Hồi 201
Quả xứng danh hào kiệt đương thời
Quy nhị nương tức giận đáp :
– Các ngươi giở những trò dùng muội hương, hạ thuốc mê để ám toán người ta thì chỉ là quân tiểu tặc vô liêm sỉ, không đáng hỏi tên lão nương.
Cổ Chí Trung giơ đao lên hăm dọa. Không ngờ Quy nhị nương tính khí cương cường, chẳng sợ hãi gì, càng thóa mạ tàn tệ hơn.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Sư phụ ! Bọn chúng họ Quỵ Quy là con rùa đen. Bọn chúng ba người thì hai rùa già một rùa non. Đệ tử hãy giết con rùa nhỏ rồi sẽ tính.
Gã rút đao trủy thủ chí vào cổ họng Quy Chung.
Quy Nhị nương thấy Vi Tiểu Bảo muốn hạ sát con trai, trong lòng rất đỗi hoang mang, la ầm lên:
Thằng tiểu quỉ kia ! Mi có giỏi lại đây hạ sát lão nương, chớ đừng đụng đến môt sợi lông của con ta.
Vi Tiểu Bảo cười đáp :
– Ta chỉ thích giết rùa con chứ không muốn giết rùa già.
Gã vừa nói vừa khẽ đâm mũi đao một chút.
Thanh trủy thủ này chặt sắt như cắt bùn. Gã chỉ khẽ đâm một chút mà mũi đao sắc bén đã xuyên thủng làn da, máy tươi chảy ra lêng láng.
Vi Tiểu Bảo lại bắt chước tiếng Quy Chung la lên :
– Má má ơi ! Hắn…. hắn giết chết hài nhi rồi !
Quy nhị nương rất đỗi bồn chồn, lớn tiếng quát :
– Đừng…. đừng giết con ta !
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Bây giờ sư phụ ta hỏi câu nào mụ phải trả lời câu ấy. Có thế thì ta mới hoãn việc hạ sát thằng con bảo bối bịnh hoạn của mụ trong vòng nửa giờ.
Quy nhị nương nghe Vi Tiểu Bảo nói tạm thời chưa giết con mụ ngay, mới yên tâm được một phần.
Vi Tiểu Bảo lại giả vờ ho sù sụ, và học tiếng Quy Chung thúc giục :
– Má má ơi ! Hài nhi…. hài nhi nổi cơn ho muốn chết…. lại bị mũi đao nhọn đâm vào cổ họng. Không chừng toàn thân hài nhi còn bị băm nát ra như tương…
Gã nói tới đây lại nổi cơn ho.
Hết cơn ho, nói tiếp :
– Má má nói lẹ đi thôi ! Không thì chúng giết chết hài nhi bây giờ…
Gã bắt chước rất giống thanh âm Quy Chung khiến Quy nhị nương nghe thấy toàn thân ớn da gà. Mụ la lên :
– Đừng…. đừng bắt chước tiếng nói của con ta.
Vi Tiểu Bảo vẫn học giọng Quy Chung nói tiếp :
– Má má ! Má nói đi ! Hài nhi lại đau bụng nữa, sắp bể bụng lòi ruột ra bây giờ.
Quy nhị nương không nhẫn nại được, đành đáp :
– Được rồi ! Trượng phu của ta là Thần quyền vô địch Quy nhị hiệp ở phái Hoa Sơn. Khi lão oai danh lừng lẫy Trung Nguyên, các ngươi còn là những tên tiểu mao tặc chưa được chuyển kiếp đầu thai.
Trần Cận Nam nghe nói hai nhân vật này là vợ chồng Thần quyền vô địch Quy TânThụ, tiếng tăm lừng lẫy đã lâu ngày thì không khỏi sinh lòng kính trọng.
Ông lại nghĩ tới bản lãnh Ngô Lục Kỳ cao thâm là thế mà những anh em Hồng Thuận đường được mục kích lúc y bị hại thuật lại thì chỉ có một mụ già và một hán tử bịnh hoạn ra tay cũng đánh ngã được mười mấy cao thủ của Hồng Thuận đường, rồi đánh ba quyền là Ngô Lục Kỳ mất mạng ngay, bị địch nhân cắt lấy thủ cấp. Ông biết không phải đối phương mạo danh mà chính là nhân vật khét tiếng mấy chục năm về trước. Có điều ông chưa hiểu Quy Tân Thụ lâu nay không xuất hiện trên chốn giang hồ mà sao bỗng nhiên lại gây nên vụ thảm họa này. Ông đoán nội vụ tất có duyên cớ trọng đại , liền nhìn Quy Tân Thụ kính cẩn chấp tay thi lễ nói :
– Té ra đây là vợ chồng Thần quyền vô địch Quy nhị hiệp ở phái Hoa Sơn.
Tiểu nhân là Trần Cận Nam thất lễ mất rồi.
Ông vươn tay quét một cái cắt đứt dây cột Quy Tân Thụ, rồi nắn bóp sau lưng lão để giải khai huyệt đạo.
Tiếp theo ông quay lại rút đứt giây trói Quy nhị nương và Quy Chung Vi Tiểu Bảo rất đỗi hoang mang la lên :
– Sư phụ ! Ba người này lợi hại vô cùng ! Không thể buông tha họ được.
Trần Cận Nam tủm tỉm cười đáp :
– Quy nhị nương trách mắng chúng ta hạ thuốc mê là hành động của bọn đê mạt trên chốn giang hồ thì dù Thiên Địa Hội chúng ta không hạ thuốc mê cũng coi như đã hạ rồi. Quy nhị hiệp nội công thâm hậu khôn lường thì thứ mông hãn dược tầm thường làm sao khiến lão nhân gia hôn mê được ?…
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Phải lắm ! Phải lắm ! Bọn Thiên Địa Hội chúng ta không hạ thuốc mê.
Gã lẩm bẩm :
– Bà bà tỷ tỷ đã đổi thuốc độc để hạ bọn này thì không thể bảo là của ta được.
Quy Tân Thụ đập tay trái vào lưng bà vợ và cậu con để giải khai huyệt đạo cho hai người. Thủ pháp của lão còn mau lẹ hơn Trần Cận Nam nhiều.
Lão gật đầu nói :
– Quả không phải thứ mông hãn dược tầm thường mà là thuốc độc cực kỳ lợi hại.
Lão vươn tay nắn huyệt mạch cho Quy Chung, chỉ sợ con mình đã bị tổn thương.
Quy nhị nương ngưng thần nhìn trượng phu hỏi :
– Thế nào ?
Quy Tân Thụ đáp :
– Hiện giờ chưa việc gì.
Lão nghĩ lại trước khi ngất xỉu đã đối chưởng với một người. Công lực người đó rất kém cỏi, nhưng phép luyện công hiển nhiên là đường lối của phái Hoa Sơn.
Lão lại nhớ tới thân pháp chạy nhảy trong đám loạn thạch của Song Nhi cũng đúng là khinh công phái Hoa Sơn, liền dương mắt nhìn ra thì thấy cô ở trong đám đông.
Song Nhi thấy mắt lão lấp loáng ánh tinh quang không khỏi bở vía, chùn lại đứng phía sau Vi Tiểu Bảo.
Quy Tân Thụ hỏi :
– Con tiểu nha đầu kia ! Người lại đây ! Phải chăng ngươi ở phái Hoa Sơn.
Song Nhi đáp :
– Tiểu nữ không chịu đâu. Lão đã giết tệ nghĩa huynh là Ngô đại ca, vậy tiểu nữ phải báo thù cho ỵ Tiểu nữ…. chẳng phải là người ở phái Hoa Sơn nào hết.
Nguyên Hà Dịch Thủ ngày trước đến Trang gia có truyền dạy võ công cho bọn Tam thiếu nhưng và Song Nhi, nhưng không chính thức thu làm đồ đệ mà mu.
cũng không cho họ biết mình ở môn phái nào. Vì Thế ba chữ “phái Hoa Sơn” bữa nay Song Nhi mới nghe thấy là lần đầu.
Quy Tân Thụ không chấp với cô bé nhỏ tuổi.
Đột nhiên lão đề tụ chân khí vào huyệt Đan điền, dõng dạc cất tiếng hô :
– Bọn đồ tử đồ tôn của Phùng Nan Địch đâu ? Các người ra cả đây !
Lão hô câu này không lớn tiếng mà chân khí cũng làm rung chuyển cho bụi cát trên nóc nhà rớt xuống lả tả.
Lão nghĩ tới sư huynh sư đệ đồng môn có ba người thì bọn đồ đệ của Viên Thừa Chí đều ở hải ngoại, đại sư huynh là Hoàng Chân qua đời đã lâu. Môn hô.
phái Hoa Sơn do đại đệ tử của Hoàng Chân là Phùng Nan Địch nắm giữ. Trong trang đã có đệ tử phái Hoa Sơn thì tất nhiên chúng thuộc về hệ thống của Phùng Nan Địch.
Ngờ đâu lão hô hoán hồi lâu, trong nội đường vẫn yên lặng như tờ, không một tiếng động.
Trần Cận Nam lại lên tiếng :
– Xin trình để Quy tiền bối hay :
Năm trước anh hùng trong thiên hạ đã mở cuộc đại hội ở phủ Hà Gian. Anh em uống máu ăn thề, quyết chí đồng tâm hiệp lực trừ diệt tên đại Hán gian Ngô Tam Quế. Chính lệnh sư điệt là Phùng Nan Địch tiền bối chủ tọa cuộc Sát qui đại hội này. Thế mà sao Quy tiền bối lại đi bắt tay Ngô Tam Quế, sát hại nghĩa sĩ Ngô Lục Kỳ của tệ hội ? Tiền bối làm như vậy há chằng đau đớn cho mình mà sung sướng cho kẻ thù ?
Lời nói của ông tuy rất lịch sự , nhưng giọng nói sắc bén đầy vẻ trách móc.
Quy nhị nương đưa mắt lườm Trần Cận Nam đáp :
– Ta từng nghe nói :
“Ai chưa biết Trần Cận Nam đã tự xung là anh hùng cũng uổng mà thôi.” Khi các hạ chưa ra đời, vợ chồng ta đã tung hoành thiên hạ. Câu này có lẽ phải chờ các hạ ra đời rồi bọn ta mới xứng đáng là người anh hùng. Ha ha ! Thật buồn cười đến nẻ ruột.
Trần Cận Nam nói :
– Bản lãnh của tại hạ không bõ làm trò cười cho hiền phu phụ Quy nhị hiệp.
Sở dĩ bạn hữu giang hồ đem lòng nể vì tại hạ, chẳng qua là do tại hạ hành động phân minh hắc bạch, chứ không đến nỗi làm chuyện hồ đồ, sái quấy, tỷ như kết thân với giặc mà thôi.
Quy nhị nương tức giận hỏi :
– Phải chăng ngươi mạt sát bọn ta hành động hồ đồ, kết giao với địch ?
Trần Cận Nam đáp :
– Tại hạ không dám.
Quy nhị nương hỏi :
– Ngô Lục Kỳ làm nanh vuốt cho địch lại là một vị quan lớn của bọn Thát Đát, hà hiếp trăm họ người Hán chúng tạ Thế mà các ngươi gọi hắn một điều Ngô đại ca, hai điều Ngô đại ca, há chẳng là hành động hồ đồ, kết giao với giặc ?
Mã Siêu Hưng lớn tiếng :
– Ngô đại ca người ở Tào mà lòng ở Hán. Y làm Hồng Kỳ hương chủ Hồng Thuận đường trong Thiên Địa Hội, một tay nắm giữ binh quyền. Khi nào có cơ hội là lập tức dấy quân tấn công bọn Thát Đát. Thưa các vị huynh đệ Ở Hồng Thuận Đường ! Tiểu đệ nói vậy có đúng không ?
Hơn hai chục tên ở Hồng Thuận Đường đồng thanh đáp :
– Đúng thế !
Mã Siêu Hưng hô :
– Các vị hãy phanh ngực ra để hai vị đại anh hùng coi xem.
Hơn hai mươi người tay cầm vạt áo phanh ra để lộ tám chữ thích vào trước ngực “Thiên địa phụ mẫu, phản Thanh phục Minh”. Nét chữ sâu vào da thịt.
Quy Chung từ nãy tới giờ ngồi yên lặng, bỗng hắn ngó thấy trước ngực hơn hai chục người thích tám chữ, hắn không nhịn được, vỗ tay reo :
– Thú quá ! Thú quá !
Quần hùng Thiên Địa Hôi đều giương cặp mắt tức giận lên trừng trừng nhìn hắn.
Trần Cận Nam ngó Quy Tân Thụ hỏi móc :
– Lệnh lang cho là thú quá. Hiền phu phụ tính sao ?
Quy Tân Thụ trong lòng bứt rứt, không bút nào tả xiết. Lão lắc đầu nhìn Quy nhị nương nói:
– Giết lầm người mất rồi.
Quy nhị nương cũng nói :
– Chúng ta mắc mưu tên gian tặc Ngô Tam Quế.
Mụ vươn tay rút lấy thanh đơn đao cài ở sau lưng Mã Siêu Hưng để đâm vào cổ mình.
Trần Cận Nam la hoảng :
– Đừng…
Ông vươn tay mặt ra chụp lấy cổ tay trái mụ.
Quy nhị nương phóng chưởng tay mặt đánh tới. Trần Cận Nam vung tay trái lên đỡ. Chưởng lực đụng nhau, cả hai người cùng lảo đảo một cái.
Trần Cận Nam dùng hai ngón tay trái cặp lấy sống đao.
Quy nhị nương lại phóng tay mặt đánh vào trước mặt đối phương.
Nếu Trần Cận Nam lảng tránh thì không đoạt được thanh đao. Vừa rồi ông sơ.
mụ tự tử phải đối chưởng với mụ. Ông biết mụ tuổi già, nội lực không hùng hậu bằng mình. Nhưng mụ ra tay nhanh như điện mà công phu quyền chưởng rất cao minh. Nếu ông lùi lại một bước mà tay không thì khó lòng đoạt được thanh đao ở trong tay mụ. Ông đành đưa ngực ra chịu đựng phát chưởng của đôi phương đánh trúng đến “binh” một tiếng.
Quy nhị nương vừa ngẩn người ra một chút, hai ngón tay trái Trần Cận Nam liền nhân cơ hội này rút lẹ về, đoạt được thanh đao trong tay mụ.
Bây giờ Trần Cận Nam mới lùi lại, “oẹ” một cái, miệng nhổ ra búng máu tươi.
Giả tỷ giữa lúc Quy nhị nương vung đao tự vẫn mà Quy Tân Thụ ra tay có thể cản trở mụ một cách dể dàng; nhưng lão buồn vì chuyện giết lầm Ngô Lục Kỳ, trong lòng rất lấy làm hổ thẹn, không còn mặt mũi nào nhìn thấy anh hùng thiên ha.
nữa. Chính lão cũng nảy ra ý niệm tự tử để tạ tội, nên lão không cản trở bà vợ.
Bây giờ lão thấy Trần Cận Nam mạo hiểm đưa mình ra hứng lấy đòn đánh mới đoạt được thanh đao ở trong tay mụ, lão càng thêm phần hổ thẹn và cảm động.
Có điều lão mồm miệng vụng về, chỉ nói được một câu :
– Trần Cận Nam quả xứng danh hào kiệt đương thời. Tiếng đồn thật là không ngoa.
Trần Cận Nam phải đứng vịn vào bàn để điều hòa hơi thở một lúc mới nói :
– Đã không biết là không có tội. Kẻ đầu tội gây nên vụ sát hại Ngô đại ca là Ngô…. Ngô Tam…
Ông nói tới đây lại thổ máu tươi.
Nên biết Quy nhị nương tuy đã tuổi già, nhưng công lực so với ngày trước cũng còn đến quá phân nửa. Trần Cận Nam vì muốn đoạt cho bằng được khí giới của mụ mà phải ráng vận công hứng chịu đòn đánh. Phát chưởng của mụ thực rất trầm trọng.
Quy nhị nương đổi giọng nói :
– Trần Tổng đà chúa ! Nếu lão thân lại nhất định tự tử thì không khỏi có phu.
tấm thịnh tình của Tổng đà chúa. Nhưng vợ chồng lão thân quyết đi giết Hoàng đế Thát Đát rồi giết cả tên gian tặc Ngô Tam Quế.
Dứt lời , mụ quì mọp xuống đất hướng về phía thủ cấp Ngô Lục Kỳ lạy ba lạy.
Trần Cận Nam nói :
– Ngô Lục Kỳ đại ca hành động cực kỳ bí mật. Y đành để số đông anh hùng trên chốn giang hồ thóa mạ là kẻ bất trung cho khỏi tiết lộ cơ mưu. Hiền phu phu.
chuyến này ra tay không ngoài mục đích trừ diệt Hán gian. Chỉ đáng tiếc…. chỉ đáng tiếc…
Ông nói tới đây không nhịn được lại tuôn đôi dòng lệ.
Vợ chồng Quy Tân Thụ cũng một quan niệm như ông, đã quyết định đi hành thích vua Khang Hy và hạ sát Ngô Tam Quế xong rồi sẽ tự tử để tạ tội với Ngô Lục Kỳ. Song lúc này hai lão không muốn nói nhiều liền chắp tay nhìn Trần Cận Nam cáo từ :
– Trần Tổng đà chúa ! Bây giờ hãy xin tạm biệt.
Trần Cận Nam nói :
– Xin nhị vị hãy dừng bước để tại hạ có lời trình bày.
Vợ chồng lão Quy tay dắt tay con muốn đi ngay, nghe Trần Cận Nam nói vậy liền dừng bước quay đầu lại.
Trần Cận Nam nói tiếp :
– Ngô Tam Quế đã dấy quân từ Vân Nam. Thiên hạ đại loạn đến nơi rồi. Đây chính là cơ hội rất tốt để khôi phục lại giang sơn của người Hán chúng tạ Hiện còn rất đông anh hùng thiên hạ bữa nay đều tụ hội ở kinh sư để thương nghị kế hoạch. Chúng ta đã chí đồng đạo hợp, vậy hai vị tiền bối cùng lên Bắc Kinh hội họp với bọn tại hạ nên chăng ?
Quy Tân Thụ trong lòng rất hổ thẹn, không muốn ngó thấy ai liền lắc đầu rồi toan tiếp tục cất bước.
Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói đi hành thích Hoàng đế, trong lòng không khỏi lo ngại vì bản lĩnh hai nhân vật này cực kỳ cao thâm và tiểu Hoàng đế chưa kịp phòng bị, rất là nguy hiểm. Gã liền la lên :
– Đây là một vụ trọng đại nhất thiên hạ mà lệnh lang thần trí hồ đồ, hành động vô ý thức. Nếu lần này lại hỏng việc thì dù cả ba vị có tự sát cũng không khỏi xú…. xú khí vạn niên.
Gã thường nghe người ta nói đến thành ngữ “Di xú vạn niên” nhưng trong lúc thảng thốt gã nói trật thành “Xú khí vạn niên”.
Tuy gã nói trật thành ngữ, nhưng vợ chồng Quy Tân Thụ cũng hiểu ý tứ.
Quy Tân Thụ tự biết mình võ công cao cường, nhưng không hiểu rõ công việc, chả thế mà lão đã nghe lời Ngô Tam Quế, gây nên lỗi lầm trọng đại. Lão không khỏi hồi hộp nghĩ thầm :
– Việc hành thích Hoàng đế quả là một việc rất lớn, quan hệ đến vận khí của quốc gia, không thận trọng thì hỏng mất.
Vi Tiểu Bảo lại nói :
– Hiện nay Hoàng đế này còn nhỏ tuổi chưa hiểu việc đời được mấy. Nếu hai vị giết y đi để một tên Thát Đát lớn tuổi và lợi hại lên làm Hoàng đế thì giang sơn của người Hán chúng ta khó lòng đoạt lại được. Đại sự sẽ hư hại về tay các vị.
Quy Tân Thụ lẩm nhẩm gật đầu liền trở lại.
Trần Cận Nam nói :
– Thưa nhị vị tiền bối ! Thằng nhỏ này còn non nớt quá, ăn nói chẳng ra bề bậc nào hết, xin hai vị miễn trách.
Ông chấp tay xin lỗi rồi nói tiếp :
– Những nỗi lo âu của gã chẳng phải hoàn toàn vô lý. Vậy chúng ta cần thương nghị kế hoạch hoàn hảo. Đối với công cuộc trọng đại này, chúng ta hãy vận trù mưu lược rồi hãy hành động nên chăng ?
Quy Tân Thụ bụng bảo dạ :
– Một phen lỗi lầm đã là quá, không thể để lỡ đến lần thứ hai. Ta chẳng nên nhân mối phẫn nộ nhất thời, hành động lỗ mãng mà thành thiên cổ tội nhân.
Lão liền đáp :
– Được rồi ! Bọn lão phu kính cẩn vâng lời chỉ dẫn của Tổng Đà chúa.
Trần Cận Nam nói :
– Tại hạ không dám. Sáng mai chúng ta cùng đến Bắc Kinh. Đêm nay đến chỗ trọ của thằng nhỏ này hội họp. Hai vị tính sao ?
Quy Tân Thụ lẩm nhẩm gật đầu.
Trần Cận Nam hỏi Vi Tiểu Bảo :
– Ngươi đã có chỗ trọ chưa ?
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Đệ tử vẫn ở trong hẻm Đồng Mạo tại mé đông thành.
Trần Cận Nam nói :
– Thưa hai vị tiền bối ! Tối nay bọn tại hạ tụ hội ở Tử Tước phủ trong ngõ Đồng Mạo mé đông thành Bắc Kinh, cùng nhau thương nghị đại sự.
Vi Tiểu Bảo nói :
– Thưa sư phụ ! Xin sư phụ đừng bực mình. Chổ của đệ tử hiện nay là phủ Bá tước.
Trần Cận Nam nói :
– Chà chà ! Ngươi lại thăng quan nữa rồi.
Quy nhị nương trợn mắt lên nhìn Vi Tiểu Bảo hỏi :
– Ngươi là điệt tử của Ngô Tam Quế cũng là người ở Tào mà lòng ở Hán muốn vì đại nghĩa mà trừ diệt thân nhân chăng ?
Vi Tiểu Bảo cười đáp :
– Tiểu tử chẳng phải là điệt tử của Ngô Tam Quế mà là cháu trời ơi đất hỡi của lão.
Trần Cận Nam quắc mắt ra chiều tức giận quát mắng :
– Trước mặt những bậc tiền bối, ngươi không được ăn nói giỡn cợt vô lễ như vậy. Mau dập đầu tạ tội đi !
Vi Tiểu Bảo dạ một tiếng lom khom cúi quì xuống nhưng còn dềnh dàng để kéo dài thời gian.
Quy Tân Thụ giơ tay lên một cái ra hiệu cho vợ con và tùy bộc rồi trở gót ra cửa. Lão biết rõ bên ngoài không có chỗ nào trú ngụ nhưng chẳng thà chịu đói khát ngủ ngoài hoang dã chứ không muốn để cái mặt dầy phải nhìn thấy quần hùng Thiên Địa Hội nữa.
Quy Chung từ thưở nhỏ không có bạn chơi xứng đôi vừa lứa. Nay gã thấy Vi Tiểu Bảo ăn nói linh lợi , tuy gã nhỏ tuổi nhưng chơi đùa rất thích thú. Hắn liền nhìn gã vẫy tay nói :
– Chú nhỏ kia ! Ngươi đi theo ta để bầu bạn vui chơi cho thỏa thích.
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Ngươi giết bạn ta rồi, ta không chơi với ngươi nữa.
Đột nhiên nghe đánh “vù” một tiếng. Bóng người thấp thoáng. Quy Chung đã vụt lại túm lấy Vi Tiểu Bảo xách ra cửa.
Hắn động thủ cực kỳ mau lẹ khiến cho quần hùng Thiên Địa Hội không ai kịp ngăn cản.
Quy Chung cười ha hả reo lên :
– Ngươi chơi trò bịt mắt bắt dê với ta.
Quy Tân Thụ hầm hầm tức giận quát :
– Chung nhi ! Đặt gã xuống !
Quy Chung không dám trái lệnh phụ thân đành đặt Vi Tiểu Bảo xuống.
Quy nhị nương an ủi hắn :
– Hài nhi ! Để chúng ta đi mua hai tên thư đồng làm bạn với ngươi.
Quy Chung đáp :
– Bạn với thư đồng chẳng thú gì. Thằng nhỏ này hay lắm ! Chúng ta mua gã quách.
Quy Tân Thụ thấy con làm cho rơ mặt, liền dắt tay hắn rảo bước ra cửa.
Quần hùng ngơ ngác nhìn nhau, đều nghĩ bụng :
– Ngô Lục Kỳ nổi tiếng anh hùng một thời mà chết về tay một tên ngốc, thực là oan uổng !
Vi Tiểu Bảo nói :
– Thưa sư phụ ! Đệ tử đi mời bà bà tỷ tỷ ra để cùng các vị tương kiến.
Rồi gã cùng Song Nhi chạy vào hậu đường , không ngờ Hà Dịch Thủ đã bỏ đi từ trước rồi.
Bọn Tam thiếu nhưng đều nói là đàn bà con gái không tiện hội kiến với quần hùng, chỉ sai bảo bộc phụ bày cơm rượu để khoản đãi tân khách.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo bái biệt chủ nhân cùng bọn Trần Cận Nam chia đường vào kinh thành.
Trần Cận Nam nói :
– Tiểu Bảo ! Vợ chồng Quy nhị hiệp định đi hành thích Hoàng đế. Các vị đã nhận lời để thương nghị rồi sẽ quyết định. Vậy khi ngươi tới Bắc Kinh đừng thông tri cho Hoàng đế để y kịp thời phòng bị.
Vi Tiểu Bảo đã định bụng từ trước như vậy, bây giờ nghe sư phụ nói huỵch toẹt ra, vội đáp :
– Dĩ nhiên là thế ! Hoàng đế chiếm cứ giang sơn của người Hán chúng ta, tiểu tử có làm quan trong triều cũng chỉ là vâng lệnh của lão nhân gia, khi nào lại thực lòng với y ?
Trần Cận Nam nói :
– Có thế mới phải. Nếu ngươi nói không thực tâm, làm việc phản bội anh em, thì ta là người đầu tiên chẳng dung tha ngươi.
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Xin sư phụ cứ yên tâm, chẳng khi nào có chuyện đó.
Gã dẫn bọn Song Nhi, Từ Thiên Xuyên và bọn Trương Dũng, Triệu Lương Đống cùng về Bắc Kinh.
Gã vừa về tới ngõ Đồng Mạo liền nghĩ ngay đến việc vào ra mắt vua Khang Hy, trong lòng tự nhủ :
– Tiểu Hoàng đế là người bạn hữu rất thân của ta, khi nào ta để y bị chết về tay ba con rùa ? Được ! Ta vào cung dặn bọn thị vệ phòng thủ nghiêm mật. Ta đã hứa với sư phụ không thông tin cho Hoàng đế, song ta vẫn phòng ngừa ba con rùa không thể để chúng đắc thủ. Như vậy vừa khỏi thất tín với sư phụ , vừa cứu được hảo bằng hữu.
Nhưng gã sắp ra cửa thì Trần Cận Nam đã hoá trang đưa bọn Cổ Chí Trung , Mã Siêu Hưng tới nơi. Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm hồi hộp, đành gắng gượng phấn khởi tinh thần thết yến khoản đãi.
Chẳng mấy chốc quần hùng Thiên Địa Hội cũng lục tục kéo đến. Tiếp theo Mộc Kiếm Thanh dẫn bọn Thiết bối thương long Liễu Đại Hồng, Dao đầu sư tử Ngô Lập Thân, Thánh thủ cư sĩ Tô Cương vào.
Nguyên bọn người Mộc Vương phủ đã ở Bắc Kinh từ trước, nay được tin liền tới tụ hội.
Mọi người ăn cơm xong hồi lâu mới thấy ba người ở Quy gia tới. Vi Tiểu Bảo lại sai mở tiệc riêng, nhưng Quy nhị nương gạt đi.
Bọn ta ăn cơm rồi.
Quy Chung nhìn ngang nhìn ngửa thấy cách trần thiết trong phủ đệ rất lịch sự và sang trọng liền nói :
– Tiểu oa oa ! Nhà ngươi đây so với Ngũ hoa cung của Bình Tây Vương cũng chẳng kém gì mấy. Ngươi nói đúng thật. Ngô Tam Quế quả là bá phụ ngươi.
Hồi 202
Quy Tân Thụ múa kiếm cắt bào
Vi Tiểu Bảo nói :
– Phải rồi ! Ngô Tam Quế là…
Gã đột nhiên dừng lại vì nghĩ tới nếu mình buột miệng nói hết câu để chiếm phần tiện nghi thì tất làm cho sư phụ phải bực mình. Gã liền lảng sang chuyện khác:
– Nếu ba vị đã dùng cơm rồi thì chúng ta qua đông sảnh uống trà.
Quần hùng sang ngồi bên đông sảnh uống trà và ăn bánh xong, Vi Tiểu Bảo liền cho tùy bộc lui ra và dặn chúng nếu không hô hoán thì bất cứ là ai cũng đừng cho vào.
Trần Cận Nam lại phái mười mấy người trong hội canh gác chung quanh sảnh đường và trên nóc nhà rồi đóng cửa cài then, cùng quần hùng ngồi vào bàn thương nghị đại sự.
Trước hết ông giới thiệu vợ chồng Quy Tân Thụ cùng mọi người trong Mộc Vương phủ, tuyệt không nhắc đến vụ Ngô Lục Kỳ.
Vợ chồng họ Quy tuy ẩn cư đã lâu ngày mà bọn Liễu Đại Hồng, Ngô Lập Thân vẫn đem lòng ngưỡng mộ, giữ thái độ cực kỳ cung kính.
Quy nhị nương lên tiếng trước :
– Ngô Tam Quế cất quân từ Vân Nam đánh vào Hồ Nam, Tứ Xuyên, binh tướng rất là hùng mạnh. Dọc đường phá lũy cướp thành dễ như chẻ trẹ Ngày trước tuy Ngô Tam Quế đầu hàng bọn Thát Đát để mất giang sơn nhà Đại Minh, gây lên tội ác rất lớn, nhưng hắn cũng là người Hán như chúng tạ Theo ý kiến của Quy nhị gia thì chúng ta hãy tiến vào Hoàng cung đâm chết Hoàng đế Thát Đát khiến bọn chúng như rắn mất đầu, rối loạn cả lên, rồi tiếp tục đánh giết đoạt lại giang sơn.
Chưa hiểu cao kiến của các vị thế nào ?
Mộc Kiếm Thanh hỏi :
– Dĩ nhiên chúng ta phải giết Hoàng đế Thát Đát, nhưng hiện giờ tên gian tặc Ngô Tam Quế dấy quân tạo phản mà giết Hoàng Đế ngay thì có khác gì viện trợ gian tặc ?
Quy nhị nương đáp :
– Ngày trước Ngô Tam Quế sát hại Mộc Vương gia, dĩ nhiên Mộc công tử không chịu tha hắn, nhưng việc lớn ngày nay là sự phân biệt kẻ Mãn người Hán.
Chúng ta hãy giết hết bọn Thát Đát rồi thủng thẳng tính đến việc đối phó Ngô Tam Quế cũng chưa muộn.
Liễu Đại Hồng lên tiếng :
– Giả tỷ Ngô Tam Quế khởi binh đắc thắng, tự tiện lên làm Hoàng đế rồi, sau muốn đụng đến hắn thật không phải chuyện dễ dàng. Theo thiển kiến của vãn bối thì chúng ta hãy để bọn Ngô Tam Quế và bọn Thát Đát chém giết lẫn nhau tơi bời, chúng ta đóng vai ngư phủ thủ lợi. Vì thế vãn bối tưởng hiện giờ mình không nên hành thích Hoàng đế Thát Đát ngay.
Liễu Đại Hồng tuy râu tóc bạc phơ, nhưng vợ chồng Quy Tân Thụ nổi danh đã lâu, lão đối với hai nhân vậ này tỏ vẻ cực kỳ cung kính mới tự xưng là vãn bối.
Bọn Mộc Vương phủ có mối thù sâu tựa bể với Ngô Tam Quế đều muốn nhìn thấy hắn bị tiêu diệt trước, nên ai cũng đồng ý theo quyết định này.
Quy nhị nương nói :
– Ngô Tam Quế dựng cờ khỏi nghĩa chinh thảo quân Hồ lỗ để trung hưng nhà Đại Minh, phò tá Chu Tam Thái tử lên ngôi. Đây là hịch văn của Ngô Tam Quế dấy quân đánh giặc. Xin các vị coi đi !
Mụ nói rồi rút trong mình ra tờ giấy trắng lớn trải trên bàn.
Trần Cận Nam cất tiếng đọc :
– “Nguyên tổng binh trấn thủ Sơn Hải quan, nay phụng chỉ lãnh chức đại nguyên soái, tổng thống Thủy lục quân khắp thiên hạ, đánh giặc Hồ Lỗ, trung hưng Đại Minh, Đại tướng quân Ngô truyền hịch cho văn võ quan viên cùng quân dân khắp thiên hạ được biết:
Bản trấn đội ân sâu của nhà Đại Minh đời đời tập Tước trấn thủ Sơn Hải quan…
Trần Cận Nam biết phần lớn quần hào không thông văn mặc nên đọc tới đâu giải thích tới đó. Ông giải thích rõ ràng xong đoạn đầu rồi tiếp tục đọc xuống dưới.
Đoạn kế tiếp hịch văn nói về vụ Lý Tự thành đánh phá Bắc Kinh. Vua Sùng Trinh chầu trời. Hắn vì việc báo thù cho quân phụ nên bất đắc dĩ phải mượn quân Mãn Thanh để đánh phá Lý Tự Thành.
Đoạn sau bài hịch văn nói :
– ” May mà tên cừ khôi thất bại, bản trấn đang định lựa chọn tự quân kế thừa nghiệp lớn và gia phong phiên quốc, cắt đất đền ơn chúa Mãn. Không ngờ Hồ lỗ xảo quyệt, trái nghịch thiên đạo, phải bội minh ước, đã thừa cơ nội bộ không hư, chiếm cứ Yên Kinh. Chúng lại lấy cắp thần khí của tiên triều, biến đổi áo xiêm Trung Quốc. Bản trấn biết mình lầm lỡ rước voi đuổi cọp và mang tội ôm rơm chữa cháy…. ” Quy nhị nương xen vào :
– Sau Ngô Tam Quế tự biết lỗi lầm về vụ mượn quân Mãn Thanh để phá Lý Tư.
Thành, nhưng tiếc là đã chậm mất rồi, hối hận cũng không kịp nữa.
Liễu Đại Hồng hắng dặng lên tiếng :
– Tên gian tặc này miệng lưỡi giảo quyệt nói rất dễ nghe, nhưng toàn là luận điệu giả dối.
Quy nhị nương không lý gì đến lão, giục Trần Cận Nam :
– Trần Tổng đà chúa ! Xin tổng đà chúa đọc tiếp đi !
Trần Cận Nam dạ một tiếng rồi đọc tiếp :
– ” Bản trấn lòng như dao cắt, giận mình hộc máu, hối hận thì sự đã rồi. Sau muốn đảo qua đánh ngược lên Bắc, quét sạch lũ hôi tanh thì vừa gặp Tam Thái tử của tiên hoàng.
Năm Thái tử lên ba tuổi, Tiên hoàng đã thích chữ vào đùi để làm ký hiệu trân trọng ủy thác. Bản trấn uống máu nín nhịn, nuôi chí chờ thời, lựa tướng luyện binh, mật đồ hưng phục. Từ đấy đến nay đã ba chục năm.
Liễu Đại Hồng nghe tới đây không nhẫn nại được nữa, vỗ bàn lớn tiếng :
– Nói láo ! Nói láo ! Hắn là một tên gian tặc lòng lang dạ thú, trời đất không dung. Nếu hắn quả có một chút tâm địa hưng phục nhà Đại Minh thì sao ngày trước lại sát hại Vĩnh Lịch Hoàng đế, Vĩnh Lịch Thái tử ? Việc này khắp thiên hạ đều biết hết. Hắn còn chối cãi được chăng ?
Quần hùng thấy Liễu Đại Hồng râu tóc dựng đứng cả lên đều tâm phục lão là người trung nghĩa. Ai cũng nghĩ rằng mười hai năm trước đây Ngô Tam Quế đã đem cha con Vĩnh Lịch Hoàng đế ra chợ Côn Minh xử tử thì chẳng còn cách nào chối cãi được.
Quy nhị nương nói :
– Lời nói của Liễu đại ca quả đã không lầm. Ngô Tam Quế nhất quyết chẳng phải trung thần nghĩa sĩ. Dù là đứa trẻ lên ba cũng đã biết rồi. Chúng ta đi hành thích Hoàng đế Thát Đát chỉ vì mục đích duy nhất là phản Thanh phục Minh, tuyệt không có ý trợ lực cho Ngô Tam Quế lên làm Hoàng đế.
Trần Cận Nam nói :
– Để tại hạ đọc xong bài hịch văn rồi chúng ta sẽ thương nghị kỹ càng.
Ông nói rồi đọc tiếp :
– ” Nay Hồ chúa vô đạo, gian tà lên cao. Kẻ sĩ trung nghĩa bị hạ xuống thấp , những quân ty tiện, thân hèn sâu, cái phận mọn kiền ruồi lên làm chức lớn…
Ông đọc tới câu này liếc mắt nhìn Vi Tiểu Bảo cười nói :
– Câu này trong hịch văn nhắc tới ngươi rồi đó.
Vi Tiểu Bảo lắng tai nghe sư phụ đọc hịch văn, chỉ chú ý đến giọng lên bổng xuống trầm , thanh điệu lọt tai, còn chẳng hiểu gì mấy. Bây giờ gã thấy sư phụ nói trong bài hịch của Ngô Tam Quế có nhắc đến mình, gã không khỏi vừa kinh hãi vừa mừng thầm, vội hỏi :
– Thưa sư phụ ! Hắn bảo đệ tử làm sao ? Dĩ nhiên lão con rùa đó nói đệ tử chẳng ra gì.
Trần Cận Nam đáp :
– Hắn bảo những người tử tế có học vấn và có đạo đức đều làm quan nho?
như hạt vừng hạt đậu. Còn kẻ vô tích sự , hèn mạt đê tiện lại làm quan tọ Hắn chẳng nói ngươi thì còn ai vào đây ?
Vi Tiểu Bảo lại hỏi :
– Còn chính lão thế nào ? Quan chức của hắn lớn hơn đệ tử nhiều mà so với đệ tử hắn còn vô dụng hơn thì sao ?
Quần hùng nghe nói đều phì cưới. Có người nói :
– Trong triều đình Thát Đát, chẳng ai quan tước cao sang bằng Bình Tây thân Vương.
Trần Cận Nam lại tiếp tục đọc nốt đoạn chót :
– ” Núi thảm sông sầu, mẹ la con khóc. Thậm chí sao chổi xuất hiện.
” Thượng thiên phẫn nộ, thổ liệt sơn băng. Địa hạ Oán hờn, cỏ cây ngơ ngác.
” Bản trấn trông lên ngó xuống, dốc dạ trung thành, trừ bạo cứu dân , thuận lễ Trời và hợp lòng người. Gặp buổi đầu xuân, ngày lành tháng tốt, cung phụng Thái tử, tế cáo thiên địa, lên ngôi đại bảo, mở nghiệp nhà Châu.
Ông đọc xong lại giải thích hết đoạn chót.
Trong bọn quần hùng, ngoại trừ Trần Cận Nam và Mộc Kiếm Thanh là hai nhân vật học vấn uyên thâm, còn toàn những người ít khi đọc sách. Ai cũng cảm thấy bài hịch văn nói đâu ra đó, nhưng có chỗ không đúng, mà chẳng hiểu sai trật thế nào, không diễn ra được.
Mộc Kiếm Thanh trầm ngâm một lúc rồi lên tiếng :
– Trần Tổng đà chúa ! Hắn đã đưa Chu Tam thái tử lên ngôi đại bảo mà sao lại không khôi phục quốc hiệu Đại Minh, tự đổi quốc hiệu thành nhà Châu ? Chỗ này thật sơ hở rất lớn. Huống chi Chu Tam thái tử mà hắn nói đây chưa rõ chân giả.
Chẳng ai mắt thấy tai nghe. Đột nhiên hắn đưa Chu Tam thái tử ra một cách rất hàm hồ. Chắc là Ngô Tam Quế kiếm một thằng nhỏ chưa hiểu việc đời làm Chu Tam thái tử để hiệu triệu quốc dân. Thực sự Chu Tam thái tử nào đó chỉ là bù nhìn.
Quần hùng đều gật đầu khen phải.
Quy nhị nương nói :
– Ngô Tam Quế dùng Chu Tam thái tử làm bù nhìn là một điều chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa, bất luận chân hay giả cũng vậy mà thôi. Có điều Chu Tam thái tử đâu phải là đứa con nít. Đức Tiên hoàng tuẫn quốc đến ba chục năm, nếu đúng Chu tam thái tử thật thì nay ít ra cũng đã ngoài ba mươi tuổi.
Vi Tiểu Bảo xen vào :
– Người ngoài ba chục vẫn là trẻ nít không hiểu việc đời sao lại không có ?
Hà hà…
Gã nói rồi liếc mắt nhìn Quy Chung.
Trong quần hùng có mấy người không nhịn được phải phì cười.
Quy nhị nương lông mày dựng ngược đã toan phát tác, nhưng mụ nghĩ lại nhận thấy lời Vi Tiểu Bảo nói đúng. Thằng con bảo bối của mụ đã ngoài ba chục tuổi mà vẫn còn là đứa trẻ nít không hiểu việc đời. Bất giác mụ buông tiếng thở dài.
Quần hùng tiếp tục thương nghị hồi lâu. Người thì chủ trương hãy mượn tay Vua Khang Hy trừ khử Ngô Tam Quế trước. Kẻ lại bảo tuy Ngô Tam Quế gian ác nhưng cũng là người Hán, nên giúp hắn đánh đuổi quân Thát Đát, khôi phục lại giang sơn rồi sẽ trừ diệt hắn sau. Vì chính kiến bất đồng nên cuộc nghị luận hồi lâu vẫn chưa đi tới quyết định.
Sau mọi người đều chăm chú nhìn Trần Cận Nam vì ai cũng biết ông là nhân vật túc trí đa mưu, tất có cao kiến đưa ra đề nghị xác đáng.
Trần Cận Nam nói :
– Chúng ta phải lấy giang sơn làm trọng. Nếu bây giờ giết chết Vua Khang Hy ngay thì dĩ nhiên thanh thế Ngô Tam Quế nổi lên như sóng cồn. Một đằng Trịnh vương gia ở Đài Loan cũng vượt biển chinh tây, tiến vào Mân, Triết, đánh thẳng lên Giang Tộ Thế là hai mặt đông tây giáp kích, nhất định bọn Thát Đát phải tan vỡ…
Ông dừng lại một chút rồi tiếp :
– Khi đó nếu Ngô Tam Quế tiến vào thành mà muốn tự xưng Hoàng đế thì binh lực của Trịnh Vương gia, thêm vào anh hùng các lộ như Mộc Vương phủ, Thiên Địa Hội cũng khó lòng kiềm chế được tên gian tặc biết làm thế nào ?
Tô Cương lạnh lùng hỏi lại :
– Trần Tổng đà chúa nói vậy phải chăng là tính giúp cho Trịnh Vương gia ở Đài Loan?
Trần Cận Nam nghiêm nghị hỏi lại :
– Trịnh Vương gia nổi tiếng khắp thiên hạ vì lòng trung nghĩa, chẳng lẽ Tô huynh không tin được chăng ?
Tô Cương đáp :
– Trần tổng đà chúa dốc lòng trung trinh nghĩa hiệp ai cũng khâm phục. Nhưng chung quanh Trịnh Vương gia rất nhiều kẻ tiểu nhân gian trá đê hèn thì làm thế nào?
Vi Tiểu Bảo không nhịn được cũng lên tiếng :
– Lời Tô gia quả nhiên rất đúng. Tỷ như Nhất Kiếm Vô Huyết Phùng Tích Phạm và ngay con Trịnh Vương gia đều chằng phải hảo nhân.
Trần Cận Nam thấy gã không phụ hoa. với mình hơi lấy làm ngạc nhiên, nhưng ông nghĩ lại thì nhận xét của gã không sai lầm. Bất giác ông buông tiếng thở dài.
Quy nhị nương nói :
– Việc đuổi quân Thát Đát là hệ trọng hơn hết. Còn ai lên làm Hoàng đế chúng ta chưa cần nghĩ tới. Nói một cách khác là việc phản Thanh nhất định là phải làm ngaỵ Còn phục Minh hay không phục Minh để sau hãy thương nghị. Vua Sùng Trinh nhà Đại Minh thật ra cũng chẳng có gì xứng đáng.
Trần Cận Nam và quần hào ở Mộc vương phủ trước nay dốc dạ trung trinh với họ Chu nhà Đại Minh , nghe mụ nói vậy đều biến sắc.
Mộc Kiếm Thanh dõng dạc hỏi :
– Nếu chúng ta không ủng hộ dòng dõi Chu thị khôi phục nghiệp lớn thì đi phò tá tên đại gian tặc Ngô Tam Quế hay sao ?
Quy Chung đột nhiên bật cười lên tiếng :
– Ngô Tam Quế là người tốt lắm mà. Lão cho ta một tấm da hổ trắng để làm áo bào. Các vị đã nhìn thấy bao giờ chưa ?
Hắn nói rồi phanh tấm áo ngoài ra để hở tấm áo da bạch hổ, vẻ mặt nhơn nhơn đắc ý.
Quy Tân Thụ tức quá quát lên :
– Tiểu hài tử ! Ngươi không được nói nhăng nói càn ở đây.
Tô Cương cười lạt nói :
– Trong con mắt Quy thiếu gia thì một mảnh áo bào còn quí trọng hơn ca?
giang sơn người Hán chúng ta.
Quy nhị nương tức giận quát :
– Hài tử ! Ngươi cởi ngay tấm áo da hổ ra.
Quy Chung ngạc nhiên hỏi :
– Tại sao vậy ?
Quy Tân Thụ không nói nửa lời. Lão vươn tay rút lấy thanh trường kiếm ở sau lưng Quy Chung.
Bỗng thấy ánh bạch quang chuyển động. Tiếp theo những tiếng “roạc roạc” vang lên.
Thanh trường kiếm trong tay Quy Tân Thụ xoay đi một vòng, lướt qua phía trước, phía sau, trên cánh tay và hai đầu vai Quy Chung.
Quần hào giật mình kinh hãi đều đứng phắt dậy toan nhảy tới. Ai nấy đều cho là Quy Tân Thụ muốn giết con. Nhưng chỉ thấy tấm áo da của Quy Chung bị cắt đứt , miếng, rớt xuống quanh mình hắn, để lộ tấm áo lót bằng vải ra.
Quy Tân Thụ lia mấy nhát kiếm này rất chuẩn đích, chỉ hớt đứt lần áo da chứ không tơ hào đụng đến áo lót bên trong, nên chẳng thấy một vết tích nào.
Quần hùng coi đã rõ ràng đều nổi tiếng hoan hô.
Quy Chung sợ hãi đến ngẩn người. Hắn nổi cơn ho sù sụ, ấp úng la :
– Gia gia !…. Gia giạ..
Hắn vừa ho vừa nói không ra tiếng.
Quy Tân Thụ vung tay một cái. Thanh trường kiếm đã chuồn vào vỏ.
Lão cởi tấm áo bông của mình khoác lên mình Quy Chung nói :
– Mặc vào đi !
Quy nhị nương lượm những tấm da bạch hổ rách ở dưới đất vứt vào trong hỏa lò. Lập tức lửa cháy bừng lên. Mùi khét lẹt tỏa ra khắp gian phòng.
Chỉ trong khoảng khắc, tấm da bạch hổ đã cháy thành than.
Vi Tiểu Bảo la lên :
– Đáng tiếc ôi đáng tiếc !
Quy Tân Thụ nói :
– Đi thôi !
Rồi lão cất bước tiến ra cửa sảnh đường.
Trần Cận Nam nói :
– Quy nhị hiệp đi lo việc lớn, bọn tại hạ xin theo để kính cẩn nghe lời sai bảo.
Quy Tân Thụ đáp :
– Lão phu không dám. Bất tất phải thế.
Lão nói rồi tiếp tục đi ra cửa.
Vi Tiểu Bảo biết lão muốn động thủ ngay tức khắc mà gã chưa kịp báo cho Hoàng đế biết, liền tự nhủ :
– Ta phải dùng kế hoãn binh, cản trở lão mới được.
Gã liền lớn tiếng :
– Trong Hoàng cung chẳng có một vạn thì cũng phải năm ngàn căn phòng. Lão tiền bối có biết Hoàng đế Thát Đát ở phòng nào không ?
Quy Tân Thụ chưng hửng. Lão biết gã nói có lý. Trong cung cấm, nhà cửa kể có hàng ngàn hàng vạn thì biết kiếm Hoàng đế ở phòng nào ?
Lão quay lại hỏi :
– Ngươi có biết không ?
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp :
– Tại hạ cũng không rõ, Hoàng đế Thát Đát sợ người hành thích đêm đêm thường đổi chỗ ngủ. Hôm thì ngủ ở cung Từ Ninh, hôm ngủ tại cung Cảnh Dương.
Có khi ở cung Trường Xuân, cung Hàm Phúc, cung Diên Hỵ..
Gã kể một tràng dài mười mấy cung viện. Quy Tân Thụ nghe gã nói cặp lông mày nhăn tít lại.
Vi Tiểu Bảo lại nói :
– Ngay bọn Thái giám, thị vệ kề cận Hoàng đế cũng không biết được đêm nay y ngủ ở cung nào.
Quy Tân Thụ hỏi :
– Tiểu huynh đệ nói vậy thì làm thế nào mới kiếm được Hoàng Đế ?
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp :
– Hoàng đế lâm triều, văn võ bá quan đều trông thấy. Nhưng sau khi y vào nội điện, chỉ có y muốn kiếm ai thì được, còn người ngoài vĩnh viễn chẳng thể nào kiếm thấy y.
Quy Tân Thụ nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy, chau mày ngẫm nghĩ, không khỏi ngần ngừ.
Vi Tiểu Bảo thấy Quy Tân Thụ ra chiều ngần ngại. Gã rất lấy làm đắc ý hỏi :
– Quy nhị gia ! Nhị gia đã biết Hoàng đế Thát Đát có bao nhiêu phi tần không?
Quy Tân Thụ hắng dặng một tiếng, trợn mắt lên không đáp.
Vi Tiểu Bảo lại nói :
– Theo lời thầy đồ thì trong tam cung lục viện của Hoàng đế có đến ba ngàn người. Sự thực thì Hoàng đế Thát Đát không nhiều vợ đến thế, chỉ độ một ngàn năm sáu trăm người mà thôi. Đêm nào cũng như đêm ấy, Hoàng đế đều làm tân lang. Bữa nay ngủ với cô phi tần thứ , ngày mai lại sang phòng cô. Vậy mà nhị gia định vào Hoàng cung để kiếm Hoàng đế thật muôn vàn khó khăn ! Ngay phi tần của Hoàng đế cũng chẳng biết đêm nay nhà Vua ngủ ở đâu. Có bà chờ suốt ba bốn năm trời chưa được Hoàng đế chiếu cố mà cũng chẳng biết suốt đời Hoàng đế có đến với mình lần nào hay không ?
Trần Cận Nam hỏi :
– Tiểu Bảo ! Ngươi ở trong Hoàng cung lâu ngày chắc là biết cách tìm thấy Hoàng đế?
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Ban ngày muốn kiếm Hoàng đế còn dễ hơn một chút, nhưng ban đêm thì chẳng thể nào tìm tới nơi được.
Trần Cận Nam nói :
– Nếu vậy để đến ngày mai chúng ta sẽ hoá trang để ngươi dẫn vào cung hành động. Có phải ngươi đã đưa hai vị Tiền huynh đệ và Ngô nhị ca đây vào trong cung rồi không ?
Ông vừa hỏi vừa trỏ vào Tiền lão bản và Ngô Lập Thân.
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Tiền đại ca mới vào đến Ngự trù phòng. Còn Ngô đại ca và mấy vị tiến vào Hoàng cung liền bị bọn vệ sĩ…. phát giác. Có thể nói là các vị này muốn thấy mặt Hoàng đế còn phải cách xa hàng chục dặm đường ..
Gã quay sang hỏi hai lão :
– Tiền đại ca ! Ngô nhị ca ! Các vị bảo có đúng thế không ?
Hai lão Tiền, Ngô gật đầu luôn mấy cái.
Hai người này đã vào tới Hoàng cung đều biết muốn kiếm Hoàng đế ở trong cung cấm chẳng khác gì đáy biển mò kim.
Vi Tiểu Bảo nói tiếp :
– Nhưng đệ tử đã có cách.
Trần Cận Nam hỏi :
– Ngươi có biện pháp gì ?
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Sáng mai đệ tử vào cung ra mắt Hoàng đế, thế nào y cũng nhắc tới vụ Ngô Tam Quế tạo phản. Đệ tử nhân cơ hội đó liền hỏi Hoàng đế trừ diệt Ngô Tam Quế bằng cách nào, rồi đưa đẩy câu chuyện đến chỗ nhà Vua ra ngoài thành coi biểu diễn súng lớn. Nhà vua ra khỏi cửa cung rồi mình hạ thủ dễ hơn nhiều. Việc hành thích thành công chẳng nói làm chi, bằng mưu sự bất thành thì chuồn đi là xong. Có thế mới đỡ cho mình.
Quy nhị nương cười lạt hỏi :
– Liệu Hoàng đế có nghe lới đứa trẻ nít như ngươi không ? Nếu ba năm y không ra khỏi Hoàng cung thì chẳng lẽ chúng ta cũng chờ cả ba năm hay sao ?
Ngươi từ chối như vậy tức là có ý không chịu dẫn chúng ta vào cung hành động mà thôi.
Mộc Kiếm Thanh nói :
– Tiểu đệ đã vào cung định hành thích Hoàng đế rồi. Nói ra lại mắc cỡ :
vụ đó đã làm thiệt mạng mấy người của Mộc Vương phủ. Ngoài ra Xá muội cùng Phương sư muội và Ngô sư thúc đây đều bị hãm ở trong cung. May nhờ Vi hương chủ vì lòng nghĩa hiệp hết sức cứu viện mới thoát nạn. Chẳng phải bọn tiểu đệ nhát gan sợ chết, nhưng vụ này thực khó mà thành công được.
Quy nhị nương lại ngó Vi Tiểu Bảo bằng cặp mắt lạnh lùng hỏi :
– Bộ ngươi mà giải cứu được bọn họ thoát hiểm ư ?
Ngô Lập Thân liền nói ngay :
– Vi hương chủ đây tuy nhỏ tuổi mà nhân nghĩa hơn đời, cơ trí khôn lường !
Tính mạng của huynh đệ hoàn toàn nhờ y cứu thoát.
Quy nhị nương nói :
– Mộc Vương phủ làm việc không thành, song Quy gia biết đâu không làm được ?
Liễu Đại Hồng tức mình đứng phắt dậy nói :
– Hiền phu phụ thần quyền vô địch, dĩ nhiên còn hơn gấp trăm lần những người trong Mộc Vương phủ nhỏ của bọn tại hạ. Vậy xin nhị vị khởi giá động thân.
Bọn tại hạ ngồi đây kính cẩn chờ đợi hảo âm.
Một người anh em trong Hồng Thuận Đường của Thiên Địa Hội nói theo :
– Vi hương chủ ! Tưởng hương chủ nên cùng đi với nhị vị lão anh hùng cho chắc hơn. Lỡ ra vợ chồng Quy nhị hiệp bị bọn vệ sĩ bắt được đã có hương chu?
tìm biện pháp giải cứu.
Hắn căm hận ba người nhà họ Quy đã sát hại Ngô Lục Kỳ, nên dù ở trước mặt tổng đà chúa cũng không nhịn được mà thốt nên lời mai mỉa.
Vi Tiểu Bảo cũng mắng thầm trong bụng :
– Bọn ba con rùa đen này vào cung mà bị bắt thì chẳng thà ta chịu chết chứ quyết không giải cứu.
Gã cười đáp :
– Khi nào vợ chồng Quy nhị hiệp để cho bọn vệ sĩ bắt được mà ông bạn phải lo ngại ? Trong Hoàng cung bất quá có hơn tám ngàn vệ sĩ thì Quy thiếu gia chỉ ho mấy tiếng cũng đủ làm cho bọn chúng bị chấn động chết ngẳng cổ cò.
Quần hào Thiên Địa Hội và Mộc Vương phủ đều bưng miệng cười thầm. Một số không nhịn được bật cười lên tiếng.
Quy Chung ngây ngô cười hỏi :
– Có chuyện đó thật ư ? Nếu thế thú quá ! Bọn chúng sợ ta ho lắm hay sao?…
Hắn chưa dứt lới lại nổi cơn ho sù sụ.
Vợ chồng Quy Tân Thụ vừa thẹn vừa tức. Một người nắm lấy cánh tay Quy Chung lôi đi băng băng ngoài sảnh đường.
Trần Cận Nam vội nói :
– Xin Quy nhị hiệp bớt giận, tiểu đệ có điều muốn thương nghị.
Hồi 203
Lộ cơ mưu tìm lời gạt gẫm
Quy nhị nương đã biết Trần Cận Nam là người túc trí đa mưu, liền quay lại chờ xem ông bảo sao ?
Trần Cận Nam nói tiếp :
– Hiền phu phụ võ nghệ cao cường, hiện nay không ai địch nổi, nhưng nhị vị vào sâu hiểm địa, lại lâm vào tình trạng địch nhiều mà ta ít. Vậy chúng ta hãy thương nghị để tìm ra kế hoạch vẹn toàn là hơn…
Quy nhị nương ngắt lời :
– Bản nhân tưởng Trần tổng đà chúa đã có cao kiến gì khác, té ra vẫn chưa tìm được biệt pháp nào.
Mụ lại trở gót bước đi.
Đột nhiên Liễu Đại Hồng và Ngô Lập Thân nhanh chân hơn, vượt qua hai người đứng chắn trước cửa.
Liễu Đại Hồng nói :
– Nhị vị mà trợ lực cho Ngô Tam Quế thì bọn Mộc Vương phủ chúng ta quyết không chịu đâu.
Quy nhị nương hỏi :
– Sao ? Các vị muốn động thủ chăng ?
Liễu Đại Hồng đáp :
– Nhị vị hãy hạ sát anh em tại hạ trước rồi hãy qua cửa này đi giúp Ngô Tam Quế.
Quy nhị nương nói :
– Ai bảo bọn ta đi giúp Ngô Tam Quế ?
– Tuy nhị vị không có ý viện trợ Ngô Tam Quế, song việc này mà thành công thì thanh thế Ngô tặc trở nên cực kỳ hưng thịnh, muốn dẹp hắn cũng không được nữa.
Quy Tân Thụ khẽ nói :
– Tránh ra !
Lão tiến lên một bước. Liễu Đại Hồng liền giang hai tay đứng chắn trước cửa.
Quy Tân Thụ vươn tay trái ra chụp vào trước ngực lão.
Liễu Đại Hồng vung tay lên gạt.
Bình một tiếng ! Hai chưởng đụng nhau. Người Liễu Đại Hồng lảo đảo muốn té. Sắc mặt lão biến thành lợt lạt.
Quy Tân Thụ nói :
– Lão phu mới vận năm thành công lực mà thôi.
Dao đầu sư tử Ngô Lập Thân lắc đầu lia lịa đáp :
– Quy nhị hiệp cứ vận đến mười thành công lực để giết chết anh em tại hạ đi là xong.
Quy Chung nói :
– Mười thành thì mười thành.
Hai tay hắn vươn ra rồi rụt lại.
Ngô Lập Thân vung tay lên gạt, thì hai tay Quy Chung đã rụt về rồi, nên Ngô Lập Thân gạt sểnh.
Quy Chung liền nhân lúc đối phương thu chiêu về, phóng hai tay nhanh như chớp chụp vào huyệt đạo trước ngực lão.
Trần Cận Nam chạy đến khuyên giải :
– Chúng ta đều là hảo bằng hữu, không nên động võ.
Đứng trước tình thế này, ông muốn ra tay giải cứu Ngô Lập Thân nhưng hành động như vậy là ra mặt cừu địch với vợ chồng họ Quỵ Bất giác ông chau mày ra chiều khó nghĩ.
Vi Tiểu Bảo cười nói :
– Các vị tranh chấp mãi thế này rút cục vẫn không đi tới đâu. Tại hạ nghĩ ra một biện pháp là chúng ta gieo xúc xắc để bói coi. Nếu Quy nhị gia thắng thì chẳng những không ai cản trở hành động của hai vị, mà vãn bối còn đem tình hình trong Hoàng cung nói tỷ mỷ cho hai vị biết.
Quy nhị nương hỏi :
– Nếu ngươi thắng thì sao ?
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Vãn bối thắng thì hai vị tạm gác vụ này lại, chờ sau khi Ngô Tam Quế chết rồi, chúng ta sẽ hạ thủ đối phó với Hoàng đế.
Quy nhị nương bụng bảo dạ :
– Nếu mình tự ý hành động trước thì không chừng bọn Mộc gia sẽ báo tin cho quân Thát Đát biết mà đề phòng thật khó lòng thành công được. Chi bằng mình thử nghe gã bói coi một quẻ.
Mụ liền hỏi trượng phu :
– Nhị gia ! Vụ này nhị gia tính sao ?
Quy Tân Thụ nhìn Vi Tiểu Bảo nói :
– Ngươi mà thua thì không được cãi cối.
Vi Tiểu Bảo cười đáp :
– Đã là nam tử hán , là đại trượng phu, thì nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy.
Hoàng đế Thát Đát lại chẳng phải Điểu sâng dủy thang, hà tất vãn bối phải o bế y ? Đã đánh cuộc thì được cho đáng mặt anh hùng, mà thua cũng không mất vẻ hào kiệt. Bất luận thua hay được, quyết chẳng để tổn thương hoà khí.
Trần Cận Nam thấy gã nói câu sau cùng rất hợp lý liền lên tiếng :
– Vụ này quan hệ cực kỳ trọng đại. Công cuộc phục hưng đại nghiệp của chúng ta một phúc một hoa. thật khó mà tiên liệu được. Cổ nhân đặt ra bói toán để giải quyết nghi vấn. Nay chúng ta gieo xúc xắc cũng không ngoài chuyện thư?
khí vận. Vậy các vị bất tất phải tranh chấp, chúng ta căn cứ vào thiên mệnh mà hành động.
Quy nhị nương bảo Quy Chung :
– Hài nhi ! Buông tay ra !
Quy Chung đáp :
– Hài nhi không buông.
Quy nhị nương nói :
– Tiểu huynh đệ đây muốn gieo xúc xắc chơi với ngươi đó.
Quy Chung cả mừng, lập tức buông tay ra khỏi huyệt đạo trước ngực Ngô Lập Thân. Ngực lão đau ê ẩm , đầu vẫn lắc quày quạy.
Vi Tiểu Bảo nói :
– Quy thiếu gia ! Thiếu gia lấy xúc xắc ra đi ! Dùng đồ của thiếu gia mới chắc.
Quy Chung hỏi :
– Xúc xắc ư ? Ta không có. Ngươi có thì lấy ra.
Vi Tiểu Bảo nói :
– Ta cũng không có. Vị nào đem theo xin cho mượn.
Mọi người đều lắc đầu nghĩ bụng :
– Thật là khéo khỉ ! Ai lại dắt xúc xắc trong mình bao giờ ?
Quy nhị nương nói :
– Không có xúc xắc thì chúng ta gieo tiền cũng vậy.
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Phải gieo xúc xắc mới công bằng, thật tiền thật mễ, không lừa già dối trẻ.
Vãn bối là trẻ con, Quy nhị gia là ông già. Vậy gieo xúc xắc mới đúng. Trong bọn thân binh thế nào cũng có tên đem theo xúc xắc bên mình. Vãn bối đi hỏi đây.
Rồi gã đẩy cửa đi ra.
Vi Tiểu Bảo ra khỏi phòng tiến vào đại sảnh. Gã móc túi lấy ra sáu hạt xúc xắc mà lúc nào cũng đem theo bên mình dùng làm pháp bảo tùy thân. Sở dĩ gã không muốn lấy ngay ở trong phòng vì sợ vợ chồng Quy lão sinh ngờ vực.
Vi Tiểu Bảo ngồi lại trong đại sảnh một lúc rồi mới trở vào phòng vừa cười vừa nói:
– Kiếm được xúc xắc rồi.
Quy nhị nương hỏi :
– Cách đánh cuộc ăn thua thế nào ?
Vi Tiểu Bảo giả vờ đáp :
– Tiểu tử không hiểu trò chơi này.
Gã quay sang hỏi Quy Chung :
– Quy thiếu gia ! Cách chơi xúc xắc ra làm sao ?
Quy Chung cầm lấy hai con đáp :
– Ngươi cùng ta tỷ thí xem ai bắn trúng.
Rồi hắn búng ngón tay veo véo hai tiếng. Hai hạt xúc xắc bay lên quạt tắt hai ngọn đèn cầy. Bỗng hai tiếng chát chát vang lên. Hai hạt xúc xắc khảm vào trong vách ván.
Quần hùng đều cất tiếng khen :
– Hảo công phu !
Vi Tiểu Bảo nói :
– Tại hạ thấy người ta gieo xúc xắc để coi nhiều điểm hay ít điểm mà định hơn thua, chứ không theo cách phóng ám khí.
Quy nhị nương đáp :
– Phải rồi ! Hai ngươi đều gieo mỗi người một phát. Ai gieo nhiều điểm là người đó được.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm :
– Nếu gieo một phát mà hắn vận đỏ thật sự được điểm là nhất định mình thua.
Gã liền nói :
– Tiểu tử thiết tưởng nên gieo ba phát cho được công bằng. Ai thắng hai là được.
Quy Chung nghĩ đến càng gieo nhiều lần càng thích liền đáp :
– Mỗi người chúng ta gieo phát. Ai thắng phát là được.
Quy nhị nương nói :
– Không thể gieo nhiều lần cho rắc rối. Mỗi bên gieo ba phát là đủ.
Từ Thiên Xuyên móc hai viên xúc xắc cắm vào vách ván ra để lên bàn.
Vi Tiểu Bảo nói :
– Quy thiếu gia ! Thiếu gia gieo trước đi.
Quy Chung cầm bộ xúc xắc lên cười hì hì toan gieo xuống thì Quy nhị nương cản lại nói:
– Hãy khoan !
Mụ quay sang hỏi Liễu Đại Hồng và Mộc Kiếm Thanh :
– Nếu bọn ta thắng trong vụ đánh cuộc này thì Mộc Vương phủ có chịu không?
Vừa rồi Liễu Đại Hồng đã đối chưởng với Quy Tân Thụ, trong ngực khí huyết nhộn nhạo đến bây giờ hãy còn chưa hết. Lão nghĩ tới đối phương mới vận năm thành công lực mà đã ghê gớm đến thế thì đúng là một vị tiền bối anh hùng không còn sai nữa. Nếu lão định đến Hoàng cung hành thích thì lực lượng Mộc Vương phu?
chẳng thể nào ngăn trở được. Lão liền gật đầu.
Mộc Kiếm Thanh cũng đáp :
– Thiên ý ra sao cứ theo hai vị gieo xúc xắc để quyết định là xong.
Quy nhị nương nói :
– Vậy là hay lắm !
Rồi mụ giục Quy Chung :
– Chung nhi gieo đi ! Càng nhiều điểm càng hay.
Quy Chung cầm sáu quân xúc xắc nhìn kỹ rồi nói :
– Con nhiều nhất là sáu điểm, ít nhất là hai điểm. Còn một con lủng xuống một lỗ lớn.
Quy nhị nương đáp :
– Con đó là nhất điểm Quy chung nói :
– Lạ quá ! Lạ quá ! Tứ điểm sao lại màu hồng ?
Hắn vung tay mặt lên gieo xuống đánh ” chát ” một tiếng. Sáu con xúc xắc cắm sâu xuống mặt bàn, đều hướng mặt Lục lên trên.
Nguyên lúc hắn cầm sáu con xúc xắc đều hướng mặt nhất điểm xuống dưới , dĩ nhiên mặt Lục điểm hướng lên trên.
Quần hùng vừa kinh hãi vừa tức cười. Kinh hãi vì con người bịnh hoạn coi bề ngoài gió thổi bay mà nội lực cao thâm khôn lường. Tức cười ở chỗ khắp thiên hạ không ai gieo xúc xắc theo kiểu đó.
Quy nhị nương bảo hắn :
– Hài nhi ! Làm như vậy không đúng.
Mụ đập tay xuống bàn một cái. Cả sáu con xúc xắc đều nhảy lên.
Quần hùng cất tiếng hoan hô.
Quy nhị nương lượm bộ xúc xắc lên quăng xuống bàn nói :
– Cứ gieo tự nhiên cho ra mấy điểm thì ra, đừng cố ý mới đúng cách bói toán.
Quy Chung nói :
– Té ra là thế ! Hắn lượm bộ xúc xắc học kiểu mẫu thân, từ từ liệng xuống bàn. Sáu con xúc xắc quay lọc cọc một chút rồi dừng loại. Cộng được điểm.
Gieo sáu con xúc xắc thành điểm tức là trên mức trung bình, phần thắng nhiều hơn phần bại.
Vi Tiểu Bảo cầm bộ xúc xắc vừa sờ vừa lắc trong lòng bàn tay để ngấm ngầm dở trò. Bỗng gã hô :
– Thông cật !
Rồi liệng ra. Năm con xúc xắc xoay một lúc ngã xuống thành điểm. Còn con tối hậu vẫn quay tít theo thủ pháp gian lận của gã. Gã định bụng cho con này hướng mặt Lục lên thành điểm là thắng một bàn.
Không ngờ con xúc xắc vừa xoay vừa chạy đột nhiên đi vào một lỗ nhỏ trên mặt bàn, do Quy Chung gieo xuống trước gây ra.
Con xúc xắc rung rinh một lúc rồi không xoay được nữa. Mặt nhất điểm hướng lên. Thế là cộng thành điểm. Gã thua rồi.
Vi Tiểu Bảo không chịu, cãi :
– Trên mặt bàn có lỗ. Lần này bỏ đi không kể.
Gã lượm xúc xắc lên toan gieo lại thì Trần Cận Nam lắc đầu nói :
– Đây là ý trời. Ngươi chịu thua bàn này đi.
Vi Tiểu Bảo nghe sư phụ nói vậy, liền tự nhủ :
– Còn hai bàn nữa ta phải ăn hết mới thắng.
Gã cầm bộ xúc xắc đưa cho Quy Chung.
Quy Chung ăn bàn đầu, trong lòng hý hửng vô cùng, vẻ mặt nhơn nhơn đắc ý. Gã nhẹ nhàng gieo xuống. Lần này chỉ được chín điểm.
Mọi người ở Mộc gia nắm chắc bàn này hắn thua rồi, bất giác bật tiếng hoan hô.
Vi Tiểu Bảo lại góc bàn khác để rời xa chỗ có sáu lỗ nhỏ.
Gã gieo xúc xắc xuống thành bốn con sáu điểm, hai con năm điểm cộng là điểm. Bàn này gã thắng một cách dễ dàng.
Hai bên cùng thắng một bàn, thế là huề. Ăn thua nhau chỉ ở bàn thứ ba tối hậu.
Quy Chung lượm lấy bộ xúc xắc gieo xuống. Bộ xúc xắc xoay chuyển hồi lâu rồi ngã ra cộng được điểm. Bàn này hắn lại rất nhiều hy vọng thắng cuộc.
Mọi người ở Mộc gia sắc mặc đều lộ vẻ lo âu, tính thầm trong bụng :
– Hơn được điểm thì phải vận khí may lắm mới có.
Vi Tiểu Bảo chẳng quan tâm chi hết. Gã tự nhủ :
– Ta lại theo biện pháp vừa rồi gieo thành điểm là đủ thắng.
Gã mân mê mấy con xúc xắc trong lòng bàn tay để xoay vị trí cho đủ rồi từ từ gieo xuống.
Sáu con xúc xắc xoay chuyển trên mặt bàn di chuyển một lúc. Bốn con ngã xuống trước theo thứ tự :
sáu điểm, năm điểm, năm điểm, sáu điểm. Cộng điểm.
Con thứ năm xoay đến mặt sáu điểm ngã ra, thành hai mươi tám điểm.
Còn một con tối hậu vẫn xoay chuyển không ngớt. Nếu nó hạ xuống tam điểm thành hòa cục, phải gieo lại lần nữa chưa chắc đã được may mắn như lần này.
Con xúc xắc vẫn xoay chuyển không ngớt. Gã thấy mặt sáu điểm sắp ngã ra liền hô lớn :
– Hay quá !
Đột nhiên con xúc xắc chuyển mình một cái rồi lại xoay tít đi.
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi la lên :
– Ma quỉ ám ảnh !
Gã liếc mắt ngó thấy Quy Tân Thụ đang nhìn con xúc xắc thổi nhè nhẹ.
Giữa lúc ấy con xúc xắc dừng lại. Mặt nhất điểm hướng lên trời.
Mọi người đều bật tiếng la ó.
Vi Tiểu Bảo vừa kinh hãi vừa tức giận vô cùng. Gã được thấy không biết bao nhiêu lối gian lận trong cuộc đánh bạc, nhưng hạng người thổi hơi để xoay chuyển xúc xắc thì bữa nay mới gặp lần này là một còn trước kia chưa có bao giờ.
Gã nghĩ thầm :
– Nội công lão này rất cao cường, tụ khí thành giây, chẳng những lão làm cho con xúc xắc này lục điểm biến thành nhất điểm, e rằng vừa rồi Quy Chung gieo được điểm cũng chẳng phải vì hên vận, mà là lão đứng bên thổi hơi giúp sức.
Gã đó mặt tía tai nói :
– Quy lão gia tử ! Lão…. lão…. ha ha…
Gã vừa nói vừa chúm môi thổi phù phù.
Quy Tân Thụ đánh trống lấp , hô :
– Hai mươi chín điểm ! Ngươi thua rồi.
Lão thò tay ra lượm sáu con xúc xắc kẹp vào ngón tay cái và ngón tay giữa bóp một cái.
Những tiếng rắc rắc vang lên ! Bộ xúc xắc vỡ tan một ít thủy ngân chảy ra mặt bàn và biến thành hàng trăm hạt châu tròn trĩnh nhỏ bé, xoay tít đi.
Quy Chung vỗ tay cười nói :
– Đẹp quá ! Đẹp quá ! Cái này là cái gì ? Nó vừa như nước , lại giống như bạc.
Vi Tiểu Bảo thấy Quy Tân Thụ phanh phui ra tệ những đổ thủy ngân vào trong xúc xắc, liền giả vờ kinh ngạc hô :
– Té ra trong xúc xắc nhất định phải đổ thuỷ ngân. Quy lão gia ! Lão dạy khôn cho vãn bối. Con xúc xắc làm bằng xương trâu. Nay vãn bối mới hiểu thủy ngân lấy ở trong xương trâu ra. Trước kia vãn bối cứ tưởng thủy ngân là bạc luyện với nước chế thành. Giống hoàng ngưu biết cày ruộng lại biết chế tạo thủy ngân.
Thật là không ngờ ! Thật là không ngờ!
Quy nhị nương để mặc gã muốn nói nhăng nói càn thế nào thì nói, không lý gì đến. Mụ chỉ hỏi một câu :
– Bây giờ các vị hết nói rồi chứ ?
Mụ không đợi cho quần hùng trả lời, quay lại bảo Vi Tiểu Bảo :
– Vi huynh đệ ! Tình hình trong hoàng cung thế nào ? Xin huynh đệ nói cho bọn ta biết một cách tường tận.
Vi Tiểu Bảo đưa mắt nhìn sư phụ để hỏi ý kiến.
Trần Cận Nam gật đầu nói :
– ý trời đã muốn thế. Vậy ngươi cho hai vị tiền bối hay về tình hình Hoàng cung một cách thành thực.
Ông đã biết tên đồ đệ này rất xảo quyệt nên phải đặc biệt thêm vào bốn chữ, “một cách thành thực”.
Vi Tiểu Bảo xoay chuyển tâm cơ trong đầu óc, quyết định chủ ý rồi đáp :
– Vãn bối đã thua cuộc, dĩ nhiên không thể chối cãi được. Bậc đại trượng phu lừa gạt, cướp đoạt thì không sao, nhưng nợ đánh bạc tất nhiên phải trả.
Phòng ốc trong Hoàng cung nhiều như bát úp, đường lối quanh co nói không xiết được. Để vãn bối vẽ một bức đồ hình mới rõ hết.
Đoạn gã quay lại bảo Từ Thiên Xuyên và Tiền Lão Bản :
Từ đại ca ! Tiền đại ca ! Xin nhị vị bồi tiếp tân khách dùm cho, để tiểu đệ đi họa đồ.
Gã nói rồi chắp tay nhìn quần hùng, trở gót ra khỏi hoa sảnh đến thẳng thư phòng.
Phủ Bá tước do Khang Thân vương trao tặng. Trong thư phòng những họa đồ cùng thư pháp treo đầy trên vách. Đủ thứ nghiên bút bày la liệt trên bàn.
Vi Tiểu Bảo ham mê cờ bạc sợ vào đây xui vận vì chữ “thư” là sách đồng âm với chữ “thâu” là thua, nên ngày thường gã không bước tới “thâu phòng”. Nay có việc gã mới vào ngồi trước án và quát gia nhân :
– Mài mực !
Tên tùy bộc thân cận liền ứng hậu ngaỵ Gã nghĩ thầm :
– Trước nay ta chưa từng thấy Bá Tước đại nhân cầm bút viết chữ đột nhiên ngài vào đây tất có chuyện trọng đại.
Tuy hắn trong lòng hồi hộp mà ngoài mặt vẫn tỏ vẻ cung kính khâm phục.
Tên gia nhân liền lấy cái nghiên cổ bằng đá tía chạm rồng của Vương Hy Chi vẫn dùng ngày trước rót nước vào, lại lấy thoi mực Tùng yên hương của Nhan Lỗ Công đời nhà Đường dùng còn lại đem ra mài.
Hắn cầm thoi mực, bình tâm tĩnh trí mài nước mực thật đặc xong rồi lấy cây bút lông cừu hạng tuyệt hảo của Đường Bá Hổ ở Hồ Châu chế tạo ra.
Hắn trải lên mặt bàn tờ giấy Kim hoa ngọc tiên từ đời Tống Huy Tôn ban sắc chế tạo.
Tên gia nhân lại đốt thứ Long não Ôn xạ hương mà ngày trước Vệ phu nhân đốt lên mỗi khi viết chữ.
Cuộc sắp đặt trịnh trọng có thể nói là những bậc nổi danh như Chung, Nhan, Liễu, Tô, Huỳnh, Triệu cũng phải ghen tức là không bằng Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo đưa bàn tay như móng hổ, vận chỉ lực cầm nã ra ngón tay chụp lấy cán bút dầm vào nghiên mực giơ lên.
Bỗng nghe đánh ” tạch ” một tiếng. Một giọt mực lớn ở đầu ngọn bút nho?
xuống. Thế là tờ giấy Kim ngọc hoa tiên quí giá liền bị nhơ nhớp.
Tên gia nhân thân cận bất giác lẩm bẩm :
– Té ra không phải Bá Tước đại nhân viết chữ mà là ngài theo lối vung mực của Lương Khải để họa đồ.
Gã lại thấy Vi Tiểu Bảo đặt bút xuống bên trái giọt mực vạch một đường thành hình cành cây ngoằn ngoèo. Bên trái cành cây này gã khẽ chấm một nét. Nó vừa giống nhát búa của Lý Tôn Huấn ở phe Bắc Tông, lại tương tự vết phi ma của Vương Ma Cật.
Tên gia nhân đang lẩm bẩm khen thầm, bỗng nghe Bá Tước đại nhân hỏi :
– Ta viết chữ “Tiểu” thế này đã được chưa ?
Hắn giật bắn người lên, bây giờ mới biết Bá Tước đại nhân viết chữ “Tiểu”.
Hắn vội trầm trồ khen ngợi, đáp :
– Thư pháp của đại nhân bút kéo từ bên hữu qua bên tả, lập ra một lối đặc biệt. Thật là một bậc kỳ tài của nhà Trời.
Tên gia nhân này thường chầu chực ở thư phòng nên trong bụng có ít nhiều văn mặc.
Vi Tiểu Bảo lại nói :
– Ngươi đi kêu Trương đề đốc đến đây.
Tên gia nhân vâng lệnh đi ngaỵ Hắn tự hỏi :
– Không hiểu Bá Tước đại nhân ở dưới còn viết những chữ gì ?
Nhưng hắn có đoán tới đoán lui cả ngàn lần cũng không thể trúng được.
– Vi Tiểu Bảo viết xong chữ “Tiểu”, phía dưới khuyên tròn một cái.
Dưới khuyên tròn là một đường ngoằn ngoèo như cành cây cong, lại tựa hồ cái đòn gánh nằm ngang. Rồi gã vẽ hình con giun chui qua đòn gánh. Con giun chui qua đòn đánh là chữ “tử”.
Cả ba chữ này thong dong thành “Tiểu Huyền Tử”, tên của vua Khang Hy.
Vi Tiểu Bảo không biết viết chữ “Huyền”, nên vạch cái khuyên tròn để thay vào.
Gã nghĩ tới ngày trước làm sư ở chùa Thanh Lương, Vua Khang Hy đã họa đồ để truyền chỉ. Gã hâm mộ họa pháp của nhà Vua, kính cẩn bắt chước thánh ý. Bữa nay sự thế nguy cấp liền vẽ đồ hình làm bản tâu.
Vi Tiểu Bảo viết xong danh tự “Tiểu Huyền Tử”, lại vẽ một thanh kiếm. Mũi kiếm đâm vào cái khuyên tròn.
Sự thực trên đồ hình đao chẳng ra đao, kiếm chẳng ra kiếm mà gã vẽ toát mồ hôi mới xong.
Vi Tiểu Bảo vừa đặt bút xuống thì Trương Dũng tới nơi. Gã gấp tờ giấy hoa tiên lại chuồn vào phong bì, niêm phong cẩn mật giao cho Trương Dũng khẽ nói :
– Trương đề đốc ! Đây là Tấu chương rất khẩn yếu. Đế đốc đưa vào Hoàng cung ngay để tâu trình Hoàng thượng. Đề đốc chỉ cần nói là bản tâu cơ mật của ta thì lập tức thị vệ hay thái giám phải thông báo liền.
Trương Dũng vâng lệnh đưa hai tay ra đón lấy bản tâu toan chuồn vào bọc thì đột nhiên ngoài thư phòng có tiếng thân binh quát hỏi :
– Ai ?
Binh một tiếng ! Cửa phòng bị đẩy ra. Ba người sấn vào chính là vợ chồng Quy Tân Thụ và Quy Chung.
Quy nhị nương đã ngó thấy Trương Dũng cầm tấu chương trong tay liền đoạt lấy, lớn tiếng hỏi Vi Tiểu Bảo :
– Phải chăng ngươi báo cáo mật với Hoàng đế Thát Đát ?
Vi Tiểu Bảo kinh hãi đến thộn mặt ra, miệng lắp bắp :
– Không…. không phải…. không phải…
Quy nhị nương xé bao thơ, rút tờ hoa tiên ra coi thấy đồ hình cổ quái, mụ rất đỗi ngạc nhiên bảo chồng :
– Nhị gia thử coi xem.
Mụ vừa nói vừa đưa tờ giấy cho Quy Tân Thụ. Đoạn mụ quay lại hỏi Vi Tiểu Bảo :
– Vậy đây là chuyện gì ?
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Vãn bối sai hắn xuống dặn nhà bếp làm…. làm thứ bánh trôi nước để thiết khách…. và là thứ bánh bột nhỏ chứ không phải bánh lớn. Trên mặt bánh đặt hoa vào. Nhà bếp không hiểu…. nên vãn bối phải họa hình cho chúng coi.
Vợ chồng Quy Tân Thụ lẩm bẩm gật đầu, vẻ mặt hoà hoãn lại.
Trên mặt giấy quả vẽ hình đao khắc hoa vào cái khuyên tròn, chứ chẳng phải báo cáo mật tâu llên Hoàng đế.
Vi Tiểu Bảo giục Trương Dũng :
– Đi lẹ lên ! Đi lẹ lên !
Hồi 204
Tiểu Hoàng đế chặt đầu phò mã
Trương Dũng trở gót ra khỏi thư phòng.
Vi Tiểu Bảo dặn theo :
– Trương huynh đệ phái nhiều gia nhân chuẩn bị món ăn đầy đủ cho thật mau lẹ, chớ có chậm trễ. Chuyến này quần hùng phải ăn một bữa thịnh soạn để có sức phấn đấu với công cuộc liều mạng.
Trương Dũng đứng ngoài cửa “dạ” một tiếng rồi chạy đi.
Quy nhị nương nói :
– Chuyện ăn uống bất tất phải vội vã. Bây giờ Vi huynh đệ hãy đưa bản địa đồ trong hoàng cung cho bọn ta coi đã.
Vi Tiểu Bảo lấy một tờ giấy Phi Kim tiên trải lên bàn và cầm bút đưa cho Quy nhị nương, gã nói :
– Vãn bối vẽ lui vẽ tới mà không thành, đang định mời các vị đến họa dùm.
Quy nhị nương đón lấy cây bút ngồi xuống giục :
– Nào ! Huynh đệ kể ra đi.
Vi Tiểu Bảo nghĩ rằng vụ này bất tất phải lừa dối. Gã liền kể bắt đầu từ cửa Ngọ môn đi lên phía bắc, qua cầu Kim Thủy kiều rồi rẽ về phía tây.
Xuyên qua Hoằng Nghĩa Các, đến ba đại điện Thái Hoà, Trung Hoà, Bảo Hoà tới cửa Long Tông.
Phía trong cửa Long Tông là phòng Ngự Thiện. Vi Tiểu Bảo xuất thân ở chỗ này.
Từ đây rẽ về phía đông, qua cửa Càn Thanh đến cung Càn Thanh, điện Giao Thái, cung Khôn Ninh, Ngự hoa viên, điện Khâm An.
Từ phòng Ngự Thiện đi lên phía bắc là Nam Khổ, điện Dưỡng Tâm , cung Vĩnh Thọ, cung Dực Khôn, điện Thể Hoà, cung Trừ Tú, hiên Lệ Cảnh, Sấu Phương Trai, cung Trùng Hoa.
Đây đi về phía Nam là cung Hàm Phúc, cung Trường Xuân , điện Thể Nguyên, điện Thái Cực.
Từ điện Thái Cực quanh ra phía tây là Vũ Hoa Các, điện Bảo Hoa, cung Thọ An, điện Anh Hoa.
Tiếp tục đi về phía nam là Tây Tam Sở :
cung Thọ Khang, cung Từ Ninh, Từ Ninh hoa viên, rồi đến nội phủ, Bảo Ôn Lâu, Võ Anh điện.
Ra khỏi cửa Võ Anh qua cầu đi về phía đông rồi qua cửa Hy Hoà để trở về Ngọ Môn.
Những viện lạc kể trên thuộc về Tây bán bộ trong Tử Cấm Thành.
Quy Tân Thụ và Quy nhị nương nghe Vi Tiểu Bảo đọc hàng nửa ngày mới hết Tây bán bộ trong Hoàng cung. Giả tỷ nói miệng thì khó mà nhớ cho xiết được.
Bất giác hai lão hít một hơi khí lạnh.
Quy nhị nương theo thứ tự ghi các cung điện cùng cửa ngõ trên tờ giấy.
Vi Tiểu Bảo lại nói đến các điện đài cùng môn hộ về đông bán bộ trong Hoàng thành, trí nhớ của gã rất hay, ngày thường gã lại đi du ngoạn khắp nơi trong Hoàng cung nên đã thuộc lòng.
Quy nhị nương ghi chép gần một giờ mới hết chín Đường, Sở trong đại nội.
Vi Tiểu Bảo nói :
– Mời ba vị hãy ở lại dùng bữa cho thêm sức lực để mà hành động.
Gã chạy ra bên cửa lớn tiếng hô :
– Gia nhân đâu ? Đem đồ điểm tâm lên mau !
Gia nhân bộc dịch đứng ngoài cửa cất tiếng dạ ran.
Quy nhị nương gạt đi :
– Bất tất phải sắp bữa.
Mụ dắt con cùng Quy Tân Thụ sóng vai ra khỏi thư phòng.
Hai vợ chồng lão Quy đều nghĩ bụng :
– Biết đâu gã chẳng bỏ gì vào đồ ăn cho mình lỡ việc. Lần trước đã mắc bẫy, chẳng lẽ còn vướng lần thứ hai ?
Vi Tiểu Bảo tiễn chân ra cửa chắp tay nói :
– Vãn bối trông chờ tin đắc thắng của các vị.
