ của họ đuổi kịp kẻ địch và đâm chết hắn đi thì lòng họ mới h. chỉ trong thoáng cái người nọ với Diệt Tuyệt sư thái đã chạy được ba vòng rồi.

Mọi người thấy Diệt Tuyệt sư thái chỉ cần chạy nhanh thêm một bước nữa là đâm được kẻ địch rồi nhưng đuổi mãi cũng chỉ xa nhau có một bước thôi.

Tuy người nọ chạy trước Diệt Tuyệt sư thái nhưng trong lòng người đó còn ôm thêm Tĩnh Huyền nặng hơn trăm cân như vậy mà sư thái đuổi mãi vẫn không đuổi được hắn đủ thấy khinh công của Diệt Tuyệt sư thái vẫn kém hắn một mức.

Vô Kỵ khẽ kéo vạt áo Thù Nhi rổ tai:

– Lúc này chúng ta không chạy đi còn chờ tới bao giờ nữa?

– Khi có trận đấu vui như vậy, ta hãy ở lại xem đã!

Vô Kỵ cũng có ý muốn như vậy nên chàng liền gật đầu tán thành không nói gì nữa.

Khi chạy hết vòng thứ tư người nọ bỗng quay đầu lại rồi bất thình lình y ném Tĩnh Huyền lại cho sư thái.

Sư thái thấy sức ném của đối phương mạnh như vũ bão, mạnh vô cùng vội ngừng chân lại sử dụng thế Thiên Cân Trụy đứng cho thật vượng rồi mới giơ tay lên nhẹ nhàng đỡ lấy Tĩnh Huyền.

Người nọ ha ha cười và nói:

– Sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh có phải là dễ dàng như các người tưởng đâu?

Nói xong, người đó chạy thẳng về phía Bắc.

Lúc người đó bị Diệt Tuyệt sư thái đuổi theo, dưới chân y không có một tờ cát bụi nào hết, nhưng lúc này y bỏ đi thì chạy tới đâu, cát bụi bay tung tới đó, không khác gì một con rồng vàng cuồn cuộn theo sau che lấp hình bóng của y.

Các đệ tử phái Nga Mi liền theo tới trước mặt sư phụ chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái sầm nét mặt không nói năng gì hết.

Mộng Thanh đột nhiên thất thanh kêu la:

– Tĩnh Huyền sư tỷ….

Mọi người đều nhìn vào mặt Tĩnh Huyền thấy vị mặt sư nữ đó vàng khè, cổ có vết thương và đã tắt thở rồi.

Tất cả các đệ tử của phái Nga Mi đều lớn tiếng khóc lóc.

Diệt Tuyệt sư thái thấy vậy quát lớn:

– Các ngươi còn khóc làm gì nữa? Có mau chôn y ngay đi không?

Mọi người liền ngừng khóc ngay vội đào một cái hố ở gần chôn xác Tĩnh Huyền cùng lập mộ chờ để ghi nhớ.

Tĩnh Hư cúi xuống vái lạy và hỏi:

– Thư sư phụ, yêu nhân đó là ai, xin sư phụ cho biết, đặng chúng con nhớ kỹ sau này sẽ tìm cả hội trả thù cho sư muội.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:

– Người đó có lẽ là Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, một trong tứ đại pháp vưng của Ma Giáo. Khinh công của y đã nổi tiếng khắp thiên hạ có một không hai. Hôm nay ta mới được mục kích, quả là danh bất hư truyền. khinh công của y còn hơn cả ta nhiều.

Vô Kỵ xưa nay vẫn ghét Diệt Tuyệt sư thái nhưng lúc này thấy bà ta gặp Những sự tai biến như thế này mà vẫn bình thường mặt không hề biến sắc và còn tán Dương kẻ địch như thế. Chàng cũng tự nhịn là mình không sao làm được như vậy. Mô phạm của một vị tôn sư trưởng môn phái vẫn khác nên chàng cũng phải kính phục thầm.

Ðinh Mẫn Quân hậm hực nói:

– Y không dám ra tay đấu với sư phụ cứ cắm đầu bôn tẩu như thế thì còn anh hùng gì nữa!

Diệt Tuyệt sư thái dùng giọng mũi “hừ” một tiếng rồi đột nhiên đánh vào mồm Ðinh Mẫn Quân một cái “bốp” và nói:

– Ta không đuổi kịp y, không cứu nổi tính mạng của Tĩnh Huyền như vậy là y đã thắng rồi. Ai thắng ai bại tất cả thiên hạ đều hay biết cả. Chẳng lẽ anh hùng hay hảo hán là tự mình phong lấy cho mình được hay sao?

Ðinh Mẫn Quân bị tát sưng vù một bên má nhưng vẫn cúi đầu vái lạy:

– Sư phụ dậy rất phải! Ðồ đệ đã biết lỗi rồi!

Tĩnh Hư lại hỏi tiếp:

– Sư phụ cho chúng con biết lai lịch của Thanh Dực Bức Vương ra sao?