Quy Tân Thụ phóng chưởng đánh vào đầu con sư tử đá ngoài cổng lớn. Lập tức những mảnh đá vụn tung bay tới tấp rồi rớt xuống rào rào.
Lão đắc ý nổi lên tràng cười khanh khách, băng băng ra đi.
Vi Tiểu Bảo thộn mặt ra lẩm bẩm :
– Phát chưởng này mà đánh xuống đầu lão gia thì đi đời. Lão cảnh cáo mình ra điều nếu làm hư việc của lão sẽ bị phát chưởng đó.
Gã cũng vung tay lên đập vào đầu sư tử đá. Bỗng gã “ối” lên một tiếng rồi nhảy lên tưng tưng vì bàn tay bị đau nhức.
Nguyên trước đầu con sư tử đá nh½n thín, vì bị Quy Tân Thụ phóng chưởng đánh vào bể ra nhiều mảnh, nên biến thành lởm chởm, sắc nhọn.
Vi Tiểu Bảo giơ tay lên nhìn dưới ánh đèn lồng, may mà chưa đổ máu.
Gã trở về hoa sảnh thấy bọn Trần Cận Nam đang ngồi uống rượu.
Gã nói cho sư phụ hay đã kể tường tận nội tình trong Tử Cấm Thành với vơ.
chồng Quy Tân Thụ và tiễn chân ba người ra đi rồi Trần Cận Nam gật đầu thở dài nói :
– Dù vợ chồng Quy tiền bối có hành thích được Hoàng đế Thát Đát cũng khó lòng về thoát.
Quần hùng ngồi lẳng lặng uống rượu, đều theo đuổi ý nghĩa riêng. Thỉnh thoảng mới có người nói một vài câu, nhưng chẳng ai đáp lại.
Sau hơn nửa giờ, ngoài cửa có người chạy vào báo :
– Khải bẩm tước gia ! Trương đề đốc có việc xin ra mắt.
Vi Tiểu Bảo cho là hắn làm xong sứ mạng trở về phúc trình. Gã mừng thầm trong bụng, đáp :
– Bây giờ đã nửa đêm. Ngươi bảo y nếu là việc không khẩn cấp thì để sáng mai hãy đến. Hiện giờ ta đang ngủ không tiện đánh thức.
Người kia dạ một tiếng quay gót trở ra.
Trần Cận Nam khẽ nói :
– Không chừng có tin tức gì ở Hoàng cung đưa tới. Ngươi đi hỏi coi.
Vi Tiểu Bảo vâng lời, rảo bước ra nhà đại sảnh.
Gã thấy bọn Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc đứng trong sảnh đường, mặt đầy vẻ hoảng hốt, mà chẳng thấy Trương Dũng đâu.
Gã không khỏi sửng sốt, khẽ hỏi :
– Trương đề đốc đâu ?
Vương Tiến Bảo đáp :
– Khải bẩm đại nhân ! Trương đề đốc vừa gặp biến cố, ngất xỉu ngoài cửa phủ, hiện đã khiêng vào sương phòng bên kia.
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hải hỏi :
– Sao… sao y lại ngất xỉu ?
Gã chạy nhanh sang sương phòng, nhìn thấy Trương Dũng sắc mặt lợt lạt, hai mắt nhắm nghiền. Trước ngực nhô lên hóp xuống không ngớt.
Gã cất tiếng hô hoán :
– Trương đề đốc ! Trương đề đốc ! Đề đốc làm sao thế ?
Trương Dũng từ từ mở mắt ra miệng ấp úng :
– Ty… tỵ..
Hắn đảo mắt nhìn một cái rồi lại ngất đi.
Vi Tiểu Bảo vội thò tay vào trong bọc Trương Dũng sờ lấy tấu chương ra coi thì quả nhiên đúng là bức họa của gã, khiến gã càng hoang mang lo lắng.
Tôn Tư Khắc nói :
– Vừa rồi bọn quân đi tuần về báo ngoài cổng có một vị quan quân ngất xỉu bên đường cách phủ chừng vài trăm bước. Sau nhận ra là Trương đề đốc mới khiêng về đây. Sau gáy đề đốc bị đổ máu đã đông lại. Xem chừng y ngất xỉu khá lâu rồi.
Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ :
– Y bị ngất đã lâu mà tấu chương chưa đem đi thì nhất định vừa ra khỏi cổng liền bị người hạ độc thủ ? Chúng sợ ta sai người đi mật cáo Hoàng đế, nên ám toán Trương đề đốc.
Lúc này Trương Dũng lại hồi tỉnh. Vương Tiến Bảo vội cầm hồ dốc cho Trương Dũng uống mấy hớp rượu nóng.
Tôn Tư Khắc và Triệu Lương Đống cũng dùng rượu nóng xoa vào lòng hai bàn tay Trương Dũng.
Trương Dũng phấn khởi tinh thần đôi chút lại ngập ngừng nói :
– Ty chức… thật đáng chết. Ty chức mới ra khỏi cổng phủ… chừng vài trăm bước thì đột nhiên trước ngực… trước ngực đau nhói lên. Ty chức… gắng gượng đi thêm mấy bước thì trước mắt tối sầm lại… rồi ngất đi. Sứ mạng… của đại nhân giao cho làm không xong… Bây giờ ty chức lại xin đi tức khắc…
Hắn nói rồi gắng gượng chống đỡ muốn ngồi dậy.
Vi Tiểu Bảo vội cản lại nói :
– Trương đại ca hãy nằm yên điều dưỡng. Vụ này để ta nhờ ba vị kia đi giùm cũng được.
Gã cầm tấu chương trao cho Vương Tiến Bảo để y cùng Triệu Lương Đống, Tôn Tư Khắc đem theo vệ sĩ tiến vào Hoàng cung.
Nhưng gã nghĩ bụng :
– Bây giờ thì chậm mất rồi. Ba người nhà họ Quy đi trước gần một giờ, e rằng tính mạng Tiểu Huyền Tử khó lòng giữ được. Chúng ta đành làm cho hết sức rồi đến đâu thì đến.
Bọn Vương Tiến Bảo ba người vâng lệnh ra đi.
Trương Dũng lại ngập ngừng nói :
– Lão già… Ở trong thư phòng của đại nhân… bảnh lãnh cực kỳ lợi hại ! Ty chức vừa ra khỏi cửa phòng, lão… khẽ đẩy một cái… vào vai ty chức…
Y nói tới đây nổi cơn ho khằng khặc, phải chờ hết cơn ho mới nói tiếp :
– Khi đó ty chức chẳng thấy gì… Ngờ đâu đã bị nội thương… Ty chức vừa ra khỏi cổng phủ… , thương thế phát tác… làm hư việc lớn của đại nhân…
Bây giờ Vi Tiểu Bảo mới tỉnh ngộ. Gã lẩm bẩm :
– Té ra Quy Tân Thụ tuy trông thấy bản tấu chương của ta chẳng có gì là cáo mật, mà lão vẫn sinh lòng ngờ vực, ngấm ngầm hạ độc thủ khiến Trương Dũng không làm xong việc.
Gã thấy Trương Dũng ra chiều hổ thẹn, vội tìm lời an ủi :
– Trương đại ca ! Đại ca cứ yên tâm tĩnh dưỡng. Vụ này chẳng thể trách đại ca được. Con mẹ nó ! Lão con rùa kia đã ám toán đại ca, chúng ta không chịu bỏ qua.
Gã lại vỗ về thêm mấy câu nữa rồi sai gia nhân nấu sâm thang cùng mời y sinh đến điều trị.
Vi Tiểu Bảo trở vào nhà hoa sảnh nói :
– Không phải trong cung có tin ra mà là Trương đề đốc bị Quy nhị gia đánh thành trọng thương, e rằng khó bề sống được.
Quần hùng nghe nói cả kinh vội hỏi :
– Tại sao Quy tiền bối lại đả thương Trương đề đốc ?
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp :
– Trương đề đốc đang đi tuần ở ngoài phủ gặp ba người liền tiến lại tra hỏi.
Quy nhị gia phóng chưởng đánh y thành bị nội thương.
Quần hùng gật đầu ngồi xuống, ai cũng nghĩ bụng :
-Một tên võ quan tầm thường thì chịu sao nổi chưởng lực của Thần quyền vô địch?
Vi Tiểu Bảo rất lấy làm hối hận, tự trách :
– Nếu ta biết sớm Trương Dũng bị lão hạ độc thủ khiến y không thể đưa tấu chương đến tay Tiểu Huyền Tử thì ta quyết không nói rõ tình hình trong nội cung một cách tường tận như vậy, mà đảo lộn phương hướng rối loạn cả lên và biến đổi vị trí các cung điện, tỷ như nói Văn Hoa điện làm Trùng Hoa Cung. Nếu như thế thì bọn lão ba người vào Hoàng cung rồi có xoay xở đến nhức đầu váng óc cũng khó lòng tìm ra được.
Quần hùng ngồi trong hoa sảnh đều vẻ mặt buồn teo, chỉ uống rượu để giết thì giờ.
Ai cũng nghĩ bụng :
– Chuyến này vợ chồng lão Quy thành công cũng thế mà thất bại cũng vậy, nhất định sẽ gây nên một trường náo loạn đến trời long đất lở. Chỉ sợ trời chưa sáng quan quân đã lùng bắt dư đảng thích khách hết mọi khu vực trong nội thành.
Nếu thế thì phủ Bá Tước đây là nơi yên ổn hơn hết, quyết họ không dám xông vào tra xét.
Quần hùng lắng tai nghe thấy tiếng mõ lốc cốc và tiếng cồng boong boong điểm canh tư.
Liễu Đại Hồng, Huyền Trinh đạo nhân và một số đã ngồi gục xuống bàn mà ngủ.
Sau một lúc nữa, trong ngõ hẻm ở phía xa xa đột nhiên chó sủa rất dữ. Mọi người tay nắm chuôi đao đứng phắt dậy nghe ngóng.
Nhưng chó sửa hồi lâu rồi trở lại yên tĩnh, chỉ còn vẳng nghe lác đác có tiếng gà gáy.
Kế đó bốn mặt gà đua nhau gáy vang lên. Ngoài cửa sổ đã lờ mờ thấy ánh sáng.
Vi Tiểu Bảo nói :
– Trời sáng rồi ! Đệ tử vào cung để nghe tin tức.
Trần Cận Nam dặn gã :
– Nếu gia đình Quy tiền bối ba người bất hạnh mà thất bại thì ngươi ráng tìm cách giải cứu. Ngô đại ca ngộ nạn chỉ vì sự hiểu lầm, không nên oán hờn các vị đó.
Chúng ta cần coi đại nghĩa là trọng, tình cảm cá nhân là chuyện nhỏ. Các vị đã to?
lòng hối hận, vậy chúng ta đừng để tâm về vụ này nữa.
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Sư phụ đã có lời dặn bảo, dĩ nhiên đệ tử phải tuân theo. Nhưng… nhưng nếu Quy nhị gia đã hạ sát tiểu Hoàng đế rồi thì đệ tử có hy sinh cái mạng nhỏ bé này cũng chẳng thể cứu thoát các vị được.
Vi Tiểu Bảo nghĩ tới Tiểu hoàng đế bị bọn Quy gia ba người đâm chết , trong lòng không khỏi đau đớn cơ hồ sa lệ.
Trần Cận Nam thấy gã nói có lý cũng lẩm nhẩm gật đầu.
Mộc Kiếm Thanh lên tiếng :
– Bữa nay nhất định trong thành Bắc Kinh sẽ xẩy ra một phen đại loạn. Tiểu đệ còn rất nhiều bằng hữu ở bên ngoài, cần phải ra bố trí và bảo họ phân tán đi các nơi ẩn lánh, để chờ trận phong ba qua rồi sẽ tính.
Trần Cận Nam đáp :
– Đúng thế ! Anh em tệ hội ở tản mát các nơi trong nội thành cũng không phải ít. Vậy chúng ta chia đường đi thông tri cho họ cùng các bạn hữu giang hồ biết chuyện. Ai nấy nên thận trọng kẻo bị vạ lây. Đến tối hôm nay vào khoảng đầu giờ Dậu chúng ta lại trở về đây tụ hội để thương nghị chương trình hành động.
Quần hùng đều vâng lời.
Trước hết Trần Cận Nam phái bốn huynh đệ trong Thiên Địa Hội ra ngoài quan sát tình hình các khu phụ cận xem có động tĩnh gì không ?
Lát sau bốn người về báo cáo các nơi vẫn bình tĩnh, không có chuyện gì khác lạ.
Thế rồi quần hùng lục tục rời khỏi phủ Bá Tước.
Vi Tiểu Bảo sắp ra đi thì gặp Tôn Tư Khắc về báo cáo :
-Bẩm đại nhân ! Tấu chương đã trao cho thị vệ Ở cửa cung. Tên thị vệ nghe nói là bản mật tấu của Phó tổng quản Vi đại nhân liền đón lấy rồi lập tức chạy vào cung đệ trình. Bọn ty chức ba người chờ ở ngoài cửa cung cho tới canh năm, vẫn chưa thấy tên thị vệ kia trở rạ..
Hắn ngừng lại một chút rồi tiếp :
– Hiện giờ hai vị Vương Tiến Bảo và Triệu Lương Đống vẫn còn ở lại cửa cung chờ đợi. Vì sợ đại nhân nóng ruột, nên ty chức về trước bẩm báo.
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Được rồi ! Ngươi xuống chiếu cố cho Trương đề đốc.
Vi Tiểu Bảo lòng lo ngay ngáy, sai bọn thân binh thủ hạ áp giải giả Thái hậu Mao Đông Châu và để mụ ngồi trong cỗ kiệu nhỏ theo gã vào cung yết giá.
Tới của cung, bốn mặt vẫn yên lặng như tờ.
Mười mấy tên thị vệ gác cửa tiến lại vấn an, đồng thanh hô :
– Tổng quản đại nhân phải một phen cực nhọc. Chuyến này đại nhân đi Dương Châu chắc là vui vẻ lắm !
Vi Tiểu Bảo thấy bọn chúng đon đả vui tươi , cũng yên tâm được một phần.
Gã nghĩ bụng :
– Nếu trong cung đã xảy ra cuộc đại loạn thì nhất định bọn chúng chẳng còn lòng dạ nào mà hỏi đến chuyện ta đi Dương Châu.
Gã liền mỉm cười gật đầu hỏi lại :
– Gần đây anh em không có chuyện gì chứ ?
Một thị vệ đáp :
– Nhờ hồng phúc của Tổng quản đại nhân, trên dưới đều bình yên. Có điều lão tiểu tử Ngô Tam Quế gây cuộc tạo phản làm cho Đức Hoàng thượng rất bận rộn. Thường khi nửa đêm gà gáy cũng triệu các vị đại thần vào cung bàn việc.
Vi Tiểu Bảo càng yên tâm hơn.
Một tên thị vệ khác cười nói :
-Tổng quản đại nhân về kinh giúp đỡ Hoàng đế lo toan đại sự thì ngài mới được thanh nhàn một chút.
Vi Tiểu Bảo cười đáp :
– Các ngươi bất tất phải tâng bốc tạ Những lễ vật ta đem từ Dương Châu về đây sẽ chia phần cho các hảo huynh đệ, không sót ai đâu.
Bọn thị vệ mừng rỡ vô cùng đều dân lời thỉnh an để cảm tạ.
Vi Tiểu Bảo trỏ vào cái kiệu nhỏ nói :
– Đây là tên Khâm phạm mà Thái hậu cùng Hoàng đế đều cho lệnh tróc nã.
Các ngươi thử coi lại xem.
Đoạn gã mở rèm kiệu cho bọn thị vệ thò tay vào chiếu lệ khám xét.
Chúng khám xét không thấy gì liền cười đáp:
– Công trạng này của Tổng quản đại nhân không phải tầm thường. Bọn nô tài lại sắp được uống rượu mừng đại nhân thăng quan.
Vi Tiểu Bảo vào cung hỏi đoàn túc vệ Ở cung Càn Thanh liền biết Hoàng thượng hiện đang cùng các vị đại thần bàn việc tại điện Dưỡng Tâm. Chúng còn cho hay suốt đêm qua Hoàng đế cùng quần thần thương nghị đại sự cho tới bây giờ vẫn chưa bãi triều.
Vi Tiểu Bảo nghe nói cả mừng nghĩ bụng :
– Té ra Hoàng thượng bận việc phải thức trắng đêm. Lúc ngài triệu quần thần tới bệ kiến, dĩ nhiên cuộc phòng bị bốn mặt cực kỳ nghiêm mật. Vậy ba con rùa nhà họ Quy có lần mò vào cung , nhưng vấp phải cuộc canh phòng nghiêm mật xung quanh Dưỡng Tâm điện, lại có cả hàng trăm , hàng ngàn ngọn đèn lồng thắp sáng trưng thì bọn chúng còn đến gần Hoàng thượng thế nào được ? Giả tỷ Tiểu Huyền Tử nằm ngủ trong phòng , đèn lửa tắt hết, thì e rằng đã gặp nguy hiểm và mọi sự hoàn toàn nát bét. Thế mới biết y làm Hoàng đế, quả nhiên hồng phúc tầy trời. May mà lão tiểu tử Ngô Tam Quế mở cờ đắc thắng , khiến Hoàng đế lo âu trong dạ mới phải bàn việc suốt đêm.
Gã tới ngoài điện Dưỡng Tâm, đứng yên lặng chờ đợi.
Tuy gã được nhà Vua thương yêu, nhưng hiện giờ Hoàng đế đang cùng vương, công , đại thần thương nghị quốc quân đại sự, gã không dám thiện tiện tiến vào.
Vi Tiểu Bảo đợi chừng hơn nửa giờ thì bọn túc vệ nội ban mở cửa điện.
Bọn Khanh Thân Vương Kiệt Thư, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ lũ lượt kéo ra.
Các vị đại thần vừa thấy Vi Tiểu Bảo đều mỉm cười chắp tay chào, nhưng không ai dám lớn tiếng.
Tên thái giám chạy vào thông báo, nhà Vua lập tức truyền lệnh cho Vi Tiểu Bảo vào bái kiến.
Vi Tiểu Bảo lên điện dập đầu hành lễ rồi đứng dậy. Gã thấy Vua Khang Hy ngồi trên ngự toạ, lộ vẻ tinh thần hăng hái, trong lòng mừng rỡ tâu :
– Tâu hoàng thượng ! Nô tài coi Hoàng Thượng… có vẻ rất cao hứng.
Trong lòng gã lo âu suốt đêm, bây giờ được thấy nhà Vua bình yên, gã mừng quá đâm ra xúc động, không cầm được giọt lệ chan hoà.
Vua Khang Hy cười hỏi :
– Mọi sự đang vui vẻ, làm sao mà ngươi khóc ?
Vi Tiểu Bảo đáp :
– Nô tài mừng quá không cầm được nước mắt.
Nhà Vua thấy gã để lộ chân tình, long tâm rất hoan hỷ. Ngài cười nói :
– Hay lắm ! Hay lắm ! Lão tiểu tử Ngô Tam Quế quả nhiên tạo phản rồi. Hắn thắng được mấy trận đầu đã cho là ta khiếp sợ, không dám giết con hắn. Con me.
nó! Hôm qua lão gia đã chặt đầu Ngô ứng Hùng.
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi “ủa” lên một tiếng rồi hỏi :
– Hoàng thượng hạ sát Ngô ứng Hùng rồi ư ?
Nhà vua đáp :
– Chứ sao ? Bọn đại thần đều khuyên ta đừng giết Ngô ứng Hùng. Họ nói là trường hợp mà Vương sư bất lợi gì gì, ta có thể dùng tên tiểu tử đó giảng hòa với Ngô Tam Quế, rồi cho hắn tái lập phiên trấn, vĩnh viễn để hắn trọng trấn tỉnh Vân Nam. Họ còn bảo giết Ngô ứng Hùng rồi, Ngô Tam Quế không úy kỵ gì nữa, hành quân thêm phần hung ác. Chà chà ! Toàn là bọn nhát gan.
Vi Tiểu Bảo tâu :
– Hoàng thượng quyết đoán rất là anh minh. Nô tài đã coi vở tuồng Quần anh hội. Chu Du và Lỗ Túc thưa với Tôn Quyền:
“Bọn hạ thần có thể đầu hàng Tào Tháo, nhưng chúa công không thể đầu hàng được”. Tình trạng chúng ta ngày nay cũng vậy. Bọn vương công đại thần có thể cầu hòa với Ngô Tam Quế, nhưng Hoàng thượng nhất quyết không thể giảng hòa.
Vua Khang Hy cả mừng, vỗ tay xuống bàn, đứng dậy nói :
– Tiểu Quế Tử ! Ngươi mà về sớm một ngày thì đối lời với bọn đại thần được.
Bọn chúng tất không dám khuyên ta cầu hòa nữa. Hừ ! Bọn chúng có đầu hàng Ngô Tam Quế, vẫn còn làm Thượng thư, tướng quân, chứ chẳng thua thiệt gì.
Ngài nghĩ tới Vi Tiểu Bảo tuy là kẻ bất học vô thuật , nhưng không giống bọn đại thần chỉ nghĩ đến lợi riêng cho mình.
Nhà Vua lại dắt Vi Tiểu Bảo đến trước một cái bàn lớn. Trên bàn trải s½n tấm địa đồ.
Nhà Vua trỏ vào địa đồ nói :
– Ta đã phái người thống lãnh tinh binh một đường từ Kinh Châu tới Thường Đức đóng giữ, một đường từ Võ Xương đến Nhạc Châu canh gác. Ta còn phái Thuận Thừa quận vương là Lặc Nhĩ Cẩm làm Ninh Nam tĩnh khấu đại tướng quân thống lãnh chúng tướng đi tiểu trừ phản tặc. Mới đâu ta lại phái hình bộ thượng thơ là Mạc Lạc làm kinh lược giữ mặt Tây An. Ngô Tam Quế dù có lấy được Vân Nam, Qúi Châu và Tứ Xuyên nhưng khi hắn đánh tới Hồ Nam, chúng ta không sợ hắn nữa.
Vi Tiểu Bảo khẳng khái tâu :
– Tâu Hoàng thượng ! Nô tài cũng mong được Hoàng thượng sai phái dẫn quân đi đánh lão tiểu tử Ngô Tam Quế.
Hồi 205
Đọc bản tâu Long Nhan hớn hở
Vua Khang Hy vừa lắc đầu vừa cười đáp:
– Việc hành quân xuất trận không phải trò đùa. Ngươi cứ ở trong cung bầu bạn với ta là được. Vả lại chuyến này ta phái đi toàn là quân tướng Mãn Châu, e rằng bọn chúng không tâm phục để ngươi điều động.
Vi Tiểu Bảo đáp lại bằng một tiếng “dạ”.
Gã nghĩ bụng:
– Ngô Tam Quế dùng người Hán trong thiên hạ để đánh quân Thát Đát. Ta chỉ là người Mãn Châu giả hiệu, dĩ nhiên Hoàng thượng không đủ tin cậy.
Nhà vua đoán ra ý nghĩ của gã, liền an ủi:
– Ngươi đối với ta hết dạ trung trinh, chẳng phải ta không tin ngươi. Tiểu Quế Tử! Binh mã của Ngô Tam Quế rất lợi hại, cuộc bình định chẳng thể làm xong trong năm ba năm, có khi bảy tám năm cũng chưa kết liễu. Mấy năm đầu nhất định chúng ta thất bại. Có điều cuộc đại chiến này chỉ cam khổ lúc ban đầu, trước bại mà sau thắng. Ngươi muốn bại trận hay thắng trận?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Dĩ nhiên nô tài chỉ muốn dành phần thắng. Nếu phải bỏ khôi cởi giáp tìm đường trốn lủi hay chạy có cờ thì còn thú gì?
Nhà vua cười nói:
– Ngươi đã một dạ trung trinh với ta thì ta không thể để ngươi thất bại. Mấy năm đầu tổn tướng hao binh để người khác hứng lấy. Chờ cho Ngô địch tinh thần mệt mỏi, binh lực kiệt quệ, đại cuộc sắp thành, ta sẽ phái ngươi đi đánh Vân Nam, có thể vươn tay ra là tóm được cổ lão tiểu tử đem về. Ngươi có biết ta thảo chiến Ngô tặc đã hứa hẹn những gì không ?
Vi Tiểu Bảo cả mừng đáp:
– Ơn đức của Hoàng thượng thật cao dầy như trời đất.
Vua Khanh Hy cười nói:
– Ta bố cáo với thiên hạ kẻ nào bắt được Ngô Tam Quế thì hắn đang ở quan tước nào sẽ phong cho người ấy thay vào quan tước đó.
Nhà Vua ngắm nghía Vi Tiểu Bảo nói tiếp:
– Tiểu Quế Tử! Để ta coi tướng ngươi xem sao? Con mẹ nó! Tướng ngươi chẳng đáng mặt Bình Tây Vương chút nào. Ha ha !
Vua Khanh Hy ngoẹo đầu ngoẹo cổ ngắm nghía gã hồi lâu rồi lại cười nói tiếp:
– Hiện giờ ngươi giống thân hình con khỉ, lại mặt dơi tai chuột, không đáng nửa đồng tiền, Hãy chờ sáu bảy năm nửa, ngươi ngoài hai chục tuổi, hoặc giả khi đó mới phát tướng Vương gia. Ha hạ..
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Bình Tây Thân Vương hay quan lớn gì gì đó nô tài e rằng mình không đu?
phước phận hưởng thụ. Nhưng nếu được Hoàng thượng sai phái làm một viên đại tướng quân thống lãnh đại binh kéo tới Vân Nam bắt Ngô Tam Quế thì oai phong bát diện, lẫm liệt tứ phương. Nô tài này tay cầm thanh đại đao lớn tiếng quát:
“Bớ Ngô Tam Quế ! Xưng danh đi rồi mà chịu trói!”. Chỉ bấy nhiêu thôi là nô tài lấy làm thỏa mãn lắm rồi. Nô tài cầu trời khẩn Phật cho hắn đừng chết sớm quá để nô tài ra tay bắt hắn lôi cổ về đây quì xuống trước mặt Hoàng thượng mà đập đầu binh binh.
Vua Khang Hy cười nói:
– Hay lắm! Hay lắm!
Rồi ngài nghiệm nghị nói tiếp :
– Tiểu Quế Tử! Mấy năm đầu chúng ta đánh trận gian khổ vô cùng. Thua trận rồi cũng không làm gì, nhưng thất bại mà không rối loạn mới đáng tài đại tướng.
Phải ngưới có tài đại tướng mới chịu đựng được thất bại mà không hoang mang thối chí. Ngươi về phúc tướng thì có thừa nhưng dũng tướng thì lại chưa đủ, mà làm đại tướng càng xa hơn nữa. Hỡi ơi! Đáng tiếc trong triều đình không một người nào làm đại tướng được.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Chính Hoàng thượng là đại tướng rồi. Hoàng thượng đã nhận định mấy năm đầu chúng ta nhất quyết phải chịu thất trận. Hoàng thượng tính cả đến nước bại trận mà không rối loạn.
Gã dừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Tỷ như trong bàn bài cẩu, Hoàng thượng làm nhà cái, ban đầu phái giam tiền cho hết mọi cửa đến bảy tám lần mà vẫn thản nhiên như không. Tiền nhiều như nước, Hoàng thượng trầm tĩnh coi sự thua bạc lúc đầu tựa hồ như cho kẻ khác mượn tiền trong chốc lát. Về sau bên ta thành bài đôi. Nhân bài thành đôi, Địa bài thành đôi, Thiên bài thành đôi. Ngoài ra còn cặp Chí Tôn Bảo, bàn nào cũng thắng vơ hết tiền các cửa. Lão tiểu tử Ngô Tam Quế bị đánh ngã ngựa ngửa mặt lên trời, khác nào kẻ thua hế sạch sành sanh, thua cháy túi, thua cạn láng chỉ còn hai bàn tay trắng. Bàn nào hắn đạt bài xuống cũng toàn “mười tịt”.
Nhà Vua cười khanh khách nghĩ bụng:
– Trong triều đình không có đại tướng, chính ta mới là đại tướng. Gã nói câu này quả đã không lầm. Ngoài ta ra không còn một tướng soái hay đại thần nào xứng đáng với tám chữ “Được mà không kiêu, thua mà không loạn”.
Nha vua cầm lấy bản tâu của Vi Tiểu Bảo đặt ngay lên ngự án, phán hỏi:
– Ngươi nói có kẻ muốn hành thích ta và mong ta gia tâm đề phòng, phải không ?
Vi Tiểu Bảo tâu :
– Đúng thế! Gặp lúc khẩn cấp, nô tài lại bị người ta dòm ngó chẳng thể kêu gia sư viết tấu chương, đành tự họa bức đồ hình này. Hoàng thượng quả là bực thánh minh, vừa ngó thấy đã hiểu liền. Tên thích khách kia dương cặp mắt thao lái ra nhìn mà chẳng hiểu đó là trò chơi gì. Đức vạn tuế hồng phúc tày trời. Những quân phản bạn nghịch tặc có phí bai nhiêu tâm cơ cũng uổng mà thôi.
Nhà Vua lại hỏi:
– Tên nghịch tặc đó là hạng người nào ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Hắn là người của Ngô Tam Quế phái đến kinh thành.
Vua Khanh Hy gật đầu nói :
– Từ ngày Nghô nghịch tặc dấy binh tạo phản, ta đã tăng gia bọn thị vệ lên gấp ba lần. Đêm qua thu tấu chương của ngươi lại thêm một đội túc vệ canh gác nội cung.
Vi Tiểu Bảo tâu :
– Chuyến này Ngô nghịch phái đến kinh thành một bọn thích khách bản lãnh cực kì lợi hại. Tuy thánh thiên tử đã có Bách thần hộ vệ, nhưng bọn nô tài cũng phải hết lòng thận trọng đẩ Hoàng thượng khỏi bị kinh động.
Gã chợt nhớ ra điều gì, nói tiếp:
– Tâu Hoàng thượng! Nô tài có một vật bảo bối hộ thân, hễ mặc trong người là đao thương chém không vào. Nô tài xin cởi ra để Hoàng thượng mặc vào trong mình cho chắc. Gã vừa nói vừa cởi khuy áo bào.
Vua Khanh Hy mỉm cười hỏi:
– Phải chăng cái đó ngươi lấy được ở nhà Ngao Bái?
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi. Tuy gã mặt dầy nhưng bị lật tẩy đột ngột cũng không khỏi thẹn đỏ mặt lên.
Gã quì xuống dập đầu tâu:
– Nô tài tội đáng muôn thác! Đức Hoàng thượng quả là thiên nhân chẳng việc gì che mắt được.
Nhà Vua cười phán:
– Đứng dậy đi ! Đứng dậy đi ! Ngày trước Nhiếp Chính Vương, Cửu vương gia được hai tấm. Một tấm dâng cho phụ hoàng, một tấm ban cho Ngao Bái vì hắn xung phong hãm trận, lập nhiều công lớn. Tấm áo của phụ hoàng, ngài ban lại cho tạ Hôm vài nhà Ngao Bái lục soát, trong bản thanh đơn không thấy kê tấm áo này.
Vi Tiểu Bảo chỉ có nước cười hề hề để chữa thẹn.
Vua Khanh Hy cười nói:
– Bữa nay ngươi định cởi ra cho ta mặc, đủ rõ ngươi một lòng trung ái với ta.
Nhà vua nói rồi vén lộ long bào lên để lộ tấm áo lót màu đen mặc ở bên trong, Tấm áo hộ thân này cũng giống hệt tấm áo của Vi Tiểu Bảo.
Nhà vua mỉm cười nói tiếp:
– Tấm áo ngươi mặc đó từ nay kể như là ta ban chọ Đồng thời ta khoan miễn luôn cả tội ăn cắp.
Vi Tiểu Bảo lại quì xuống tạ Ơn.
Sau lưng toát mồ hôi lạnh ngắt, gã nghĩ thầm:
– Ta còn ăn cắp mấy pho Tứ thập nhị chương kinh. Cầu trời cho Hoàng thượng không biết tới.
Vua Khanh Hy lại răn dạy:
– Tiểu Quế Tử ! Tấc dạ trung thành của ngươi ta đã biết rồi, nhưng làm việc phải theo phép tắc mới được. Nay ngươi mặc tấm bảo y mà ngày sau nếu gặp trường hợp có người đến khám nhà, để kẻ khác dấu đi rồi chiếm lấy là bất diệu đó.
Vi Tiểu Bảo nói :
– Dạ dạ ! Nô tài không dám.
Trán gã toát mồ hôi nhỏ giọt, gã lại dập đầu mấy cái rồi mới đứng lên.
Vua Khanh Hy lại nói:
– Công việc ở Dương Châu, sau sẽ trình bày.
Nhà Vua ngáp dài. Suốt đêm không ngủ, xem chừng có ý mỏi mệt.
Vi Tiểu Bảo liền tâu:
– Dạ! Nhờ hồng phúc của Thái Hậu và Hoàng thượng, nô tài đã bắt được mu.
điếm già phạm tội đại ác và đưa về cung để Hoàng thượng phát lạc.
Nhà Vua cả mừng phán bảo:
– Mau đưa vào đây ! Mau đưa vào đây !
Vi Tiểu Bảo ra ngoài kêu bốn tên thị vệ đem Mao Đông Châu vào trong điện, để mụ quì xuống trước mặt nhà Vua.
Vua Khanh Hy tiến lại quát:
– Ngửng đầu lên !
Mao Đông Châu ngần ngừ một chút rồi ngửng đầu nhìn nhà Vua mỉm cười.
Vua Khanh Hy thấy mụ sắc mật lợt lạt, đột nhien nổi lòng lân tuất. Ngài tự nhủ:
– Mụ này gia hại mẫu thân ta, lại làm cho phụ hoàng thương tâm, yếm thế, bỏ nhà đi tu, khiến ta thành người không cha không mẹ. Mụ còn giam cầm Thái Hậu mấy năm, hành hạ cực khổ. Những kẻ đại ác trên đời cũng đến như mụ là cùng !
Nhưng rồi ngài lại nghĩ tiếp :
– Có điều… ta mất mẹ từ thưở nhỏ, được mụ nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn. Trong những năm này mụ đối với ta ân từ chẳng khác gì mẹ ruột thương con. Ơ?
chốn thâm cung, e rằng người đối xử với ta hết lòng cũng chỉ có mụ này. Ngoài ra còn tên Tiểu Quế Tử giảo hoạt cũng làm cho ta vui dạ và gã cũng hết đạo trung thành.
Trong thâm tâm, ngài còn ngấm ngầm nhận ra :
– Nếu mụ không gia hại Đổng Ngạc Phi và con Đổng Ngac Phi là Vinh Thân Vương, Phụ hoàng ta cực kì sủng ái Đổng Ngạc Phi, nhất định sẽ truyền ngôi báu cho Vinh Thân Vương. Chẳng những ta không được làm Hoàng đế mà còn mất mạng không biết chừng. Những vụ này sự thực có thể nói mụ là người đầu công ơn với ta.
Mấy năm trước vua Khanh Hy còn nhỏ tuổi, chỉ nghĩ đến việc cừu hận lớn nhất trên thế gian không gì bằng làm cho mình mất cha mất mẹ. Nhưng mấy năm gần đây ngài thân hành chấp chính, lại hiểu rõ nếu bị đoạt mất ngôi báu là vạn sự giai hưu.
Trong nội tâm nhà vua lúc này cảm thấy địa vị Hoàng đế so với lòng từ ái của song thân còn quan trọng hơn. Dĩ nhiên ý niệm này chỉ ở trong đầu óc, chứ không thể nói ra ngoài miệng. Ch½ng những thế, ý niệm này mới nảy ra trong lòng cũng là tội nghiệp thâm trọng lắm rồi.
Mao Đông Châu thấy nét mặt nhà Vua biến ảo bất thường, mụ thở dài thủng thẳng lên tiếng :
– Dù Ngô Tam Quế tạo phản, Hoàng thượng cũng bất tất lo âi nóng nảy thái quá, cần bảo trọng thân thể cho được khỏe mạnh. Hoàng thượng cũng đừng nghĩ nhiều làm hao tổn tinh thần. Mỗi buổi sáng sớm Hoàng thượng vẫn dùng Phục linh yến sào thang thì nên tiếp tục dùng luôn, chớ có sao lãng.
Vua Khang Hy đang ngơ ngẩn xuất thần, nghe mụ mói vậy, buột miệng đáp:
– Phải rồi ! Hàng ngày ta vẫn uống sâm thang.
Mao Đông Châu nói:
– Nô tỳ phạm tội nặng quá rồi. Hoàng thượng… thân hành hạ thủ giết quách đi!
Nhà Vua trong lòng bịn rịn, uể oải lắc đầu, nhìn Vi Tiểu Bảo nói :
– Ngươi đưa mụ xuống cung Từ Ninh triều kiến Thái hậu và tâu là ta xin Thái hậi phát lạc cho.
Vi Tiểu Bảo dạ một tiếng, quì chân phải xuống nói:
– Tâu…
Nhà Vua xoay tay gạt đi:
– Ngươi đi đi thôi ! Khỏi tâu gì nữa.
Vi Tiểu Bảo lấy hai đạo tấu chương ở trong bọc ra, một của Cát Nhĩ Đan, một của Tang Kết. Gã tiến lên hai bước đệ trình nhà Vua, miện nói:
– Cung hỷ thánh thượng! Hai đội binh mã ở Tây Tạng và Mông Cổ đều đã trở giáo đánh lại Ngô Tam Quế, nguyền hết sức phục vụ Hoàng thượng.
Mấy bữa nay Vua Khanh Hy suốt ngày điều binh khiển tướng, trong lòng vẫn lo âu hai lộ binh mã Mông Cổ và Tây Tạng hưởng ứng Ngô Tam Quế. Bây giờ ngoài nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy không khỏi vừa kinh ngạc vừa vui mừng, cất tiếng phán hỏi :
– Có chuyên đó ư ?
Ngài mở tấu chương coi, long tâm mừng rỡ vẫy tay cho bọn thị vệ áp giải Mao Đông Châu ra ngoài. Ngài hỏi Vi Tiểu Bảo :
– Ngươi làm thế nào mà lập hai đại công này ? Con mẹ nó, phúc tướng của ngươi quả nhiện lớn thiệt !
Thời bấy giờ Tây Tạng và Mông Cổ là hai nơi binh lực cường mạnh. Vua Khanh Hy đã biết Tang Kết cùng Cát Nhĩ Đan ngấm ngầm câu kết với Ngô Tam Quế, nên ngài phái trọng binh trấn giữ để phòng ngừa.
Nhà Vua coi hai đạo tấu chương ngôn từ kính thuận tha thiết. Hai lộ đại địch này trong nháy mắt đã biến đổi thành thế trái ngược, chẳng những triếu đình khỏi lo đề phòng mà còn trở nên hai lực lượng đánh lại Ngô Tam Quế, trách nào ngài chẳng hớn hở vui mừng ? Có điều sự việc biến diễn quá đột ngột thái quá, nên trong lúc nhất thời nhà Vua chưa tin là sự thực.
Vi Tiểu Bảo biết rõ mỗi khi Tiểu hoàng đế phát ngôn câu “con mẹ nó” là trong lòng ngài rất đỡi hoan hỷ, liền cười hì hì nói :
– Nhờ hồng phúc của Hoàng thượng, nô tài đã kết nghĩa chi lan với họ. Tang Kết đại Lạt Ma là đại ca, Cát Nhĩ Đan Vương tử làm nhị ca, nô tài làm tam đệ.
Nhà Vua cười nói :
– Ngươi quả là thần thông quảng đại. Bọn họ giúp đánh Ngô Tam Quế, ngươi đã hứa hẹn điều gì có lợi cho họ chưa ?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Hoàng thượng là bậc thánh minh đã biết họ bái kết đó là chuyện giả dối chứ không phải chân tình. Bọn họ cố ý trông chờ Hoàng thượng ban thưởng. Tang Kết muốn làm Hoạt Phật. Ở Tây Tạng đã có Đạt Lai Hoạt Phật, Ban Thiền Hoạt Phật. Y thỉnh cầu Hoàng thượng ban ơn gia phong cho y làm Tang Kết Hoạt Phật.
Còn Cát Nhĩ Đan muốn làm “cả một cái” gì gì đó mà nô tài không hiểu rõ.
Vua Khanh Hy cười ha hả nói:
– Cả một cái ư ? Phải rồi! Y muốn làm Chuẩn Cát nhĩ hàn. Cả hai việc này đều rất dễ dàng, triều đình lại chẳng mất mát gì. Ta sẽ sai viết một đạo sắc đóng ấn Ngự Bảo phái ngươi làm Khâm sai đại thần tới nơi tuyên đọc là xong. Ngươi đến bảo đại ca, nhị ca của ngươi:
Chỉ cần họ thành thực vì ta ra sức thì lời thỉnh cầu của họ ta sẽ ưng chọ Nhưng không được là con dao hai lưỡi. Miệng nói một đằng, hành động một nẻo, chờ dịp thuận gió dương buồm, thấy bên nào chiếm được thượng phong là về hùa với bên ấy.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Hoàng thượng dạy phải lắm! Hai vị nghĩa huynh của nô tài, nhân phẩm chẳng có gì cao minh, Hoàng thượng không thể hoàn toàn tin họ, vẫn phải đề phòng bất trắc. Hoàng thượng đã nói cuộc đại chiến này, chúng ta thất bại mấy năm đầu, lại càng cần phòng họ tráo trở, chẳng những không giúp nhà cái mà còn nhân lúc nhà cái vận xúi, đặt hết xuống cửa Thiên môn.
Vua Khang Hy gật đầu đáp:
– Ngươi nói thế là phải, ta vẫn không sợ chúng. Chúng có giỏi thì cứ đánh.
Cửa Thiên Môn, cửa Thanh Long hay Bạch Hổ, ta cũng ăn hết.
Vi Tiểu Bảo cười ha hả, trong lòng rất khâm phục nhà Vua, vì Hoàng thượng cũng hiểu đánh bài cẩu.
Mấy chục năm sau, quả nhiên Tang Kết và Cát Nhĩ Đan cũng dấy binh nổi loạn. Thanh đình điều động binh mã đi bình định. Nhưng đây là việc về sau, không cần nhắc đến.
Vi TIểu Bảo áp giải Mao Đông Châu xuống cung Từ Ninh ra mắt Thái Hậu.
Thái giám truyền chỉ ra sai Vi Tiểu Bảo giải khâm phạm vào.
Vi Tiểu Bảo tự nhủ :
– Trước kia ta là thái giám dĩ nhiên có thể ra vào tẩm cung của Thái Hậu.
Nhưng hiện giờ ta là một vị đại thần sao Thái Hậu lại kêu ta vào tẩm điện ? Đây chắc là Thái Hậu nghe tin bắt được mụ điếm, lão nhân gia mừng quá quên quấy đi mất ta không phải thái giám.
Gã liền cùng bốn tên thái giám áp giải Mao Đông Châu tiến vào. Trong tẩm điện cùng một màu tối om, vẫn chẳng khác ngày nào còn giả Thái hậu cư trú.
Thái hậu ngồi ở cạnh giường, trướng the rủ thấp.
Vi Tiểu Bảo quì xuống đập đầu kính cẩn dâng lời thỉnh an.
Thái hậu đưa mắt nhìn Mao Đông Châu rồi gật đầu bảo gã:
– Ngươi đã bắt được Khâm phạm về đây. Hay lắm! Ngươi hãy lui ra!
Vi Tiểu Bảo dập đầu cáo từ trở ra, để Mao Đông Châu lại trong tẩm điện.
Gã rời khỏi cung Từ Ninh, trong lòng rất lấy làm bất mãn, mắng thầm:
– Ta bắt được mụ điếm già lập công lớn, mà dường như Thái hậu chẳng lấy làm hoan hỷ, thậm chí không khen ngợi nửa lời. Con bà nó! Ai ở cung Từ Ninh đều là quân chó đẻ. Giả Thái hậu cũng vậy, chân Thái hậu cũng thế, toàn là hạng điếm già.
Vi Tiểu Bảo trong lòng tức tối, xuyên qua vườn hoa trước cung Từ Ninh, đi trên đường trải đá lại bên tòa núi giả.
Đột nhiên bóng người thấp thoáng. Ba nhân vật từ phía sau hòn núi đi ra.
Một người trong bọn họ vươn tay nắm lấy tay mặt gã cười hỏi:
– Ngươi mạnh giỏi chứ ?
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi nhìn ra thấy là một lão thái giám. Gã toan quát hỏi, nhưng ngó kỹ lại thì lão thái giám này chính là Quy nhị nương.
Vi Tiểu Bảo chẳng còn hồn vía nào nữa, gã lại ngó hai người bên cạnh thì hiển nhiên là Quy Tân Thụ và Quy Chung. Hai cha con lão đều vận sắc phục của lính túc vệ trong nội ban.
Trống ngực đánh hôn trống làng, gã la thầm:
– Té ra ba con ác quỉ này ẩn cư ở đây!
Tay gã vừa bị Quy nhị nương nắm lấy, nửa người gã liền tê chồn. Gã biết mình chỉ la một tiếng là Quy Tân Thụ khẽ phóng chưởng cũng đủ cho cái đầu gã bể ra từng mảnh như đầu con sư tử đá trước phủ Bá Tước.
Vi Tiểu Bảo nhớ tới đầu mình không cứng rắn bằng đầu con thạch sư liền gượng cười đáp:
– Lão nhân gia vẫn bình yên!
Vi Tiểu Bảo đang ngấm ngầm tìm kế thoát than thì Quy nhị nương khẽ nói:
– Ngươi bảo bọn chúng đứng yên đừng có nhúc nhích. Ta có chuyện muốn nói.
Dĩ nhiên gã không dám phản đối, quay lại ra lệnh cho mấy tên thị vệ Ở phía sau:
– Các ngươi hãy đứng đây chờ ta.
Quy nhị nương dắt tay Vi Tiểu Bảo tiến về phía trước mấy chục bước rồi khẽ bảo gã:
– Ngươi dẫn bọn ta đi kiếm Hoàng đế.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Ba vị đã tới đây từ hôm nào mà sao không kiếm thấy Hoàng đế?
Quy nhị nương đáp:
– Ta đã hỏi mấy tên thái giám cùng thị vệ thì chúng nói là Hoàng đế đang hội họp các đại thần, suốt đêm không ngủ, nên chẳng có cách nào tới gần để hạ thủ được.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Vừa rồi tại hạ cũng muốn đến ra mắt Hoàng đế để lựa lời dò hỏi xem tình trạng của ba vị ra sao nhưng Hoàng đế ngủ rồi nên chưa được gặp. Ba vị đã hoá trang thế này là hay lắm. Chúng ta cứ thủng thẳng ra khỏi Hoàng cung là được.
Quy nhị nương hỏi:
– Chưa làm xong việc sao lại bỏ đi ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Ban ngày không thể hành động được. Nếu ba vị cao hứng thì đêm nay sẽ trở lại chơi.
Quy nhị nương nói:
– Vào được đây không phải chuyện dễ dàng. Đại sự chưa thành chúng ta quyết chẳng bỏ đi đâu. Hắn ngủ ở đâu ? Mau dẫn bọn ta đến!
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Tại hạ cũng không hay Hoàng đế ngủ ở cung nào? Để tại hạ kiếm thái giám hỏi coi.
Quy nhị nương hỏi:
– Ngươi vừa bảo đến ra mắt Hoàng đế, sao bây giờ lại nói không biết hắn ngủ ở đâu ? Ta cấm ngươi không được nói gì với ai. Hừ! Ngươi muốn dở trò trước mặt lão nương nhưng không phải chuyện dễ.
Mụ vừa nói vừa bóp chặt thêm một chút.
Vi Tiểu Bảo đau thấu tâm can, năm ngón tay cơ hồ bị gẫy rời. Gã không nhịn được rên lên một tiếng.
Giữa lúc ấy Quy Tân Thụ vươn tay ra khẽ sờ đầu gã nói:
– Hay lắm!
Vi Tiểu Bảo biết là không thể chống cự được. Gã động tâm tự nhủ:
– Ta đưa bọn chúng đến cung Từ Ninh rồi la lối om sòm để Hoàng đế biết tin mà đề phòng. Bọn chúng có hạ thủ giết chết Thái hậu cũng chẳng liên quan gì đến ta.
Gã tính vậy liền đáp:
– Vừa rồi tại hạ đến cung Từ Ninh. Không chừng Hoàng đế vào đó thỉnh an Thái hậu. Bây giờ chúng ta lại tới đó xem sao.
Quy nhị nương đã ngó thấy gã quả thực ở cung Từ Ninh đi ra, không phải chuyện giả dối. Mụ liền nói:
– Bọn ta ba người đã ra vào Hoàng cung là không tính đến bước đường còn sống sót để trở ra nữa. Hễ ngươi cử động khác ý một chút là cái mạng nhỏ bé của ngươi cũng đi theo bọn tạ Bốn người xuống ra mắt Diêm Vương. Dọc đường không đến nỗi tịch mịch, huống hi con ta lại thích bầu bạn với ngươi.
Vi Tiểu Bảo nhăn nhó cười đáp:
– Y muốn chơi với tại hạ cũng không sao. Chúng ta cứ ở trong ngự hoa viên này tản bộ càng haỵ Đường xuống âm cung chẳng thú gì mà đi.
Quy nhị nương trợn mắt lên hỏi:
– Ngươi muốn đi bái kiến Diêm Vương hay đến ra mắt Hoàng đế Thát Đát? Bữa nay nhất định ngươi phải gặp một trong hai người này.
Vi Tiểu Bảo thở dài đáp:
Nếu vậy tại hạ đến gặp Hoàng đế. Nhưng tại hạ xin nói trước:
khi thấy Hoàng đế, ba vị tự mình động thủ, tại hạ không giúp gì được đâu.
Hồi 206
Ba thích khách giết lầm gian tặc
Quy nhị nương nói:
– Ai mượn ngươi giúp đỡ? Chỉ cần đưa bọn ta đến gặp Hoàng đế rồi lập tức ngươi được buông thạ Những việc về sau không lien can gì đến ngươi.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Hay lắm! Vậy xin cứ thế. Tại hạ nói trước:
khi gặp Hoàng đế ba vị động thủ cho thật mau lẹ. Nếu còn đánh nhau với bọn thị vệ là hỏng bét đấy. Đoàn thị vệ trong cung kép đến mỗi lúc một đông. Ba vị dù giết được mấy trăm tên cũng khó mà đụng đến một sợi lông của Hoàng đế. Vậy cần ra tay giết Hoàng đế trước khiến cho trong cung náo loạn. Không chừng chúng ta có thể nhân lúc nhốn nháo mà chuồn được là khéo.
Quy nhị nương gắt lên:
– Cái đó bọn ta thừa hiểu, ngươi bất tất phải chỉ giáo. Đi lẹ lên! Đừng mồm năm miệng mười nữa.
Vi Tiểu Bảo dẫn ba người đi về phía cung Từ Ninh.
Quy Chung ngó thấy trong vườn hoa lắm công xanh hạc trắng rất lấy làm hứng thú.
Vi Tiểu Bảo vừa chỉ trỏ vừa giải thích, nói không ngớt miệng. Gã cố ý kéo dài thời gian được khắc nào hay khắc ấy.
Quy nhị nương tuy nóng ruột, nhưng nghĩ tới con suốt cuộc đời bịnh hoạn đau khổ, lại chẳng còn sống được mấy chốc nữa, nên trước khi lâm tử mụ để hắn khoan khoái trong lòng, không nỡ giục giã làm cho hắn cụt hứng.
Đi được một lúc, bỗng ngó thấy một đoàn người ở phía xa xa từ cung Từ Ninh đi ra. Đoàn người này khiêng hai cỗ kiệu.
Quy nhị nương nói:
– Tránh sang một bên!
Một tay dắt Vi Tiểu Bảo, một tay dắt Quy Chung, mụ lạng người ẩn vào sau giàn mẫu đơn.
Quy Tân Thụ lánh sang bên kia giàn hoa. Đoàn người mỗi lúc mỗi lúc một đến gần. Vi Tiểu Bảo nhìn rõ người đi đầu là tên thái giám ở phòng Kinh Sự. Phía sau là hai cỗ kiệu, một cỗ của Hoàng thái phi, một cỗ của Hoàng thái hậu. Hai bên kiệu đều có một tên thái giám phù trì. Sau kiệu cũng có thái giám che tàn bằng lụa vàng. Sau cùng là mấy chục thái giám và cung nữ, cùng hơn mười tên túc vệ nội ban.
Thông thường Thái hậu đi lại trong Hoàng cung vẫn không có thị vệ đi theo.
Đây chắc là Hoàng đế được tin báo động nên phái them thị vệ canh giữ cho chắc chắn.
Vi Tiểu Bảo chợt động tâm cơ, nói ngay:
– Kiệu đi trước là của Hoàng đế Thát Đát. Hoàng thái hậu ngồi ở kiệu sau.
Vợ chồng Quy Tân Thụ thấy đoàn người nghi trượng oai nghiêm lại ở cung Từ Ninh đi ra dĩ nhiên cũng cho là Hoàng đế cùng Thái hậu, bất giác trống ngực đánh thình thình. Cả hai người đều nhìn con, vẻ mặt ôn nhu từ ái.
Quy nhị nương khẽ nói:
– Hài nhi! Trong cỗ kiệu đi trước có Hoàng đế ngồi. Chờ họ tới gần, hễ nghe ta quát một tiếng “động thủ” thì ba người chúng ta động thủ đập cả người lẫn kiệu cho tơi bời hoa lá.
Quy Chung cười đáp:
– Được rồi! Vụ này chơi thú đây.
Vi Tiểu Bảo thấy kiệu tới gần, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, gã tự nhủ:
– Họ đánh chết Hoàng thái phi thì tiểu Hoàng đế chẳng phải quan tâm. Dù cho chúng đánh chết luôn cả Thái hậu cũng không sao.
Thái giám phòng Kinh sự miệng không ngớt hô:”Tránh ra! Tránh ra” để dẹp đường.
Quy nhị nương thét lên:
– Động thủ!
Ba người đều nhảy xổ lại. Cử động rất thần tốc như cơn cuồng phong đột ngột lướt tới.
Mấy tiếng binh binh nổi lên rùng rợn! Ba người sáu tay đều phong chưởng đánh vào cỗ kiệu đi trước.
Quy Tân Thụ và Quy nhị nương còn sợ chưa đánh chết được Hoàng đế, lập tức rút trường kiếm ở sau lưng ra đâm lia lịa vào trong kiệu bốn năm nhát. Mỗi lần rút kiếm ra đều thấy máu tươi đầm đìa. Như vậy thì người ngồi trong kiệu đó đến mười mạng cũng không thoát chết.
Bọn thị vệ theo sau kinh hồn tang đởm quát tháo ầm ỹ, rút khí giới ra xông lên cản trở.
Quy nhị nương hô lớn:
– Thành công rồi!
Tay trái mụ dắt con chạy tắt về phía Bắc.
Quy Tân Thụ thi triển kiếm pháp của phái Hoa Sơn chạy trước mở đường.
Bọn thị vệ ngăn cản làm sao nổi ba nhân vật khủng khiếp này?
Bọn Quy Tân Thụ chạy về phía tây cung Thọ Khanh theo lối đi trong luống hoa.
Bọn cung nữ cùng thái giám hoảng hốt kêu la rối loạn cả lên.
Chỉ trong khoảnh khắc, bốn mặt chuông trống vang trời. Bao nhiêu cửa ngõ trong cung đều đóng chặt và cài then lại.
Bọn túc vệ nội ban cũng như trong đoàn thị vệ trong cung Hoàng cung nghiêm gia phòng thủ các mấu chốt giao thông.
Tiếp theo ngoài tường vây nội phủ, Hộ quân doanh, Tiền phong doanh, Kiêu kỵ doanh đều kiếm tuốt cung dương dầy đặc như kiến, phòng thủ nghiêm mật, tưởng thiên binh vạn mã cũng chẳng thể nào đánh vào được.
Vi Tiểu Bảo thấy ba người nhà họ Quy giết chết Hoàng thái phi đã tưởng là thành công, cướp đường trốn chạy, gã mừng rỡ vô cùng liền ở phía sau giàn hoa chạy ra lớn tiếng quát:
– Hết thẩy không được nhốn nháo! Phải bảo vệ Hoàng thái hậu là điều khẩn yếu.
Bọn thị vệ đang rối loạn như rắn không đầu, đột nhiên thấy Vi Tiểu Bảo xuất hiện chỉ huy, liền bình tĩnh trở lại.
Vi Tiểu Bảo hô lớn:
– Các ngươi hãy vây quanh ngự kiệu của Thái hậu, hễ thấy thích khách đến xâm phạm, hết thảy phải liều chết ngăn chặn.
Bọn thị vệ đồng thanh đáp:
– Xin tuân lệnh!
Vi Tiểu Bảo đoạt lấy một thanh đao ở trong tay thị vệ, cầm giơ cao lên, lớn tiếng:
– Bữa nay chúng ta phải tận trung báo quốc, liều mình bảo vệ Thái hậu. Dù hàng ngàn hàng vạn thích khách xông vào, chúng ta cũng phải rang giữ cho thánh giá Thái hậu được an toàn!
Quần thị vệ lại đồng thanh đáp:
– Xin tuân lệnh!
Chúng thấy Thị vệ tổng quản Bá Tước đại nhân oai phong lẫm liệt, dốc dạ trung trinh, coi chết như không, đều nổi lòng khâm phục, nghĩ thầm:
– Tuy gã còn nhỏ tuổi, nhưng phong độ đáng mặt cao nhân đệ nhất.
Mười mấy tên thị vệ liền bao quanh ngự kiệu của Thái hậu.
Vi Tiểu Bảo lại nhìn bọn thái giám quát to:
– Các ngươi làm gì mà nhộn lên thế? Sao không vây thành một vòng đai thứ hai. Nếu thích khách phạm giá là ta chặt những cái đầu rẻ tiền của các ngươi đó.
Bọn thái giám và cung nữ đều nghĩ bụng:
– Cái đầu của mình tuy chẳng đáng gì, nhưng để người ta chặt mất một cách hồ đồ cũng uổng đời người.
Chúng lại thấy gã cầm đao múa tít nét mặt oai nghiêm, không dám trái lệnh, đều răm rắp tuân theo, vây thành một vòng tròn bên ngoài hàng rào thị vệ. Mấy tên sợ quá đến té đái vãi phân.
Vi Tiểu Bảo hạ cương đao xuống chạy tới trước ngự kiệu của Thái hậu, miệng hô:
– Nô tài là Vi Tiểu Bảo cứu giá chậm một bước, khiến thánh giá Hoàng thái hậu phải một phen kinh động. Nô tài kính cẩn xin hoàng thái hậu vạn an. Bọn thích khách đã bị đánh đuổi đi rồi.
Bỗng nghe Thái hậu ở trong kiệu lên tiếng:
– Hay lắm!
Vi Tiểu Bảo thò tay vén một góc rèm kiệu lên, ngó thấy Thái hậu sắc mặt lợt lạt, nhưng hớn hở tươi cười. Bà gật đầu lia lịa ca ngợi:
– Vi Tiểu Bảo ! Ngươi hay lắm! Ngươi hay lắm! Lại cứu tap hen nữa.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Hoàng thái hậu thánh thể bình yên khiến nô tài mừng rỡ khôn xiết.
Gã từ từ buông rèm xuống, quay lại bảo hai tên thị vệ:
– Các ngươi chạy mau đi bẩm báo Hoàng thượng là Thái hậu thánh thể bình an để Hoàng thượng khỏi lo âu.
Hai tên thị vệ lĩnh mệnh chạy đi.
Vi Tiểu Bảo dặn theo:
– Các ngươi trình them kẻ nô tài là Vi Tiểu Bảo cung thỉnh Hoàng thượng thánh thể an khang. Bọn thị vệ liều mình hộ giá, đánh đuổi thích khách phải rút lui rồi.
Bỗng nhiên Thái hậu khẽ hô:
– Vi Tiểu Bảo !
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Dạ! Có nô tài đây!
Thái hậu khẽ hỏi:
– Hai người ở trong kiệu trước chết cả rồi ư?
Vi Tiểu Bảo sửng sốt:
– Hai người?
Thái hậu đáp:
– Ngươi thử ngó xem và hãy coi chừng!
Vi Tiểu Bảo dạ một tiếng, trong lòng rất lấy làm kỳ tự hỏi:
– Sao lại hai người? Việc gì mà phải coi chừng?
Gã chạy lại cỗ kiệu trước mở rèm lên coi bất giác rú lên một tiếng “úi chao” rồi buông rèm xuống, lùi lại mấy bước. Hai chân gã nhủn ra xuýt nữa ngã lăn xuống đất.
Nguyên trong kiệu máu thịt bầy nhầy và đúng là hai xác chết. Một là giả Thai hậu Mao Đông Châu và một là con người béo chùn béo chụt lại lùn tịt. Đúng là Cao Tôn Giả. Hai người ôm nhau mà chết.
Mao Đông Châu chết ở trong kiệu chẳng có chi là lạ, vì Vi Tiểu Bảo vừa áp giải mụ đến cung Từ Ninh để trình Thái hậu, nhưng còn Cao Tôn Giả ở đâu tới đây? Hai người này sao lại ngồi trong kiệu của Hoàng thái phi và do Hoàng thái hậu bồi tiếp để đưa đi đâu?
Gã định thần lại chạy đến trước kiệu Thái hậu khẽ bẩm:
– Khải bẩm Thái hậu! Hai người đó chết cả rồi, chết một cách hồ đồ, chết không thể sống lại được nữa.
Thái hậu cười hì hì nói:
– Hay lắm! Chúng ta trở về cung Từ Ninh. Cả cỗ kiệu kia cũng khiêng đi theo và cấm mọi người không được mở rèm dòm ngó.
Vi Tiểu Bảo dạ một tiếng rồi truyền lệnh cho đoàn tùy tùng. Chính gã phù tri ngự kiệu của Thái hậu.
Tới cung Từ Ninh, Vi Tiểu Bảo mở rèm kiệu đỡ Thái hậu bước ra.
Thái hậu lại ngó gã mỉm cười nói:
– Ngươi hay lắm!
Vi Tiểu Bảo cũng đáp lại bằng nụ cười. Gã tự nhủ:
– Ta có gì hay đâu? Thái hậu tuy lớn tuổi rồi nhưng tướng mạo còn xinh đẹp lắm.
Thái hậu vẫy tay vời gã theo vào tẩm điện.
Vi Tiểu Bảo trống ngực đập thình thình. Bất giác mặt gã đỏ bừng, miệng lẩm bẩm:
– Trời ơi! Vụ này không xong rồi. Thái hậu khen ta hay không ngớt miệng.
Phải chăng bà muốn tat hay thế lão Hoàng giả Giả Thái hậu ngày trước cho sư ca giả làm cung nữ, lại có Cao Tôn Giả chui vào trong chân. Bây giờ mà chân Thái hậu cũng muốn ta giả làm cung nữ thì thật rầy rà.
Thái hậu ngồi ở mép giường xuất thần hồi lâu rồi nói:
– Việc này thật nguy hiểm vô cùng, ta hoàn toàn trông cậy ở nơi ngươi giúp ta.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Nô tài đã chịu ơn cao đức cả của Thái hậu cùng Hoàng thượng thì dù có phải tan xương nát thịt cũng không đủ đền đáp.
Thái hậu gật đầu nói:
– Ngươi là kẻ tận trung Hoàng thượng tín dụng ngươi là điều hạnh phúc cho chúng ta.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Thái hậu cùng Hoàng thượng đã gia ơn cho nô tài, nô tài chỉ biết hết đạo trung trinh, tận lực vì chủ mà thôi.
Gã khấn thầm trong bụng:
– Xin Ngọc Hoàng Đại Đế cùng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát phù trì cho, xui khiến Thái hậu đừng bắt tiểu tử làm giả cung nữ.
Thái hậu lại ngó Vi Tiểu Bảo mà cười. Nụ cười của bà khiến gã càng hồi hộp.
Bỗng nghe bà nói:
– Ngươi đem hai tên phản tặc đã bị đâm chết đó và cỗ kiệu kia đốt cháy thành tro đi. Có điều ngươi phải giữ kín, không được tiết lộ nữa lời với ai. Vừa rồi bọn thị vệ, cung nữ và Thái giám ngoài đương trường…
Bà nói tới đây lộ vẻ trầm ngâm rồi dừng lại.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Xin Thái hậu yên lòng. Nô tài đã có cách khiến chúng khủng khiếp đến trung tiện cũng không dám đánh nữa.
Thái hậu chau mày lẩm bẩm:
– Thằng này ăn nói thô tục.
Rồi bà bảo gã:
– Vụ này người làm được ổn thỏa, sẽ có chỗ tử tế đó.
Vi Tiểu Bảo thỉnh an rồi đáp:
– Nô tài xin dụng tâm hành động. Nếu để người tiết lộ một chút tin tức gì ra thì Thái hậu chặt thủ cấp này đi.
Thái hậu nói:
– Có thế ta mới yên dạ. Ngươi đi đi !
Vi Tiểu Bảo cả mừng dập đầu lui ra.
Gã vừa ra khỏi cung Từ Ninh đã ngó thấyvua Khanh Hy ngự giá đi tới. Bốn mặt nhà Vua có đến mấy trăm lính túc vệ phòng thủ nghiêm mật. Số vệ sĩ hôm nay so với ngày thường nhiều gấp mấy lần.
Vi Tiểu Bảo đứng tránh sang bên đường.
Nhà vua đã ngó thấy gã rồi liền cất tiếng gọi:
– Tiểu Quế Tử ! Ngươi hãy đứng đây chờ ta.
Vi Tiểu Bảo vâng lời. Gã biết nhà Vua đến vấn an Thái hậu. Trong lòng không ngớt tự hỏi:
– Tại sao Cao Tôn Giả lại ẩn vào cỗ kiệu của Thái phỉ Vụ này thật là kỳ lạ!
Gã đợi chừng nửa giờ thì thấy Vua Khanh Hy từ trong cung Từ Ninh đi ra. Nhà Vua kêu Vi Tiểu Bảo đi theo về điện Dưỡng Tâm. Ngày đuổi bọn thị vệ cùng thái giám ra ngoài rồi đóng cửa lại.
Lại thấy nhà Vua chau mày bước lui rồi lại bước tới trong điện, hiển nhiên ngài đang suy nghĩ việc gì khó giải quyết.
Vi Tiểu Bảo không khỏi xao xuyến trong lòng.
Vị Hoàng đế này ngày một lớn tuổi, uy thế cường thịnh. Vi Tiểu Bảo những lần sau gặp ngài cảm thấy thêm phần úy kị, mối thân mật giảm bớt đi. Gã không dám đùa cợt dông càn như trước nữa. Sau một lúc lâu, nhà Vua lên tiếng:
– Tiểu Quế Tử ! Có một việc khiến ta không biết cách giải quyết cách nào?
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Hoàng thượng tâm thần thông tuệ đến Gia Các Lượng cũng phải cam bề thua kém. Chủ ý của Hoàng thượng nhất định cao minh tột bậc.
Vua Khanh Hy nói:
– Vậy mà có lúc Gia Cát Lượng cũng hết phép. Ngươi đã làm được ba việc công lớn mà ta chưa thưởng cho việc nào.
Ngài dừng lại một chút rồi tiếp:
– Việc thứ nhất là ngươi bắt được Mao Đông Châu. Việc thứ hai là ngươi thuyết phục hai đội binh mã xứ Mông Cổ và Tây Tạng chịu đầu hàng tạ Vừa rồi ngươi lại đánh chết bọn phản bạn giải cứu Thái hậu. Đó là việc thứ bạ Tuổi ngươi còn nhỏ, ta đã gia phong đến Bá Tước. Ta chẳng thể phong đến Vương Tước ngay được.
Nhà Vua nói tới đây nổi lên tràng cười khanh khách.
Vi Tiểu Bảo biết Hoàng thượng muốn khôi hài. Gã cả mừng liền tâu:
– Mấy việc này đều là nhờ hồng phúc của Thái hậu cùng Hoàng thượng. Nếu nói về công lao thì chính là công của Hoàng thượng. Đáng tiếc ở chỗ Hoàng thượng chẳng thể tự phong quan cho mình. Nếu không thì phen này Hoàng thượng được thăng lên ba cấp.
Nhà Vua lại cười ha hả nói:
– Hoàng đế tuy không thể tự thăng quan cho mình, nhưng từ xưa đến nay đã có nhiều vị Hoàng đế thích tự gia tôn hiệu cho mình. Khi gặp việc đáng mừng, ty?
như thắng được mấy trận nhỏ mọn, lại thêm mấy chữ tôn hiệu. Tuy là do bọn thần tử cung thỉnh mà thực ra chính Hoàng đế tự trát váng vào mặt cho mình. Ngay ca?
đến những vị chân chính Hoàng đế mà tự cao tự đại đã đáng tức cười. Huống chi những ông hôn quân vô đạo cũng lấy tôn hiệu là “Thần thánh văn võ”, “khoan nhân duệ trí” gì gì một tràng dài. Những vị Hoàng đế càng hồ đồ vô sỉ thì tôn hiệu càng dài dòng, chẳng biết hổ thẹn chi hết.
Nhà Vua lại nói tiếp:
– Những bậc thánh quân như Nghiêu Thuấn có thêm tôn hiệu gì đâu? Người đời sau vì lòng tôn sùng bất quá chỉ thêm vào một chữ “Đại” như Đại Thuấn, Đại Vũ.
Làm Hoàng đế mà tự biết mình được mấy phần, tất không chịu cái tôn hiệu dài đến mấy chục chữ.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Vậy ra Điểu Sâng Dủy Thang không gia phong tôn hiệu cho mình. Hoàng thượng cũng là Điểu Sâng Dủy Thang dĩ nhiên không thêm gì nữa. Có điều nô tài nhận thấy sau khi bình xong Ngô Tam Quế mà Hoàng thượng chẳng thêm tôn hiệu gì cho vẻ vang tất không tránh khỏi sự thua thiệt.
Vua Khanh Hy cười hỏi:
– Làm sao mà thua thiệt ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Đánh dẹp Ngô Tam Quế rồi, Hoàng thượng đại phong công thần, khao thưởng ba quân. Từ trên xuống dưới ai cũng được thăng quan phát tài. Còn chính Hoàng thượng chẳng những không được thăng quan mà còn phải mở kho lấy vàng thoi bạc nén, khuân hết rương này qua rương khác đem ra tiêu xài vào công cuộc bình định giang sơn, gia phong quan tước đến phá sản mà chẳng lợi gì, sao lại không thua thiệt?
Nhà Vua cười nói:
– Vì ngươi ít học vấn chẳng hiểu chi hết. Tảo trừ Ngô nghịch, thiên hạ thái bình, trăm họ an cư lạc nghiệp. Chủ ngươi thăng quan phát tài là ở chỗ đó.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– à ra thế đấy!
Nhà Vua lại nói:
– Có điều sau khi bình định Ngô nghịch rồi, quân thần nhất định thỉnh cầu đưa tôn hiệu ra những con khỉ con tiều Đại vương gì gì. Khi hữu sự chúng chẳng vì ta ra sức, chia sẻ lo âu. Chờ lúc đại công cáo thành chúng mới lớn tiếng nịnh bợ.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Chẳng việc gì là Hoàng thượng không nhìn thấy trước. Chúng ta cứ lẳng lặng chờ tới lúc bấy giờ coi mấy ông quan cung thỉnh Hoàng thượng tự thăng quan cho mình để vạch mặt bọn “luồn đít đại vương”.
Nhà Vua cười đáp:
– Phải đấy! Khi đó lão gia sẽ đá vào đít con mẹ nó.
Rồi Vua tôi trông nhau mà cười.
Quả đúng như lời tiên liệu của Vua Khanh Hy:
sau khi bình định Ngô Tam Quế rồi, quần thần thi nhau ca tụng côg đức, thỉnh cầu Hoàng thượng thêm tôn hiệu vào. Cách nịnh bợ kể không xiết được.
Nhà Vua liền hạ dụ :
– ” Tuy đã bình xong phản tặc nhưng vết thương chinh chiến chưa phục hồi.
Quân thần cần phai tu tỉnh hơn nữa, hết lòng phủ tuất quân dân, rộng tuyên đức hóa. Chúng ta lấy liêm khiết làm căn bản để đi tới cuộc thái bình thịnh trị. Nếu mình tự kể công lao, khoe khoang đạo đức, chỉ mong thăng thưởng là đáng hổ thẹn”.
Trong thượng dụ Vua Khanh Hy đưa ra những lời rất nghiêm khắc mà quần thần vẫn u mê tăm tối, cho là nhà Vua giả ý khước từ, lại dâng biểu xin nêu tôn hiệu.
Vua Khanh Hy liền hạ dụ lần thứ hai:
– ” Từ thưở nhỏ trẫm từng đọc sách, nhận ra những vị nhân quân từ xưa đến nay thật là ít ỏi, nên thường tự răn mình. Trẩm chỉ sợ đơn sai trách nhiệm mà phải ráng khép mình vài khuôn khổ của cần lao. Nửa đêm có người tấu báo cũng phải khoác áo dậy liền. Đó là lo cho trăm họ. Nay trước hết trẫm phải noi gương thanh khiết. Thiên hạ chưa được nhân khang vật phụ thì Vua tôi chẳng có công trạng chi hết. Nếu trẫm tự phong tôn hiệu, thăng quan cho các khanh là điều đáng hổ thẹn, chứ chẳng vẻ vang gì”.
Quần thần tưởng bợ đít ngựa không ngờ vỗ vào chân nó bị đá hộc máu mồm.
Chỉ dụ đưa xuống, ai nấy xám mặt như tro tàn, không dám nhắc tới việc thượng gia tôn hiệu nữa.
Câu chuyện trên là việc về sau, nơi đây xin hãy tạm gác.
Vua Khanh Hy lại cười nói:
– Các vị Hoàng đế tự gia tôn hiệu cho mình rất nhiều, chẳng có chi là lạ. Tại triều Minh, Chính Đức Hoàng đế mới lắm chuyện kỳ…
Vi Tiểu Bảo nói ngay:
– Nô tài được gặp vị Vua này mấy lần rồi.
Nhà Vua lấy làm kỳ hỏi:
– Ngươi đã gặp được Chính Đức Hoàng đế mấy lần rồi ư ? Ngươi nói chuyện mộng mị chăng ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Không phải đâu. Nô tài được thấy ở trên sân khấu trong vở tuồng “Mai Long trấn”. Chính Đức Hoàng đế tuần du Giang Nam gặp một cô gái bán rượu ở Mai Long trấn. Cô này tên gọi Lý Phượng Thư, dong nhan xinh đẹp, Hoàng đế liền liếc mắt đưa tình…
Vua Khanh Hy cười nói:
– Đó chính là Đức Hoàng đế bản tính thích cải trang ra ngoài tuần dụ Câu chuyện Lý Phượng Thư có thật cũng nên. Điều ta muốn nói là Chính Đức Hoàng đế không thích tự gia tôn hiệu mà lại ưa phong quan cho mình. Hoàng đế tự phong là “Tổng đốc quên vụ Uy Võ đại tướng quân tổng binh quan”.
Vua Khang Hy dừng lại một chút rồi tiếp:
– Mỗi khi gặp chuyện nhiễu nhương tầm thường, Vua Chính Đức cũng hạ dụ:
“Nay Bắc khấu xâm phạm biên thùy, trẫm đặc phái Tổng đốc quân vụ Uy Võ tướng quân Tổng binh quan Chu Thọ thống lãnh lục quân lên đường Bắc phạt” Nhà Vua kể tiếp:
– Chu Thọ là danh tự của Chính Đức Hoàng đế. Hoàng đế đánh trận thất bại cũng bảo là đại thắng, dầy công hãn mã rồi hạ thánh chỉ gia phong cho mình làm Trấn Quốc Công, thêm bổng lộc năm ngàn thạch gạo.
Vi Tiểu Bảo cười ha hả nói:
– Ông này làm Hoàng đế không muốn, lại đòi làm Trấn Quốc Công, Thế thì thú thật!
Vua Khang Hy lại cười nói:
– Khi ấy quần thần nhất tề phản đối vì lẽ Hoàng đế tự gia phong Trấn Quốc Công là phải truy phong tổ tiên ba đời. Hoàng đế tự xưng là Trấn Quốc Công thì không sao, nhưng tổ tiên ba đời của Hoàng đế đã làm Hoàng đế rồi nhất định không chịu giáng cấp. Ai can gián cũng mặc, Chính Đức Hoàng đế nhất định đòi làm Trấn Quốc Công. Về sau lại mấy lần tuyên bố lập thêm công trạng, tự phong mình làm Thái Sự May mà Đức Hoàng đế mất sớm, không thì cứ thăng quan mãi, có ngày chính mình lại thoán vị của mình.
Vi Tiểu Bảo nghe nhà Vua nhắc tới hai chữ “thoán vị” , gã không dám nói nhiều chỉ bật mấy tiếng cười khô khan.
Nhà Vua lại nói:
– Chính Đức Hoàng đế làm lắm chuyện hồ đồ khiến trăm họ cực khổ. Dĩ nhiên chính Hoàng đế đã là người bất hảo, nhưng một phần cũng bởi bọn thái giám và thần tử kề cận đưa ông đến chỗ bại hoại.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Dạ dạ! Hoàng đế tồi bại ưa thu dụng gian thần và thái giám tồi bại. Còn hảo Hoàng đế chỉ dung những hảo thái giám và trung thần.
Nhà Vua lắc đầu đáp:
– Cái đó không nhất định. Bên mình hảo Hoàng đế cũng có gian thần và thái giám tồi bại. Nhưng Hoàng đế minh mẫn thì có bị che mắt trong lúc nhất thời, sau sẽ khám phá ra những điều thâm hiểm giảo quyệt của bọn gian thần.
Vi Tiểu Bảo lại dạ luôn mấy tiếng nhưng trống ngực gã đánh hơn trống làng.
Vua Khang Hy bỗng hỏi sang chuyện khác:
– Tên gian phu của con tiện nhân Mao Đông Châu danh tự là gì ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Người ta kêu hắn bằng Sấu đầu đà, còn tên thật thì nô tài cũng không rõ.
Nhà Vua hỏi:
– Hắn mập ú và tròn ủng như trái banh mà sao lại kêu là bằng sấu đầu đà?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Nô tài nghe nói nguyên trước kia hắn vừa cao nghệu vừa ốm nhắt, nhưng sau hắn uống độc dược của Thần Long giáo chủ, thân hình co lại biến thành lùn tịt và béo chùn béo chụt.
Nhà Vua hỏi:
– Sao ngươi biết hắn cùng Mao Đông Châu ẩn trong kiệu của Thân Thái phi và uy hiếp Thái hậu đưa bọn chúng ra khỏi Hoàng cung?
Vi Tiểu Bảo trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, bụng bảo dạ:
– Trước Hoàng thượng đã bảo ta sai người đánh chết phản tặc, giải cứu Thái hậu, lập nên công lớn. Bây giờ ngày lại nói hai người đó ẩn trong kiệu Thái phi và uy hiếp Thái hậu đưa ra khòi cung, thì dường như ngày chưa biết việc ba người nhà họ Quy đến đây hành thích. Hoàng thượng không biết là maỵ Ngài mà biết ra tất mở cuộc điều tra và mình không khỏi bị lien quan. Bây giờ bọn Quy gia chạy thoát được cũng hay, bị bắt sống cũng thế, hay bị người đánh chết rồi cũng vậy, chung quy không thể dấu vụ này được, Có điều ta biết nói sao đây?
Nhà Vua thấy gã ngần ngừ không đáp liền giục:
– Sao? Ngươi có điều chi không nói ra được ?
Vi Tiểu Bảo vội đáp:
– Không, không. Nô tài rất lấy làm kỳ là tại sao hai tên phãn tặc kia lại ngồi trong kiệu của Thái phị Vụ này nô tài nghĩ đền bể óc cũng không ra, muốn xin Hoàng thượng khai thông.
Vua Khang Hy nói:
– Ta hỏi ngươi trước:
sao ngươi biết người ngồi trong kiệu không phải là Thái phi mà chỉ huy bọn thị vệ tập kích ngự kiệu?
Vi Tiểu Bảo tự nhủ:
– Té ra Hoàng thượng tưởng bọn thị vệ trong cung đã giết Sấu đầu đà và Mao Đông Châu. Vụ này rồi sau thế nào cũng vở lỡ, Chi bằng ta nói thẳng trước ra là hơn.
Gã liền đáp:
– Nô tài tội đáng muôn thác. Xin Hoàng thượng khoan thứ cho.
Gã nói rồi quì mọp xuống đất.
Vua Khang Hy chau mày hỏi:
– Làm sao ?
Vi Tiểu Bảo liền đáp:
– Nô tài vâng chỉ dụ Hoàng thượng áp giải tên phản nghịch Mao Đông Châu đến cung Từ Ninh để trình Thái hậu. Khi nô tài trở ra, đi qua vườn hoa thì đột nhiên sau tòa núi giả có tiếng động. Ba người mặc sắc phục thị vệ cùng thái giám nhảy xổ ra, chúng bắt nô tài đưa đi kiếm Hoàng thượng. Ba tên này võ công rất cao cường. Suýt nữa mấy ngón tay của nô tài bị bọn chúng bóp nát.
Gã nói tới đây giơ tay trái lên. Quả nhiên năm ngón tay đều sưng vù và tím lại.
Nhà Vua hỏi :
– Bọn chúng tìm ta làm chi?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Ba tên này nhất định là bọn thích khách do Ngô Tam Quế phái đến. Nô tài bị chúng bóp chết cũng đành, chẳng khi nào chịu dẫn bọn chúng đến phạm giá.
Vừa may… không, không phải vừa may, mà là vừa đúng lúc loan giá Thái hậu cùng Thái phi đi tới. Ba tên thích khách kia thật là hồ đồ. Chúng tưởng Hoàng thượng ngồi trong kiệu Thái phi, liền xông lại hành hung. Quả nhiên Thái hậu cùng Hoàng thượng hồng phúc tày trời, chúng không bao giờ đụng được đến long thể, mà lại giết chết bọn phản tặc. Hiện giờ không hiểu ba tên thích khách kia bị đoàn thị vệ đâm chết hay bắt sống rồi. Nô tài xin đi điều tra về tâu thánh thượng.
Nhà Vua hỏi:
– Chưa chắc ba tên thích khách kia hồ đồ, không chừng ngươi đã chỉ điểm cho chúng. Phải vậy chăng? Ngươi nghĩ tới để thích khách phạm giá vào mình ta thì chẳng thà lừa chúng động thủ hại Thái phi còn hơn. Bọn chúng một khi động thủ rồi tất không gia hại đến ta nữa, đồng thời cái mạng nhỏ xíu của ngươi cũng không đến nỗi chết oan, có đúng thế không ?
Vi Tiểu Bảo thấy nhà Vua nói huỵch toẹt tâm sự của gã ra. Gã biết rằng có chối cãi cũng không được , chỉ dập đầu lia lịa.
Vua Khang Hy nói:
– Ngươi chỉ điểm cho thích khách sát hại Thái phi đáng lẽ phải chém. đầu, nhưng xét lại ngươi đối với ta có ba phần trung ái…
Vi Tiểu Bảo vội nói:
– Không phải chỉ ba phần, mà là mười phần, trăm phần, ngàn phần, vạn phần.
Nhà Vua mỉm cười hỏi:
– Có chắc thế không ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Chắc lắm! Nhất định là chắc lắm.
Vua Khang Hy giơ chân khẽ đá vào đầu Vi Tiểu Bảo , cười nói :
– Con mẹ nó ! Đứng dậy đi!
Vi Tiểu Bảo sợ toát mồ hôi, dập đầu mấy cái rồi đứng dậy.
Nhà Vua lại cười nói:
– Ngươi lập được ba công trạng lớn lao, trước ta nghĩ mãi không biết thưởng cho ngươi bằng cách nào, bây giờ ta tính xong rồi. Ngươi chỉ điểm cho thích khách hành hung phạm thượng, ra dạ bất thần. Ta cũng không phạt ngươi nữa.
Công kia chuộc lại tội này. Thế là xong hết.
Vi Tiểu Bảo cả mừng đáp:
– Hay lắm! Hay lắm! Vụ này tỷ như Hoàng đế đánh bài cẩu với nô tài. Bàn trước nô tài thắng, bàn sau Hoàng thượng được. Như vậy hòa cả làng là phải.
Hoàng thượng không ăn nô tài mà cũng không phải giam tiền.
Gã tự nhủ:
– Chẳng thăng quan thì đừng. Không lẽ Hoàng đế còn phong ta làm Uy Võ đại tướng quân hay Trấn Quốc Công ? Dù có làm đến Thái sư ta cũng không màng. Ngày trước Đường Bá Hổ điểm mặt hai con của Hoa Thái sư là Hoa đại và Hoa nhị đều ngu ngốc. Bây giờ ta làm Vi Thái sư sinh ra hai đứa con là Vi Đại và Vi Nhị cũng nát bét. Như vậy thật là vô phước.
Lại nghe nhà Vua nói:
– Tên tặc tử vừa lùn vừa mập dụng tâm thật là nguy hiểm, giảo quyệt. Hắn thấy nhân tình bị người bắt không cách nào cướp lại được, liền đoàn ra tất ngươi sẽ đưa xuống cung Từ Ninh để Thái hậu phát lạc. Hắn liền mạo hiểm lần đến cung Từ Ninh phạm thượng tác loạn, uy hiếp Thái hậu. Hắn chỉ mong được ngồi vào cỗ kiệu của Thân Thái phi do Thái hậu thân hành đưa ra cửa cung là hai tên phản nghịch đều chạy thoát. Hắn có ngờ đâu ma đưa lối quỉ đem đường, lại gặp ngươi chỉ điểm bọn thích khách tấn công cỗ kiệu Thái phi, hạ sát hai tên phản tặc.
Bây giờ Vi Tiểu Bảo mới tỉnh ngộ, gã nói:
– Té ra là thế! Thái hậu cùng Hoàng thượng hồng phúc tày trời, miệng thế gian nói qua không sai.
Gã nghĩ thầm trong bụng:
– Thảo nào lúc ta đưa mụ điếm đến ra mắt Thái hậu, nét mặt bà lầm lì tựa hồ ta mắc nợ bà ta ba trăm vạn lạng bạc. Thì ra lúc đó Cao Tôn Giả đã ẩn trong tẩm điện, chắc là hắn nấp ở phía sau giường của Thái hậu.
Gã nghĩ tới đây bất giác miệng lẩm bẩm:
– Sau khi mụ điếm già bị bắt, Cao Tôn Giả lần mò đến đây đã mấy ngày rồi.
Trước kia gã lại giả làm cung nữ kề cận mụ điếm già nên đường lối trong cung hắn đã thuộc lòng. Không hiểu hắn ngủ trên giường Thái hậu mấy đêm rồi. Hắn nghĩ ra kế này thật kà tuyệt diệu.
Bất giác gã la thầm:
– Trời ơi! Hỏng to rồi! Cao Tôn Giả và Thái hậu, một trai một gái, ở chung phòng với nhau mấy ngày trời, biết đâu họ chẳng có trò kỳ khôi? Tội nghiệp cho lão Hoàng gia đội mũ nhà sư ở trên Ngũ Đài Sơn mà còn bị cắm sừng trên đầu.
Vi Tiểu Bảo mải nghĩ vẩn vơ, chẳng nói năng gì.
Vua Khang Hy dĩ nhiên không đoán ra được ý niệm thô tục của gã. Ngài cười nói:
– Hồng phúc của Thái hậu và ta lớn thì phước khí của ngươi cũng không nhỏ.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bản nhân nô tài vốn không có phước khí, nhưng chầu hầu Hoàng thượng lâu ngày mới dính được một chút phước khí của Hoàng thượng mà thôi.
Nhà Vua cười khanh khách hỏi:
– Quy Tân Thụ ngoại hiệu là Thần Quyền vô địch, bản lãnh rất ghê gớm. Có đúng thế không ?
Nhà Vua vừa cười vửa hỏi câu này mà Vi Tiểu Bảo tưởng chừng nghe tiếng sét nổ giữa trời xanh. Người gã lảo đảo, hai chân nhủn ra, ấp úng:
– Cái đó… cái đó…
Nhà Vua cười lạt nói:
– Thiên phụ địa mẫu, phản Thanh phục Minh, Vi hương chủ. Ngươi thật là lớn mật !
Vi Tiểu Bảo tưởng chừng trời xoay đất chuyển. Trong đầu gã náo loạn ca?
lên. ý niệm đầu tiên của gã là thò tay vào ống giày rút dao trủy thủ. Nhưng rồi gã tự nhủ:
– Y biết hết cả rồi. Y đã hõi ta câu này là vất bài xuống chiếu để so hơn thua với tạ Dĩ nhiên y đã chuẩn bị s½n sang. Huống chi y mặc bải y trong mình, ta phóng dao đâm y cũng không chết. Hơn nữa võ công y lại cao cường hơn ta.
Gã liền quì xuống la lên:
– Tiểu Quế Tử chịu đầu hàng. Xin Tiểu Huyền Tử tha mạng cho.
Gã hô ba tiếng Tiểu Huyền Tử khiến nhà Vua lập tức nghĩ tới ngày trước cùng gã tỷ võ chơi đùa. Đồng thời bao nhiêu kỷ niệm đối với gã hiển hiện lên đầu trong đầu óc.
Bất giác nhà Vua buông tiếng thở dài nói:
– Ngươi… ngươi lừa gạt ta giỏi quá!
Vi Tiểu Bảo dập đầu lạy như tế sao, miệng nói:
– Nô tài tuy mình ở Thiên Địa Hội mà lòng vẫn trung thành với Hoàng thượng.
Nô tài xét mình thật chưa làm một chút gì đáng thẹn đối với Hoàng thượng.
Vua Khang Hy cất giọng nghiêm khắc:
– Ngươi mà có chút lòng phản bội thì ta còn để ngươi sống đến ngày nay ư?
Vi Tiểu Bảo nghe giọng nói nhà Vua đã có chút cởi mở, vội đập đầu tâu:
– Hoàng thượng là Điểu Sâng Dủy Thanh,tranh sáng cùng Gia Cát Lượng. Nô tài cũng hết lòng trung nghĩa để sánh với Quan Vân Trường.
Hồi 207
Có bao giờ thầy lại giết trò?
Vua Khang Hy nghe Vi Tiểu Bảo ba hoa không nhịn được, mắng thầm trong bụng:
– Con mẹ nó! Cái gì mà tranh sáng cùng Gia Cát Lượng, trung nghĩa sánh Quan Vân Trường?
Ngài lại nghiêm giọng quát lên:
– Ngươi khôn hồn thì đem hết mọi việc từ đầu tới cuối nhất nhất cung xưng.
Ngươi chỉ nói dối nửa câu là ta băm ngươi nát ra như tương.
Ngài nói đến bốn chữ sau cùng, không khỏi lộ nụ cười ra khóe miệng.
Vi Tiểu Bảo quì phục dưới đất không ngó thấy thần sắc của nhà Vua đã hoà hoãn mà chỉ nghe giọng nói rất nghiêm khắc. Gã dập đầu tâu:
– Dạ dạ! Tâu Hoàng thượng đã biết hết, khi nào nô tài dám tơ hào man trá?
Gã liền thuật lại mọi chuyện đã xẩy ra bắt đầu từ vụ gã vào phủ Khanh Thân Vương giết Ngao Bái rồi bị Thiên Địa Hội bắt được. Gã bái Trận Cận Nam làm sư phụ trong trường hợp nào, bị bức bách nhập hội và làm hương chủ Thanh Mộc Đường ra sao, nhất nhất nói thực hết.
Sau cùng là vụ gặp ba người nhà họ Quy, gã gieo thò lò bị thua vì lẽ gì, gã họa mật đồ mật tấu làm sao, gã bị Quy nhị nương bắt trong vườn hoa ở cung Từ Ninh như thế nào, dẫn dụ bọn thích khách tập kích loan kiệu của Thái phi vì mục đích báo động đến tai Hoàng đế rồi kết quả đi tới đâu, gã nói thực hết, tuyệt không giả dối câu nào.
Suốt đời Vi Tiểu Bảo quen thói trí trá mà nay gã thốt ra một đại luận trường thiên ít chuyện hoang đường, nhiều điều thành thực là lần đầu tiên phả bỏ lệ cũ.
Nhà Vua không ngớt vặn hỏi về tình hình Thiện Địa Hội, gã cứ thực tâu trình.
Vua Khang Hy vùa nghe Vi Tiểu Bảo đáp lời vừa lẩm nhẩm gật đầu.
Bỗng ngài đọc câu:
Ngũ nhân phân khai nhất thủ chi Thân thương hồng anh vô nhân tri Vi Tiểu Bảo sửng sốt nghĩ thầm:
– Hoàng thượng biết cả những câu anh em Thiện Địa Hội đọc để nhận ra nhau thì mình còn man trá thế nào được ?
Gã liền đọc tiếp:
Tự thử truyền đắc chúng huynh đệ Hậu lai tương nhận đoàn viên thì Nhà Vua lại đọc hai câu:
Sơ tiến Hồng môn kết nghĩa huynh Đương thiên minh thệ biểu chân tình Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:
Tùng bách nhị chi phân tả hữu Trung tiết Hồng hoa kết nghĩa đình Vua Khang Hy lại đọc:
Trung nghĩa đường tiền huynh đệ tại Thành trung điểm tướng bách vạn binh Vi Tiểu Bảo đọc:
Phúc đức từ tiền lai thệ nguyện Phản Thanh phục Minh ngã hồng anh Theo qui cũ trong Thiên Địa Hội thì gã đọc xong hai câu cuối cùng, đối phươhng liền tự báo danh tự và cho hay thuộc về đường nào. Làm chức phận gì ?
Nhưng vua Khang Hy chỉ tủm tỉm cười.
Vi Tiểu Bảo mừng thầm cất tiếng hỏi:
– Té ra Hoàng thượng cũng là anh em trong Thiên Địa Hội. Không hiểu Hoàng thượng ở đường nào? Làm chức gì…
Gã nói tới đây lập tức nhận ra mình rất hồ đồ vì đối phương là Hoàng đế Mãn Thanh, sao lại phản Thanh phục Minh được.
Gã ngừng lại một chút rồi tự mắng mình:
– Đánh chết thằng lỏi hồ đồ này ! Đánh chết thằng lỏi hồ đồ này!
Gã vừa mắng vừa khẽ vả vào miệng mình mấy cái bôm bốp.
Vua Khang Hy đứng dậy đi tới đi lui trong điện, lên giọng cảnh cáo:
– Ngươi làm quan như người Mãn Châu, hưởng bổng lộc của nhà Đại Thanh ta, mà trong lòng còn mang ý niệm phản Thanh phục Minh. Nếu ngươi không có chút công lao thì ngươi mọc một trăm cái đầu ta cũng chặt hết.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Dạ dạ! Hoàng thượng khoan hồng đại lượng, nô tài mới giữ được cái đầu cho đến ngày hôm naỵ Nô tài lập tức đi rút tên khỏi Thiên Địa Hội. Cả cái chức Hương chủ gì gì trong hội này cũng không làm nữa. Từ nay nô tài quyết không phản Thanh phục Minh, mà ngược lại chỉ Phản Minh Phục Thanh.
Vua Khang Hy cười thầm trong bụng, ngoài miệng cất tiếng mắng:
– Nhà Đại Thanh ta đã mất nước đâu mà bảo ngươi phục cái gì Thanh? Thằng lỏi này toàn nói chuyện hồ đồ!
Vi Tiểu Bảo vội đáp:
– Dạ dạ! Nô tài quyết giữ giang sơn của chúa thượng lâu dài vạn vạn niên.
Hoàng thượng bảo nô tài phản cái gì đó là nô tài phản cái đó, hay phục cái gì, nô tài cũng phục cái đó.
Nhà Vua cất giọng trầm trầm, nói dằn từng chữ:
– Hay lắm! Ta muốn ngươi phản Thiên Địa Hội.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Dạ dạ!
Trong lòng đã ngầm kêu khổ, vẻ băn khoăn lộ ra ngoài mặt.
Nhà Vua lại nói:
– Ngươi mồm năm miệng mười nói những gì dốc dạ trung trinh với tạ Ta không hiểu ngươi nói thật hay là ngươi nói dối.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Cái đó thì thật lắm rồi! Thật như vàng mười, thật không còn thể nào thật hơn được nữa.
Vua Khang Hy lại nói:
– Ta xét ngươi từng ly từng tý, thấy ngươi đối với ta chưa có hành vi tàn ác, hay làm điều gì đại nghịch bất đạo. Nếu ngươi nghe theo lời ta dặn:
chuyến này ngươi lật đổ Thiên Địa Hội , nhổ cỏ trừ đến gốc rễ. Bao nhiêu tên phản bạn giết cho kỳ hết thì có thể đem công chuộc tội. Cả tội khi quân cũng được tha thứ, không chừng ta còn thưởng cho ngươi nữa. Nếu ngươi vẫn giữ thói giảo quyệt, man trá thì hạng người thế nào còn bị bay đầu, chẳng lẽ ta không giết nổi Vi hương chủ trong Thiên Địa Hội.
Vi Tiểu Bảo sợ quá, toàn thân mồ hôi lạnh ngắt, miệng không ngớt năn nỉ:
– Dạ dạ! Hoàng thượng muốn giết nô tài thì chẳng khác gì bóp nát một con kiến. Nhưng… nhưng Hoàng thượng là bậc thánh quân, sánh với Điểu, Sâng, Dúy, Thang chẳng khi nào giết kẻ trung thần.
Vua Khang Hy hứ một tiếng rồi hỏi:
– Ngươi thì trung thần cái gì? Đúng là loại bạch kiểm gian thần.
Vi Tiểu Bảo lại kêu van:
– Xin Hoàng thượng xét soi. Kể ra nô tài quả có mấy việc dấu diếm Hoàng thượng không tiện nói. Song sự thực nô tài đích đáng không phải là loại bạch kiểm gian thần. Nô tài nhất định không chịu làm Đổng Trác, Tào Tháo.
Nhà Vua nói:
– Hay lắm! Dù ngươi chẳng phải đại bạch kiểm gian thần thì cũng là thằng hề mũi bôi vôi trên sân khấu.
Vi Tiểu Bảo thấy nhà Hoàng đế hạ mình xuống hạng thằng hề, liền thở phào một cái nhẹ nhõm. Gã nói ngay:
– Nô tài là thằng hề cũng được. Tỷ như Thời Thiên trong truyện Thủy Hử.
Tưởng Cán trong chuyện Tam Quốc thường hiện thân làm những vai riễu trên sân khấu, vẫn có thể lập công cho Hoàng thượng.
Vua Khang Hy mỉm cười nói:
– Rút cuộc ngươi vẫn tự đưa mình lên hạng hảo nhân. Thôi bây giờ làm thế này:
ngươi điểm binh mã đi bắt bọn phản tặc ở Thiên Địa Hội, Mộc Vương Phủ, Quy Tân Thụ đem hết về đây. Nếu ngươi để một tên chạy thoát là bị chặt một tay, bốn tên chạy thoát thì cả tứ chi đều bị chặt cụt. Nếu để mất năm tên thì không hiểu chặt cái gì trong mình ngươi?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Cái đó… cái đó… thì nô tài đúng là thái giám rồi.
Nhà Vua không nhịn được, nổi lên tràng cười khanh khách rồi thóa mạ:
– Con mẹ nó! Cái gì ngươi cũng tính lấy phần mình.
Vi Tiểu Bảo mặt buồn rười rượi tâu:
– Hoàng thượng mà chặt hết chân tay thì chắc là nô tài không sống được nữa rồi. Còn cái cổ trên đầu có chặt hay không cũng vậy thôi.
Gã nghĩ thầm:
– Ông Vua con này biết rõ cả Mộc Vương Phủ thì những nguồn thông tin của ông thật là khủng khiếp!
Vua Khang Hy thò tay vào trong túi áo rút ra một tờ giấy ra đọc:
“Thiên Địa Hội tổng đà chúa Trần Cận Nam, Thanh Mộc Đường hương chủ Vi Tiểu Bảo. Bọn thuộc hạ là lũ Từ Thiên Xuyên, Huyền Trinh đạo nhân, Liễu Đại Hồng, Ngô Lập Thân… ba tên thích khách vào Hoàng cung là Quy Tân Thụ, Quy nhi.
nương, Quy Chung”.
Rồi nhà Vua đếm:
– … tổng cộng tên phản tặc. Tạm thời bỏ tên ngươi ra không kể thì còn tên.
Vi Tiểu Bảo lại quì gối dập đầu bái lạy, miệng kêu ca:
– Tâu Hoàng thượng! Những người này tuy muốn phản Thanh phục Minh, nhưng họ phản gì cũng chẳng thể thành công được. Nô tài đi bảo cho họ biết:
Đức Hoàng thượng tên hiểu thiên văn, dưới rành địa lý, tính suốt những việc quá khứ vi.
lai. Hoàng thượng đã tuyên bố giang sơn nhà Đại Thanh bền vững muôn năm thì nhất định không sai trật. Phản Thanh đã không phản được thì anh em giải tán là hơn.
Vua Khang Hy đập bàn quát hỏi:
– Ngươi quyết ý phản kháng mệnh lệnh của ta, không chịu đi tróc nả phản tặc chăng?
Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ:
– Những bậc hảo hán trên giang hồ đều lấy nghĩa khí làm trọng. Ta mà đi bắt sư phụ cùng anh em về đây, nhất định họ sẽ bị Hoàng thượng chặt đầu. Làm thế nào Vi Tiểu Bảo bán rẻ đồng chí, biến thành Ngô Tam Quế mất rồi! Hỡi ơi! Ngày ấy mình mạo xưng làm người nào chẳng làm, lại mạo xưng Tiểu Quế Tử. Tiểu Quế Tử hỡi Tiểu Quế Tử! Tiểu Quế Tử cũng được , chẳng phải con Ngô Tam Quế thì thôi. Cả cái Bá Tước đại nhân này cũng không làm nữa. Ta nhất định phải nghĩ cách thông tri cho sư phụ cùng bọn người trốn chạy, rồi mình cũng trốn con mẹ nó đi là xong.
Nhà Vua không thấy gã trả lời, lại càng tức giận quát hỏi:
– Ngươi muốn sao? Chẳng lẽ ngươi không biết mình đã phạm đại tội? Ta cho ngươi sửa lỗi lầm, đem công chuộc tội. Đó là một cơ hội tốt nhất, ngươi còn muốn ra giá với ta nữa chăng ?
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Tâu Hoàng thượng! Bọn họ mấy lần muốn đến gia hại Hoàng thượng, nhưng nô tài liều chết ngăn cản. Thế là nô tài đối với Hoàng thượng, vẫn trọn bề nghĩa khí. Nay Hoàng thượng muốn bắt bọn họ mà nô tài cũng dính vào thì còn làm người thế nào được ? Nô tài đành năn nỉ Hoàng thượng thương cho nô tài được giữ trọn bề nghĩa khí.
Nhà Vua tức giận hỏi:
– Lòng ngươi vẩn hướng về phản tặc. Thế là bất phân thuận nghịch. Dưới mắt không biết đến bậc quân thượng mà còn dám nói chuyện nghĩa khí ư ?
Nhà Vua dừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Ngươi cứu mạng ta, lại giải cứu phụ hoàng cùng Thái hậu. Bữa nay ta giết ngươi, chắc ngươi không chịu tâm phục khẩu phục, bảo ta không giữ nghĩa khí với ngươi. Có đúng thế không ?
Đã đến bước đường này, Vi Tiểu Bảo đành liều tâu:
– Đúng thế! Trước kia Hoàng thượng đã hứa lời dù nô tài có làm điều lầm lỗi cũng tha mạng chọ Kim khẩu cỷa đức vạn tuế đã nói ra, dĩ nhiên không hối cãi nữa.
Vua Khang Hy nói:
– Được rồi! Không ngờ ngươi là kẻ thâm mưu viễn lự, đã phục s½n một nước cờ trước. Chà chà! ý niệm ngươi như vậy đáng giết lắm.
Từ ngày Vi Tiểu Bảo được biết Vua Khang Hy , gã chưa từng thấy nhà Vua nổi nóng với gã như bữa naỵ Gã lẩm bẩm:
– Cái đầu ta chẳng khác gì bị chặt một nửa rồi. Đối với ông Vua con này, giở giọng năn nỉ không ăn thua, phải nói lý với y mới được.
Gã liền tâu:
– Tâu Hoàng thượng ! Nô tài đã bái Hoàng thượng làm sư phụ và Hoàng thượng đã nhận lời thu nô tài làm đệ tử rồi. Hoàng thượng là sư phụ của nô tài. Ông Trần Cận Nam cũng là sư phụ của nô tài. Nếu nô tài đem lòng gia hại Hoàng thượng là phạm tội khi sư diệt tổ. Mặt khác… mặt khác Hoàng thượng chặt đầu nô tài chẳng có chi đáng kể, nhưng sư phụ mà chặt đầu đồ đệ thì lại có chỗ không ổn.
Vua Khang Hy nghĩ thầm:
– Sự thực ta có phát ngôn thu gã làm đồ đệ, nhưng chỉ là câu nói đùa. Không ngờ thằng nhỏ này ỷ mình được sủng ái mà sinh lòng kiêu căng, ăn nói không còn phép tắc gì nữa. Gã đưa một tên phỉ đồ ở Thiên Địa Hội lên ngang hàng với ta thì thật là hổn quá !
Nhà Vua vừa nghĩ tới đây, bỗng nghe văng vẳng có tiếng người huyên náo cùng tiếng binh khí choang choảng từ đằng xa vọng lại.
Vi Tiểu Bảo nhảy bổ lên nói:
– Dường như có thích khách. Thưa sư phụ! Xin sư phụ cứ ngồi yên, để đồ đệ ngăn chặn trước mình sư phụ.
Vua Khang Hy đằng hắng một tiếng, bụng bảo dạ:
– Thằng lỏi này dù có trăm ngàn tội lỗi nhưng gã đối với ta vẫn tỏ lòng trung ái.
Ngài liền bảo gã:
– Từ giờ trở đi ngươi không được kêu ta bằng sư phụ nữa. Ngươi không giữ lề luật của bản môn là ta đuổi ngươi ra khỏi cửa.
Nhà Vua nói tới đây không khỏi cười thầm.
Lại nghe tiếng bước chân vang lên. Mấy người chạy tới ngoài cửa điện rồi dừng bước.
Vi Tiểu Bảo tiến ra cửa cài then lại. Đây là phản ứng của gã trong lúc quan hệ tới tánh mạng, nên gã cử động tay chân mau lẹ phi thường. Miệng gã quát hỏi:
– Ai đó?
Người bên ngoài lớn tiếng hô:
– Khải bẩm Hoàng thượng! Trong cung đã phát giác ra hành tung ba tên thích khách. Đoàn túc vệ nội ban đã bao vây nghiêm mật, sắp bắt được chúng rồi.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:
– Rút cuộc ba người nhà họ Quy không trốn thoát được Gã lớn tiếng đáp:
– Biết rồi! Các ngươi phải tức tốc điều động thêm một trăm tên lính túc vệ đến canh gác mặt sau và mặt trước Dưỡng tâm điện. Trên nóc điện cũng phải có ba chục tên tên phòng thủ.
Tên thủ lĩnh bọn thị vệ dạ một tiếng rồi đi ngay.
Vua Khang Hy nghĩ bụng:
– Gã tính như vậy thật chu đáo. Ngày trước ở Ngũ Đài Sơn đã gặp nguy hiểm.
Mụ ni cô áo trắng từ trên nóc nhà phá ngói nhảy xuống. Thật khó nổi đề phòng.
May mà thằng nhỏ này liều lĩnh không nghĩ gì đến bản thân, gã đứng trước mình ta để ngăn chặn nhát kiếm. Tuy ta cùng gã đều mặc bảo y hộ thân, nhưng nếu nhát kiếm đó mà không đâm vào trước ngực, lại trúng vào mặt thì gã mất mạng rồi.
Sau một lúc, tiếng quát tháo nhỏ dần đi. Nhưng chẳng bao lâu tiếng binh khí chát chúa lại nổi lên.
Nhà Vua chau mày hỏi:
– Có ba tên thích khách mà không bắt được. Nếu chúng kéo đến ba trăm hay ba ngàn tên thì làm thế nào ?
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Hoàng thượng bất tất lo ngại. Những hạng người bản lãnh ghê gớm như Quy Tân Thụ trên đời chẳng có là bao, nhiều lắm chỉ đến năm sáu tên là cùng Sau một lúc nữa, lại nghe tiếng bước chân dồn dập và tiếng bao kiếm loảng xoảng. Bọn túc vệ nội ban đã được điều động đến bên ngoài điện.
Tiếp theo trên nóc điện và những nhà xung quanh đều phát ra tiếng động.
Đây là bọn túc vệ lên canh phòng trên nóc nhà.
Bọn vệ sĩ biết Hoàng đế hiện đang có mặt ở trong điện nên chỉ canh gác ở các góc và mái hiên, không dám lên giữa nóc điện. Chúng cố ý không dám đặt chân lên trên đầu Hoàng đế, mặc dù ngài ở bên trong, vì đó là điều đại bất kính.
Nhà Vua biết xung quanh điện Dưỡng tâm ít lắm cũng có bốn năm trăm tên túc vệ nội ban canh gác, chẳng có gì đáng lo ngại nữa. Ngài không lưu tâm đến vi.
thích khách, cất tiếng hỏi:
– Ngươi thử coi xem cái này là cái gì ?
Ngài rút trong tay áo ra một tờ giấy giải lên bàn.
Vi Tiểu Bảo lại gần ngó thì ra một bức họa. Giữa bức họa là một toà nhà lớn.
Phía trước nhà có cột cờ, có sư tử đá. Tòa nhà này rất giống Bá Tước phủ là chỗ ở của gã.
Bồn mặt tòa nhà đặt mười mấy cỗ súng lớn chõ vào tòa nhà.
Vi Tiểu Bảo càng coi kỹ càng nhận ra đúng là tòa Bá Tước phủ của gã.
Trên cổng lớn treo biển đề bốn chữ đại tự, nhưng gã chỉ nhận ra được chữ “Vi” mà thôi.
Nhà Vua hỏi:
– Ngươi đã nhận ra toà nhà này chưa ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Coi rất giống cái chuồng chó của nô tài.
Vua Khang Hy lại hỏi:
– Ngươi nhận ra là haỵ Bốn chữ “Vi Bá Tước phủ” ngươi trông rõ rồi chứ?
Vi Tiểu Bảo nghe nhà Vua nói đúng là nhà gã thì không khỏi bở vía, toan thân toát mồ hôi lạnh ngắt Gã nghĩ tới Hoàng đế đã sai người họa chỗ ở của mình thành đồ bàn như vậy là đại sự nguy rồi. Huống chi bốn mặt lại đặt nhiều sung lớn.
Chính mắt gã đã được coi hai tên quỉ ngoại quốc là Thang Nhược Vọng và Nam Hoài Nhân thao diễn tác xạ. Súng lớn nổ một phát khói bốc mịt trời, đất đá bắn tung cao lên mấy chục trượng. Như vậy dù gã có mặc đến trăm tấm bảo y hộ thân cũng bị nát ra nhu tương Gã nghĩ tới cảnh đại pháo oanh kích, bất giác người run bần bật.
Nhà Vua thủng thẳng nói:
– Đêm nay bọn Thiên Địa Hội các ngươi, Mộc gia ở Vân Nam, họ Quy ở phái Hoa Sơn, lại còn bọn Tư Đồ Hạc, môn hạ phái Vương ốc đều đến tụ hội trong toà Bá Tước phủ của ngươi. Ta đã cho đặt mười hai cỗ đại pháo ở trong các nhà dân xung quanh Bá Tước phủ. Đạn dược đã được nạp s½n sàng cả rồi. Chỉ cần mở cửa sổ để lộ họng sung, châm lửa vào ngòi thuốc thì e rằng không còn tên phản tặc nào thoát chết.
Ngài dừng lại một chút rồi tiếp:
– Dù đại pháo bắn không chết hết, có người trốn ra ngoài được thì mấy đội binh mã Hộ quân doanh bao vây bên ngoài, chẳng lẽ chúng ăn cơm chúa lại không làm việc nhà Vuạ Ngươi làm đô thống Kiêu Kỵ doanh, e rằng chúng không chịu buông tha ngươi.
Vi Tiểu Bảo cất tiếng run run đáp:
– Bất cứ việc gì Hoàng thượng đều tiên liệu được cả. Bây giờ Hoàng thượng nói rõ cho nô tài hay là đã có ý tha mạng cho nô tài rồi. Trước kia nô tài có lập được chút công lao nhỏ mọn nào thì ngày nay phải đem ra để đền tội. Thế là hết sạch sành sanh, chẳng còn thừa mảy may nào.
Nhà Vua mỉm cười nói:
– Ngươi biết rõ như vậy là khá đấy. Vụ này cũng tỷ như hai người chúng ta đánh bài cẩu. Ban đầu ngươi được rất nhiều tiền bạc thì bây giờ dốc túi đánh một bàn mà bị thất bại. Tiền của ngươi được trước phải nhả ra hết. Lúc này không còn ai thua được gì cả. Nếu chúng ta muốn chơi nữa thì kể như bắt đầu lại.
Vi Tiểu Bảo thở phào một cái tâu:
– Đa tạ Ơn điển của Hoàng thượng. Từ nay trở đi nô tài chỉ chuyên tâm làm tau sai cho Hoàng thượng. Đừng nói Thiên Địa Hội hay bất cứ tổ chức nào nô tài cũng không tham gia, mà cả cái chức Hương chủ gì gì đó nô tài cũng không làm nữa.
Gã bồn chồn trong dạ nghĩ thầm:
– Sư phụ ta cùng bọn họ đã ước định đêm nay đến hội họp ở nhà tạ Ta biết làm thế nào thông tri cho mọi người biết được?
Gã lại nói:
– Hoàng thượng sai nô tài đi bắt bọn phản tặc kia, bất quá là để thử lòng dạ nô tài. Thực ra Hoàng thượng thần cơ diệu toán đã tính hết rồi, ngồi ở trong cái gì mà quyết thắng ra ngoài ngàn dặm.
Bỗng nghe ngoài điện có tiếng người dõng dạc hô:
– Tâu Hoàng thượng ! Đã bắt được bọn phản tặc đưa tới.
Nhà Vua mặt rồng hớn hở, hô lớn:
– Đem chúng vào đây!
Vi Tiểu Bảo dạ ran một tiếng rồi xoay mình ra rút then mở cửa.
Mấy chục tên thị vệ áp giải ba người họ Quy tiến vào. Vi Tiểu Bảo lớn tiếng quát:
– Qùy xuống! Làm lễ triều kiến Hoàng thượng !
Mấy chục tên thị vệ nhất tề quì xuống.
Quy Tân Thụ, Quy nhị nương và Quy Chung, cả ba người máu thịt đầy mình vẫn hiên ngang đứng sững. Người nào cũng bị cột bằng dây thừng rất lớn và đều có hai thị vệ cầm đầu dây dẫn dắt.
Tên lãnh đội thị vệ quát:
– Qùi xuống! Qùi xuống!
Ba người nhà họ Quy chẳng nói gì. Chỉ nghe những tiếng lách tách trên điện.
Ba người nhà họ Quy và những thị vệ bi thương, máu tươi không ngớt nhỏ giọt.
Quy nhị nương tức giận trợn mắt lên nhìn Vi Tiểu Bảo quát:
– Tiểu Hán gian! Ngươi… ngươi là quân chó đẻ!
Vi Tiểu Bảo ngó thấy thảm trạng của ba người, trong lòng không khỏi bịn rịn.
Gã để mặc mụ thoá mạ, không tiện nói gì.
Vua Khang Hy lẩm nhẩm gật đầu hỏi:
– Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ té ra là lão này ư? Bên ta có bị tử thương nhiều không ?
Tên lãnh đội thị vệ đáp:
– Tâu Hoàng thượng ! Bọn phản tặc này rất hung hãn. Bên ta hơn ba mươi tên thị vệ chết vì chức vụ, hơn bốn chục tên bị thương.
Nhà Vua hừ một tiếng rồi vẫy tay.
Ngài khen thầm trong bụng:
– Bọn này giỏi thiệt!
Tên thủ lãnh sai bọn thủ hạ đem ba người ra.
Đột nhiên Quy Tân Thụ quát lên một tiếng thật tọ Hắn vận nội lực huých vai vào tên thị vệ bên cạnh. Tên này rú lên một tiếng “úi chao”. Người gã bị hất tung ra, đầu đập vào tường chết ngay lập tức.
Quy Tân Thụ nắm lấy sợi dây cột Quy Chung hết sức mình giựt mạnh một cái.
“Bục” một tiếng vang lên. Dây cột bị đứt rồi.
Lão lại nắm lấy người gã hô:
– Hài nhi chạy đi! Ta cùng má má ngươi sẽ theo sau.
Lão vừa nói vừa đẩy con một cái. Quy Chung từ cửa điện vọt ra.
Giữa lúc ấy vợ chồng Quy Tân Thụ nhảy xổ về phía Vua Khang Hy.
Bọn thị vệ sợ hết hồn, nhất tề xông vào hộ giá.
Vi Tiểu Bảo thấy có biến cố xẩy ra một cách đột ngột, gã giật mình kinh hãi, vội nhảy lên ôm lấy nhà Vua trằn mình lăn vào gầm bàn.
Bỗng nghe hai tiếng “chát chát” vang lên. Tiếp theo mấy tên thị vệ vội vàng nhảy xổ vào đỡ hai người lên.
Khi mọi người ngó tới vợ chồng Quy Tân Thụ thì thấy cả hai đều đã ngã lăn trong vũng máu. Trên lưng mỗi người đều cắm bảy tám thanh kiếm. Xem chừng không sống nổi nữa.
Nguyên Quy Tân Thụ cố gắng giết được mấy chục tên thị vệ người lão cũng bị trọng thương. Lão vận toàn lực cuối cùng giựt đứt sợi dây trói cho con trai xong rồi lập tức nhảy vọt về phía Vua Khang Hy.
Quy nhị nương hiểu ngay chỗ dụng ý của chồng. Một là nhân lúc lâm tử, lão liều mình gia hại vị Hoàng đế Thát Đát. Hai là để con nhân lúc hỗn loạn có thể chạy trốn được chăng?
Tay chân đều bị trói, không sao rẫy rụa cho đứt được, lại cố gắng nhất tề nhảy tới xung kích nhà Vua, nhưng đã sức cùng lực kiệt, khác nào ngọn đèn hết dầu. Hai người còn đang lơ lửng trên không, miệng hộc máu tươi ồng ộc, không còn chống đỡ được nữa phải té huỵch xuống đất. Dù bọn thị vệ không chạy lại đâm chém thì hai người cũng đã chết rồi.
Vua Khang Hy sau một phen kinh hồn, vừa bình tĩnh trở lại, ngài chau mày thúc giục:
– Kéo bọn chúng ra đi! Kéo bọn chúng ra đi!
Bọn thị vệ dạ ran, toan lôi hai xác chết ra ngoài thì đột nhiên ngoài cửa điện có bóng người thấp thoáng.
Một hán tử thân pháp cực ký thần tốc nhảy vọt vào ôm lấy thi thể vợ chồng Quy Tân Thụ, lớn tiếng hô hoán:
– Gia gia ! Má má !
Người này chính là Quy Chung.
Mấy tên thị vệ vung binh khí chém. tới tấp. Quy Chung không biết né tránh.
Bao nhiêu nhát dao kiếm đều đâm trúng vào người gã. Miệng gã không ngớt la:
– Má má ơi! Má má không đi theo thì hài nhi biết thế nào ? Hài nhi không nhận ra đường lối…
Gã ho luôn hai tiếng rối ngoẹo đầu mà chết.
Nguyên Quy Chung từ ngày lọt lòng mẹ suốt đời không dời mẫu thân nửa bước. Bất cứ việc gì cũng do mẫu thân an bài lo liệu. Bây giờ gã dời khỏi song thân, chân tay luống cuống chẳng biết cử động thế nào. Tuy gã đã trốn khỏi Dưỡng Tâm điện, nhưng sau phải chạy trở lại để nương tựa vào bên mình song thân.
Lại nghe tiếng bước chân trầm trọng từ ngoài điện đi vào. Đây là Thị vệ tổng quản Đa Long hốt hoảng chạy tới báo cáo.
Lão vừa vào điện liền quì xuống tâu:
– Tâu Hoàng thượng ! Bon thích khách trong cung… toàn bô… toàn bộ đã bị thanh toán Lão thấy máu đổ đầy mặt đất, trong long kinh hãi, dập đầu tâu:
– Thích khách làm kinh động thánh giá… nô tài… tội đáng muôn chết.
Nhà Vua vừa bị Vi Tiểu Bảo ôm lấy lăn đi coi rất thảm hại, mất cả vẻ tôn nghiêm, nhưng ngài nghĩ đến Vi Tiểu Bảo quả một lòng một dạ trung quân không còn nghi ngờ gì nữa, liền nhìn Đa Long nói:
– Bên ngoài còn có người muốn hành thích Tiểu Quế Tử, ngươi phải chiếu cố cho y một cách thận trọng, không được dời y nửa bước, nhất là đừng để y ra khỏi Hoàng cung. Sáng sớm mai các ngươi phải chời đợi hễ thấy ta có dụ tuyên triệu là phải đến ngay.
Đa Long vội tâu:
– Dạ dạ! Nô tài xin tận tâm tận lực bảo vệ cho Vi Đô thống được an toàn.
Vi Tiểu Bảo trong lòng nóng nẩy nghĩ thầm:
– Đêm nay Hoàng thượng nổ sung oanh kích Thiên Địa Hội, ngài sợ ta báo tin ra ngoài nên dặn Đa Long canh giữ ta, biết làm thế nào ?
Vua Khang Hy ra tới cửa điện lại nghĩ thầm:
– Tiểu Quế Tử xảo quyệt vô cùng! Còn Đa Long thành thực thô lỗ, không phải là đồi thủ của gã.
Ngài liền quay lại dặn:
– Ngươi phải phái người theo sát Tiểu Quế Tử, đừng để y nói chuyện với ai và cũng đừng cho y đưa mắt một thứ gì ra khỏi Hoàng cung. Nói tóm lại bữa nay thật là nguy hiểm, ngươi cứ coi y như một tên khâm phạm mới được.
Đa Long đáp:
– Dạ dạ! Hoàng thượng đối với kẻ thần hạ thật châu đáo không để sơ hở chút nào.
Hồi 208
Hỏa siêu đấu trường để dấu đưa tin
Đa Long cho là Hoàng thượng quá thương Vi Tiểu Bảo không dành cho thích khách một cơ hội nào gia hại được gã.
Vi Tiểu Bảo cũng dập đầu tâu:
– Nô tài dù tan xương nát thịt cũng không đủ báo đáp ơn đức của Hoàng thượng trong muôn một.
Gã biết rõ sở dĩ Hoàng thượng dặn dò Đa Long như vậy là muốn giữ thể diện cho gã sau này còn có chỗ dùng tới gã.
Nhà Vua mỉm cười phán:
– Ngươi lại thắng ta một bàn nữa. Bắt đầu từ sáng mai chúng ta lại khởi cuộc đánh bạc. Ngươi nên nhớ cái chén cơm bằng vàng phải giữ cho chắc, đừng để rớt bể.
Dứt lời ngài ra khỏi điện.
Nhà Vua nói hai câu sau dĩ nhiên chỉ có một mình Vi Tiểu Bảo hiểu rõ. Vừa rồi gã ôm Vua cứu giá và được nhà Vua coi là một công lớn. Đêm nay ngài hạ sát xong bọn Trần Cận Nam là gã không còn dính líu gì đến Thiên Địa Hội nữa và lại được Hoàng đế trọng dụng như trước.
Trên cái chén cơm bằng vàng kia có khắc bốn chữ “Gia quan tiến tước”. Thế là Hoàng thượng đã tha tội khi quân mà còn hứa hẹn sẽ thăng quan cho gã là đằng khác.
Nhưng Vi Tiểu Bảo nghĩ tới đêm nay sư phụ cùng anh em Thiên Địa Hội lâm vào thảm trạng máu rơi thịt nát tan tành mà gã được gia quan tiến tước, lòng càng áy náy vô cùng! Miệng gã lẩm bẩm:
– Làm người mà không biết điều nghĩa khí thì là giống rùa đen hay quân chó đẻ.
Đa Long thấy Vi Tiểu Bảo mặt buồn rười rượi, liền vỗ vai gã vừa cười vừa tìm lời an ủi. Lão nói:
– Vi huynh đệ! Hoàng thượng sủng ái như vậy quả là huynh đệ đã khéo tu từ mấy kiếp trước nên nay mới được hưởng phước khí. Trong triều bất luận nhân vật cao cấp nào, từ Thân Vương quốc thích đến tướng quân đại thần, Hoàng thượng chưa bao giờ phái Ngự tiền thị vệ bảo hộ chọ Ai cũng bảo Vi Đô thống chưa đầy hai mươi tuổi mà đã có thể được phong tước Công, tước Vương. Huynh đệ bất tất phải lo ngại điều chi, chỉ cần ở luôn trong cung đừng ra ngoài một bước thì phản tặc có thiên binh vạn mã cũng không đụng được đến một sợi lông chân của huynh đệ.
Vi Tiểu Bảo nhăn nhó đáp:
– Chúng ta là phận nô tài chẳng cần phải suy nghĩ chi hết, chỉ tận tâm kiệt lực báo đáp Hoàng ân là đủ.
Gã thấy mấy chục tên thị vệ đứng vây quanh mình liền nghĩ tới vụ báo tin cho anh em Thiên Địa Hội thực khó khăn vô cùng.
Bất giác gã lẩm bẩm:
– Hoàng thân quốc thích, tướng quân đại thần gì gì lão gia cũng không muốn làm. Chẳng thà tiểu Hoàng đế đá đít lão gia một cái và quát bảo:
cút con mẹ nó đi! Quân chó đẻ này! Từ đây đừng hòng thấy mặt ta nữa còn hay hơn, chứ bảo vệ kiểu này thì chẳng khác gì nắm giữ tính mạng của lão gia trong tay.
Đa Long hỏi:
– Vi huynh đệ! Hoàng thượng dặn lão huynh đệ đừng có tự ý đi bừa bãi. Bây giờ huynh đệ muốn về chỗ ở trước nghỉ ngơi hay là đến chơi phòng thị vệ? Anh em ở đó đều muốn bồi tiếp huynh đệ một canh bạc được chăng ?
Lão biết tính Vi Tiểu Bảo thích đánh bạc. Gieo xúc xắc hay đánh bài cẩu là những môn sở trường của gã.
Vi Tiểu Bảo chợt động tâm cơ, liền đáp:
– Thái hậu dặn tiểu đệ phải làm ngay một việc khẩn yếu, không thể chậm trễ được , mời Đa đại ca cùng đi với tiểu đệ.
Đa Long ra chiều khó nghĩ nói:
– Thái hậu đã giao phó công việc thì dĩ nhiên chúng ta phải lập tức thi hành.
Nhưng Hoàng thượng đã ra nghiêm chỉ bảo Vi huynh đệ không được ra khỏi Hoàng cung.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Đây là việc làm ngay ở trong cung. Đa đại ca bất tất phải quan tâm.
Đa Long vững dạ cười nói:
– Chỉ cần Vi huynh đệ đừng ra ngoài Hoàng cung, còn thì tha hồ muốn làm gì cũng được, có thể nói là bách vô cấm kỵ.
Vi Tiểu Bảo liền sai bọn thị vệ khiêng cỗ loan kiệu của Thái phi ra Hỏa Siêu trường ở phía Tây cửa Thần Võ. Gã còn dặn:
– Ai mà mở rèm cửa là ta chém đầu lập tức. Đây là chỉ dụ khẩn của Thái hậu.
Vụ thích khác tập kích loan kiệu của Thái phi, Đa Long cùng bọn thị vệ đều biết hết. Tuy họ không hiểu rõ chân tướng nội vụ nhưng đều cho là một việc bí ẩn của Thái hậu, trong lòng vẫn hồi hộp không yên.
Bây giờ nghe Vi Tiểu Bảo nói khiêng kiệu ra Hỏa Siêu Trường để đốt đi, tức là trút bỏ được một mầm họa lớn. Ai cũng cảm thấy tựa hồ trút bỏ khối đá nặng đeo ở trong lòng.
Đa Long liền đi theo Vi Tiểu Bảo áp giải cổ kiệu ra Hỏa Siêu Trường. Dọc đường, máu từ trong kiệu vẫn còn nhỏ giọt.
Đến Hỏa Siêu Trường, đoàn thị vệ hạ kiệu xuống. Chúng xếp củi bốn mặt kiệu rồi phóng hỏa.
Bọn Đa Long biết trong kiệu có xác chết liền đoán là Thái hậu bí mật xử tư?
một vị phi tần nào đó. Việc này xảy ra rất thông thường trong cung, nên không ai dám hỏi nhiều.
Vi Tiểu Bảo lượm một cành cây, lại lấy một cục than vẽ hình con sẻ vào. Hai tay gã cầm cành cây nhìn cỗ kiệu lâm râm khấn vái:
– Cao Tôn Giả! Mụ điếm già! Hai vị Ở trên đời không lấy được nhau thì xuống âm cung mà làm vợ chồng hàng ngàn hàng vạn năm. Hung thủ hạ sát hai vị là ba người nhà họ Quy thì họ cùng chết cả rồi. Hai vi đi trước một bước, bọn kia theo gót tới ngaỵ Giả tỷ các vị gặp nhau ở trên cầu hay vọng hương đài thì cứ việc quấn quít nhau đi!
Bọn Đa Long thấy Vi Tiểu Bảo máy môi đều đoán là gã cầu chúc cho âm hồn người quá cố được chóng siêu sinh tĩnh độ.
Mọi người lại thấy gã lượm đá xếp thành một đống nhỏ rồi cầm cành cây cắm vào, tựa hồ như một nén hương, chẳng ai hiểu đây là kí hiệu gã vẫn dùng để đưa tin tức cho Đào Hồng Anh.
Cỗ kiệu và xác chết cháy thành than rồi, Vi Tiểu Bảo liền về chỗ ở của gã ngày trước. Nơi đây đã được bọn thái giám hầu hạ gã đến quét tước sạch sẽ và đem rượu cùng đồ điểm tâm vào.
Vi Tiểu Bảo thưởng tiền cho bọn này rồi cùng Đa Long và bọn thị vệ ăn uống.
Vi Tiểu Bảo nhìn Đa Long nói:
– Đa đại ca! Các vị hãy ngồi chơi thong thả, tiểu đệ hôm qua phục vụ bên mình Hoàng thượng suốt đêm thực tình bây giờ mệt lắm rồi.
Đa Long đáp:
– Vi huynh đệ bất tất phải khách sáo. Cứ việc tùy tiện đi ngủ cho lại sức. Ca ca bảo giá cho huynh đệ Vi Tiểu Bảo nói:
– Cả ngàn vạn lần tiểu đệ không dám lãnh thụ lời nói của đại ca Rồi gả hỏi:
– Đa đại ca! Đại ca muốn được Hoàng thượng thưởng thứ gì cứ nói ra tiểu đệ xin ghi vào lòng hễ gặp lúc Hoàng thượng cao hứng tiểu đệ sẽ thỉnh cầu giúp cho mười phần chắc đến tám có thể sẽ thành công.
Đa Long cả mừng đáp:
– Vi huynh đệ vui lòng thỉnh cầu Hoàng thượng cho thì khi nào lại chẳng thành công ?
Vi Tiểu Bảo nói:
– Việc của Đa đại ca cũng như là việc của đệ có lý nào lại không gắng sức hết lòng Đa Long cười nói:
– Tiểu huynh làm đương sai trong kinh đã lâu ngày thấy thường qua rồi, muốn ra ngoài tỉnh cho biết mùi.
Vi Tiểu Bảo vỗ đùi đánh đét một cái, vừa cười vừa đáp:
– Đại ca nói đúng lắm! Mình phục vụ trong kinh, trên đầu còn không biết bao nhiêu vương công, đại thần thì làm sao mà oai phong lẫm liệt được? Cứ ra khỏi kinh thành là tha hổ tự do, thỏa thích, chẳng phải e dè điều chi nữa. Mình chỉ cần đưa ra mấy lạng bạc là khẽ ho một tiếng đã có bao nhiêu người khúm núm hầu hạ, muốn làm trời làm đất gì cũng được.
Hai người trông nhau cả cười.
Vi Tiểu Bảo về phòng mình rồi, ngồi phệt xuống giường nghĩ bụng:
– Đa Long đã được chỉ ý của Hoàng thượng truyền cho phải coi sóc ta, vậy ta muốn ra ngoài đưa tin cho sư phụ thật khó khăn vô cùng! Ta đành chờ Đào cô tới đây, nhờ cô cô đưa tin là tiện nhất. Nhưng chỉ sợ cô cô đến chậm quá, giả ty?
nửa đêm cô cô mới tới đây thì đại pháo đã oanh kích rồi, biết làm thế nào?
Gã ngồi xuất thần ngẫm nghĩ, miệng lẩm bẩm:
– Bây giờ đành phải phái thị vệ dùng cách rút mây động rừng.
Gã quyết định chủ ý rồi, nhắm mắt ngủ đi hồi lâu. Lúc gã tỉnh dậy thì mặt trời đã xế về Tây. Gã ra khỏi phòng nhìn Đa Long hỏi:
– Đa đại ca! Đại ca có biết bọn phản tặc định hạ thủ tiểu đệ lai lịch thế nào không ?
Đa Long đáp:
– Cái đó thì tiểu huynh không thể biết được.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Một toán người là Thiên Địa Hội , một là bọn người ở Mộc vương phủ.
Đa Long thè lưỡi ra nói:
– Hai bọn phản tặc này lợi hại phi thường! Trách nào Hoàng đế chẳng quan tâm như vậy.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Tiểu đệ nghĩ rằng mình lẫn tránh trong cung một vài ngày thì chưa được, chứ chẳng thể lẫn tránh suốt đời. Bữa nay tuy có đại ca bảo vệ, nhưng không trừ tiệt bọn phản tặc thì mối hậu hoa. còn ngấp nghé chẳng biết bao giờ cho hết.
Đa Long đáp:
– Đức Hoàng thượng đã bảo sáng mai ngài tuyên triệu vào yết giá, tất là ngài sẽ có mưu kế tuyệt diệu. Vi huynh đệ bất tất phải lo lắng.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Dạ dạ! Chẳng dấu gì đại ca, trong nhà tiểu đệ có mấy cô chiêu nguyệt thẹn hoa nhường. Tiểu đệ rất thương yêu chúng. Đêm nay bọn phản tặc đến hành thích, bọn chúng không gia hại được tiểu đệ, nhưng chắc chúng sẽ giết hết mấy cô chiêu kia thì thật là… đáng tiếc và đáng hận.
Đa Long mỉm cười gật đầu mấy cái. Lão nghĩ tới cái ngày trước Vi Tiểu Bảo đã nhờ lão làm oai làm phước để hành hạ Trịnh Khắc Sảng chỉ vì một tiểu mỹ nhân. Gã này tuy nhỏ tuổi nhưng quen tính phong lưu hiếu sắc. Trong nhà gã nhất định đã thu nạp khá nhiều cơ thiếp xinh đẹp.
Lão nghĩ vậy liền đáp:
– Cái đó dể lắm! Tiểu huynh phái người đến canh gác phủ đệ của Vi huynh đệ là yên.
Vi Tiểu Bảo cả mừng chắp tay tạ Ơn nói:
– Trong những cô chiêu ở tệ phủ tiểu đệ thương yêu nhất là là ba ả. Một a?
tên gọi Song Nhi, một gã tên gọi Tăng Nhu, còn một gã tên gọi Kiếm Bình.
Gã không dám nói rõ Mộc Kiếm Bình vì họ Mộc có thể khiến lão sinh lòng ngờ vực.
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
– Ba ả này xinh đẹp lắm, tiểu đệ chẳng yên tâm chút nào. Vậy nhờ huynh phái người đến bảo vệ và đưa tin cho họ biết đêm nay có bọn Thiên Địa Hội cùng Mộc gia đến hành thích vậy họ phải trốn thật lẹ. Hay hơn hết là đại ca phái nhiều người đến canh gác. Hễ thấy bọn thích khách vào thì tóm cổ con bà nó ca?
lũ đi. Người anh em nào xuất lực nhiều nhất sẽ được trọng thưởng xứng đáng.
Đa Long vỗ ngực cười đáp:
– Vụ này dễ lắm! Đã đến phục vụ tại Vi Bá Tước phủ thì còn tên nào là không hết sức ?
Lão liền sai tên lãnh đội thị đi phái người đến canh gác.
Bọn thị vệ đều biết Vi Tiểu Bảo là tay hào phóng. Ngày thường chẳng có việc gì gã cũng thưởng tiền hàng bảy tám trăm hay một ngàn bạc như không. Lần này chúng đi bảo vệ bọn cơ thiếp sủng ái của gã thì nhất định phần thưởng càng trọng hậu.
Những tên được phái đi đều hân hoan vâng lệnh. Kẻ nào không được sai phái đều thở dài sườn sượt, tự than mình vận khí hẩm hiu.
Vi Tiểu Bảo đã hơi yên dạ, gã tính thầm:
– Bọn Song Nhi nghe lời báo tin của thị vệ, lại thấy trong cung phái người đến canh gác, tất hiểu rõ là để tróc nã bọn thích khách người Thiên Địa Hội và Mộc Vương phủ. Dĩ nhiên họ sẽ thông tin cho sư phụ ta và anh em trốn tránh.
Bất giác gã lẩm bẩm:
– Nếu sư phụ và anh em trốn tránh rồi, nhưng còn Song Nhi, Tăng cô nương, Tiểu quận chúa ba người đó bị đại pháo bắn chết cũng là hỏng bét! Có điều một đội ngự tiền thị vệ vẫn ở trong nhà ta thì những tay pháo thủ ở ngoài nhất định không khai hỏa một cách bừa bãi.
Sau gã tự hỏi:
– Nếu Hoàng đế ra nghiêm lệnh cho bọn pháo thủ, tất cả chẳng e dè gì nữa, cứ đúng giờ phát xạ thì làm thế nào ?
Vi Tiểu Bảo tiếp tục theo đuổi ý nghĩ:
– Tiểu quận chúa và Tăng Nhu có phải chết cũng đành, nhưng Song Nhi đối với ta tình thâm nghĩa trọng, quyết chẳng thể để uổng mạng. Nhưng nếu ta bảo thi.
vệ đón Song Nhi ra ngoài thì còn ai báo tin cho sư phụ cùng anh em Thiên Địa Hội. Cái đó mới rầy rà. Ta chỉ cứu một mình Song Nhi mà không giải cứu sư phụ và các anh em là mình trọng sắc khinh bạn, thành quân chó đẻ, loại rùa đen, chứ không phải giống người.
Gã ở trong phòng bước vòng quanh suy nghĩ cực khổ mà không tìm được diệu kế gì.
Sau hơn nửa giờ, tên lãnh đội thị vệ dẫn nhân thủ đến Bá Tước phủ trở về báo:
– Bọn thuộc hạ chưa tới gần Bá Tước phủ liền bị đội quân ở Tiền Phong doanh cản lại, Người lãnh đội Tiền Phong cho tin ra là họ vâng chỉ của đức Hoàng thượng tới bảo vệ Bá Tước phủ, không phiền đến các vị thị vệ đại nhân. Bọn nô tài muốn tiến vào phủ tìm nội quyến, đội Tiền Phong doanh cũng nhất định cản trở không chọ Họ còn bảo đức Hoàng thượng đã an bài đâu ra đấy.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
– Về sau chính lãnh đội Tiền Phong doanh đứng ra cản trở, bọn nô tài không làm sao được đành phải trở về bẩm báo.
Vi Tiểu Bảo nghe nói trống ngực đánh hơn trống làng, vẻ bồn chồn lộ ra ngoài mặt.
Đa Long an ủi gã:
– Vi huynh đệ! Hoàng thượng đã đối xử với huynh đệ thật là chu đáo. Ngài đã phái đội Tiền Phong doanh đến bảo vệ các tiểu mỹ nhân cho huynh đệ rồi.
Hà tất phải lo âu ? ha ha !
Vi Tiểu Bảo đành bật cười mấy tiếng khô khan để đáp lại, nhưng gã nghĩ thầm trong bụng:
– Tiểu Hoàng đế ngồi trong cái gì đó có thể quyết đoán ra ngoài ngàn dặm.
Phen này sư phụ cùng anh em ta bị đại họa tới nơi rồi. Nhất định bọn Tiền Phong doanh đã vâng nghiêm chỉ của nhà Vua đến canh gác khắp nơi trong Bá Tước phu?
của tạ Chúng thấy hạng bách tính tầm thường mới cho vào để đêm nay bắn chết.
Còn hạng văn võ quan viên nhất thiết đều bị chặn lại.
Vi Tiểu Bảo lại nghĩ tiếp:
– Một mình Đa Long ở đây dù ta không đánh nổi y, nhưng đột nhiên phóng môn ám khí “Hàm sa xạ ảnh” thì kết quả tính mệnh y chẳng khó khăn gì. Nhưng còn bao nhiêu thị vệ, làm thế nào mà giết hết bọn chúng được ? Đáng tiếc là gói mông hãn dược ta đã dùng hết khi vào Trang gia rồi.
Gã ngó mặt trời mỗi lúc một thấp, ruột gan bối rối hồi hộp chẳng khác gì kiến bò trên nồi rang. Toàn thân gã nóng như thiêu như đốt mà chẳng nghĩ ra được quyết định nào.
Một giờ nữa trôi qua, nhật quang tối dần lại.
Vi Tiểu Bảo mở cửa sổ nhìn ra ngoài thấy bảy tám tên thị vệ bước lui rồi lại bước tới, canh giữ cực kì nghiêm mật.
Gã nhìn ngang nhìn ngửa vẫn chẳng thấy bóng vía Đào Hồng Anh đâu, bất giác buông tiếng thở dài ngồi thừ xuống cạnh giường, miệng lẩm bẩm:
– Chỉ sợ lúc này đã có nhiều bằng hữu trà trộn vào Bá Tước phủ rồi. Mình chậm một khắc là anh em lên đường tiến về âm phủ dần một bước.
Bỗng gã ngó thấy trong góc nhà có lu nước lớn. Lu nước này đặt ở đây từ hồi còn Hải Đại Phú. Ngày đó gã nhờ có lu nước mà giết được Thụy Đống.
Gã chợt động tâm cơ, tự nhủ:
– Sao ta không gạt Đa Long tiến vào phòng phóng ám khí giết rồi phóng hỏa lên? Đa đại ca đối với ta rất tử tế. Nếu không có chuyện gì thì chẳng khi nào ta hại mạng ỵ Bây giờ ta đối với y thế này quả có điều tội lỗi. Nhưng tánh mạng sư phụ và hàng trăm anh em ta dĩ nhiên là phải coi trọng hơn tính mạng một mình y.
Gã suy nghĩ hồi lâu quyết định chủ ý rồi liền quẹt lửa thắp đèn lên và tính thầm trong bụng:
– Màn mùng là một vật bắt lửa nhanh nhất. Sau khi hạ sát Đa Long, ta phải châm lửa đốt mùng.
Giữa lúc ấy bỗng nghe tiếng Đa Long ở phòng ngoài la gọi:
– Vi huynh đệ! Cơm rượu đã dọn rồi. Mời huynh đệ ra ăn uống Vi Tiểu Bảo đáp:
– Anh em mình ăn cơm trong phòng khách!
Đa Long đáp:
– Thế cũng hay Rồi lão bảo thái giám đưa cơm rượu vào phòng.
Tên thái giám này mới mươi lăm tuổi. Hắn bưng mâm vào phòng nhìn Vi Tiểu Bảo ngỏ lời vãn an rồi mở lồng bàn bày cơm rượu ra.
Vi Tiểu Bảo trong đầu óc chợt lóe lên một tia sáng. Hắn chợt nghĩ ra điều gì, liền nói:
– Ông bạn đừng ra ngoài nữa, ở trong này uống rượu với ta.
Tên tiểu thái giám mừng rỡ khôn xiết. Y đã biết Vi Bá Tước trước kia đứng đầu phòng ngự thiện, đối với người dưới rất tốt lại đầy lòng nhân từ khoan hậu.
Bây giờ y được ngồi bồi rượu là một điều sung sướng. Y hý hửng lại so đũa bày chén.
Đa Long đã theo vào phòng. Lão cười nói:
– Vi huynh đệ! Huynh đệ không còn làm đương sai ở trong cung mà Hoàng thượng vẫn không triệt bỏ căn nhà này là ngài thương mến huynh đệ lắm đấy. Ca?
những bậc Hoàng thân quốc thích cũng không được ngài ưu đãi đến như vậy.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Hoàng thượng ưu đãi hay không , tiểu đệ cũng chẳng biết. Có điều hàng ngày ngài bận trăm công ngàn việc quốc gia đại sự thì còn hơi đâu mà để ý đến những chuyện nhỏ nhặt?
Gã dừng lại rồi tiếp:
– Nói bằng sự thực thì tiểu đệ có ở chỗ này cũng chẳng hợp lệ chút nào
Hồi 209
Cùng công chúa trốn khỏi hoàng cung
Đa Long cười đáp:
– Người khác chẳng hợp thức thì không được còn Vi huynh thì tha hồ.
Lão biết tổng quản thái giám ở trong cung muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo, không để ai ra vào gian phòng này. Trong cung thiếu gì phòng ở. Gian phòng của Hải Đại Phú đây chẳng có chi tốt đẹp. Tên thái giám của phòng Ngự thiện dĩ nhiên có chỗ ở khác.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Đại ca không nhắc tới thì tiểu đệ cơ hồ quên b½ng. Sáng mai nên thông tri cho Tổng quản thái giám dọn dẹp căn phòng này đi. Chúng ta la ngoại thần lại ở trong cung để ngự sử đại nhân phát hiện ra, lão làm bản tấu lên Hoàng thượng thi nguy đấy chứ không phải chuyện đùa.
Đa Long đáp:
– Vi huynh đệ được Hoàng thượng rất thương mến thì còn ai làm gì được nữa!
Vi Tiểu Bảo nói:
– Mời đại ca hãy ngồi xuống đây. Gian phòng này chẳng có vẻ tốt đẹp nhưng tiểu đệ đã ở đây lâu ngày quen mất rồi, cảm thấy ấm cúng hơn cả phủ Bá Tước ở bên ngoài.
Gã từ từ tiến lại phía sau Đa Long rút dao truỷ thúy ra cầm tay rồi cười nói:
– Tám món ăn này đều là nhưng thức tiểu đệ rất ưa dùng. Bọn trù phòng vẫn nhớ nên nay họ lại sắp cho tiểu đệ ăn. Đại ca thử nếm món Giải phấn sư tử đầu này xem thế nào?
Đa Long đáp:
– Món ăn mà Vi huynh đệ đã ưa dùng thì nhất định là…
Lão chưa nói dứt lời đột nhiên trái tim đau nhói rồi gục xuống bàn không cử động nữa.
Nguyên Vi Tiểu Bảo đã cầm trủy thủ nhằm trúng hậu tâm lão đâm sâu vào.
Lưỡi dao xuyên thấu tâm tạng. Lão chết ngay lập tức ma không kịp rú lên một tiếng.
Nhát dao sát nhân này không một tiếng động nên tên thái giám tuyệt không hay biết, gã vẫn tiếp tục rót rượu vào chung.
Vi Tiểu Bảo lại quanh ra phía sau hắn, nhẹ nhàng phóng dao trủy thủ đâm chết.
Vi Tiểu Bảo giết hai người xong lập tức xoay mình cài then đóng cửa lại. Gã động thủ rất mau cởi bỏ quần áo giày mũ ra, chỉ để lại một cái quần xà lỏn và tấm bảo y hộ thân. Gã lại cởi áo mũ của tiểu thái giám mặc vào cho mình. Còn quần áo của mình gã đem mặc cho tiểu thái giám. Hai người thân thế tượng tự như nhau nên quần áo rất vừa vặn.
Vi Tiểu Bảo lại ôm thi thể thái giám đặt lên ghế ngồi. Đoạn gã cầm trủy thủ rạch nát mặt hắn, để không ai nhìn rõ ngũ quan được nữa.
Vi Tiểu Bảo vừa động thủ vừa lẩm bẩm:
– Đa đại ca! Bữa nay tiểu đệ giết đại ca, thực trong lòng hối hận vô cùng.
Còn may ở chỗ đằng nào đại ca cũng chết. Đêm nay tiểu đệ trốn đi, sáng mai Hoàng thượng nhất định sẽ chém đầu đại cạ Thế là đại ca chỉ chết sớm mất nửa ngày, chẳng lỗ gì mấy. Huống chi tiểu đệ giết đại ca tức là đại ca chết về công vu.
chỉ thiệt mạng có một mình. Nếu để Hoàng thượng chặt đầu thì bao nhiêu gia sản đại ca đều bị liên lụy. Sao bằng chết sớm nửa ngày đổi lấy tiền phủ tuất cho gia đình. Nếu đem bàn toán ra mà tính thì tiểu đệ làm như vậy tức là đã giao rất nhiều tiện nghi cho đại ca rồi đó.
Miệng gã nói như vậy, trong lòng cảm thấy mình giúp đở cho Đa Long rất nhiều, nên chẳng ân hận gì nữa.
Gã lại nhìn thi thể tiểu thái giám tự nhủ:
– Vị tiểu huynh đệ này mình mặc áo choàng màu vàng trông giống ta gớm.
Chính ta tiểu huynh đẹ có đi đầu thai mười kiếp nữa cũng chưa được khoác áo choàng màu vàng, đầu đội mũ Bá Tước đại nhân. Nguyên mấy viên hồng ngọc bảo thạch quí giá kia đã đủ cho huynh đài xài bảy tám đời không hết. Ha ha! Thế là huynh đệ được một phen thăng quan phát tài rồi, hưởng thụ phúc phần nhiều lắm.
Gã dừng lại một chút rồi lẩm bẩm:
– Vi Tiểu Bảo này ngày trước mạo xưng Tiểu Quế Tử rồi tiền trình viễn đại được gia phong quan lớn, bữa nay tiểu huynh mạo xưng Vi Tiểu Bảo, mai sau tiền trình có tiến triển hay không là tùy ở bản lãnh của huynh đệ đó.
Gã lại tự suy nghĩ:
– Ngày trước ta mạo xưng tiểu thái giám thì bữa nay một tiểu thái giám khác mạo xưng mình. Thế là có vay có trả, thanh toán xong xuôi, chẳng còn nợ nần gì nữa.
Gã chợt nhớ tới nhà Vua liền lẩm bẩm:
– Tiểu Huyền Tử hỡi Tiểu Huyền Tử. Ta đối với bạn vẫn một lòng thủy chung, chẳng có điều chi phải hổ thẹn.
Gã cảm thấy yên tâm, liền vuốt quần áo lại cho ngay ngắn và nhận ra không còn chỗ nào sơ hở, liền lớn tiếng hô:
– Tiểu ca nhi! Ngươi ra đi! Trong này không cần ngươi phải hầu chầu nữa. Đây ta thưởng cho ngươi năm lạng bạc để ngươi mua lấy bánh kẹo mà ăn.
Đoạn gã cất giọng hàm hồ nói:
– Đa tạ Bá tước đại nhân.
Vi Tiểu Bảo lớn tiếng hơn:
– Ta cùng Đa tổng quản uống rượu trong này, nói chuyện tâm sự, cấm không ai được vào quấy nhiễu.
ở trong cung bọn thái giám chuyên việc hầu hạ Hoàng đế , Hoàng hậu, Phi tần, Hoàng tử và Công chúa. Nhưng những tên thái giám có chức vụ đặc biệt cũng được bọn tiểu thái giám hầu hạ. Thể lệ trong cung trước nay đều như vậy.
Vi Tiểu Bảo tuy hiện thời không làm thái giám nữa, nhưng ngày trước gã cũng là một tên thái giám lừng lẫy oai danh ở trong cung, nên gã lấy một thái giám để hầu hạ và thưởng tiền cho hắn là một chuyện rất tầm thường. Bọn thị vệ Ở ngoài cửa nghe thấy câu chuyện đối thoại vừa qua, cũng chẳng ai để ý đến.
Bỗng cửa phòng kẹt mở, Một tiểu thái giám bưng mâm cơm ra ngoài cúi đầu, xoay tay khép cửa lại.
Vi Tiểu Bảo tay bưng mâm cơm cúi đầu xuống qua khỏi cửa phòng. Bọn thi.
vệ đang cùng nhau ăn cơm uống rượu , không ai để ý cả.
Vi Tiểu Bảo mừng thầm trong bụng:
– Bọn cận vệ này ít ra cũng sau một giờ mới phát giác trong phòng có hay người chết. Chúng sẽ cho là Vi Bá Tước cùng Đa Tổng quản bị thích khách đâm chết và chúng phải một phen khiếp sợ đến té đái vãi phân.
Khi Vi Tiểu Bảo bước chân ra cổng lớn thì đột nhiên thấy mấy tên cung nữ cùng thái giám cầm đèn lồng đi trước dẫn đường. Phía sau la một bọn khiêng cỗ kiệu đi tới.
Tên thái giám đi đầu lớn tiếng hô:
– Đại giá công chúa đến!
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi nghĩ thầm:
– Công chúa sao lại không đến sớm cũng không đến muộn hơn mà lại đến ngay giữa lúc này. Thị vào phòng dòm ngó thấy Vi Tiểu Bảo bị người đâm chết thì trong cung lập tức náo loạn. Ta trốn đi khó khăn vô cùng.
Trong lúc nhất thời gã chân tay luống cuống không biết làm thế nào. Bỗng thấy cỗ kiệu dừng lại. Kiến Ninh công chúa vừa ở trong kiệu bước ra đã lớn tiếng hỏi:
– Tiểu Quế Tử có ở trong đó không ?
Vi Tiểu Bảo đâm liều đứng trước mặt nàng, cúi đầu đáp:
– Vi Tước gia uống rượu say quá, nô tài xin dẫn công chúa vào.
ánh đèn lồng không soi được tỏ dạng, công chúa không nhận ra gã là ai.
Nàng thấy bọn thị vệ Ở trong nhà hối hả chạy ra nghênh tiếp, bất giác tự hỏi:
– Ở đây làm gì mà đông người thế?
Nàng chau mày khoát tay ra lệnh:
– Các ngươi ở cả bên ngoài chờ đợi Nàng khoa chân bước vào, Vi Tiểu Bảo cũng theo sau Gã vào nhà rồi cài then cửa lại Công chúa bảo gã :
– Cả ngươi cũng ra ngoài kia!
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Dạ Vi Tước gia ở phòng trong Công chúa bước lẹ tới đẩy cửa phòng tiến vào thì thấy Vi Tiểu Bảo giả và Đa Long ngồi gục xuống bàn như người say khướt.
Nàng chau mày quát hỏi:
– Ngươi còn chưa ra ư?
Vi Tiểu Bảo cười nhẹ khẽ đáp:
– Nô tài mà ra ngoài sẽ bị đốt như quân đằng giáp!
Công chúa giật mình quay đầu nhìn lại. Dưới ánh đèn sáng nàng nhìn rõ Vi Tiểu Bảo đứng đằng sau không khỏi vừa kinh ngạc vừa mừng thầm bật tiếng “ô hay” rồi lắp bắp hỏi:
– Ngươi…. ngươi làm trò gì thế này?
Vi Tiểu Bảo khẽ đáp:
– Xin công chúa đừng lên tiếng Công chúa hết nhìn hắn rồi lại ngó gã Vi Tiểu Bảo ngồi gục xuống bàn khẽ hỏi:
– Ngươi làm trò quỉ gì thế ?
Vi Tiểu Bảo kéo nàng vào phòng, đóng chặt cửa lại, khẽ đáp:
– Đại sự to rồi, Hoàng thượng muốn giết ta Công chúa hỏi:
– Hoàng đế ca ca đã giết phò mã sao còn định giết cả ngươi ? Y…. y mà giết ngươi thì ta quyết liều mạng với y Vi Tiểu Bảo giang hai tay ra ôm choàng lấy công chúa rồi hôn vào má nàng nói:
– Chúng ta phải mau trốn ra Hoàng cung, Hoàng thượng biết rõ câu chuyện giữa ta và nàng rồi, nên ngài muốn chặt đầu ta.
Công chúa bị gã ôm chặt lại hôn lia lịa, toàn thân nàng nhũn ra, miệng ú ớ:
– Hoàng đế ca ca hạ sát phò mã, ta tưởng sẽ cùng ngươi kết duyên cầm sắc mà sao…. sao lại xảy ra chuyện này? Sao Hoàng đế ca ca lại biết hết chuyện của chúng ta?
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
– Nhất định la nàng sơ ý để lộ chuyện, có đúng thế không ?
Công chúa đỏ mặt lên đáp:
– Không phải tại ta đâu. Chỉ có mấy lần ta hỏi y:
bao giờ ngươi trở về ?
Vi Tiểu Bảo nói:
– Thế là chết rồi còn gì ? Nhưng cũng không sao. Vụ này xảy ra khiến chúng ta nhất định phải thành đôi vợ chồng. Chúng ta phải mau trốn khỏi hoàng cung.
Công chúa ngần ngừ đáp:
– Sáng mai ta lên năn nỉ Hoàng đế ca ca, van xin y đừng giết ngươi. Y hạ sát phò mã đã nói với ta lấy làm ân hận. Y còn hứa hẹn sẽ tìm cho ta một vị hảo phò mã khác. Mà y lại rất thương yêu ngươi.
Nàng nói đây bỗng ngửi thấy mùi máu tanh bốc lên sặc sụa. Nàng đánh hơi mấy cái rồi hỏi:
– Sao…. ?
Đột nhiên nàng cảm thấy trước ngực cồn cào. Nàng ọe ra một tiếng, tay vịn thành ghế rồi mửa thốc mửa tháo ra. Cổ họng nôn nao không ngớt. Nàng mửa ra một thứ nước xanh lè.
Vi Tiểu Bảo khẽ đấm lưng cho nàng và nhẹ nhàng hỏi:
– Nàng làm sao thế? Chắc ăn phải cái gì không tốt rồi. Đã thấy nhẹ đi chút nào chưa ?
Công chúa mửa hai cơn rồi, đột nhiên soay tay đánh “bốp” một cái vào mặt Vi Tiểu Bảo. Miệng thoá mạ:
– Ta ăn phải của độc ư? Trăm điều ngang ngửa vì ngươi ! Trăm điều ngang ngửa vì ngươi !
Vị công chúa này vốn tính ngang ngược, quật cường, vô lý. Đúng lúc nàng nổi cơn hung dữ. Vi Tiểu Bảo đã hiểu nội tâm nàng, nên chẳng lấy chi làm lạ. Có điều gã chỉ lo thời giờ cấp bách. Gã mà chần chờ một khắc la nguy hiểm vô cùng.
Gã nghĩ tới thời gian những khẩu súng lớn phát xạ sắp đến rồi, rất hoang mang trong dạ. Không thể dằng co với công chúa được nữa, gã đáp:
– Dạ dạ! Đúng rồi! Trăm điều ngang ngửa vì ta.
Công chúa vừa nắm lấy tai Vi Tiểu Bảo vừa quát:
– Ngươi phải theo ta ra mắt Hoàng đế ca ca, chúng ta lập tức bái đường thành hôn.
Vi Tiểu Bảo rất đỗi bồn chồn, năn nỉ:
– Việc bái đường thành hôn nàng hãy trông vào một tạ Nhưng bây giờ ra mắt Hoàng thượng thì chồng nàng sẽ thành một tên phò mã không đầu. Chúng ta phải mau mau ra khỏi Hoàng cung. Đó là việc khẩn yếu hơn hết.
Công chúa nắm lấy tai gã giật mạnh một cái. Gã không nhịn được rú lên một tiếng. Công chúa hỏi:
– Ngươi có cụt đầu cũng không sao. Ngươi vốn là tên tiểu quỉ chẳng có đầu óc gì hết. Còn thằng Tiểu Quế Tử con ở trong bụng ta biết tính sao bây giờ.
Nói tới đây, nàng bất giác khóc oà lên.
Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi hỏi dồn:
– Làm…. sao ? Thằng Tiểu Quế Tử con làm sao?
Công chúa vung chân đá trúng bụng Vi Tiểu Bảo đánh “phốc” một cái. Nàng vừa khóc vừa nói:
– Trong bụng ta đã có thằng Tiểu Quế Tử con thối tha của ngươi rồi. Trăm điều ngang ngửa vì ngươi. Chúng ta không lập tức nên vợ nên chồng thì cái bụng ta…. cái bụng ta mỗi ngày một lớn…. ăn làm sao…. nói làm sao? Hoàng thượng lại hiểu cả Ngô ứng Hùng đã thành thái giám. Vụ này không xong rồi…. ta…. ta còn làm người thế nào được ?
Vi Tiểu Bảo sắc mặt lợt lạt…. gã chẳng còn hồn vía nào nữa.
Giữa lúc nguy cấp ngàn cân treo sợi tóc lại gặp phải vụ rắc rối này, làm gì gã chẳng bở vía. Miệng gã lắp bắp:
– Chúng ta mà không chạy trốn cho mau ra khỏi Hoàng cung thì thằng Tiểu Quế Tử con sẽ mất bố…. chúng ta trốn ra ngoài rồi lập tức bái đường thành thân.
Nàng sinh hạ thằng Tiểu Quế Tử con thì nó là ngoại sanh của Hoàng thượng chớ còn gì? Ngược lại Hoàng thượng là cửu cữu của nó và là đại cửu tử của tạ Chẳng có lý nào Hoàng thượng lại giết chết muội phu.
Công chúa mồm năm miệng mười hỏi:
– Sao lại vô lý? Ngô ứng Hùng là muội phu chính thức của y, y cũng chặt đầu thì sao y lại nể ngươi ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Hoàng thượng biết Ngô ứng Hùng là muội phu giả. Còn Vi Tiểu Bảo này la của thật. Giả muội phu có thể giết được còn chân muội phu sao lại giết đi ? Hảo công chúa , thằng Tiểu Quế Tử con của chúng ta ra đời rồi nó sẽ ôm cổ nàng gọi la má má. Như vậy có phải tốt đẹp không ?
Gã nói rồi ôm cổ nàng.
– Tốt đẹp cái con khỉ. Ta không muốn thằng chó đẻ con kêu ta bằng má má.
Nàng nói thế rồi tay đang nắm tai Vi Tiểu Bảo từ từ buông ra nhõng nhẹo hỏi:
– Lâu nay không được thấy mặt, ngươi có nhớ ta không ?
Nàng vừa nói vừa gieo mình vào lòng Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Nhớ chứ sao không nhớ? Ban ngày nhớ, ban đêm nhớ, chẳng thời khắc nào là ta không nhớ.
Ngoài miệng gã nói vậy nhưng trong bụng lại lắng thầm:
– Con điếm chết đâm kia! Mình đang có việc gấp mà thị cứ giằng co thế này biết đến bao giờ mới xong ?
Gã thấy nàng tình ý triền miên, mặt đỏ như gấc thì biết là nàng đang rạo rực xuân tình. Lúc này gã đang lo sốt vó làm gì còn hứng thú để thân thiện với công chúa mà lại không dám đắc tội với nàng, gã liền thủ thỉ vào tai:
– Chúng ta một khi trốn ra khỏi Hoàng cung là suốt ngày đêm dính liền nhau như keo sơn, không bao giờ phân ly nữa. Vậy chúng ta đi thôi!
Công chúa uốn éo tấm thân mấy cái rồi đáp:
– Không được ! Đêm nay phải làm vợ chồng.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Đêm nay thì đêm nay, nhưng phải ra khỏi cung rồi sẽ tính.
Công chúa hỏi:
– Việc gì mà phải trốn tránh? Hoàng đế ca ca cưng ta lắm. Y là sư phụ ngươi và rất thương ngươi. Sáng mai chúng ta năn nỉ là y vui lòng ngay, quyết không nổi nóng. Hoàng đế ca ca chỉ căm hận Ngô Tam Quế. Ngươi xin y đem quân đi đánh lão. Ta cùng đi với ngươi. Ta lãnh chức Binh mã đại nguyên soái, còn ngươi làm phó tướng đánh cho Ngô Tam Quế tơi bời hoa lá. Hoàng đế ca ca sẽ phong cho ngươi làm vương gia.
Nàng vừa nói vừa ôm ghì lấy Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo đang lúc hoang mang vô cùng, đột nhiên nghe tiếng người gõ vào cửa sổ ba tiếng. Họ dừng chút nữa rồi gõ thêm ba tiếng.
Vi Tiểu Bảo cả mừng hỏi:
– Có phải Đào cô cô không ?
Gã khẽ đẩy công chúa ra, chạy lại mở cửa.
Bóng đen thấp thoáng. Một người tiến vào. Chính la Đào Hồng Anh.
Hai người đàn bà giáp mặt nhau đều giật mình kinh hãi.
Đào Hồng Anh khẽ hô:
– Công chúa!
Công chúa tức giận hỏi:
– Ngươi la ai? Đến đây làm gì ?
Nàng gã ngẫm nghĩ một chút, bỗng nổi cơn ghen bụng bảo dạ:
– Tên cung nữ này đêm khuya đến gõ cửa sổ thì còn việc gì là tử tế nữa?
Nhất định hai người rất thân nhau.
Tuy nàng thấy Đào Hồng Anh đã lớn tuổi, nhưng Tiểu Quế Tử gian díu với ca?
hạng cung nữ vừa già vừa xấu. Nhất là lúc lửa dục của nàng dâng bốc lên lại bị người đàn bà kia đến phá quấy hảo sự khiến nàng sóng giận như điên, lớn tiếng la:
– Chúng baỵ..
Vi Tiểu Bảo đã đề phòng trước, khi nào để nàng hô hoán cho bọn thị vệ chạy vào. Công chúa vừa mở miệng gã đã đưa tay ra bịt lấy không cho nàng nói nữa.
Công chúa hết sức rẩy rụa rồi xoay tay lạt tát bốp một cái vào mặt Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo trong lúc hoang mang tay mặt nắm cổ công chúa hết sức bóp mạnh, gã vừa bóp vừa mắng:
– Con đượi chết đâm này. Ta phải vặn cổ ngươi cho hết thở.
Công chúa cảm thấy hô hấp gian nan. Chân tay nàng đập loạn lên.
Vi Tiểu Bảo lại vung tay trái đấm vào đầu nàng hai quyền.
Đào Hồng Anh thấy gã lớn mật dám đánh cả công chúa, ban đầu kinh hãi nhưng rồi mụ biết sự náo loạn này đã thành trọng đại liền đưa ngón tay ra điểm huyệt luôn ba cái vào sau lưng công chúa cố phong tỏa huyệt đạo cho nàng.
Bây giờ Vi Tiểu Bảo mới buông tay ra khẽ nói:
– Cô cô! Đại sự nguy rồi. Hoàng đế muốn giết tiểu tử. Phải làm sao chạy trốn cho mau.
Đào Hồng Anh đáp:
– Bên ngoài rất đông thị vệ. Ta đến đây từ sớm ẩn trong giàn hoa chờ quá nửa giờ mới gặp lúc vắng người chuồn vào đây. Ngươi ra mà coi.
Mụ vừa nói vừa lật tấm giấy che cửa lên một chút.
Vi Tiểu Bảo ghé mắt trông ra quả thấy bảy tám tên thị vệ cầm đèn lồng đi lại tuần tiễu.
Trong khoảng thời gian chớp nhoáng này, gã nghĩ tới vụ Cao Tôn Giả và Mao Đông Châu ngồi kiệu Thái ohi định trốn ra ngoài. Bất giác gã lẩm bẩm:
– Hai người đó gặp vận xúi quẩy, đụng đầu vợ chồng Quy Tân Thụ nên mới uổng mạng. Bây giờ lão gia học theo kế đó, chẳng lẽ ba người nhà họ Quy lại mượn xác hoàn hồn chạy đến đánh kiệu công chúa?
Gã nghĩ vậy rồi nhìn công chúa nói:
– Công chúa ơi? Nàng đừng ăn phải dấm chua nữa. Đây là cô cô ta, là em gái của gia gia và là chị gái của má má. Nàng đừng có nổi nóng mà gây chuyện rắc rối.
Công chúa bị Đào Hồng Anh điểm huyệt tức quá cơ hồ ngất xỉu. Bây giờ nàng nghe Vi Tiểu Bảo nói mấy câu này lòng dạ lập tức trở lại hòa bình. Nàng không kịp nghĩ tới em gái của gia gia và bà chị của má má sao lại có thể la một người được? Nàng chỉ cần biết mụ này không phải nhân tình của Tiểu Quế Tử là đủ.
Bất giác nàng lộ vẻ vui tươi đáp:
– Vậy thì buông tha ta đi.
Vi Tiểu Bảo muốn làm nàng trong lòng hoan hỷ liền nói:
– Ngươi la vợ ta thì phải kêu bà bằng cô cộ Công chúa trong lòng rất cao hứng liền hô:
– Cô cô!
Đào Hồnh Anh ngơ ngác chẳng hiểu chi hết. Mụ thấy hai người đánh đấm nhau mà sao bây giờ lại kêu mình bằng cô cô?
Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Nàng hãy bảo bọn phu kiệu hãy khiêng kiệu vào phòng rồi đuổi chúng ra đóng cửa lại. Ta cùng nàng vào kiệu ngồi. Chúng ta cứ thế mà ra khỏi Hoàng cung.
Khi đó sẽ làm lễ bái đường thành thân ngay.
Gã dừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Trong khi bái đường cần một vị trưởng bối đứng ra chứng kiến mới là hợp lệ. Vị trưởng bối là cô cô của chúng ta đấy. Nàng bảo có được không ?
Công chúa mừng rỡ mặt đỏ lên đáp:
– Hay lắm!
Vi Tiểu Bảo giục:
– Vậy chúng ta hành động lẹ lên!
Công chúa big gã thúc giục cấp quá, không chờ được giải khai huyệt đạo đã ra cửa hô:
– Khiêng kiệu vào phòng này!
Bọn thái giám và cung nữ đều rất lấy làm kỳ. Có điều họ đã biết vị công chúa này trước sau ưa làm chuyện ngược đời. Ngày thường chúng thấy nàng làm những việc hợp đạo lý rất ít mà những việc quái đản thì rất nhiều, nên chẳng dám nói năng gì, đồng thanh dạ một tiếng rồi lật đật khiêng kiệu lại.
Không ngờ cửa gian phòng của Vi Tiểu Bảo hẹp quá, đâu có được rộng mấy thước như cửa cung Từ Ninh của Thái hậu. Kiệu công chúa vào lọt thế nào được ?
Chỉ có hai cây đòn kiệu đặt vào trong, còn thân kiệu vẫn để ngoài cửa không đưa vào được.
Công chúa quát mắng:
– Toàn những đồ vô dụng. Cút mau đi cho khuất mắt ta.
Mấy tên khiêng kiệu phía trước đều lẩm bẩm:
– Kiệu lớn mà cửa thì hẹp, khiêng thế nào vào được ? Sao thị cũng trách mắng mình?
Rồi chúng chuồn qua khe kiệu ra ngoài.
Vi Tiểu Bảo đến gần bên công chúa khẽ nói:
– Nàng ra lệnh không cho bọn thị vệ tiến vào!
Công chúa liền lớn tiếng:
– Tiểu Quế Tử ! Ngươi phải ở yên trong nhà này không được ra ngoài.
Vi Tiểu Bảo lên tiếng đáp:
– Dạ hiện giờ không còn sớm nữa xin công chúa điện hạ vào nghỉ đi.
Công chúa vờ quát mắng:
– Ta cứ muốn đi chơi thì ngươi giữ được ta chăng ?
Vi Tiểu Bảo lại lớn tiếng:
– Trong cung có thích khách làm náo loạn, xin công chúa nên cẩn thận là hơn.
Công chúa x½ng giọng:
– Hoàng thượng nuôi biết bao thị vệ. Chúng chỉ biết ăn cơm chứ không biết làm việc sao ? Các ngươi ra hết ngoài kia, không được vào đây!
Đoàn thị vệ đồng thanh dạ lên một tiếng rồi lùi ra xa.
Vi Tiểu Bảo chui vào kiệu ngồi gã nhìn công chúa vẫy tay.
Công chúa cũng tiến vào ngồi trước mặt gã.
Vi Tiểu Bảo quàng tay trái ôm lấy nàng khẽ dặn Đào Hồng Anh:
– Xin cô cô đi với tiểu tử ra khỏi Hoàng cung Gã nghĩ tới võ công mụ rất cao thâm, cần được mụ hộ tống. Nếu bị người khám phá bí mật thì đã có mụ đánh chết dùm.
Hồi 210
Lại dụng kế rùa đen thoát xác
Đào Hồng Anh liền ưng chịu ngaỵ Mụ mặc phục trang cung nữ nên đứng cạnh Công chúa không ai nghi ngờ gì hết.
Công chúa lại lớn tiếng hô:
– Khiêng kiệu ra đi!
Mấy tên thái giám khiêng kiệu ở phía trước lại lách qua khe cửa chuồn vào trong, cùng mấy tên khiêng ở phía sau liền nâng đòn kiệu lên lùi lại mấy bước rồi khiêng đi.
Công chúa nghe lời chỉ điểm của Vi Tiểu Bảo liền lệnh cho khiêng kiệu qua cửa Thần Võ.
Bọn thị vệ gác cửa thấy phượng kiệu của Công chúa đòi ra khỏi cung giữa lúc đêm khuya đều lấy làm quái lạ, liền tiến lại phỏng vấn.
Công chúa từ trong kiệu nhảy ra quát:
– Ta muốn ra ngoài. Các ngươi mau mở cửa cung.
Tên lãnh đội bọn thị vệ gác cửa Thần Võ đêm nay là Triệu Tề Hiền khom lưng thi lễ, tươi cười nói:
– Khải bẩm Công chúa điện hạ! đêm nay vừa có thích khách vào làm náo loạn cung vi, không được yên tĩnh như ngày thường. Xin Công chúa điện hạ chờ trời sáng hãy ra khỏi Hoàng cung.
Công chúa tức giận hỏi:
– Ta có việc gấp phải đi bây giờ. Việc gì ta phải sợ bọn thích khách?
Nguyên Triệu Tề Hiền không dám trái lệnh công chúa, nhưng hắn nghĩ tới phò mã Ngô ứng Hùng bị hạ sát mà công chúa lại ra ngoài lúc ban đêm, không chừng có dính líu tới vụ Ngô Tam Quế tạo phản.
Hắn sợ sáng mai điều tra thì hắn không khỏi thoát được mối liên quan trọng đại. Hắn liền kính cẩn dâng lời thỉnh an nhưng dùng dằng không chịu mở cửa.
Hắn thấy công chúa sắp nổi nóng liền thưa:
– Công chúa muốn đi ngay bây giờ, vậy để nô tài đến báo Đa Tổng quản.
Công chúa nán lòng chờ một chút, nô tài đi xin chỉ thị xong lập tức quay về mở cửa cung.
Vi Tiểu Bảo ngồi trong kiệu thấy Công chúa nổi nóng mà Triệu Tề Hiền vẫn không chịu mở cửa cung, lại đòi đi thỉnh thị Đa Long thì công việc đã nát bét lại càng nát bét hơn.
Trong lúc nguy cấp gã đành lên tiếng gọi:
– Triệu Tề Hiền! Ngươi có biết ta là ai không?
Triệu Tề Hiền theo Vi Tiểu Bảo hành sự đã lâu ngày, dĩ nhiên nhận được thanh âm của gã ngaỵ Hắn không khỏi vừa kinh hãi vừa vui mừng, liền hỏi lại:
– Vi Đô thống đấy ư?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Chính thị!
Gã ngồi trong kiệu thò đầu ra vẫy taỵ Triệu Tề Hiền vội chạy lại.
Vi Tiểu Bảo ghé vào tai hắn khẽ nói:
– Ta vâng mật chỉ của Hoàng thượng phải cấp tốc đi làm việc cơ mật là việc đại sự nhà nước. Hễ ta ló mặt ra là hỏng bét. Vì thế Hoàng thượng bảo ta ngồi trong phượng kiệu của Công chúa, yêu cầu nàng đi cùng để che dấu đặng ra ngoài cho kín đáo.
Triệu Tề Hiền vốn biết gã được đương kim Hoàng thượng rất mực sủng ái, thường làm nên những chuyện thần sầu quỷ khốc nên không hoài nghi gì nữa, vội đáp:
– Dạ Dạ! Tỵ chức xin sai bọn chúng mở cửa lập tức.
Vi Tiểu Bảo chợt động tâm cơ, khẽ hỏi:
– Ngươi có muốn được thăng quan phát tài không?
Triệu Tề Hiền đã phục vụ dưới quyền gã mấy năm, quan đã được thăng ba cấp, tài đã phát được hơn ba trăm vạn lạng bạc. Bây giờ hắn nghe đến bốn chữ ” Thăng quan phát tài”, tưởng là Vi Đô thống đã hỏi câu này, tất có ý cất nhắc cho mình. Trong lòng sung sướng như mở cờ, hắn vội quỳ xuống thỉnh an đáp:
– Đa tạ đại nhân hết dạ tài bồi. Tỵ chức dù phải tan xương nát thịt cũng chẳng lùi bước.
Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:
– “Câu này tự ngươi nói ra là gở miệng. Đại pháo đã phát xạ thì nhà ngươi còn gì mà chẳng tan xương nát thịt? Ngươi đã tự nguyện quyết không lùi bước thì đừng có oán ta” Gã nói rất khẽ:
– Một bọn phản tặc cấu kết với Ngô Tam Quế sắp hành động đến nơi. Đức Hoàng thượng đã trù liệu cơ mưu lừa được bọn chúng đêm nay tụ họp trong Bá tước phủ của tạ Hoàng thượng phái ta thống lãnh nhân mã Tiền Phong doanh đến bắt chúng. Bọn Tiền Phong doanh trước nay vốn không ưa Kiêu K?y. doanh của tạ Vậy mà Hoàng thượng phái ta điều động Tiền Phong doanh là vì lẽ gì ngươi có biết không?