Diệt Tuyệt sư thái chỉ xua tay, không thèm trả lời Tĩnh Hư mà đi về phía trước liền.

Các đệ tử thấy sư tỷ bị hắt hủi như vậy chỉ yên lặng không dám nói gì, lẳng lặng đi theo sau sư phụ thôi.

Ði tới chiều hôm đó mọi người phải ngủ lộ thiên ở trên một cái đồi cát và cũng đốt một đống lửa để canh gác.

Diệt Tuyệt sư thái ngồi trước đống lửa như một tượng phịt không hề cử động một chút nào.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

– Chắc lúc này bà ta đau lòng lắm vì tên tuổi của phái Nga Mi lừng lẫy trong thiên hạ như vậy, ngày hôm nay đã đem hết cả đệ tử môn phái đi Tây Vực, bà ta chưa đánh được hiệp nào đã phải chịu để mất một đệ tử có tên tuổi rồi.

Mọi người ngồi hơn một tiếng đồng hồ đột nhiên Diệt Tuyệt sư thái giơ tay lên đẩy một cái. chỉ nghe “bùng” một tiếng đống lửa to như thế liền tắt phụt ngay.

Vô Kỵ và Thù Nhi giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

– Không ngờ chưởng lực của lão ni lại mạnh kinh người như thế!”

Ðống lửa đó tắt ngóm, mọi người ngồi ở trong bóng tối đều im lặng như tờ hết.

Ánh sáng trăng chiếu vào, Vô Kỵ trông thấy Những đệ tử của phái Nga Mi rất tội nghiệp, liền thương hại nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ phái Nga Mi tiếng tăm lẫy lừng như thế mà lại thất bại ở Tây Vực này chăng? Chàng đang suy nghĩ bỗng nghe Diệt Tuyệt sư thái quát lớn:

– Ðánh tắt yêu hỏa này, diệt hết ma hỏa này!

Bà ta quát mắng xong ngương lại giây lát lại từ từ nói tiếp:

– Ma Giáo lấy lửa làm thánh, tôn hỏa làm thần. Từ khi Dương Giáo Chủ đời thứ ba mươi ba của Ma Giáo chết đến giờ Ma Giáo chưa có Giáo Chủ mới nối tiếp. Hai đại quang minh sứ giơ với bốn đại pháp vưng cùng năm trưởng kỳ sứ phụ trách trông nom năm lá cờ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, mấy người đó ai cũng muốn cướp được địa vị Giáo Chủ vì vậy họ tàn sát lẫn nhau. Cho nên Ma Giáo càng ngày càng suy đồi. Ðây cũng là lúc các đại môn phái của chúng ta hưng thịnh. Số kiếp của Ma Giáo tất phải bị tiêu diệt. Nếu trong Ma Giáo không có loạn thì chúng ta muốn tiễu trừ chúng cũng không phải là một chuyện dễ.

Vô Kỵ nghe thấy người ta nói tới tên của Ma Giáo từ hồi còn nhỏ ngay đến mẹ chàng cũng là người của Ma Giáo.

Mỗi lần chàng hỏi đến chuyện của Ma Giáo thì cả cha lẫn mẹ chàng đều lộ vẻ không vui.

Hỏi tới nghĩa phụ thì chàng nhịn thấy Tạ Tốn cứ ngẩn người ra hoặc là nổi giận.

Vì vậy Ma Giáo là cái gì cho đến ngày hôm nay chàng cũng không hề biết rõ.

Sau đó chàng theo thái sư phụ Trương Tam Phong, chàng nhịn thấy thái sư phụ cũng có vẻ rất hận Ma Giáo, hễ thấy ai nhắc nhở tới Ma Giáo là chàng thấy thái sư phụ nghiêm nét mặt và khuyên bảo đừng nói nữa ngay.

Sau chàng gặp Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô, Thường Ngộ Xuân lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói, Từ Ðạt, Chu Nguyên Chưng… mấy vị hảo hán cao thủ đều ở trong Ma Giáo.

Chàng thấy mấy người đó đều có tác phong khng khái và trượng nghĩa hết.

Như vậy Những người trong Ma Giáo chưa hẳn là hung ác và xấu xa hết, chỉ phải hành động của họ hơi bí mật một chút nên người ngoài mới đem dạ hiểu lầm đấy thôi.

Bây giờ chàng lại nghe thấy nói đến Ma Giáo nên chàng mới để ý lắng nghe.