Triệu Tề Hiền đáp:
– Tỵ chức là kẻ ngu tối không thể hiểu được ý kiến cao minh của những bậc thượng trí.
Vi Tiểu Bảo hạ thấp giọng thì thầm:
– Tên lãnh đội Tiền Phong doanh cấu kết với Ngô Tam Quế. Công chúa lại là con dâu lão. Hắn thấy công chúa tất không nghi ngờ gì nữa.
Triệu Tề Hiền chợt tỉnh ngộ đáp:
– Té ra là thế! Không ngờ A lãnh đội lại dám làm việc đại nghịch vô đạo như vậy.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Công lao này Hoàng thượng đã xếp đặt và giao vào tay tạ Chúng ta là hảo huynh đệ, lúc thăng quan cũng như khi phát tài phải nhớ đến nhau. Vậy ngươi dẫn bốn chục tên thị vệ theo ta để lập công.
Triệu Tề Hiền mừng quá, tạ Ơn không ngớt miệng.
Hắn liền mời Công chúa lên kiệu rồi điểm bốn chục tên thị vệ trước nay vẫn nịnh bợ hắn. Hắn nói là vâng mật chỉ của Hoàng thượng hành động, lệnh truyền mở rộng cửa Thần Võ hộ tống phượng kiệu của Công chúa ra khỏi cung vi.
Hắn lại dặn sáu chục tên thị vệ còn lại phải canh giữ cửa cung cho nghiêm mật.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Cửa cung đêm nay bất luận là ai đòi ra vào cũng không được mở. Trừ phi có mệnh lệnh của ta hay của Tổng quản đại nhân thì không kể, còn ngoài ra bất cứ nhân vật cỡ nào, nhất thiết không được cho ra khỏi Hoàng cung.
Triệu Tề Hiền truyền lệnh của Vi Tiểu Bảo ra ngoài. Sáu chục tên thị vệ canh giữ cửa Thần Võ đồng thanh vâng mệnh.
Vi Tiểu Bảo cười thầm trong bụng:
– “Chuyến này lão gia ra đi không bao giờ trở về nữa, chẳng hiểu linh hồn Đa tổng quản còn ra đây hạ lệnh cho các ngươi mở cửa cung nữa không?”.
Ngõ Đồng Mạo cách Hoàng cung không xa mấy. Đoàn người đi không đầy nửa giờ đã gần tới phủ Bá tước.
Dọc đường Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh thình thình, gã chỉ sợ mới đi được nửa chừng, phía trước súng đã nổ vang trời. Nhưng may thay, thủy chung vẫn im lặng, chẳng có động tĩnh gì.
Đoàn người vừa tới ngõ Đồng Mạo, lãnh đội Tiền Phong doanh là A Tế Xích được tin báo phượng kiệu của Công chúa giá lâm, vội vàng tiến ra nghênh tiếp.
Công chúa ngồi trong kiệu vừa được Vi Tiểu Bảo nắn bóp vừa dặn dò hết mọi điều trong khi hành sự.
Nàng nghe A Tế Xích báo danh nghênh tiếp liền thò đầu ra hỏi:
– A lãnh đội! Công việc đêm nay giao cho ngươi cực kỳ khẩn yếu, ngươi đã chuẩn bị đâu vào đấy chưa?
A Tế Xích khom lưng đáp:
– Dạ! Nô tài đã sắp đặt xong xuôi rồi.
Công chúa hỏi:
– Những cỗ đại pháo đã an bài s½n sàng chưa?
A Tế Xích đáp:
– Dạ! Chính Nam Hoài Nhân tiên sinh thân hành chỉ huy cuộc phát xạ.
Vi Tiểu Bảo ngồi trong kiệu nghe hắn nói vậy, bụng bảo dạ:
– “Quả nhiên Hoàng thượng không dối tạ Tên Dương quy Nam Hoài Nhân đứng ra chuẩn bị thì cuộc phát xạ này còn trật đích thế nào được?” Công chúa nói:
– Hoàng thượng đã phát lệnh cho ta tới phủ Bá tước làm một việc. Vậy ngươi hãy theo ta tiến vào đi.
A Tế Xích đáp:
– Bẩm Công chúa điện hạ. Thời giờ cấp bách lắm rồi. Lúc này không nên vào nữa.
Công chúa tức giận hỏi:
– Sao lại không vào được? Ngươi dám kháng lại Thánh chỉ chăng?
A Tế Xích đáp:
– Nô tài không dám!… Nhưng… nhưng thực sự rất nguy hiểm. Tấn thân ngàn vàng của Điện hạ..
Vi Tiểu Bảo ngồi trong kiệu khẽ hắng dặng một tiếng.
Đào Hồng Anh lập tức sấn lại một bước, phóng chỉ điểm vào ba yếu huyệt dưới nách A Tế Xích.
A Tế Xích chỉ kịp la “ối” một tiếng rồi không nhúc nhích được nữa. Tiếp theo gã cảm thấy sau lưng mát rượi rồi đau nhói lên. Một lưỡi dao đã cứa vào sau lưng hắn một vết dài.
A Tế Xích chẳng còn hồn vía nào nữa mà cũng chẳng hiểu đầu đuôi ra làm sao.
Công chúa nói:
– Hoàng thượng đã ban mật chỉ mà nhà ngươi không chịu tuân hành, làm hư đại sự, ta lập tức chém đầu ngươi trước rồi đem toàn gia ngươi ra xử trảm nữa.
A Tế Xích cất giọng run run đáp:
– Da… da…
Vi Tiểu Bảo động tâm tự nhủ:
– Bọn Ngự tiền thị vệ đã làm việc với ta, nhất nhất đều tuân lệnh. Sao ta nỡ để chúng uổng mạng. Chi bằng cho bọn Tiền Phong doanh làm tử quỷ thế mạng cho chúng.
Gã liền ghé vào tai công chúa khẽ nói:
– Nàng bảo hắn điểm năm chục tên ở đội Tiền Phong doanh theo chúng ta tiến vào.
Công chúa liền quát:
– Ngươi hãy dẫn năm chục tên quân sĩ bộ thuộc của ngươi theo chúng ta đi vào trong kia làm việc.
A Tế Xích vội đáp:
– Da… da…
Gã truyền lệnh ra điểm năm chục quân sĩ theo kiệu Công chúa tiến vào phu?
Bá tước.
Vi Tiểu Bảo dặn Triệu Tề Hiền chỉ huy Ngự tiền thị vệ canh giữ ngoài phủ.
Cỗ kiệu khiêng vào đến tòa viện thứ hai, tới trước sảnh đường thì dừng lại.
Công chúa và Vi Tiểu Bảo xuống kiệu, dặn năm chục tên quân sĩ đứng thành hàng ngũ chờ ở ngoài sân.
Đào Hồng Anh kèm A Tế Xích cùng Vi Tiểu Bảo và Công chúa vào hoa sảnh.
Cửa sảnh vừa được mở, đã thấy bọn Trần Cận Nam, Mộc Thiên Thanh, Từ Thiên Xuyên đều ở cả đây.
Quần hùng thấy Vi Tiểu Bảo dẫn một người đàn bà sang trọng, một tên cung nữ và một tên võ quan đều rất đỗi ngạc nhiên.
Vi Tiểu Bảo khẽ giơ tay ra vẫy, quần hùng đều xúm cả lại.
Gã nói khẽ:
– Hoàng đế đã biết chúng ta tụ hội tại đây, ngoài ngõ đầy quan binh bao vây, ngoài ra còn có mười mấy cỗ đại pháo nhằm trúng tòa nhà này.
Quần hùng giật mình kinh hãi, nét mặt tái mét.
Liễu Đại Hồng nói:
– Chúng ta phải phá vòng vây mà ra.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:
– Không được! Bên ngoài rất nhiều quan binh, thêm vào súng lớn cực kỳ lợi hại. Tại hạ đã dẫn mấy chục tên quan binh vào đây. Xin các vị lột quần áo chúng ra đổi lốt mới có thể chuồn êm ra được.
Quần hùng đều khen là diệu kế.
Vi Tiểu Bảo quay lại rỉ tai công chúa. Công chúa lẩm nhẩm gật đầu rồi bảo A tế Xích:
– Truyền hai mươi tên quân sĩ tiến vào đây.
A Tế Xích biết là tình thế nguy rồi, nhưng hắn lâm vào tình trạng gươm kề cô?
nên không dám trái lệnh, liền hô hai chục tên quân sĩ tiến vào sảnh đường.
Quần hùng trong Thiên Đại hội cùng Mộc Vương Phủ gác ở cửa sảnh đường chờ hai chục tên quân sĩ đội Tiền Phong doanh vừa tiến vào hoa sảnh, liền quyền đấm chân đá, tay hủých, chỉ phóng khiến bọn chúng đều gã lăn ra.
Lần thứ hai và lần thứ ba, mỗi lần kêu mười lăm tên tiến vào. Thế là cả thẩy năm chục tên quân sĩ đều bị đánh ngã. Quần hào liền lột quần áo của chúng ra mặc vào mình.
Vi Tiểu Bảo thấy Mộc Kiếm Bình và Tăng Nhu cũng có mặt tại đó đang cùng mọi người thay đổi quần áo mà chẳng thấy Song Nhi đâu. Trong lòng gã rất đỗi ngạc nhiên vội hỏi hai cô thì Tăng Nhu đáp:
– Song Nhi muội thấy tướng công vào cung lâu không trở về, cả bọn Quy nhi.
hiệp tiến cung hành thích cũng chẳng thấy tin tức chi hết, y nóng ruột quá, không chịu nổi liền theo Phong đại hiệp ra ngoài dò động tĩnh.
Mộc Kiếm Bình nói theo:
– Hai người ăn cơm rồi đi ngay mà sao đến bây giờ chưa trở về?
Vi Tiểu Bảo chau mày nghĩ thầm:
– “Phong Tế Trung tuy võ công cao cường, có thể hộ vệ Song Nhi được chu toàn. Nhưng hai người chưa biết chuyện Hoàng đế bố trí xạ kích phủ Bá tước hôm naỵ Nếu khi mọi người chạy đi rồi, họ trở về trúng vào lúc đại pháo phát xạ thì hỏng bét.” Gã trầm ngâm một lát rồi nhìn Tiền Lão Bản nói:
– Tiền đại ca! Phong đại ca và Song Nhi đi dò la tin tức chưa thấy trở về.
Đại ca nên lưu lại nơi đây thật nhiều ký hiệu để lúc họ có trở về ngó thấy là lập tức bỏ đi cho khỏi ngộ nạn.
Tiền Lão Bản vâng lời, vì thời giờ cấp bách, lão rút đao trủy thủ ra đâm vào đùi hai tên Thanh binh hai nhát. Tiếp theo lão cắt một mảnh áo cuộn tròn lại chấm vào máu tươi viết lên khắp các cửa ngõ ba chữ thật lớn:
“Trốn cho lẹ” Lão viết hết tám khuôn cửa ngõ thì quần hùng cũng thay đổi quần áo vừa xong. Vi Tiểu Bảo dẫn mọi người xuống tàu ngựa để dắt ngựa ra cưỡi.
Bốn tên bộ thuộc trong Thiên Địa hội hóa trang làm thái giám khiêng kiệu của Công chúa, áp giải tên lãnh đội Tiền Phong doanh A Tế Xích từ phủ Bá tước đi ra.
Còn năm chục tên quân hoặc bị điểm huyệt, hoặc bị cột chân tay đều ở lại trong phủ Bá tước.
Vi Tiểu Bảo vẫn ngồi trong kiệu của Công chúa. Ra ngoài cổng phủ rồi, gã buông tiếng thở dài, nghĩ bụng:
– “Bao nhiêu mã phu, nhà bếp, thân binh cùng nam nữ tùy bộc hầu hạ ta bấy lâu nay đều bị đại pháo bắn tan xác. Nhưng nếu cho chúng đi theo để quan binh bên ngoài trông thấy tất bị tiết lộ cơ mưu”.
Gã chợt nhớ ra điều gì, miệng lẩm bẩm:
– “Ngày trước trên núi Ngũ Đài Sơn mọi người trá hình lạt ma mà cứu được tánh mạng Lão Hoàng gia, nay lại cứu Tiểu Quế Tử một cách đắc dụng”.
Quần hào theo sát kiệu của Công chúa và A Tế Xích ra tới ngoài ngõ thấy quan binh đi lại tuần tiễu, cách phòng vệ cực kỳ nghiêm mật. Chỉ còn những cỗ đại pháo bố trí ở đâu thì trong lúc nhất thời khó mà ngó thấy được.
Vi Tiểu Bảo dời khỏi hiểm địa mới thở phào nhẹ nhõm, lại thấy sư phụ cùng các vị bằng hữu đều thoát nạn sát thân, trong lòng lại càng hoan hỷ.
Gã nhìn Triệu Tề Hiền nói:
– A lãnh đội phạm thượng tác loạn, đại nghịch vô đạo. Ngươi áp giải hắn về đem giam vào ngục thất. Trừ phi Hoàng thượng đòi đem ra phỏng vấn, không thì phải chờ ta về phát lạc.
Triệu Tề Hiền vâng dạ luôn miệng.
Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Đức Hoàng thượng căm hận tên khâm phạm này thấu xương, hễ nghe đến tên hắn là Ngài lại nổi nóng. Ngươi dặn anh em phải coi chừng, chớ để Hoàng thượng nghe đến danh tự tên phản tặc.
Triệu Tề Hiền nhất nhất vâng lệnh, rồi dẫn bốn chục tên Ngự tiền thị vệ áp giải A Tế Xích đưa đi.
Tội nghiệp cho tên A Tế Xích từ đây phải giam mình trong ngục tối, chẳng còn ai đoái hoài gì đến.
Quân sĩ thấy lãnh đội bị Công chúa chỉ huy bọn Ngự tiền thị vệ áp giải đem đi rồi mà không biết giải đi đâu, chẳng ai dám hỏi tới.
Chủ ngục thì chỉ biết hễ thấy thị vệ giao phạm nhân là lưu tâm giam giữ. Bọn Triệu Tề Hiền dĩ nhiên là không dám hé răng nhắc tới vụ này nữa.
Quần hào đều lẳng lặng không ai nói gì, chỉ mong tới chỗ hẻo lánh ẩn mình.
Đoàn người đi chừng được hơn một dặm, Trần Cận Nam mới cất tiếng hỏi:
– Tiểu Bảo! Bọn Quy nhị hiệp vào cung hành thích, kết quả ra làm sao?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Ba vị đó…
Gã vừa nói được ba chữ thì những tiếng đì đùng nổi lên ầm ầm. Tiếp theo khói đen từ Bá tước phủ bốc lên ngùn ngụt, người đứng tận đằng xa cũng ngó thấy. Gạch ngói cùng kèo cột bay tứ tung trên không, quần hào còn cảm thấy đất dưới chân cũng rung động.
Lúc này súng nổ đì đùng vẫn vang lên không ngớt. Ngọn lửa đỏ rực ở Bá tước phủ bốc lên cao đến hơn mười trượng.
Quần hào đứng cách xa ngõ Đồng Mạo như vậy mà còn cảm thấy những luồng hơi nóng quạt vào mặt.
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau kinh hãi. Không ai ngờ uy lực của đại pháo lại ghê gớm đến thế. Chỉ trốn chậm trong khoảnh khắc thì còn chi là tính mạng.
Liễu Đại Hồng cất tiếng thóa mạ:
– Tổ bà nó! Những tiếng nổ kinh thiên động địa này…
Lão đang nói dở câu thì tiếng súng nổ ầm ầm át hẳn tiếng lão, nửa câu sau không còn nghe rõ nữa.
Mọi người đứng đằng xa trông về phía Bá tước phủ thấy hỏa quang lẫn với khói vọt lên ngất từng mây làm đỏ rực cả một góc trời.
Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ:
– “Nhất định tiểu Hoàng đế bây giờ đã nghe tiếng súng nổ và phái người đến kêu ta lên nói chuyện, vậy cơ quan lập tức bị bại lộ.” Gã liền nhìn Trần Cận Nam nói:
– Thưa sư phụ! Chúng ta nên mau dời khỏi vùng hoàng thành cho lẹ. Chỉ lát nữa tin tức truyền ra là các cửa thành sẽ bị tra hỏi rất kỹ, chúng ta khó lòng đi cho trót lọt.
Trần Cận Nam đáp:
– Phải rồi! Chúng ta nên đi ngay bây giờ.
Vi Tiểu Bảo quay lại bảo công chúa:
– Nàng hãy về cung trước đi. Ta chờ cho tình thế yên tĩnh trở lại sẽ đến đón nàng.
Công chúa vừa kinh hãi vừa tức giận quát hỏi:
– Ngươi bảo sao?
Vi Tiểu Bảo nhắc lại lần nữa.
Công chúa la lên:
– Ngươi qua sông rồi rút cầu. Phải chăng ngươi muốn ruồng bỏ ta?
Vi Tiểu Bảo ấp úng đáp:
– Không… không phải thế…
Gã chưa dứt lời thì đã bị Công chúa đánh hai cái bạt tai thật mạnh.
Quần hào rất đỗi ngạc nhiên. Vừa rồi súng nổ kinh thiên động địa mọi người đều thấy rõ. Nếu không có Vi Tiểu Bảo bày kế giải cứu thì bây giờ ai nấy đã cháy thành than, quyết chẳng thể nào sống sót được. Vì thế cả những ai trước nay không coi vị hương chủ nhỏ tuổi này vào đâu, lúc này bất giác đều nổi lòng khâm phục và cảm kích.
Quần hào đột nhiên thấy Công chúa vung tay tát Vi Tiểu Bảo, rất lấy làm tức giận, có người chạy lại gỡ ra, có người lớn tiếng quát tháo.
Công chúa khóc rống lên. Nàng vừa khóc vừa la:
– Ngươi bảo ta đi bái Thiên địa làm lễ thành hôn, ta mới nghe theo và đưa ngươi dời khỏi Hoàng cung. Ta lại ra lệnh cho lãnh đội Tiền Phong doanh giải cứu bạn hữu của ngươi… Thế mà ngươi… ngươi là một tên giặc thối tha… Bây giờ ngươi định chối cãi là không dược đâu. Trong bụng ta đây này…
Vi Tiểu Bảo sợ nàng nói huỵch toẹt ra những chuyện xấu xa của gã trước mặt quần hào, vội đáp:
– Được rồi! Được rồi! Vậy nàng đi theo tạ Chúng ta ra ngoài thành rồi sẽ nói chuyện.
Công chúa đang khóc lóc bỗng phá lên cười rồi xoay mình nhảy vọt lên lưng ngựa.
Đoàn người đi tới cửa thành. Vi Tiểu Bảo lớn tiếng hô:
Ta vâng mật chỉ của Hoàng thượng đi truy nã phản tặc. Các ngươi mau mở cửa thành.
Bọn quan binh giữ cửa thấy đội quân sĩ Tiền Phong doanh khi nào dám trái lệnh.
Nên biết những quan binh ở Kiêu Kỵ doanh, Hộ Quân doanh, Tiền Phong doanh đều là cảnh quân Ngự lâm thân binh của Hoàng đế. Những bộ quân này ở thành Bắc Kinh thường hành động ngang tàng, cả văn võ bá quan cũng có phần úy kỵ bọn chúng. Huống chi trong thành vừa mới súng nổ rầm trời, dĩ nhiên đã xảy ra việc lớn. Bọn quan quân giữ cổng thành hối hả mở cửa ra.
Đoàn người ra khỏi thành hối hả chạy về phía đông.
Vi Tiểu Bảo ruổi ngựa chạy song song với Trần Cận Nam. Gã đem việc bọn Quy Tân Thụ ba người hành thích thất bại thế nào, Hoàng đế phát giác những chuyện bí ẩn của gã ra sao, lược thuật lại cho sư phụ nghe.
Trần Cận Nam khen:
– Tiểu Bảo! Ngày thường ta thấy miệng lưỡi ngươi rất giảo hoạt, lém lảu không đủ thành thực. Nhưng gặp tình trạng khẩn yếu ngươi vẫn lấy nghĩ khí làm trọng, không chịu bán rẻ bằng hữu để mưu đồ phú quí. Đó là một điểm hiếm có.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Bằng hữu khác thì chưa đáng kể, nhưng đại nghĩa diệt sư thì nhất định không thể làm được.
Trần Cận Nam hỏi:
– Bằng hữu khác thì không đáng kể là nghĩa làm sao? Hễ đã là bằng hữu thì bất cứ là ai cũng không thể bán rẻ được. Còn bốn chữ ” Đại nghĩa diệt sư” thì ngươi nói không đúng cách.
Vi Tiểu Bảo lè lưỡi ra đáp:
– Đệ tử dốt nát, nói năng lầm lẫn. Xin sư phụ miễn trách cho.
Gã nhớ tới ngày trước được cùng tiểu Hoàng đế nói chuyện ba hoa rất là khoái lạc. Bữa nay xảy ra vụ này, vĩnh viễn không còm dám nhìn mặt nhà vua nữa, bất giác trong lòng gã buồn rười rượi.
Trần Cận Nam nói:
– Chúng ta giả mạo quân sĩ Tiền Phong doanh để ra ngoài, chẳng mấy chốc bọn Thát Đát sẽ biết hết. Vậy cần phải thay đổi cách ăn mặc cho mau.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Đúng thế! Khi đến thi trấn trước mặt chúng ta sẽ mua quần áo cải trang.
Quần hào rong ruổi một hồi chạy xa ngoài hai chục dặm thì thấy một tòa thi.
trấn, nhưng nơi đây lại không có tiệm bán quần áo cũ.
Trần Cận Nam rất thao lược về việc hành binh đánh trận, làm chính trị và cách mạng, nhưng đối với việc nhỏ nhặt thường ngày thì ông lại vụng về, tưởng chừng thúc thủ vô sách.
Ông không tìm thấy tiệm bán quần áo cũ nào liền nói:
– Chúng ta đành đến thị trấn phía trước để tìm tiệm bán quần áo cũ mà mua.
Đoàn người vừa xuyên qua thị trấn, bỗng gặp một tòa nhà rất lớn có tường vây bọc, có cổng sơn son. Tòa viện bên trong cực kỳ rộng rãi.
Vi Tiểu Bảo động tâm nói:
– Sư phụ! Chúng ta vào nhà này mượn mấy bộ trang phục thay đổi.
Hồi 211
Những bạn hữu đều người nghĩa khí
Trần Cận Nam ngần ngừ đáp:
– Chỉ sợ bọn họ không chịu.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Chúng ta là quan binh, không lấy của nhà giầu thì lấy của ai?
Gã nói rồi nhảy xuống ngựa cầm chiếc vòng đồng trên cửa giật mạnh mấy cái cho bật lên những tiếng leng keng.
Một tên nam bộc từ trong nhà chạy ra mở cổng. Đoàn người liền kéo ùa vào, thấy bất cứ ai cũng lột quần áo.
Chủ nhà là một vị quan trong kinh cáo lão về làng. Lão thấy quan binh đội Tiền Phong doanh hung dữ như hổ lang liền lớn tiếng la lên:
– Các vị quân gia bất tất phải động võ. Để huynh đệ làm cơm rượu thết đãi các vị. Ngoài ra còn chút ít tiền phia tổn cho các vị sử dụng…
Lão chưa dứt lời đã bị nắm lấy và bị lột hết quần áo.
Lão sợ quá la hoảng:
– Huynh đệ tuổi già rồi. Các vị làm thế này không tiện…
Quần hùng chỉ cười hô hố chứ không nói gì.
Trong khoảnh khắc quần hùng đã lột được mấy chục bộ quần áo.
Bao nhiêu người trong nhà đều sợ hết hồn. May ở chỗ bọn quan binh đội Tiền Phong doanh này tính tình cổ quái, chỉ lột quần áo đàn ông chứ tuyệt không trêu cợt, khinh mạn đến nữ quyến.
Sau khi lột hết quần áo đàn ông rồi, quần hào hô hoán nhau rút lui không tàn hại gì nữa. Quần hùng ra khỏi cửa, lên ngựa dông tuốt.
Bao nhiêu nam nhân trong nhà đều lõa lồ thân thể, nhìn nhau kinh ngạc.
Quần hùng chạy tới một nơi vắng vẻ mới thay quần đổi áo.
Cả Công chúa, Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu cũng cải dạng nam trang.
Mọi người lại lên ngựa tiếp tục thượng lộ.
Vi Tiểu Bảo vẫn băn khoăn về Song Nhị Gã nói:
– Phong đại ca và một tên tiểu nha đầu của tại hạ vẫn kẹt lại trong cung, không hiểu tình hình ra sao? Tại hạ muốn nhờ một vị huynh đệ lạ mặt ở tỉnh ngoài trở lại kinh thành dò la tin tức, được chăng?
Lập tức hai người trong Thiên Đại hội ở Quảng Tây vâng lệnh ra đi.
Quần hào không thấy quan binh rượt theo mới hơi yên dạ.
Đoàn người đi một đoạn nữa bỗng thấy Mộc Kiếm Bình la lên một tiếng:
– Ô hay!
Rồi cô nổi lên một tràng cười khanh khách.
Nguyên con ngựa của Tăng Nhu cưỡi đi tiêu phân nát, suýt nữa bắn vào chân Mộc Kiếm Bình.
Đi chưa được bao lâu mấy con nữa cũng thế.
Tiếp theo con ngựa của Huyền Trinh đạo nhân hý lên một tiếng rồi ngã khụy xuống đất, không đứng dậy được nữa.
Tiền Lão Bản nói:
– Đạo trưởng! Chúng ta hai người cưỡi chung một con.
Huyền Trinh đáp:
– Phải rồi!
Đạo nhân liền nhảy xuống, ngồi ra sau lưng Tiền Lão Bản.
Vi Tiểu Bảo thấy tình hình này bất giác la hoảng:
– Sư phụ! Báo ứng! Vụ này thật hỏng rồi!
Trần Cận Nam hỏi:
– Ngươi bảo sao?
Vi Tiểu Bảo dầy vẻ khiếp sợ, miệng lắp bắp:
Ngô… Ngô ứng Hùng… hiện hồn… hiện hồn theo dõi đệ tử. Hắn căm hận đệ tư?
đã bắt hắn trở về, lại cướp… cướp…
Gã toan nói:
“lại cướp vợ hắn” nhưng không tiện nói ra liền dừng lại.
Gã nhớ ngày trước phụng chỉ đuổi theo Ngô ứng Hùng. Vì ngựa của hắn ăn phải bã đậu pha thuốc, dọc đường ỉa phân nát rồi lăn ra mà chết nên không trốn đi xa được và bị bắt trở về.
Giả tỷ dạo ấy Ngô ứng Hùng trốn về Vân Nam được thì dĩ nhiên Hoàng đế không thể giết hắn.
Vi Tiểu Bảo nghĩ cho cùng là do mình phái người hạ độc toán ngựa Vân Nam nên Ngô ứng Hùng mới bị bắt rồi bị giết.
Bây giờ đến lượt gã chạy trốn, đoàn ngựa này cũng bị đi phân nát rồi ngã lăn ra từng con. Gã cho là oan hồn của Ngô ứng Hùng hiện lên báo oán. Huống chi gã lại đem cả Công chúa là vợ của hắn đi nốt. Thế là Ngô ứng Hùng đã thành quỷ còn bị cắm sừng trên đầu nên trong lòng rất phẫn nộ, nhất định không chịu buông tha cho gã.
Vi Tiểu Bảo càng nghĩ càng sợ, bất giác người run lên bần bật. Lại nghe tiếng ngựa thét be be rồi hai con nữa lại ngã lăn ra.
Trần Cận Nam thấy tình hình khác lạ, vội hỏi đầu đuôi.
Vi Tiểu Bảo liền đem chuyện bắt Ngô ứng Hùng ngày trước thuật lại.
Gã run rẩy kết luận:
– Âm hồn của Ngô ứng Hùng chưa tiêu tan, vẫn quanh quẩn theo dõi đệ tử để báo thù. Vụ này… vụ này…
Công chúa tức giận xen vào:
– Tên tiểu tử Ngô ứng Hùng lúc sống đã là đồ bỏ thì chết đi cũng chỉ thành một tên quỉ đói. Việc gì mà ngươi phải sợ hãi?
Trần Cận Nam mỉm cười lên tiếng:
– Giữa ban ngày ban mặt làm gì có chuyện quỉ hiện hồn? Ngày ấy ngươi ha.
độc vào đoàn ngựa của Ngô ứng Hùng, Hoàng đế Thát Đát có biết không?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Đệ tử có nói cho y nghe. Y còn khen đệ tử là người có phúc tướng.
Trần Cận Nam gật đầu nói:
– Thế thì Phải rồi!. Hoàng đế Thát Đát đã dùng cách gậy ông đập lưng ông.
Y sợ ngươi chạy trốn nên sai người cho ngựa ăn bã đậu pha thuốc độc.
Vi Tiểu Bảo tỉnh ngộ nói:
– Phải rồi! Phải rồi! Ngày ấy bắt được Ngô ứng Hùng, tiểu Hoàng đế rất cao hứng, thưởng cho tên mã phu đánh thuốc độc đàn ngựa một chức quan nhỏ và phái gã đến phục vụ tại ty Xa Giá thuộc bộ Binh. Lần này nhất định y lại bảo hắn hạ độc toán ngựa của đệ tử.
Trần Cận Nam nói:
– Đúng rồi! Hắn đã thuộc đường đất, lại biết tính từng con ngựa một mà muốn hạ độc thì dĩ nhiên bách phát bách trúng.
Vi Tiểu Bảo tức giận nói:
– Lần sau mà đệ tử tóm được tên mã phu đó thì sẽ lấy bao nhiêu phân ngựa ở đây nhét cả vào miệng hắn…
Gã chưa dứt lời đột nhiên con ngựa gã đang cưỡi lao về phía trước một cái rồi té khụy.
Vi Tiểu Bảo vội vàng nhảy xuống thì thấy con ngựa này gắng gượng đứng lên, nhưng nó cụ cựa mấy cái rồi cả hai chân sau cũng khụy xuống.
Trần Cận Nam nói:
– Những con ngựa này không dùng được nữa rồi, chúng ta phải đi mau tới thi trấn phía trước mà tìm mua ngựa khác.
Liễu Đại Hồng xen vào:
– Muốn mua một lúc hàng mấy chục con ngựa tưởng không phải chuyện dễ dàng.
Trần Cận Nam đáp:
– Đúng thế! Vậy chúng ta phải tạm thời phân tán ra.
Mấy người đang nói chuyện bỗng thấy tiếng vó ngựa cồm cộp.
Huyền Trinh cả mừng nói:
– Quan binh Thát Đát sắp đuổi tới nơi. Chúng ta hãy giết bầy cừu non này cướp lấy ngựa.
Trần Cận Nam hô lớn:
– Anh em Thiên Đại hội phục ở mé tả đường lớn, anh em Mộc Vương Phủ và Vương ốc sơn phục ở mé hữu. Hễ quan binh tới là chúng ta xông ra một cách bất ngờ… úi chà! Hỏng rồi…
Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần. Toán quan binh rượt tới ít ra cũng có tới hàng ngàn nhân mã. Quần hào không cần hỏi tại sao Tổng đà chủ Trần Cận Nam lại hô ” Hỏng rồi” cũng hiểu cả. Ai nấy đều biến đổi sắc mặt.
Bọn quần hào có mấy chục người, tuy võ công cao cường, nhưng giữa ban ngày ban mặt ở nơi hoang dã mà giao phong với mấy ngàn kỵ binh tất bị quân địch bao vây trùng trùng điệp điệp thì địch lại làm sao được. Những người võ công cao thâm hoặc giả có thể phá vây thoát thân được, còn quá nửa tất bị uổng mạng.Trần Cận Nam quyết đoán rất mau lẹ, ông hô:
– Quan binh đông quá. Chúng ta không thể trực tiếp giáp trận. Anh em phải phân tán vào thôn xóm hoặc rừng núi mà ẩn tránh.Ông vừa nói được mấy câu thì đoàn kỵ binh đã tới gần thêm được một chút.Mọi người ngẩng đầu trông ra thì thấy cát bụi mịt mù như một làm mây đen bao phủ cả vùng thiên địa.Vi Tiểu Bảo la lớn:
– Hỏng bét! Hỏng bét! Rồi gã co giò chạy đi.
Công chúa quát hỏi theo:
– Này! Ngươi chạy di đâu đó? Nàng liền co giò rượt theo.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Nàng hãy trở về cung đi. Theo ta không được đâu.Công chúa tức mình thóa mạ:- Thằng lỏi thối tha kia! Ngươi tưởng trốn chạy được ư? Không phải chuyện dễ dàng đâu.Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ nghĩ thầm:
– “Trốn lánh Công chúa còn khó hơn trốn lánh quan binh nhiều”.Gã nhìn về phía góc tây bắc thấy ruộng kê mọc cao ngập đầu người, liền chạy thục mạng về phía đó.Lúc gã chạy gần tới nơi thấy phía sau đồng kê có hai căn nông xá, ngoài ra chẳng còn chỗ nào ẩn thân được. Gã tự nhủ:
– “Đoàn kỵ binh rượt theo chỉ trong nháy mắt là tới nơi. Ta đành ẩn thân vào trong ruộng kê kia vậy”.
Gã đang lom khom định chui vào thì sau lưng bị người nắm chặt, rồi tiếng Công chúa cười nói:
– Ngươi trốn thoát thế nào được?
Vi Tiểu Bảo quay lại nhăn nhó cười đáp:
– Nàng qua bên kia ẩn nấp, chờ đoàn truy binh chạy qua rồi sẽ tính.
Công chúa lắc đầu nói:
– Không được! Ta phải đi theo ngươi.
Rồi nàng cũng chui vào theo, kề đùi kề vai với gã.
Hai người chưa ẩn thân xong bỗng nghe tiếng bước chân vang lên và thanh âm Tăng Nhu la gọi:
– Vi tướng công! Vi tướng công!
Vi Tiểu Bảo thò đầu ra thấy Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình song song chạy tới.
Gã đáp:
– Tại hạ Ở đây. Các cô chui vào mau đi!
Hai cô tuân lời chuồn vào.
Bốn người đi sâu vào trong ruộng kê, cành lá rườm rà, cho là quan binh khó lòng phát giác mới hơi yên dạ.
Chẳng bao lâu đã nghe tiếng đại đội quan binh truy đuổi rong ruổi trên đường lớn.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
– “Ngày trước ta cùng A Kha lại có cả sư thái sư phụ và thằng lỏi thối tha Trịnh Khắc Sảng cũng là bốn người ẩn thân trong đống rơm. Hỡi ơi! Nếu bên mình ta không phải là nàng Công chúa tệ hại này mà là A Kha thì có phải là sướng muốn chết không? Không hiểu bây giờ cô chiêu A Kha ở đâu? Chắc cô đã làm vợ tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng rồi” bỗng nghe những tiếng quát tháo truyền lệnh từ xa vọng lại.
Tiếp theo gã nghe rõ tiếng đội kỵ binh dừng lại rồi tiếng vó ngựa lộp cộp đang xục tìm về phía bên này.
Công chúa kinh hãi nói:
– Bọn chúng ngó thấy bọn ta rồi.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Đừng lên tiếng. Họ đã ngó thấy đâu?
Công chúa hỏi:
– Sao ngươi lại biết? Bọn chúng đang đi tới đây đó thôi.
Bỗng nghe một người lớn tiếng:
– Lừa ngựa của bọn phản tặc chết lăn ở đây, nhất định bọn chúng chưa chạy xa được. Các ngươi phải xục tìm cho kỹ.
Công chúa bụng bảo dạ:
– “Té ra là vậy! Những con ngựa chết này tai hại vô cùng!” Nàng chìa tay ra nắm chặt lấy Vi Tiểu Bảo.
Ngoài quan ải tỉnh Liêu Đông là nơi đất rộng người thưa, thổ địa phì nhiêu.
Cánh đồng kê rộng hàng ngàn mẫu, một vùng bao la bát ngát không biết đâu là bờ bến. Những cây kê mọc cao coi như một bức thảm xanh rì. Ai ẩn mình trong đó thật khó mà tìm ra được.
Nhưng ở đây gần Bắc Kinh, kê mọc thưa thớt mà không cao lắm. Bọn Vi Tiểu Bảo bốn người chui vào cánh đồng kê này chỉ rộng không đầy ba chục mẫu. Đại đội quan binh mà xục tìm thì chỉ trong nháy mắt là tìm thấy, thì chỉ đành bó tay chịu trói.
Lại nghe bọn quan binh đi tới mỗi lúc một gần. Vi Tiểu Bảo khẽ nói:
– Chúng ta chuồn vào căn nhà bên kia.
Gã kéo áo Mộc Kiếm Bình chạy trước về phía hai căn nông xá. Ba cô gái lật đật chạy theo sau.
Bốn người vào qua phên dậu, đẩy cánh cửa ván ra thì thấy trong nhà vắng ngắt chẳng có một ai. Trong góc nhà xếp đầy nông cụ.
Vi Tiểu Bảo vội ch?a.y tới lấy mấy chiếc áo tơi đưa cho ba cộ Miệng giục:
– Khoác vào lẹ đi!
Chính gã cũng khoác một cái, lại đội lên đầu chiếc nón rộng vành. Gã còn cầm một chiếc cuốc sắt ngồi ở góc nhà.
Công chúa cười nói:
– Chúng ta giả làm dân quê một phen, kể cũng thú.
Mộc Kiếm Bình thở phào một tiếng, khẽ nói:
– Chúng đến nơi rồi.
Cánh cửa ván kẹt mở. Bảy tám tên quan binh xông vào.
Bọn Vi Tiểu Bảo vội quay đầu nhìn ra chỗ khác, không dám nhìn thẳng.
Sau một lát lại nghe một người lớn tiếng:
– Nơi đây không có tên nào. Bọn hương nông ra ngoài canh tác hết rồi.
Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm rất quen tai liền ghé mắt qua vành nón thì ra người này chính là Triệu Lương Đống. Bất? giác gã vừa kinh ngạc vừa mừng thầm.
Lại nghe một tên quân nói:
– Tổng binh đại nhân. Bốn người này…
Triệu Lương Đống quát lớn:
-Các ngươi ra cả ngoài kia. Để ta xục tìm kỹ coi. Căn nhà nhỏ bé này mà, con mẹ nó! Các ngươi đứng chật ních thì còn xoay mình làm sao được?
Bọn quân sĩ vâng dạ luôn miệng, tới tấp lui ra.
Triệu Lương Đống lại lớn tiếng quát:
– Nơi đây không có tên lạ mặt nào đến cả.
Hắn đi vào phía trong nhòm ngó, bỗng bật tiếng la khẽ:
– Ô hay!
Hắn ngơ ngác một chút rồi tiến lại bên Vi Tiểu Bảo thò tay vào bọc móc ra một đỉnh vàng ba lạng nhẹ nhàng đặt xuống chân gã.
Đoạn hắn lại lớn tiếng:
– Bọn phản tặc đào tẩu lên mặt bắc hết rồi. Chúng biét là Hoàng thượng rất căm hận, bắt được nhất định chém đầu nên đã cao chạy xa baỵ Chắc chúng chạy xa lắm rồi. Phen này không bắt được chúng là nguy cả đấy.
Hắn cúi đầu chắp tay nhìn Vi Tiểu Bảo nghiêng mình mấy cái rồi quay gót trở ra.
Miệng hắn vẫn quát tháo:
– Bọn phản tặc nhất định chạy lên mặt bắc. Chúng ta phải rượt theo cho lẹ.
Vi Tiểu Bảo buông tiếng thở dài nghĩ bụng:
– “Triệu tổng binh đối với ta thật hết lòng nghĩa khí. Nếu vụ này bị tiết lộ ra thì hắn phải mất đầu”.
Lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một xạ Đoàn truy binh rượt theo ngược lên phía bắc.
Công chúa nói:
– Tên tổng binh hiển nhiên ngó thấy bọn ta mà sao ỵ..
Nàng chợt trông thấy vàng bạc liền nói tiếp:
– Ủa! Y còn cho ngươi vàng bạc nữa ư? Vậy ra y là bạn hữu của ngươi.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Chúng ta theo cửa hậu mà chạy trốn.
Gã thu vàng bạc bỏ vào bọc rồi chạy ra phía sau.
Gã vừa bước xuống sân đã ngó thấy ngoài hiên có tám chín người ngồi đó.
Vi Tiểu Bảo sợ quá, bật tiếng la hoảng rồi xoay mình toan chạy trốn.
Nhưng gã vừa cất bước thì cổ áo đã bị người xiết chặt. Một người tóm được gã giơ lên. Người đó lạnh lùng nói:
– Ngươi còn trốn được nữa chăng?
Người này chính là Hồng giáo chủ. Còn tám người nữa là Hồng phu nhân. ủy tôn giả Lục Cao Hiên, Thanh long sứ Hứa Tuyết Đình, Xích long sứ Vô Căn đạo nhân, Hắc long sứ Trương Đạm Nguyệt, Hoàng long sứ Trần Bá Cương và một thiếu nữ là Phương Di.
Té ra những nhân vật đầu não của Thần Long giáo đều tụ họp ở đây.
Công chúa tức giận hỏi:
– Ngươi túm lấy y làm gì?
Nàng vung cước đá Hồng giáo chủ.
Hồng giáo chủ khẽ hạ thấp tay trái xuống, búng ngón tay giữa vào sống chân nàng.
Công chúa “ối” một tiếng. Nàng đau quá không chịu nổi té lăn xuống đất.
Vi Tiểu Bảo người lơ lửng trên không, miệng vẫn hô lớn:
– Giáo chủ cùng phu nhân tiên phúc vĩnh hưởng, thọ dữ thiên tề. Đệ tử là Vi Tiểu Bảo xin tham kiến nhị vị lão nhân gia.
Hồng giáo chủ cười lạt đáp:
– Ngươi vẫn nhớ được hai câu chúc hay quá nhỉ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Hai câu này đệ tử thời khắc ghi vào lòng, sáng sớm dậy niệm một lần, lúc rửa mặt niệm một lần. Lúc ăn cơm sáng niệm một lần, lúc ăn cơm trưa niệm một lần, ăn cơm tối niệm một lần, lúc đi ngủ niệm một lần, không ngày nào quên cả.
Hồng giáo chủ từ khi sào huyệt ở Thần Long đảo bị phá hủy, giáo chúng phần thì chết, phần lìa tan, bên mình lão chỉ còn lèo tèo mấy người lão huynh đệ cùng nhau bôn ba trên chốn giang hồ. Mọi người đối với câu chúc tụng:
– “Tiên phúc vĩnh hưởng, thọ dữ thiên tề” nói ra một cách lạt lẽo. Bây giờ lão nghe Vi Tiểu Bảo hô mấy câu này bằng một giọng sốt sắng, bất giác trong lòng cảm thấy vui vui. Lão liền đặt gã xuống, bộ mặt vốn lạnh như tiền bỗng lộ ra một nụ cười hứng thú.
Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Bữa nay thuộc hạ được bái kiến giáo chủ, toàn thân rạo rực, tinh thần phấn khởi, nhưng còn một điều không sao hiểu được.
Hồng giáo chủ hỏi:
– Điều chi?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Kể ra từ hôm thuộc hạ chia tay cùng giáo chủ và phu nhân đến nay đã lâu ngày mà sao giáo chủ dường như trẻ hơn trước đến bảy tám tuổi. Phu nhân càng biến thành người non nớt hơn, như một cô tiểu muội muội. Cái đó mới thật là kỳ!
Hồng phu nhân cười khanh khách, đưa tay ra véo má gã nói:
– Thằng khỉ con này! Công phu nịnh bợ của ngươi đáng vào bậc nhất thiên hạ.
Công chúa thấy thế tức giận quát mắng:
– Mụ đàn bà này thật là mặt dầy! Làm sao vừa thấy trai đã động thủ động cước?
Hồng phu nhân cười nói:
– Ta mới động thủ chứ chưa động cước. Được lắm! Bây giờ ta động cước cho ngươi coi.
Mụ nói rồi vung chân trái lên đá đánh bốp một cái vào vai Công chúa. Đòn cước này rất nặng khiến Công chúa đau quá lớn tiếng la làng.
Bỗng nghe tiếng vó ngựa từ đằng xa vọng lại. Chỉ trong khoảnh khắc bốn mặt tám hướng quan binh đã kéo đến không biết bao nhiêu, vây chặt căn nông xá.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Thưa giáo chủ! Lão nhân gia thần thông quảng đại, đánh đâu được đấy. Vậy xin lão nhân gia thi triển thần oai, đánh tan bọn này hay phá vòng vây để đưa thuộc hạ đi theo.
Gã nghĩ thầm:
– “Hồng giáo chủ và bọn ủy Tôn Giả đều là những tay võ công cao cường.
Nếu họ định phá vây chắc chẳng khó gì”.
Giữa lúc ấy lại nghe tiếng vó ngựa từ đằng xa vọng tới. Thêm một đại đội nhân mã kéo đến.
Hồng giáo chủ lắc đầu đáp:
– Quan binh đông quá mà chúng ta lại không có lừa ngựa, chẳng thể nào xông pha được.
“Binh” một tiếng, cửa lớn bị đẩy bật ra. Mười mấy tên quan binh kéo vào.
Hai người đi trước nhìn bọn Vi Tiểu Bảo một lượt rồi nói:
– Đây toàn là bọn nông dân không liên quan gì đến quốc sự.
Vi Tiểu Bảo nghe rõ thanh âm Vương Tiến Bảo, trong lòng khấp khởi mừng thầm. Gã quay đầu nhìn ra quả thấy Vương Tiến Bảo cùng Tôn Tư Khắc đứng đó.
Hai người đưa mắt ra hiệu cho gã rồi xua tay cho bọn quân sĩ lui ra.
Tôn Tư Khắc vờ lớn tiếng hỏi:
– Này! Mấy người nông dân kia! Các ngươi có thấy bọn phản tặc chạy trốn qua đây không?… Không có ư? Vậy bọn ta phải đi nơi khác truy nã.
Vi Tiểu Bảo động tâm tự nhủ:
– “Phen này mà ta lọt vào tay bọn Thần Long giáo thì có dùng hoa ngôn xảo ngữ đến mấy cũng khó giữ cho toàn tính mạng. Chi bằng hãy theo hai gã Vương, Tôn thoát khỏi độc thủ của Thần Long giáo rồi sau đó sẽ tìm cách để chúng phải buông tha mình”.
Gã thấy Tôn Tư Khắc cùng Vương Tiến Bảo toan trở gót ra ngoài liền cất tiếng gọi:
– Vương nhị ca! Tôn tứ ca! Tiểu đệ là Vi Tiểu Bảo đây. Xin hai vị ca ca cho tiểu đệ đi theo.
Tôn Tư Khắc đáp:
– Lỗ tai ta điếc mất rồi. Ngươi nói gì ta nghe không rõ.
Vương Tiến Bảo đỡ lời:
– Chú em nông thôn này không có tiền xài. Gã hỏi lão tứ trong mình có tiền không?
Tôn Tư Khắc hỏi:
– Gã muốn xin tiền ư? Có đây! Có đây!
Hắn móc trong bọc ra một tập ngân phiếu đưa cho Vi Tiểu Bảo nói:
– Mấy tên phản tặc ở thành Bắc Kinh chạy trốn mất rồi. Đức Hoàng thượng nổi trận lôi đình, phái mấy ngàn binh mã rượt theo tróc nã. Hễ bắt được là chặt đầu ngay tức khắc. Tiểu huynh đệ! Nơi đây nguy hiểm vô cùng. Nếu chú bị bắt oan là mất mạng đó chứ chẳng phải trò đùa mà dây vào.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Các vị bắt tiểu đệ quách. Chẳng thà tiểu đệ đi theo nhị vị..
Vương Tiến Bảo ngắt lời:
– Chú muốn nhập ngũ để ăn lương cho nhiều chăng? Ha ha! Vào quân ngũ chẳng phải chuyện chơi đâu mà ham. Mặt ngoài Hoàng thượng còn phái những đội súng lớn súng nhỏ sắp nổ đoàng đoàng. Dù là người bản lãnh cao thâm đến đâu cũng không chống nổi.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
– “Nếu có đội súng lớn lại càng tuyệt diệu. Chắc Hồng giáo chủ không dám hành động càn rỡ” Gã liền đáp:
– Tiểu đệ có việc muốn về tâu Hoàng thượng. Các vị cứ dẫn tiểu đệ đi.
Vương Tiến Bảo thấy gã cứ lằng nhằng liền nói rõ:
– Hoàng thượng mà thấy chú là lập tức chặt đầu. Hoàng thượng cũng chỉ có hai con mắt, một mũi, một miệng, lạ lùng gì mà đòi đi coi. Bọn ta lưu lại đây mười ba con ngựa cho mười ba người các ngươi coi giữ. Sau bảy, tám năm các ngươi đưa đến kinh thành hoàn lại. Hễ chết con nào là phải bồi thường. Vậy các ngươi phải cẩn thận.
Hồi 212
Bọn thiếu niên khẩu thị tâm phi
Vương Tiến Bảo vừa nói vừa xoay mình đi ra.
Vi Tiểu Bảo rất đỗi bồn chồn, chạy theo níu áo la lên:
– Vương tam ca! Tam ca hãy đưa tiểu đệ đi theo.
Đột nhiên gã thấy một bàn tay to tướng nắm lấy đầu gã. Chính là Hồng giáo chủ. Lại nghe lão nói:
– Tiểu huynh đệ! Quan tổng binh đây từ kinh thành ra đi. Lão nhân gia đã có lòng tốt cho biết rõ ý kiến của Hoàng thượng. Ngươi đừng nghĩ vớ nghĩ vẫn nữa.
Tôn Tư Khắc cũng lớn tiếng:
– Đúng thế! Chúng ta phải đi truy đuổi phản tặc cho lẹ, không thể chần chờ được.
Vi Tiểu Bảo biết mạng mình lúc này ở trong tay Hồng giáo chủ. Lão chỉ nhả nội kình một cái là lập tức đầu gã phải nát như tương. Nhưng chẳng chết lúc này thì cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Gã vội lớn tiếng năn nỉ:
– Xin các vị bắt tiểu đệ đem đi. Tiểu đệ là Vi Tiểu Bảo đây mà.
Mọi người nghe gã la đều sửng sốt.
Tôn Tư Khắc cười hô hố đáp:
– Vi Tiểu Bảo là thằng nhỏ mới mười mấy tuổi đầu. Còn ngươi là ông lão bẩy tám chục tuổi đầu, sao dám lớn tiếng nói đùa? Há chẳng làm người ta phải cười đến trẹo quai hàm?
Hắn nói rồi kéo tay áo Vương Tiến Bảo, hai người song song rảo bước đi ra.
Lại nghe tiếng quát tháo truyền lệnh:
– Để lại đây mười ba con ngựa, cho truy binh đến sau biết tin tức. Phóng hỏa đốt ngay hai căn nhà gianh kia khiến bọn phản tặc không còn chỗ ẩn nấp.
Quân sĩ dạ ran tuân lệnh.
Lập tức có người phóng hỏa đốt nhà.
Tiếp theo tiếng vó ngựa lộp cộp vang lên, đại đội nhân mã nhằm phía bắc rong ruổi.
Vi Tiểu Bảo thở dài sườn sượt nghĩ bụng:
– “Phen này nhất định ta phải chết rồi. Vương tam ca cùng Tôn tứ ca sợ ta không chạy mà còn đạo binh khác rượt tới là hết đường”.
Một nóc nhà gianh lửa bốc lên ngùn ngụt, khói đen giàn giụa ra tứ phía.
Hồng giáo chủ cười lạt nói:
– Bạn hữu ngươi đều có lòng nghĩa khí, đã cho tiền lại tặng ngựa. Chúng ta đi thôi.
Tăng Nhu đỡ Công chúa dậy. Đoàn người theo cổng hậu ra ngoài quanh về phía trước quả nhiên thấy mười ba con ngựa buộc ở một gốc cây lớn. Trong đám này có hai con yên cương còn mới nguyên, hiển nhiên là ngựa của Vương Tiến Bảo và Tôn Tư Khắc.
Hồng giáo chủ vung tay trái lên một cái, bốn tiếng “véo véo” vang lên. Lão đã liệng ra bốn thanh đoản kiếm.
Tiếp theo bốn tiếng “răng rắc” vang lên. Bốn cành cây lớn trên cây cổ thụ bị chặt đứt, rơi xuống ầm ầm.
Hoàng Long sứ Trần Bá Cương tán tụng:
– Thần kiếm của giáo chủ đã đến trình độ thiên hạ vô song. Bọn ngươi là bốn đứa trẻ nít mà hòng trốn chạy thì hãy coi bốn cành cây kia làm gương.
Hắn dứt lời tán tụng liền tung mình vọt đi lượm bốn thanh đoản kiếm mang về, hai tay cung kính đưa hoàn trả cho Hồng giáo chủ.
Đoàn người chia nhau cưỡi mười ba con tuấn mã.
Lục Cao Hiên phóng ngựa chạy trước, mười hai con theo sau thành hàng chữ nhất chạy về hướng đông nam.
Vi Tiểu Bảo chỉ mong có truy binh tới nơi bắt mình đem về Hoàng cung. Gã tính thầm:
– “Tiểu Hoàng đế có mối tình nghĩa thâm trọng với tạ Chuyến này ta mắc trọng tội, vị tất đã khỏi mất đầu. Nhưng dù sau bị chết bởi tay tiểu Hoàng đế cũng còn hơn để lão giáo chủ thâm độc này bắt đưa đi. Ta lọt vào tay lão chẳng những cũng phải chết mà còn phải chịu biết bao nhiêu nỗi khổ ải nữa”.
Nhưng đoàn người đi mỗi lúc một xa mà vẫn không nghe thấy tiếng vó ngựa rượt theo.
Mười ba con tuấn mã này do chính Vương Tiến Bảo, một tay sành ngựa nổi tiếng lựa chọn, toàn là lương câu. Chúng chạy nhanh như gió. Mặc dù đằng sau có truy binh cũng khó lòng đuổi kịp được. Huống chi ba vị tổng binh Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc đều dẫn quan binh rượt lên phía bắc.
Dọc đường ai nấy đều ngậm tăm, không nói câu nào. Chỉ một mình Công chúa không ngớt kêu la, chửi mắng. Sau cùng cũng bị Trần Bá Cương điểm vào á huyệt.
Tuy nàng tức đến vỡ bụng mà không lên tiếng thóa mạ được.
Hồng giáo chủ thống lĩnh đoàn người ngựa, cứ nhằm nơi hoang lương lao thẳng về hướng đông nam. Đêm cũng nghỉ nơi đồng không mông quạnh.
Vi Tiểu Bảo đã mấy lần toan lẩn trốn, nhưng Hông lão chủ cũng là người qui?
quyệt, cơ trí chẳng kém gì gã. Mấy lần gã toan hành động đều bị ăn đòn mấy thoi quyền cước mà chẳng được ích gì. Sau cùng gã tự biết không còn cách nào thoát khỏi bàn tay Hồng giáo chủ nên đành chịu theo.
Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, sau mấy tháng hành trình mới tới bờ biển.
Lục Cao Hiên móc trong người Vi Tiểu Bảo lấy mấy tấm ngân phiếu để mướn một con thuyền lớn ra khơi.
Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ. Gã nghĩ tới tiền mướn thuyền cũng của gã để địch nhân đưa mình đi hành tội, trong lòng gã càng căm hận chua xót.
Đoàn người xuống thuyền rồi, nhà đò dương buồm chạy về phía đông.
Vi Tiểu Bảo trong lòng căm hận mắng thầm:
– “Phen này chúng lại đưa lão gia ra Thần Long đảo. Chắc con rùa đen Hồng giáo chủ định đem thịt lão gia để nuôi rắn”.
Gã nghĩ tới thảm cảnh khi bị bầy rắn độc trên đảo xúm lại há miệng đớp vào mình gã, bất giác toàn thân run bần bật.
Sau gã trấn tĩnh tự nhủ:
– “Phải tìm cách nào phá thủng một lỗ lớn dưới đáy thuyền để nước ùa vào cho chết cả lũ mới yên được” Vi Tiểu Bảo có ý định như vậy, nhưng bọn giáo chúng đã biết gã quỉ kế đa đoan, giám thị rất gắt gao khiến gã không có cơ hội nào để động thủ.
Vi Tiểu Bảo hồi tưởng lại lần trước đã đến đảo Thần Long. Lần đầu gã ngồi thuyền cùng Phương Di, thủ thỉ bên tai mình mình ta ta, kể sao cho xiết nỗi ôn nhu đằm thắm. Lần thứ hai gã thống lĩnh đại binh, oai phong bát diện, lẫm liệt tứ phương. Đến lần này gã bị người quyền đấm chân đá, mất mạng trong sớm tối.
Những nỗi lo âu, vui sướng trong mấy chuyến đi thật khác nhau một trời một vực.
Từ ngày dời khỏi nhà nông xá ngoại thành Bắc Kinh, gã cùng Phương Di trên bộ cưỡi ngựa song hành, ngoài biển ngồi chung một thuyền mà thủy chung cô vẫn trơ ra như gỗ, lẳng lặng chẳng nói câu gì, nỗi mừng vui cũng không lộ ra ngoài mặt.
Tuy cô không hành hạ gã, nhưng thủy chung chẳng thèm đưa mắt ngó tới gã lần nào.
Có lúc gã cho là Phương Di khiếp oai Hồng giáo chủ, dù trong lòng có mối thâm tình với gã cũng chẳng dám hé răng. Có lúc gã lại nghĩ là đã mắc bẫy cô nhiều lần và cho cô là một nữ nhân thâm hiểm quỷ quyệt nhất thiên hạ. Bất giác gã nghiến răng căm hận.
Ngồi thuyền ít ngày, quả nhiên đã tới Thần Long đảo.
Lục Cao Hiên, ủy tôn Giả áp giải bọn Vi Tiểu Bảo, Công chúa, Mộc Kiếm Bình và Tăng Nhu bốn người lên bờ.
Trần Bá Cương bức bách nhà đò cũng phải dời thuyền. Một tên chân sào đưa ra dị nghị liền bị chém chết. Thế là bao nhiêu người trong thuyền đều sợ bở vía không còn ai dám lên tiếng nữa, đành líu ríu lên bờ hết.
Trên đảo cây khô lá úa, gạch ngói ngổn ngang. Khắp chỗ đều là vết tích của cuộc nổ súng tập kích ngày trước còn để lại.
Trong rừng cây mùi hôi thối sặc sụa xông lên mũi. Dọc đường đầy những xác rắn phơi xương.
Đoàn người dừng trước đại đường, chỉ thấy tường đổ trúc gẫy. Mấy chục căn nhà tre bị phá hủy hoàn toàn không còn lấy một gian.
Hồng giáo chủ đứng nhìn cảnh hoang phế tan tành, lẳng lặng không nói câu gì.
Bọn Trần Bá Cương đều đầy vẻ phẫn nộ.
Trương Đạm Nguyệt đột nhiên lớn tiếng hô:
– Hồng giáo chủ đã về đảo! Giáo chúng các lộ mau mau ra làm lễ tham bái!
Hắn đã đề tụ chân khí, tiếng hô truyền đi xa mấy dặm. Sau một lúc hắn hô đi hô lại mấy lần mà chỉ nghe thấy tiếng vang trong sơn cốc vọng trở lại hồi lâu không ngớt. Nhưng bốn mặt vẫn hiu quạnh chẳng những không thấy giáo chúng kéo đến mà cũng chẳng có tiếng người đáp lại.
Hồng giáo chủ quay lại ngó Vi Tiểu Bảo bằng con mắt hằm hằm, cất tiếng gay gắt hỏi:
– Ngươi thống lãnh quan binh bắn đại pháo lên đảo khiến cho Thần Long giáo rộng lớn này tan tành như xác pháo. Ngươi đã vui lòng hả dạ chưa?
Vi Tiểu Bảo thấy lão đầy vẻ oán độc, lông tóc dựng đứng cả lên. Gã cất tiếng run run đáp:
– Cảnh cũ chưa đi,…. cảnh mới chưa lại…. Hồng giáo chủ trùng trấn oai phong…. đại triển hồng đồ, gây lại tân giáo khai trương phát tài, làm ăn hưng thịnh suốt bốn biển, tài nguyên đầy rẫy khắp tam giang…. Cái đó kêu bằng càng đốt càng lên…. càng nổ càng thịnh vượng. Hồng giáo chủ tiên phúc vĩnh hưởng…
Hồng giáo chủ nói:
– Hay lắm!
Đột nhiên lão vung chân đá Vi Tiểu Bảo bắn tung lên rồi rớt xuống đánh ầm một tiếng. Gân cốt gã tưởng chừng đứt hết, không bò dậy được nữa.
Trần Bá Cương tiến lại khom lưng nói:
– Khải bẩm giáo chủ! Tên tiểu tặc này tội đáng muôn thác. Xin cho bọn thuộc hạ mỗi người chặt một đao phân thây gã ra làm muôn đoạn.
Hồng giáo chủ hắng dặng một tiếng đáp:
– Hãy khoan!
Sau một lúc lão nói tiếp:
– Trong lòng tên tiểu tử này còn giấu một cơ mật trọng đại. E rằng việc phục hưng bản giáo phải dựa vào những bí mật trọng đại đó. Vậy tạm thời chưa thể giết gã ngay được.
Trần Bá Cương nói:
– Dạ dạ! Giáo chủ nhìn xa trông rộng. Bọn thuộc hạ ngu tối không thể hiểu được những điều ảo diệu bên trong.
Hồng giáo chủ ngồi xuống phiến đá lớn, trầm tư một lúc rồi nói:
– Từ xưa đến nay những người làm nên đại sự nhất định phải trải qua nhiều tai nạn to lớn. Bản giáo trong lúc nhất thời bị khốn đốn là chuyện thường, chẳng có chi kỳ lạ. Hiện giờ giáo chúng tan nát, chúng ta phải nghĩ cách chỉnh đốn lại chính sự như thế nào? Ai có ý kiến gì cứ việc đưa ra.
Trần Bá Cương đáp:
– Giáo chủ là bậc anh minh trí tuệ hơn đời. Bọn thuộc hạ suy nghĩ cả mười đêm ngày cũng không bằng giáo chủ chợt động tâm cơ trong nháy mắt. Vậy xin giáo chủ chỉ thị lương sách để bọn thuộc hạ thi hành là xong.
Hồng giáo chủ lẩm nhẩm gật đầu nói:
– Công việc đầu tiên hiện giờ là tụ tập giáo chúng trở lại. Lần trước quan binh Thát Đát nổ súng lên đảo, tuy giáo chúng bị thương vong rất nhiều, nhưng bất quá ba phần mới mất một. Còn hai phần lưu tán ra tứ phương. Bản tòa cho Lục Cao Hiên thăng lên chức Bạch Long sứ để bổ xung cho đủ số Ngũ Long sứ.
Lục Cao Hiên cúi đầu tạ Ơn.
Hồng giáo chủ lại nói:
– Thanh, Xích, Bạch, Hắc, Hoàng Ngũ Long sứ lập tức chia ra các ngả chiêu tập cựu bộ. Nếu thấy những nam nữ thiếu niên có đủ tư cách cũng thu về làm thuộc hạ để trùng hưng bản giáo.
Trần Bá Cương, Trương Đạm Nguyệt, Lục Cao Hiên ba người khom lưng đáp:
– Bọn thuộc hạ xin kính cẩn tuân theo hiệu lệnh giáo chủ.
Xích Long sứ Vô Căn đạo nhân và Thanh Long sứ Hứa Tuyết Đình lẳng lặng không nói gì.
Hồng giáo chủ lé mắt ngó hai người hỏi:
– Xích Long sứ và Thanh Long sứ có ý kiến gì?
Hứa Tuyết Đình đáp:
– Khải bẩm giáo chủ! Thuộc hạ có hai điều trình bày, mong giáo chủ chuẩn y cho.
Hồng giáo chủ hắng dặng một tiếng hỏi:
– Hai điều gì?
Hưa Tuyết Đình đáp:
– Bọn thuộc hạ trước nay vẫn hết dạ trung thành cùng bản giáo và giáo chủ.
Thế mà giáo chủ thủy chung vẫn không tín nhiệm anh em khiến lòng người chán nản. Điều thứ nhất thuộc hạ khẩn cầu giáo chủ rộng lượng ban thuốc giải Độc Long hoàn để cho anh em không phải lo lắng gì nữa là họ sẽ hết lòng phục vu.
cho giáo chủ.
Hồng giáo chủ lạnh lùng nói:
– Nếu bản tòa không ban thuốc giải thì các ngươi không hết lòng hết ý làm việc cho bản giáo chăng?
Hứa Tuyết Đình đáp:
– Thuộc hạ không có ý thế. Còn điều thứ hai thuộc hạ nhận thấy bọn thiếu niên cả nam lẫn nữ làm việc nên thì không đủ mà làm hư việc lại có thừa. Khi gặp biến cố trọng đại là tên nào tên nấy trốn sạch sành sanh. Phen này bản giáo gặp cơn hoạn nạn, thủy chung chỉ có bọn lão huynh đệ mấy người như thuộc hạ là thủy chung vẫn đi theo giáo chủ cùng phu nhân. Còn bọn thiếu niên đệ tử, thường ngày luôn miệng nói đến dốc dạ trung trinh, nào là nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, nào là muôn thác chẳng từ. Nhưng lúc lâm sự đã có tên nào tận tâm vì giáo chủ ra sức chưa? Theo ngu kiến của thuộc hạ thì phen này chúng ta trùng hưng bản giáo, chỉ nên thu nạp bọn nam tử hán, đại trượng phu có tư cách và có thể gánh vách trọng trách mới cho gia nhập mà thôi. Những hạng thiếu niên nam nữ khẩu thị tâm phi, ăn nói hoang đường tỷ như tên tiểu tặc phản loạn Vi Tiểu Bảo, nhất quyết không dung đến.
Hồng giáo chủ nghe Hứa Tuyết Đình thuyết như vậy, mỗi câu làm cho lão tím mặt thêm một tầng. Hứa Tuyết Đình trong lòng hồi hộp run sợ, phải liều lĩnh mới nói hết được những điều vừa trình bày.
Hồng giáo chủ phóng nhãn quan nhìn vào mặt Vô Căn đạo nhân lạnh lùng hỏi:
– Xích Long sứ ý kiến thế nào?
Vô Căn đạo nhân lùi lại hai bước đáp:
– Thuộc hạ nhận thấy lời trình bày của Thanh Long sứ rất đúng lý. Xe trước đã đổ, xe sau không nên đi vào vết cũ. Trước kia không biết để gây nên lỗi lầm thì nay phải tránh. Việc đời có dại mới nên khôn. Giáo chủ là bậc đại trí đại tuệ tất cũng nhận ra không nên thu dụng bọn thiếu niên nam nữ, lại càng không thể tin vào bọn chúng được, tỷ như…. tỷ nhự..
Vô Căn đạo nhân nói tới đây trỏ vào Mộc Kiếm Bình nói tiếp:
– Vị tiểu cô nương đây nguyên là thuộc hạ dưới trướng Bạch Long sứ. Vừa gặp cơn nguy biến thì lập tức phản giáo hàng địch. Loại người này phải truy tầm về mà băm vằm để răn kẻ phản nghịch.
Hồng giáo chủ lại liếc mắt nhìn bọn Lục Cao Hiên một lượt rồi hỏi:
– Những lời nghị luận của Thanh Long sứ và Xíc Long sứ thế nào?
Mọi người lẳng lặng không ai lên tiếng. Sau một lúc ủy Tôn Giả mới nói:
Khải bẩm giáo chủ! Bọn thuộc hạ chưa bàn qua vụ này, nhưng nhận thấy…. nhận thấy những điều trình bày của hai vị Thanh Long sứ và Xích Long sứ có điều hợp lý.
Hồng giáo chủ lại đưa mắt nhìn Trương Đạm Nguyệt hỏi ý kiến.
Trương Đạm Nguyệt khép nép đáp:
– Chuyến này bản giáo gặp hiểm họa tan tành, tên đầu tội dĩ nhiên là gã tiểu tặc Vi Tiểu Bảo. Đối với hạng người này thuộc hạ thấy không thể nào tin được.
Hồng giáo chủ lẩm bẩm gật đầu nói:
– Hay lắm! ý kiến của ngươi cũng giống mấy người kia. Còn Lục Cao Hiên!
Ngươi nghĩ sao?
Lục Cao Hiên đáp:
– Thuộc hạ chịu ơn lớn của giáo chủ cất nhắc lên chức Bạch Long sứ, dĩ nhiên phải nỗ lực tận trung báo đáp. Những ý kiến của Thanh Long sứ cùng mấy vị đều dốc lòng vì bản giáo, quyết chẳng có quan niệm nào khác.
Trần Bá Cương bỗng lên tiếng:
– Các vị nói vậy là sai lầm rất lớn. Giáo chủ đã có thâm mưu viễn lự. Trí tuệ của ngài còn cao xa gấp trăm lần chúng tạ Vậy chúng ta hà tất phải nói nhiều, chi?
nên nghe theo lệnh chỉ huy của giáo chủ cùng phu nhân là hay hơn hết. Bọn quan binh Thát Đát nổ súng lên đảo chẳng qua là quét trừ cát bụi, tẩy rửa nhơ nhớp, vạch mặt những tên bạn đồ bất trung cùng giáo chủ. Đó cũng là một việc rất hay.
Nếu không có diễn biến này thì khó lòng biết được lòng dạ kẻ gian người ngay.
Theo nhận xét của thuộc hạ thì bản giáo sẽ trở nên hưng vượng rất mau chóng.
Bọn thuộc hạ chúng ta bất quá là ếch nằm đáy giếng, nhãn quan thiển cận, kiến thức thô lậu, chỉ nhòm thấy những chuyện lợi hại trong lúc nhất thời, đâu có sáng suốt được như giáo chủ, tính rõ cả việc trăm năm.
Hứa Tuyết Đình tức giận thóa mạ:
– Sở dĩ bản giáo phải một phen thất bại tan tành, phần lớn là bị hại về tay những tên xú quỷ tâng công nịnh bợ như ngươi. Ngươi tâng công bợ đít như vậy có lợi ích gì cho bản giáo hay không? Và đem lợi ích gì cho giáo chủ?
Trần Bá Cương tức giận lắp bắp:
– Cái gì mà ngươi nói tâng công bợ đít? Phải chăng ngươi…. ngươi muốn tạo phản?
Hứa Tuyết Đình tức giận quát mắng:
– Chính ngươi mới bụng dạ tiểu nhân, vô liêm sỉ, làm băng hoại bản giáo.
Ngươi mới là kẻ phản bội.
Trần Bá Cương lùi lại một bước lớn tiếng hỏi:
– Ngày trước ngươi đã làm loạn, mạo phạm tới người trên, phản bội giáo chủ.
May được giáo chủ cùng phu nhân đại lượng khoan hồng, không truy xét những việc đã quạ Bữa nay…. bữa nay ngươi lại muốn tạo phản chăng?
Bọn Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân, Lục Cao Hiên, Trương Đạm Nguyệt, ủy Tôn Giả năm người đều trợn mắt lên nhìn Hồng giáo chủ ra chiều rất căm hận, không nói gì nữa.
Hồng giáo chủ quay lại ngó Trần Bá Cương, cặp mắt lấp loáng hàn quang.
Trần Bá Cương sợ quá lùi lại một bước nói:
– Thưa giáo chủ! Bọn chúng năm người mưu đồ phản loạn, nên xử tử hết đi.
Hồng giáo chủ trầm giọng hỏi:
– Vừa rồi ngươi đã nói gì?
Trần Bá Cương thấy lão lộ vẻ hung giữ lại càng bở vía, cất giọng run run nói:
– Thuộc hạ tận trung với giáo chủ, chẳng thể đội trời chung với bọn phản tặc này được.
Hồng giáo chủ hỏi:
– Bữa trước chúng ta đã lập lời trọng thệ. Kẻ nào nhắc tới thù xưa chuyện cũ thì phạm tội gì?
Trần Bá Cương chẳng còn hồn vía nào nữa, ấp úng đáp:
– Xin…. xin giáo chủ mở lượng hải hà…. thuộc hạ chỉ vì tấc dạ trung thành mà nói ra…. quyết không có ý nào khác…
Hồn giáo chủ nói:
– Bữa trước bản toà cùng phu nhân đã tuyên lời trọng thệ:
Hễ trong lòng còn nghĩ tới thù xưa là phải gieo mình xuống đầm rồng cho rắn ăn thịt. Bao nhiêu chuyện cũ nhất nhất xóa bỏ, ai nấy đều quên hết sạch sành sanh. Vậy mà ngươi vẫn còn ghi nhớ trong lòng. Vừa gặp cơ hội là ngươi giở ra để gây chuyện ly gián là có dụng ý gì?
Trần Bá Cương sắc mặt lợt lạt không còn chút huyết sắc, quì mọp ngay xuống năn nỉ:
– Thuộc hạ biết mình lầm lỗi, từ nay về sau vĩnh viễn không dám nhắc lại nữa.
Hồng giáo chủ nét mặt hầm hầm, cất giọng gay gắt hỏi:
– Những người bản giáo đã lập lời trọng thệ, khi nào lại để ai nấy tùy tiện vi phạm được? Lời thề đó không trút vào đầu ngươi là phải khoác lên mình tạ Ngươi xuống đầm rồng hay là để ta nhảy vào thay?
Trần Bá Cương rú lên một tiếng, lộn mình lăn ra xa rồi tung thân chạy đi.
Hồng giáo chủ để nguyên cho hắn chạy được mấy trượng rồi cúi xuống lượm một khối đá liệng ra đánh vèo một tiếng, trúng vào đầu Trần Bá Cương.
Trần Bá Cương thét lên một tiếng bi thảm, thân hình nhảy vọt lên rồi lại té xuống, giẫy giụa mấy cái, chết ngay đương trường.
Nguyên Hồng giáo chủ thấy bọn Hứa Tuyết Đình năm người liên thủ hợp lực với nhau, dù lão võ công cao thâm, thêm Hồng phu nhân và Trần Bá Cương giúp sức thì cũng có thể kiềm chế được. Nhưng làm như vậy thì tổn hại rất lớn đến nguyên khí trong giáo phái. Huống chi cả bọn chỉ còn lèo tèo mấy người, mà Trần Bá Cương chỉ biết tâng công nịnh hót chứ bản lãnh chẳng có gì đáng kể. Nếu lúc này mà hạ sát năm người kia thì kể như thuộc hạ của Thần Long giáo chẳng còn một ai.
Lão cân nhắc lợi hại trong khoảnh khắc, lập tức đi đến quyết định hạ sát Trần Bá Cương là kẻ chẳng quan trọng gì để bọn Hứa Tuyết Đình nguôi giận.
Trương Đạm Nguyệt cùng Lục Cao Hiên khom lưng nói:
– Giáo chủ coi lời thề nặng bằng chín vạc, hạ sát kẻ gian tà khiến bọn thuộc hạ khâm phục vô cùng.
Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân, ủy Tôn Giả ba người đồng thanh:
– Đa tạ giáo chủ anh minh.
Bọn năm người này bình sinh ghét cay ghét đắng Trần Bá Cương là một ke?
nhân phẩm đê hèn, chỉ biết đường tân công nịnh bợ. Nay thấy giáo chủ tự mình ra tay xử tử một cách chóng vánh đều lấy làm khoan khoái.
Hồng giáo chủ trỏ vào Vi Tiểu Bảo nói:
– Không phải bản tòa muốn nhiêu dung tính mạng thằng lỏi này, nhưng vì gã biết một kho tàng rất lớn ở miền giá lạnh trong vùng cực bắc tỉnh Liêu Đông. Nếu không để gã dẫn đường thì không thể nào tới nơi được. Sau khi chúng ta chiếm lấy kho tàng đó thì việc trùng hưng bản giáo thật dễ như trở bàn tay.
Lão dừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Vừa rồi năm vị đưa ra ý kiến không thể tin cậy vào bọn thiếu niên nam nữ và khuyến cáo bản tòa đừng đi vào vết xe đổ. Bản tòa nghĩ kỹ lại cũng thấy có lý. Vậy cứ theo chủ trương của các vị mà hành động. Tức là từ nay bản giáo lúc thâu nạp tân giáo chúng phải cự kỳ thận trọng trong việc lựa người, đừng để gian đảng trà trộn vào.
Bọn Hứa Tuyết Đình mặt mày hớn hở, nhất tề khom lưng dâng lời tạ Ơn.
Hồng giáo chủ móc trong bọc ra ba cái bình sứ, mỗi bình đổ lây năm viên thuốc. Ba thứ thuốc này lớn nhỏ không bằng nhau, mỗi thứ một màu:
đỏ, vàng và trắng.
Hồng giáo chủ lại cất bình vào bọc, đặt những viên thuốc lên bàn tay trái nói:
– Đây là thuốc giải Độc Long dịch cân hoàn. Mỗi vị uống ba viên.
Bọn Hứa Tuyết Đình mừng rỡ vô cùng, ngỏ lời tạ Ơn rồi đón lấy thuốc.
Hồng giáo chủ nói:
– Các vị uống ngay đi.
Năm người liền bỏ thuốc vào miệng nuốt xuống.
Hồi 213
Bọn thuộc hạ quần công giáo chủ
Hồng giáo chủ cười nửa miệng nói:
– Thế là hay lắm!
Đột nhiên lão lớn tiếng quát hỏi:
– Lục Cao Hiên! Tay trái ngươi cầm cái gì vậy?
Lục Cao Hiên lùi lại hai bước, ấp úng đáp:
– Không… không có chi cả.
Bỗng thấy hắn thõng tay xuống, nắm lại thành quyền.
Hồng giáo chủ gầm lên:
– Xòe bàn tay trái ra.
Tiếng gầm rất lớn làm chấn động màng nhĩ mọi người. Trong tay những tiếng vo vo vang lên không ngớt.
Lục Cao Hiên loạng choạng xoay người đi mấy vòng, từ từ xòe bàn tay trái ra.
Lại nghe đánh “cách” một tiếng, viên thuốc trắng rớt xuống đất.
Bọn Hứa Tuyết Đình cả kinh thất sắc. Chúng đã biết Lục Cao Hiên kiến thức không phải tầm thường, lại đa mưu túc trí. Hắn dấu diếm viên thuốc trắng không chịu uống tất phải có lý dọ Nhưng bốn người đã nuốt vào bụng cả rồi, không làm sao được.
Hồng giáo chủ lớn tiếng hỏi:
– Viên thuốc trắng đó là Đại bổ tuyết sâm hoàn làm cho thân thể cường kiện.
Sao ngươi vẫn còn dạ hoài nghi bản tòa, dấu đi không chịu uống?
Lục Cao Hiên ấp úng đáp:
– Thuộc hạ không dám hoài nghi giáo chủ. Chỉ vì… chỉ vì ít lâu nay thuộc ha.
rèn luyện nội công có chỗ không ổn, khí huyết trong kinh mạch chạy không thuận lợi. Vì thế viên thuốc đại bổ này toan để lại đến đêm nay, sau khi tọa tức sẽ từ từ uống vào, cho thân thể khỏi… khỏi chịu không nổi…
Nét mặt Hồng giáo chủ hòa hoãn trở lại. Lão hỏi:
– Ra thế đấy! Khí huyết kinh mạch ngươi có chỗ nào không thuận lợi? Cái đó dễ lắm! Bản tòa giúp ngươi điều hòa nội lực là hết ngaỵ Ngươi hãy lại đây.
Lục Cao Hiên lùi thêm một bước đáp:
– Thuộc hạ không dám phiền đến đại giá của giáo chủ, tự mình thủng thẳng điều dưỡng cũng có thể khỏi được.
Hồng giáo chủ thở dài hỏi:
– Ngươi nói vậy thì ra vẫn chưa tin bản tòa ư?
Lục Cao Hiên đáp:
– Thuộc hạ lớn mật đến đâu cũng chẳng dám thế.
Hồng giáo chủ trỏ vào viên thuốc trắng dưới đất nói:
– Thế thì ngươi uống viên thuốc kia ngay lập tức. Khí huyết ngươi lưu thông không điều hòa, có lý đâu bản tòa lại thõng tay đứng nhìn không lý gì đến?
Lục Cao Hiên ngó viên thuốc ngơ ngác một lúc tồi đáp:
– Dạ!
Hắn cúi xuống lượm lên, đột nhiên hắn búng ngón tay giữa đánh “vèo” một tiếng. Viên thuốc bay lên không, bắn ra xa rồi rớt xuống hang núi. Miệng hắn hô:
– Đa tạ giáo chủ! Thuộc hạ đã uống thuốc rồi.
Hồng giáo chủ cười hô hố nói:
– Giỏi lắm! Giỏi lắm! Trái mật của ngươi quả không nhỏ.
Lục Cao Hiên đáp:
– Thuộc hạ hết lòng vì giáo chủ mà ra sức. Giáo chủ đã ban cho thuốc giải chất độc trong Độc Long dịch cân hoàn, lại còn ban thêm một viên Bách Diên hoàn mà chất độc còn tệ hại hơn. Thuộc hạ chẳng có tội tình gì, không muốn lãnh phạt.
Bọn Hứa Tuyết Đình đồng thanh hỏi:
– Bách Diên hoàn ư? Bách Diên hoàn là thứ độc tố gì vậy?
Lục Cao Hiên đáp:
– Giáo chủ thu thập một trăm con rắn độc để lấy nước rãi của chúng điều chế thành thứ thuốc này. Tiểu đệ cũng chẳng hiểu nó có phải là chất kịch độc hay không? Có khi nó thành đại bổ cũng chưa biết chừng. Nhưng tiểu đệ nhát gan không dám uống thử.
Bọn Hứa Tuyết Đình lại càng hoảng hốt, vội lại đứng bên Lục Cao Hiên. Năm người đứng thành hàng chữ nhất, trừng mắt lên nhìn Hồng giáo chủ.
Hồng giáo chủ lạnh lùng hỏi:
– Sao ngươi biết thuốc này là Bách Diên hoàn mà dám ăn nói hồ đồ làm rối loạn lòng người, lại gây chia rẽ giữa chúng ta?
Lục Cao Hiên trỏ vào Phương Di đáp:
– Một hôm thuộc hạ bắt gặp Phương cô nương đang bắt con rắn hổ mang trong bụi cỏ rậm. Thuộc hạ có hỏi cô bắt rắn làm gì thì cô nói là vâng lệng giáo chủ bắt rắn về chế thuốc. Phương thuốc Bách Diên hoàn của giáo chủ thuộc ha.
ngó thấy trong lúc vô tình. Tuy thuộc hạ thấy nói chất độc trong Bách Diên hoàn sau ba năm mới phát tác, nhưng thuộc hạ sợ là thứ Bách Diên hoàn này giáo chu?
mới bào chế chẳng hiểu là có đúng ba năm mới phát tác hay kiến hiệu chóng hơn.
Hai là thuộc hạ không muốn chết non, chỉ sống thêm vài ba năm nữa là hết đời.
Sắc mặt Hồng giáo chủ mỗi lúc một đen sạm. Lão quát hỏi:
– Phương thuốc của ta sao ngươi ngó thấy được?
Lục Cao Hiên liếc mắt ngó Hồng phu nhân một cái rồi đáp:
– Phu nhân bảo thuộc hạ mở rương thuốc của giáo chủ lấy thuốc cho phu nhân uống. Thuộc hạ được coi mấy cái dược phương này ở trong rương thuốc.
Hồng giáo chủ tức giận x½ng giọng hỏi:
– Ngươi lại nói nhăng nói càn. Nếu phu nhân trong người khó ở chẳng lẽ lại không biết hỏi ta lấy thuốc mà lại phải sai ngươi đi kiếm? Rương thuốc của ta trước nay vẫn khóa nghiêm mật. Sao ngươi dám mở ra?
Lục Cao Hiên đáp:
– Thuộc hạ không dám tự ý mở rương.
Hồng giáo chủ quát:
– Ngươi không tự ý mở rương, chẳng lẽ dễ thường ta sai ngươi mở chăng?
Lão xoay chuyển ý nghĩ rồi quay lại hỏi Hồng phu nhân:
– Phu nhân mở rương cho hắn coi ư?
Hồng phu nhân sắc mặt lợt lạt, khẽ gật đầu mấy cái.
Hồng giáo chủ hỏi:
– Phu nhân muốn kiếm thuốc uống sao không nói với ta?
Hồng phu nhân đột nhiên sắc mặt đỏ bừng lên rồi lại tái mét cắt không còn giọt máu, người mụ run lên bần bật. Bỗng mụ Ôm lấy bụng dưới, cổ họng ậm ọe mấy tiếng rồi nôn ra rất nhiều nước.
Hồng giáo chủ chau mày, cất giọng ôn tồn hỏi:
– Phu nhân khó ở thế nào? Ngồi xuống đây nghỉ đi thôi.
Kiến Ninh Công chúa đột nhiên cất tiếng la:
– Mụ mang thai rồi. Lão này ngu dốt quá. Mình sắp sinh con mà chẳng biết gì.
Hồng giáo chủ giật mình kinh hãi, nhảy xổ lại nắm lấy cổ tay Hồng phu nhân, quát hỏi:
– Thị nói vậy có đúng không?
Hồng phu nhân cúi lom khom nôn ọe ra không ngớt. Người mụ càng run rẩy tệ hại hơn.
Hồng giáo chủ cất giọng lạnh như băng hỏi:
– Phải chăng ngươi định kiếm thuốc để phá cái bào thai này?
Câu này vừa mới nói ra, ngoại trừ Lục Cao Hiên còn tất cả mọi người đều lấy làm kỳ vì lẽ Hồng giáo chủ chưa có con, lại một lòng kính ái phu nhân. Nếu vợ lão sinh hạ một đứa con, bất luận là trai hay gái cũng là một việc rất tốt đẹp. Vậy mà sao Hồng phu nhân lại định phá thai?
Ai cũng cho là Hồng giáo chủ đoán trật.
Ngờ đâu Hồng phu nhân lại uể oải gật đầu, lớn tiếng đáp:
– Đúng thế! Tiện thiếp muốn phá thai. Giáo chủ giết tiện thiếp đi cho lẹ.
Hồng giáo chủ giơ tay trái lên quát hỏi:
– Đứa con đó là của ai đây?
Mọi người đều biết võ công lão cực kỳ cao thâm. Phát chưởng kia mà giáng xuống thì lập tức đầu Hồng phu nhân phải nát như tương.
Hồng phu nhân chẳng những không né tránh mà còn ngẩng cao đầu lên, ngang nhiên hỏi lại:
– Tiện thiếp đã bảo giáo chủ hạ sát tiện thiếp đi cho lẹ, sao còn không xuống tay?
Cặp mắt Hồng giáo chủ đỏ sòng sọc, cơ hồ tóe lửa, trầm giọng nhắc lại câu hỏi:
– Ta không giết ngươi! Đứa con đó là của ai?
Hồng phu nhân mím môi, thái độ quật cường. Hiển nhiên mụ đã bỏ tính mạng ra ngoài thể xác.
Hồng giáo chủ trợn mắt quay lại nhìn Lục Cao Hiên hỏi:
– Có phải là của ngươi không?
Lục Cao Hiên vội đáp:
– Không phải! Không phải! Thuộc hạ kính trọng phu nhân như một vị thiên thần, khi nào dám mạo phạm?
Hồng giáo chủ di chuyển nhãn quang từ Lục Cao Hiên đưa qua nhìn Trương Đạm Nguyệt, rồi đến Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân, ủy Tôn Giả.
Nhãn quang lão chiếu đến mặt ai là người đấy sợ run.
Hồng phu nhân lại lớn tiếng giục:
– Chẳng phải của ai hết. Giáo chủ giết tiện thiếp lẹ đi! Còn hỏi vặn vẹo làm chi?
Công chúa la lên:
– Mụ là vợ lão thì dĩ nhiên đứa con đó là của lão chứ còn của ai nữa. Lão này bản tính đa nghi, nết hồ đồ lên đến đỉnh đầu.
Hồng giáo chủ quát mắng:
– Câm miệng ngay! Mi còn nói một câu nữa là ta vặn gẫy cổ ngươi trước.
Công chúa quả nhiên phải sợ đứng yên, nhưng trong lòng nàng không phục.
Nàng có biết đâu Hồng giáo chủ mười mấy năm gần đây vì rèn luyện môn nội công thượng thừa phải kiêng kỵ nữ sắc.Đối với phu nhân mối tình khang lệ tuy bề ngoài có vẻ mặn mà nhưng thực ra chẳng chung chăn gối. Bình nhật lão tỏ ra rất kính ái phu nhân và trong lòng rất đỗi ân hận, nên vì thế không khỏi có mấy phần úy kỵ.
Bây giờ đột nhiên lão nghe nói phu nhân đã mang thai, trong dạ nổi lên rất nhiều mối thương tâm:
Nào là phẫn nộ, nào thẹn thùng, nào hối hận, khổ sở, sợ hãi.
Lão kích động quá chừng. Bàn tay lão giơ lên rồi bất giác lại hạ xuống. Lão ngoảnh đầu lại thấy bọn Hứa Tuyết Đình đều lộ vẻ khủng khiếp, bất giác bụng bảo dạ:
– “Vụ này thật là mất thể diện, mà chúng lại biết hết rồi. Ta còn làm giáo chu?
của bọn chúng thế nào được? Nếu vụ này tiết lộ ra ngoài một chút thì bao nhiêu anh hùng hảo hán trên chốn giang hồ đều cười cho đến trẹo quai hàm. Mình còn lên mặt hào kiệt thế nào được.” ý niệm giết người diệt khẩu vừa nổi lên, bàn tay Hồng giáo chủ đang nắm cô?
tay Hồng phu nhân liền buông ra.
Đột nhiên lão tung mình về phía trước túm lấy Lục Cao Hiên gầm lên:
– Trăm điều đều do tên phản nghịch này gây ra hết.
Lục Cao Hiên lớn tiếng la:
– Giáo chủ định giết người bịt…
Chữ “miệng” chưa nói ra đã nghe đánh chát một tiếng. Đầu lão bị phát chưởng rất nặng của Hồng giáo chủ đánh xuống làm cho cặp mắt lồi ra. Hắn tắt hơi chết ngay lập tức.
Bọn Hứa Tuyết Đình thấy tình trạng này biết là giáo chủ đã nổi hung tâm, giết người bịt miệng.
Mọi người nhất tề rút binh khí ra chống đỡ trước mặt mình.
Hứa Tuyết Đình la lớn:
– Thưa giáo chủ! Đây là việc riêng của giáo chủ, có liên quan gì tới bọn thuộc hạ?
Hồng giáo chủ gầm lên một tiếng thật to, thân mình vọt lên cao mấy thước, miệng thét:
– Bữa nay các ngươi phải chết hết. Đừng hòng có ai sống sót.
Đột nhiên lão xông về phía bốn người.
ủy Tôn Giả vung thanh Bát phong đại hoàn đao nặng tới hơn hai chục cân nhằm chém xuống đầu giáo chủ. Đao thế cực kỳ uy mãnh.
Hồng giáo chủ nghiêng người né tránh, tay phải vung chưởng đánh xuống đầu Trương Đạm Nguyệt.
Hứa Tuyết Đình sử cặp phán quan bút phóng hai chiêu đánh tới bả vai Hồng giáo chủ. Đồng thời Vô Căn đạo nhân múa thanh Nhạn linh đao chém vào lưng lão.
Hồng giáo chủ quát to một tiếng vọt người lên không, vẫn nhằm Trương Đạm Nguyệt đánh xuống.
Trương Đạm Nguyệt hai tay sử cặp uyên ương song đoản kiếm, chớp mắt đâm liền bảy nhát. Đó là chiêu “Thất tinh tụ nguyệt” lợi hai nhất trong tuyệt kỹ bình sinh của hắn.
Trương Đạm Nguyệt tuổi đã già mà bảy nhát kiếm này đâm ra uy thế cực kỳ khủng khiếp.
Hồng giáo chủ đưa tay phải chênh chếch khẽ đập vào vai bên tả hắn một cái, mượn thế nhảy vọt ra ngoài.
Trương Đạm Nguyệt la lên một tiếng, lăn mình dưới đất rồi đứng phắt dậy.
Nhưng hắn cũng cảm thấy nửa người bên trái đau buốt vô cùng. Hắn hô lớn:
Bữa nay không giết được lão này thì đừng ai hòng toàn mạng.
Bốn người đều thi triển binh khí vây đánh Hồng giáo chủ.
Bốn người đều là những nhân vật cao thủ hạng nhất trong Thần Long giáo.
Nhất là ủy Tôn Giả và Hứa Tuyết Đình võ công lại càng cao thâm hơn.
Trên thanh Đại hoàn đao có chín cái vòng thép bật lên những tiếng choang choảng khiến người ta kinh tâm động phách, luôn phát ra những chiêu cực kỳ uy mãnh.
Cặp phán quán bút của Hứa Tuyết Đình cũng phát huy những chiêu số tuyệt xảo nhằm đâm vào những yếu huyệt khắp mình đối phương.
Thanh Nhạn linh đao của Vô Căn đạo nhân múa tít phát ra một luồng bạch quang lóe mắt.
Ai cũng nghĩ thầm:
– “Bữa nay đã uống phải Bách Diên hoàn của lão, tất chẳng sống được bao lâu nữa. Chi bằng trước khi lâm tử hãy giết tên đại cừu nhân hung ác gian trá này cho hả dạ”.
Vì vậy lúc ra chiêu tấn công ai cũng dùng cách đánh liều chết với địch nhân.
Trương Đạm Nguyệt lại nhớ tới ngày trước vì bộ thuộc của hắn hành động bất lực, không lấy được Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Nếu Vô Căn đạo nhân và Hứa Tuyết Đình không can ngăn giúp thì đã bị Hồng giáo chủ xử tử rồi.
Hắn kiểm điểm lại sức lực thì cánh tay trái tê buốt, nhưng vẫn có thể gắng gượng phóng kiếm đánh địch nhân.
Hồng giáo chủ tuy võ công cực kỳ lợi hại nhưng bị bốn người liều mạng vây đánh nên trong lúc nhất thời vô kế khả thi.
Giả tỷ lão muốn giết một trong bốn người cũng chẳng khó gì, nhưng vì bọn người đối phương liên thủ hợp lực đánh theo lối liên hoàn, lão giết được một người nhưng chính lão cũng khó tránh khỏi bị thương. Như vậy tuy giảm bớt địch thủ mà vẫn e mình không chịu đựng được.
Sau khi tỷ đấu mấy chục hiệp, Hồng giáo chủ ngưng thần chiết chiêu. Những nối uất ức kích động trong lòng lúc trước đã dần giảm bớt đi.
Lão vừa định thần lại liền ra chiêu rất linh hoạt. Tuy lão chỉ có hai bàn tay không xoay chuyển giữa bốn thứ binh khí vây đánh mà vẫn không chịu kém thế chút nào.
Hồng giáo chủ chợt nhận ra tay kiếm của Trương Đạm Nguyệt phóng chiêu dần dần bất lực, lão liền nghĩ ngay đến cách hạ thủ vào chỗ nhược của đối phương mới mong phá cường địch.
Vi Tiểu Bảo thấy bốn người vây đánh Hồng giáo chủ rất kịch liệt, liền len lén kéo áo Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình, lại nhìn Công chúa vẫy tay ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng.
Bốn người xoay mình len lén chạy xuống núi.
Lúc này bọn Hồng giáo chủ và thuộc hạ năm người chia làm hai phe chiến đấu kịch liệt nên không ai để ý đến bọn Vi Tiểu Bảo lẩn trốn. Dù có người ngó thấy cũng không rảnh để ra tay cản trở.
Bọn Vi Tiểu Bảo bốn người chạy một lúc quay đầu nhìn lại thì thấy đã cách xa bọn Hồng giáo chủ, trong lòng phấn khỏi mừng thầm.
Vi Tiểu Bảo thấy năm người đang chiến đấu ác liệt, đao quang lấp loáng, bóng chưởng tung hoành, bất phân thắng bại trong lúc nhất thời liền giục:
Chúng ta chạy lẹ lên một chút.
Bốn người liền gia tăng cước lực chạy thêm một lúc nữa, bỗng nghe phía sau có tiếng chân bước vang lên. Hai người đang chạy như bay tới nơi, chính là Hồng phu nhân và Phương Di.
Bốn người giật mình kinh hãi, khốn nỗi bao nhiêu đao kiếm cùng ám khí đem theo bên mình đều bị tước hết ngay lúc bị bắt.
Một mình bản lãnh Phương Di thì chưa đáng sợ, nhưng võ công Hồng phu nhân lợi hại phi thường. Bốn người liệu sức mình không địch nổi đành ra sức chạy thục mạng.
Mới chạy được vài chục bước, Công chúa vấp phải tảng đá ngã quay ra, bật tiếng rên la.
Vi Tiểu Bảo tự nhủ:
– Đứa con trong bụng nàng là con ta, ta chẳng thể không cứu viện được.
Gã liền quay lại nâng đỡ.
Bỗng thấy Hồng phu nhân chỉ nhô lên hụp xuống mấy lần đã nhảy tới trước mặt. Mụ dừng lại hỏi:
– Vi Tiểu Bảo! Ngươi định trốn chăng?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Không phải bọn tiểu tử định lẩn trốn, mà là qua bên này ngắm cảnh.
Hồng phu nhân Cười nhạt nói:
– Hay lắm, các người tới đây ngắm cảnh sao không gọi tả Đang nói thì Phương Di đã chạy tới.
Mộc Kiếm Bình và Tăng Nhu thấy Vi Tiểu Bảo đã bị Hồng Phu nhân chặn đường, quay người trở lại đứng cạnh y.
Mộc Kiếm Bình nói với Phương Di:
– Phương sư tỷ, ngươi đi với bọn ta thôi. y… ỵ..
Nói tới đó chỉ Vi Tiểu Bảo nói tiếp:
– … trước nay đối sử với ngươi rất tốt, trước kia ngươi từng lập lời trọng thệ, chẳng lẽ đã quên rồi sao?
Phương Di nói:
– Ta chỉ trung thành với Phu nhân, chỉ nghe lệnh phu nhân…
Mộc Kiếm Bình lớn tiếng:
– Tiểu muội cũng như sư tỷ, đã uống phải Độc Long dịch cân hoàn của phu nhân. Sau này chất độc phát tác, nối thống khổ không biết đâu mà kể.
Nhưng… nhưng đến đâu hay đến đó, lo làm sao cho hết được?
Vi Tiểu Bảo nghe nói chợt tỉnh ngộ. Bây giờ gã mới hiểu sở dĩ Phương Di phải lừa gạt gã là vì đã bị Hồng phu nhân kiềm chế, nàng chẳng thể không tuân theo lệnh mụ. Bao nhiêu nỗi uất hận trong lòng đối với Phương Di đều tiêu tan hết. Gã nói:
– Di tỷ tỷ! Tỷ tỷ theo bọn tiểu đệ quách.
Ba chữ “Di tỷ tỷ” chuyến trước gã thường dùng để gọi Phương Di lúc ngồi chung thuyền ra đảo Thần Long.
Tiếng gọi thân thiết này làm cho Phương Di bất giác thẹn đỏ mặt lên.
Đột nhiên lại nghe thấy Hồng giáo chủ la lối om sòm:
– Phu nhân! Phu nhân! A Thuyên! A Thuyên!
Mọi người nghe lão hô hoán đều giật mình kinh hãi, nhưng tiếng hô của Hồng giáo chủ đầy vẻ kinh hãi nóng nẩy. Hiển nhiên lão sợ Hồng phu nhân bỏ lão mà đi.
Bọn Vi Tiểu Bảo năm người chăm chú nhìn vào mặt Hồng phu nhân tự hỏi:
– Sao mụ không trả lời? Giáo chủ hô hoán sao mụ không trở về với lão?
Bỗng thấy Hồng phu nhân đỏ mặt lên lắc đầu mấy cái khẽ nói:
– Các ngươi chạy đi cho mau! Xuống thuyền mà chốn đi.
Vi Tiểu Bảo vừa kinh hãi vừa mừng thầm hỏi:
– Phu nhân!… Phu nhân cùng đi với bọn tiểu tử được chăng?
Hồng phu nhân đáp:
– Trên đảo chỉ có một con thuyền, không đi một chuyến với nhau cũng không được. Giáo chủ muốn giết ta, ngươi biết không?
Mụ nói rồi cắm đầu chạy trước.
Mọi người xuống núi, chạy đi được mấy trượng lại nghe thấy thanh âm Hồng giáo chủ kêu gọi rối rít:
– Phu nhân! Phu nhân! A Thuyên! A Thuyên! Trở về đây mau!
Đột nhiên có tiếng người rú lên một tiếng thê thảm. Thanh âm từ đằng xa vọng lại hiển nhiên là tiếng rú của kẻ lúc lâm tử, nhưng không hiểu là ai trong bọn Hứa Tuyết Đình.
Hồng giáo chủ lại hô lớn:
– Phu nhân hãy coi kìa! Phu nhân hãy coi kìa! Thằng già Trương Đạm Nguyệt bị ta giết chết rồi. Suốt đời hắn đi theo bên mình ta mà tới lúc tuổi già nua lại muốn phản tạ Thật là con người hồ đồ đến cực điểm.
Lão ngừng lại một chút rồi gọi tiếp:
– A Thuyên! A Thuyên! Sao nàng không quay trở lại? Ta không trách nàng nữa.
Vụ đó ta lượng thứ cho nàng. Trời ơi! Con mẹ nó! Mi chém trúng ta rồi! Ha Ha! Tên đầu đà kia! Cân não của mi không còn linh hoạt nữa mà sao còn theo chúng quay lại phản tả Như thế mi đã đáng chết chưa? Ha ha!
Hồng phu nhân dừng bước. Mụ biến sắc nói:
– Lão đánh chết hai tên rồi.
Vi Tiểu Bảo vội giục:
– Chúng ta phải chốn cho lẹ.
Hồng phu nhân ngập ngừng nói:
– Nhưng… nhưng chính lão cũng bị thương rồi.
Vi Tiểu Bảo không nói gì nữa, co giò chạy tuốt.
Đột nhiên Hồng giáo chủ thét lên:
– Còn hai tên phản tặc này! Rồi ta sẽ thủng thẳng thu thập bọn mị Phu nhân! Phu nhân! Quay trở lại mau!
Thanh âm lão mỗi lúc một gần, lão từ trên núi chạy xuống rượt theo.
Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn lại thì thấy Hồng giáo chủ đầu tóc rối bời đang xông lẹ tới. Gã sợ quá chẳng còn hồn vía nào nữa, lại cắm đầu chạy thục mạng.
Bỗng nghe Hứa Tuyết Đình lớn tiếng hô:
– Chặn lão lại! Chặn lão lại! Lão bị trọng thương rồi. Bữa nay nhất định phải giết chết lão.
Vô Căn đạo nhân vừa đuổi vừa nói:
– Lão không chạy thoát được đâu.
Hai người cầm binh khí rượt theo xuống núi.
Chẳng mấy chốc Vi Tiểu Bảo đã chạy tới gần bãi biển, nhưng Hồng giáo chủ, Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân còn chạy nhanh hơn, chân sau liền chân trước đã chạy xuống núi rồi.
Mình mẩy, mặt mũi ba người đầy máu tươi.
Hồng giáo chủ quát lớn:
– Phu nhân! Sao nàng không nghe tả Nàng định chạy đi đâu?
Hứa Tuyết Đình la lên:
– Phu nhân không thèm ở lại với lão. Mụ đã có chàng thanh niên anh tuấn bầu bạn rồi.
Hồng giáo chủ tức giận gầm lên:
– Mi không được nói láo!
Lão vọt người lại phóng chưởng đánh xuống đầu Hứa Tuyết Đình.
Hứa Tuyết Đình tay trái vung cây bút lên đón tiếp.
Vô Căn đạo nhân cũng đã đuổi tới nơi, hua đao chém tới sau lưng Hồng giáo chủ.
Lúc này Hồng giáo chủ chỉ còn lại hai đối thủ, nhưng chân trái lão đã bị thương, bước khập khiễng, thân thủ không linh hoạt như trước nữa.
Hồi 214
Trên đảo thần long nhiều loài ác quỷ
Hồng giáo chủ lại la lớn:
– A Thuyên! Nàng hãy coi ta thu thập hai tên phản tặc này ngay tức khắc. Nàng hãy hạ sát bốn con tiểu tiện nhân đó trước đi. Chỉ để sống một mình tên tiểu tặc kia. Ta còn bắt gã đưa đi lấy báu vật.
Miệng lão la lối om sòm, tay vẫn phóng chưởng, nội lực cực kỳ hùng hậu.
Hứa Tuyết Đình và Vô Căn đạo nhân không thể tới gần bên mình lão được.
Hồng phu nhân chỉ cười lạt, mụ liếc mắt ngó bọn Mộc Kiếm Bình.
Vi Tiểu Bảo hô lớn:
– Phu nhân! Trong bốn cô này, phu nhân chỉ hạ sát một cô là tại hạ tự tư?
ngaỵ Tại hạ có chết thành quỷ cũng không buông tha phu nhân đâu. Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất cái gì… cái gì mã nan truy.
Trong lúc cấp bách, câu gã thường nói”Tứ mã nan truy” cũng không nhớ ra được.
Đột nhiên một tiếng “chát” vang lên. Hứa Tuyết Đình bị trúng chưởng vào sau lưng. Người hắn loạng choạng một cái rồi ngã lăn ra.
Hồng giáo chủ cười hô hố, vung chân đá mạnh một cái.
Hứa Tuyết Đình đang ngã chúi xuống bị đá trúng ngực bật ra những tiếng răng rắc. Mấy dẻ xương sườn của hắn gãy rồi. Nhưng chân phải của Hồng giáo chu?
đã bị hắn ôm chặt.
Hồng giáo chủ hết sức giẫy giụa mà không sao thoát ra được.
Vô Căn đạo nhân vội nhảy xổ lại vung đao chém xuống.
Hồng giáo chủ nghiêng đàu né tránh, đồng thời vung tay phóng chưởng đánh “binh” một tiếng, đánh trúng bụng dưới Vô Căn đạo nhân. Nhưng lưỡi đao của hắn cũng đá chém trúng vai hữu Hồng giáo chủ.
Vô Căn đạo nhân miệng hộc máu tươi phun đầy vào sau gáy Hồng giáo chủ.
Hắn muốn rút đao chém nữa nhưng thanh Nhạn linh đao ngập vào xương vai Hồng giáo chủ mà tay hắn bất lực không sao rút ra được.
Hồng giáo chủ la gọi:
– Mau… mau lại lôi hắn ra!
Không hiểu Hồng phu nhân sợ đến ngẩn người hay là cố ý không chịu ra tay viện trợ cho Hồng giáo chủ. Mụ thấy ba người dắt dúm nhau ngã lăn dưới đất mà vẫn đứng trơ ra không nhúc nhích.
Hồng giáo chủ gầm lên một tiếng thật to, thần lực lại phát sinh. Lão vung chân trái đá ra một cước, hất Hứa Tuyết Đình bay đi. Tiếp theo khuỷu tay trái lão huých mạnh ra phía sau một cái đánh trúng ngực Vô Căn đạo nhân khiến người hắn nhũn ra.
Hồng giáo chủ nổi lên tràng cười khanh khách, lớn tiếng reo:
– Ha ha! Bọn phản tặc này… có một tên nào… địch nổi ta đâu? Bọn chúng muốn… muốn tạo phản… hừ… hừ… hừ… đều bị ta hạ sát hết rồi.
Lão xoay mình lại nhìn Hông phu nhân hỏi:
– Sao nàng… sao nàng không giúp ta?
Hồng phu nhân lắc đầu đáp:
– Võ công giáo chủ cao thâm nhất thiên hạ, hà tất phải cần đến ai giúp đỡ?
Hồng giáo chủ tức giận gầm lên:
– Ngươi cũng phản ta ư? Ngươi cũng là bạn đồ trong bản giáo hay sao?
Hồng phu nhân lạnh lùng đáp:
– Đúng thế! Giáo chủ chỉ biết xót đến thân mình. Tiện thiếp có giúp đỡ giáo chủ, chung quy cũng không khỏi bị hạ sát.
Hồng giáo chủ thét lên:
– Ta bóp chết ngươi! Ta bóp chết ngươi!
Lão vừa nói vừa nhảy xổ về phía Hồng phu nhân.
Hồng phu nhân “ối” lên một tiếng, hốt hoảng né tránh. Nhưng Hồng giáo chu?
mặc dù đã bị trọng thương nhưng hành động vẫn mau lẹ phi thường.
Hồng phu nhân không tránh kịp, tay trái lão chụp được tay phải mụ. Tay mặt lão nắm lấy cổ mụ quát hỏi:
– Nói đi! Nói đi! Ngươi có phản không? Ngươi nói không phản thì ta tha cho.
Hồng phu nhân ấp úng đáp:
– Trong lòng ta muốn phản lão từ lâu rồi. Đó là lão bắt buộc tạ Lão bóp chết ta đi.
Hồng giáo chủ trên mình máu tươi vẫn không ngớt chảy xuống đầu, xuống mặt mụ.
Hồng phu nhân trợn mắt lên nhìn thẳng vào mặt lão không chớp.
Hồng giáo chủ la lối om sòm:
– Bạn đồ! Phản tặc! Tụi chúng bay đều phản ta hết… Ta phải chiêu tập người mới để tổ chức lại Thần Long giáo.
Lão nói đến ba chữ Thần Long giáo, tay mặt vận thêm kình lực.
Hồng phu nhân ngẹt thở, lưỡi thò dài ra.
Vi Tiểu Bảo đứng bên thấy thế sợ hãi vô cùng. Gã cho là Hồng giáo chủ bị bóp chết tới nơi rồi, liền lượm một hòn đá lớn trên bãi cát liệng thật mạnh vào sau lưng Hồng giáo chủ.
Nghe đánh “chát” một tiếng, khối đá liệng trúng sau lưng lão.
Hồng giáo chủ choáng váng, mắt tối sầm lại. Bàn tay lão đang bóp cổ Hồng phu nhân nới ra. Lão quay lại thét lên:
– Tên tiểu tặc kia… Mi… mi… Ta không cần bảo tàng nữa. Hãy giết mi rồi sẽ liệu.
Lão xoay mình phóng chưởng nhằm Vi Tiểu Bảo đánh tới.
Vi Tiểu Bảo vội co giò chạy trốn.
Hồng giáo chủ băng mình rượt theo. Người lão máu tươi vẫn chảy thành một vệt dài trên bãi cát.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
– “Chuyến này mà bị lão tóm được thì quyết không toàn mạng” Gã liền ra sức chạy nhanh hơn.
Đột nhiên nghe đánh “roạc” một tiếng. Vạt áo sau lưng Vi Tiểu Bảo đã bị móng tay Hồng giáo chủ cào rách một mảnh. Nếu gã không mặc bảo y hộ thân thì da thịt sau lưng đã bị móc rách một chỗ cũng chưa biết chừng.
Diễn biến này càng làm cho Vi Tiểu Bảo bở vía. Tai gã vẳng nghe những tiếng thét lanh lảnh của mấy cô gái la hoảng không ngớt.
Vi Tiểu Bảo thi triển môn “Thần hành bách biến” là môn khinh công mà Cửu Nạn sư thái đã truyền thụ cho gã. Gã chạy quanh co, chợt lạng qua mé đông, chợt chuyển qua mé tây, vòng vèo trên bãi cát.
Bình nhật Vi Tiểu Bảo không chịu học võ hay học một cách biếng nhác nên tuy gã gặp được hai vị minh sư nổi tiếng giang hồ là Trần Cận Nam và Cửu Nạn sư thái truyền thụ võ công mà chẳng học được gì. Gã còn được Trừng Quan đại sư cũng là một nhà võ học uyên thâm tận tâm chỉ điểm một thời gian khá lâu mà võ công vẫn kém cỏi.
Nhưng với môn khinh công chuyên để trốn chạy gã lại luyện một cách rất hứng thú.
Bây giờ Vi Tiểu Bảo thi triển môn khinh công •Thần hành bách biến•. Nhiều lúc Hồng giáo chủ tưởng chừng như chỉ vươn tay ra là chụp được mà giữa hoàn cảnh nguy ngập như ngàn cân treo sợi tóc gã vẫn tránh thoát.
Sự thực là môn công phu trốn chạy của gã chưa có gì đáng kể là “Thần hành” nhưng hai chữ “Bách biến” thì đã được ba bốn thành. Vì thế một tay đại cao thủ như Hồng giáo chủ rượt mãi mà không sao bắt được. Lão phải cho rằng Vi Tiểu Bảo vào hạng chân dài số nhất số nhị trên võ lâm hiện nay.
Hồng giáo chủ thấy mấy phen sắp bắt được Vi Tiểu Bảo lại bị gã biến đổi phương vị cực kỳ thần diệu tránh thoát. Lão cáu quá, miệng không ngớt gầm thét om sòm.
Bỗng lão quát lên một tiếng, phóng ra mấy phát chưởng liền.
Hai phát đầu Vi Tiểu Bảo còn né tránh được, nhưng đến phát thứ ba gã không tránh kịp, lưng gã bị trúng chưởng, người lộn hai vòng tung ra xạ May mà Hồng giáo chủ đã bị trọng thương, chưởng lực giảm đi phần lớn, một đằng Vi Tiểu Bảo đã mặc bảo y hộ thân nên gã chỉ bị đau đến tối tăm mặt mũi, thiên hôn địa ám nhưng vẫn chưa đến nỗi trọng thương.
Vi Tiểu Bảo toan lồm cồm bò dậy thì thấy bả vai bị xiết chặt. Hồng giáo chu?
đã tóm được hắn rồi.
Vi Tiểu Bảo chẳng còn hồn vía nào nữa. Trống ngực gã đánh hơn trống làng, tưởng chừng như trái tim muốn bật ra ngoài.
Gặp bước nguy ngập, gã hoang mang không còn đường lối nào khác, đành cúi đầu luồn qua dưới hai chân Hồng giáo chủ nhảy ra ngoài.
Đột nhiên Vi Tiểu Bảo nhớ ra đây là một trong “Cứu mạng tam chiêu” mà Hồng giáo chủ đã truyền thụ cho hắn.
Lúc này gã bối rôi vô cùng, không còn nhớ nổi cái đó kêu bằng “Qúy phi ky.
ngưu” hay là “Tây Thi kỵ dương” gì gì nữa, gã cố sức nhảy mộy cái, cưỡi lên cô?
Hồng giáo chủ.
Nguyên chiêu này Vi Tiểu Bảo chưa luyện thành thuộc. Dù gã có luyện thành thuộc rồi mà muốn thi triển vào một tay cao thủ đệ nhất như Hồng giáo chủ cũng không phải chuyện dễ dàng.
Nhưng Hồng giáo chủ sau khi tử chiến với bốn tay cao thủ bản giáo, lại gặp phu nhân toan bỏ lão chuồn đi thành ra tâm thần rối loạn. Lão lại liên tiếp bị thương, hiện giờ thanh Nhạn linh đao chém sau tới xương vai còn găm ở đó, sau lưng cũng bị một cây phán quan bút cắm vào. Lão chạy mấy trăm trượng, máu tiếp tục chảy ra không ngớt, tàn lực chẳng còn gì mấy.
Lúc hay tay lão cặp cổ Vi Tiểu Bảo, người lão cũng đã mềm nhũn bất lực nên Vi Tiểu Bảo mới cựa thoát và nhảy được lên cổ lão.
Vi Tiểu Bảo ngồi trên đầu vai Hồng giáo chủ vẫn sơ bị hất xuống. Dĩ nhiên gã đưa tay ôm chặt lấy cổ lão, hai ngón tay giữa ấn vào mí mắt Hồng giáo chủ.
Hồng giáo chủ chợt cảm thấy một tia sáng loé lên trong đầu. Lão nhớ ra ngày trước mình đã dậy cho Vi Tiểu Bảo chiêu này. Một khi địch nhân cưỡi cổ là có thể móc mắt đối phương.
Thật không ngờ con người kiêu hùng một thời lại đưa đến kết quả chết về tay một thằng lỏi, mà lại bị hạ vì chiêu số chính lão đã truyền dạy đối phương.
Thật là báo ứng không lầm.
Hồng giáo chủ bỗng nghĩ trong đời mình đã giết người vô số thì bây giờ có phải chịu quả báo cũng không oan uổng.
Bất giác lão buông tiếng thở dài, thõng tay xuống.
Hồng giáo chủ đầu óc hết căng thẳng, người đờ ra vì sức chống chọi không còn, lập tức ngã ngửa xuống đất.
Vi Tiểu Bảo không hiểu Hồng giáo chủ đã lâm vào bước đường cùng. Gã còn cho đây là một chiêu lợi hại nào của Hồng giáo chủ giở ra để đánh gã một cách bất ngờ. Gã vội nhảy xuống chạy trốn.
Bỗng nghe Hồng giáo chủ vừa thở hồng hộc vừa gọi:
– A Thuyên! A Thuyên!… Nàng..nàng lại đây…
Hồng phu nhân cất bước tiến về phía lão, nhưng còn cách chừng hai trượng thì mụ dừng lại.
Hồng giáo chủ hỏi:
– Đứa con trong bụng nàng là… là của ai?
Hồng phu nhân lắc đầu đáp:
– Hà tất giáo chủ muốn biết điều đó làm chi.
Mụ nói rồi bất giác không nhịn được, đưa mắt liếc nhìn Vi Tiểu Bảo, mặt đo?
lên.
Hồng giáo chủ vừa kinh ngạc, vừa tức giận quát hỏi:
– Chẳng lẽ… chẳng lẽ lại của thằng tiểu quỉ này?
Hồng phu nhân mím môi, lẳng lặng không nói gì. Hiển nhiên mụ đã thừa nhận.
Hồng giáo chủ lớn tiếng quát:
– Thằng quỉ con kia! Ta phải giết mi.
Rồi lão tung mình nhảy xổ về phía Vi Tiểu Bảo.
Hồng giáo chủ máu me đầy mặt. Miệng lão há hốc để lộ hàm răng vàng khè chiếc còn chiếc rụng. Hai tay lão cũng máu chảy đầm đìa.
Vi Tiểu Bảo ngó thấy tình trạng này cũng đủ phát sợ. Lão tung mình nhảy xô?
đến khiến gã không còn hồn vía nào nữa. Gã vội có người lại chui qua chân Hồng phu nhân rồi ẩn phía sau mụ.
Hồng phu nhân giang hai tay ra đứng trước mặt Hồng giáo chủ lạnh lùng nói:
– Giáo chủ đã một thời oanh liệt, tưởng như vậy cũng đủ lắm rồi.
Hồng giáo chủ đang lơ lửng trên không, cả luồng chân khí tối hậu cũng tiêu tan nốt, chẳng còn chút tàn lực nào, té huỵch xuống đất cạnh chân Hồng phu nhân. Miệng lão lắp bắp:
– Ta là giáo chủ… các ngươi đáng lý phải nghe theo ta… tại sao… tại sao các ngươi… lại phản tả Bọn ngươi… bọn ngươi… đều là hạng bất nghĩa… Chỉ mình ta… mình ta… đáng mặt giáo chủ. Ta muốn… giết hết bọn ngươi..không để sót tên nào… một mình ta đáng… tiên phúc vĩnh hưởng… thọ dữ… thiên… thiên…
Chữ “tề” lão chưa nói hết được, miệng đã cứng đơ tắt hơi chết rồi. Hai mắt lão vẫn mở trân trân.
Vi Tiểu Bảo bò đi mấy bước rồi đứng phắt dậy chạy xa vài trượng rồi mới dám ngoảnh đầu lại.
Gã thấy Hồng giáo chủ nằm lăn dưới đất, người không cụng cựa. Gã dòm ngó hồi lâu, bước đi hai bước, đứng xoạc cẳng theo tư thế s½n sàng chạy trốn. Miệng gã cất tiếng hỏi:
– Lão đã chết chưa?
Hồng phu nhân thở dài đáp:
– Chết rồi!
Vi Tiểu Bảo bước thêm hai bước, dừng lại hỏi:
– Sao lão… sao lão không nhắm mắt, vẫn mở thao láo?
Đột nhiên một tiếng “bốp” vang lên. Gã bị đánh một bạt tai thật nặng.
Tiếp theo tai bên phải của gã bị nắm giữ. Người động thủ chính là Kiến Ninh Công chúa.
Công chúa lại đá một cước vào đùi Vi Tiểu Bảo. Nàng lớn tiếng thoá mạ:
– Quân chó đẻ này! Lão không nhắm mắt là vì lão căm hận ngươi vụng trộm với mụ vợ lão. Sao ngươi lại chàng màng với mụ đàn bà đê tiện mặt dầy kia?
Hồng phu nhân hắng dặng một tiếng, vươn tay ra nắm lấy cổ Công chúa, nhấc bổng nàng lên.
Bốp một tiếng, mụ đã đánh nàng một bạt tai thật nặng, đoạn mụ vung tay liệng một cái. Công chúa ngã ngửa về phía sau.
Cử động này khiến Vi Tiểu Bảo bị khổ lây, vì Công chúa đang nắm chặt tai gã. Người nàng ngã xuống kéo theo cả Vi Tiểu Bảo khiến gã đau thấu tâm can. Gã té nhào lên người nàng.
Hồng phu nhân quát lớn:
– Mi ăn nói chẳng còn thói phép nào. Nếu mi hỗn láo nữa ta đập chết mi lập tức.
Công chúa vừa bị đau vừa nổi cơn tam bành lục tặc, nàng tức giận vô cùng, nhảy xổ về phía Hồng phu nhân.
Hồng phu nhân móc chân trái một cái, Công chúa lại té huỵch xuống.
Công chúa xông lại lần thứ ba vẫn bị đá lộn người đi. Bây giờ nàng mới nhận ra võ công mình còn thua người xa lắm liền ngồi phệt xuống đất vừa kêu khóc vừa thoá mạ.
Nhưng nàng không dám thoá mạ Hồng phu nhân mà chỉ mồm năm miệng mười thoá mạ chửi rủa Vi Tiểu Bảo là quân chó đẻ, là tử thái giám, tiểu súc sinh, tiểu quế tử.
Vi Tiểu Bảo đưa tay trái lên sờ tai thấy bàn tay đẫm máu.
Nguyên tai gã đã bị công chúa kéo đứt một vết dài.
Hồng phu nhân khẽ hỏi:
– Dù sao ta với lão cũng một thời kỳ nên đạo vợ chồng. Ta chôn táng cho lão, nên không?
Giọng nói đầy vẻ ôn nhu, dường như để cầu khẩn Vi Tiểu Bảo chuẩn cho mới dám làm.
Vi Tiểu Bảo vừa kinh ngạc, vừa mừng thầm đáp:
– Phải lắm! Dĩ nhiên nên mai táng cho lão.
Gã lượm một cây phán quan bút dưới đất rồi cùng Hồng phu nhân khoét một cái lỗ trên cát, bỏ thi thể Hồng giáo chủ vào lấp cát đi.
Mai táng xong, Hồng phu nhân quì xuống dập đầu lại hai lạy, miệng lâm râm khấn khứa:
– Tuy chàng bức bách tiện tiện thiếp phải lấy làm chồng, nhưng… nhưng từ ngày thành hôn tới nay thuỷ chung chàng vẫn tử tế với thiếp. Còn tiện thiếp chẳng bao giờ chân tâm với chàng. Nay chàng hồn về chín suối nếu có khôn thiêng đừng để tâm gì tới tiện thiếp.
Mụ khấn xong đứng dậy, hai hàng lệ lã chã như mưa.
Hồng phu nhân lau khô nước mắt rồi nhìn Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Chúng ta ở lại đây hay trở về Trung Nguyên?
Vi Tiểu Bảo gãi đầu đáp:
– Nơi đây nhất định không ở được vì… bọn ác quỷ Hồng giáo chủ, Lục tiên sinh nhất định đòi mạng chúng ta thì ở làm sao được? Nhưng trở về Trung Nguyên thì lại bị tiểu Hoàng đế tróc nã phân thây. Hay hơn hết là tìm một nơi yên ổn để ẩn thân.
Đột nhiên gã nhớ tới một địa phương vắng vẻ bình yên, cả mừng nói:
– Có rồi! Có rồi! Chúng ta tới đảo Thông Cật. Nơi đó đã không có ác quy?
mà tiểu Hoàng đế cũng chẳng tìm ra được.
Hồng phu nhân hỏi:
– Thông Cật đảo ở địa phương nào?
Vi Tiểu Bảo trỏ về phía tây cười nói:
– Hòn đảo nhỏ đó ở mé bên này. Tại hạ đặt tên cho là Thông Cật đảo.
Hồng phu nhân gật đầu nói:
– Ngươi đã thích thú thì chúng ta tới đó.
Không hiểu vì sao mụ lại ngoan ngoãn nghe lời Vi Tiểu Bảo đến thế. Gã vui sướng la lên:
– Đi đi! Chúng ta cùng đi.
Vi Tiểu Bảo đến bên đỡ Công chúa dậy cười nói:
– Chúng ta xuống thuyền cả đi.
Công chúa lại vung tay tát Vi Tiểu Bảo. Gã vội nghiêng mình né tránh.
Công chúa tức giận nói:
– Ngươi đi đường ngươi. Ta không đi nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Trên hòn đảo này rát nhiều ác quỷ. Nào quỷ không đầu, nào quỷ cụt chân.
Những người bị súng lớn bắn lên đảo bể bụng vỡ đầu mà chết mà thành quỷ lòi ruột. Lại có cả quỷ nhiều tay chuyên môn sờ đàn bà lớn bụng…
Công chúa nghe tới đây trong lòng khiếp sợ vô cùng. Nàng dậm chân nói:
– Còn ngươi chuyên môn nói nhăng nói càn thành quỷ đỏ mỏ.
Nàng vung chân đá mạnh vào đít Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo đau quá rú lên một tiếng, nhảy như con choi choi.
Hồng phu nhân thủng thẳng bước tới, Công chúa lùi lại hai bước. Hồng phu nhân nói:
– Từ giờ trở đi nếu ngươi đánh Vi công tử một phát thì ta đánh ngươi mười phát, ngươi đá chàng một cước thì ta đánh ngươi mười cước. Trước nay ta đã nói sao là làm vậy.
Công chúa tức giận sắc mặt lợt lạt quát hỏi:
– Ngươi là người thế nào với gã mà bênh gã chằm chặp. Chồng ngươi chết rồi, lại đi cướp chồng người khác phải không?
Phương Di xua tay nói:
– Còn chồng ngươi? Gã cũng chết rồi thì sao?
Công chúa tức giận đến cực điểm, lớn tiếng thoá mạ:
– Con tiểu tiện nhân kia! Chồng mi cũng chết rồi.
Hồng phu nhân chậm rãi nói:
– Ta nhắc lại:
Hễ ngươi còn nói một câu vô lễ là ta bỏ mặc ngươi một mình trên đảo, không một ai bầu bạn với ngươi nữa.
Công chúa nghĩ tới người đàn bà lăng loàn này nói sao là làm được như vậy.
Mụ sẽ bỏ một mình nàng trên đảo để bao nhiêu quỉ lòi ruột nhiều tay đêm đêm về nhát thì sống làm sao nổi?
Công chúa suốt đời được ăn ngon mặc đẹp, địa vị cao sang nhất hô bách nặc. Bây giờ nàng đành thu tính nết ngang tàng của một vị cành vàng lá ngọc lại mà riu ríu vâng theo không dám phách lối nữa.
Vi Tiểu Bảo mừng thầm trong bụng:
– “Con tiểu ác phụ này từ nay đụng phải đối đầu. Thị đã có người kiềm chế không dám dở thói hung hăng động một chút là tay đấm chân đá ra nữa.” Gã đưa tay sờ lên tai thấy đau đớn vô cùng nhưng cũng không nói gì.
Hồng phu nhân bảo Phương Di:
– Phương cô nương! Xin cô nương xuống bảo nhà đò khai thuyền.
Phương Di dạ một tiếng rồi đáp:
– Sao phu nhân lại khách sáo với bọn thuộc hạ như vậy? Thuộc hạ không dám đâu.
Hồng phu nhân mỉm cười nói:
– Từ nay chúng ta gọi nhau bằng tỷ muội, đừng hô phu nhân, thuộc hạ gì gì nữa. Ngươi kêu ta bằng Thuyên tỷ tỷ. Ta kêu ngươi bằng Di muội muội. Sau khi xuống thuyền ta sẽ lấy thuốc giải độc Độc long dịch cân hoàn cho ngươi và Bình muội uống. Thế là từ đây trở đi không còn lo gì nữa.
Phương Di và Mộc Kiếm Bình nghe mụ nói khoan khoái vô cùng.
Đoàn người xuống thuyền rồi, nhà đò dương buồm chạy về hướng tây.
Vi Tiểu Bảo dòm tả ngó hữu, trong lòng rất lấy làm đắc ý.
Hồng phu nhân lấy thuốc giải cho Phương Di và Mộc Kiếm Bình uống, rồi lại mở rương sắt lấy đao trủy thủ, ám khí Hàm sa xạ ảnh, ngân phiếu cùng đồ vật của Vi Tiểu Bảo trả gã. Đồng thời mụ trả lại khí giới cho bọn Tăng Nhu.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Từ nay tiểu đệ kêu phu nhân bằng Thuyên tỷ tỷ được chăng?
Hồng phu nhân đáp:
– Hay lắm. Bây giờ chúng ta đem tuổi so xem ai lớn hơn thì làm anh chị, ai nhỏ hơn thì làm em.
Mọi người đưa ngày sinh thắng đẻ ra. Dĩ nhiên Hồng phu nhân Tô Thuyên là lớn tuổi nhất, thứ nhì đến Phương Di, thứ ba đến Công chúa. Tăng Nhu, Mộc Kiếm Bình và Vi Tiểu Bảo ba người cùng tuổi nhưng Tăng Nhu lớn hơn gã chín tháng, còm Mộc Kiếm Bình sinh sau gã mấy ngày.
Bọn Tô Thuyên, Phương Di xưng hô nhau bằng tỷ muội rất thân thiết. Chỉ có một mình nàng Công chúa vẫn mặt giận hầm hầm chẳng nói năng gì.
Tô Thuyên nói:
– Y là Công chúa điện hạ không muốn xưng hô tỷ muội với bọn bình dân bách tính như chúng tạ Vậy bọn ta cứ kêu y bằng Công chúa điện hạ là xong.
Công chúa lạnh lùng đáp:
– Ta không dám đâu.
Nàng lại nghĩ bọn họ bốn người hợp lại kết bạn với nhau để mình nàng trơ trọi mà tên thái giám chết đâm Tiểu Quế Tử kia lại vô lương tâm thiên về bọn kia nhiều mà đối với nàng kém phần thân mật. Nàng động mối thương tâm bất giác khóc oà lên.
Vi Tiểu Bảo cất giọng ôn nhu an ủi:
– Nín đi! Mọi người chúng ta đều vui vẻ. Tỷ tỷ bất tất phải buồn phiền…
Công chúa trong lúc nóng giận giơ tay lên toan động thủ chợt nghĩ tới lời cảnh cáo của Tô Thuyên, nhưng phát chưởng vung ra mạnh quá không thu về được, nàng đành chuyển hướng cho đập vào ngực mình. Bất giác nàng la lên một tiếng “úi chao” Mọi người không nhịn được nổi lên tràng cười khanh khách.
Công chúa vừa tức giận vừa đau khổ chui đầu vào lòng Vi Tiểu Bảo khóc nức nở.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Chúng ta bất tất phải đánh nhau, đánh bạc hay hơn. Ta làm nhà cái.
Hồi 215
Ngoài khơi thuyền lớn đuổi thuyền con
Nhưng mở rương sắt của Hồng giáo chủ tìm kỹ hồi lâu vẫn không thấy hai con xúc xắc của Vi Tiểu Bảo. Nguyên lúc Lục Cao Hiên xục xạo trong người gã thấy hai con xúc xắc đã liệng đi rồi.
Nên biết giáo quy của Thần Long giáo rất nghiêm ngặt. đánh bạc cũng thuộc vào điều cấm kỵ.
Lục Cao Hiên sờ thấy xúc xắc liền đem lòng chán ghét.
Không có xúc xắc đánh bạc, Vi Tiểu Bảo buồn bã vô cùng.
Tô Thuyên cười nói:
– Chúng ta cắt gỗ làm hai hạt xúc xắc cũng được.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Xúc xắc bằng gỗ nhẹ quá, gieo xuống chẳng thú vị gì.
Tăng Nhu thò tay vào bọc, lúc rút ra nắm lại thành quyền rồi cười hỏi:
– Vi huynh đệ thử đoán xem cái gì đây?
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
– Đoán xem mấy đồng tiền ư? Thế cũng hay! Dù sao vẫn còn hơn ngồi rồi không được đánh bạc.
Tăng Nhu vừa cười vừa giục:
– Thử đoán xem mấy đồng?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Ba đồng!
Tăng Nhu xoè bàn tay ra. Hiển nhiên có ba con xúc xắc ở trong lòng bàn tay trắng hồng của cộ Vi Tiểu Bảo “ồ” lên một tiếng. Gã sướng quá nhảy lên hỏi:
– Ngươi ở đâu tới? Ngươi ở đâu tới?
Tăng Nhu nhẹ buông tiếng thở dài, bỏ mấy con xúc xắc lên bàn.
Vi Tiểu Bảo vồ lấy gieo hết lần này đến lần khác, rất lấy làm hứng thú.
Gã cầm ba hạt xúc xắc thấy nặng nhẹ không đều, hiển nhiên trong có đô?
thuỷ ngân. Gã nghĩ thầm:
– “Tăng Nhu là người văn nhã, sao lại chơi xúc xắc giả để lừa gạt lấy tiền của người tả” Gã trầm tư một lúc mới nhớ ta chuyện cũ, trong lòng càng hoan hỷ. Gã xoay tay lại ôm lấy lưng cô và hôn lên má cô một cái. Gã cười nói:
– Đa tạ tỷ tỷ! Nhu tỷ tỷ! Cảm ơn tỷ tỷ đã luôn đem theo ba hạt xúc xắc của tiểu đệ bên mình.
Tăng Nhu thẹn đỏ mặt lên, chuồn ra ngoài khoang thuyền.
Nguyên bữa trước Vi Tiểu Bảo cùng bọn đệ tử phái Vương ốc sơn gieo xúc xắc để tìm cách buông tha bọn chúng. Lúc ra khỏi doanh trướng cô đã xin gã mấy hạt xúc xắc này để làm kỷ niệm và cô vẫn giắt trong người.
Bây giờ tuy đã có hạt xúc xắc rồi, nhưng mấy người đàn bà chẳng chẳng ai ham đánh bạc, chỉ ngồi chơi cho vui lòng gã. Đánh bạc nhỏ quá, được thua chẳng có gì đáng kể. Mấy người gieo xúc xắc trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm vẫn không khởi hứng chút nào. So với cuộc đánh bạc trong kỹ viện, ở quân trướng thực khác nhau một trời một vực.
Vi Tiểu Bảo buồn quá la lên:
– Không chơi nữa! Không chơi nữa. Các vị đều chẳng biết gì.
Gã nghĩ tới chuyến này đến đảo Thông Cật lánh nạn, tuy có năm người đẹp bầu bạn, nhưng không được đánh bạc, không coi hát tuồng thì chán ngấy. Hơn nữa ở ngoài đảo hẻo lánh dù có tiền ngàn bạc vạn cũng chẳng dùng làm gì được. Kim ngân không khác gì cát đá, có được tiền cũng chẳng khác gì được đất bùn.
Gã càng nghĩ càng cụt hứng, liền nói:
– Chúng ta đừng đến đảo Thông Cật nữa.
Tô Thuyên hỏi:
– Vậy đệ đệ định đi đâu?
Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Chúng ta đến Liêu Đông đào kho tàng lấy của.
Tô Thuyên hỏi:
– Chúng ta lên hoang đảo đó để hưởng những ngày yên ổn chẳng hơn ư? Dù có đào được kho tàng lấy của báu cũng chẳng biết dùng làm gì.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Kim ngân châu báu càng nhiều càng tốt, sao lại vô dụng?
Phương Di nói:
– Hoàng đế Thát Đát nhất định sẽ phái binh mã tới đó để tróc nã thì chúng ta làm thế nào? Tưởng chúng ta hãy ẩn lánh lúc hoàn cảnh đang sôi sục này một vài năm. Chờ khi mọi việc lắng xuống rồi đệ đệ muốn đi Liêu Đông, khi đó chúng ta lên đường cũng chưa muộn.
Vi Tiểu Bảo hỏi Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình:
– Hai cô tính sao?
Mộc Kiếm Bình đáp:
– Tiểu muội tưởng nên nghe theo lời sư tỷ là phải.
Tăng Nhu nói theo:
– Nếu đệ đệ sợ buồn thì chúng ta chỉ ẩn lánh trên đảo mấy tháng thôi.
Cô thấy nét mặt Vi Tiểu Bảo vẫn còn do dự liền hỏi:
– Hàng ngày chúng ta gieo xúc xắc chơi, ai thua thì đét vào bàn taỵ Đệ đệ có thích không?
Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:
– “Con mẹ nó! Đét vào tay thì có gì là thú?”.
Nhưng gã thấy nét mặt cô thẹn thùa càng xinh đẹp, thái độ khả ái vô cùng, bất giác cảm thấy bâng khuân trong dạ, lại tự nhủ:
– Được lắm! Được lắm! Ta hãy nghe lời mấy cô này.
Phương Di đứng dậy mỉm cười nói:
– Trước kia ta đối với đệ đệ có điều không phải. Bây giờ ta đi làm mấy món nhậu cho đệ đệ uống rượu để tạ tội. Đệ đệ có vui lòng không?
Vi Tiểu Bảo càng khoan khoái trong lòng. Gã vội đáp:
– Cái đó đệ không dám đâu.
Phương Di vào đằng lái thuyền làm món ăn. Nghề nấu nướng của cô rất thông thạo. Cô lại để ý điều chế nên tuy trên thuyền không đủ đồ cô vẫn nấu được những món ngon. Mọi người ăn uống thỏa thích khen không ngớt miệng.
Vi Tiểu Bảo hô:
– Chúng ta chơi trò xai quyền.
Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu và Công chúa ba người không hiểu lối chơi xai quyền. Vi Tiểu Bảo liền dạy ba cô những thế “Kha lưỡng bản” , “Ngũ kinh khôi thủ”, “Tứ quí bình an” rồi sau mấy cô cũng hiểu.
Công chúa từ hồi nào tới giờ mặt vẫn buồn rười rượi, lặng lẽ suốt ngày không mở miệng. Sau một lúc xai quyền, lại uống thêm mấy chung rượu, mặt đỏ lên, cũng cười nói vui vẻ.
Mọi người ở dưới thuyền một ngày. Hôm sau tới đảo Thông Cật vào lúc nửa đêm.
Trên đảo vẫn còn di tích quân Thanh đóng đồn trại ngày trước.
Nhưng Vi Tiểu Bảo đại tướng quân chỉ huy tướng sĩ, oai phong lẫm liệt thì dĩ nhiên chỉ là cái bóng mờ trong đầu óc gã mà thôi, song gã cũng chẳng thèm để ý đến chuyện đó.
Vi Tiểu Bảo dắt tay Phương Di vừa cười vừa nói:
– Di tỷ tỷ! Bữa trước cũng ở nơi đây, tỷ tỷ đã lừa gạt tiểu đệ xuống thuyền rồi đưa đến chỗ suýt bị bỏ mạng ở thành Mạc Tư Khoa, nước La Sát.
Phương Di cười khanh khách đáp:
– Vậy nay thì ta xin lỗi đệ đệ chứ còn biết làm sao được. Chẳng lẽ ta phải quì xuống khấu đầu tạ tội.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Cái đó thì không cần. Có điều ở hiền thì gặp lành. Tiểu đệ chịu muôn vàn đau khổ, nay lại được bầu bạn với tỷ tỷ.
Mộc Kiếm bình chạy lại la lên:
– Hai người nói chuyện gì với nhau đó? Cho người ta nghe với được không?
Phương Di cười đáp:
– Y muốn bắt sư muội vẽ một con rùa đen vào mặt đó.
Tô Thuyên xen vào:
– Thong thả rồi hãy nói chuyện trò đùa. Bây giờ phải làm những công việc khẩn yếu trước.
Mụ liền sai phu thuyền khuân hết dụng cụ trên thuyền đưa lên đảo. Tiếp theo mụ bảo chúng tháo mui, hạ buồm, cởi mái chèo đem cất vào trong sơn động.
Vi Tiểu Bảo khen ngợi:
– Thuyên tỷ tỷ thật là người cẩn thận. Chúng ta chỉ cần giữ những thứ này là con thuyền kia không thể ra khơi được nữa. Chẳng còn lo bọn chúng đào tẩu.
Bọn Vi Tiểu Bảo sáu người đã có mười mấy tên thuyền phu để sai khiến nên những ngày ở Thông Cật đảo rất an nhàn, khoái lạc.
Tô Thuyên đủ tài điều động, hàng ngày mụ phân công bọn thuyền phu đi bắt cá, đốn củi, săn bắt dã thú, dựng nhà cửa. Ai cũng có việc, không dám chểnh mảng.
Sau mỗi bữa ăn tối, Vi Tiểu Bảo lại cùng bọn thuyền phu gieo xúc xắc đánh bạc. Chỉ chưa đầy mười ngày mà bọn chúng đã thiếu gã kẻ thì mấy trăm, người thì hàng ngàn lạng về nợ cờ bạc. Tên nào tên nấy cũng ngày một chồng chất món nợ lên cao. Cái đó bất tất phải nói nữa.
Thời gian thấm thoắt, chẳng bao lâu đã được hơn một tháng. Bọn Vi Tiểu Bảo ở trên đảo rất nhàn nhã, thảnh thơi.
Một hôm ăn cơm trưa xong, Vi Tiểu Bảo cùng Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình ra ngồi trên phiến đá ở mé bắc đảo buông câu.
Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình mỗi người câu được hai con cá rồi mà Vi Tiểu Bảo nóng tính lại chẳng được con nào. Lâu lắm lưỡi câu của gã mới thấy có cá đớp. Gã thấy mặt biển dao động liền reo lên một tiếng rồi giật mạnh cần câu.
Cá vừa ra khỏi mặt nước, Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình không nhịn nổi bật lên tràng cười khanh khách.
Nguyên con vật mắc câu không phải là cá mà là một con rùa lớn. Bốn chân nó giẫy giụa loạn lên ở trên không.
Vi Tiểu Bảo cũng cả cười nói:
– Câu được cá có chi là lạ. Các cô có giỏi thì hãy câu lấy một con rùa lớn như huynh đệ này…
Gã chưa dứt lời, bỗng nghe một tiếng “đùng” từ phía xa trên mặt biển vọng lại, tựa hồ như tiếng súng nổ. Gã giật mình khinh hãi buông tay ra. Con rùa rơi tõm xuống biển, lôi cả dây câu theo.
Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình đồng thanh la hoảng.
Ba người ngẩng đầu nhìn về phía phát ra tiếng nổ thì chỉ thấy mù trắng mịt mờ. Giữa làm mù thấp thoáng có hai con thuyền đang vèo vèo chạy tới.
Tiếp theo lại hai tiếng”đùng đùng” vang lên. Quả nhiên trên thuyền đã khai pháo.
Vi Tiểu Bảo sợ hết hồn la lên:
– Nguy rồi! Tiểu Hoàng đế phái người đến bắt ta.
Tăng Nhu nói:
– Chúng ta mau xuống thuyền chạy trốn.
Ba người vứt cần câu và giỏ lại chạy đi.
Lúc này Tô Thuyên, Phương Di, Công chúa đã nghe thấy tiếng súng nổ liền chạy ra coi. Bây giờ súng nổ vang lừng không ngớt. Đạn rớt xuống biển, nước bắn lên tung toé.
Tô Thuyên nói:
– Buồm và mái chèo đều đem lên bờ cả rồi. Bây giờ có lắp vào cũng không kịp nữa. Chúng ta đành ẩn nấp trên đảo rồi tùy cơ ứng biến.
Trong bọn sáu người này chỉ có một mình Công chúa trước nay ở cung vi nhàn hạ quen rồi, còn năm người kia đều là những tay trải qua nhiều cơn nguy hiểm nên cũng không hoang mang cho lắm.
Tô Thuyên lại nói:
– Dù bọn ta ẩn lánh nơi này kín đáo đến đâu, chung qui vẫn bị bọn quan binh xục tìm được. Bây giờ chỉ có cách lên sơn động trên vách núi mà lẩn tránh.
Bọn quan binh chỉ có thể lên từng người để tấn công. Chúng ta thấy tên nào là giết tên ấy, đừng để bọn chúng kéo ùa vào.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Phải lắm! Cái đó kêu bằng bắt ba ba trong rọ. Chỉ cần một người canh gác.
Tô Thuyên mỉm cười nói:
– Chính là thế đó.
Công chúa không nhịn được, nổi lên tràng cười khanh khách.
Vi Tiểu Bảo trường mắt hỏi:
– Cười gì vậy?
Công chúa toét miệng đáp:
– Chả có gì cả. Ngươi dùng thành ngữ hay quá khiến cho người ta phải khâm phục.
Vi Tiểu Bảo tự biết chữ nghĩa mình chẳng biết gì, chắc là thành ngữ mình nói có chỗ sai lầm khiến Công chúa phải phì cười. Gã trừng mắt lên nhìn nàng một cái.
Sáu người tiến vào sơn động.
Tô Thuyên chặt mấy cành cây xếp đống trước sơn động để che kín thân hình.
Hai con thuyền một trước một sau chạy thẳng vào hải đảo.
Con thuyền sau vẫn không ngớt nổ súng. Đạn rớt xung quanh, nước vọt lên như những cây cột.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Thuyền sau nhằm nổ súng vào thuyền trước.
Tô Thuyên đáp:
– Đúng thế! Té ra hai thuyền này đối nghịch nhau.
Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:
– Nếu quả đúng vậy thì e rằng hai thuyền này tới đây không phải vì mục đích bắt chúng ta.
Tô Thuyên đáp:
– Ta cũng mong như vậy. Có điều bọn chúng mà lên đảo nhìn thấy nhà cửa của chúng ta, tất nhiên sẽ xục tìm khắp mọi chỗ.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Sao thuyền trước không bắn trả? Thật là đồ vô dụng. Đáng lý ra nó có bắn mình, mình cũng phải bắn trả cho hai thuyền chìm ráo xuống biển có phải hay hơn không?
Mộc Kiếm Bình cười nói:
– Có thế thì con rùa lớn vừa mắc lưới của huynh đệ mới kiếm được đồ ăn.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Đúng thế thật.
Con thuyền chạy trước nhỏ hơn, gió thổi buồm phồng lên, chạy rất nhanh.
Đột nhiên một phát súng nổ bắn gãy cột buồm. Cánh buồm bằng vải bốc cháy ào ào.
Bọn Vi Tiểu Bảo không nhịn được, bật tiếng la hoảng.
Lại thấy thuyền trước nghiêng đi rồi quay ngang ra.
Tiếp theo cái mủng nhỏ trên thuyền này hạ xuống nước. Mười mấy người nhảy lên mủng vội vã cầm mái chèo bơi thật lẹ.
Lúc thuyền nhỏ sắp vào bờ, thuyền sau dần dần đuổi gần tới. Bãi biển nước nông không áp mạn được. Trên thuyền sau cũng hạ xuống bốn cái mủng nhỏ.
Mủng trước chạy trốn, bốn chiếc mủng phía sau rượt theo. Chẳng bao lâu ca?
mủng trước mủng sau kế tiếp nhau đẩy lên bãi cát.
Mười mấy người ở mủng trước chạy lên bãi cát, quan sát tình thế trên đảo rồi nghe tiếng người hô:
– Vách đá dựng đứng bên kia có thể cố thủ được. Chúng ta hãy qua bên đó.
Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm tựa hồ như của sư phụ Trần Cận Nam.
Khi mười mấy người theo đường nhỏ chạy đến gần. Một nhân vật cầm trường kiếm đứng trên sườn núi chỉ huy quả đúng là Trần Cận Nam.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, từ trong sơn động nhảy ra gọi:
– Sư phụ! Sư phụ!
Trần Cận Nam quay lại ngó thấy Vi Tiểu Bảo cũng vừa kinh ngạc vừa vui mừng, lớn tiếng hỏi:
– Tiểu Bảo! Sao ngươi cũng tới đây?
Vi Tiểu Bảo chạy như bay gần tới nơi bỗng gã thộn mặt ra. Gã ngó thấy trong mười mấy người kia có một cô gái da trắng mắt trong, chính là A Khạ Gã liền hô lớn:
– A Kha!
Rồi gã chạy lại, nhưng người đứng đằng sau cô rõ ràng là Trịnh Khắc Sảng.
Đã có A Kha tất có Trịnh Khắc Sảng là lẽ tự nhiên nhưng Vi Tiểu Bảo đang mừng như người điên lại chạm phải bộ mặt chán ngấy. Gã tưởng chừng trái tim chìm xuống, đứng thộn mặt ra.
Tiếp theo bên này một người hô:
tướng công, bên kia người khác gọi:
Vi hươnh chủ.
Vi Tiểu Bảo nghe gọi miệng đáp lại một tiếng nhưng mắt không ngó tới hai người mà chỉ trân trân nhìn A Kha như ngây như dại.
Bỗng một bàn tay nhỏ bé mềm mại đưa ra nắm lấy tay gã.
Vi Tiểu Bảo bủn rủn cả người quay đầu nhìn lại thì thấy gương mặt xinh đẹp đầy vẻ hoan hỷ nhưng trong khoé mắt dòng châu tầm tã khôn cầm. Cô bé này chính là Song Nhi.
Vi Tiểu Bảo mừng quá hai tay ôm choàng lấy thị reo:
– Hảo Song Nhi! Ta nhớ cô đến chết đi được.
Lại nghe Trần Cận Nam hô:
– Phùng đại ca! Phong huynh đệ!
Hai người kia đồng thanh đáp lại.
Nguyên hai người này một là Phùng Tích Phạm và một là Phong Tế Trung. Ca?
hai người đang cầm binh khí sóng vai đứng canh giữ ở đầu đường lên núi.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên gặp nhiều người quen thuộc. Gã cất tiếng hỏi:
– Sao các vị cũng đến cả đây?
Song Nhi đáp:
– Phong đại ca đưa tiểu tỳ đi tìm tướng công khắp nơi mà chẳng thấy đâu, sau gặp Tổng đà chúa, lại nghe nói các vị đã xuống thuyền ra biển. Thế là… thế là…
Thị nói tới đây vui mừng quá đỗi, nghẹn ngào không nói nên lời.
Bốn con thuyền nhỏ rượt theo toàn là Thanh binh. Chúng cũng đã lên bãi cát hết rồi. Trên sườn núi ngó xuống thấy có đến bảy tám chục tên.
Người đi trước tay cầm trường đao, thân hình to lớn đang chỉ huy Thanh binh bày thành đội ngũ.
Đội quan binh hàng ngũ chỉnh tề. Tướng chỉ huy liền hạ lệnh một tiếng. Bọn binh sĩ tháo cung đeo ở trên lưng xuống, rút trong túi tên lấy vũ tiễn lắp vào. Mũi tên hướng cả về phía sườn núi.
Trần Cận Nam hô lớn:
– Anh em phục cả xuống.
Vi Tiểu Bảo không chờ sư phụ ra lệnh, gã vừa thấy quân Thanh lấy cung cầm tay đã co mình ẩn vào sau một tảng đá lớn.
Lại nghe viên tướng hô:
– Xạ tiễn!
Chớp mắt tên bay vèo vèo không ngớt.
Vách núi cao quá mà đứng dưới ngửa mặt bắn lên, khi tới nơi kình lực đã giảm hẳn.
Phùng Tích Phạm và Phong Tế Trung, một người cầm trường kiếm, một người múa đơn đao gạt những mũi tên rớt xuống.
Phùng Tích Phạm lớn tiếng:
– Thi Lang! Ngươi quả là một tên Hán gian mặt dầy. Có giỏi thì lên đây đơn đa?
độc đấu với lão gia, quyết một trận sinh tử.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:
– Té ra người đứng dưới chỉ huy Thanh binh là Thi Lang. Hắn rất giỏi nghề dụng binh, hành quân lâm trận.
Lại nghe Thi Lang nói vọng lên:
– Lão có giỏi thì xuống đây đơn đả độc đấu với tạ Ta cũng không sợ lão đâu.
Phùng Tích Phạm nói:
– Được lắm!
Lão toan nhảy xuống, nhưng Trần Cận Nam cản lại nói:
– Phùng Tích Phạm! Thi Lang là một kẻ đê hèn, vô liêm sỉ. Việc gì hắn cũng dám làm. Đại ca đừng mắc bẫy hắn.
Phùng Tích Phạm liền dừng lại lớn tiếng hỏi:
– Thi Lang! Ngươi muốn đơn đả độc đấu với ta thì sao lại phái bốn con mủng nhỏ… con mẹ nó!… cả cái mủng của bọn ta ngươi cũng ăn cắp để đi đón thêm người? Tên Hán gian thối tha kia! Phải chăng ngươi định ỷ vào số đông để thủ thắng?
Thi Lang cười đáp:
– Trần quân sư! Phùng đội trưởng! Võ công hai vị thật là cao thâm. Thi mỗ lấy làm khâm phục vô cùng. Người ta thường nói:” Biết thời biết vụ mới là tay tuấn kiệt”. Sao hai vị không đưa Trịnh công tử xuống đầu hàng đi. Nhất định Hoàng thượng sẽ phong cho hai vị chức quan lớn.
Nguyên ngày trước Thi Lang là một viên đại tướng dưới trướng Trịnh Thành Công. Hắn cùng Chu Toàn Bân, Cam Huy, Mã Tín và Lưu Quốc Hiên hợp xưng thành Ngũ hổ tướng. Hồi ấy Trần Cận Nam làm quân sư, Phùng Tích Phạm tuy võ công cao cường nhưng không giỏi về tướng lược nên chỉ là đội trưởng trong đội thị vệ của Trịnh Thành Công. Thi Lang cùng hai lão Trần, Phùng ba người đã cùng nhau trải qua những trận huyết chiến, chia sẻ hoạn nạn một thời gian khá lâu. Bây giờ hắn vẫn xưng hô hai người bằng quan hàm ngày ấy.
Thi Lang đứng đằng xa nhưng trung khí đầy rẫy, hắn nói câu nào người trên vách núi cũng nghe thấy.
Trịnh Khắc Sảng biến sắc, run lên nói:
Phùng sư phụ! Sư phu… sư phụ chớ có đầu hàng.
Phùng Tích Phạm đáp:
– Công tử cứ yên lòng. Dù Phùng mỗ chỉ còn một hơi thở cuối cùng cũng không bao giờ đầu hàng bọn Thát Đát.
Tuy Trần Cận Nam vẫn biết Phùng Tích Phạm là con người thâm hiểm gian trá, đã mấy lần toan mưu hại ông để tiện cho việc mưu đồ địa vị thế tử của Bình Diên quận vương cho Trịnh Khắc Sảng. Nhưng bây giờ ông nghe lão nói lên mấy lời nghĩa khí, bất giác sinh lòng mến phục nói:
– Phùng đại ca! Đại ca cùng tiểu đệ bữa nay sóng vai tử chiến để giữ cho nhị công tử được an toàn.
Phùng Tích Phạm đáp:
– Dĩ nhiên Phùng mỗ theo lệnh quân sư.
Trịnh Khắc Sảng nói:
– Chuyến này quân sư có công bảo giá. Khi trở về Đài Loan ta sẽ tâu phu.
vương phong thưởng trọng hậu.
Trần Cận Nam đáp:
– Đây là bổn phận thuộc hạ phải làm.
Ông nói rồi ngó xuống quan sát tình hình bên địch.
Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói:
– Trịnh công tử! Phong thưởng trọng hậu gì gì cũng không cần. Chỉ mong sao đừng trở mặt gia hại sư phụ tại hạ là tại hạ cảm ơn lắm rồi.
Trịnh Khắc Sảng trợn mắt lên nhìn gã.
Vi Tiểu Bảo khẽ bảo A Kha:
– Sư tỷ! Chi bằng chúng ta bắt Trịnh công tử đem giao nộp cho quân Thanh quách.
A Kha bĩu môi hỏi:
– Hễ thấy mặt ngươi là phải nghe những điều chẳng tử tế gì. Sao ngươi lại hăm y?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Hăm một chút chơi chứ có là chết được hắn đâu? Mà dù hắn có chết cũng chẳng ngại gì.
A Kha phì một tiếng rồi lùi lại mấy bước đến đứng bên Trịnh Khắc Sảng.
Trịnh Khắc Sảng cất giọng run run hỏi:
– Thằng lỏi kia làm quan lớn tại triều đình Thát Đát. Sao… sao gã lại ở đây?
A Kha đáp:
– Mặc kệ gã, đừng lý đến làm gì. Chức quan lớn của gã cũng là giả đó.
Vi Tiểu Bảo hỏi Song Nhi:
– Tại sao cô cùng đi với bọn họ?
Song Nhi đáp:
– Trần tổng đà chúa dẫn Phong đại ca cùng tiểu tỳ ra biển tìm tướng công hơn một tháng trời. Gặp hải đảo nào cũng lên coi. Tiểu tỳ nhớ đến tướng công đã từng đến đảo Thông Cật này liền mách Trần tổng đà chúa ra coi. Dọc đường bỗng gặp thuyền quân Thanh rượt theo Trịnh công tử, đánh đắm thuyền ỵ Bọn tiểu tỳ cứu y sang thuyền mình rồi chạy trốn tới đây, may gặp được tướng công.
Hồi 216
Kẻ vong ân ám hại Trần Công
Song Nhi nói tới đây vành mắt đỏ hoe.
Vi Tiểu Bảo vỗ vai thị an ủi:
– Hảo Song Nhi! Mấy bữa nay chẳng một lúc nào ta không nhớ tới cộ Gã nói mấy câu này bằng cả tấm lòng thành thực chứ không phải khẩu thị tâm phị Tuy những ngày gã ở trên Thông Cật đảo rất thảnh thơi nhàn hạ, nhưng trong lòng gã luôn nhớ tới A Kha và Song Nhi.
Bỗng nghe Trần Cận Nam hô:
– Các vị huynh đệ! Chúng ta nên nhân lúc viện binh Thát Đát chưa tới xông ra giết giặc. Nếu không thì lát nữa còn năm thuyền quan binh Thát Đát đuổi tới đây chúng ta thật khó đối phó.
Quần hùng đều khen phải.
Chuyến này trong mười mấy người lên đảo trừ Trần Cận Nam, Phùng Tích Phạm, Trịnh Khắc Sảng, Phong Tế Trung và A Kha, Song Nhi còn tám người ở Thiên Địa hội và ba vệ sĩ của Trịnh Khắc Sảng.
Trần Cận Nam lại nói:
– Trịnh công tử! Trần cô nương, Tiểu Bảo, Song Nhi bốn vị Ở lại đây. Còn bao nhiêu hãy theo tại hạ.
Ông vung trường kiếm đi trước xuống núi.
Phùng Tích Phạm, Phong Tế Trung và mười một người nữa chạy theo Trần Cận Nam.
Quần hào lớn tiếng hò reo xông thẳng vào đội ngũ quân Thanh.
Thanh binh bắn tên như mưa nhưng đều bị ba tay đi đầu là Trần Cận Nam, Phong Tế Trung, Phùng Tích Phạm gạt tên rơi xuống lả tả.
Lúc trước ở dưới thuyền đã khai diễn một trận thủy chiến, nhưng Thi Lang cưỡi thuyền lớn nổ súng bắn sang rất khủng khiếp, bọn Trần Cận Nam chỉ có né tránh và đào tẩu chứ không có cơ hội phản kích lại được. Bây giờ lại là trận chiến giáp lá cà mà trong số Thanh binh chỉ có mình Thi Lang võ công cao cường, còn ngoài ra đều bản lãnh kém cỏi thì địch làm sao được ba người Trần, Phùng, Phong?
Anh em Thiên Địa hội và vệ sĩ của Trịnh phủ thân thủ cũng rất mau lẹ. Ca?
mười bốn người xông vào trận, quân Thanh thua to.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Sư tỷ! Song Nhi! Chúng ta cũng xông vào giết giặc một phen.
A Kha và Song Nhi đồng thanh ưng thuận.
A Kha quay lại bảo Trịnh Khắc Sảng:
– Công tử ở lại đây lược trận.
Trịnh Khắc Sảng đáp:
– Ta cũng đi luôn.
Vi Tiểu Bảo rút trủy thủ ra cầm tay rồi chạy xuống núi, Song Nhi, A Kha cũng chạy theo.
Trịnh Khắc Sảng chạy được mấy bước bỗng dừng lại nghĩ thầm:
– “Tấm thân ta quan trọng ngàn vàng không đổi. Sao lại theo bọn thuộc ha.
xông vào nơi nguy hiểm?” Gã liền lớn tiếng gọi:
– A Kha! Nàng cũng trở về thôi.
A Kha đang chạy gấp không nghe rõ tiếng gọi. Cô thấy một tên Thanh binh đang vung trường thương đâm tới, liền hua đao tiện đà hớt luôn một nhát.
Tên Thanh binh rú lên một tiếng thê thảm, bốn ngón tay đã đứt rời. Gã đau quá phải vứt trường thương chạy lấy người.
Vi Tiểu Bảo tuy võ công kém cỏi nhưng bên mình gã có tứ bảo hộ thân nên xông vào địch trận như chỗ không người.
Tứ bảo của gã là gì?
Đệ nhất bảo là thanh trủy thủ sắc bén. Binh khí địch nhân đụng vào là bị đứt ngaỵ Đệ nhị bảo là tấm bảo y hộ thân, đao thương chém không vào. Đệ tam bảo là công phu lẩn tránh rất tinh diệu, không ai đuổi kịp. Đệ tứ bảo là Song Nhi đi bên mình gã, võ công cô rất cao thâm, quân Thanh không địch nổi.
Kẻ ra tứ bảo của gã mà sử dụng để đối phó với một tay cao thủ thì nhất định phải thất bại, nhưng tỷ đấu với Thanh binh thì lại có thừa.
Chỉ trong nháy mắt gã đã hạ mấy địch nhân. Quả là oai phong lẫm liệt, sát khí đằng đằng. Bất giác gã đắc ý tự nhủ:
– Ngày trước Triệu Tử Long chạy lên chạy xuống trên gò Trường Bản bảy lần, chắc cũng chỉ như ta ngày nay thôi.
Quần hùng đánh giết một hồi, quân Thanh chạy toán loạn.
Trần Cận Nam một mình chiến đấu với Thi Lang, nhất thời chưa phân thắng bại.
Phùng Tích Phạm và Phong Tế Trung chặt đầu quân Thanh như sung rụng, tựa thái rau.
Trong khoảng thời gian chưa ăn xong bữa cơm, Thanh binh có hơn tám chục tên đã bị tử thương đến sáu chục. Bọn tàn binh tới tấp chạy xuống biển.
Bọn chúng đều là thủy quân, thông thạo nghề bơi lội, hốt hoảng bơi về phía thuyền lớn.
Bên này anh em Thiên Địa hội có hai người chết và một người bị trọng thương. Còn bao nhiêu quây lại vây bọc Thi Lang.
Thi Lang múa tít cương đao tỷ đấu với trường kiếm của Trần Cận Nam một cách hăng hái. Tuy hắn bị hãm vào trùng vây mà vẫn không mảy may sợ hãi.
Vi Tiểu Bảo la gọi:
– Thi tướng quân! Tướng quân mà không hạ đao đầu hàng thì chút nữa sẽ bị băm nát như tương.
Thi Lang đang để hết tinh thần vào cuộc chiến đấu. Bên ngoài ai nói gì làm gì hắn cũng không nghe thấy hay nhìn thấy.
Cuộc chiến đấu đang kịch liệt, bỗng Trần Cận Nam hú lên một tiếng dài, phóng kiếm đâm liền ba chiêu. Chiêu thứ ba thì thanh trường kiếm của Trần Cận Nam dính liền vào cương đao của Thi Lang. Ông rung cổ tay chuyển nhanh hai vòng.
Thi Lang “ối” lên một tiếng, thanh cương đao tuột tay bay đi.
Trần Cận Nam chĩa mũi kiếm vào cổ hắn hỏi:
– Ngươi tính sao bây giờ?
Thi Lang tức giận đáp:
– Ngươi đã thắng thì giết ta đi chứ còn nói gì nữa?
Trần Cận Nam hỏi:
– Đã đến lúc này mà ngươi còn lên mặt anh hùng hảo hán ư? Bội chủ, phản bạn đâu phải là hành vi của bậc anh hùng?
Thi Lang đột nhiên ngửa người về phía sau té lộn xuống đất.
Hắn trằn người đi tránh khỏi mũi kiếm chĩa vào cổ họng rồi vung hai chân đá vào cẳng Trần Cận Nam theo thế liên hoàn.
Trần Cận Nam dựng thanh trường kiếm lên chắn ở phía trước cẳng chân. Hai chân Thi Lang nếu tiếp tục đá tới thì hai gót chân hắn đưa vào lưỡi kiếm tất bị đứt ngay.
Gặp lúc nguy cấp, Thi Lang liền chống chân phải xuống đất rồi hai gót chân đưa lên không. Hắn lại lộn người đi một cái, nhảy ra ngoài mới thoát được mối nguy bị chặt chân.
Khi Thi Lang đứng dậy thì mũi kiếm của Trần Cận Nam đã lại chĩa vào cổ họng hắn rồi.
Thi Lang cực kỳ thất vọng, tự biết mình võ công còn kém đối thủ. Đột nhiên hắn cất tiếng hỏi:
– Quân sư! Quốc tính gia đối xử với tại hạ thế nào?
Câu hỏi này ra ngoài sự tiêu liệu của Trần Cận Nam khiến ông không khỏi ngơ ngác.
Quốc tính gia tức là Trịnh Thành Công. Hoàng đế nhà Đại Minh ban cho ho.
được mang họ Chu, mà họ Chu là Quốc tính. Vì thế bọn bộ thuộc đều xưng hô Trịnh Thành Công là Quốc tính gia.
Giữa Trịnh Thành Công và Thi Lang có những ân oán gì đều hiện lên trong đầu óc Trần Cận Nam.
Ngày trước Thi Lang ở dưới trướng Trịnh Thành Công đã lập được nhiều công lớn. Chỉ vì một tên quân bộ thuộc của Thi Lang hoang báo quân tình, phạm vào quân pháp. Thi Lang toan xử trảm thì tên này trốn vào nấp bóng Đổng phu nhân của Trịnh Thành Công để xin che trở. Nhưng Thi Lang cứ lôi hắn ra chém đầu cho nghiêm quân lệnh.
Trịnh Thành Công sủng ái Đổng phu nhân liền khép Thi Lang vào tội vô lễ phạm thượng, hạ lệnh bắt cả nhà hắn.
Thi Lang trốn thoát được, nhưng cha mẹ, anh em, vợ con đều bị Trịnh Thành Công hạ sát.
Thi Lang hay tin vừa đau xót vừa căm hận liền qua đầu hàng Thanh triều.
Trần Cận Nam nhớ lại chuyễn cũ rồi thở dài nói:
– Bình tĩnh mà nói thì Quốc tính gia có chỗ tàn nhẫn với Thi huynh đệ. Nhưng chúng ta chịu ơn sâu của Quốc tính gia thì dù có gặp điều oan khuất cũng đành cắn răng mà chịu chứ biết làm sao?
Thi Lang hỏi:
– Chẳng lẽ quân sư lại muốn tiểu tướng phải thác oan như Nhạc Phi?
Trần Cận Nam lớn tiếng:
– Dù Thi huynh đệ không làm được như Nhạc Phi thì cũng không nên làm Tần Cối. Huynh đệ trốn thoát cho khỏi chết là được rồi. Bậc đại trượng phu có lý đâu lại đi đầu hàng quân Thát Đát để mang tiếng Hán gian mà làm chó săn cho địch.
Thế chỉ là tuồng chó lợn.
Thi Lang hỏi:
– Cha mẹ, vợ con, anh em tiểu tướng có tội gì mà Quốc tính gia cũng xử trảm hết? Lão đã giết toàn gia tiểu tướng thì tiểu tướng cũng tìm cách diệt trừ toàn gia lão để trả thù.
Trần Cận Nam đáp:
– Báo tư thù là việc nhỏ, làm Hán gian là chuyện lớn. Nay ta không hạ sát Thi huynh đệ thì khi xuống suối vàng chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy Quốc tính gia.
Thi Lang nghển cổ lên nói:
– Được rồi! Quân sư giết tiển tướng đi. E rằng Quốc tính gia không còn mặt mũi nào nhìn thấy tiểu tướng chứ không phải tiểu tướng chẳng dám nhìn lão.
Trần Cận Nam lớn tiếng:
– Tướng quân đã gặp tình trạng này mà vẫn còn lãi lý ư?
Ông muốn phóng kiếm đâm vào cổ họng Thi Lang nhưng nghĩ tới ngày trước đã đồng sinh công tử nơi trận thượng nhiều lần. Hồi Thi Lang ở dưới trướng Quốc tính gia đã hăng hái xông lên trước trận tiền làm gương cho sĩ tốt, trải qua bao trận chiến đẫm máu. Công lao của hắn thật không phải là nhỏ. Nếu chẳng có chuyện Đổng phu nhân can thiệp vào quân vụ, khinh nhờn đại tướng thì bữa nay Đài Loan vững như bàn thạch.
Dù sao thì tội hàng giặc phản quốc cũng không thể tha thứ. Có điều toàn gia Thi Lang đều là người vô tội mà bị tru lục, tình cảnh thật oan nghiệt.
Ông đắn đo hồi lâu rồi nói:
– Ta mở cho Thi huynh đệ một sinh lộ là huynh đệ phải lập lời trọng thệ trở về hàng dưới trướng Trịnh vương gia mới khỏi chết. Sau này huynh đệ đem công chuộc tội, hết sức phò tá Minh triều khôi phục lại giang sơn thì vẫn không hổ một trang hán tử đường đường. Thi huynh đệ! Đó là những lời vàng đá mà ta khuyên nhủ, mong huynh đệ sớm quay đầu lại.
Câu sau cùng ông nói bằng giọng rất khần thiết.
Thi Lang cúi đầu nét mặt ra chiều bẽn lẽn, ấp úng hỏi:
– Tiểu tướng… tiểu tướng nếu còn trở lại Đài Loan há chẳng thành kẻ tiểu nhân phản phúc vô thường?
Trần Cận Nam tra kiếm vào vỏ, tiến lại gần Thi Lang nói:
– Thi huynh đệ! Con người phải lấy việc đại nghĩa đại tiết làm trọng. Chỉ cần huynh đệ từ nay dốc dạ trung can thì chuyện hồ đồ trong lúc nhất thời chẳng còn ai dám dị nghị gì nữa. Ngay Quan Vương gia trước cũng có thời kỳ hàng Tào đấy thôi…
Đột nhiên sau lưng có người lên tiếng:
– Tên ác tặc này đã bảo gia gia ta tru lục toàn gia nhà hắn và hắn nhất định muốn giết toàn gia ta để báo thù thì hắn là kẻ tiểu nhân vô liêm sỉ. Chúng ta quyết không thể dung thứ hắn được. Quân sư chặt đầu hắn đi quách.
Trần Cận Nam quay đầu nhìn lại thì người nói mấy câu này là Trịnh Khắc Sảng.
Ông liền nói:
– Nhị công tử! Thi tướng quân giỏi nghề dùng binh. Trong quân trướng ngày trước của Quốc tính gia không ai hơn được. Y chịu đầu hàng là rất lợi cho cuộc phản Thanh phục Minh của chúng tạ Chúng ta nên lấy việc phục quốc làm trọng, gạt bỏ hết mọi mối tư thù tư oán.
Trịnh Khắc Sảng cười lạt hỏi:
– Hắn về Đài Loan nắm giữ binh quyền thì họ Trịnh nhà ta còn sống được chăng?
Trần Cận Nam đáp:
– Chỉ cần Thi tướng quân đây lập lời trọng thệ là Trần mỗ quyết đem tính mạng toàn gia ra bảo đảm cho y quyết chẳng hai lòng.
Trịnh Khắc Sảng cười lạt hỏi:
– Khi hắn giết cả nhà ta rồi, liệu tính mạng cả nhà tiên sinh có đền được không? Đất Đài Loan là của họ Trịnh nhà ta chứ không phải của nhà Trần quân sư.
Trần Cận Nam tức muốn chết người, chân tay lạnh ngắt mà phải ráng nhẫn nhịn dẹp lửa giận xuống. Ông toan nói nữa thì Thi Lang đột nhiên co giò trốn chạy.
Miệng hắn vẫn la:
– Quân sư! Mối tình nghĩa thâm trọng giữa chúng ta tiểu đệ vĩnh viễn không bao giờ quên được. Tiểu đệ không thể làm nô tài cho nhà họ Trịnh…
Trần Cận Nam gọi giật lại:
– Thi huynh đệ! Hãy quay trở lại để Trần mỗ nói chuyện.
Đột nhiên ông thấy sau lưng đau nhói lên. Lưỡi kiếm bén nhọn đã đâm suốt từ sau lưng ra tới trước ngực. Ông đã bị Trịnh Khắc Sảng ám toán một cách bất ngờ.
Tình thực thì bản lãnh của Trần Cận Nam đã đạt đến trình độ hiếm có trên đời. Cả mười tên Trịnh Khắc Sảng cũng không giết nổi ông. Chỉ vì ông thấy Thi Lang đã có ý đầu hàng lại bị Trịnh Khắc Sảng thoá mạ, hắn mới bỏ đi. Ông nghĩ đến kiếm một vị tướng tài chẳng phải chuyện dễ dàng, chỉ mong vãn hồi đại cuộc.
Có bao giờ ông ngờ tới Trịnh Khắc Sảng đứng ở phía sau lại phóng kiếm đâm mình một cách đột ngột.
Nguyên năm xưa Trịnh Thành Công đánh được Đài Loan rồi, phái con là Trịnh Kinh đồn trú giữ Kim Môn, Hạ Môn.
Trịnh Kinh rất được lòng sĩ tốt nhưng phải nết ham mê nữ sắc. Y thông gian với người nhũ mẫu sinh con. Trịnh Thành Công rất phẫn nộ về vụ này bèn phái người cầm lệnh tiễn đến Hạ Môn hạ sát Trịnh Kinh. Nhưng các tướng nhận thấy đây là một mệnh lệnh trái nghịch thiên luân nên không chịu tuân theo.
Trịnh Thành Công thấy bộ tướng chống lại mệnh lệnh của mình lại càng căm phẫn vô cùng. Chẳng bao lâu y mắc bệnh mà chết vào năm tuổi. Các tướng lĩnh ở Đài Loan liền dựng người em Trịnh Thành Công là Trịnh Tập lên làm chủ.
Trịnh Kinh kéo quân từ Kim Môn, Hạ Môn về Đài Loan đánh tan bọn quân trấn ở đây rồi lên kế vị Diên Bình vương.
Đổng phu nhân, vợ Trịnh Thành Công vì thấy nhũ mẫu tư thông với Trịnh Kinh sinh con mà trong nhà xảy ra biến loạn, Vương gia sớm qua đời nên bà rất căm hận Trịnh Khắc Tang là con của người nhũ mẫu. Bà ra sức chủ trương lập cháu đích tôn là Trịnh Khắc Sảng làm thế tử nhưng Trịnh Kinh không nghe lời mẹ.
Đổng phu nhân liền cùng bọn Phùng Tích Phạm âm mưu phản đối Trịnh Kinh.
Mọi người đều biết muốn lập Trịnh Khắc Sảng phải giết Trần Cận Nam trước vì ông làm trở ngại vụ này. Chúng đã mấy lần gia hại mà ông đều tránh thoát.
Trịnh Khắc Sảng đã mấy phen được ông cứu mạng, không ngờ nay hắn lại ha.
độc thủ giết ông trên đảo Thông Cật.
Biến cố xảy ra bất ngờ. Phùng Tích Phạm toan rượt theo Thi Lang thì thấy Vi Tiểu Bảo tay cầm trủy thủ đâm Trịnh Khắc Sảng. Lão liền vung kiếm lên gạt.
Choang một tiếng, thanh trường kiếm trong tay Phùng Tích Phạm gãy làm hai đoạn. Nhưng nội kình của lão vận vào trường kiếm cũng hất thanh trủy thủ của Vi Tiểu Bảo vuột tay bay đi.
Phùng Tích Phạm lại vung cước đá Vi Tiểu Bảo lộn đi mấy vòng. Lão toan truy kích thì Song Nhi chạy ra ngăn cản.
Phong Tế Trung và hai người anh em Thiên Địa hội cũng sấn lại.
Vi Tiểu Bảo lồm cồm bò dậy, lượm thanh trủy thủ lên hô lớn:
Hắn hạ sát Tổng đà chúa. Hết thẩy anh em phải liều mạng với hắn.
Rồi xông về phía Trịnh Khắc Sảng.
A Kha cản lại quát:
– Tiểu Bảo! Không được làm nhộn!
Vi Tiểu Bảo vừa khóc vừa la:
– Chính sư tỷ mới làm nhộn. Bữa nay lão gia nhất định phải giết hắn.
Lúc này đã có mấy anh em Thiên Địa hội lại tấn công Trịnh Khắc Sảng.
Phùng Tích Phạm chiến đấu với bọn Phong Tế Trung, Song Nhi bốn người vẫn chiếm được thượng phong. Lão phóng chưởng đánh trúng một người anh em Thiên Địa hội hộc máu ra mà chết.
– Bỗng nghe Trịnh Khắc Sảng thét lên be bẹ Phùng Tích Phạm liền bỏ đối thủ chạy đến bên hắn. Lão lại phóng chưởng đánh chết một người nữa trong Thiên Địa hội.