Chàng nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

– Các đời Ma Giáo tôn Giáo Chủ đều dùng Thánh Hỏa Lệnh làm tín vật truyền ngôi cho nhau nhưng đến đời Giáo Chủ thứ ba mươi mốt thì trời đoạt hồn phách của y nên y mới đánh mất Những thanh Thánh Hỏa Lệnh đó. Thế là từ đời thứ ba mươi hai đến đời thứ ba mươi ba Giáo Chủ hai đời ấy trở nên có quyền vô lệnh. Sau Giáo Chủ đời thứ ba mươi ba là Dương Phá Thiên chết một cách đột ngột không kịp chỉ định ai thừa kế. Trong Ma Giáo nhiều nhân tài như thế, Những người có tư cách làm Giáo Chủ cũng có đến năm sáu người. Những người đó chưa bầu được ai làm Giáo Chủ cả. Người ngày hôm nay chúng ta được gặp cũng là người muốn được làm Giáo Chủ lắm. Y là một trong tứ đại hộ pháp vưng tên họ là Vi Nhất Tiếu, biệt hiệu là Thanh Dực Bức Vương (Con dơi chúa cánh xanh) Các đệ tử nghe thấy sư phụ nói như vậy đều ng ngác nhìn nhau, vì không một người nào nghe thấy cái tên Vi Nhất Tiếu Thanh Dực Bức Vương bao giờ.

Diệt Tuyệt sư thái lại nói tiếp:

– Người này chưa hề bước chân vào Trung Nguyên bao giờ, hơn nữa hành động của Những người trong Ma Giáo huyền bờ và lén lút lắm, vì vậy người này Võ công tuy cao cường mà ở trong Trung Nguyên y không có tên tuổi chi hết. Còn Bạch Mi Ưng Vương Hân Thiên Chính và Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai người đó chắc các con đều biết hết phải không?

Vô Kỵ nghe nói liền giật mình kinh hãi , chàng chưa kịp nghĩ đã nghe thấy Thù Nhi kinh hãi kêu “ủa” một tiếng.

Diệt Tuyệt sư thái đã nghe thấy tiếng kêu “ủa” của Thù Nhi liền đưa mắt liếc nhìn nàng một cái.

Tên tuổi của Hân Thiên Chính với Tạ Tốn rất lớn nên người trong võ lâm ai ai cũng biết tiếng cả. Tĩnh Hư ngạc nhiên hỏi:

– Thưa sư phụ, hai người cũng là người của Ma Giáo hay sao?

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

– Ma Giáo tứ vưng lấy bốn chữ “Tía, Bạch, Kim, Thanh” làm tên hiệu như Bạch, Kim hai người đều là người trong tứ đại hộ pháp vưng đó cả. Thanh Dực Bức Vương vừa rồi cũng vậy. Nhưng Thanh Dực Bức Vương là người kém nhất trong bốn người đó, còn tài ba của y ra sao thì trong ngày hôm nay các con đã được trông thấy cả rồi.

Như vậy Bạch Mi và Kim Mao tất nhiên phải giỏi hơn y.

Vậy các con đủ thấy Võ công của hai người đó lợi hại như thế nào.

Kim Mao Sư Vương bỗng táng tận lưng tâm như điên như cuồng, hai mươi năm trước đây y đột nhiên chém giết bừa bãi, giết chết rất nhiều kẻ vô tội rồi không hiểu tại sao lại mất tích đến bây giờ, người trong Võ lâm không biết y sống chết ra sao. Hân Thiên Chính không được làm Giáo Chủ liền nổi giận đứng tách riêng ra lập Bạch Mi Giáo để được làm Giáo Chủ của một giáo phái. Chúng ta cứ tưởng Hân Thiên Chính đã phản Ma Giáo thể nào cũng bất hòa với Quang Minh Ðỉnh.

Không ngờ Ma Giáo ngộ nạn lại sai người cầu cứu Bạch Mi Giáo.

Lúc này Vô Kỵ đầu óc rối bời vô cùng.

Chàng đã biết nghĩa phụ và ông ngoại hành sự rất quái dở, không được các danh sĩ dung thứ không ngờ cả hai đều là Hộ Pháp Vương của Ma Giáo.

Chàng mi nghĩ đến chuyện đó không để ý gì tới các đệ tử của phái Nga Mi nói những gì nữa. Một lát sau chàng lại nghe thấy Diệt Tuyệt sư thái lên tiếng nói tiếp:

– Lần này chúng ta sáu đại môn phái đem quân tiễu trừ Quang Minh Ðỉnh, ai nấy cũng định tâm quyết thắng, như vậy bọn yêu tà có đồng tâm hiệp lực đến đâu cũng không hề sợ hãi hết. Nhưng dù sao lúc quyết tử thế nào cũng tổn thương rất nhiều vậy các con trước hết phải có lòng quyết chiến, chứ đừng mong mỏi vào may mắn để đến nỗi sợ hãi làm mất oai phong của phái Nga Mi chúng ta đi!

Các đệ tử của phái Nga Mi đều đứng dậy vái lạy vâng lời. Diệt Tuyệt sư thái lại nói tiếp:

– Võ công cao siêu hay hèn kém có liên quan đến tư chất và thiên thông của mỗi người, mình là người ngu si không có khiếu học tới mức cao siêu được thì không thể miễn cưỡng được. Cũng như Tĩnh Huyền chẳng hạn, chưa đấu được