Lão biết Trần Cận Nam chết rồi thì Vi Tiểu Bảo đứng đầu bọn này, lão định thu thập gã trước. Lão vươn tay đánh xuống đầu gã.
Song Nhi la lên:
– Tướng công! Chạy mau đi!
Thị nhảy xổ về phía sau Phùng Tích Phạm.
Vi Tiểu Bảo dặn:
– Cô cũng phải coi chừng!
Gã co giò chạy trốn.
Phùng Tích Phạm nghĩ bụng:
– “Nếu mình rượt theo tên tiểu quỷ đó thì không có ai bảo vệ công tử.” Lão liền ôm Trịnh Khắc Sảng lên rồi rượt theo Vi Tiểu Bảo. Võ công lão qua?
đã đến mức phi thường. Tay ôm một người mà còn chạy nhanh hơn Vi Tiểu Bảo nhiều.
Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn lại thấy lão đuổi tới nơi sợ giật bắn người lên. Gã toan giơ tay ấn vào cơ quan “Hàm sa xạ ảnh” nhưng chậm mất rồi, Phùng Tích Phạm đã phóng chưởng đánh tới.
Giữa lúc nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc, nếu còn phóng ám khí thì e rằng chính gã cũng bị đánh vỡ đầu. Gã đành nghiêng người né tránh rồi dùng kỹ thuật “Thần hành bách biến” lạng người đi chạy trốn.
Phùng Tích Phạm chạy nhanh quá lại thành ra vượt lên trước. Lão vội dừng bước xoay mình lại đuổi.
Vi Tiểu Bảo la lên:
– Quỉ hồn của sư phụ ta đuổi theo lão đó, sắp sờ vào đầu lão đến nơi.
Gã nói hai câu này rồi thở phào một cái.
Phùng Tích Phạm lại đuổi gần thêm một bước.
Phía sau Song Nhi và Phong Tế Trung cũng đuổi rất gấp, chỉ mong ngăn chặn Phùng Tích Phạm.
Vi Tiểu Bảo chợt lạng qua bên này, chợt vọt sang bên kia khiến cho Phùng Tích Phạm không biết đâu mà lường. Lão lại ôm Trịnh Khắc Sảng nên khó lòng đuổi kịp trong lúc nhất thời.
Song Nhi và Phong Tế Trung còn cách vài trượng cũng không sao tới gần được.
Vi Tiểu Bảo sau khi chạy một hồi đã thấy hơi thở dồn dập. Trong lúc cấp bách gã lật đật chạy lên sườn núi dựng đứng.
Phùng Tích Phạm cả mừng nghĩ bụng:
– “Thế là ngươi tự dấn thân vào tuyệt địa.” Lão thấy đường lên núi chỉ có một lối đi nhỏ hẹp, bốn mặt đều trống không có nẻo nào để rút lui, nhưng lão cũng không đuổi gấp được.
Vi Tiểu Bảo bỗng lớn tiếng hô:
– Bà lớn, bà nhỡ, bà nhỏ đâu cả rồi? Nếu không ra viện trợ cho mau thì sẽ thành quả phụ hết.
Lúc gã chạy lên sườn núi năm người đàn bà đã ngó thấy.
A Thuyên nhìn rõ Phùng Tích Phạm tay trai cắp một người và vẫn chạy nhanh như baỵ Bản lãnh lão cao thâm chỉ kém Hồng giáo chủ một chút.
Mụ cầm đao phục ở bên đường hẹp chờ Phùng Tích Phạm đuổi tới. Mụ liền vung đao lên chém vào lưng lão.
Phùng Tích Phạm vừa rồi nghe Vi Tiểu Bảo hô vợ lớn, vợ nhỏ chỉ cho là gã định làm rối loạn tâm thần lão, không ngờ quả nhiên có người mai phục.
Lão thấy chiêu đao rất tinh kỳ cũng hơi kinh hãi, vội lùi lại một bước, quát lên một tiếng thật to.
Chân trái lão chuyển động, chân phải đột nhiên đá ra trúng vào cổ tay A Thuyên.
A Thuyên “ối” lên một tiếng, thanh liễu điệp đao bắn tung lên trời.
Vi Tiểu Bảo chỉ chờ lão chậm lại trong khoảnh khắc liền nhằm trúng người lão, tay mặt gã ấn vào cơ quan ở sau lưng. ám khí “Hàm sa xạ ảnh” rít lên veo véo.
Một nắm kim châm rất nhỏ bắn lẹ ra trúng hết cả vào người Phùng Tích Phạm và Trịnh Khắc Sảng. Trong đám này có một mũi trúng vào mắt bên trái Phùng Tích Phạm.
Phùng Tích Phạm rú lên một tiếng thật tọ Tay lão buông ra. Cả Trịnh Khắc Sảng cùng lão đều lăn long lóc từ trên sơn đạo tuột xuống.
Song Nhi và Phong Tế Trung đã đuổi đến lưng trừng con đường hẹp thấy hai người lăn xuống liền nhảy tránh sang một bên.
Phùng Tích Phạm và Trịnh Khắc Sảng lăn từ trên sườn núi xuống đến chân núi thì chất độc ở kim châm đã phát tác. Hai người kêu như lợn bị chọc tiết và lăn lộn không ngớt.
Nguyên từ ngày Hà Dịch Thủ vào làm môn hạ phái Hoa Sơn rồi, tuân theo lời sư huấn bao nhiêu chất độc hiểm ác nhất thiết bỏ đi không dùng. Những chất độc ở kim châm “Hàm sa xạ ảnh” chỉ làm cho tê nhức chứ không phải kịch độc giết người. Nếu không thế thì những ám khí có chất độc của giáo chủ Ngũ Độc giáo ngày trước truyền lại hễ gặp máu là xưng lên. Người trúng phải chết ngay lập tức.
Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm chưa lăn đến đáy vực đã hết hơi. Tuy nhiên chúng bị những mũi châm đâm vào làm cho ngứa ngáy vô cùng, tưởng chừng khắp mình mẩy có hàng trăm ngàn con rết con kiến vừa cắn vừa đốt.
Phùng Tích Phạm vốn là tay gan dạ cũng không nhịn nổi, kêu réo om sòm không ngớt miệng.
A Kha chạy tới bên Trịnh Khắc Sảng, đưa tay ra nâng hắn dậy, hỏi đi hỏi lại:
– Công tử… công tử làm sao vậy?
Trịnh Khắc Sảng ngứa đến nỗi thần trí mê man, vung tay phóng chưởng, miệng la:
– Cút đi! Cút đi!
A Kha bị đánh bất ngờ, không kịp đề phòng. Phát chưởng của Trịnh Khắc Sảng đập trúng vào má bên trái cô, khiến cho nửa mặt sưng vù lên.
Bọn Vi Tiểu Bảo, Song Nhi, Phong Tế Trung, Hồng phu nhân, Phương Di, Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu, Kiến Ninh công chúa lục tục đến sau. Mọi người nhìn thấy Phùng Tích Phạm và Trịnh Khắc Sảng lâm vào tình trạng này đều nhìn nhau kinh hãi.
Vi Tiểu Bảo vừa trấn tĩnh tinh thần lại một chút. Gã hít mấy hơi chân khí rồi chạy đến bên Trần Cận Nam thì thấy thanh trường kiếm của Trịnh Khắc Sảng đâm xuyên qua từ sau lưng ra tới trước ngực vẫn còn cắm trên người, nhưng ông chưa tắt thở. Gã cầm lòng không được, bất giác khóc oà lên ôm lấy người ông.
Trần Cận Nam công lực rất thâm hậu, nội lực chưa tiêu tan hết. Ông thều thào nói:
– Tiểu Bảo! Con người ta chẳng sớm thì muộn… ai cũng phải đi tới chỗ chết… Suốt đời… ta đã hết lòng vì nước vì dân… không có điều gì phải hổ thẹn với trời với đất. Ngươi… ngươi bất tất phải thương tâm cho lắm…
Vi Tiểu Bảo chỉ biết la gọi:
– Sư phụ Ơi! Sư phụ..
Thời kỳ gã ở với Trần Cận Nam lần nào cũng tạm bợ ít ngày. Mỗi phen thầy trò tụ hội, gã lo ngay ngáy chỉ sợ sư phụ xét nghiệm võ công của gã tiến triển đến đâu. Trong lòng gã chỉ nghĩ cách lấp liếm cho qua chẳng có ý chí cầu tiến chút nào. Đồng thời gã đối với sư phụ không có gì đáng gọi là cảm kích sâu xa.
Hồi 217
Muốn giết người ngây ngô giả điếc
Nhưng lúc này gã thấy sư phụ sắp chết đến nơi. Tấm lòng thương yêu cùng nhân từ của sư phụ chất đầy trong ngực gã. Gã tha thiết với sư phụ đến trình độ tự hận mình chẳng thể chết thay cho ông được.
Vi Tiểu Bảo vừa khóc vừa nói:
– Sư phụ Ơi! Tiểu tử đối với sư phụ rất nhiều tội lỗi… Bao nhiêu công phu lão nhân gia… truyền thụ cho đệ tử. Đệ tử… đệ tử chẳng học được tý gì.
Bây giờ sư phụ gã không khảo thì gã lại xưng ra với tấm lòng thành thật và hối hận.
Trần Cận Nam mỉm cười đáp:
– Điều cốt yếu chỉ cần ngươi là hảo nhân, còn học được võ công hay chẳng học được… cũng không sao.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đệ tử nhất định nghe lời dặn bảo của lão nhân gia… ráng làm hảo nhân chứ không làm người tồi bại.
Trần Cận Nam lại mỉm cười nói:
– Hảo hài tử! Trước nay ngươi vẫn là đứa nhỏ ngoan ngoãn.
Vi Tiểu Bảo nghiến răng hằn học nói:
– Tên ác tặc thối tha Trịnh Khắc Sảng sát hại sư phu… hu hụ Đệ tử đã kiềm chế được hắn rồi. Đệ tử… hu hu… nhất định băm hắn nát như tương để báo thù cho sư phụ.
Gã vừa khóc vừa nói, hai hàng nước mắt tuôn xối xả.
Trần Cận Nam người run lên vội ngắt lời:
– Không được! Không được! Ta là bộ thuộc của Trịnh vương gia. Quốc tính gia đối với ta ân nặng tầy non… Bất luận trường hợp nào cũng không được động tới phần cốt huyết của Quốc tính gia. Chẳng thà y vô tình chứ ta nhất quyết không chịu mang tiếng là kẻ bất nghĩa…
Ông dừng lại một chút rồi tiếp:
– Tiểu Bảo! Ta sắp chết đến nơi rồi. Ngươi đừng làm gì tổn hại đến lòng trung nghĩa của tạ Ngươi… ngươi lúc nào cũng phải nhớ đến lời ta dặn.
Ông mỉm cười rồi nét mặt bỗng lộ vẻ lo lắng, nói tiếp:
– Tiểu Bảo! Ngươi hứa lời với ta đi. Nhất định buông tha y trở về Đài Loan.
Nếu không… nếu không ta chết cũng không nhắm mắt.
Vi Tiểu Bảo không làm sao được, đành vâng lời đáp:
– Sư phụ đã nhiêu dung cho tên ác tặc, dĩ nhiên đệ tử… đệ tử phải tuân lời dặn bảo.
Trần Cận Nam thở phào một cái ra chiều yên dạ. Ông phều phào nói:
– Tiểu Bảo! Chủ trương của Thiên Địa hội… là phản Thanh phục Minh. Ta chết rồi, ngươi ráng mà tiếp tục sự nghiệp này. Chúng ta là người Hán mà đồng tâm hiệp lực chẳng sớm thì muộn sẽ khôi phục lại giang san. Chỉ đáng tiếc… đáng tiếc là ta… không được trông thấy… ngày thành công rực rỡ…
Tiếng ông mỗi lúc một nhỏ đi rồi tắt hơi mà chết.
Vi Tiểu Bảo ôm lấy mình sư phụ kêu gọi:
– Sư phụ! Sư phụ!
Gã gọi đến khan tiếng mà Trần Cận Nam cũng nằm trơ ra chẳng có động tĩnh gì.
Bọn A Thuyên đứng bên Vi Tiểu Bảo, thấy Trần Cận Nam chết rồi mà gã bi thương quá độ ai cũng không khỏi ngậm ngùi.
Hồng phu nhân vỗ vai gã cất giọng ôn nhu nói:
– Tiểu Bảo! Sư phụ đệ đệ đã qua đời rồi.
Vi Tiểu Bảo vừa khóc vừa nói:
– Lão nhân gia chết rồi. Chết rồi!
Trước nay gã không biết phụ thân là ai nên trong thâm tâm đã coi sư phụ như phụ thân để lấp vào chỗ trống đó. Bây giờ sư phụ gã chết rồi, gã không biết mình là ai nữa. Mối thương tâm trào ra như nước vỡ bờ không sao cản lại được.
Gã tự coi mình lại là đứa con hoang không có phụ thân.
Hồng phu nhân muốn cho gã li khai mối bi phẫn liền đón lấy thi thể Trần Cận Nam nhẹ nhàng đặt xuống rồi hỏi:
– Bây giờ chúng ta xử trí với tên hung thủ đã sát hại sư phụ đệ đệ bằng cách nào.
Vi Tiểu Bảo nhảy chồm lên ngoác miệng thoá mạ:
– Con mẹ quân chó đẻ. Tổ bà phường khốn kiếp. Sư phụ ta là bộ thuộc bọn Trịnh gia các ngươi nhưng Vi Tiểu Bảo này không ăn một miếng cơm, không xài một đồng bạc của nhà mị Con bà tên tiểu tặc thối tha kia. Mi còn thiếu nợ ta một vạn lạng bạc chưa trả. Sư phụ ta muốn tha mạng cho mị Được rồi.Ta tuân theo lời di ngôn của sư phụ nhiêu dung tính mạng cho mị Nhưng còn một vạn lạng bạc mi tra?
ta đi. Hay là mi không trả? Mi mà không trả thì mỗi lạng bạc ta thẻo mi một đao.
Gã vừa chửi bới vừa cầm đao trủy thủ chạy đến bên Trịnh Khắc Sảng, vung chân đá vào người hắn loạn lên.
Lúc này Trịnh Khắc Sảng chỗ vết thương đã bớt đau đớn và hết ngứa ngáy.
Gã nghe Trần Cận Nam tha mạng cho mình thì trong bụng mừng thầm nhưng trái chu?
đòi nợ mà trong mình hắn lại không có bạc. Gã đành năn nỉ:
Tại ha… không phải… tại hạ trở về Đài Loan nhất định hoàn lại gấp mười… không phải… gấp trăm lần số bạc đó.
Vi Tiểu Bảo lại đá một cái vào đầu gã rồi mắng:
– Mi là một đứa lòng lang dạ thú, một tên giặc thối tha quên ơn phụ nghĩa. Lời nói của mi thúi lắm. Ta phải xẻo mi một vạn nhát đao.
Gã cầm thanh trủy thủ liếc vào mặt Trịnh Khắc Sảng hai cái. Trịnh Khắc Sảng sợ hết hồn, đưa mắt nhìn A Kha muốn nhờ cô lên tiếng xin hộ nhưng đột nhiên hắn lại nghĩ thầm:
– “Không được! Không được! Tên tiểu tặc này say mê A Khạ Bây giờ nàng lên tiếng gã càng căm hận ta, không chừng gã xẻo đủ một vạn nhát đao.” Hắn liền nói:
– Tại hạ nhất định hoàn đủ một trăm vạn lạng bạc. Vi hương chủ! Vi tướng công! Nếu các hạ không tin…
Vi Tiểu Bảo lại đá Trịnh Khắc Sảng một cái rồi quát mắng:
– Dĩ nhiên ta không thể tin mi được. Sư phụ ta vì tín nhiệm mi đã bị mi phóng kiếm đâm chết.
Gã nói tới đây bất giác lại nổi cơn bi phẫn, giơ đao lên đâm vào mặt Trịnh Khắc Sảng.
Trịnh Khắc Sảng la lên:
– Vi đại nhân không tin thì tại hạ nhờ A Kha bảo đảm.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Bảo đảm cũng vô ích. Y đã bảo đảm cho mi nhưng rồi lại chối cái mấy lần, mi không nhớ hay sao?
Trịnh Khắc Sảng đáp:
– Đại nhân không chịu, tại hạ xin gán nợ.
Vi Tiểu Bảo lại mắng:
– Hay lắm! Mi cắt cái đầu chó má của mi xuống gán nợ. Lúc nào mi trả lại cho ta một trăm vạn lạng bạc, ta sẽ hoàn lại cái đầu chó má của mi.
Trịnh Khắc Sảng đáp:
– Tại hạ xin đem A Kha gán nợ cho đại nhân.
Vi Tiểu Bảo bỗng cảm thấy trời quay đất chuyển, bất giác nới tay để rơi lưỡi đao trủy thủ đánh vèo một cái, cắm phập xuống đất chỉ cách đầu Trịnh Khắc Sảng chừng vài tấc.
Trịnh Khắc Sảng thất kinh rú lên một tiếng “Trời ơi!” vội rụt đầu lại nói:
– Tại hạ đem A Kha gán nợ cho đại nhân, chắc đại nhân có thể tin được. Bao giờ tại hạ đem một trăm vạn lạng bạc đến chuộc đại nhân sẽ trả A Kha cho tại hạ.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Nếu vậy thì có thể thương lượng được.
A Kha vội la lên:
– Không được! Không được! Ta không chịu.
Trịnh Khắc Sảng tức giận quát hỏi:
– Tại sao không được? Ngươi là một con tiểu tiện nhân vô tình vô nghĩa. Y muốn xẻo ta một vạn đao, ngươi không nghe thấy ư? Ta gặp lúc nguy nan sao ngươi chẳng chịu giải cứu.
A Kha vừa đau khổ vừa tức giận, không nhịn được oà lên khóc.
Trịnh Khắc Sảng tức giận nói tiếp:
– Lúc này ta lâm vào bước đại họa mà ngươi vẫn chẳng quan tâm chút nào. Ta không lấy ngươi nữa. Ngươi có quì xuống đất năn nỉ ta cũng chẳng thèm.
Gã biết mình càng lên giọng cương quyết không thèm lấy A Kha là tính mạng hắn càng thêm cơ hội vãn hồi được.
A Kha càng nghĩ càng buồn bực. Thị đưa hai tay lên ôm mặt ngồi phệt xuống đất.
Vi Tiểu Bảo mừng thầm hỏi:
– Mi bảo là không lấy y nữa sao còn định mang trăm vạn lạng bạc đến chuộc.
Thế là mi định nói dối cho qua lúc này rồi.
Trịnh Khắc Sảng vội đáp:
– Con đàn bà đó đã vô tình vô nghĩa với tại hạ nên tại hạ nhất quyết không thèm lấy y nữa. Vi đại nhân mà chịu lấy thị thì tại hạ bán đứt cho đại nhân với giá một vạn lạng bạc. Tức là giữa hai chúng ta không còn nợ nần gì nhau. Đại nhân bất tất phải xẻo tại hạ một vạn nhát đao.
Vi Tiểu Bảo muốn ưng quá rồi, nhưng vẫn lắc đầu nói:
– Y đã hết lòng với ngươi thì ta mua thị làm gì. Y có ở với ta mấy bữa rồi cũng trốn đi theo mi.
Trịnh Khắc Sảng nói:
– Trong bụng thị đã có đưa hài nhi, khi nào còn chịu đi theo tại hạ?
Vi Tiểu Bảo vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, cất tiếng run run hỏi:
– Ngươi… ngươi bảo sao?
Trịnh Khắc Sảng đáp:
– Bữa trước trong Lệ Xuân viện tại thành Dương Châu, thị đã ngủ chung giường với đại nhân và mang thai rồi.
A Kha nhảy bổ lên, bưng mặt chạy ra bãi biển. Cô thấy tình lang bội bạc, chán đời không muốn sống nữa, định nhảy xuống biển tự tử cho rồi.
Song Nhi rượt theo kéo tay cô lôi trở lại.
A Kha vừa khóc vừa nói:
– Ngươi… ngươi đã chịu lời kín tiếng sao… sao bây giờ lại nói rả Ngươi ăn nói như người ta đánh một phát… phát…
Trong lúc cô bẽ bàng phẫn nộ, thoá mạ Trịnh Khắc Sảng nhưng vẫn cảm thấy là bất nhã nên dừng lại không nói hết lời.
Trịnh Khắc Sảng thấy sắc mặt Vi Tiểu Bảo biến đổi bất thường, chỉ sợ gã thay đổi ý định vội nói:
– Vi hương chủ! Đứa con đó đích là con của hương chủ. Giữa tại hạ và thị vẫn còn thanh bạch. Thị bảo tại hạ hãy chờ đến khi bái đường thành thân hãy làm vợ chồng thật sự. Hương chủ… hương chủ bất tất phải nghi ngờ gì nữa.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Thế thì thật tiện nghi cho lão gia. Sao ngươi không làm…
Trịnh Khắc Sảng ngắt lời:
– Từ ngày thị mang thai thường nhớ tới Vi hương chủ. Thị nói chuyện với tại ha.
suốt ngày nhắc tới Vi hương chủ thì tại hạ còn lấy thị làm chi?
A Kha dậm chân bình bịch, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, không nhịn được quát lên:
– Sao ngươi… sao ngươi lại nói hết ra?
Cô nói câu này tức là đã thừa nhận những lời của Trịnh Khắc Sảng là sự thực.
Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:
– Thôi được! Đã thế thì… con mẹ nó! Ngươi cút đi cho rảnh.
Trịnh Khắc Sảng cũng mừng rỡ vô cùng, vội đáp:
– Đa tạ! Đa tạ! Cầu chúc hai vị bách niên giai lão. Còn phần lễ mừng sau này tiểu đệ sẽ đưa đến.
Dứt lời gã lồm cồm bò dậy.
Vi Tiểu Bảo nhổ nước miếng đánh toẹt xuống đất một cái, thoá mạ:
– Suốt đời ta không muốn nhìn thấy mặt thằng giặc thối tha này nữa.
Gã tự nhủ:
– “Nay ta tuân theo di mệnh của sư phụ tha mạng cho hắn. Nhưng sau này sẽ sai người giết hắn để báo thù. Chỉ cần người phái đi không phải ở Thiên Địa hội là không ai trách sư phụ ta được.” Hai tên vệ sĩ Trịnh phủ từ hồi nào vẫn đứng khép nép một bên. Bây giờ thấy Vi Tiểu Bảo tuyên bố tha mạng cho chủ nhân mới chạy lại nâng đỡ Trịnh Khắc Sảng dậy. Rồi chúng đỡ luôn cả Phùng Tích Phạm đang nằm thẳng cẳng dưới đất.
Trịnh Khắc Sảng liếc mắt nhìn ra lộ vẻ ngần ngừ.
Nguyên con thuyền của Thi Lang đã chạy đi rồi. Gần bờ có hai con thuyền đậu thì con thuyền của Trịnh Khắc Sảng đã bị bắn gẫy cột buồm, khó lòng ra khơi được. Còn con thuyền kia vẫn hoàn hảo thì lại là của bọn Vi Tiểu Bảo, quyết người ta không để cho hắn đi.
Trịnh Khắc Sảng khẽ hỏi:
– Phùng sư phụ! Chúng ta không có thuyền, biết làm thế nào?
Phùng Tích Phạm đáp:
– Hãy xuống con mủng nhỏ kia rồi sẽ liệu.
Đoàn người từ từ đi tới bãi biển. Đột nhiên phía sau có tiếng quát lớn:
Hãy khoan! Vi hương chủ tha mạng cho các ngươi, nhưng ta không tha thì sao?
Trịnh Khắc Sảng giật mình kinh hãi, quay đầu lại thấy một người cầm cương đao đang chạy tới. Người này chính là Phong Tế Trung, một hảo thủ trong Thiên Địa Hội.
Trịnh Khắc Sảng ấp úng đáp:
– Các ha… các hạ cũng là một anh em trong Thiên Địa hội. Mà Thiên Địa hội trước nay vẫn đặt dưới quyền tiết chế của Diên Bình quận vương ở Đài Loan.
Các ha… các hạ..
Phong Tế Trung quát hỏi:
– Ta làm sao? Biết điều thì đứng lại.
Trịnh Khắc Sảng trong lòng kinh hãi đành dạ một tiếng rồi dừng bước.
Phong Tế Trung đến trước mặt Vi Tiểu Bảo nói:
– Vi hương chủ! Thằng cha kia hạ sát Tổng đà chúa. Hắn là kẻ thù chẳng đội trời chung của mấy vạn anh em trong Thiên Địa hội. Nhất quyết không thể tha được.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
– Tổng đà chúa chịu ơn sâu của Quốc tính gia, không chịu hạ sát con cháu lão nhân gia. Vi hương chủ đã tuân lời di mệnh của Tổng đà chúa chẳng thể hạ thủ được. Nhưng thuộc hạ chưa từng gặp mặt Quốc tính gia. Mặt khác khi tổng đà chúa để di mệnh lại cũng không nói với thuộc hạ. Bữa nay thuộc hạ phải đâm chết tên ác tặc này để báo thù cho Tổng đà chúa.
Vi Tiểu Bảo xòe bàn tay mặt ra đặt vào sau vành tai. Gã lại nghiêng đầu ngoẹo cổ ra chiều cố gắng lắng nghe.
Rồi gã hỏi:
– Phong đại ca nói gì? Tại hạ điếc đặc chẳng còn nghe thấy chi hết. Phong đại ca! Đại ca muốn làm gì thì cứ phóng tay mà làm, bất tất phải hỏi ý kiến hay nghe hiệu lệnh của tiểu đệ. Lỗ tai tiểu đệ đột nhiên mắc bệnh, biến thành điếc đặc. Hỡi ơi! Đúng là súng lớn của Thi Lang phát xạ làm chấn động thủng lá nhĩ mất rồi.
Gã nói như vậy là rõ quá, chẳng khác gì bảo Phong Tế Trung nếu muốn giết Trịnh Khắc Sảng thì cứ việc hạ thủ, gã quyết không cản trở.
Vi Tiểu Bảo thấy Phong Tế Trung lộ vẻ ngần ngừ liền nói tiếp:
– Lúc lâm tử sư phụ chỉ dặn tiểu đệ không nên hạ sát Trịnh Khắc Sảng chứ không sai tiểu đệ phải hộ vệ để giữ mạng sống cho cả đời hắn. Vậy tiểu đệ không hạ thủ là xong. Nhưng khắp thiên hạ hàng ức triệu người muốn lấy mạng hắn thì tiểu đệ giữ làm sao được?
A Kha rất đỗi bồn chồn vội nói:
– Tiểu Bảo! Ngươi không thể để hắn giết ỵ Ta ưng chịu vĩnh viễn đi theo ngươi rồi.
Vi Tiểu Bảo buông tiếng thở dài giơ tay lên đập vào tai rồi lẩm bẩm một mình:
– Thật quái lạ! Không hiểu sao hai tai lại điếc đặc. Ai nói cũng chẳng nghe rõ một câu nào. A Kha sư tỷ! Có phải sư tỷ bảo cái thai trong bụng là song thai không? Nếu thế thì thú quá…
A Kha dậm chân nói:
– Không phải đâu! Không phải đâu! Ngươi đừng giả vờ điếc lác nữa. Ta không tin đâu.
Phong Tế Trung kéo áo Vi Tiểu Bảo khẽ nói:
– Vi hương chủ! Phiền hương chủ dời gót. Thuộc hạ có điều muốn trình bày.
Hai người dẫn nhau ra xa ngoài mấy trượng. Bây giờ chắc không ai còn nghe rõ, Phong Tế Trung mới nói:
– Vi hương chủ! Đức Hoàng thượng yêu thương hương chủ lắm phải không?
Vi Tiểu Bảo lấy làm kỳ hỏi lại:
– Đúng thế! Nhưng vậy thì làm sao?
Phong Tế Trung đáp:
– Hoàng thượng muốn hương chủ giết chết Tổng đà chúa, nhưng hương chu?
không chịu, tự mình bỏ đi. Cái đó đủ coi hương chủ coi nghĩa khí rất thâm trọng, khiến bao anh hùng hảo hán trên chốn giang hồ đều kính phục vô cùng.
Vi Tiểu Bảo cất giọng thê lương đáp:
– Nhưng rút cục sư phụ cũng uổng mạng rồi.
Phong Tế Trung nói:
– Đó là Tổng đà chúa bị Trịnh Khắc Sảng ám toán. Nhưng công cán của Hoàng thượng giao cho Vi hương chủ như thế cũng kể là xong rồi.
Vi Tiểu Bảo nghe Phong Tế Trung nói tới đây rất lấy làm quái dị, ngập ngừng hỏi:
– Phong đại ca! Tại sao đại ca lại nói vậy!… Nói vậy là có ý gì?
Phong Tế Trung đáp:
– Hoàng thượng vẫn lo âu hàng ngày vì úy kỵ ba người. Người thứ nhất là Ngô Tam Quế, ai cũng biết rồi. Người thứ hai là Trần tổng đà chúa ở Thiên Địa hội. Tô?
chức này rộng lớn khắp thiên hạ, đâu đâu cũng có hội viên, lại quyết chí chu?
trương phản Thanh phục Minh, khiến cho Hoàng thượng phải điên đầu. Bây giờ Trần tổng đà chúa chết rồi, tức là cởi được mối lo mà Hoàng thượng vẫn canh cánh bên lòng…
Vi Tiểu Bảo nghe tới đây, trong đầu lóe lên một tia sáng, miệng lắp bắp:
Té ra là..là…
Những hành động của Vi Tiểu Bảo ở Thiên Địa hội đều bị Khang Hy thông to?
ngọn ngành. Nhà vua còn biết cả những ám hiệu của tổ chức này và đọc trơn như nước chảy.
Ban đầu Vi Tiểu Bảo còn cho là Tiểu Hoàng đế tài ba chẳng kém gì Gia Cát Lượng và Lưu Bá Ôn. Ngài bấm ngón tay mà biết được cả việc ngàn năm trước và năm trăm năm về sau. Nhưng gã nghĩ lại thì dù vị Tiểu Hoàng đế đó có là chân mạng thiên tử, là một thiên tinh trên trời giáng hạ phàm trần hay là rồng thiên hóa thân thì bất quá mạng cả phúc lớn khiến kẻ phàm tục không thể đụng đến mình ngài là cùng, chẳng có lý nào việc gì ngài cũng biết. Chứng cớ là vụ gã cùng huynh đệ Thiên Địa hội trốn khỏi Bá tước phủ không bị bắn chết mà sao ngài lại chẳng tiên tri?
Gã đi đến kết luận là nhất định trong Thiên Địa hội có kẻ làm gian tế cho nhà vua, mà người này lại rất thân cận bên mình gã.
Nhưng gã nhận xét những bạn hữu trong Thanh Mộc Đường đều là những nhân vật dốc dạ trung trinh, đầy lòng nghĩa khí chẳng khi nào làm gian tế bán đứng đồng chí. Vì thế mà gã chỉ hoài nghi trong dạ mà tuyệt không tìm ra manh mối nào.
Gã chỉ biết vụ này rất cổ quái mà không có đường giải thích.
Bây giờ Vi Tiểu Bảo nghe Phong Tế Trung nói vậy lập tức tỉnh ngộ, nghĩ thầm:
– “Mình thật đáng chết! Sao lại không đổ mối hoài nghi lên thằng cha này?
Hôm ấy Hoàng thượng sắp cho đại pháo phát xạ vào Bá tước phủ chỉ mình hắn là không hiện diện tại trường. Vụ này đã rõ quá rồi. Hắn mà vẫn ở trong Bá tước phu?
thì quyết chẳng phải gian tế vì hắn không dời nơi đây tất không thoát chết. Dĩ nhiên hắn biết trước mà trốn lánh đi. Hỡi ơi! Ta thật là đứa ngu ngốc! Giả sử đến bây giờ mà hắn vẫn không nói ra thì ta vẫn mù tịt chẳng biết chi hết.” Nên biết Phong Tế Trung trước nay là người trầm mặc ít lời. Coi bộ hắn rất chân thật chất phác. Võ công hắn tuy cao cường mà cử chỉ lại ngớ ngẩn. Thái độ hắn khù khờ như một kẻ quê mùa thì ai còn nghi cho hắn nữa.
Vi Tiểu Bảo thường khi ngẫu nhiên nghĩ tới có kẻ gian tế thì lại nhắm vào những nhân vật mồm miệng nhanh nhảu, trí mưu mẫn tiệp như Tiền Lão Bản, cử chi?
linh lợi, khôn ngoan tinh tế như Từ Thiên Xuyên, làm việc chu đáo, tư tưởng khoáng đạt như Cao Ngạn Siêu hay tính tình nóng nảy mà ham trà rượu như Huyền Trinh đạo nhân.
Cả những tay biết nhiều hiểu rộng, hô hào khảng khái như Phàn Cương cũng có lúc Vi Tiểu Bảo sinh dạ hoài nghi.
Chẳng khi nào Vi Tiểu Bảo lại nghĩ tới Phong Tế Trung lại có thể là gian tế được. Thủy chung không bao giờ gã để ý đến thằng cha này.
Đột nhiên Vi Tiểu Bảo lại tự hỏi:
– “Khi đó Song Nhi cũng không có mặt ở Bá Tước phủ. Chẳng lẽ thi… thị cũng là gian tế và ra dạ bất trung với tả” Gã nghĩ tới đây bát giác trong lòng chua xót và đau buồn cho nhân tình thế thái.
Nhưng rồi gã nghĩ lại liền hiểu rõ ngay, miệng lẩm bẩm:
– “A! Phải rồi! Song Nhi vắng mặt là do Phong Tế Trung cố ý dẫn thị đưa đi lánh nạn. Hắn biết là ta rất mực thương yêu con tiểu nha đầu này. Nếu thị mất mạng trong vụ này mà về sau nội vụ vỡ lở ra tất ta căm hận hắn suốt đời.” Rồi gã tự nhủ:
– “Phong Tế Trung bất quá là một tên gian tế do Hoàng thượng gài vào nằm vùng trong Thiên Địa hội để ngấm ngầm thông báo tin tức mà thôi. Một khi Thiên Địa hội bị tiêu diệt, hắn có được Hoàng thượng sử dụng cũng không ổn. Hắn vẫn sợ ta làm khó dễ hắn trước mặt Hoàng thượng thì chẳng khi nào hắn chống đỡ lại nổi nên thủy chung hắn vẫn phải lấy lòng và không dám đắc tội với tạ” Những ý tưởng của gã nói thì khá dài, nhưng thực ra chỉ thấp thoáng trong đầu Vi Tiểu Bảo không đầy chớp mắt. Gã chợt động tâm cơ là hiểu rõ ngay liền đổi giọng nói dựng đứng:
– Phong đại ca! Đa tạ đại ca đã đem Song Nhi dời khỏi Bá tước phủ đêm hôm đó để khỏi bị nạn súng nổ tan xác.
Phong Tế Trung “A” một tiếng, mặt hắn tái mét, lùi lại hai bước, tay cầm chuôi đao, miệng ấp úng:
– Hương chủ… hương chủ…
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Đại ca cùng tiểu đệ lòng đã hiểu lòng, chỉ có miệng không nói ra mà thôi.
Hoàng thượng đã nói cho tiểu đệ hay cả rồi.
Phong Tế Trung vốn biết Hoàng thượng cực kỳ sủng ái Vi Tiểu Bảo liền cho gã nói câu này là thực chứ không phải chuyện bịa đặt.
Hắn liền hỏi:
– Vậy mà sao Đô thống đại nhân lại không tuân thánh chỉ?
Hắn nói câu này chẳng khác gì đã thú nhận sự thực.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói:
– Phong đại ca! Đại ca đã biết rõ rồi tại sao còn cố ý chất vấn tiểu đệ? Cái đó kêu bằng trung nghĩa khôn vẹn hai bề. Đức Hoàng Thượng đối đãi với tiểu đệ quá đỗi thương yêu, không bút nào tả xiết. Thật là hoàng ân bao la như trời biển.
Nhưng đại ca ơi! Sư phụ đối với tiểu đệ cũng ân nặng tày non. Hiện nay sư phụ đã qua đời, tiểu đệ chẳng còn điều chi úy kỵ nữa. Tiểu đệ không hiểu Đức Hoàng Thượng có tha tội cho tiểu đệ không?
Phong Tế Trung đáp:
– Hiện giờ có một cơ hội rất tốt để Vi đô thống đem công chuộc tội…
Vi Tiểu Bảo hỏi ngay:
– Cơ hội gì?
Phong Tế Trung đáp:
– Vừa rồi thuộc hạ đã nói, Đức Hoàng Thượng quyết tâm trừ khử ba người.
Ngoài Ngô Tam Quế và Trần Cận Nam còn nhân vật thứ ba là Trịnh Kinh vẫn hùng cứ ở Đài Loan. Chúng ta chỉ việc bắt con của Trịnh Kinh đem về kinh để làm con tin, không chừng trường hợp này có thể bức bách Trịnh Kinh phải đầu hàng. Một khi Hoàng thượng đã vui dạ thì dù Vi đô thống có phạm tội tày đình, Hoàng thượng cũng khoan miễn hết.
Hồi 218
Vung khoái đao tàn sát sáu mạng người
Phong Tế Trung đã không giấu diếm gì Vi Tiểu Bảo nữa. Miệng hắn cũng đổi cách xưng hô, kêu gã bằng Vi đô thống, còn đối với Tổng đà chúa hắn kêu thẳng tên Trần Cạn Nam.
Vi Tiểu Bảo nghe Phong Tế Trung ăn nói trong lòng cực kỳ phẫn nộ, mắng thầm:
– “Tên gian tặc này không còn chút lương tâm, nghĩa khí gì. Hắn dám gọi thẳng tên sư phụ ta rạ” Nhưng gã lại nghĩ nếu có thể đi tới chỗ hòa hảo với vua Khang Hy là điều làm cho gã sung sướng nhất. Làm quan hay chẳng làm quan gã cũng không cần, chỉ mong thỉnh thoảng được hội diện cùng Tiểu Hoàng đế chuyện trò là gã lấy làm thỏa mãn lắm rồi.
Phong Tế Trung lại nói:
– Vi đô thống! Khi chúng ta tới Bắc Kinh vẫn giữ kín vụ này không nên tiết lộ.
Bọn người Thiên Địa hội nghe tin Trần Cận Nam chết chắc sẽ suy tôn đại nhân lên làm Tổng đà chúa. Đại nhân coi trọng điều nghĩ khí, cam tâm bỏ hết vinh hoa phú quí. Đã không làm bá tước cũng chẳng làm đô thống, chỉ cốt sao cứu được tính mạng cho các bằng hữu trong Thiên Địa hội. Thanh danh đại nhân hiện đã truyền bá khắp thiên hạ. ít lâu nay trên chốn giang hồ chỗ nào cũng bàn tán về vụ này.
Tiếng tăm đại nhân đang nổi như sóng cồn. Chẳng một ai là không khâm phục chí khí anh hùng của đại nhân.
Vi Tiểu Bảo lấy làm đắc ý hỏi:
– Người ta nói thế có thật không? Phong đại ca không lừa gạt tiểu đệ đấy chứ?
Phong Tế Trung vội đáp:
– Không! Không!…. Tỵ chức quyết chẳng khi nào dám lừa gạt Đô thống dại nhân.
Vi Tiểu Bảo tự hỏi:
– “Hắn tự xưng là tỵ chức, không hiểu hiện đang làm chức quan gì?” Tuy hắn nổi tính hiếu kỳ nhưng không dám hỏi, vì hắn nếu hắn hỏi đến vụ này tất phải lòi đuôi. Gã từng nói:
Hoàng đế đã cho gã hay hết mọi việc. Vậy mà lại không hiểu Phong Tế Trung làm chức gì thì quả là vô lý.
Sau hắn xoay chuyển ý nghĩ, tự nhủ:
– “Nhưng ta hỏi hắn mới được thăng chức quan gì thì chắc không sao” Gã liền mỉm cười hỏi:
– Phen này đại ca lập được công lớn, nhất định Hoàng Thượng thăng quan cho đại ca rồi. Hiện giờ đại ca đã lên đến chức gì?
Phong Tế Trung đáp:
– Nhờ ân điển của Hoàng thượng, tỵ chức đã được phong thưởng làm Đô tư.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:
– “Té ra mới là một tên võ quan nhỏ bằng hạt vừng, so với lão gia còn kém con mẹ nó đến mấy chục bậc.” Nên biết theo quan chế triều Đại Thanh, bá tước còn cao hơn hàng chữ phẩm. Chức Đô thống Kiêu kỵ doanh đã được quan hàm tòng nhất phẩm. Võ quan phong cho người Hán cao nhất là Đề đốc, chỉ ngang hàng tòng nhất phẩm. Tổng binh là chánh nhị phẩm. Dưới nữa là phó tướng, Du kích rồi mới đến Đô tư.
Vi Tiểu Bảo thấy Phong Tế Trung nét mặt vẫn chất phác mà trong khóe mắt không khỏi lộ vẻ đắc ý. Gã liền chắp tay cười nói:
– Cung hỷ Phong đại ca! Đây là chính Đức Hoàng Thượng thân đề bạt, dĩ nhiên kẻ khác không thể bì kịp.
Phong Tế Trung thỉnh an rồi đáp:
– Từ nay tỵ chức hoàn toàn trông vào sự tài bồi của Đô thống đại nhân.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Chúng ta đã là chỗ người nhà, cái đó đại ca khỏi nói. Đại ca phụng sự Hoàng thượng còn giỏi hơn tiểu đệ.
Phong Tế Trung nói:
– Tỵ chức chưa kịp trả ơn đại nhân trong muôn một. Trình Đô thống đại nhân!
Hoàng thượng đã dặn tỵ chức khi gặp được đại nhân, bất luận trường hợp nào cũng phải cầu đại nhân hồi kinh, không được kháng chỉ. Tỵ chức nghe khẩu khí Hoàng thượng có vẻ rất trọng vọng đại nhân, có thể nói lúc nào long tâm cũng nhớ tới. Chuyến này đại nhân lập nên công lớn, bắt được con tên Trịnh tặc ở Đài Loan đưa về Bắc Kinh. Hoàng thượng hoan hỷ nhất định thăng quan cho đại nhân.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đại ca cũng nhất định được thăng lên chức Du kích.
Phong Tế Trung đáp:
– Tỵ chức chỉ mong được vì Hoàng thượng xuất lực. Hoàng thượng thấy mặt đại nhân, long tâm hớn hở. Chúng ta là phận nô tài cũng lấy làm hoan hỷ lắm rồi.
Thăng quan hay chẳng thăng quan là tùy lượng thánh.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
– “Ta cứ tưởng thằng cha này là người thành thực chất phác, không ngờ nay hắn ăn nói toàn theo lối quan dạng.” Phong Tế Trung lại nói:
– Đại nhân lên làm Tổng đà chúa Thiên Địa hội rồi điều động các đường chủ, hương chủ cùng các đầu mục trọng yếu tại mười tám tỉnh về cả một nơi để dự tang lễ Trần tổng đà chúa, nhưng khi đó quăng một mẻ lưới bắt hết, khiến cho bọn đại nghịch vô đạo, mưu đồ tạo phản đều không thể trốn thoát được. Trường công lao này còn vang dội hơn cả súng nổ Bá tước phủ đêm trước. Đại nhân nghĩ thử coi.
Nếu ngày ấy đại nhân tuân chỉ giết bọn Trần Cận Nam và Từ Thiên Xuyên, nhưng bọn phản tặc Thiên địa hội các tỉnh khác đều còn sống. Giết Tổng đà chúa này chúng lập Tổng đà chúa khác, rút cục vẫn không trừ được toàn bộ. Chi bằng cách đại nhân nắm lấy ngôi Tổng đà chúa mới có thể nhổ cỏ tận gốc, vĩnh viễn trừ được mối đại họa tâm phúc cho Hoàng thượng.
Vi Tiểu Bảo nghe Phong Tế Trung nói một hồi, bất giác sau lưng toát mồ hôi lạnh ngắt.
Gã nghĩ thầm:
– “Kế này quả là tàn độc, lợi hại đến cùng cực. Chắc không phải Phong Tế Trung nghĩ ra được mà ắt là kế hoạch của Hoàng thượng.” Rồi gã tự nhủ:
– “Ta trở về Bắc Kinh chưa chắc Hoàng thượng đã tha tội cho, nhưng nhất định sẽ yêu cầu ta tiêu diệt Thiên Địa Hội. Tiểu Hoàng đế là tay cơ mưu ghê gớm.
Ta khó mà thoát khỏi bàn tay y được.” Vi Tiểu Bảo càng nghĩ càng ớn lạnh xương xống, bụng bảo dạ:
– “Tiểu Hoàng đế muốn ta đầu hàng hay muốn đét vào đít ta cũng không sao.
Nhưng bức bách ta làm Tổng đà chúa Thiên Địa hội để mưu sát hết thảy anh em thì nhất quyết không thể được. Ta mà hành động như vậy thì anh hùng thiên hạ tất lôi tổ tông mười tám đời Vi Tiểu Bảo này ra mà thóa mạ. Khi ta chết xuống âm cung cũng chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy sư phụ nữa. Bao nhiêu vợ lớn vợ nhỏ đây rồi sẽ coi thường tạ Dù cho người ngoài chẳng ai hỏi đến nhưng Vi Tiểu Bảo này tuy chẳng có nhiều lương tâm nhưng cũng phải giữ lại một chút.” Gã nhìn Phong Tế Trung miệng ầm ừ mấy tiếng nhưng trong bụng nghĩ thầm:
– “Ta mà không ưng chịu thì hắn sẽ lập tức trở mặt rồi động thủ chiến đấu.
Nếu xảy ra cuộc động thủ, bên ta khá đông người đánh một mình hắn chưa chắc đã thất bại, nhưng bấy nhiêu cô vợ lớn vợ nhỏ mà bị hắn giết hết thì thật không ổn chút nào. Chi bằng ta hãy bấm nút “Hàm sa xạ ảnh” chơi.
Gã liền đáp:
– Trở về bái kiến Hoàng thượng là một đièu làm tiểu đệ rất cao hứng.
Nhưng…. nhưng muốn giết hết thảy anh em trong Thiên Địa hội không đếm xỉa gì đến nghĩa khí cùng tình bằng hữu khiến cho tiểu đệ không khỏi áy náy. Vụ này cần phải thương lượng kỹ càng rồi mới qủyết định được.
Phong Tế Trung nói:
– Đại nhân dạy thế rất phải. Nhưng người ta có câu:
“Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu”.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Đúng lắm! Đúng lắm! Vô độc bất trượng phụ..
Bỗng gã cất giọng hốt hoảng la:
– Ô hay! Thằng lỏi Trịnh Khắc Sảng trốn đi đâu rồi?
Phong Tế Trung giật mình kinh hãi quay đầu nhìn lại.
Vi Tiểu Bảo liền hướng ngực về phía Phong Tế Trung rồi đưa tay toan bấm vào cơ quan phát xạ độc châm, nhưng bất thình lình Song Nhi xô ra phía trước la lên:
– Tướng công! Chuyện gì vậy?
Nguyên thị thấy hai người nói chuyện hồi lâu không ngớt, trong lòng rất đỗi băn khoăn. Thị chợt nghe Vi Tiểu Bảo bật tiếng la hoảng vội tung mình nhảy tới trước mặt gã để cứu viện.
Nếu Vi Tiểu Bảo bấm nút phóng ám khí cố nhiên sẽ đánh trúng Phong Tế Trung, nhưng Song Nhi cũng bị vạ lây. Lúc này tay hắn đã đặt lên cơ quan mà phải dừng lại không dám hạ thủ.
Phong Tế Trung quay đầu nhìn lại vẫn thấy Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm vẫn đứng yên trên bãi biển chẳng có động tĩnh gì. Hắn biết là nguy rồi, vội lún thấp người xuống, xoay tay lại chụp lấy Song Nhi đẩy thị ra phía trước làm bia đỡ đạn cho mình.
Bản lãnh Song Nhi không phải hạng kém cỏi. Nếu lúc bình thường chưa chắc Phong Tế Trung đã nắm được thị ngaỵ Chỉ vì hắn ra tay một cách đột ngột mà Song Nhi lại không để ý đề phòng nêm mới bị hắn chụp trúng huyệt Mạch môn nơi cổ taỵ Lập tức người nhũn ra không nhúc nhích được nữa.
Phong Tế Trung trầm giọng:
– Vi đại nhân! Xin đại nhân giơ tay lên.
Cơ hội đã mất, Song Nhi bị kiềm chế, Vi Tiểu Bảo lâm vào thế kém. Gã cười hì hì hỏi:
– Phong đại ca! Đại ca đùa gì vậy?
Phong Tế Trung nghiêm nghị đáp:
– Môn ám khí vô hình vô ảnh của Vi đại nhân cực kỳ lợi hại. Tỵ chức lấy làm khiếp sợ nên phải thỉnh đại nhân giơ hai tay lên. Nếu không tỵ chức cam bề đắc tội.
Hắn vừa nói vừa đẩy Song Nhi ra phía trước, còn hắn thủy chung vẫn ẩn vào sau lưng thị khiến cho Vi Tiểu Bảo không dám phóng ám khí tới.
Bọn Tô Thuyên, Phương Di, A Kha thấy bên này phát sinh biến cố liền chạy lại.
Phong Tế Trung bụng bảo dạ:
– “Thằng lỏi kia hết lòng yêu thương con tiểu nha đầu này, tất không dám ha.
thủ. Còn bọn đàn bà này lại chẳng thương tiếc gì thị mà chỉ thương tiếc thằng lỏi kiạ” Tay trái hắn rút trường đao đưa tới. Mũi đao chí vào cổ họng Vi Tiểu Bảo.
Miệng hắn quát:
– Các ngươi không được tiến lại.
Bọn Tô Thuyên thấy Vi Tiểu Bảo lâm vào tình thế hiểm nghèo, đều dừng lại không dám tiến nữa.
Ai nấy trong dạ vừa bồn chồn vừa lấy làm kỳ. Vì Phong Tế Trung hiển nhiên là một hảo bằng hữu của Vi Tiểu Bảo. Hai người vừa mới sóng vai kháng địch, tại sao chỉ trong nháy mắt đã trở mặt đối nghịch nhau?
Ai cũng cho là Vi Tiểu Bảo muốn buông tha Trịnh Khắc Sảng, mà Phong Tế Trung nhất định đòi giết hắn để báo thù cho Trần Cận Nam.
Vi Tiểu Bảo bị mũi đao chí vào cổ họng, gã vừa ngửa đầu về phía sau một chút thì Phong Tế Trung cũng đưa đao vào gần hơn rồi cất tiếng quát:
– Vi đại nhân! Xin đại nhân đừng nhúc nhích. Mũi cương đao không có mắt, lỡ ra tỵ chức đắc tội, đại nhân cũng đừng trách. Đại nhân giơ hai tay lên đi.
Vi Tiểu Bảo không làm sao được đành giơ hai tay lên. Gã cười nói:
– Phong đại ca! Đại ca muón thăng quan to, phát tài lớn thì nên đối xử với tiểu đệ lịch sự một chút.
Phong Tế Trung đáp:
– Thăng quan phát tài dĩ nhiên là điều trọng yếu, chẳng ai không muốn, nhưng bước đầu phải giữ cho toàn mạng. Người chết rồi thì còn thăng quan phát tài vào đâu nữa?
Đột nhiên hắn lạng người sang một bên lướt ra phía sau Vi Tiểu Bảo, thò tay vào ống giày gã rút lấy lưỡi đao trủy thủ, chí vào sau lưng gã nói:
– Vi đại nhân! Lưỡi đao trủy thủ này của đại nhân sắc bén vô cùng. Tỵ chức đã được mục kích đại nhân dùng nó mấy lần.
Vi Tiểu Bảo bị kiềm chế đành gượng cười cho quạ Gã lại cảm thấy sau lưng đau nhói, biết là lưỡi trủy thủ đã đâm thủng áo ngoài. Tuy gã trong mặc tấm bảo y hộ thân nhưng cũng bị bảo đao xuyên thủng.
Phong Tế Trung lại quát:
– Hết thẩy mọi người xoay lưng lại và liệng khí giới đi.
Bọn Tô Thuyên khong sao được đành theo lời hắn xoay mình liệng khí giới.
Phong Tế Trung thấy bọn Thien Địa hội còn sáu người đứng đó liền nhìn bọn chúng hô:
– Anh em lại cả đây! Ta có điều muốn nói!
Sáu người kia không làm sao được, phải từ từ tiến lại.
Phong Tế Trung đưa khuỷu tay huých mạnh vào huyệt Đại trụy sau lưng Vi Tiểu Bảo. Tay trái hắn cầm cương đao quét ra. Những tiếng “phập phập” vang lên lẫn với tiếng la “ối chao”, “trời ơi”. Cả sáu anh em Thiên Địa hội đều trúng đao chết lăn ra.
Phong Tế Trung vung đao giết sáu người trong khoảnh khắc. Người nào cũng bị trúng đao vào nơi trí mạng. Hắn ra chiêu mau lẹ, tàn độc ít người bì kịp.
Bọn Tô Thuyên nghe tiếng rú thê thảm vang lên liền quay đầu ngó lại thấy thi thể sáu người nằm ngổn ngang dưới đất. Những người này hoặc bị chém trúng đầu, cổ, trước ngực hay sau lưng, cạnh sườn. Miệng vết thương máu tuôn ra ồng ộc.
Mấy cô sợ hết hồn, la thất thanh, hãi hùng đến tan gan nát ruột.
Phong Tế Trung đã nhận thấy nếu xảy ra cuộc động thủ thì hắn đơn độc chi?
có một mình nên phải hạ sát đồng chí trong Thiên Địa hội trước đi, một là để ra oai trấn áp nhân tâm, khiến Vi Tiểu Bảo và quần nữ không dám phản kháng, hai là bớt được sáu địch nhân.
Diễn biến này khiến cho đối phương tuy đông mà chẳng còn ai dám kháng cự. Một gã thiếu niên và bảy người đàn bà một mình hắn có thể liệu lý được.
Phong Tế Trung tay trái thu trường đao về chí vào cổ Vi Tiểu Bảo nói:
– Vi đại nhân! Chúng ta xuống thuyền thôi.
Hắn cho rằng chỉ cần bắt được Vi Tiểu Bảo và Trịnh Khắc Sảng đưa về kinh dâng lên Hoàng thượng là lập được đại công.
Hắn định lưu bẩy người đàn bà lại trên đảo để hắn ở dưới thuyền khỏi sinh biến, hắn còn nể nang không giết bọn này là vì không dám gây mối thù sâu cay với Vi Tiểu Bảo. Sau này Hoàng thượng đối xử với gã thiếu niên này ra sao khó mà liệu được. Nếu gã lại được trọng dụng mà căm hận hắn nhiều quá, tất hắn bị nguy khốn.
Quần nữ thấy Vi Tiểu Bảo bị Phong Tế Trung kiềm chế đều nát ruột tan hồn, kinh tâm động phách nhưng chẳng biết làm thế nào.
Chỉ một mình Kiến Ninh công chúa là nổi giận đùng đùng, quát mắng:
– Ngươi là cái thá gì mà dám lớn mật vô lễ như thế? Biết điều thì mau mau liệng khí giới đi.
Phong Tế Trung hắng dặng một tiếng, không dám nói gì.
Hắn đã biết Vi Tiểu Bảo từng hộ tống Công chúa đến Vân Nam hoàn hôn.
Hắn còn nhớ mặt, biết rõ đây quả thực là đương kim Công chúa nên không dám đưa lời chống đối.
Công chúa thấy hắn không theo lời lại chẳng nói năng gì nên càng tức giận.
Trên đời trừ Hoàng thượng, Thái hậu, Vi Tiểu Bảo và Tô Thuyên là bốn người nàng phải kính nể, còn ngoài ra chẳng coi ai vào đâu.
Công chúa cúi xuống lượm thanh đơn đao dưới đất, tung mình nhảy xổ lại nhằm đầu Phong Tế Trung bổ xuống.
Phong Tế Trung nghiêng mình né khỏi.
Công chúa vung đao vù vù, chém liền ba nhát. Phong Tế Trung né tả tránh hữu.
Giả tỷ nếu là người đàn bà nào khác thì hắn đã vung chân đá trả rồi. Nhưng người chém hắn lại là ngự muội của đức đương kim Hoàng đế, là nàng Công chúa cành vàng lá ngọc, mà lòng dạ hắn chỉ mong lập công với Hoàng gia đặng phong quan tấn tước, khi nào dám đắc tội với Công chúa. Vì thế hắn chỉ né tránh chứ không phản kích.
Công chúa lớn tiếng thóa mạ:
– Tên đê hèn khốn kiếp! Quân chó đẻ thối tha! Đứng yên không được nhúc nhích! Ta muốn chặt thủ cấp ngươi, sao ngươi dám xoay chuyển cái đầu ô uế của ngươi khiến ta chém không trúng?
Nàng dừng lại một chút rồi tiếp:
– Ta sẽ nói với Hoàng đế ca ca là ngươi dám chống đối cả ta, để ca ca xư?
tội phanh thây.
Phong Tế Trung giật mình kinh hãi nghĩ thầm:
– “Con ma đầu này nói sao là được vậy. Thị cùng Hoàng đế là tình huynh muội ruột thịt. Còn ta là một tên quan nhỏ bằng hạt vừng, làm sao đấu lại với Công chúa được?” Nhưng nếu hắn tuân lệnh Công chúa không lúc lắc cái đầu, đứng yên không nhúc nhích để nàng Công chúa điện hạ giơ bàn tay ngà ngọc đáng giá vạn kim chém xuống thì còn chi là tính mạng? Nên hắn cũng khó lòng tuân lệnh được.
Công chúa ngoác miệng ra mà thóa mạ, vừa vung đao đâm tả chém hữu lia lịa không dừng lại.
Phong Tế Trung chỉ khẽ nghiêng mình đi là tránh khỏi một cách dễ dàng. Tuy nhiên chiêu đao cũng xít xoát chỉ cách vài tấc là đụng vào đầu hắn, nhưng rút cục vẫn không chém trúng.
Công chúa nổi nóng vung đao chém tạt ngang hớt vào lưng Phong Tế Trung.
Phong Tế Trung bỗng la lên:
– Coi chừng!
Đồng thời hắn tung mình nhảy lên. Hắn nhìn thấy chiêu đao của Công chúa mà không dừng lại tất chém vào vai Vi Tiểu Bảo.
Người hắn còn đang lơ lửng trên không lập tức đưa chân đá Vi Tiểu Bảo ngã lăn ra. Đồng thời hắn mượn đà nhảy ra xa ngoài một trượng. Song Nhi thấy thế vội tung mình nhảy lại ôm xốc Vi Tiểu Bảo lên, phóng chạy như bay.
Phong Tế Trung giật mình kinh hãi, lật đật cầm đao rượt theo.
Song Nhi tuy bản lãnh cao cường, nhưng nội lực vẫn còn yếu kém hơn Phong Tế Trung, thị lại còn thấp hơn Vi Tiểu Bảo nửa cái đầu. Thị phải xoay ngang người gã ra cắp chạy được mấy trượng thì Phong Tế Trung đã đuổi tới gần.
Vi Tiểu Bảo bị phong tỏa huyệt đạo sau lưng, không cử động được tứ chi, vội nói:
– Cô đặt ta xuống để ta phóng ám khí.
Phong Tế Trung chạy rất nhanh, Song Nhi muốn đặt Vi Tiểu Bảo xuống để gã phóng ám khí “Hàm sa xạ ảnh” cũng không kịp. Trong lúc nhất thời thi đành lấy hết sức liệng người Vi Tiểu Bảo ra.
Phong Tế Trung cả mừng vọt lại giơ tay ra định đón lấy người Vi Tiểu Bảo thì đột nhiên nổ đánh “đoàng” một tiếng khủng khiếp. Người hắn bị hất bay đi rồi té huỵch xuống đất. Hắn giẫy giụa mấy cái đoạn nằm im không nhúc nhích.
Vi Tiểu Bảo được liệng xuống bãi cát, người chưa bị thương. Trong lúc nhất thời gã muốn lồm cồm bò dậy mà không được. Bỗng gã nhận thấy trước mặt Song Nhi giàn giụa một vùng khói đen. Tay thị đang cầm một cây súng lục.
Nguyên cây súng này là của Ngô Lục Kỳ. Ngày trước lúc lão cùng Song Nhi kết nghĩa huynh muội, lão đã tặng cho thị làm lễ vật. Đó là một thứ hỏa khí chế tạo rất tinh vi của nước La Sát. Ngô Tam Quế nhân vụ cấu kết với nước La Sát được tặng một đôi. Thật là một thứ khí giới lợi hại vô cùng.
Phong Tế Trung tuy võ công trác tuyệt, nhưng tấm thân huyết nhục sao chịu nổi với súng đạn?
Chính Song Nhi cũng khủng khiếp đứng thộn mặt ra. Súng nổ giật mạnh khiến cánh tay thị tê chồn. Người run rẩy, cây súng cũng tuột tay rớt xuống đất.
Vi Tiểu Bảo sợ Phong Tế Trung chưa chết. Bây giờ gã đã đứng dậy được rồi, bèn từ từ tiến lại mấy bước. Ngực gã nhằm vào thân hình Phong Tế Trung, đồng thời bấm nút cơ quan sau lưng. Một đám kim châm phóng ra cắm cả vào người hắn.
Nhưng Phong Tế Trung vẫn không nhúc nhích. Nguyên súng nổ đã làm hắn chết từ trước rồi.
Quần nữ đồng thanh hoan hô, kéo ùa cả lại.
Bảy cô gái, thêm cả Vi Tiểu Bảo, đúng là bảy mồm tám miệng, không thừa không thiếu, mỗi người một câu tới tấp hỏi han nguyên do.
Vi Tiểu Bảo đã hiểu hết vì khẩu súng này chính gã đưa tặng Ngô Lục Kỳ ngày trước. Gã liền lược thuật lại cho mọi người nghe.
Song Nhi và Phong Tế Trung đã ở với nhau một thời gian khá lâu, nhưng dọc đường hắn vẫn luôn tỏ ra thành thật chất phác, đúng là một người rất tử tế. Ngờ đâu lòng dạ hắn lại thâm hiểm đến thế. Ai nấy càng nghĩ càng khiếp sợ.
Vi Tiểu Bảo xoay mình lại, ngó thấy bọn Trịnh Khắc Sảng bốn người đang muốn đi ra ven biển để xuống chiếc mủng nhỏ. Gã nghĩ bụng:
– “Thằng này hạ sát sư phụ ta mà ta lại để hắn bình yên rút lui dời khỏi nơi đây, chẳng hóa ra phúc cho hắn nhiều quá.” Nhân lúc Công chúa đuổi đánh Phong Tế Trung Vi Tiểu Bảo đã lấy lại được đao trủy thủ. Gã rút đao cầm tay quát lớn:
– Hãy khoan!
Trịnh Khắc Sảng dừng bước quay lại. Mặt xám như tro tàn, hắn ấp úng:
– Vi…. Vi hương chủ! Hương chủ đã ưng thuận…. ưng thuận buông tha bọn tại hạ..
Vi Tiểu Bảo cười lạt nói:
– Ta hứa lời không giết ngươi chứ không đoan ước để ngươi yên lành. Ta phải chặt cụt một chân ngươi đi.
Phùng Tích Phạm tức giận những muốn nổi nóng, nhưng lão vừa cất tay, toàn thân đã mềm nhũn chẳng còn chút sức lực nào nữa. Trịnh Khắc Sảng khiếp sợ đến nát ruột tan hồn. Hai chân nhũn ra quì mọp xuống đất năn nỉ:
– Vi…. Vi hương chủ! Hương chủ mà chặt chân thì tại ha…. tại hạ nhất định không sống được nữa rồi.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:
– Cụt chân vẫn sống được như thường. Ngươi thiếu ta một trăm vạn lạng bạc, lại nói đem A Kha gán nợ, chẳng qua là vì nàng đã mang thai với ta và đã tư.
nguyện theo ta rồi. Ta đã cùng nàng bái thiên địa làm lễ thành hôn thì nàng hiển nhiên là vợ ta, có minh môi chính thú hẳn hoi. Thế mà ngươi mang vợ ta gán nợ cho ta thì cổ lai khắp thiên hạ có chuyện đó bao giờ?
Lúc này bọn Tô Thuyên, Song Nhi, Phương Di, Công chúa đều đến bên Vi Tiểu Bảo, cùng đồng thanh cười nói:
– Phải rồi! Không có lý nào thế được.
Trịnh Khắc Sảng đầu óc đã rối loạn, nhưng cũng tự biết mình đuối lý, liền ấp úng hỏi:
– Vậy thì…. vậy thì phải làm thế nào bây giờ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Ta chặt một tay, một chân ngươi giữ lại làm bảo đảm. Bao giờ ngươi trả ta một trăm vạn lạng bạc, ta sẽ đem chân tay hoàn trả cho ngươi.
Trịnh Khắc Sảng cãi:
– Lúc nãy Vi hương chủ đã tuyên bố:
Tại hạ phải đem A Kha đoạn mại cho hương chủ…. với giá một vạn lạng bạc…. để trừ vào món nợ kia cho xong hết…
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:
– Không được! Lúc nãy ta hồ đồ nên mắc bẫy ngươi. A Kha là vợ ta, sao ngươi lại có thể đem vợ ta đoạn mại cho ta được. Thôi được! Bây giờ ta đem mẫu thân ngươi đoạn mại cho ngươi lấy một trăm vạn lạng bạc, lại đem phụ thân ngươi bán đứt cho ngươi cũng một trăm vạn lạng. Ta lại bán cả bà nội ngươi lấy một trăm vạn lạng, bà ngoại ngươi cũng một trăm vạn lạng…
Trịnh Khắc Sảng vội ngắt lời:
– Bà ngoại tại hạ qua đời lâu rồi.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Người chết vẫn bán được. Ta bán thi thể cho ngươi. Người chết giảm đi một phần tiền, lấy tám chục vạn lạng thôi. Quan tài và đồ phụ táng không tính tiền.
Hồi 219
Tìm đường nhớ tới chuyện dương châu
Trịnh Khắc Sảng càng nghe Vi Tiểu Bảo nói, món nợ càng lên cao. Hắn nghĩ thầm:
– “Gã bán cả người chết, nếu kể từ cao tổ, tằng tổ, cao tổ nhưng nhưng, tằng tổ nhưng nhưng cũng đem bán thì đành chịu chết. Dù người quá cố có bớt tiền đi, chỉ tính tám chục vạn lạng thôi mình cũng không chịu nổi”.
Nhưng hắn không dám nói thẳng là mình chẳng chịu mua, mà chỉ cất tiếng năn nỉ:
– Tại ha… tại hạ thực tình không mua nổi…
Vi Tiểu Bảo nói:
– Được rồi! Ngươi không mua nổi thì ta tha chọ Nhưng đã nhận lời mua thì không được chối cãi. Ngươi thiếu ta ba trăm tám chục vạn lạng bạc thi tính sao đây?
Công chúa cười nói:
– Phải rồi! Lấy ngay ba trăm tám chục vạn lạng bạc đưa đây cho ta thì mới được tha về.
Trịnh Khắc Sảng giơ bộ mặt đưa ma ra nói:
– Bên mình tại hạ chưa có đủ lấy một ngàn lạng thì lấy đâu ra được ba trăm tám chục vạn lạng để trả ngay bây giờ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Thế thì thôi. Ngươi chưa có tiền thì ta bằng lòng cho chịu. Nhưng phải mau mau đem phụ thân, mẫu thân, nhưng nhưng, bà nội và cả bà ngoại chết rồi giao cho ta, thiếu một sợi tóc cũng không được.
Trịnh Khắc Sảng nghĩ bụng:
– “Nếu cứ giây dưa thế này hoài thì không biết đến bao giờ mới kết thúc?” Hắn đưa mắt nhìn A Kha để mong cô nói giúp, nhưng cô cứ đứng đằng xa quay lưng lại, quyết không dính tới.
Trịnh Khắc Sảng trong lòng nóng nẩy nhằm chừng Vi Tiểu Bảo muốn chặt chân tay mình, bất giác hắn dập đầu binh binh, miệng không ngớt kêu vang:
– Vi hương chủ! Tiểu nhân ám toán sát hại Trần Tổng đà chúa quả tội đáng muôn thác. Xin hương chủ khoan hồng đại lượng tha mạng cho tiểu nhân. Dù tiểu nhân có thiếu lão nhân gia bốn trăm tám chục vạn lượng bạc, tiểu nhân… nhất định sẽ tìm cách hoàn trả đầy đủ…
Vi Tiểu Bảo thấy hành hạ hắn đã đủ điều thảm hại rồi cũng đã nguôi giận, liền bảo:
– Được rồi! Vậy thì ngươi phải viết văn tự thiếu nợ.
Trịnh Khắc Sảng cả mừng vội đáp:
– Dạ! Dạ!
Rồi quay lại bảo tên vệ sĩ:
– Lấy giấy bút cho ta!
Nhưng trên hoang đảo này đào đâu ra giấy bút.
Tên vệ sĩ cũng rất nhanh trí, liền xé một mảnh vạt áo mình rồi nói:
– Bên kia rất nhiều người chết. Ta lấy máu của họ mà viết cũng được.
Gã nói rồi toan chạy đi lôi xác Phong Tế Trung lại.
Vi Tiểu Bảo vươn tay ra chụp lấy cổ tay phải Trịnh Khắc Sảng, ánh bạch quang thấp thoáng. Gã vung trủy thủ xẻo đứt đầu ngón tay trỏ của hắn.
Trịnh Khắc Sảng rú lên một tiếng thê thảm. Vi Tiểu Bảo nói:
– Phải lấy máu của ngươi mà viết mới được.
Trịnh Khắc Sảng đau quá, toàn thân run lên như thằn lằn đứt đuôi. Trong lúc nhất thời hắn không biết làm thế nào.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ngươi cứ nhẩn nha mà viết đi. Nếu để máu khô hết không đủ dùng thì ta lại chặt đứt ngón tay thứ hai của ngươi.
Trịnh Khắc Sảng vội đáp:
– Dạ! Dạ!
Khi nào hắn còn dám chần chờ. Hắn nghiến răng nhịn đau thò ngón tay cụt viết lên mảnh áo:
– “Thiếu nợ ba trăm tám chục vạn lạng bạc. Trịnh Khắc Sảng ký” Hắn viết xong mười ba chữ, đau quá xuýt ngất đi.
Vi Tiểu Bảo cười lạt nói:
– Ngươi đường đường là một vị công tử trong vương phủ mà thường ngày biếng học, viết bức văn tự nợ có mấy chữ mà xiêu vẹo, lệch lạc chẳng còn ra hình thù gì nữa.
Gã cầm lấy mảnh vạt áo đưa cho Song Nhi và bảo thị:
– Cô coi lại xem ngân khoản có thiếu chữ nào không rồi hãy cất đi. Thằng cha này man trá giảo quyệt hết chỗ nói. Không chừng hắn viết bới đi mấy lạng.
Song Nhi cười đáp:
– Ba trăm tám chục vạn lạng bạc. Đủ rồi đây.
Thị nói xong gấp mảnh vạt áo cho vào bọc.
Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười ha hả. Gã vung cước đá vào hàm dưới Trịnh Khắc Sảng, quát lên:
– Cút con bà mày đi!
Trịnh Khắc Sảng lộn người lăn mấy vòng ra xa.
Hai tên vệ sĩ vội lại đỡ hắn dậy, buộc vết thương nơi ngón tay rồi chia nhau cõng Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm đem xuống cái mủng nhỏ bơi ra khơi.
Vi Tiểu Bảo đang cười vang không ngớt, đột nhiên gã nhớ tới sư phụ bị thảm tử, không nhịn được lại khóc rống lên.
Trịnh Khắc Sảng chờ mủng chèo ra xa mấy chục trượng cho bớt nỗi kinh hoàng rồi lên tiếng:
– Chúng ta đến đoạt lấy con thuyền lớn kia rồi chạy ra khơi. Chắc bọn nam nữ chó má trời đánh không chết kia chẳng thể đuổi kịp được.
Nhưng chèo mủng lại gần mới thấy trên thuyền lớn đã mất hết bánh lái, lại chẳng có cột buồm. Nhất nhất những đồ ứng dụng chẳng còn vật gì.
Phùng Tích Phạm hằn học nói:
– Những quân chó má đó cất hết đồ dùng đi rồi.
Lão đưa mắt ngó ra mặt biểm mông mênh, sóng võ bì bõm mà con mủng nhỏ không có lương thực cùng nước uống thì làm sao ra khơi được.
Trịnh Khắc Sảng nói:
– Chúng ta quay lại năn nỉ bọn chúng cho mượn thuyền. Nhiều lắm là gã bắt mình viết nợ thêm ba trăm tám chục vạn lạng nữa là cùng chứ gì?
Phùng Tích Phạm đáp:
– Bọn chúng chỉ có một con thuyền, khi nào chúng chịu cho mượn? Chẳng thà bọn ta chịu chôn mình nơi bụng cá còn hơn năn nỉ tên tiểu tặc.
Trịnh Khắc Sảng nghe lão nói bằng một giọng kiên quyết, không dám trái ý, đành buông tiếng thở dài, hạ lệnh cho hai tên vệ sĩ chèo mủng ra khơi rồi muốn đến đâu thì đến.
Bọn Vi Tiểu Bảo ngó thấy chiếc mủng nhỏ của Trịnh Khắc Sảng bơi lại gần thuyền lớn rồi phát giác ra thuyền này không thể chạy được rồi lại bơi ra xạ Ai nấy không nhịn nổi, bật lên tràng cười khoái trá.
Tô Thuyên thấy Vi Tiểu Bảo chợt khóc, chợt cười. Rút cục gã vẫn chưa quên được nỗi đau mất sư phụ. Mụ muốn pha chuyện khôi hài cho gã cao hứng, liền hỏi:
– Nhị công tử nhà họ Trịnh cực kỳ man trá. Hiển nhiên hắn muốn đoạt con thuyền lớn của chúng tạ Cái đó đủ biết là hắn có viết văn tự cũng là làm cho qua lúc này. Tiểu Bảo! Ba trăm tám chục vạn lạng bạc tiền nợ của đệ đệ, ta xem chừng nhất định hắn ăn quỵt rồi.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Tiểu đệ cũng tiêu liệu hắn không trả món nợ đó đâu.
Tô Thuyên cười nói:
Vậy ra là đệ đệ là người liệu sự có tiên kiến rất sáng suốt. Lúc nãy hắn đem vợ của đệ đệ bán cho đệ đệ với giá một vạn lạng để thanh toán nợ cũ, đệ đệ chẳng cần suy nghĩ gì nữa, mở miệng ưng chịu liền. Đệ đệ thương yêu A Kha muội tử đến điên đảo thần hồn. Giả tỷ Trịnh Khắc Sảng có đòi đệ đệ phải trả muôn vạn lạng bạc ta chắc đệ đệ cũng gật đầu liền.
Vi Tiểu Bảo đưa tay áo lên lau nước mắt, cười đáp:
– Hắn mà đòi như vậy, tiểu đệ cũng chẳng thèm suy hơn tính thiệt làm cóc gì, cứ việc ưng thuận rồi thủng thẳng sẽ tính lại sau.
Phương Di cười hỏi:
– Về sau tại sao đệ lại nghĩ ra được là mình bị thua lỗ nhiều.
Vi Tiểu Bảo gật đầu đáp:
– Giết Phong Tế Trung rồi trong lòng tiểu đệ bình tĩnh lại không còn lo lắng gì nữa. Đột nhiên đầu óc trở lại sáng suốt.
Nguyên gã trước nay tuyệt không nghi ngờ gì Phong Tế Trung, có điều trong thâm tâm gã luôn ngấm ngầm cảm thấy tựa hồ bên mình ẩn nấp mầm họa rất lớn mà không biết mầm họa đó là cái gì? Gã chẳng thể phát giác mối lo sợ canh cánh bên lòng ở đâu mà ra.
Sau khi Phong Tế Trung chết rồi, Vi Tiểu Bảo khác nào cất được gánh nặng, gã khoan khoái vô cùng tự nhủ:
– “Ta khiếp sợ tên ác tặc này đến nỗi thậm chí mình chẳng biết mình là ai nữa”.
Mọi người vừa trải qua một cơn nguy hiểm cực kỳ trọng đại. Lúc này bao nhiêu cường địch người chết đã chết rồi, kẻ sống cũng trốn đi xa, trên đảo thái bình vô sự. Nhưng tinh thần vừa được cởi mở, ai nấy đều cảm thấy mệt nhoài.
Vi Tiểu Bảo hiện giờ tưởng chừng như hai chân đeo nặng ngàn cân. Gã không chống nổi nữa, phải nằm lăn ra bãi cát mà nghỉ.
Tô Thuyên giải khai huyệt đạo sau lưng cho Vi Tiểu Bảo vì gã đã bị Phong Tế Trung điểm vào lúc trước.
Bóng tịch dương phản chiếu xuống làn nước mênh mông. Trên mặt biển ánh vàng lóng lánh khác nào hàng vạn con kim xà nhảy múa. Phong cảnh thật là tuyệt mỹ.
Quần nữ cũng ngồi cả xuống ngắm cảnh nghỉ ngơi.
Chẳng bao lâu Vi Tiểu Bảo bắt đầu nổi tiếng ngáy pho phọ Tiếp theo quần nữ cũng kẻ trước người sau kế tiếp nằm lăn ra ngủ thiếp đi.
Sau chừng hai giờ, Tô Thuyên tỉnh dậy trước. Mụ vào căn nhà nhỏ làm cơm canh rồi gọi mọi người vào ăn.
Trong đại đường cắm hai cành thông lớn, cháy sáng rực cả căn nhà.
Tám người ngồi thành vòng tròn ăn cơm. Xong bữa, Phương Di, Song Nhi thu dọn chén bát cất đi.
Vi Tiểu Bảo liếc mắt nhìn Tô Thuyên, Phương Di, Công chúa cho đến Mộc Kiếm Bình, Song Nhi, A Kha, Tăng Nhu cả thảy bảy cô, mỗi người một vẻ. Người thì dong nhan diễm lệ, nàng thì nét mặt nhu mì. Có cô thái độ đoan nghiêm, có cô mồm miệng hoạt bát. Ai cũng có điểm dễ thương khiến lòng gã vui sướng không bút nào tả xiết.
Hiện giờ hắn tha hồ mà kề lục tựa hồng, trong lòng bình thản, so với ngày trước ngủ chung với bảy cô trên giường lớn tại Lệ Xuân viện vừa sờ soạng, vừa hồi hộp, phong vị ngày nay khác hôm xưa rất xa.
Gã hả hê cười nói:
– Ngày trước tiểu đệ đặt tên cho hòn đảo này là Thông Cật đảo vì nghĩ đến chuyện đánh bạc và đánh giặc, muốn ngồi đây để “ăn hết”. Té ra mình có tiên kiến rất sáng suốt. Các vị bảy người muội tỷ đều làm vợ tiểu đệ, thì ra trong cõi mênh mang dường như ý trời định trước, muốn trốn lánh cũng không được. Từ nay tám người chúng ta ở trên đảo Thông Cật này, vĩnh hưởng tiên phúc, thọ dữ thiên tề.
Tô Thuyên gạt đi:
– Tiểu Bảo! Tám chữ “vĩnh hưởng tiên phúc, thọ dữ thiên tề” có điều bất tường. Đệ đệ không nên nhắc tới nữa.
Vi Tiểu Bảo tỉnh ngộ. Gã biết mụ không muốn nói đến bất cứ thứ gì liên quan tới Hồng giáo chủ.
Gã vội đáp:
– Phải đó! Phải đó! Tiểu đệ thật hồ đồ cứ nói nhăng nói càn.
Tô Thuyên vẻ mặt nghiêm trang nói:
– Hai tên địch là Thi Lang và Trịnh Khắc Sảng trở về Trung Nguyên rồi chắc còn đem quân tới báo thù. Chúng ta chẳng thể ở lâu trên hòn đảo này được.
Mọi người gật đầu khen phải.
Phương Di hỏi:
– Thuyên tỷ tỷ! Theo ý tỷ tỷ thì chúng ta nên đi đâu bây giờ?
Tô Thuyên nhìn Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Vụ này phải nghe theo chủ ý của Chí Tôn Bảo mới được.
Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
– Thuyên tỷ tỷ kêu tiểu đệ bằng Chí Tôn Bảo ư?
Tô Thuyên cười đáp:
– Không phải Chí Tôn Bảo thì sao lại “ăn hết” được?
Vi Tiểu Bảo cười khanh khách nói:
– Trong danh tự tiểu đệ có chữ Bảo, tưởng chỉ là những đôi “Bảo” nhỏ nhỏ như đôi Ngũ, đôi Bản đắng đôi Phản tăng chi chi mà thôi, không ngờ lại là Chí Tôn Bảo.
Gã thấy quần nữ dương mắt lên nhìn mình để chờ câu trả lời liền ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Về Trung Nguyên thì không được rồi. Đảo Thần Long thì gần đây quá. Phải kiếm nơi nào thảnh thơi vui thú mà không người lai vãng mới yên tâm được.
Những nơi hoang vắng chưa chắc đã là nơi vui thú. Vui thú phải là nơi người ở đông đúc, phồn hoa đô hội. Huống chi trong thâm tâm Vi Tiểu Bảo vui thú của gã là đánh bạc, là coi hát bội, là nghe thầy đồ nói chuyện cổ tích, là những trò chơi lặt vặt, nhậu nhẹt, là những cô gái đẹp, càng nhiều càng hay.
Ngoài những vị mỹ mạo cô nương bên mình gã cũng đã nhiều và đều vào hạng khá cao quí. Nếu muốn có những người tương đương phải tới tận Bắc Kinh, hay ít ra là Thương Châu nổi tiếng phồn hoa, còn thì quyết chẳng có chỗ nào làm cho gã phỉ dạ.
Vi Tiểu Bảo nghĩ tới những nơi phong lưu nhiệt náo, chợt động hiếu tâm hỏi:
– Chúng ta ở với nhau ở đây kể ra cũng cực kỳ thú vị. Nhưng không hiểu gia mẫu một mình cô đơn trơ trọi, hiện tình ra làm sao?
Quần nữ trước nay chưa ai nghe gã nói đến mẫu thân, bây giờ nghe gã nhắc đến mẹ già đều cho là gã trạnh lòng hiếu thảo, nên rất đồng tình với gã.
Tô Thuyên hỏi:
– Lệnh đường hiện giờ ở đâu?
Các cô tự nhủ:
– “Mẫu thân gã là mẹ chồng mình, cần tìm cách đi đón về đây tụ hội để phục thị lão nhân gia mới phải”.
Vi Tiểu Bảo thở dài đáp:
– Gia mẫu ở Lệ Xuân viện, thành Dương Châu.
Quần nữ nghe nhắc tới Lệ Xuân viện ở thành Dương Châu trừ một mình Công chúa không hiểu chuyện, còn sáu cô mặt đỏ như giáng chiều. Cô thì ngoảnh mặt đi, cô thì cúi đầu xuống.
Công chúa nói:
– Ủa! Lệ Xuân viện ở thành Dương Châu đã có lần đệ đệ nói với ta là một nơi phong cảnh đẹp nhất thiên hạ. Đệ đệ còn hứa hẹn đưa ta tới đó du ngoạn một phen.
Phương Di cười nói:
– Gã gạt muội đó. Tin gã thì đổ thóc giống ra mà ăn. Lệ Xuân viện là một nơi không đứng đắn.
Công chúa hỏi:
– Làm sao không đứng đắn? Tỷ tỷ đã tới đó du ngoạn chưa? Tại sao nói đến Lệ Xuân viện các vị đều lộ vẻ cổ quái?
Phương Di nhịn cười không đáp.
Công chúa ôm lấy vai Mộc Kiếm Bình giục:
– Hảo muội muội! Muội muội nói cho ta nghe đi.
Mộc Kiếm bình đỏ mặt lên đáp:
– Đó là… đó là một kỹ viện.
Hồi 220
Tìm đường nhớ tới chuyện dương châu
Trịnh Khắc Sảng càng nghe Vi Tiểu Bảo nói, món nợ càng lên cao. Hắn nghĩ thầm:
– “Gã bán cả người chết, nếu kể từ cao tổ, tằng tổ, cao tổ nhưng nhưng, tằng tổ nhưng nhưng cũng đem bán thì đành chịu chết. Dù người quá cố có bớt tiền đi, chỉ tính tám chục vạn lạng thôi mình cũng không chịu nổi”.
Nhưng hắn không dám nói thẳng là mình chẳng chịu mua, mà chỉ cất tiếng năn nỉ:
– Tại hạ.. tại hạ thực tình không mua nổi…
Vi Tiểu Bảo nói:
– Được rồi! Ngươi không mua nổi thì ta tha chọ Nhưng đã nhận lời mua thì không được chối cãi. Ngươi thiếu ta ba trăm tám chục vạn lạng bạc thi tính sao đây?
Công chúa cười nói:
– Phải rồi! Lấy ngay ba trăm tám chục vạn lạng bạc đưa đây cho ta thì mới được tha về.
Trịnh Khắc Sảng giơ bộ mặt đưa ma ra nói:
– Bên mình tại hạ chưa có đủ lấy một ngàn lạng thì lấy đâu ra được ba trăm tám chục vạn lạng để trả ngay bây giờ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Thế thì thôi. Ngươi chưa có tiền thì ta bằng lòng cho chịu. Nhưng phải mau mau đem phụ thân, mẫu thân, nhưng nhưng, bà nội và cả bà ngoại chết rồi giao cho ta, thiếu một sợi tóc cũng không được.
Trịnh Khắc Sảng nghĩ bụng:
– “Nếu cứ giây dưa thế này hoài thì không biết đến bao giờ mới kết thúc?” Hắn đưa mắt nhìn A Kha để mong cô nói giúp, nhưng cô cứ đứng đằng xa quay lưng lại, quyết không dính tới.
Trịnh Khắc Sảng trong lòng nóng nẩy nhằm chừng Vi Tiểu Bảo muốn chặt chân tay mình, bất giác hắn dập đầu binh binh, miệng không ngớt kêu vang:
– Vi hương chủ! Tiểu nhân ám toán sát hại Trần Tổng đà chúa quả tội đáng muôn thác. Xin hương chủ khoan hồng đại lượng tha mạng cho tiểu nhân. Dù tiểu nhân có thiếu lão nhân gia bốn trăm tám chục vạn lượng bạc, tiểu nhân… nhất định sẽ tìm cách hoàn trả đầy đủ…
Vi Tiểu Bảo thấy hành hạ hắn đã đủ điều thảm hại rồi cũng đã nguôi giận, liền bảo:
– Được rồi! Vậy thì ngươi phải viết văn tự thiếu nợ.
Trịnh Khắc Sảng cả mừng vội đáp:
– Dạ! Dạ!
Rồi quay lại bảo tên vệ sĩ:
– Lấy giấy bút cho ta!
Nhưng trên hoang đảo này đào đâu ra giấy bút.
Tên vệ sĩ cũng rất nhanh trí, liền xé một mảnh vạt áo mình rồi nói:
– Bên kia rất nhiều người chết. Ta lấy máu của họ mà viết cũng được.
Gã nói rồi toan chạy đi lôi xác Phong Tế Trung lại.
Vi Tiểu Bảo vươn tay ra chụp lấy cổ tay phải Trịnh Khắc Sảng, ánh bạch quang thấp thoáng. Gã vung trủy thủ xẻo đứt đầu ngón tay trỏ của hắn.
Trịnh Khắc Sảng rú lên một tiếng thê thảm. Vi Tiểu Bảo nói:
– Phải lấy máu của ngươi mà viết mới được.
Trịnh Khắc Sảng đau quá, toàn thân run lên như thằn lằn đứt đuôi. Trong lúc nhất thời hắn không biết làm thế nào.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ngươi cứ nhẩn nha mà viết đi. Nếu để máu khô hết không đủ dùng thì ta lại chặt đứt ngón tay thứ hai của ngươi.
Trịnh Khắc Sảng vội đáp:
– Dạ! Dạ!
Khi nào hắn còn dám chần chờ. Hắn nghiến răng nhịn đau thò ngón tay cụt viết lên mảnh áo:
– “Thiếu nợ ba trăm tám chục vạn lạng bạc. Trịnh Khắc Sảng ký” Hắn viết xong mười ba chữ, đau quá xuýt ngất đi.
Vi Tiểu Bảo cười lạt nói:
– Ngươi đường đường là một vị công tử trong vương phủ mà thường ngày biếng học, viết bức văn tự nợ có mấy chữ mà xiêu vẹo, lệch lạc chẳng còn ra hình thù gì nữa.
Gã cầm lấy mảnh vạt áo đưa cho Song Nhi và bảo thị:
– Cô coi lại xem ngân khoản có thiếu chữ nào không rồi hãy cất đi. Thằng cha này man trá giảo quyệt hết chỗ nói. Không chừng hắn viết bới đi mấy lạng.
Song Nhi cười đáp:
– Ba trăm tám chục vạn lạng bạc. Đủ rồi đây.
Thị nói xong gấp mảnh vạt áo cho vào bọc.
Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười ha hả. Gã vung cước đá vào hàm dưới Trịnh Khắc Sảng, quát lên:
– Cút con bà mày đi!
Trịnh Khắc Sảng lộn người lăn mấy vòng ra xa.
Hai tên vệ sĩ vội lại đỡ hắn dậy, buộc vết thương nơi ngón tay rồi chia nhau cõng Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm đem xuống cái mủng nhỏ bơi ra khơi.
Vi Tiểu Bảo đang cười vang không ngớt, đột nhiên gã nhớ tới sư phụ bị thảm tử, không nhịn được lại khóc rống lên.
Trịnh Khắc Sảng chờ mủng chèo ra xa mấy chục trượng cho bớt nỗi kinh hoàng rồi lên tiếng:
– Chúng ta đến đoạt lấy con thuyền lớn kia rồi chạy ra khơi. Chắc bọn nam nữ chó má trời đánh không chết kia chẳng thể đuổi kịp được.
Nhưng chèo mủng lại gần mới thấy trên thuyền lớn đã mất hết bánh lái, lại chẳng có cột buồm. Nhất nhất những đồ ứng dụng chẳng còn vật gì.
Phùng Tích Phạm hằn học nói:
– Những quân chó má đó cất hết đồ dùng đi rồi.
Lão đưa mắt ngó ra mặt biểm mông mênh, sóng võ bì bõm mà con mủng nhỏ không có lương thực cùng nước uống thì làm sao ra khơi được.
Trịnh Khắc Sảng nói:
– Chúng ta quay lại năn nỉ bọn chúng cho mượn thuyền. Nhiều lắm là gã bắt mình viết nợ thêm ba trăm tám chục vạn lạng nữa là cùng chứ gì?
Phùng Tích Phạm đáp:
– Bọn chúng chỉ có một con thuyền, khi nào chúng chịu cho mượn? Chẳng thà bọn ta chịu chôn mình nơi bụng cá còn hơn năn nỉ tên tiểu tặc.
Trịnh Khắc Sảng nghe lão nói bằng một giọng kiên quyết, không dám trái ý, đành buông tiếng thở dài, hạ lệnh cho hai tên vệ sĩ chèo mủng ra khơi rồi muốn đến đâu thì đến.
Bọn Vi Tiểu Bảo ngó thấy chiếc mủng nhỏ của Trịnh Khắc Sảng bơi lại gần thuyền lớn rồi phát giác ra thuyền này không thể chạy được rồi lại bơi ra xạ Ai nấy không nhịn nổi, bật lên tràng cười khoái trá.
Tô Thuyên thấy Vi Tiểu Bảo chợt khóc, chợt cười. Rút cục gã vẫn chưa quên được nỗi đau mất sư phụ. Mụ muốn pha chuyện khôi hài cho gã cao hứng, liền hỏi:
– Nhị công tử nhà họ Trịnh cực kỳ man trá. Hiển nhiên hắn muốn đoạt con thuyền lớn của chúng tạ Cái đó đủ biết là hắn có viết văn tự cũng là làm cho qua lúc này. Tiểu Bảo! Ba trăm tám chục vạn lạng bạc tiền nợ của đệ đệ, ta xem chừng nhất định hắn ăn quỵt rồi.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Tiểu đệ cũng tiêu liệu hắn không trả món nợ đó đâu.
Tô Thuyên cười nói:
Vậy ra là đệ đệ là người liệu sự có tiên kiến rất sáng suốt. Lúc nãy hắn đem vợ của đệ đệ bán cho đệ đệ với giá một vạn lạng để thanh toán nợ cũ, đệ đệ chẳng cần suy nghĩ gì nữa, mở miệng ưng chịu liền. Đệ đệ thương yêu A Kha muội tử đến điên đảo thần hồn. Giả tỷ Trịnh Khắc Sảng có đòi đệ đệ phải trả muôn vạn lạng bạc ta chắc đệ đệ cũng gật đầu liền.
Vi Tiểu Bảo đưa tay áo lên lau nước mắt, cười đáp:
– Hắn mà đòi như vậy, tiểu đệ cũng chẳng thèm suy hơn tính thiệt làm cóc gì, cứ việc ưng thuận rồi thủng thẳng sẽ tính lại sau.
Phương Di cười hỏi:
– Về sau tại sao đệ lại nghĩ ra được là mình bị thua lỗ nhiều.
Vi Tiểu Bảo gật đầu đáp:
– Giết Phong Tế Trung rồi trong lòng tiểu đệ bình tĩnh lại không còn lo lắng gì nữa. Đột nhiên đầu óc trở lại sáng suốt.
Nguyên gã trước nay tuyệt không nghi ngờ gì Phong Tế Trung, có điều trong thâm tâm gã luôn ngấm ngầm cảm thấy tựa hồ bên mình ẩn nấp mầm họa rất lớn mà không biết mầm họa đó là cái gì? Gã chẳng thể phát giác mối lo sợ canh cánh bên lòng ở đâu mà ra.
Sau khi Phong Tế Trung chết rồi, Vi Tiểu Bảo khác nào cất được gánh nặng, gã khoan khoái vô cùng tự nhủ:
– “Ta khiếp sợ tên ác tặc này đến nỗi thậm chí mình chẳng biết mình là ai nữa”.
Mọi người vừa trải qua một cơn nguy hiểm cực kỳ trọng đại. Lúc này bao nhiêu cường địch người chết đã chết rồi, kẻ sống cũng trốn đi xa, trên đảo thái bình vô sự. Nhưng tinh thần vừa được cởi mở, ai nấy đều cảm thấy mệt nhoài.
Vi Tiểu Bảo hiện giờ tưởng chừng như hai chân đeo nặng ngàn cân. Gã không chống nổi nữa, phải nằm lăn ra bãi cát mà nghỉ.
Tô Thuyên giải khai huyệt đạo sau lưng cho Vi Tiểu Bảo vì gã đã bị Phong Tế Trung điểm vào lúc trước.
Bóng tịch dương phản chiếu xuống làn nước mênh mông. Trên mặt biển ánh vàng lóng lánh khác nào hàng vạn con kim xà nhảy múa. Phong cảnh thật là tuyệt mỹ.
Quần nữ cũng ngồi cả xuống ngắm cảnh nghỉ ngơi.
Chẳng bao lâu Vi Tiểu Bảo bắt đầu nổi tiếng ngáy pho phọ Tiếp theo quần nữ cũng kẻ trước người sau kế tiếp nằm lăn ra ngủ thiếp đi.
Sau chừng hai giờ, Tô Thuyên tỉnh dậy trước. Mụ vào căn nhà nhỏ làm cơm canh rồi gọi mọi người vào ăn.
Trong đại đường cắm hai cành thông lớn, cháy sáng rực cả căn nhà.
Tám người ngồi thành vòng tròn ăn cơm. Xong bữa, Phương Di, Song Nhi thu dọn chén bát cất đi.
Vi Tiểu Bảo liếc mắt nhìn Tô Thuyên, Phương Di, Công chúa cho đến Mộc Kiếm Bình, Song Nhi, A Kha, Tăng Nhu cả thảy bảy cô, mỗi người một vẻ. Người thì dong nhan diễm lệ, nàng thì nét mặt nhu mì. Có cô thái độ đoan nghiêm, có cô mồm miệng hoạt bát. Ai cũng có điểm dễ thương khiến lòng gã vui sướng không bút nào tả xiết.
Hiện giờ hắn tha hồ mà kề lục tựa hồng, trong lòng bình thản, so với ngày trước ngủ chung với bảy cô trên giường lớn tại Lệ Xuân viện vừa sờ soạng, vừa hồi hộp, phong vị ngày nay khác hôm xưa rất xa.
Gã hả hê cười nói:
– Ngày trước tiểu đệ đặt tên cho hòn đảo này là Thông Cật đảo vì nghĩ đến chuyện đánh bạc và đánh giặc, muốn ngồi đây để “ăn hết”. Té ra mình có tiên kiến rất sáng suốt. Các vị bảy người muội tỷ đều làm vợ tiểu đệ, thì ra trong cõi mênh mang dường như ý trời định trước, muốn trốn lánh cũng không được. Từ nay tám người chúng ta ở trên đảo Thông Cật này, vĩnh hưởng tiên phúc, thọ dữ thiên tề.
Tô Thuyên gạt đi:
– Tiểu Bảo! Tám chữ “vĩnh hưởng tiên phúc, thọ dữ thiên tề” có điều bất tường. Đệ đệ không nên nhắc tới nữa.
Vi Tiểu Bảo tỉnh ngộ. Gã biết mụ không muốn nói đến bất cứ thứ gì liên quan tới Hồng giáo chủ.
Gã vội đáp:
– Phải đó! Phải đó! Tiểu đệ thật hồ đồ cứ nói nhăng nói càn.
Tô Thuyên vẻ mặt nghiêm trang nói:
– Hai tên địch là Thi Lang và Trịnh Khắc Sảng trở về Trung Nguyên rồi chắc còn đem quân tới báo thù. Chúng ta chẳng thể ở lâu trên hòn đảo này được.
Mọi người gật đầu khen phải.
Phương Di hỏi:
– Thuyên tỷ tỷ! Theo ý tỷ tỷ thì chúng ta nên đi đâu bây giờ?
Tô Thuyên nhìn Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Vụ này phải nghe theo chủ ý của Chí Tôn Bảo mới được.
Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
– Thuyên tỷ tỷ kêu tiểu đệ bằng Chí Tôn Bảo ư?
Tô Thuyên cười đáp:
– Không phải Chí Tôn Bảo thì sao lại “ăn hết” được?
Vi Tiểu Bảo cười khanh khách nói:
– Trong danh tự tiểu đệ có chữ Bảo, tưởng chỉ là những đôi “Bảo” nhỏ nhỏ như đôi Ngũ, đôi Bản đắng đôi Phản tăng chi chi mà thôi, không ngờ lại là Chí Tôn Bảo.
Gã thấy quần nữ dương mắt lên nhìn mình để chờ câu trả lời liền ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Về Trung Nguyên thì không được rồi. Đảo Thần Long thì gần đây quá. Phải kiếm nơi nào thảnh thơi vui thú mà không người lai vãng mới yên tâm được.
Những nơi hoang vắng chưa chắc đã là nơi vui thú. Vui thú phải là nơi người ở đông đúc, phồn hoa đô hội. Huống chi trong thâm tâm Vi Tiểu Bảo vui thú của gã là đánh bạc, là coi hát bội, là nghe thầy đồ nói chuyện cổ tích, là những trò chơi lặt vặt, nhậu nhẹt, là những cô gái đẹp, càng nhiều càng hay.
Ngoài những vị mỹ mạo cô nương bên mình gã cũng đã nhiều và đều vào hạng khá cao quí. Nếu muốn có những người tương đương phải tới tận Bắc Kinh, hay ít ra là Thương Châu nổi tiếng phồn hoa, còn thì quyết chẳng có chỗ nào làm cho gã phỉ dạ.
Vi Tiểu Bảo nghĩ tới những nơi phong lưu nhiệt náo, chợt động hiếu tâm hỏi:
– Chúng ta ở với nhau ở đây kể ra cũng cực kỳ thú vị. Nhưng không hiểu gia mẫu một mình cô đơn trơ trọi, hiện tình ra làm sao?
Quần nữ trước nay chưa ai nghe gã nói đến mẫu thân, bây giờ nghe gã nhắc đến mẹ già đều cho là gã trạnh lòng hiếu thảo, nên rất đồng tình với gã.
Tô Thuyên hỏi:
– Lệnh đường hiện giờ ở đâu?
Các cô tự nhủ:
– “Mẫu thân gã là mẹ chồng mình, cần tìm cách đi đón về đây tụ hội để phục thị lão nhân gia mới phải”.
Vi Tiểu Bảo thở dài đáp:
– Gia mẫu ở Lệ Xuân viện, thành Dương Châu.
Quần nữ nghe nhắc tới Lệ Xuân viện ở thành Dương Châu trừ một mình Công chúa không hiểu chuyện, còn sáu cô mặt đỏ như giáng chiều. Cô thì ngoảnh mặt đi, cô thì cúi đầu xuống.
Công chúa nói:
– Ủa! Lệ Xuân viện ở thành Dương Châu đã có lần đệ đệ nói với ta là một nơi phong cảnh đẹp nhất thiên hạ. Đệ đệ còn hứa hẹn đưa ta tới đó du ngoạn một phen.
Phương Di cười nói:
– Gã gạt muội đó. Tin gã thì đổ thóc giống ra mà ăn. Lệ Xuân viện là một nơi không đứng đắn.
Công chúa hỏi:
– Làm sao không đứng đắn? Tỷ tỷ đã tới đó du ngoạn chưa? Tại sao nói đến Lệ Xuân viện các vị đều lộ vẻ cổ quái?
Phương Di nhịn cười không đáp.
Công chúa ôm lấy vai Mộc Kiếm Bình giục:
– Hảo muội muội! Muội muội nói cho ta nghe đi.
Mộc Kiếm bình đỏ mặt lên đáp:
– Đó là… đó là một kỹ viện.
Hồi 220
Tìm đường nhớ tới chuyện dương châu
Trịnh Khắc Sảng càng nghe Vi Tiểu Bảo nói, món nợ càng lên cao. Hắn nghĩ thầm:
– “Gã bán cả người chết, nếu kể từ cao tổ, tằng tổ, cao tổ nhưng nhưng, tằng tổ nhưng nhưng cũng đem bán thì đành chịu chết. Dù người quá cố có bớt tiền đi, chỉ tính tám chục vạn lạng thôi mình cũng không chịu nổi”.
Nhưng hắn không dám nói thẳng là mình chẳng chịu mua, mà chỉ cất tiếng năn nỉ:
– Tại hạ.. tại hạ thực tình không mua nổi…
Vi Tiểu Bảo nói:
– Được rồi! Ngươi không mua nổi thì ta tha chọ Nhưng đã nhận lời mua thì không được chối cãi. Ngươi thiếu ta ba trăm tám chục vạn lạng bạc thi tính sao đây?
Công chúa cười nói:
– Phải rồi! Lấy ngay ba trăm tám chục vạn lạng bạc đưa đây cho ta thì mới được tha về.
Trịnh Khắc Sảng giơ bộ mặt đưa ma ra nói:
– Bên mình tại hạ chưa có đủ lấy một ngàn lạng thì lấy đâu ra được ba trăm tám chục vạn lạng để trả ngay bây giờ?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Thế thì thôi. Ngươi chưa có tiền thì ta bằng lòng cho chịu. Nhưng phải mau mau đem phụ thân, mẫu thân, nhưng nhưng, bà nội và cả bà ngoại chết rồi giao cho ta, thiếu một sợi tóc cũng không được.
Trịnh Khắc Sảng nghĩ bụng:
– “Nếu cứ giây dưa thế này hoài thì không biết đến bao giờ mới kết thúc?” Hắn đưa mắt nhìn A Kha để mong cô nói giúp, nhưng cô cứ đứng đằng xa quay lưng lại, quyết không dính tới.
Trịnh Khắc Sảng trong lòng nóng nẩy nhằm chừng Vi Tiểu Bảo muốn chặt chân tay mình, bất giác hắn dập đầu binh binh, miệng không ngớt kêu vang:
– Vi hương chủ! Tiểu nhân ám toán sát hại Trần Tổng đà chúa quả tội đáng muôn thác. Xin hương chủ khoan hồng đại lượng tha mạng cho tiểu nhân. Dù tiểu nhân có thiếu lão nhân gia bốn trăm tám chục vạn lượng bạc, tiểu nhân… nhất định sẽ tìm cách hoàn trả đầy đủ…
Vi Tiểu Bảo thấy hành hạ hắn đã đủ điều thảm hại rồi cũng đã nguôi giận, liền bảo:
– Được rồi! Vậy thì ngươi phải viết văn tự thiếu nợ.
Trịnh Khắc Sảng cả mừng vội đáp:
– Dạ! Dạ!
Rồi quay lại bảo tên vệ sĩ:
– Lấy giấy bút cho ta!
Nhưng trên hoang đảo này đào đâu ra giấy bút.
Tên vệ sĩ cũng rất nhanh trí, liền xé một mảnh vạt áo mình rồi nói:
– Bên kia rất nhiều người chết. Ta lấy máu của họ mà viết cũng được.
Gã nói rồi toan chạy đi lôi xác Phong Tế Trung lại.
Vi Tiểu Bảo vươn tay ra chụp lấy cổ tay phải Trịnh Khắc Sảng, ánh bạch quang thấp thoáng. Gã vung trủy thủ xẻo đứt đầu ngón tay trỏ của hắn.
Trịnh Khắc Sảng rú lên một tiếng thê thảm. Vi Tiểu Bảo nói:
– Phải lấy máu của ngươi mà viết mới được.
Trịnh Khắc Sảng đau quá, toàn thân run lên như thằn lằn đứt đuôi. Trong lúc nhất thời hắn không biết làm thế nào.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ngươi cứ nhẩn nha mà viết đi. Nếu để máu khô hết không đủ dùng thì ta lại chặt đứt ngón tay thứ hai của ngươi.
Trịnh Khắc Sảng vội đáp:
– Dạ! Dạ!
Khi nào hắn còn dám chần chờ. Hắn nghiến răng nhịn đau thò ngón tay cụt viết lên mảnh áo:
– “Thiếu nợ ba trăm tám chục vạn lạng bạc. Trịnh Khắc Sảng ký” Hắn viết xong mười ba chữ, đau quá xuýt ngất đi.
Vi Tiểu Bảo cười lạt nói:
– Ngươi đường đường là một vị công tử trong vương phủ mà thường ngày biếng học, viết bức văn tự nợ có mấy chữ mà xiêu vẹo, lệch lạc chẳng còn ra hình thù gì nữa.
Gã cầm lấy mảnh vạt áo đưa cho Song Nhi và bảo thị:
– Cô coi lại xem ngân khoản có thiếu chữ nào không rồi hãy cất đi. Thằng cha này man trá giảo quyệt hết chỗ nói. Không chừng hắn viết bới đi mấy lạng.
Song Nhi cười đáp:
– Ba trăm tám chục vạn lạng bạc. Đủ rồi đây.
Thị nói xong gấp mảnh vạt áo cho vào bọc.
Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười ha hả. Gã vung cước đá vào hàm dưới Trịnh Khắc Sảng, quát lên:
– Cút con bà mày đi!
Trịnh Khắc Sảng lộn người lăn mấy vòng ra xa.
Hai tên vệ sĩ vội lại đỡ hắn dậy, buộc vết thương nơi ngón tay rồi chia nhau cõng Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm đem xuống cái mủng nhỏ bơi ra khơi.
Vi Tiểu Bảo đang cười vang không ngớt, đột nhiên gã nhớ tới sư phụ bị thảm tử, không nhịn được lại khóc rống lên.
Trịnh Khắc Sảng chờ mủng chèo ra xa mấy chục trượng cho bớt nỗi kinh hoàng rồi lên tiếng:
– Chúng ta đến đoạt lấy con thuyền lớn kia rồi chạy ra khơi. Chắc bọn nam nữ chó má trời đánh không chết kia chẳng thể đuổi kịp được.
Nhưng chèo mủng lại gần mới thấy trên thuyền lớn đã mất hết bánh lái, lại chẳng có cột buồm. Nhất nhất những đồ ứng dụng chẳng còn vật gì.
Phùng Tích Phạm hằn học nói:
– Những quân chó má đó cất hết đồ dùng đi rồi.
Lão đưa mắt ngó ra mặt biểm mông mênh, sóng võ bì bõm mà con mủng nhỏ không có lương thực cùng nước uống thì làm sao ra khơi được.
Trịnh Khắc Sảng nói:
– Chúng ta quay lại năn nỉ bọn chúng cho mượn thuyền. Nhiều lắm là gã bắt mình viết nợ thêm ba trăm tám chục vạn lạng nữa là cùng chứ gì?
Phùng Tích Phạm đáp:
– Bọn chúng chỉ có một con thuyền, khi nào chúng chịu cho mượn? Chẳng thà bọn ta chịu chôn mình nơi bụng cá còn hơn năn nỉ tên tiểu tặc.
Trịnh Khắc Sảng nghe lão nói bằng một giọng kiên quyết, không dám trái ý, đành buông tiếng thở dài, hạ lệnh cho hai tên vệ sĩ chèo mủng ra khơi rồi muốn đến đâu thì đến.
Bọn Vi Tiểu Bảo ngó thấy chiếc mủng nhỏ của Trịnh Khắc Sảng bơi lại gần thuyền lớn rồi phát giác ra thuyền này không thể chạy được rồi lại bơi ra xạ Ai nấy không nhịn nổi, bật lên tràng cười khoái trá.
Tô Thuyên thấy Vi Tiểu Bảo chợt khóc, chợt cười. Rút cục gã vẫn chưa quên được nỗi đau mất sư phụ. Mụ muốn pha chuyện khôi hài cho gã cao hứng, liền hỏi:
– Nhị công tử nhà họ Trịnh cực kỳ man trá. Hiển nhiên hắn muốn đoạt con thuyền lớn của chúng tạ Cái đó đủ biết là hắn có viết văn tự cũng là làm cho qua lúc này. Tiểu Bảo! Ba trăm tám chục vạn lạng bạc tiền nợ của đệ đệ, ta xem chừng nhất định hắn ăn quỵt rồi.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Tiểu đệ cũng tiêu liệu hắn không trả món nợ đó đâu.
Tô Thuyên cười nói:
Vậy ra là đệ đệ là người liệu sự có tiên kiến rất sáng suốt. Lúc nãy hắn đem vợ của đệ đệ bán cho đệ đệ với giá một vạn lạng để thanh toán nợ cũ, đệ đệ chẳng cần suy nghĩ gì nữa, mở miệng ưng chịu liền. Đệ đệ thương yêu A Kha muội tử đến điên đảo thần hồn. Giả tỷ Trịnh Khắc Sảng có đòi đệ đệ phải trả muôn vạn lạng bạc ta chắc đệ đệ cũng gật đầu liền.
Vi Tiểu Bảo đưa tay áo lên lau nước mắt, cười đáp:
– Hắn mà đòi như vậy, tiểu đệ cũng chẳng thèm suy hơn tính thiệt làm cóc gì, cứ việc ưng thuận rồi thủng thẳng sẽ tính lại sau.
Phương Di cười hỏi:
– Về sau tại sao đệ lại nghĩ ra được là mình bị thua lỗ nhiều.
Vi Tiểu Bảo gật đầu đáp:
– Giết Phong Tế Trung rồi trong lòng tiểu đệ bình tĩnh lại không còn lo lắng gì nữa. Đột nhiên đầu óc trở lại sáng suốt.
Nguyên gã trước nay tuyệt không nghi ngờ gì Phong Tế Trung, có điều trong thâm tâm gã luôn ngấm ngầm cảm thấy tựa hồ bên mình ẩn nấp mầm họa rất lớn mà không biết mầm họa đó là cái gì? Gã chẳng thể phát giác mối lo sợ canh cánh bên lòng ở đâu mà ra.
Sau khi Phong Tế Trung chết rồi, Vi Tiểu Bảo khác nào cất được gánh nặng, gã khoan khoái vô cùng tự nhủ:
– “Ta khiếp sợ tên ác tặc này đến nỗi thậm chí mình chẳng biết mình là ai nữa”.
Mọi người vừa trải qua một cơn nguy hiểm cực kỳ trọng đại. Lúc này bao nhiêu cường địch người chết đã chết rồi, kẻ sống cũng trốn đi xa, trên đảo thái bình vô sự. Nhưng tinh thần vừa được cởi mở, ai nấy đều cảm thấy mệt nhoài.
Vi Tiểu Bảo hiện giờ tưởng chừng như hai chân đeo nặng ngàn cân. Gã không chống nổi nữa, phải nằm lăn ra bãi cát mà nghỉ.
Tô Thuyên giải khai huyệt đạo sau lưng cho Vi Tiểu Bảo vì gã đã bị Phong Tế Trung điểm vào lúc trước.
Bóng tịch dương phản chiếu xuống làn nước mênh mông. Trên mặt biển ánh vàng lóng lánh khác nào hàng vạn con kim xà nhảy múa. Phong cảnh thật là tuyệt mỹ.
Quần nữ cũng ngồi cả xuống ngắm cảnh nghỉ ngơi.
Chẳng bao lâu Vi Tiểu Bảo bắt đầu nổi tiếng ngáy pho phọ Tiếp theo quần nữ cũng kẻ trước người sau kế tiếp nằm lăn ra ngủ thiếp đi.
Sau chừng hai giờ, Tô Thuyên tỉnh dậy trước. Mụ vào căn nhà nhỏ làm cơm canh rồi gọi mọi người vào ăn.
Trong đại đường cắm hai cành thông lớn, cháy sáng rực cả căn nhà.
Tám người ngồi thành vòng tròn ăn cơm. Xong bữa, Phương Di, Song Nhi thu dọn chén bát cất đi.
Vi Tiểu Bảo liếc mắt nhìn Tô Thuyên, Phương Di, Công chúa cho đến Mộc Kiếm Bình, Song Nhi, A Kha, Tăng Nhu cả thảy bảy cô, mỗi người một vẻ. Người thì dong nhan diễm lệ, nàng thì nét mặt nhu mì. Có cô thái độ đoan nghiêm, có cô mồm miệng hoạt bát. Ai cũng có điểm dễ thương khiến lòng gã vui sướng không bút nào tả xiết.
Hiện giờ hắn tha hồ mà kề lục tựa hồng, trong lòng bình thản, so với ngày trước ngủ chung với bảy cô trên giường lớn tại Lệ Xuân viện vừa sờ soạng, vừa hồi hộp, phong vị ngày nay khác hôm xưa rất xa.
Gã hả hê cười nói:
– Ngày trước tiểu đệ đặt tên cho hòn đảo này là Thông Cật đảo vì nghĩ đến chuyện đánh bạc và đánh giặc, muốn ngồi đây để “ăn hết”. Té ra mình có tiên kiến rất sáng suốt. Các vị bảy người muội tỷ đều làm vợ tiểu đệ, thì ra trong cõi mênh mang dường như ý trời định trước, muốn trốn lánh cũng không được. Từ nay tám người chúng ta ở trên đảo Thông Cật này, vĩnh hưởng tiên phúc, thọ dữ thiên tề.
Tô Thuyên gạt đi:
– Tiểu Bảo! Tám chữ “vĩnh hưởng tiên phúc, thọ dữ thiên tề” có điều bất tường. Đệ đệ không nên nhắc tới nữa.
Vi Tiểu Bảo tỉnh ngộ. Gã biết mụ không muốn nói đến bất cứ thứ gì liên quan tới Hồng giáo chủ.
Gã vội đáp:
– Phải đó! Phải đó! Tiểu đệ thật hồ đồ cứ nói nhăng nói càn.
Tô Thuyên vẻ mặt nghiêm trang nói:
– Hai tên địch là Thi Lang và Trịnh Khắc Sảng trở về Trung Nguyên rồi chắc còn đem quân tới báo thù. Chúng ta chẳng thể ở lâu trên hòn đảo này được.
Mọi người gật đầu khen phải.
Phương Di hỏi:
– Thuyên tỷ tỷ! Theo ý tỷ tỷ thì chúng ta nên đi đâu bây giờ?
Tô Thuyên nhìn Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Vụ này phải nghe theo chủ ý của Chí Tôn Bảo mới được.
Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
– Thuyên tỷ tỷ kêu tiểu đệ bằng Chí Tôn Bảo ư?
Tô Thuyên cười đáp:
– Không phải Chí Tôn Bảo thì sao lại “ăn hết” được?
Vi Tiểu Bảo cười khanh khách nói:
– Trong danh tự tiểu đệ có chữ Bảo, tưởng chỉ là những đôi “Bảo” nhỏ nhỏ như đôi Ngũ, đôi Bản đắng đôi Phản tăng chi chi mà thôi, không ngờ lại là Chí Tôn Bảo.
Gã thấy quần nữ dương mắt lên nhìn mình để chờ câu trả lời liền ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Về Trung Nguyên thì không được rồi. Đảo Thần Long thì gần đây quá. Phải kiếm nơi nào thảnh thơi vui thú mà không người lai vãng mới yên tâm được.
Những nơi hoang vắng chưa chắc đã là nơi vui thú. Vui thú phải là nơi người ở đông đúc, phồn hoa đô hội. Huống chi trong thâm tâm Vi Tiểu Bảo vui thú của gã là đánh bạc, là coi hát bội, là nghe thầy đồ nói chuyện cổ tích, là những trò chơi lặt vặt, nhậu nhẹt, là những cô gái đẹp, càng nhiều càng hay.
Ngoài những vị mỹ mạo cô nương bên mình gã cũng đã nhiều và đều vào hạng khá cao quí. Nếu muốn có những người tương đương phải tới tận Bắc Kinh, hay ít ra là Thương Châu nổi tiếng phồn hoa, còn thì quyết chẳng có chỗ nào làm cho gã phỉ dạ.
Vi Tiểu Bảo nghĩ tới những nơi phong lưu nhiệt náo, chợt động hiếu tâm hỏi:
– Chúng ta ở với nhau ở đây kể ra cũng cực kỳ thú vị. Nhưng không hiểu gia mẫu một mình cô đơn trơ trọi, hiện tình ra làm sao?
Quần nữ trước nay chưa ai nghe gã nói đến mẫu thân, bây giờ nghe gã nhắc đến mẹ già đều cho là gã trạnh lòng hiếu thảo, nên rất đồng tình với gã.
Tô Thuyên hỏi:
– Lệnh đường hiện giờ ở đâu?
Các cô tự nhủ:
– “Mẫu thân gã là mẹ chồng mình, cần tìm cách đi đón về đây tụ hội để phục thị lão nhân gia mới phải”.
Vi Tiểu Bảo thở dài đáp:
– Gia mẫu ở Lệ Xuân viện, thành Dương Châu.
Quần nữ nghe nhắc tới Lệ Xuân viện ở thành Dương Châu trừ một mình Công chúa không hiểu chuyện, còn sáu cô mặt đỏ như giáng chiều. Cô thì ngoảnh mặt đi, cô thì cúi đầu xuống.
Công chúa nói:
– Ủa! Lệ Xuân viện ở thành Dương Châu đã có lần đệ đệ nói với ta là một nơi phong cảnh đẹp nhất thiên hạ. Đệ đệ còn hứa hẹn đưa ta tới đó du ngoạn một phen.
Phương Di cười nói:
– Gã gạt muội đó. Tin gã thì đổ thóc giống ra mà ăn. Lệ Xuân viện là một nơi không đứng đắn.
Công chúa hỏi:
– Làm sao không đứng đắn? Tỷ tỷ đã tới đó du ngoạn chưa? Tại sao nói đến Lệ Xuân viện các vị đều lộ vẻ cổ quái?
Phương Di nhịn cười không đáp.
Công chúa ôm lấy vai Mộc Kiếm Bình giục:
– Hảo muội muội! Muội muội nói cho ta nghe đi.
Mộc Kiếm bình đỏ mặt lên đáp:
– Đó là… đó là một kỹ viện.
Hồi 222
Thông Cật Đảo Quần Hào Đại Đổ
Vi Tiểu Bảo nghe tới đây bất giác nở mày nở mặt, lớn tiếng reo:
– Hay lắm! Hay lắm! Ta chịu về Bắc Kinh ngay tức khắc để uống chung rượu mừng của Hoàng thượng.
Ôn Hữu Phương đọc tiếp:
– “Đó là những việc về trước, ta có thể bỏ đi không cứu xét. Nhưng từ đây sắp tới nếu ngươi còn không nghe lời ta thì ta nhất định chặt đầu ngươi đi. Ngươi đừng bảo ta gạt ngươi trở về Bắc Kinh để hạ sát ngươi”.
“Sư phụ ngươi chết rồi, Thiên Địa Hội không còn điều gì liên can đến ngươi nữa. Vậy ngươi xuất lực diệt trừ tổ chức này. Ta lại phái ngươi đi đánh Ngô Tam Quế nữa.” “Kiến Ninh Công chúa ta gả cho ngươi làm vợ. Ngày sau ta sẽ phong tước Công tước Vương cho ngươi. Ngươi được thăng quan, phát tài, tha hồ phong lưu khoái lạc.” “Tiểu Huyền Tử đã là bạn tốt của ngươi, lại là sư phụ ngươi nữa. Ngươi thường ví ta như “Điểu, Sâng, Dủy, Thang”. Một khi ta nhất ngôn hý xuất là “tứ mã nan truy”. Ngươi liệu mà vác mặt về cho sớm, kẻo ta trông đợi”.
Ôn Hữu Phương tuyên đọc đạo mật chỉ rồi hỏi:
– Đại nhân đã nghe rõ chưa?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Ta nghe rõ cả rồi.
Ôn Hữu Phương cầm đạo mật chỉ châm vào ngọn nến trong cây đèn lồng để đốt đi. Chớp mắt tờ giấy cháy thành tro.
Vi Tiểu Bảo nhìn đạo mật chỉ cháy hết rồi, lửa tắt ngủm, chỉ còn lại một chút tro tàn.
Những luồng tư tưởng nổi lên như sóng cồn, gã quỳ xuống bóp nắm tàn giấy chứ không nói gì.
Ôn Hữu Phương tươi cười thỉnh an rồi nói:
– Vi đại nhân! Đức Hoàng thượng sủng ái đại nhân đến thế là cùng cực. Từ nay trở đi tiểu nhân hoàn toàn trông cậy vào sự đề bạt của đại nhân.
Vi Tiểu Bảo mặt buồn rười rượi, lắc lắc cái đầu thầm nghĩ:
– Y bảo ta về trừ diệt Thiên Địa Hội, nhưng làm thế là phản bội bằng hữu.
Nếu ta dúng tay vào thì có khác gì bọn Ngô Tam Quế, Phong Tế Trung? Ta cũng chỉ là một tên đại Hán gian, một con rùa đen hay quân chó đẻ mà thôi. Chén cơm này của Tiểu Huyền Tử nuốt không trôi được.
Rồi gã tự hỏi:
– Tiểu Huyền Tử hứa tha chết cho ta chuyến này nhưng y lại nói rõ lần sau nhất quyết chẳng chịu chiêu dung. Nếu ta không trở về, chưa hiểu y đối phó với ta bằng cách nào?
Gã nghĩ vậy liền cất tiếng hỏi:
– Nếu ta không về, Hoàng thượng sẽ làm gì? Ngài có dặn các vị bắt ta hay giết ta không?
Ôn Hữu Phương lộ vẻ cực kỳ kinh ngạc hỏi:
– Vi đại nhân không tuân chỉ ư? Sao… sao lại có chuyện thế?… Hỡi ơi! Vi bội thánh chỉ là một điều đại tội muốn thốt ra lời cũng không thể được.
Vi Tiểu Bảo hỏi gặng:
– Ông bạn nói thật đi! Nếu ta không tuân chỉ thì cục diện sẽ ra sao?
Ôn Hữu Phương gãi đầu gãi tai đáp:
– Hoàng thượng chỉ phán bảo tiểu nhân làm hai việc. Một là đem trao một đạo mật chỉ cho Vi đại nhân. Hai là sau khi Vi đại nhân coi đạo mật chỉ thứ nhất, tiểu nhân sẽ mở đạo mật chỉ thứ hai ra tuyên đọc. Đạo mật chỉ này ngụ ý thế nào, tiểu nhân chẳng hiểu chi hết. Ngoài hai việc trên, Hoàng thượng không dặn bảo điều gì khác cả.Vi Tiểu Bảo gật đầu, tiến lại gần Vương Tiến Bảo hỏi:
– Vương tam ca! Hoàng thượng ban mật chỉ triệu tiểu đệ về kinh phục vụ, nhưng… nhưng Tam ca coi đó! Công chúa bụng lớn thế kia rồi, tiểu đệ thực tình không thể xa nàng được. Trường hợp mà tiểu đệ không tuân chỉ hồi kinh thì Tam ca đối phó với tiểu đệ bằng cách nào? Hoàng thượng có dặn bảo gì không?
Gã tự nhủ:
– Ta hãy để đối phương trả giá xem sao đã. Nếu hắn bảo không tuân chỉ là hạ sát liền thì ta phải chịu đầu hàng. Bằng không ta sẽ mặc cả trước cũng chẳng hề gì.
Vương Tiến Bảo đáp:
– Đức Hoàng thượng chỉ phái thuộc hạ đi khắp các hải đảo tìm kiếm Vi Đô thống. Khi tìm thấy rồi đã có Ôn công công tuyên đọc mật chỉ. Những việc về sau, dĩ nhiên thuộc hạ nhất thiết nghe lệnh sai khiến của Vi Đô thống.
Vi Tiểu Bảo mừng thầm hỏi:
– Hoàng thượng không dặn Tam ca bắt hay giết tiểu đệ ư?
Vương tiến Bảo đáp:
– Không có đâu! Không có đâu! Làm gì có chuyện đó! Đức Hoàng thượng đối xử với Vi Đô thống bằng tấm lòng trân trọng. Một khi Vi Đô thống về đến Bắc Kinh, ngài nhất định dùng đô thống vào việc lớn, chẳng làm thượng thư cũng làm tướng quân.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Vương Tam ca ơi! Chẳng dấu giấu gì Tam ca:
Hoàng thượng triệu tiểu đệ về kinh để phái dẫn quân đi trừ diệt Thiên Địa Hội. Tiểu đệ là Hương chủ ở Thiên Địa Hội thì chẳng thể nào hành động sát hại bằng hữu. Vụ này nhất định không làm được.
Vương Tiến Bảo là con người rất trọng nghĩa khí. Hắn đã hiểu rõ mọi việc của Vi Tiểu Bảo. Bây giờ nghe gã nói vậy, liền gật đầu lia lịa. Hắn nghĩ bụng:
– Bán đứng anh em để thăng quan phát tài thì có khác chi tuồng chó lớn?Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Hoàng thượng đối với tiểu đệ Ơn nặng bằng non, nhưng ngài sai phái việc này tiểu đệ thực không làm được. Tiểu đệ chẳng dám trở về thấy mặt Hoàng thượng nữa, đành để kiếp sau làm thân trâu ngựa đền nghĩa trúc mai. Tam ca về phúc trình Hoàng thượng xin bày tỏ nỗi khó khăn cho tiểu đệ. Trước nay trung nghĩa khó lòng vẹn cả hai bề. Diễn tuồng ở trên sân khấu thì chỉ làm bộ tự sát để báo đền ơn chúa, nhưng cắt cổ thực sự thì tiểu đệ sợ đau lắm.
Vương Tiến Bảo suy bụng ta ra bụng người, tự nhủ:
– Giả tỷ ta gặp phải vấn đề nan giải này cũng chỉ còn đường tự sát để báo đền ơn tri ngộ của quân hoàng và khỏi phụ tình nghĩa tương giao bằng hữu.
Hắn vội khuyên can:
– Vi đô thống bất tất phải dùng hạ sách đó. Chúng ta thủng thẳng suy nghĩ để tìm biện pháp nào hay hơn. Hãy chờ thuộc hạ trở về tâu bày nỗi khổ tâm của Đô thống lên Hoàng thượng. Trương Dũng đại ca, Triệu tổng binh, Tôn tổng binh đã lập được ít công lao trong mấy tháng gần đây và được Hoàng thượng trọng đãi. Những vị này quyết chẳng kể gì đến bước tiến trình, sẽ cùng nhau dập đầu năn nỉ Thánh thượng mở đường cho Đô thống.
Vi Tiểu Bảo thấy hắn có vẻ hoảng hốt bồn chồn, tựa hồ gã sắp tự tử đến nơi thì không khỏi cười thầm nghĩ bụng:
– Muốn Vi Tiểu Bảo này tự sát thì hãy chờ mặt trời mọc phương Tây, lặn phương Đông, mới có thể xảy ra. Đừng nói chuyện tự sát mà chặt đầu ngón tay út, lão gia cũng không làm nổi. Vả lại Tiểu Huyền Tử muốn giết ta là giết, muốn tha ta là tha, y tự có chủ ý của y, còn các ngươi có dập đầu đến bể sọ cũng chẳng ích gì.
Nhưng gã thấy Vương Tiến Bảo tình nghĩa thâm trọng, trong lòng cực kỳ cảm kích, liền nắm chặt tay hắn, nói:
– Đã thế thì phiền Vương Tam ca tâu trình Hoàng thượng và nói là tiểu đệ lâm vào tình trạng nan giải, không biết làm thế nào đã vung kiếm lên tự tử, may mà Tam ca kịp đoạt kiếm giải cứu, không thì tiểu đệ chết rồi.
Vương Tiến Bảo đáp:- Dạ da….!
Hắn nghĩ tới vụ này giả dối mà Ôn thái giám đứng bên đã nhìn thấy rõ. Tội khi quân chắc gì giữ kín cho khỏi lòi đuôi. Hắn không nhẫn nại được, mặt lộ vẻ thẫn thờ lo nghĩ.
Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười ha hả. Gã biết Vương Tiến Bảo là người thành thật, không nên nói giỡn liền bảo hắn:
– Vương tam ca bất tất phải quan tâm. Tiểu đệ muốn giỡn chơi chứ không phải chuyện thật Hoàng thượng hiểu rõ Vi Tiểu Bảo là người thế nào rồi. Động một chút đã sợ đau đớn thì còn tự tử làm sao được? Vậy nên Tam ca nhất thiết cứ tâu trình sự thực.
Vương Tiến Bảo nghe gã nói vậy mới yên lòng.
Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:
– Nêu ta ngồi thuyền của y trở về Trung Nguyên rồi hãy chuồn đi thì Hoàng thượng nhất định khép tội, chắc y phải mất đầu. Bằng ta thốt lời cầu khẩn, y không thể cự tuyệt, nhưng như vậy mình lại tỏ ra hèn nhát.
Gã nghĩ như vậy rồi nói:
– Việc chính chúng ta bàn xong rồi Vương Tam ca! Tiểu đệ Ở trên hoang đảo, lâu ngày không được đánh bạc buồn quá. Bây giờ chúng ta gieo xúc xắc một lúc nên chăng?
Vương Tiến Bảo cả mừng. Hắn cũng máu mê cờ bạc chẳng kém gì Vi Tiểu Bảo.
Khi không có đối thủ cũng dùng tay trái đánh với tay mặt. Hắn liền hoan hô tức khắc.
Vương Tiến Bảo nóng quá, sai ngay bọn quan binh thủ hạ khiêng một tảng đá lớn bằng phẳng đem lại làm bàn bạc.
Sáu tên quan binh đứng bên cầm đèn lồng để soi sáng. Mọi người kêu gọi nhau lại cùng Vi Tiểu Bảo mở cuộc đại đổ. Chỉ trong chớp mắt, Ôn Hữu Phương cùng mấy tên tham tướng, du kích cũng nhập cuộc gieo xúc xắc. Số người đến bu quanh tảng đá lớn mỗi lúc một đông.Mộc Kiếm Bình mọi bữa thấy bọn đàn bà gieo xúc xắc để xem ai thua thì bồi tiếp Vi Tiểu Bảo, nay cô thấy bọn quan binh cũng chơi trò này trong lòng nghi hoặc, khẽ hỏi Phương Di:
– Di tỷ tỷ! Bọn họ gieo xúc xắc làm gì vậy? Chẳng lẽ người thua cũng…
Nhưng họ đều là đàn ông…
Phương Di bật lên tiếng cười hích hích, khẽ đáp:
– Tên nào thua là phải bồi tiếp quận chúa.
Mộc Kiếm Bình tuy chưa hiểu rõ việc đời, nhưng cũng biết chẳng làm gì có chuyện đó. Cô liền thò tay vào nách Phương Di mà cù léc. Hai cô cùng cười lăn cười lộn.
Cuộc đánh bạc kéo dài suốt đêm cho đến sáng mới tan.
Trước mặt Vi Tiểu Bảo, ba đống bạc xếp cao lù lù. Một là gã hên vận, hai là gã gian lận. Bọn quan binh trong mười tên có đến chín tên bị thua cháy túi.
Vi Tiểu Bảo cao hứng vô cùng! Gã ngẩng đầu lên nhìn thấy A Kha và Công chúa ngồi tựa vách đá mà ngủ. Còn Tô Thuyên, Song Nhi, Tăng Nhu, Phương Di, Mộc Kiếm Bình năm cô ngủ một giấc rồi đã tỉnh lại, miễn cưỡng ngồi bên bồi tiếp.
Gã cũng thấy hơi thẹn liền đẩy một đống bạc trước mặt ra nói:
– Vương Tam ca! Tam ca đem mấy ngàn làng bạc này chia ra thưởng cho các anh em dùm tiểu đệ. Các vị đến chốn hoang đảo này chẳng có gì khoản đãi, thật áy náy quá!.
Bọn quan binh thua bạc mặt buồn rười rượi nghe gã nói vậy liền nổi tiếng hoan hô và đồng thanh ngỏ lời cảm tạ.
Vương Tiến Bảo sai bọn quan binh bơi mủng nhỏ trở ra thuyền lớn lấy gạo nước, heo, dê, rượu ngon, cùng mâm bát chén, xoong chảo, dao thớt đem lên đảo.
Hắn lại chỉ huy bọn quan binh vào rừng chặt cây làm mấy gian nhà gianh.
Người nhiều làm việc gì cũng dễ. Mấy trăn quan binh nhất tề ra sức động thủ.
Chỉ trong mấy ngày, trên đảo Thông Cật thành ra một nơi rất hoàn bị để mọi người trú ngụ.Sắp đặt trên đảo xong, Vương Tiến Bảo từ biệt bọn Vi Tiểu Bảo ra về.
Lúc lâm biệt, Ôn Hữu Phương mới biết tên đảo này là Thông Cật. Hắn không khỏi thở dài tiếc rẻ, nói:
– Mình không biết trước thế này thì nhất định đoạt lấy nhà cái trong bàn bạc.
Đánh bạc ở đảo Thông Cật mà làm nhà con trách nào chẳng bị người ăn hết?
Qua mười mấy ngày nữa, A Kha sinh trước một trai. Hôm sau, Tô Thuyên cũng cho ra đời một trai. Lại cách hơn một tháng, Công chúa mới sinh hạ một gái. Nàng thấy người ta đều sinh trai, chỉ có mình nàng đẻ con gái, trong lòng buồn bã vô cùng. Nàng khóc ròng rã mấy ngày trời.
Vi Tiểu Bảo dỗ dành hoài. Gã còn nói chỉ ưa con gái chứ không thích con trai. Khi đó, Công chúa mời đổi sầu làm tươi, đang khóc bật cười.
Ba đứa nhỏ có bảy bà mẹ, nhưng chưa một ai có kinh nghiệm về việc nuôi trẻ sơ sinh. Các cô không khỏi luống cuống, gây nên lắm chuyện buồn cười. May ở chỗ ba đứa nhỏ này dễ nuôi và rất kháu khỉnh.
Quần nữ cung thỉnh Vi Tiểu Bảo đặt tên cho chúng. Gã cười đáp:
– Ta chẳng biết chữ nghĩa gì để mà bảo đặt tên cho con trai con gái thật là một chuyện khó khăn. Bây giờ đành thế này vậy:
Chúng ta gieo xúc xắc bói coi được cái gì thì đặt tên cái đó.
Gã liền cầm hai hạt xúc xắc, miệng lâm râm khấn khứa:
– Cầu chư Thần chư Phật cùng đức Bồ Tát phù hộ để tín chủ lấy tên đặt cho ba đứa nhỏ. Đây là đứa thứ nhất…
Gã dứt lời liệng hai con xúc xắc xuống. Một con thành lục điểm và một con ngũ điểm. Nước bài này kêu bằng “Hổ Đầu”.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– A lão đại được cái tên rất đúng, gọi là Vi Hổ Đầu.
Gã gieo lần thứ hai một con một điểm và một con sáu điểm thành nước bạc “Đồng Trùy yêu lục”. Gã nói:
– Lão nhị kêu bằng Vi Đồng Trùy.Vi Tiểu Bảo lại gieo lần thứ ba. Con đầu ngã xuống thành lưỡng điểm. Con thứ hai xoay một lúc nữa rồi cũng hạ xuống lưỡng điểm. Nước này kêu bằng “Bản Đắng”.
Vi Tiểu Bảo ngẩn người ra một chút rồi cười ha hả nói:
– Đại cô nương của chúng ta được cái tên rất cổ quái. Cô này tên gọi Vi Bản Đắng.
Quần nữ đều ngơ ngác.
Công chúa tức giận nói:
– Tên này khó nghe lắm. Y đường hoàng là một khuê nữ sao gọi là Bản Đắng, Trường Đắng được? Mau mau gieo một lần nữa để đặt tên lại.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bách Thần cùng đức Bồ Tát đã cho tên như vậy, sao còn thay đổi loạn xà ngầu?
Gã bồng con lên hôn vào mặt nó một cái, cười nói:
– Vi Bản Đắng hôn ta đi nào! Cái tên này thế mà đẹp.
Công chúa tức giận nói:
– Không được! Không được! Tên gì chứ tên Vi Bản Đắng thì nhất định không được. Đứa nhỏ này do ta sinh ra mà đặt tên khó nghe như vậy, ta không chịu.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Hừ! Đứa nhỏ do nàng sinh ra thật, nhưng một mình nàng liệu có sinh con được không?
Công chúa giật lấy hai con xúc xắc nói:
– Ngươi không gieo thì ta gieo. Gieo được cái gì đặt tên cái đó.
Vi Tiểu Bảo không làm sao được đành để tùy ý nàng, nhưng hỏi lại:
– Được rồi! Gieo lần này rồi đừng cãi nữa, nhưng thành Hổ Đầu hay Đồng Trùy thì sao?
Công chúa đáp:- Nó sẽ đồng danh với ca ca, cũng kêu Hổ Đầu hay Đồng Trùy càng tốt.
Nàng cầm hai con xúc xắc vừa lắc vừa khấn:
– Chư thần Bồ Tát! Xin chư thần ban cho khuê nữ của đệ tử một cái tên thật hay. Nếu không thì đệ tử đập tan hai con xúc xắc thối tha này.
Nàng khấn xong gieo xuống. Hai con xúc xắc xoay một lúc rồi đứng lại.
Trong thiên hạ thật lắm chuyện kỳ. Lần này Công chúa cũng gieo hai con thành lưỡng điểm tức là “Bản Đắng”.
Công chúa trợn mắt há miệng. Bất giác nàng ọe một tiếng rồi khóc òa lên.
Mọi người vừa ngạc nhiên vừa tức cười.
Tô Thuyên an ủi nàng:
– Muội tử bất tất phải nóng nẩy. Lưỡng điểm thành đôi tứ là “Song”. Hai con cùng lưỡng điểm thành “Song Song”. Đứa khuê nữ của chúng ta kêu bằng Vi Song Song. Muội tử nghe có hay không?
Công chúa phá lên cười, hả hê đáp:
– Hay lắm! Hay lắm! Tên này nghe thú đấy, lại không khác Song Nhi muội tử mấy tý.
Song Nhi cũng cực kỳ hoan hỷ. Thị Ôm Vi Song Song vào lòng mà hôn hít rất thân thiết.
Mộc Kiếm Bình cười nói:
– Song Nhi muội muội! Muội muội cưng nó như vậy thì cho nó bú đi!
Song Nhi đỏ mặt lên bĩu môi đáp:
– Tỷ tỷ cho nó bú!
Thị vừa nói vừa thò tay cởi khuy áo Mộc Kiếm Bình.
Mộc Kiếm Bình vội bỏ chạy. Quần nữ đều cười ồ.
Trên đảo Thông Cật thêm ba đứa hài nhi càng náo nhiệt.Từ ngày Vương Tiến Bảo đưa đồ vật dụng lên, lương thực sung túc, không phải hàng ngày đi bắt cá hay săn thú cũng có thức ăn rồi. Chỉ khi nào muốn ăn tôm cá tươi mới cần động thủ.
Ban đầu mọi người còn băn khoăn vụ Vua Khang Hy tuyên triệu Vi Tiểu Bảo mà gã không trở về Bắc Kinh có thể gây ra hậu hoạn. Nhưng sau mấy tháng chẳng thấy tin tức gì, nỗi lo âu cũng nhạt dần, rồi không ai để ý tới nữa.
Mãi đến mùa đông, Vương Tiến Bảo đột nhiên thống lãnh mấy con thuyền lớn ra đảo Thông Cật để tuyên đọc thánh chỉ.
Thánh chỉ chuyến này làm thành văn biền ngẫu theo lối Tứ Lục. Văn tự thâm thúy ảo diệu.
Vi Tiểu Bảo chẳng hiểu câu nào, phải nhờ Tô Thuyên giải thích từng chữ.
Vua Khang Hy không đả động gì đến việc trước, chỉ phái một tên tham tướng đốc suất năm trăm quan binh đồn trú trên đảo để bảo vệ cho Công chúa.
Ngoài ra còn mười sáu tên nam bộc, tám tên nữ bộc, tám ả nha hoàn. Những dụng cụ cùng thực vật, xếp đầy ba thuyền lớn, Vi Tiểu Bảo thấy thế trong lòng ngấm ngầm chán nản nghĩ bụng:
Tiểu Huyền Tử thưởng cho ta nhiều thế này là có ý muốn ta ở lại đảo Thông Cật suốt đời.
Gã bản tính hiếu động. Những ngày tháng ở trên đảo tuy chẳng phải lo lắng gì lại thêm bảy vị phu nhân nguyệt thẹn hoa nhường bầu bạn, nhưng hưởng cuộc thái bình vô sự lâu ngày quá cũng thành ra vô vị. Nhiều lúc gã hồi tưởng lại những việc đã qua ở Lệ Xuân viện việc nào bị nắm tóc lôi kéo nào bị đòn đánh túi bụi hay bị thóa mạ đủ điều, gã lại cảm thấy tinh thần khoan khoái.
Tháng mười hai năm ấy, vua Vua Khang Hy sai Triệu Lương Đống ban chỉ ra cho hay đức Hoàng đế lập con thứ là Doãn Nhưng làm Thái tử, đại xá tội phạm trong thiên hạ. Vi Tiểu Bảo được thăng một cấp làm Nhị đẳng Thông Cật Bá.
Vi Tiểu Bảo bày yến tiệc mời Triệu Lương Đống uống rượu.Trên tiệc Triệu Lương Đống nói đến chuyện chiến sự chinh phạt Ngô Tam Quế. Hắn cho hay binh tướng của Ngô Tam Quế rất lợi hại, Vương sư thất lợi ở nhiều nơi.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Triệu nhị ca! Xin nhị ca về tâu Hoàng thượng để ngài hay tiểu đệ Ở đây buồn quá! Mong được Hoàng thượng phái tiểu đệ dẫn quân đi đánh lão tiểu tử Ngô Tam Quế.
Triệu Lương Đống đáp:
– Đức Hoàng thượng cũng tiên liệu Tước gia một lòng trung quân ái quốc, Tước gia mà hay tin Ngô tặc càn rỡ, nhất định xin ngài cầm quân ra trận. Hoàng thượng phán bảo:
Vi Tiểu Bảo muốn đi đánh Ngô Tam Quế cũng có thể được nhưng gã phải diệt trừ Thiên Địa Hội trước đã. Nếu không thế thì gã ở Thông Cật đảo mà câu cá bắt rùa.
Vi Tiểu Bảo vành mắt đỏ hoe, cơ hồ phát khóc.
Triệu Lương Đống nói:
– Hoàng thượng còn kể thời Vua Quang Võ nhà Hán nhỏ tuổi, ngài có người bạn tên gọi Nghiêm Tử Lăng. Sau khi Hán Quang Võ lên làm Hoàng đế, Nghiêm Tử Lăng được phong làm quan lớn mà lão không chịu, cứ ngồi lỳ câu cá ở Phú Xuân giang.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
– Hoàng thượng lại nói:
Vua Võ Vương nhà Chu trước có vị đại thần là Khương Thái Công ngồi cầu cá ở bến sông Vị Thủy. Chu Võ Vương và Hán Quang Võ đều là những Vua hiền thời xưa. Coi đó ta nhận ra rằng đã là những bậc hảo Hoàng đế thường có những đại thần thích câu cá.
Triệu Lương Đống nghiêm nghị kể tiếp:
– Hoàng thượng còn nói ngài muốn làm “Điểu sinh ngư thang”, nếu Vi Tước Gia không câu cá bắt chim thì lấy gì cho ngài làm “Điểu sinh ngư thang”? Vi Tước Gia! Thuộc hạ là kẻ thô lỗ không hiểu vì lẽ gì đước Hoàng thượng lại phái Tướcgia ở đây câu cá bắt chim? Có điều đức Ngài là bậc anh minh thì chắc trong vụ này tất có đạo lý cực kỳ trọng đại.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Phải rồi! Phải rồi!
Gã nở nụ cười nhăn nhó, vì biết rõ Vua Khang Hy có ý diễu cợt gã. Xem chừng nếu gã không chịu đi diệt trừ Thiên Địa Hội thì Hoàng đế bắt gã ở lại suốt đời ngoài đảo để câu cá.
Gã tự nhủ:
– Năm trăm tên quan binh nói là để bảo vệ Công chúa mà thực ra là bọn ngục quan ngục tốt nhà Vua phái đến giám thị nghiêm ngặt, không để ta dời khỏi đảo một bước.
Gã càng nghĩ càng đau khổ. Tiệc rượu này Vi Tiểu Bảo chẳng lấy gì làm hứng thú nên giải tán một cách mau chóng.
Sau tiệc rượu, gã buồn nản cũng không muốn đánh bạc nữa, trở về phòng ngồi thừ ra. Nét mặt buồn rười rượi, hai hàng châu lệ tuôn rơi.
Bảy vị phu nhân thấy Vi Tiểu Bảo rồi chảy nước mắt đều kinh ngạc, liền vào hỏi han và an ủi gã.
Vi Tiểu Bảo liền thuật lại những lời Vua Khang Hy cho mọi người nghe.
Công chúa nói:
– Phải rồi! Hoàng đế ca ca thăng quan tước cho ngươi, từ Tam đẳng Bá lên Nhị đẳng Bá thì phải rồi, sao còn “Nhị đẳng Thông Cật Bá” là nghĩa gì? Nhà Đại Thanh chúng ta chỉ có Chiêu Tín Bá, Uy Nghi Bá, không chỉ Tương Cần Bá, Thừa Ân Bá. Ba chữ “Thông Cật Bá” hiển nhiên là y diễu cợt. Y… y chẳng nghĩ gì đến ta…
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Thông Cật Bá thì đã sao? Hòn đảo này chính ta đặt tên là Thông Cật, chẳng thể trách Hoàng thượng được. ta là đảo chúa đảo Thông Cật, dĩ nhiên Tước Bá của ta kêu bằng Thông Cật Bá. Dù sao Thông Cật Bá cũng còn hơn là “Thông Bồi Bá”.Gã nhìn Tô Thuyên nói:
– Thuyên tỷ tỷ! Tỷ tỷ nghĩ ra biện pháp nào để chúng ta trốn về Trung Nguyên. Ta… ta… nhớ má ta quá!
Tô Thuyên lắc đầu đáp:
– Việc này thật khó khăn! Phải thủng thẳng chờ cơ hội.
Vi Tiểu Bảo cầm chung trà lên liệng xuống đất đánh choang một cái. Chung trà vỡ tan tành. Gã tức giận nói:
– Tỷ tỷ không chịu nghĩ cách dời khỏi nơi đây thì một mình ta cũng chuồn đi.
Các vị đừng trách ta vô tình. Ta… ta… chẳng thà làm tên bồi phòng, tên hầu trà ở Lệ Xuân viện chứ chẳng thèm làm con mẹ nó Thông Cật Bá chi hết. Ta ở đây chán ngấy mất rồi.
Tô Thuyên cũng không lấy thế làm tức giận. Mụ mỉm cười đáp:
– Tiểu Bảo! Ngươi bất tất phải nóng nẩy. Một ngày kia Hoàng thượng sẽ phía ngươi đi làm việc.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, đứng dậy xá dài nói:
– Hảo tỷ tỷ! Tiểu đệ xin lỗi tỷ tỷ.
Rồi gã hỏi:
– Hoàng thượng sẽ phái tiểu đệ làm việc gì? Tỷ tỷ nói mau đi! Chỉ cần không phải việc đi đánh Thiên Địa Hội, còn ngoài ra bất cứ việc gì khác, tiểu đệ cũng làm được.
Hồi 223
Hoạt Quốc Bảo Đi Đâu Mất Biến
Công chúa hỏi:
– Nếu Hoàng đế ca ca phái ngươi đổ nước tiểu, quét chuồng ngựa thì sao?
Vi Tiểu Bảo tức giận đáp:
– Ta cũng chịu, nhưng hàng ngày phái nàng làm thay.
Công chúa thấy gã nổi nóng không dám nói nữa.
Mộc Kiếm Bình giục:
– Thuyên tỷ tỷ! Thuyên tỷ tỷ nói mau đi! Tiểu Bảo nổi nóng rồi.
Tô Thuyên trầm ngâm đáp:
– Hoàng đế phái ngươi làm gì ta không thể biết được, nhưng ta đoán rằng Hoàng đế có một ngày kia sẽ kêu ngươi trở về Bắc Kinh. Hoàng đế bắt ngươi đầu hàng và phải chịu đi trừ diệt Thiên Địa Hội. Còn ngày nào ngươi chưa chịu là ngươi phải chịu đau khổ ngày ấy. Tiểu Bảo! Ngươi muốn làm anh hùng hào kiệt thì phải giữ vẹn lòng nghĩa khí với bạn hữu. Đó là một điều đau khổ ngươi phải chịu đựng. Nếu làm anh hùng hào kiệt mà chỉ phải nghe những câu hát Thập bát mô thì ra làm anh hùng dễ lắm hay sao?
Vi Tiểu Bảo nghe mụ nói có lý liền đứng dậy cười hỏi:
– Ta vừa làm anh hùng, vừa hát khúc Thập bát mô, được không?
Gã nói rồi cất tiếng hát:
– “Một ta sờ… hai ta sờ… sờ đến đầu tóc của Thuyên tỷ tỷ” Gã vừa hát vừa vươn tay sờ đầu Tô Thuyên.
Mọi người đều bật tiếng cười khúc khích. Thế là trận phong ba tiêu tan mất.
Từ đó trở đi hết ngày này qua ngày khác, hết năm này qua năm khác, Vi Tiểu Bảo cùng thất nữ tiếp tục ở trên đảo Thông Cật.
Hằng năm cứ đến tháng chạp, Vua Khang Hy lại phái người ra ban thưởng. Vi Tiểu Bảo được thưởng một bộ xúc xắc bằng thủy tinh, một cỗ bài cẩu bằng ngọc phỉ thúy, cùng bao nhiêu đồ để đánh bạc khảm ngọc dát vàng, kể không xiết được.
May ở chỗ trên đảo Thông Cật có thêm năm trăm quan binh, Vi Tiểu Bảo chẳng thiếu gì đối thủ về cờ bạc, nên gã tiếp tục cuộc đời trên đảo không đến nỗi tẻ nhạt.
Một năm Tôn Tư Khắc đem chỉ dụ của nhà Vua ra. Vi Tiểu Bảo thấy hắn đội mũ có dính viên Hồng Bảo thạch mà lại mặc sắc phục của võ quan vào hàng nhất phẩm, biết là hắn đã được thăng chức Đề đốc, gã liền nhìn hắn chúc mừng:
– Tôn tứ ca! Cung hỷ Tứ ca lại được thăng quan.
Tôn Tư Khắc hớn hở tươi cười dâng lời thỉnh an, đáp:
– Đây đều là ơn điển của Hoàng thượng mà cũng là sự tài bồi của Vi Tước gia.
Hắn mở thánh chỉ ra tuyên đọc. Nguyên đạo chỉ này nói về triều đình bình định tam phiên. Bình Tây Vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam, Bình Nam Vương Thượng Chỉ Tín ở Quảng Đông, Tinh Nam Vương Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến lần lượt bị đánh dẹp.
Nhà Vua luận công phong thưởng, Nhị đẳng Thông Cật Bá là Vi Tiểu Bảo có công tiến cử đại tướng làm nên việc lớn, cũng được thăng chức lên Nhất đẳng Thông Cật Bá. Trưởng tử là Vi Hổ Đầu được tập ấm làm Vân Kỵ úy.
Vi Tiểu Bảo tạ Ơn xong thu lấy những đồ vật mà nhà Vua ban thưởng. Trong món này có cả tấm bình phong bằng đá Đại lý. Chính là tấm bình phong mà Vi Tiểu Bảo đã thấy Ngô Tam Quế đặt ở Ngũ Hoa cung. Nó là một trong Tam bảo của Ngô Tam Quế.
Bọn Trương Dũng, Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc cũng đều được ban đồ lễ rất hậu.
Tối hôm ấy, Vi Tiểu Bảo thiết tiệc, Tôn Tư Khắc nhân lúc ăn tiệc kể lại công cuộc bình định Ngô Tam Quế.Trương Dũng lập được nhiều công lớn trong những trận đánh tan đại quân của Ngô Tam Quế ở miền Cam Túc, Ninh Hạ đã được phong Nhất Đẳng Hầu, gia chức Thiếu phó, kiêm Thái tử thái bảo. Quan tước của hắn cao hơn Vi Tiểu Bảo nhiều.
Tôn Tư Khắc lại nói:
– Ngày trước Trương Hầu Gia bị Quy Tân Thụ đánh một chưởng, thuỷ chung không bình phục được. Hầu gia chẳng thể cưỡi ngựa mà cũng không đứng vững. Khi lâm trận, Hầu gia ngồi trong kiệu chỉ huy ba quân.
Vi Tiểu Bảo tấm tắc khen là chuyện kỳ rồi nói:
– Những phu khiêng ngựa kiệu phải là những tay dũng sĩ mới được. Nếu không lúc Trương lão ca hô xung phong, bốn tên kiệu phu khiêng chạy lùi lại thì thật hỏng bét.
Tôn Tư Khắc đáp:
– Đúng thế! Trương hầu gia lâm trận, sau kiệu phải có đao phủ thủ đi theo đề phòng khi bọn kiệu phu muốn lùi lại là bị chém liền.
Tôn Tư Khắc lại kể cả việc Triệu Lương Đống lấy Dương Bình Quan, bình định Hán Trung, chiếm cứ Thành Đô, đánh xuống Côn Minh. Hầu gia lập nhiều công lớn nên Hoàng thượng phong y làm Dũng lược tướng quân, kiêm tổng đốc Vân Quí, gia hàm Binh bộ thượng thư.
Vương Tiến Bảo cùng hắn vì ra sức đánh giặc mà được thăng chức lên Đề đốc.
Vi Tiểu Bảo thấy hắn mặt mày hớn hở, mà gã không gặp cơ hội thịnh vượng, nên lộ vẻ buồn phiền. Có điều bốn người hảo bằng hữu của gã đều lập được đại công, phong quan lớn, gã cũng nức lòng nở dạ cho đồng bạn.
Tôn Tư Khắc nói:
– Bọn thuộc hạ thường nói với nhau:
Mấy năm nay được đi đánh trận thật là khoan khoái! Uống nước nhớ nguồn. Đây là nhờ ơn tri ngộ của Hoàng thượng, cùng đức tiến cử của Vi Tước gia…
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:- Giả tỷ Vi Tước gia làm Bình Tây Đại nguyên soái dẫn người bọn thuộc hạ đi đánh Ngô Tam Quế thì hay biết chừng nào!
Hắn lại kể:
– Triệu nhị ca và Vương tam ca hai người thường gây lộn với nhau, có khi cả ở trước mặt Hoàng thượng, Trương đại ca cũng không dẹp nổi. Hoàng thượng mấy lần đã nhắc tới Vi tước gia. Ngài phán bảo họ gây lộn thế này thì có điều không phải với Vi tước gia. Hai người mới thôi không dám gây gổ nữa.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười hỏi:
– Hai vị đó hễ thấy mặt nhau là gây lộn. Nhưng sao đã làm đến Đại tướng quân mà tính nết cũng không thay đổi?
Tôn Tư Khắc đáp:
– Thế mới thành chuyện. Hai vị còn làm tấu chương kể tội nhau nữa. May mà được Hoàng thượng khoan hồng đại độ, nhất thiết bỏ đi không xét. Nếu không thì e cả hai đều bị cách chức rồi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Tình trạng của lão tiểu tử Ngô Tam Quế ra làm sao? Tôn tứ ca có nắm bím tóc mà đá vào đít con mẹ nó mấy cước không?
Tôn Tư Khắc lắc đầu đáp:
– Lão tiểu tử đó hên vận lắm… !
Vi Tiểu Bảo kinh hãi hỏi:
– Hắn trốn thoát rồi ư?
Không phải đâu. Hắn đi đến thất bại đến đấy. Những đất chiếm được cũng bị mất hết. Hắn nhận ra không chống được nữa liền làm Hoàng đế cho thỏa chí bình sinh trước khi lâm tử. Hắn liền mặc áo Hoàng bào lên ngôi Đại bảo, đóng đô ở Hành Châu. Bọn thuộc hạ nghe nói hắn lên làm Hoàng đế liền vào đánh một trận nhừ đòn. Hắn vừa tức giận vừa kinh hãi rồi lìa bỏ cõi đời.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Té ra là thế! Nếu vậy thì thật phước cho lão tiểu tử.Tôn Tư Khắc nói:
– Ngô nghịch chết rồi, bọn thuộc hạ cùng chư tướng của hắn liền lập cháu là Ngô Thế Phiên lên kế vị, chạy lui về đóng ở Côn Minh.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
– Triệu nhị ca đánh tới Côn Minh bắt bọn thuộc hạ của hắn là Đại tướng Hạ Quốc Tương, Mã Bảo chém đầu. Ngô Thế Phiên cũng tự sát. Thế là thiên hạ thái bình.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ở Côn Minh có một món quốc bảo, không hiểu ra sao?
Tôn Tư Khắc hỏi lại:
– Món quốc bảo gì? Thuộc hạ không nghe ai nói tới.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Đây là một món quốc bảo sống động, một mỹ nhân đệ nhất thiên hạ tên gọi Trần Viên Viên.
Tôn Tư Khắc nói:
– Té ra là Trần Viên Viên. Thuộc hạ không hiểu nàng lạc lõng nơi đâu, nàng chết trong đấm loạn quân hay trốn đi rồi?
Vi Tiểu Bảo la lên:
– Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!
Gã nghĩ bụng:
– A Kha là vợ ta thì Trần Viên Viên là nhạc mẫu đại nhân chính thức. Triệu nhị ca mà bắt được bà, y biết bà là nhạc mẫu của ta, dĩ nhiên đưa đến Thông Cật đảo để hai mẹ con được đoàn tụ. Mẹ con nàng đoàn tụ hay không đoàn tụ ta cũng chẳng cần, nhưng nhạc mẫu và nữ tế đoàn tụ mới là tuyệt diệu. ta chưa cần nói đến chuyện gì khác. Nguyên một việc được nghe bà gẩy đàn tỳ bà, hát khúc Viên Viên đã là hay lắm rồi! Trượng mẫu nương ở đảo Thông Cật mà không ăn được, nhưng nữ tế nhìn trượng mẫu phải đếm chảy nước miếng là cái chắc.A Kha nghe nói mẫu thân không hiểu lạc lõng nơi đâu, tuy cô bị Cửu Nạn bắt trộm đem đi từ ngày còn nhỏ, không ở bên mẫu thân, nhưng dù sao cũng mẫu nữ thâm tình, vẻ thương tâm lộ ra ngoài mặt.
Vi Tiểu Bảo khuyên cô bất tất phải lo âu. Gã còn nói bất luận mẫu thân cô đi tới đâu, Bách thắng đao vương Hồ Dật Chi cũng theo kè kè bên cạnh, không dời nửa bước.
Gã nói:
– A Kha! Hồ đại ca võ công rất cao thâm, nàng đã được mắt thấy rồi đấy. Y bảo vệ một mình lệnh đường là việc dễ như trở bàn tay.
A Kha cho là gã nói có lý nên cũng bớt nỗi bi ai.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên vỗ bàn la:
– Trời ơi! Hỏng rồi!
A Kha kinh hãi hỏi:
– Điều chi? Ngươi bảo mẫu thân ta gặp nguy hiểm rồi chăng?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bà chẳng có chuyện gì nguy hiểm mà là một chuyện đại nguy hiểm cho ta.
Hồ đại ca đã cùng ta tám lạy kết giao thành một đôi nghĩa huynh nghĩa đệ. Nếu y gặp chỗ vắng vẻ hoang lương tất cùng mẫu thân nàng làm chuyện nọ chuyện kia thì ra y trở nên nhạc phụ của ta hay sao? Trường hợp này khiến cho vai vế thành rối bét.
A Kha bĩu môi lườm gã nói:
– Hồ bá bá… à quên, Hồ đại ca là con người thành thực, mực thước, ngươi tưởng bao nhiêu đàn ông trong thiên hạ đều giống ngươi, hễ thấy đàn bà là ôm đại lấy rồi làm chuyện nọ chuyện kia cả hay sao?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Lại đây! Chúng ta ôm nhau một lúc.
Gã nói rồi giang tay, ôm lấy A KhạVi Tiểu Bảo sau khi được thăng chức Nhất đẳng Thông Cật bá, bọn nhà bếp, nam bộc, nữ tỳ cũng thêm lên mấy chục người. Trên đảo thành ra náo nhiệt.
Vi Hổ Đầu còn nằm trong cái nôi, bú sữa mẹ đã được phong tước Vân kỵ úy.
Cách sinh hoạt trên hoang đảo ăn toàn ngọc thực, mặc toàn gấm vóc lụa là, thật là vinh hoa phú quý! Có điều cuộc sống an nhàn bình thản quá cũng chẳng lấy làm chi thú vị.
Vi Tiểu Bảo nghĩ trăm phương nghìn kế để gây chuyện động trời cho thành những vụ cổ quái. Gã cho là nếu không làm việc hoang đường thì còn chi là sinh thú?
Nhưng bảy vị phu nhân người nào cũng nghiêm cẩn, ngày đêm quản cố gã. Cả Công chúa nguyên là con người ngang ngược nhất cũng không chịu theo gã gây chuyện sóng gió. Thế là Nhất đẳng Thông Cật bá như người bị cột hết tay chân, chỉ còn đường thở ngắn than dài.
Vi Tiểu Bảo đã được nghe Vương Tiến Bảo kể chuyện đánh Ngô Tam Quế từ trận lớn cho chí trận nhỏ. Khi thì muôn vàn gian nan, khi thì khoái trá mê ly. Gã tiếc mình không được dự vào những trận đó để phô trương tài nghệ.
Gã tự nhủ:
– Nếu mình cũng hiện diện ở các nơi chiến trận thì nhất quyết không để Ngô Tam Quế chết một cách dễ dàng cho hết chuyện, mà phải nghĩ cách bắt sống hắn bỏ vào tù xa đưa qua đường Hồ Nam Hành Châu lên tới Bắc Kinh.
Gã tự nhủ:
– Trong khi đó ta lập ra một thể lệ:
Ai muốn coi mặt Ngô Tam Quế phải trả năm đồng. Muốn nhổ bọt vào mặt hắn thì lấy một lạng. Trẻ con giảm phần nửa. Mỹ nữ coi miễn phí. Bách tính trong thiên hạ đều căm hận tên Hán gian này thấu xương, mà Vi Tiểu Bảo được xài không hết tiền.
Gã nghĩ tới bảy vị phu nhân, hai cậu trai, một cô gái luôn luôn theo sát bên mình thì chẳng khác gì phải đeo mười khối đá lớn trên đầu trên cổ.Gã tính rằng muốn đem tất cả đi rời khỏi Thông Cật đảo, thật khó khăn vô cùng. Chi bằng bỏ hết mười người kia lại, nghĩ cách chuồn đi một mình có phần dễ dàng hơn.
Vi Tiểu Bảo tiễn chân Vương Tiến Bảo trở về rồi, ngày nào gã cũng băn khoăn lo nghĩ về chủ ý mình.
Một hôm Vi Tiểu Bảo ngồi trên tảng đá lớn buông câu tưởng tượng ra mình cưỡi trên lưng một con rùa lớn chạy ra biển cả, lướt sóng mà đi về thẳng tới Trung Nguyên là một cảnh khoan khoái nhất.
Ngày đã gần tới tiết Trung thu, nhưng khí trời vẫn nóng bức.
Vi Tiểu Bảo cầu cá một lúc rồi trong lòng buồn bực, ngồi tựa phiến đá sắp đi vào giấc ngủ triền miên, đột nhiên gã nghe có tiếng gọi:
– Khải bẩm Vi tước gia! Đức Đông Hải long vương muốn triệu thỉnh tước gia.
Vi Tiểu Bảo rất lấy làm kỳ ngưng thần nhìn ra thì thấy trên mặt biển nổi lập lờ một con rùa lớn. Nó cất đầu nghển cổ miệng nói tiếng người.
Con rùa nói tiếp:
– Đông Hải long vương ở Thủy tinh cung rất tịch mịch quạnh hiu, nên sai tiểu tướng lên cung thỉnh tước gia phó yến. Sau yến tiệc sẽ mở một canh bạc lớn, Long vương có san hô, có của báu. Những ngân phiếu trên mặt đất cũng thông dụng được.
Vi Tiểu Bảo cả mừng reo lên:
– Diệu tuyệt! Thật là tuyệt diệu! Ông bạn hàng xóm lịch sự quá, dĩ nhiên bản tước phải xuống bồi tiếp.
Con rùa nói:
– Dưới cung Thủy tinh có một bộ Côn khúc ban tử, Mạc Lăng Luận, Phong cảnh ngộ, Đào hoa phiến và những ban hát rất mới mẻ. Dưới đó cũng có thầy đồ kể Anh liệt truyện nhà Đại Minh, truyện Thủy Hử và rất nhiều sách.
Nó ngừng lại một chút rồi tiếp:- Lại chẳng thiếu những ả ca nữ hát đủ các lối hát vặn như Thán ngũ canh, Thập bát mô, Tứ quý tương tư chẳng thiếu thứ gì. Đông Hải Long vương có bảy vị Công chúa, cô nào cũng nguyệt thẹn hoa nhường và vẫn hâm mộ Vi tước gia là một nhân vật phong lưu lanh lợi, mong được hội diện.
Vi Tiểu Bảo khác nào gãi trúng chỗ ngứa, nức nở khen ngợi:
– Hay quá! Hay quá! Vậy chúng ta đi ngay.
Con rùa lớn lại nói:
– Vậy mời Tước gia ngồi lên lưng tiểu tướng để xuống Thủy tinh cung.
Vi Tiểu Bảo tung mình nhảy vọt ra ngồi lên lưng rùa.
Con rùa rẽ sóng yên ổn đưa gã xuống Thủy Tinh cung.
Đông Hải Long vương ra tận ngoài cung nghênh tiếp, dắt tay gã vào cung.
Nam Hải Long vương đã chờ hắn ở đây rồi.
Trong lúc yến tiệc vui vẻ, lại có tân khách nhộn nhịp tới nơi. Trong đám này Trư Bát Giới và Ngưu Ma Vương là hai con yêu tinh.
Trương Phi, Lý Đạt, Ngưu Niết, Trình Giảo Kim là bốn vị Đại tướng.
Trụ Vương, Sở Bá Vương, Tùy Dạng Đế, Minh Chính Đức là bốn vị Hoàng đế.
Bốn vị Hoàng đế, bốn Tướng, một Trư, một Ngưu, nhị Long là bốn vị thần mà từ xưa tới nay họ len lỏi cả trên trời dưới đất và là những nhân vật rất hồ đồ.
Lúc đánh bạc, Vi Tiểu Bảo làm cái, luôn luôn dở thói tệ nhũng. Ván nào gã cũng móc được Chí Tôn Bảo, không thì một đôi Thiên.
Mười hai người thua bạc thét len be be. Kim ngân tài bảo hết sạch sành sanh. Sau cùng Trụ Vương đưa Đắc Kỷ ra đặt cuộc, Minh Chính Đức đặt cuộc bằng Lý Phụng Cơ, Sở Bá Vương bằng ngựa Ô Truy, Trương Phi bằng thanh Bát xà mâu cũng bị thua hết.
Đến lúc Lý Đạt đặt cửa bằng hai cây búa cũng bị thua, nhưng hắn là người xấu chơi. Bộ mặt đen sì ửng đỏ lên lớn tiếng quát:- Quân chó đẻ! Người ta thu nhặt những cái gì tốt đẹp. Ngươi được vợ con ngươi ta cũng chẳng hề chi, nhưng cả cái cần câu cơm của lão gia ngươi cũng lấy mất thì chẳng còn chút nghĩa khí nào nữa.
Hắn nắm lấy ngực Vi Tiểu Bảo giơ lên rồi vung quyền đấm vào đánh binh một tiếng, khiến cho gã chấn động màng tai, chỉ nghe những tiếng vo vo.
Vi Tiểu Bảo thét lên một tiếng. Hai tay gã nhấc bổng cần câu bạt lên theo.
Dây câu rớt vào sau cổ gã. Gã giựt mạnh một cái, lưỡi câu móc vào thịt làm cho gã giật bắn người.
Chỉ trong chớp mắt những Lý đạt, Trương Phi, Hải Long vương gì gì không biết đi đâu hết.
Vi Tiểu Bảo tỉnh táo lại thì ra mình vừa ngủ mơ.
Lại nghe những tiếng đùng đùng vang lên. Thanh âm này phát ra ở trên mặt biển.
Vi Tiểu Bảo ngẩng đầu nhìn ra tận đằng xa thấy trên mặt biển có đến mười mấy thuyền lớn, đườn buồm thuận gió đang chạy tới đảo Thông Cật. Gã thấy tình thế bất lợi toan vứt cần câu bỏ chạy, nhưng lưỡi câu đã móc vào sau gáy gã. Gã đau nhói lên, trong lúc nhất thời không gỡ ra được liền co giò chạy ngay, kéo lê thê cái cần câu ở phía sau.
Gã nghĩ bụng:
– Đây chắc là tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng dẫn quân ra trả nợ ta. Gã trả nợ là hay lắm, nhưng thiếu nợ mà lúc tới nơi lại nổ súng, khí thế hung hãn thì chắc không phải là điềm tốt.
Gã chưa chạy về đến cửa thì tham tướng họ Bành đã hốt hoảng chạy ra, miệng lắp bắp:
– Vi… Vi tước gia!… Nguy to rồi!… Những binh thuyền của Đài Loan… đánh tới nơi…
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Sao ngươi biết đó là binh thuyền của Đài Loan?
Bành tham tướng vừa thở vừa đáp:- Tỵ chức… vừa rồi đã dùng Thiên lý kính để nhìn ra, thấy đằng lái thuyền…
không… không phải, đầu thuyền vẽ một vừng thái dương và một vành nguyệt. Đó là… huy hiệu của Trịnh… Trịnh tặc. Một con thuyền chứa năm trăm binh tướng, hai thuyền chứa hai ngàn, ba thuyền đến bảy, tám ngàn…
Vi Tiểu Bảo đón lấy ống Thiên lý kính trong tay hắn dướn lên nhìn. Gã đếm được mười ba con thuyền thật lớn, lại dòm kỹ đầu thuyền thì quả nhiên lờ mờ thấy vẽ hình mặt trời và mặt trăng để làm huy hiệu.
Gã liền quát:
– Ngươi mau đem quân bố trí cuộc phòng thủ, canh giữ ở bờ biển. Hễ thấy địch nhân ngồi mủng nhỏ lên bờ là ra lệnh cho bọn cung thủ phát xạ.
Bành tham tướng vâng dạ luôn miệng rồi chạy như bay.
Lúc này bọn Tô Thuyên đã được tin vội chạy ra.
Bỗng nghe những thuyền mới đến phát xạ “đoàng đoàng”.
Công chúa hỏi A Kha:
– A Kha muội tử! khi muội tử về Đài Loan có đem theo Hổ Đầu đi không?
A Kha dậm chân tức giận hỏi lại:
– Lúc này mà tỷ tỷ!… còn nói giỡn được ư?
Vi Tiểu Bảo tức giận hơn cất tiếng thóa mạ:
– Để nàng Công chúa thối tha đem cả Song Song đi Đài Loan.
Song Nhi bỗng la lên:
– Ô hay! Đạn rớt xuống biển sao không xô đẩy thành những cây nước.
Lại nghe hai tiếng “đoàng đoàng” vang lên. Miệng súng khói đen mờ mịt, nhưng súng không bắn lên đảo mà đạn cũng không rớt xuống nước.
Vi Tiểu Bảo ngơ ngác một chút rồi nổi tràng cười ha hả nói:
– Đây là pháo mừng chứ không phải để làm khó dễ chúng ta.
Công chúa nói:
– Chúng ta hãy dùng cách “tiên lễ hậu binh” để đối phó với họ.Vi Tiểu Bảo tức giận hỏi:
– Còn con nha đầu Song Song thì sao? Đem nó lại đây cho lão gia đét vào đít nó.
Công chúa hỏi:
– Chẳng có chuyện gì sao lại muốn đánh con gái?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Ai bảo má má nó làm cho người ta chán ngấy!
Đoàn thuyền mỗi lúc một gần, dương thiên lý kính lên nhìn đã thấy rõ Hoàng Long Kỳ của nhà Đại Thanh, chứ không phải Nhật Nguyệt Kỳ của Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo vừa kinh ngạc vừa vui mừng, đưa Thiên lý kính cho Tô Thuyên nói:
– Tỷ tỷ! Tỷ tỷ hãy coi đi! Thế có kỳ không?
Tô Thuyên dòm một lúc rồi mỉm cười đáp:
– Đây là Thủy quân của nhà Đại Thanh, chứ không phải quân Đài Loan…
Vi Tiểu Bảo lại đón lấy ống kính nhìn ra, vừa cười vừa nói:
– Phải rồi! Đúng là thủy binh của nhà Đại Thanh. Trời ơi! Làm gì thế này? Con mẹ nó đau quá!
Gã quay đầu lại thấy A Kha bồng Vi Hổ Đầu. Đứa nhỏ nắm lấy giây câu hết sức kéo. Lưỡi câu còn móc vào da cổ Vi Tiểu Bảo, bấy giờ có người kéo làm cho gã đau đớn.
A Kha nhìn cười tháo lưỡi câu ra nói:
– Xin lỗi Tiểu Bảo! Đừng bực mình nhé!
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Thẳng nhỏ này khôn quá. Bé thế mà đã có thủ đoạn của Khương Thái Công.
Công chúa hắng giọng một tiếng nói:
– Thật là đồ quỉ!
Bỗng thấy Bành tham tướng chạy đến la lên:- Vi Tước gia! Trên thuyền trương cờ hiệu nhà Đại Thanh. Ty chức e vụ này có điều giả trá.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Đúng thế! Chỉ cho một mủng nhỏ đem người lên đảo để hỏi rõ rồi sẽ tính.
Bành tham tướng lĩnh mệnh rồi đi ngay.
Công chúa nói:
– Nhất định tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng xảo quyệt nêu cờ hiệu nhà Đại Thanh, đoàn thuyền này đúng ở Đài Loan đến đây.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Càng tốt! Càng tốt! Công chúa! Dạo này dung nhan Công chúa xinh đẹp quá.
Công chúa sửng sốt, nhưng được trượng phu khen mình đẹp cũng khoan khoái, mỉm cười hỏi:
– Bao giờ cũng vậy. Đẹp gì mà đẹp?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Nàng mặt trắng môi hồng, lông mày cong vút, chẳng khác Hằng Nga giáng thế. Trịnh Khắc Sảng ngó thấy tất phải điên đảo thần hồn.
Công chúa hừ một tiếng, quay đầu chạy di.
Chẳng bao lâu thuyền đã tới gần, hạ neo đình lại. Mười mấy tên Thủy binh chèo hai cái mủng nhỏ vào bờ.
Bành tham tướng chỉ huy quân sĩ dương cung lắp tên nhằm vào con mủng nhỏ.
Khi mủng áp mạn, một người bắc loa hô:
– Thánh chỉ tới nơi! Quan Thủy sư đề đốc là Thi đại nhân đưa chỉ dụ đến cho Vi tước gia.
Hồi 224
Mắng Thi Lang là đứa Hán gian
Vi Tiểu Bảo cả mừng lên tiếng chửi đổng:
– Con mẹ nó! Thằng cha Thi Lang làm gì mà kỳ vậy? Hắn ngồi chiến thuyền của Đài Loan tới đây truyền chỉ là nghĩa làm sao?
Tô Thuyên đáp:
– Chắc Thi tướng quân gặp bọn Thủy quân của Đài Loan. Hai bên khởi cuộc thủy chiến rồi y thắng trận và tịch thu chiến thuyền.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đúng thế rồi! Thuyên tỷ tỷ liệu sự như thần.
Công chúa ra chiều không phục lên tiếng:
– Ta đoán chắc là Thi Lang đã đầu hàng Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng phái hắn đến giả truyền thánh chỉ.
Vi Tiểu Bảo nghe nàng nói vậy trong lòng hoan hỷ nên không thóa mạ nữa, thò tay béo đít nàng một cái rồi lật đật chạy ra bãi biển tiếp chỉ.
Quả nhiên Thi Lang ngồi trong mủng nhỏ tiến vào bờ. Hắn lên bãi cát lớn tiếng tuyên đọc thánh chỉ.
Nguyên Vua Khang Hy phái Thi Lang tấn công Đài Loan, Bành Hồ. Thủy quân Đài Loan bị đại bại. Thi Lang thừa thế xông lên đảo.
Diên Bình quận vương nhà Đại Minh là Trịnh Khắc sảng chưa đánh đã đầu hàng. Từ đây đảo Đài Loan thuộc vào bản đồ nhà Đại Thanh.
Vua Khang Hy luận công ban thưởng. Nhà Vua nghĩ tới Thi Lang ngày trước ngồi rỗi ở Bắc Kinh không được trọng dụng. Nhờ Vi Tiểu Bảo tiến cử, hắn mới lập nên công lớn. Ngài liền đặc cách thăng cho Vi Tiểu Bảo lên Nhị đẳng Thông Cật hầu, ban cho một cặp Nhãn hoa linh, gia hàm Thái tử Thái bảo, người con tập ấm cũng được thăng Nhất đẳng Khinh xa đô úy.
Vi Tiểu Bảo tạ Ơn rồi, trong lòng thờ thẫn như người mất của. Gã không ngờ đảo Đài Loan lại bị Thi Lang dẹp xong ngay.
Sự thực giữa Vi Tiểu Bảo và Trịnh Khắc Sảng trước nay tính tình không hợp, lại thù nghịch nhau nữa. Sư phụ của gã là Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng sát hại, nên gã giận hắn thấu xương, nhưng đảo Đài Loan dẹp xong là thiên hạ của nhà Đại Minh không còn một tấc đất. Gã nghĩ tới điểm này cảm thấy bâng khuâng trong dạ.
Từ thưở nhỏ Vi Tiểu Bảo chưa từng đọc sách, gã chẳng quan tâm gì đến chuyện phân chia kẻ Mãn người Hán, cùng mối cừu hận về quốc tộc, nhưng gã ở trong Thiên Địa Hội lâu ngày, thường được nghe anh em nhắc tới nhiều lần và dĩ nhiên gã nhận thấy người Mãn Châu chiếm mất giang sơn của người Hán là việc đáng buồn. Vì vậy gã nghe nói Thi Lang bắt Trịnh Khắc Sảng đưa về Bắc Kinh, chẳng lấy chuyện đó làm mừng.
Gã lại nghĩ tới sư phụ suốt đời tận tâm kiệt lực chỉ mong khôi phục thiên hạ.
Dù chẳng thành công trong công cuộc lớn lao này thì cũng cần bảo vệ Đài Loan một cách vĩnh viễn, gọi là còn một mảnh đất ở hải ngoại của nhà Đại Minh. Ngờ đâu sư phụ gã bị hại chưa lâu, đảo Đài Loan lại mất nốt. Dù Trịnh Khắc Sảng có là kẻ phản nghịch, nhưng sư phụ gã ở dưới âm cung mà biết việc này, tất lão nhân gia phải khóc hết nước mắt.
Bữa trước sư phụ gã bị hại cũng vì nguyên nhân ông đã cùng Thi Lang chiến đấu đến sức cùng lực kiệt, nên mới bị Trịnh Khắc Sảng ám toán, đâm vào sau lưng một cách dễ dàng.
Vi Tiểu Bảo thấy bộ mặt Thi Lang nhơn nhơn đắc ý, trong lòng rất căm tức, gã hỏi:
– Thi đại nhân lập được đại công này, chắc là thăng quan lớn lắm rồi?
Thi Lang mỉm cười đáp:
– Nhờ ơn điển của Hoàng thượng, ty chức được gia phong Tam đẳng Tĩnh Hải hầu.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Cung hỷ! Cung hỷ!Gã nghĩ bụng:
– Ta trước đã là Nhất đẳng Thông Cật bá, nếu thăng một cấp là lên Tam đẳng Thông Cật hầu, nhưng tiểu Hoàng đế lại thăng lên hai cấp là có ý để ta ở ngôi cao hơn tên tiểu tử Thi Lang này. Nếu cả hai người cùng Tam đẳng hầu chẳng hóa ra cá mè một lứa?
Thi Lang thỉnh an rồi cung kính nói:
– Hoàng thượng triệu ty chức vào bệ kiến. Ngài vỗ về bằng lời lẽ ôn nhu, lại khích lệ một hồi sau cùng ngài hỏi:
“Thi Lang! Chuyến này ngươi ra quân lập nên công trạng, có biết ai đã bồi tài cho ngươi không? Trước ngươi ở Bắc Kinh, chẳng ma nào nhìn đến, ai đã tiến cứ ngươi?”.
Ty chức liền tâu:
– Tâu Hoàng thượng! Đó là Vi tước gia đã hết lòng đề bạt bảo tấu lên Thánh thượng, mới được tắm gội Hoàng ân.
Hoàng thượng lại phán:
– Ngươi cũng là kẻ không quên nguồn gốc. Có thế mới phải. Vậy ngươi lập tức ra Thông Cật đảo để tuyên chỉ cho Vi Tiểu Bảo. Trẫm gia quan tấn tước cho gã để khen ngợi gã biết được người hay mà tiến cử đặng lập công danh cho triều đình.
Thi Lang nói tiếp:
– Ty chức nghe phán liền lập tức đăng trình.
Vi Tiểu Bảo thở dài bụng bảo dạ:
– Ta đề bạt người nào cũng lập nên công trạng hết. Còn chính ta thì lại bị giam cầm trên hòn đảo hoang này, không được dời xa nửa bước. Tiểu Hoàng đế không ngớt gia phong quan tước cho ta, mà thực ra ta có được phong đến Thông Cật vương cũng chẳng lấy chi làm hoan hỉ.
Ngoài miệng gã nói:
– Thi đại nhân! Đại nhân ngồi chiến thuyền của Đài Loan tới đây khiến ta giật bắn người lên, tưởng là thủy quân của Đài Loan kéo tới tấn công. Ai ngờ lại là đại nhân đến đây diễu võ dương oai.Thi Lang vội tạ tội rồi giải thích:
– Không dám! Không dám! Ty chức phụng tuân thánh chỉ, trong lòng nóng nẩy muốn được gặp đại nhân. Ty chức cảm thấy chiến thuyền của Đài Loan chế tạo rất hay, và vượt biển lại mau lẹ, nên ngồi thuyền Đài Loan để đi cho chóng đến nơi.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Té ra chiến thuyền của Đài Loan vượt biển mau lẹ. Đầu thuyền còn huy hiệu mặt trăng mặt trời vẽ bằng sơn. Ban đầu ta phỏng đoán Thi đại nhân đã xưng vương ở Đài Loan nên trong lòng không khỏi rất đỗi lo âu.
Thi Lang giật mình kinh hãi vội đáp:
– Ty chức quả là hồ đồ! Lời chỉ điểm của đại nhân phải lắm! Trong lúc hành động vội vàng, ty chức quên cả cạo bỏ huy hiệu trên chiến thuyền của Đài Loan.
Sự thực không phải hắn sơ xuất trong vụ này. Hắn dẹp xong Đài Loan rồi, trong lòng đắc ý vô cùng, Hắn ngồi trên chiến thuyền đã cướp được của Đài Loan rồi đi ngược lên Thiên Tân đoạn lại quay xuống phía Nam ra đảo Thông Cật cố ý để nguyên huy hiệu ở đầu thuyền cho những người ngó thấy phải chỉ trỏ bàn tán về lai lịch chuyến thuyền này, khiến chiến công của hắn thêm phần rực rỡ.
Không ngờ Vi Tiểu Bảo lại nói gã đem lòng ngờ vực Thi Lang muốn tự lập làm Đài Loan vương. Đây là một điều vi phạm rất trọng đại. Thi Lang bất giác sau lưng toát mồ hôi lạnh ngắt. Hắn nghĩ thầm:
– Tiểu Hoàng đế cực kỳ sủng ái gã thiếu niên này! Mình phải huyết chiến cự nhọc mới bình xong Đài Loan, còn gã ngồi nhàn hạ trên hải đảo mà công lao lại lớn hơn mình. Gã được phong Nhị đẳng hầu, mà mình mới là Tam đẳng hầu. Nếu gã triều kiến Hoàng thượng đưa hơi một vài câu là đại họa đổ xuống đầu mình.
Trong lòng hoảng sợ, Thi Lang mất hết vẻ ngạo nghễ, không dám ngông nghênh như lúc vừa tới nơi nữa. Hắn vội truyền lệnh cho bọn thuộc quan nhất nhất phải lên đảo bái kiến Nhị đẳng hầu Vi Tước gia.
Trong bọn thuộc quan này có hai người Vi Tiểu Bảo đã quen biết, vì chúng vẫn tùy tùng Trần Cận Nam và gã đã gặp họ Ở Liễu Châu. Một người là Lâm Hưng Châu, một người là Hồng Triều phó thủ của Lâm Hưng Châu.Vi Tiểu Bảo vừa thấy chúng, trong lòng sửng sốt, tự hỏi:
– Bọn này là tướng lãnh ở Đài Loan, sao nay lại làm thủ hạ của Thi Lang.
Lâm Hưng Châu và Hồng Triều lên bờ nhìn thấy Vi Tiểu Bảo cũng xiết đỗi kinh nghi, bụng bảo dạ:
– Gã là tiểu đồ đệ của Trần quân sư, sao lại làm quan lớn với triều đình Mãn Thanh? Cả Thi đề đốc cũng đối với gã bằng một thái độ cực kỳ kính cẩn?
Vi Tiểu Bảo nghe hai người tự báo chức hàm thì một tên là Thủy sư đô ty, một tên là Thủy sư thủ bị.
Thi Lang liền giới thiệu:
– Lâm đô ty và Hồng thủ bị nguyên là những nhân vật trong quân tướng Đài Loan, nay theo Trịnh Khắc Sảng tước gia và Lưu Quốc Hiên đại nhân quy thuận triều đình. Hai vị này am hiểu mọi việc ngoài hải đảo, nên ty chức đem họ đi theo để họ trông nom công việc về thuyền bè của Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo “ủa” một tiếng rồi nói:
– Té ra là thế!
Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi gầm mặt xuống, ra chiều rất hổ thẹn.
Đảo Đài Loan từ ngày Trịnh Thành Công lập thành vương phủ đã mở cửa thông thương với các nước Nhật Bản, Lữ Tống, Tiêm La, Việt Nam, trở nên rất thịnh vượng, giầu có.
Thi Lang bình Đài Loan lấy được rất nhiều đồ trân bảo, dị vật của nước ngoài đưa về dâng triều đình. Vua Khang Hy sai gã đem một ít ban cho Vi Tiểu Bảo.
Ngoài ra Thi Lang còn có phần lễ vật riêng của hắn đưa kính tặng Vi Tước gia.
Tối hôm ấy, Vi Tiểu Bảo đặt tiệc khoản đãi. Gã mời Thi Lang ngồi vào thủ tịch, ngoài ra còn bốn võ quan cao cấp. Gã lại mời cả Lâm Hưng Châu và Hồng Triều cùng đến bồi tiệc để hai vị này thuật chuyện về tình hình Đài Loan cho gã nghe.
Rượu đã ba tuần, Vi Tiểu Bảo hỏi:- Lâm đô ty! Diên Bình quận vương ở Đài Loan là Trịnh Kinh vương gia sao lại biển đổi tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng vào? Nghe nói hắn là con thứ hai của Trịnh vương gia thì không đến lượt hắn làm Vương gia mới phải chứ?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Dạ! Xin phúc trình Tước gia rõ:
Trịnh vương gia đã qua đời vào ngày 28 tháng giêng năm nay. Ngài di mệnh cho đại công tử Trịnh Khắc Tang lên kế vị. Đại công tử là người anh minh, cương nghị. Hết thảy quân dân ở Đài Loan đều đem lòng kính phục. Nhưng Thái phu nhân Đổng quốc thái không ưa Đại công tử, liền phái Phùng Tích Phạm hành thích giết y, lập nhị công tử là Trịnh Khắc Sảng lên thay.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
– Trần phu nhân, vợ Đại công tử, vô cùng uất ức, vào ra mắt Đông quốc thái chất vấn Đại công tử phạm tội gì mà phải thác oan? Nhưng Đông quốc thái nổi giận đùng đùng sai ngươi đánh đuổi phu nhân ra. Trần phu nhân ôm lấy thi thể Đại công tử khóc lóc thê thảm một hồi rồi cũng treo cổ tự ải. Vụ này khiến cho nhân dân trên đảo Đài Loan từ trên xuống dưới đều ôm mối bất bình.
Vi Tiểu Bảo đập bàn quát mắng:
– Con mẹ nó! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng đã ngu tối hồ đồ, lại lòng dạ tiểu nhân thì làm Vương gia con chó cũng không xong, cai trị nhân dân Đài Loan thế nào được?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Nhị công tử lên kế vị rồi, phong Phùng Tích Phạm làm Trung Thành Bá. Bao nhiều chính sự Ở Đài Loan đều vào tay lão. Nhưng lão xử sự bất công. Việc gì cũng có tư tâm. Ai lớn mật đưa ra mấy lời công đạo liền bị lão giết chết. Vì vậy mà văn võ bách quan trong lòng căm hận nhưng miệng không dám nói ra. Ai cũng thì thầm bảo nhau:
Quốc tích gia phải gian lao cực nhọc, tốn bao nhiêu tâm lực mới gây dựng được sự nghiệp như ngày nay. E rằng cơ đồ này sẽ bị tan vỡ vì bàn tay của ba người là Đổng quốc thái, Nhị công tử và Phùng Tích Phạm…
Hắn dừng lại một chú rồi kể tiếp:- Trong vòng nửa năm, số người trốn đi ngoại quốc và trở về lục địa rất nhiều, Đổng quốc thái trong lòng nóng nẩy, nhưng chẳng có biện pháp nào cứu vãn. Đại công tử và Trần phu nhân thác oan lại thường thường hiển linh hồn báo oán. Đổng quốc thái bị quỷ hồn về nhát, sợ quá mà chết vào khoảng tháng tư.
Vi Tiểu Bảo reo lên:
– Hay quá! Hay quá! Đổng quốc thái xuống âm cung, chắc Quốc tính gia cũng không chịu buông tha mụ.
Lâm Hưng Châu nói tiếp:
– Đúng thế đó. Vụ Đổng quốc thái bị Oan hồn đòi mạng sợ quá phải bỏ mạng đồn đại ra ngoài, toàn thể đảo Đài Loan từ bắc chí nam, ai cũng hả dạ. Nhân dân đốt pháo trong ba ngày liền, ngoài miệng nói là để trừ ma đuổi quỷ mà thực ra là ăn mừng cái chết của mụ bất nhân.
Vi Tiểu Bảo nổi tràng cười ha hả nói:
– Thú thiệt! Thú thiệt!
Thi Lang xen vào:
– Việc ma quỷ hiện hồn chưa chắc đã là chuyện thật. Có điều Đổng quốc thái đã hạ sát cháu đích tôn, lại bức tử cháu dâu, tất trong lòng khắc khoải không yên. Huống chi bà lại tuổi già, có tật giật mình, thần hồn nát thần tính, suốt ngày thâu đêm lúc nào cũng nghĩ đến oan hồn hiện lên báo oán, mà tưởng tưởng ra như vậy.
Vi Tiểu Bảo vẻ mặt nghiêm nghị ngắt lời:
– ác quỷ là chuyện có thật. Nhất là những người bị chết oan sau khi chết thành quỷ rồi, nhất định hiện lên đòi mạng…
Gã nhìn thẳng vào mặt Thi Lang nói tiếp:
– Thi đại nhân! Chuyến này đại nhân đi bình trị Đài Loan giết rất nhiều người.
Theo nhận xét của huynh đệ thì trong những chiến thuyền của Đài Loan kia chẳng thiếu gì ác quỷ ẩn hiện, đại nhân nên cẩn thận là hơn.
Thi Lang hơi biến sắc cười đáp:- Chúng ta là võ tướng ra trận chiến đấu, chẳng tài nào tránh khỏi chuyện giết người. Nếu những tướng sĩ bị chết trận biến thành quỷ rồi hiện lên đòi mạng thì những kẻ làm tướng chẳng một ai được chết yên lành.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:
– Thi đại nhân nói thế là sai. Trường hợp lâm trận chiến đấu, mỗi người một khác chứ không phải ai cũng như ai. Đại nhân nguyên là một viên đại tướng của Quốc tính gia ở Đài Loan, nay lại quay về đánh giết binh tướng ở Đài Loan thì những oan hồn bị giết nhất định bất phục. Trường hợp này không thể kể như những vị tướng quân khác lâm trận giết địch.
Thi Lang lẳng lặng không nói gì, trong lòng rất tức giận. Hắn là người ở Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến. Bộ thuộc của Trịnh Vương ở Đài Loan mười phần có đến tám chín là người Phúc Kiến, nhất là số người phía nam tỉnh này lại càng đông.
Sau khi Thi Lang bình xong Đài Loan từng nghe người ta chửi bóng gió hắn là Hán gian, Mãn gian. Lại có người viết văn làm thơ nhưng dấu tên để thóa mạ hắn.
Trong lòng hắn đã ngấm ngầm xấu hổ, nhưng người ra mặt công nhiên bài xích hắn thì chỉ có Vi Tiểu Bảo là một. Hắn không làm gì được gã liền trút giận lên đầu Lâm Hưng Châu. Hắn trợn mắt nhìn y, tự nhủ:
– Sau khi dời khỏi đảo này, ngươi sẽ biết tay ta.
Vi Tiểu Bảo thở dài nói:
– Thi đại nhân! Đại nhân thật là hên vận! Nếu gia sư chưa bị hại thì lão nhân gia ở Đài Loan bảo vệ Trịnh Khắc Tang. Đổng quốc thái và bọn Trịnh Khắc Sảng chẳng thể cướp ngôi được. Gia sư thống lãnh quân dân cố thủ Đài Loan trên dưới một lòng thì chưa chắc đại nhân đã thành công được.
Thi Lang trầm mặc nghĩ thầm:
– Tài năng của ta thật còn thua Trần Cận Nam xa lắm. Lão mà không chết thì dĩ nhiên cục diện ở Đài Loan khác hẳn hôm nay.
Hồng Triều đột nhiên xen vào:- Vi tước gia dạy rất phải. Binh tướng cùng trăm họ Ở Đài Loan đều nói thế cả. Ai cũng oán hận Trịnh Khắc Sảng sát hại tôi lương đống, khác nào tự hủy bức trường thành. Y quả là đứa cháu bất hiếu của Quốc tính gia.
Thi Lang tức giận hỏi:
– Hồng thủ bị! Ngươi đã đầu hàng nhà Đại Thanh mà còn dám thốt ra những điều đại nghịch vô đạo như vậy ư?
Hồng Triều vội đứng dậy đáp:
– Ty chức biết mình hồ đồ. Xin đại nhân lượng thứ.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hồng đại ca! Đại ca nói chuyện thành thực thì dù đức Hoàng thượng có nghe thấy cũng không làm tội. Đại ca cứ ngồi xuống uống rượu Hồng Triều dạ một tiếng, rón rén ngồi xuống. Y nâng chung rượu lên hai tay run bần bật, rượu rớt ra ngoài đến nửa chung.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
– Gia sư bị tên tiểu rử Trịnh Khắc Sảng gia hại, nhân dân ở Đài Loan đều biết hết cả rồi chứ?
Hồng Triều vẫn run rẩy đáp:
– Da… Trịnh Khắc Sảng sau khi về tới Đài Loan… hắn nói Trần quân sư bi…
bi…
Y đưa mắt nhìn Thi Lang rồi không dám nói tiếp nữa.
Vi Tiểu Bảo giục:
– Đại ca nói nốt đi! Chỉ cần đại ca nói thật là không ai phiền trách cả.
Hồng Triều đáp:
– Dạ dạ! Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm đem mấy tên vệ sĩ xuống ngồi trong mủng nhỏ trôi nổi lềnh bềnh ngoài biển cả, may mới gặp một chiếc thuyền đánh cá cứu được đưa về Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng nói với mọi người là Trần quân sư bị Thi tướng quân giết chết. Trịnh Vương gia nghe được tin này khóc lócthảm thiết mấy ngày trời. Nguyên lão nhân gia mắc bệnh từ trước lại gặp mối thương tâm quá độ. Chẳng bao lâu lão nhân gia về chầu trời.
Y dừng lại một chút rồi tiếp:
– Sau tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng lên ngôi mới nói với mọi người là chính tay hắn đã hạ sát Trần quân sư. Số đông bộ hạ Trần quân sư không phục, vào chất vấn hắn Trần quân sư phạm tội gì mà hắn hạ sát thì những người này đều bị Phùng Tích Phạm phái thủ hạ bắt lấy giết đi.
Vi Tiểu Bảo dằn mạnh chung rượu xuống bàn quát mắng:
– Tổ bà nó.
Đột nhiên gã nổi lên tràng cười ha hả nói:
– Hàng ngày chúng ta thường dùng câu •Tổ bà nó• để thóa mạ, nhưng bà lão này bị thóa mạ thật oan uổng, chỉ có bà Trịnh Khắc Sảng mới đáng thóa mạ thôi.
Thi Lang nghe Vi Tiểu Bảo thóa mạ Đổng quốc thái rất lấy làm thích thú. Sở dĩ hắn đắc tội với Trịnh Thành Công đến nỗi toàn gia phải chết chém cũng đều do Đổng quốc thái mà ra. Hắn liền lên tiếng:
– Vi tước gia nghị luận như vậy là rất đúng. Quốc tính gia anh hùng hào kiệt, hay giỏi về đủ mọi phương diện, chỉ lầm một điểm lấy phải bà vợ đanh ác.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:
– Người ta bất cứ ai thóa mạ mẹ con bà Trịnh Khắc Sảng đều được, nhưng khắp thiên hạ chỉ một mình Thi tướng quân là không nên thế. Những công danh phú quý của Thi tướng quân đều do mụ ác phụ đó mà nên. Tuy phụ mẫu, thê nhi của tướng quân bị giết về tay mụ, nhưng đánh đổi lấy chức Đề đốc, hàm Tam đẳng Tĩnh Hải thì món hàng này được giá lắm.
Thi Lang mặt đỏ bừng lên, trong lòng phẫn nộ, mắng thầm:
– Ta muốn lôi ông tổ mười tám đời nhà ngươi ra mà thóa mạ.
Hắn nâng chung rượu lên uống một hớp để ráng đè lửa giận xuống, nhưng hơi tức trào ngược lên, rượu uống vào tới cổ họng liền nổi con ho kịch liệt.Một tên Thủy quân phó tướng họ Lộ cũng ngồi trên bàn tiệc thấy Thi Lang mặt đầy vẻ phẫn nộ, hắn chỉ sợ giữa Thi Lang và Vi Tiểu Bảo xẩy ra cuộc gây gổ khó lòng vãn hồi được, liền lên tiếng xen vào:
– Vi Tước gia! Chuyến này Thi tướng quân ra bình Đài Loan thật đã dầy công hãn mã. Ngày 4 tháng 6, Thi tướng quân vâng thánh chỉ thống lãnh hơn sáu trăm chiến thuyền, đem theo ngoài sáu vạn binh sĩ. Chiến thuyền vừa ra khơi liền bị gió thổi ngược chiều, phải đi mười ngày mới tới Bành Hồ. Ngày 16, Thi tướng quân khởi cuộc đại chiến với Lưu Quốc Hiên thống lãnh quân đội Đài Loan. Thật là một trận trời sầu, đất thảm, nhật nguyệt lu mờ.
Vi Tiểu Bảo thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều vẫn cúi đầu, vẻ mặt hầm hầm ra chiều tức giận. Gã chắc hai người này cũng tham dự vào trận đánh Bành Hồ và đã bị thất bại với Thi Lang, nên không muốn nghe Lộ phó tướng kể những thành tích đắc ý của y.
Gã liền hỏi:
– Thi tướng quân! Ngày trước Quốc tính gia đánh lấy Đài Loan chắc cũng bắt đầu bằng tấn công Bành Hồ phải không?
Thi Lang đáp:
– Đúng thế!
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
– Khi đó Thi tướng quân là thuộc hạ của Quốc tính gia, chắc cũng biết rõ trận đánh Bành Hồ ngày ấy thế nào?
Thi Lang đáp:
– Bọn quỷ tóc đỏ người Hà Lan không phái binh đến giữ Bành Hồ…
Vi Tiểu Bảo chưa nghe hết chuyện đã quay sang hỏi Lâm Hưng Châu:
– Ngày Quốc tính gia khóa hải chinh Đông, nghe nói Lâm đại ca dẫn đội quân đằng bài chém chân quỷ. Không hiểu cách chém ra sao?
Lâm Hưng Châu bụng bảo dạ:- Vụ quân đằng bài chém chân quỷ, ta đã kể cho gã nghe rồi, bấy giờ gã còn hỏi lại thì dĩ nhiên gã không muốn nghe Thi Lang nói về thiên xú sử bình Đài, mà chỉ muốn ta thuật lại những sự tích anh hùng của Quốc tính gia cùng Trần quân sư.
Vụ này ta không nên nói nhiều về những việc liên quan đến ta vì trong lòng Thi Lang ôm mối bất bình, nhất định hắn sẽ tìm cách hại ta. Vậy ta cứ tâng bốc hắn lên là hơn.
Y tính vậy liền đáp:
– Quốc tính gia triệu tập chư tướng thương nghị có nên khóa hải thi dông hay không? Số đông tướng lãnh đều nói đảo Đài Loan hiểm trở tấn công rất khó khăn, ngoài biển lại sóng to gió cả, thêm vào bọn quỷ tóc đỏ có súng ống cực kỳ lợi hại. Vụ này thật muôn vàn nguy hiểm. Nhưng Trần quân sư và Thi Lang tướng quân cực lực tán thành. Sau quả nhiên lập nên công lớn.
Thi Lang nghe y nói vậy bất giác mặt tươi lên.
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– Năm Vĩnh lịch, thứ 15, tháng 2…
Thi Lang ngắt lời:
– Lâm đô ty! Không nên nhắc đến niên hiệu nhà Tiền Minh. Hồi ấy vào năm Thuận Trị thứ 18 nhà Đại Thanh.
Lâm Hưng Châu đáp:
– Dạ dạ!
Rồi y kể tiếp:
– “Tháng 2 năm ấy, đại bản doanh của Quốc tính gia dời đến đóng ở thành Kim Môn.
Ngày 1 tháng 3 toàn quân lập lời thề sư, tế cáo hải thần.
Ngày mười, Quốc tính gia và Trần quân sư thống lãnh đạo thân binh gồm Hữu võ vệ, Tả hữu hộ vệ, Kiêu Kỵ trấn, Tả tiên phong, Trung xung hậu vệ trấn, Tuyên nghị hậu vệ trấn, Viện tiểu hậu trấn cùng thuyền bè các lộ, tập trung cả ở Liệu La để chờ thời cơ thuận tiện.Ngày ấy lòng quân rất hoang mang, đại đa số sợ việc ra khơi. Quốc tính gia, Trần quân sư và Thi Tướng quân phải chia nhau đến các doanh trấn để cổ võ cùng khích lệ quân tâm.
Mãi đến trưa ngày 23, trời mới tạnh nắng, gió lặng sóng êm. Đại quân liền khai thuyền ra khơi và tới Bành Hồ vào chiều ngày 24.” Lâm Hưng Châu dừng lại một chút rồi kể tiếp:
– “Đại quân vừa tới Bành Hồ, trời lại nổi gió to, sóng biển dữ dội. Mấy ngày liền không khai thuyền được. Trên các hải đảo ở Bành Hồ chẳng có gì làm lương thực. Quan quân đành ăn củ khoai, củ sắn để độ nhật. Lòng quân lại một phen xao xuyến.
Chờ đến ngày 30 và không thể chờ đợi hơn được nữa, Quốc tính gia đành hạ lệnh xuất quân, bất chấp sóng to gió cả cũng lên đường đông chinh. Đêm hôm ấy vào khoảng canh một, Quốc tính gia cho kéo cờ đại soái trên thuyền lớn giữa trung quân, đoạn nổi ba phát phái hiệu rồi chuông trống vàng trời, chiến thuyền dương buồm tiến về phía đông… ”
Hồi 225
Đánh người ngoại quốc
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– Lúc đó bầu trời mây kéo đen nghịt. Sóng biển nhô lên như từng trái đồi đập vào thuyền. Mưa to gió lớn khiến cho mọi người đều ướt sũng.
Quốc tính gia đứng ở đầu thuyền, tay cầm trường kiếm, miệng lớn tiếng hô:
– Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió!
Mấy vạn binh tướng đồng thanh hô theo:
– Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió!
Tiếng hô từ thuyền nọ truyền sang thuyền kia, vang dội một góc trời tưởng chừng muốn lấn át cả tiếng cuồng phong đại lãng.
Vi Tiểu Bảo nhìn Thi Lang hỏi móc:
– Lúc ấy chắc Thi tướng quân cũng hô lớn như vậy, phải không?
Thi Lang đáp:
– Ty chức ở Hạ Môn đã xẩy ra chuyện xích mích với Trịnh Vương nên không đi Đài Loan.
Tế ra là thế! Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!
Phó tướng họ Lộ xen vào:
– Trịnh vương đến Bành Hồ bất quá chỉ gặp sóng to gió cả. Còn Thi tướng quân đến Bành Hồ mới đây phải hứng chịu một trận huyết chiến kinh tâm động phách. Lưu Quốc Hiên thống lãnh thủy quân ở Ngưu Tâm loan, đảo Kê Lung bố trí phòng thủ vùng Bành Hồ. Dọc bờ biển hai mươi dặm đều đắp thành lũy đất. Cứ cách một quãng lại đặt một khẩu súng lớn. Thủy quân của nhà Đại Thanh vừa tới nơi. Trên bờ nhất tề nổ súng ầm ầm, ngoài ra còn hỏa tiễn, phún đồng (ống phun).
Chà chà! Thật là nguy hiểm hết chỗ nói.
Vi Tiểu Bảo cười ngắt lời:
– Lộ phó tướng! Ta xem chừng trái mật của phó tướng cũng không kém trái mật của ta mấy tí.
Lộ phó tướng đáp:
– Không dám! Ty chức khi nào bì kịp tước gia được!
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Phó tướng kém cả ta ư?
Lộ phó tướng đáp:
– Dĩ nhiên ty chức còn kém xa!
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Nếu vậy thì kỳ thiệt! Trái mật của ta nhỏ như mật chuột, tưởng đã là quá rồi.
Không ngờ phó tướng còn vô dụng hơn ta. Ha ha! Lạ thiệt! Quả là lạ thiệt!
Lộ phó tướng đỏ mặt lên không dám nói nữa.
Vi Tiểu Bảo quay sang hỏi Lâm Hưng Châu:
– Quốc tính gia thống lãnh đại quân ra khơi rồi sao nữa?
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– Chiến thuyền ra đi vào lúc sóng to gió cả trong vòng hai trống canh. Đến canh ba đột nhiên gió lặng sóng êm. Mây đen tan hết. Thế gió đổi chiều thành ra thuận lợi. Các quân sĩ hô “Vạn tuế” vang động ngoài khơi. Ai cũng cho là có Hoàng thiên bảo hựu. Chuyến đi nhất định thắng trận.
Sáng sớm mồng một, chiến thuyền đến cửa Mộc Nhĩ, dùng sào đo nước, chỗ này nông quá thuyền không đi được.
Quốc tính gia trong lòng nóng nảy, liền sai bày hương án đảo các Hoàng thiên. Chẳng mấy chốc, đột nhiên nước thủy triều dâng cao. Các chiến thuyền nhất tề kéo vào cửa Lộc Nhĩ.
Trên bờ quân Hồng Mao liền nổ súng lớn oanh kích. Bọn quỷ Hồng mao đã đắp hai tòa thành trì ở đây. Một tòa kêu bằng Nhiệt Lai Già thành, một tòa kêu bằng Phổ La Dân Già thành.Vi Tiểu Bảo cười ngắt lời:
– Những tên thành của bọn quỷ Hồng mao nghe cũng ly kỳ cổ quái. Cái gì mà Nhiệt Lai Già với Lãnh Lai Già? Nam Mô Ba La Mễ Đa Quân Thế Âm Già?
Lâm Hưng Châu mỉm cười kể tiếp:
– “Lúc ấy Quốc tính gia dùng Thiên lý kính quan sát thấy bọn quỷ Hồng mao có hai chiến hạm lớn làm chủ lực, tuần dương hạm hai cái, lại còn thuyền ván và mủng nhỏ mấy trăm con, nhất tề xông ra.
Quốc tính gia liền hạ tướng lệnh sai quan trấn đốc Tuyên Nghị Tiền là Trần Trạch lãnh một đội chiến thuyền đổ bộ lên cửa Lộc Nhĩ đóng ở Bắc Sán để chẹn đường quân tiếp viện của bọn Hồng mao. Ngài lại phái Hoàng Chiêu dẫn đội lính súng năm trăm tên, liên hoàn pháo hai chục cỗ, chia làm ba toán bày trận ở phía sau để phòng thủ địch quân tràn xuống phía nam. Rồi ngài phái ty chức lãnh năm trăm tay quân đằng bài quanh ra phía sau đánh vào cạch sườn mé tả quân địch.
Ngài lại phái Tiêu Cung Trần lãnh hai chục con thuyền lẹ đi tuần tiễu. Hễ thấy hạm đội Hồng mao kéo đến tấn công thì lập tức giả vờ đổ bộ đánh thành để khiêu chế bọn chúng. Quân địch mà hoang mang là mất chí chiến đấu. Các tướng lĩnh mệnh thi hành công tác chia đi các ngả. Trên thuyền liền nổ súng phản kích.
Bên kia, Trần quân sư thống lãnh thủy quân bao vây hai chiến hạm chủ lực của Hồng mao địch rồi đánh thốc vào. Tiếng súng nổ và tiếng hò hét vang dội một vùng. Trên mặt biển ngột ngạt khói đen lửa đỏ.
Cuộc đại chiến kéo dài chừng hơn một giờ, bỗng nghe đánh ầm một tiếng rùng rợn. Một chiến hạm chủ lực của Hồng mao quỷ bị quân ta đánh chìm. Sau mới biết chiến hạm này mang tên Bối Khắc Đức á và là đoàn thủy quân tinh nhuệ của Hồng mao quân. Còn một chiến hạm nữa mang tên Mã Lợi á cũng bị trọng thương phải chạy trốn về phía Đông rồi không biết đi đâu.
Hai chiếc tuần dương hạm của bọn quỷ Hồng mao cũng rút lui.
Lúc ấy toán binh của Trần Trạch đổ bộ rồi gặp bọn lục quân của bọn Hồng mao quỷ. Ai nấy hăng hái xung phong giết hết địch quân không còn mảnh giáp.
Cuộc đại chiến này cả trước sau không đầy hai giờ mà lưỡng lộ thủy lục của Hồng mao quỷ đều bị đánh bại. Quân ta đổ bộ phá tan Phổ La Dân Già thành.”Lời chú của tác giả:
Trịnh Thành Công từ Bành Hồ tấn công Đài Loan đổ bộ lên khu phụ cận của Đài Nam ngày nay. Hồi ấy nước Hà Lan đặt trọng binh đồn trú khắp giải Đài Nam.
Vi Tiểu Bảo rót chung rượu hai tay cầm đưa cho Lâm Hưng Châu nói:
– Lâm đại ca! Trận đánh hay quá! Tiểu đệ kính mừng đại ca một chung này.
Lâm Hưng Châu đứng dậy đón lấy chung rượu uống một hơi cạn sạch rồi kể tiếp:
– “Quân Hồng Triều đổ bộ vùng Xích Khảm liền được người Trung Quốc nô nức chạy ra hoan nghênh. Số đông mừng rỡ đến chảy nước mắt khóc ròng. Họ lớn tiếng hô:
– Cứu tinh của bọn ta đã đến!
Lão thái gia của Quốc tính gia là Trịnh Chi Long thái sư nguyên trước làm nghề “buôn không vốn” trên mặt biển. Đài Loan là căn cứ địa của lão nhân gia.
Sau lão nhân gia dẫn anh em thủ hạ về Trung Nguyên. đảo Đài Loan liền bị bọn quỷ Hà Lan và quỷ Tây Ban Nha chiếm cứ.
Hà Lan quỷ ở miền Nam. Tây Ban Nha quỷ ở mặt bắc. Hai bọn quỷ xẩy ra cuộc tranh chấp. Bọn quỷ Tây Ban Nha bị thất bại. Toàn đảo Đài Loan liền bị quỷ Hà Lan chiếm hết.
Thời bấy giờ người Trung Quốc chúng ta ở trên đảo rất đông bị bọn quỷ Hồng mao Hà Lan tàn sát cực kỳ thê thảm.
Một vị huynh đệ bộ hạ cũ của Trịnh thái sư tên gọi Quách Hoài Nhật là một tay đại anh hùng, đại hảo hán ở lại trên đảo chứ không bỏ đi.
Quách Hoài Nhật thấy người Trung Quốc chúng ta bị quân quỷ Hồng mao khinh khi quá độ liền ngấn ngầm tập họp anh em thông tri cho nhân tài các nơi ở Trung Quốc, ước định nhất tề khởi sự vào ngày trung thu rằm tháng tám nổi lên giết hết bọn quỷ Hồng mao trên toàn đảo.
Ngờ đâu một Hán gian tên gọi Phổ Tử đi mật báo với thái thú Hồng mao… ” Vi Tiểu Bảo nghe nói tới đây tức giận không nhịn được, đạp bàn quát mắng:- Tổ bà nó! Công việc của người Trung Quốc lại bị bọn Hán gian phá hoại rồi!
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– “Đúng thế! Khi đó Quách Hoài Nhật đại ca thấy Phổ Tử trốn đi biết là cơ sự nguy rồi, lập tức thống lãnh hơn một vạn sáu ngàn người đánh Phổ La Dân Già thành, phóng hỏa đốt cháy hết những dinh thự của bọn quan lại Hồng mao quỷ.
Nhưng kế đó bọn Hồng mao quỷ điều động đại quân mở cuộc phản công. Súng ống của bọn chúng cực kỳ lợi hại. Còn người Trung Quốc chúng ta thì ngoài mấy cây hỏa long thương, toàn dùng đại đao, thiết thương, thuổng cuốc, côn gỗ làm võ khí.
Cuộc chiến đấu ở Xích Khảm kéo dài mười lăm ngày. Quách Hoài Nhật đại ca không may bị đại pháo của Hồng mao quỷ bắn chết.” Vi Tiểu Bảo lại la lên:
– Trời ơi! Thế là hỏng bét!
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– “Đúng thế! Quách đại ca chết đi, bọn người Trung Quốc chúng ta lâm vào tình trạng quân vô tướng, hổ vô đầu, thua to phải bỏ thành mà chạy ra ngoài.
Đến bên hồ lớn lại huyết chiến bảy ngày bảy đêm. Người Trung Quốc bị đánh chết hơn bốn ngàn.
Đàn bà và trẻ con thà chết không chịu khuất phục bị chúng giết chết năm trăm người.
Những người bị bọn Hồng mao quỷ bắt thì đàn bà con gái phải làm doanh kỹ, đàn ông chẳng bị ngũ mã phanh thây cũng bị lấy sắt nung vào dí vào cho đến chết.” Vi Tiểu Bảo phẫn nộ vô cùng la lên:
– Bọn quỷ Hồng mao này dã man tàn nhẫn như vậy thì so với hồi quân Thanh tàn sát Dương Châu còn độc ác hơn nhiều!
Thi Lang và Lộ phó tướng ngơ ngác nhìn nhau, đành gượng cười cho xuôi chuyện. Chúng nghĩ thầm:- Gã thiếu niên này ăn nói lỗ mãng, chẳng biết trọng khinh.
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– Đó là những việc xẩy ra vào hồi tháng tám năm Vĩnh Lịch thứ sáu…
Hồng Triều ngắt lời:
– Năm Vĩnh Lịch thứ sáu tức là niên hiệu Thuận Trị nhà Đại Thanh năm thứ 7.
8… 9. Đúng rồi, vào năm Thuận Trị cửu niên.
Lâm Hưng Châu nói:
– “Phải đó. Sau cuộc thảm sát kinh người này nhân dân Trung Quốc ở Đài Loan coi bọn quỷ Hồng mao là những kẻ thù truyền đời.
Vì bọn Hồng mao quỷ tàn sát người Trung Quốc, nên người Trung Quốc vừa thấy đại quân của Quốc tính gia tới nơi liền coi ngài là đức Bồ Tát đến cứu mạng.
Nam phụ lão ấu trên đảo tới tấp chạy đến kể lể nỗi thống khổ với bọn tại hạ.
Tối hôm đó, thái thú của Hồng mao quỷ là Quĩ Nhất, sau cuộc thất bại liểng xiềng, phẫn nộ hết thảy người Trung Quốc. Chúng bắt người mình bất luận già trẻ gái trai đều giết chết. Số người bị giết lên tới năm trăm.
Hôm sau, Quốc tính gia phái binh đến đánh Phổ La Dân Già thành. Trần quân sư sắp đặt kế hoạch, tập luyện cho quân đằng bài lăn mình dưới đất chém vào chân bọn quỷ tóc đỏ rồi kéo vào thành hạ được.” Vi Tiểu Bảo nói:
– Vụ này công lao của lão huynh thật lớn!
Lâm Hưng Châu đáp:
– Đây toàn trông vào diệu kế của Trần quân sư, còn ty chức chẳng có công lao gì dáng kể.
Lâm Hưng Châu lại nói tiếp:
– “Tiếp theo Quốc tính gia xua quân đánh Nhiệt Lai Già thành là đại bản doanh của thái thú Quỉ Nhất. Trên thành súng lớn súng trường phát xạ cực kỳ lợi hại. Quân ta bị thương vong rất nhiều. Mã Tín tướng quân và Lưu Quốc Hiên tướng quân hết sức đánh vào Nhất Côn Thân.Quốc tính gia thấy anh em chết trận quá nhiều, liền cho quân khởi cuộc đắp tường đất bao vây chung quanh Nhiệt Lai Già thành. Trên tường đặt súng lớn bắn vào trong thành.
Chẳng bao lâu đệ nhị lộ thủy quân bên ta nào Tả xung, Tiền xung, nào Trí võ, Anh binh, Du binh, Điện Binh, các trấn cưỡi thuyền đến Đài Loan, thanh thế cực kỳ hùng dũng.
Quốc tính gia một mặt cho quân khẩn điền cấy lúa, một mặt bay vây thành trì.
Sau năm tháng bao vây, đột nhiên viện binh của Hồng mao quỷ từ Ba Đạt Duy á kéo đến. Bọn Hồng mao quỷ trong thành đánh ra, ngoài đánh vào, mở cuộc đại chiến cả hai đường thủy lục. Quân ta hăng hái giết giặc. Nước biển cũng nhuộm máu đỏ hồng.” Vi Tiểu Bảo vỗ bàn nức nở ca ngợi:
– Thật là lợi hại! Thật là lợi hại!
Gã lại nhìn Thi Lang nói:
– Đáng tiếc là Thi tướng quân có chuyện xích mích với Quốc tính gia quá sớm, không thì cũng được dự vào những trận đại chiến này mà giết con mẹ nó mấy trăm tên Hồng mao quỷ cho đáng mặt anh hùng hảo hán.
Thi Lang lẳng lặng không nói gì.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi Hồng Triều:
– Hồng đại ca! Khi đó đại ca đánh ở mặt trận nảo?
Hồng Triều đáp:
– Ty chức lúc ấy ở dưới trướng Lưu Quốc Hiên tướng quân, cùng Trần Trạch tướng quân thống lãnh thủy binh vây đánh quân tiếp viện Hồng mao. Cuộc đại chiến diễn ra trên một giải Bắc Sán vĩ. Chiến hạm của Hồng mao quỷ rất lớn, mà súng cực kỳ lợi hại! Hỏa lực của bên chúng ta bắn vào chiến hạm đều bị vỏ tàu bằng gang thép hất ra, không sao làm tổn thương được.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:- Sau Lâm Tiến Thân tướng quân ở Tuyên Nghị tiền trấn thấy mình không chống nổi liền đốc suất hai trăm quân cảm tử, mình đeo hỏa dược liều chết nhẩy lên chiến hạm của Hồng mao quỷ, đốt chất nổ phá hoại những súng lớn trên chiến hạm. Bọn quỷ Hồng mao thấy quân ta dũng cảm không sợ chết, tấn công một cách táo tợn như vậy, chúng liền rối loạn cả lên. Kết quả đưa đến bên ta giết chết được một tên hạm trưởng Hồng mao quỷ, tịch thu hai chiến hạm chủ lực. Thế là thủy quân Hồng mao quỷ bị tan vỡ, không thành đội ngũ gì nữa.
Hồng Triều hít một hơi chân khí, nói tiếp:
– Trên bộ Trần quân sư dẫn binh mở cuộc đại chiến cũng được toàn thắng.
Sau trên mình quân sư bị trúng bảy viên đạn chì của bọn Hồng mao, phải mổ lấy ra.
Vi Tiểu Bảo thở dài nói:
– Hừ! Gia sư lâm trận dũng cảm như vậy không bị chết vì súng đạn của Hồng mao quỷ, mà lại uổng mạng dưới lưỡi kiếm của con bà nó tên tiểu tử Trịnh Khắc sảng mới thật đáng giận.
Gã quay lại hỏi Thi Lang:
– Thi tướng quân! Đã là nam tử hán, là đại trượng phu, cần đánh giết bọn quỷ ngoại quốc để giữ vững giang sơn mới đáng mặt anh hùng. Còn mình lại giết người mình thì dù giết đến bao nhiêu cũng chẳng đáng kể là hảo hán. Có đúng thế không?
Thi Lang hằng dặng một tiếng không trả lời.
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– Bọn Hồng mao quỷ rất nhiều quỷ kế. Chúng thấy bị thất bại mấy trận liền, toan đốt lương thực của chúng ta, nhưng lần nào cũng bị Trần quân sư khám phá ra. Rốt cục định cắp gà chẳng được mà nắm gạo cũng không. Hồng mao thú là Quĩ Nhất cố thủ cô thành đành chịu bó tay, sau hắn lại phái người vượt biển đến liên lạc với tổng đốc của nhà Đại Thanh ở Mãn Triết là Lý Suất Thái, xin y phái binh cứu viện. Lý đại nhân xử sự rất hứng thú, phúc thơ cho Hồng mao quỷ hãy phái binh đến Phúc Kiến để bình định giải Kim Môn, Hạ Môn của Quốc tính gia, rồi quân Đại Thanh sẽ kéo tới Đài Loan nội ngoại giáp công. Khi đó Hồng mao quỷbảo vệ mình còn chưa xong, chẳng khác con rùa rụt đầu rụt cổ ẩn trong thành Nhiệt Lai Già, còn nói chi đến chuyện phái binh đi đánh Kim Môn, Hạ Môn.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Nhà Đại Thanh ta đã hứa lời chắc cũng phải giữ. Sau có phái binh đi không?
Dù chậm lại vài ba chục năm, cái đó cũng không hề gì? Hồi Thi tướng quân dẫn binh đến đánh Đài Loan có bọn Hồng mao quỷ trong đánh ra ngoài đánh vào không?
Thi Lang nghe tới đây không nhẫn nại được nữa, đứng phắt dậy hỏi:
– Vi Tước gia! Huynh đệ cùng tước gia là nhất điện chi thần đều làm quan với nhà Đại Thanh Tại sao tước gia lại lạnh nhạt với huynh đê, nói toàn những câu mạt sát?
Vi Tiểu Bảo lấy làm kỳ hỏi lại:
– Ô hay! Thế này thì lạ thiệt! Tiểu đệ có dám mạt sát Thi tướng quân hồi nào đâu? Thi tướng quân không cấu kết với nước ngoài là hay lắm rồi. Giả tỷ có cấu kết với ngoại quốc, tiểu đệ nhận thấy hãy còn kịp thời. Thi tướng quân tay giữ trọng binh, chắc bọn Hồng mao quỷ, Tây Ban Nha quỷ. Bồ Đào Nha quỷ, La Sát quỷ đều thích kết giao với Thi tướng quân.
Thi Lang trong lòng run lên, bụng bảo dạ:
– Nguy rồi! Tên tiểu quỷ này mà đưa cáo trạng về Hoàng thượng vu hãm tâu về tội giao thông với ngoại quốc thì đời ta tất bị hủy diệt về tay gã.
Hắn hiểu sâu xa Vi Tiểu Bảo được Vua Khang Hy rất sủng ái. Bất giác hắn rất lấy làm hối hận vừa rồi để lửa giận bốc lên, thốt ra mấy lời vô lễ. Hắn vội tươi cười nói:
– Bửa nay tiểu đệ quá chén thành có chuyện xung chàng, xin Vi tước gia tha tội cho.
Vi Tiểu Bảo thấy vừa rồi hắn nổi giật cũng hơi khiếp sợ, bây giờ nét mặt gã dịu lại nhỏ lời xin lỗi, liền biết là gã sợ mình. Gã cười đáp:
– Nếu Thi tướng quân thực tình muốn tự lập làm Vua ở Đài Loan thì cứ việc giết tiểu đệ đi để bịt miệng, chẳng còn đâu mà bí mật cáo tố với Hoàng thượng.Bằng tướng quân chỉ lớn tiếng om sòm hay nổi giận lôi đình thì tiểu đệ dù nhỏ mật cũng không sợ đâu?
Thi Lang sắc mặt lợi lạt, đứng dậy xá dài nói:
– Vi tước gia! Người ta thường nói:
“Bậc đại nhân không chấp nhặt kẻ tiểu nhân”. Ty chức ăn nói hoang đường, cam bề lãnh phạt. Còn chuyện tự lập làm Vua hay thông giao ngoại quốc gì gì thì ty chức nhất quyết không hề nghĩ tới. Ty chức chỉ một lòng một dạ vì đức Hoàng thượng ra sức. Thủy chung chữ Trung vẫn đội trên đầu, chẳng bao giờ lòng một dạ hai.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Mời tướng quân ngồi xuống, ngồi xuống! Chúng ta cứ nói chuyện tự nhiên.
Đoạn gã quay sang hỏi Lâm Hưng Châu:
– Lâm đại ca nói chuyện nghe thú hơn cả thầy đồ giảng sách. Còn vụ Quốc tính gia luyện binh ở Đài Loan khiến bọn Hồng mao quỷ són vãi phân về sau ra làm sao?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Hồi ấy Quốc tính gia thống lãnh đại quân đánh tới đảo Đài Loan, chẳng bao lâu tin tức lan truyền vào nội địa. Huỳnh Ngô đại nhân liền hiến kế với triều đình, đưa ra mưu lực kêu bằng “Kiên bích thanh đã bình hải ngũ sách”.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Quỳnh Ngô là ai vậy?
Lâm Hưng Châu liếc mắt nhìn Thi Lang hắng dặng luôn mấy tiếng, nhưng chưa trả lời ngay.
Thi Lang đáp:
– Huỳnh đại nhân nguyên trước là bộ hạ dưới trướng Quốc tính gia làm chức tổng binh. Sau đại nhân quy thuận triều đình, bước hoạn đồ rất hanh thông. Khi đại nhân qua đời đã được phong đến Nhất đẳng Hải Trừng công.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ồ! tế ra cũng là một tên đại Hán… Còn chữ “gian” gã kịp nuốt vào không thốt ra nữa.
Thi Lang đỏ mặt lên mắng thầm:
– Mi thóa mạ ta là Hán gian thì xem chừng cái vỏ người Mãn Châu của mi chỉ là giả mạo. Té ra gã cũng là người Hán như mình.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Huỳnh Ngô luồn đít đưa ra diệu sách gì mà được phong đến tước công?
Chúng ta nên nghiên cứu lại kế hoạch của hắn xem sao.
Lâm Hưng Châu đáp:
– Nguyên Quốc tính gia phái Huỳnh Ngô canh giữ Hải Trừng. Không ngờ lão đem Hải Trừng dâng triều đình để đầu hàng. Những tướng sĩ không chịu theo lão qui thuận đều bị giết hết. Hồi đó triều đình đang chẳng có cách gì bắt được Quốc tính gia, mà đột nhiên bên đối phương có một vị đại tướng kéo quân về đầu hàng, lại dâng luôn cả thành thị, dĩ nhiên triều đình rất lấy làm hoan hỉ, liền phong thưởng đặc biệt cho Huỳnh Ngô.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Té ra là thế. Hắn dâng kế hoạch đó cho triều đình với dụng ý gì?
Lâm Hưng Châu thở dài đáp:
– Lão đưa ra “Bình hải ngũ sách” làm cho bách tính muôn phần điêu đứng!
Bình hải ngũ sách gồm năm điều:
– Điều thứ nhất:
Những nhân dân ở miền duyên hải phải thiên cư vào nội địa.
Thế là những đảo Kim Môn, Hạ Môn và Đài Loan không còn nhận được đồ tiếp tế nữa.
– Điều thứ hai:
Bao nhiêu thuyền bè ven biển nhất thiết đều phóng hỏa đốt cho kỳ hết. Từ đó không một tấm ván nào được hạ xuống biển.
– Điều thứ ba:
Hạ sát phụ thân của Quốc tính gia là Trịnh thái sư.
– Điều thứ tư:
Khai quật mồ mả tổ tiên của Quốc tính gia để phá hoại về mặt phong thủy.- Điều thứ năm:
Những quan binh bộ thuộc hạ cũ của Quốc tính gia đầu hàng triều đình đều đưa đi khẩn hoang tại các tỉnh trong vùng nội địa để tuyệt mối lo về sau.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Chà chà! Kế hoạch của hắn thật là thâm độc!
Lâm Hưng Châu đáp:
– Dĩ nhiên là thế. Khi ấy Thuận Trị Hoàng gia vừa mới băng hà. Hoàng thượng lên kế vị còn nhỏ tuổi quá, bao nhiêu quyền binh vào hết trong tay Ngao Bái nắm giữ…
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
– Tên gian tặc Ngao Bái nhận thấy “Bình hải ngũ sách” của Huỳnh Ngô rất hữu lý, liền hạ lệnh dọc miền duyên hải kể từ Liêu Đông qua Trực Lệ, Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến cho đến Quảng Đông không ai được cư trú trong phạm vi ba mươi dặm biển. Bao nhiêu thuyền bè phải siêu hủy cho hết.
Hàng triệu bách tính ở miền duyên hải thời bấy giờ phải lưu ly thất tán, mất cả nơi ăn chỗ làm, khó lòng sống nổi.
Thi Lang lắc đầu nói:
– Kế hoạch của Huỳnh Ngô thực là quá tệ! Mãi đến ngày đức Hoàng thượng tự mình chấp chính, Vi đại nhân giết chết Ngao Bái, lệnh cấm ở ven biển mới được thủ tiêu, nhưng trăm họ bảy tỉnh duyên hải không biết đã phải hứng chịu bao nhiêu là gian lao khổ sở. Thời kỳ triều đình ra nghiêm lệnh hễ bách tính phạm vào liền bị bắt chém đầu lập tức. Rất nhiều dân nghèo không kế sinh nhai phải ra bờ biển bắt cá rồi bị quan binh sát hại khá nhiều. Trịnh thái sư cũng bị giết vào hồi đó. Ngao Bái đặc phái Binh bộ thượng thơ là Tô Nạp Hải đến những huyện Toàn Châu, An Nam, tỉnh Phúc Kiến khai quật mổ mả nhà họ Trịnh.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ngao Bái tự xưng là dũng sĩ mà hành động thế này thì thật là vô vị. Hắn có bản lãnh sao không dùng đao thương đến đánh nhau thực sự với Quốc tính gia để phân thắng bại? Hắn bắt trăm họ miền duyên hải phải thiên cư vào nội địa tức là tỏ ra sợ người rồi còn gì?Gã thở dài nói tiếp:
– Đức Hoàng thượng rất thương yêu trăm họ. Kế hoạch này của Huỳnh Ngô mà trình lên đến tai ngài, tất hắn phải rơi đầu.
Thi Lang đành nói hùa theo:
– Đúng thế! Vi tước gia dậy rất phải. Huỳnh Ngô chết sớm thật là phước cho hắn.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi Lâm Hưng Châu:
– Rồi sau sao nữa?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Tin này truyền ra tới Đài Loan, Quốc tính gia sợ lòng quân nao núng liền tuyên bố đây chỉ là lời phao đồn vô căn cứ, không nên nhẹ dạ cho là sự thực.
Nhưng chính lão nhân gia biết rõ là tin đích xác không phải giả dối.
Hắn thở dài nói:
– Theo lời thân binh kể lại thì thường thường vào lúc nửa đêm, Quốc tính gia vẫn khóc thầm…
Lâm Hưng Châu dừng lại một chút rồi tiếp:
– Quốc tính gia còn nói với Trần quân sư và mấy vị đại tướng là kế hoạch của Huỳnh Ngô cực kỳ tàn độc. Giả tỷ không kéo đến đánh Đài Loan thì mười mấy vạn đại quân ở lại Kim Môn, Hạ Môn, không còn đất đứng. Hồi đó quân ta vây thành đã lâu, quân Hồng mao mấy phen muốn phá vòng vây đều bị đánh bật trở về. Thế rồi Quốc tính gia hạ tướng lệnh tấn công Nhiệt Lai Gia Thành trước tết.
Hồi 226
Muốn đến Đài Loan hạ thuyết từ
Lâm Hưng Châu kể tiếp:
– “Ngày 22 tháng 11, quân ta trèo lên mặt tường nhất tề bắn súng lớn vào làm sạt một góc thành. Chòi gác mặt đông và mặt tây cũng bị phá vỡ. Bọn Hồng mao quỷ liều chết xông ra. Mấy trăm tên bỏ mạng tại chiến trường rồi phải lui vào.
Hồng mao thái thú là Quĩ Nhất liền kéo cờ trắng đầu hàng.
Khi đó nhân dân Trung Quốc ở Đài Loan đều muốn báo thù định giết cho kỳ hết giống Hồng mao quỷ, nhưng Quốc tính gia huấn dụ trăm họ:
– Trung Quốc chúng ta là một nước trọng điều nghĩa lễ, không nên tàn sát kẻ địch đã đầu hàng.
Lão nhân gia liền thuận cho Hồng mao thái thú ký hàng thư mười bốn khoản rồi dẫn tàn binh bại tướng xuống thuyền dời khỏi Đài Loan, trốn về Ba Đạt Duy á.
Bọn quỷ Hồng mao chiếm cứ Đài Loan 38 năm từ năm Thiên Khải thứ tư triều nhà Minh đến Năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm, tức là năm thứ mười tám niên hiệu Thuận Trị nhà Đại Thanh, Đài Loan trở về bản đồ Trung Quốc nhằm ngày 29 tháng 11.” Hồng Triều nói:
– Quốc tính gia hạ lệnh không cho giết những quân Hồng mao đã đầu hàng, nhưng trăm họ Trung Quốc phẫn uất quá chừng, hoặc nhổ bọt, hoặc ném đá vào mặt quân Hồng mao. Bọn trẻ nhỏ lại ca hát những bài chế giễu bại binh. Bọn Hồng mao kẻ thì gãy tay, người thì cụt chân, ôm đầu lủi thủi ra đi, cả tiếng quỷ thoại cũng không dám nói. Khi bọn chúng khai thuyền kéo cờ lên lại hạ xuống, rồi đốt pháo làm lễ tạ Ơn Quốc tính gia tha cho không giết.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Người Trung Quốc chúng ta quả là oai phong bát điện, hào khí tứ phương. Bọn Hồng mao quỷ súng ống lợi hại như vậy mà quân ta hạ được Đài Loan thật không phải chuyện dễ dàng.
Lâm Hưng Châu nói:
– Quốc tính gia đổi tên Nhiệt Lai Già thành làm Bình An Trấn, Phổ La Dân Già thành làm Thừa Thiên phủ. Từ đó lão nhân gia vĩnh viễn trọng trấn đảo Đài Loan.
Lộ phó tướng từ nẫy giờ lẳng lặng ngồi nghe, bây giờ mới lên tiếng xen vào:
– Thi tướng quân đến lấy Đài Loan cũng theo đường cũ của Quốc tính gia tức là tiến vào cửa Lộc Nhĩ…
Gã chưa dứt lời, Vi Tiểu Bảo đã xua tay cản lại rồi ngáp dài nói:
– Nghe chuyện nửa ngày trời mệt quá rồi! Câu chuyện người Trung Quốc đánh quỷ tóc đỏ cúp đuôi chạy trốn thì còn lọt tai, chứ chuyện người mình đánh với người mình thì trở đi trở lại cũng chỉ có bấy nhiêu.
Rồi gã nhìn Thi Lang nói:
– Thi tướng quân! Chúng ta uống rượu như vậy tưởng cũng đủ rồi. Bây giờ tan tiệc quách!
Thi Lang đứng dậy đáp:
– Dạ! Đa tạ tước gia ban cho yến tiệc. Ty chức xin cáo từ.
Rồi hắn hành lễ cất bước đi ra.
Vi Tiểu Bảo vào nội đường kể lại đã ngăn cản Thi Lang bằng cách nào, không để hắn mở miệng khoa trương chiến công đánh lấy Đài Loan.
Mấy vị phu nhân nghe gã kể đều bật cười. Chỉ mình A Kha lẳng lặng không nói gì. Nàng nghĩ bụng:
– Ngày trước nếu ta lấy Trịnh Khắc Sảng tất cũng bị bắt theo về Bắc Kinh.
Người phụ nữ vong quốc khó lòng tránh khỏi bị họ làm nhục.
Hôm nàng xuống con mủng nhỏ dời khỏi đảo Thông Cật, đã chẳng quan tâm đến cuộc sinh tử tồn vong của mình. Bây giờ nàng nghe Trịnh Khắc Sảng mất nước đầu hàng địch nhân lại càng không để ý.A Kha nghĩ tới ngày trước vì thấy Trịnh Khắc Sảng phong tư diêm dúa mà đem lòng say mê. Nàng cũng biết rõ hắn là người chẳng có khí phách gì, không ra tuồng con nhà hào kiệt, mà nàng cứ mê muội như kẻ đui mù. Bây giờ nàng hồi tưởng lại mà vẫn còn hổ thẹn.
Công chúa nói:
– Hoàng đế ca ca đối đãi với người ngoài nhân hậu quá chừng! Tên Trịnh Khắc Sảng đã phải đầu hàng mà còn được phong Nhất đẳng công tước, tức là cao hơn Vi Tiểu Bảo. Vụ này thật khiến cho người ta phải tức mình.
Vi Tiểu Bảo xua tay đáp:
– Không cần đâu! Không cần đâu! Quốc tính gia là một đại anh hùng, đại hảo hán. Hoàng thượng vì nể mặt Quốc tính gia mà phong cho con cháu lão nhân gia quan hàm Nhất đẳng công tước. Còn nói về tên Trịnh Khắc Sảng thì chỉ đáng phong cho cái Nhất đẳng mao trùng mà thôi.
Hôm sau, Vi Tiểu Bảo chỉ mời Lâm Hưng Châu và Hồng Triều, hai người đến dự một bữa yến tiệc để nói chuyện Thi Lang lấy Đài Loan thế nào?
Lâm Hưng Châu và Hồng Triều liền cho gã hay:
Quân Thanh và quân Đài Loan huyết chiến mấy ngày ở Ngưu Tâm loan, Kê Lung tự tại vũng Bành Hồ.
Ban đầu Thi Lang thua trận, sau thủy quân của Thanh triều đến tiếp viện lại mở cuộc đại chiến. Thuyền bè Đài Loan bị đốt cháy rất nhiều nên phải bại trận.
Tướng sĩ chết mất hơn vạn người. Chiến thuyền vừa bị đắm vừa bị đốt cháy hơn ba trăm chiếc.
Lưu Quốc Hiên dẫn tàn binh lui về Đài Loan.
Thi Lang kéo quân đến đánh. Cửa Lộc Nhĩ nông quá chiến thuyền không vào được phải neo lại ngoài biển mười hai ngày.
Đang lúc vô kế khả thi thì đột nhiên mây kéo đầy trời, nước thủy triều dâng lên rất lớn. Chiến thuyền quân Thanh liền kéo ùa vào.
Những tướng sĩ trên đảo Đài Loan từ trên xuống dưới xiết nỗi kinh hoàng. Ai cũng nói:- Ngày trước Tiên Vương quân phải nhờ nước triều dâng mới vào được cửa Lộc Nhĩ để lấy Đài Loan. Bây giờ nước triều lại dâng lên, hiểm trở thiên nhiên không còn nữa. ý trời đã muốn vậy, dù có chiến đấu cũng bằng vô dụng.
Trịnh Khắc Sảng vừa hay tin thuyền bè chở quân Thanh lại vào cửa Lộc Nhĩ đã sợ hãi chẳng còn hồn vía nào nữa, chân tay luống cuống.
Phùng Tích Phạm khuyên hắn đầu hàng, dĩ nhiên hắn chịu liền. Có điều hắn sợ Thi Lang ngày trước bị tru lục toàn gia muốn báo tư cừu, tất làm khó dễ với con cháu nhà họ Trịnh.
Lưu Quốc Hiên liền viết thư đến Thi Lang nói cho hay Đài Loan ưng chịu đầu hàng nhưng với điều kiện phải bảo toàn sinh mạng cho con cháu Trịnh Thành Công. Nếu không thì hết thẩy quân dân ở Đài Loan thầm cảm ơn nghĩa của Quốc tính gia đành là chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Thi Lang lập tức phúc đáp không nghĩ tới thù oán ngày trước và thề rằng nếu không giữ lời hứa sẽ bị trời tru đất diệt, tuyệt tử tuyệt tôn.
Thế là Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm, Lưu Quốc Hiên dẫn toàn thể văn võ bá quan ở Đài Loan ra đầu hàng.
Tôn thất nhà Minh quy thuận Thanh triều chỉ có nhà Giám quốc Lỗ Vương thê tử chín người.
Ninh Tỉnh Vương Thuật Quế tự sát, thiếp là Viên thị, Vương thị, Tú Cô, Mai Cô, Hà Thư năm người cũng tuẫn tiết. Trăm họ hay tin này đều tới tấp chạy đến vừa khóc vừa phục xuống đất.
Minh Kỷ đến đây là hết.
Vi Tiểu Bảo nghe đoạn này, tự hỏi:
– Hoàng đế Minh triều đến hồi mạt vận có con cháu tự sát để tuẫn quốc, lại năm bà vợ cũng tuẫn tiết. Nếu Vi Tiểu Bảo bày tự sát thì không hiểu trong bảy cô vợ được mấy cô chết theo? Song Nhi nhất định bầu bạn với ta rồi. Công chúa chắc không chịu đi theo. Còn năm cô, đại khái họ sẽ gieo xúc xắc để quyết định ai sống ai chết.
Lâm Hưng Châu lại nói:- Thi Lang kéo quân đổ bộ lên Đài Loan rồi vẫn thủ tín, không làm khó dễ gì đến con cháu nhà họ Trịnh. Y còn thân hành đến trước miếu Diên Bình Vương Trịnh Thành Công làm lễ tế diện. Y khóc lóc một hồi bằng một giọng rất bi thiết.
Hồng Triều nói theo:
– Bài văn tế của Thi Lang có mấy câu:
– “Từ khi Đồng An hầu đến Đài Loan, trên đảo mới có dân cư”.
“Đến ngày Minh triều ban cho Quốc tính gia mở rộng đất đai mới thành biên cương. Công lao này chẳng phải của Quốc tính gia thì còn ai nữa?
Nay Thi Lang nhờ uy linh của thiên tử, lực lượng của tướng soái lấy được đất này. Sở dĩ Thi Lang không nghĩ tới chuyện diệt quốc là để tận trung với triều đình và hết chức phận với bậc đàn anh. Từ ngày Lang vào quân ngũ đã cùng Quốc tính gia có mối duyên ngư thủy. Trung gian vì sự hiềm khích nhỏ mọn mà gây nên cừu hận trọng đại.
Giữa Lang và Quốc tính gia tuy thành thù nghịch, tình còn tôi chúa, quyết chẳng noi gương “kẻ cùng kỹ trong bụi lau”. Hai bề công nghĩa, ơn tư, đến vậy mà thôi”.
Lâm Hưng Châu nói tiếp:
– Mấy câu này được truyền tụng trong một thời.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Hắn nói lý la lý lố cái gì, tiểu đệ chẳng hiểu chi hết.
Hồng Triều đáp:
– Kẻ cùng sĩ ở trong bụi lau là nói về Ngũ Tử Tư. Ngày trước Ngũ Tử Tư bị Sở Bình Vương giết cha anh, trốn sang nước Ngô mượn quân về diệt sở. Khi đó Sở Bình Vương chết rồi. Ngữ Tử Tư còn quật mồ lên để đánh vào xác ba trăm roi để rửa hận cho phụ huynh. Thi Lang nói quyết không hành động theo Ngũ Tử Tư.
Vi Tiểu Bảo cười lạt hỏi:
– Chà! Liệu hắn có dám làm không, hay là hắn nói láo? Quốc tính gia tuy đã qua đời, nhưng hắn vẫn sợ muốn chết. Hắn phá bại cơ nghiệp nhà Trịnh mà vẫn loanh linh Quốc tính gia tìm đến hắn để quấy rầy, nên hắn phải đến Quốc tính gia dập đầu năn nỉ. Thằng cha này xảo quyệt vô cùng! Các vị đừng mắc bẫy hắn.
Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều khen phải.
Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Thiên cố sự về Ngũ Tử Tư, tiểu đệ đã được coi hát cô tấn nói về “Ngũ Tử Tư qua ải”. Chỉ có một đêm lo nghĩ mà ông đầu đã bạc phơ. Có đúng thế không?
Hồng Triều đáp:
– Đúng rồi! Đúng rồi! Trí nhớ của Tước gia hay quá!
Vi Tiểu Bảo lâu nay không được nghe ai nói chuyện cổ tích, liền hỏi sự tích Ngũ Tử Tư ra làm sao?
Hồng Triều ngày trước đã thi đỗ Tú tài. Trong bụng y chứa đựng ít nhiều văn mặc liền đem truyện Ngũ Tử Tư thuật từ đầu đến cuối.
Vi Tiểu Bảo nghe y kể rất lấy làm hứng thú, liền bảo y:
– Tiểu đệ Ở trên hoang đảo này buồn quá. May được hai vị đến đây nói chuyện cổ tích giải khuây cho. Vậy hai vị hãy nán lưu lại đây mấy bữa vội về làm chi?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Bọn ty chức là hàng tướng ở Đài Loan. Hôm qua vô tình lại nói mấy câu đắc tội với Thi tướng quân. Thi tướng quân muốn rửa hận thì đối với bọn ty chức chỉ như bóp chết hai con kiến. Tướng quân có thể tùy tiện khép vào tội lòng dạ phản phúc, mưu đồ bất chính là tiền trảm hậu tấu ngay. Dù Thi tướng quân chém rồi không tâu, vĩnh viễn cũng chẳng ai hỏi đến.
Đoạn hắn năn nỉ Vi Tiểu Bảo:
– Vi đại nhân! Xin đại nhân nói với Thi tướng quân lưu bọn ty chức ở lại phục thị đại nhân.
Vi Tiểu Bảo cả mừng quay lại hỏi Hồng Triều:
– Hồng đại ca tính sao?
Hồng Triều đáp:- Đêm qua ty chức đã cùng Lâm đại ca thương nghị hồi lâu. Nếu chẳng được Vi đại nhân cứu mạng thì bọn ty chức chết không có đất chôn.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hai vị đã theo tiểu đệ thì nhất thiết phải nghe tiểu đệ mới được.
Lâm Hưng Châu và Hồng Triều khom lưng đáp:
– Vi đại nhân! Bất luận đại nhân sai bảo điều gì bọn ty chức cũng xin tuân lệnh.
Vi Tiểu Bảo cả mừng khôn xiết nghĩ bụng:
– Đã có hai tay trợ thủ này, ta sẽ tìm cách dời khỏi nơi đây.
Nguyên Vua Khang Hy đã phái Bành tham tướng đem quân canh giữ đảo Thông Cật. Trước khi lên đường, hắn còn được nghiêm chỉ của đức Vua nhất quyết không cho Vi Tiểu Bảo cùng gia nhân rời khỏi đảo nửa bước. Trên đảo lại không thuyền bè, nếu muốn chặt cây đóng mảng thì đảo Thông Cật nhỏ bé làm sao che được tai mắt mọi người?
Bành tham tướng trí não đã không linh hoạt, lại chẳng có bản lãnh gì, nhưng đối với thánh chỉ của Hoàng thượng thì dù hắn có bị chặt đến mấy chục cái đầu cũng chẳng dám tơ hào phản bội. Nhà Vua sai hắn canh giữ là hắn trông coi ráo riết. Giả tỷ Vi Tiểu Bảo muốn giết hắn thì chỉ cất tay một cái là xong, nhưng dù giết cả năm trăm lẻ một tướng khán thủ cho kỳ hết sạch sành sanh, vẫn chẳng có cách nào rời khỏi đảo Thông Cật.
Bây giờ Vi Tiểu Bảo nghe Hồng Triều nói đến bài văn tế của Thi Lang bái điện Trịnh Thành Công cùng thiên cố sự về Ngũ Tử Tư, gã chợt động tâm, nghĩ ra một kế, liền cho mời Thi Lang đến.
Vi Tiểu Bảo, Lâm Hưng Châu, Hồng Triều và Thi Lang, bốn người ngồi trong sảnh đường. Vi Tiểu Bảo đứng dậy đóng cửa lại hỏi:
– Thi tướng quân! Liệu tướng quân có ở lại đây chơi với ta được một vài tháng không?
Thi Lang đáp:- Bản tâm ty chức muốn ở lại đây một thời gian khá lâu để thường thường được nghe giáo huấn. Có điều Đài Loan mới bình định xong, nhân tâm chưa được ổn định, ty chức tưởng sáng mai cáo từ đại nhân trở về Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Thi tướng Đài Loan bảo muốn ở với ta lâu ngày để thường thường nghe lời giáo huấn. Ta không hiểu đây là chân tâm của tướng quân, hay chỉ là những câu đãi lòng?
Thi Lang đáp:
– Dĩ nhiên đó là những lời tâm can phế phủ của ty chức, ngàn vạn lần đúng là sự thực, tuyệt không mảy may giả dối.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
– Ty chức nhớ lại năm trước tùy tùng đại nhân đóng binh ở đảo Thông Cật này, nổ súng hạ Thần Long giáo. Hàng ngày ty chức được kính cẩn nghe lời giáo huấn của đại nhân, lại được cùng đại nhân uống rượu, đánh bạc, cười nói tự nhiên.
Đó là những ngày sung sướng nhất của ty chức.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Giả tỷ bây giờ chúng ta lại có những ngày như vậy, tướng quân còn vui thích không?
Thi Lang đáp:
– Cái đó dĩ nhiên ty chức khoan khoái vô cùng! Sau này đức Hoàng thượng giao phó cho đại nhân những trọng nhiệm về quân quốc đại sự, ty chức mong rằng được lệnh theo hầu đại nhân.
Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:
– Cái đó dễ lắm! Tướng quân muốn theo ta để nghe ta cười nói thật chẳng có gì khó khăn. Sáng mai chúng ta cùng đi Đài Loan với nhau là được.
Thi Lang giật mình kinh hãi đứng dậy đáp:
– Cái đó… cái đó… Vụ này chưa được chỉ dụ của Hoàng thượng, ty chức không dám vâng mệnh. Mong rằng… mong rằng đại nhân lượng thứ chọVi Tiểu Bảo cười hỏi:
– Ta đi Đài Loan có mục đích gì đâu? Bất quá nghe các vị nói ngoài đó rất náo nhiệt:
Quốc tính gia mở mang cương thổ tại Đài Nam, Đài Bắc tạo dựng lên một thế giới vui tươi sầm uất, ta chỉ muốn tới đó coi cho biết. Chúng ta ngồi chung một khoang thuyền lớn đến Đài Loan có phải tướng quân thường được nghe lời giáo huấn của ta không? Cái đó là tự miệng tướng quân nói ra. Ta nhận thấy tướng quân là người rất tốt, trước kia lại đi theo ta một thời gian. Mối giao tình giữa thượng ty và thuộc cấp của chúng ta không phải tầm thường, ta mới miễn cưỡng nghĩ ra biện pháp này để thỏa mãn lời thỉnh cầu của tướng quân.
Vi Tiểu Bảo thấy Thi Lang trầm ngâm liền nói tiếp:
– Chúng ta đi Đài Loan thưởng ngoạn một vài tháng rồi lại trở về, thần không hay quỷ không thấy. Chỉ cần tướng quân dấu nhẹm, ta cũng không nói ra thì đức Hoàng thượng làm sao mà biết được?
Thi Lang vẻ mặt cực kỳ ngơ ngác. Hắn khom lưng đáp:
– Vi đại nhân! Vụ này thật khó khăn vô cùng! Đại nhân đã ra lệnh đáng lý ty chức phải tuân theo, ngặt vì đức Hoàng thượng mà làm tội thì thật là nguy hiểm.
Bổn phận kẻ làm tôi không bao giờ được dấu diếm quân thượng. Tội khi quân ty chức thực tình không dám phạm vào.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Mời tướng quân ngồi xuống! Ngồi xuống! Thi tướng quân đã không chịu thì cái việc cỏn con này bất tất phải nói nữa.
Thi Lang khác nào trút bỏ gánh nặng ngàn cân, luôn miệng khen phải, từ từ ngồi xuống.
Vi Tiểu Bảo lại cười nói:
– Kể về tội khi quân thì chẳng dấu gì Thi tướng quân, ta đã mấy phen lừa dối Thánh thượng. Có điều Thánh thượng khoan hồng đại lượng, sau khi ngài biết ra rồi cũng đến cười xóa bỏ đi, chứ chẳng coi đó là chuyện trọng đại.
Thi Lang đáp:- Dạ dạ! Ai cũng bảo đức Hoàng thượng đối đãi với Vi đại nhân ân thâm đức trọng thật là hãn hữu. Có thể nói nghĩa quân thần hòa hợp như vậy cổ kim chưa từng có. Nhưng ty chức bất quá là một tên tiểu tướng ngoại thần làm gì được nhiều phúc phận như vậy? Vụ này ty chức muôn đời không dám bắt chước Vi đại nhân.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười hỏi:
– Thi tướng quân ngoài miệng tuy nhát gan, nhưng bản tước xem ra chẳng phải con người nhỏ mật. Nghe nói tướng quân hạ Đài Loan xong đã làm bài văn điếu tế Quốc tính gia. Phải vậy không?
Thi Lang đáp:
– Bẩm đại nhân! Ba chữ “Quốc tính gia” không thể dùng được. Hiện nay Quốc tính là ái Tân Giác La. Vậy chúng ta khi nhắc tới Trịnh Thành Công muốn nói cho lịch sự, chỉ có thể hô “Tiền Minh tử tính”. Vì vậy trong bài văn tế đó, ty chức chỉ xưng hô Trịnh Thành Công bằng hai chứ “Tử tính”, quyết chẳng khi nào dám lớn mật phạm điều cấm kỵ.
Hắn đã tiên liệu mình không chịu đưa Vi Tiểu Bảo đến Đài Loan tất gã bới lông tìm vết, moi móc cho ra chỗ lầm lỗi. Hắn tự nhủ:
– Mọi người đã quen dùng ba chữ “Quốc tính gia”, nhưng Trịnh Thành Công được Minh triều ban cho lấy họ Chu. Quốc tính của Trịnh Thành Công là Quốc tính nhà Minh, chứ không phải là Quốc tính của Thanh triều. Nếu Vi Tiểu Bảo nắm lấy ba chữ Quốc tính vu cho mình vẫn còn tưởng niệm Quốc tính gia họ Chu mà báo về triều đình thì vụ này nhỏ bằng cái kim có thể lớn tầy đình. Không chừng gây nên đại họa.
Thi Lang nghĩ như vậy, nên hắn phải cướp lời giải thích trước.
Thực ra, Vi Tiểu Bảo là con người vô học, chẳng có mưu thuật gì, gã chưa nghĩ tới điểm này. Gã nghe Thi Lang biện thuyết như vậy, liền nắm lấy cơ hội để xoay đối phương. Gã nói:
– Thi tướng quân đã từng hưởng tước lộc của Minh triều, thì trong lòng tưởng niệm đến “Tứ tính” của tiên triều cũng chẳng có chi đáng trách. Nhưng giả tỷ tướng quân thật dốc dạ trung thành với nhà Đại Thanh ta thì nên hô Trịnh Thành Công là “Nghịch tính”, “Ngụy tính”, “Phỉ tính” hay “Cẩu tính” mới phải.Thi Lang cúi đầu không nói gì. Tuy trong lòng hắn muốn cãi lại, nhưng hắn cảm thấy không nên tranh luận nhiều về điểm này. Hắn cũng cho là kêu Trịnh Thành Công bằng “Tứ tính” quả còn có chỗ sơ hở, vì nó vẫn ngụ ý chưa quên Tiên triều.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
– Bài văn tế đó của Thi tướng quân nhất định hay lắm rồi. Tướng quân thử đọc lại cho bản tước nghe được chăng?
Thi Lang là một võ tướng, chỉ biết giàn quân đánh trận, làm gì viết nổi văn tế?
Bài văn tế kia do một tên sư gia làm tân khách đã làm thay hắn.
Tôn sư gia là một tay tài học, bài văn tế của y văn chương lưu loát, từ ý thiết tha. Thi Lang đã được nghe nhiều người tán dương, trong lòng rất lấy làm đắc ý, nên nhiều câu hắn thuộc lòng. Hắn nghe Vi Tiểu Bảo hỏi tới liền đáp:
– Ty chức lạc thảo mấy câu, chẳng bõ làm trò cười cho Vi đại nhân.
Thế rồi hắn đọc mấy đoạn trong văn tế.
Vi Tiểu Bảo nghe hắn đọc xong đoạn:
– “Lang này vốn ở trong hàng ngũ, cùng “Tứ tính” đang vui vầy cá nước duyên may. Ngờ đâu vì vụ tỵ hiềm nhỏ mọn mà gây nên chuyện tầy đình.
“Lang cùng “Tứ tính” trở thành đối nghịch. Tình cũ chúa tôi, quyết chẳng làm kẻ cùng sĩ trong bụi lau. Tư ơn công nghĩa, đến vậy mà thôi” Gã gật đầu ca ngợi:
– Hảo văn chương! Hảo văn chương! Đoạn văn này dù có bắt bản tước đem chặt đầu cũng không thể làm được. Dù đã có người làm cho mà bảo bản tước học thuộc lòng, e rằng đọc cả mười ngày cũng không nhớ. Thi tướng quân quả nhiên văn võ song toàn, trí nhớ lại càng tuyệt hảo khiến bản tước khâm phục không biết đến thế nào mà kể!
Thi Lang đỏ mặt lên, bụng bảo dạ:
– Gã biết rõ bài văn tế không phải tự ta làm ra mà có kẻ khác viết thay. Ta đọc cho gã nghe, gã lại đưa lời trào phúng. Vậy ta không nên nói nhiều với gã.
Vi Tiểu Bảo hỏi:- Trong đoạn này có câu:
“Quyết chẳng làm theo kẻ cùng sĩ trong bụi lau” có ngụ ý gi? Bản tước kém bề học vấn không sao hiểu được. Tướng quân giải thích cho bản tước nghe được chăng?
Thi Lang đáp:
– Kẻ cùng sĩ trong bụi lau là nói về Ngũ Tử Tư. Ngày trước Ngũ Tử Tư, người nước Sở, phải trốn sang nước Ngô lánh nạn. Ngũ Tử Tư đi đến bờ sông, một ngư ông chở qua bờ bên kia rồi, lại đi lấy cơm cho y.
Hắn dừng lại một chút rồi kể tiếp:
– “Ngũ Tử Tư sợ truy binh đuổi đến tróc nã phải ẩn vào trong bụi lau ở bờ sông. Ngư ông trở lại thấy trong bụi lau có người ẩn nấp, liền cất tiếng hô:
– Người trong bụi lau ơi! Người trong bụi lau ơi! Phải chăng người là kẻ cùng sĩ?
Sau Ngũ Tử Tư mượn quân nước Ngô đưa về đánh phá nước Sở rồi quật mả lôi xác Sở Bình Vương đánh ba trăm roi để trả mối thù Sở Vương đã giết cha anh.” Thi Lang kể xong sự tích Ngũ Tử Tư, nói tiếp:
– Trịnh Thành Công đã giết cha anh cùng vợ con của ty chức, nhân sĩ ở Đài Loan sợ ty chức sau khi hạ Đài Loan rồi cũng quật thây báo thù, nên ty chức nói trong văn tế quyết không làm việc đó. Trịnh Thành Công có linh thiêng cũng yên tâm được và quân dân Đài Loan bất tất phải lo nghĩ về vụ này.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Té ra là thế! Thi tướng quân chỗ này đã so mình với Ngũ Tử Tư.
Hồi 227
Đổi thông cật đảo thành điếu ngư đảo
Thi Lang vội đáp:
– Ngũ Tử Tư là một bậc đại anh hùng, đại hào kiệt. Khi nào ty chức dám so bì? Có điều Ngũ Tử Tư toàn gia bị nạn rồi một mình trốn đi. Sau y đem quân về báo cừu tuyết hận. Cuộc tao ngộ của ty chức trong điểm này cũng tương tự như vậy mà thôi.
Vi Tiểu Bảo lẩm nhẩm gật đầu nói:
– Bản tòa mong sao Thi tướng quân không đến nỗi đi vào kết quả như Ngũ Tử Tư. Bằng không thì thật là bất diệu!
Thi Lang tái mặt. Bàn tay hắn đặt trên kỷ trà bất giác run lên bần bật.
Nguyên Ngũ Tử Tư lập được công lớn cho nước Ngô rồi sau lại bị Ngô vương xử tử bêu đầu.
Gã lắc đầu nói tiếp:
– Thi tướng quân! Giữa bản tước và tướng quân trước đã có mối liên can là thượng cấp và bộ hạ. Tình nghĩa không phải tầm thường. Có điều tướng quân tự kỷ với Ngũ Tử Tư quả là chuyện đại nghịch vô đạo. Bài văn tế kia đã đồn đại vào đến Bắc Kinh và dĩ nhiên đức Hoàng thượng nghe thấy rồi. Nếu không có ai phân thuyết giúp tướng quân trước mặt Hoàng thượng thì bản tước đại nhân rằng… hà hà… trường công lao này sẽ trôi theo dòng nước.
Thi Lang vội cãi lại:
– Xin đại nhân minh xét. Ty chức chỉ nói không làm theo hành động của Ngũ Tử Tư, chứ không dám so mình với Ngũ Tử Tư. Trong điểm này… khác hẳn nhau.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bài văn tế của tướng quân lưu truyền khắp nơi và vụ tướng quân tự so mình với Ngũ Tử Tư là một chuyện khắp thiên hạ ai cũng biết rồi.
Thi Lang đứng dậy, cất tiếng run bần bật:
– Hoàng thượng là bậc anh minh. ¥n đức coi bằng trời biển. Những kẻ công thần đều được bảo toàn. Ty chức được thờ một vị minh quân là tốt số hơn Ngũ Tử Tư nhiều lắm.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Lời tướng quân tuy rất đúng. Bụng dạ Ngũ Tử Tư thế nào, bản tước không hiểu rõ. Chỉ khi coi tuồng hát thấy lúc Ngô Vương xử tử Ngũ Tử Tư thì ông nói:
“Các ngươi đem mắt ta khảm vào cửa thành, để ta được nhìn thấy quân Việt kéo vào kinh đô trừ diệt Ngô quốc”. Sau dường như Ngô quốc quả nhiên bị diệt vong.
Thi tướng quân văn võ toàn tài, nhất định biết thiên cố sự này. Có đúng thế không?
Thi Lang nghe gã nói mấy câu sau bất giác ớn lạnh xương sống. Ban đầu hắn chỉ nghĩ đến Ngũ Tử Tư đã lập đại công rồi sau bị Ngô Vương giết. Nhưng hắn không thuộc lịch sử và mấy câu nói của Ngũ Tử Tư lúc lâm tử.
Hắn lại nghĩ tới câu “Quyết chẳng làm theo kẻ cùng sĩ trong bụi lau” tuy nói lên không hành động theo Ngũ Tử Tư, nhưng ý kiến tỷ mình với Ngũ Tử Tư lại in vào tai mắt mọi người. Huống chi trong bài văn tế nhắc tới chuyện Ngũ Tử Tư quật thây báo cừu, liệu có khỏi bị Vi Tiểu Bảo nắm lấy làm lời nguyền rủa vong quốc không?
Vụ này có thể phạm vào tội lớn mà khi người ta đã khoác cho mình thì nguy hiểm vô cùng!
Hắn lại tự nhủ:
– Một khi những câu của Vi Tiểu Bảo lọt vào tai Hoàng đế thì dù ngài là bậc thánh minh không bắt tội mình, nhưng nhất định trong lòng ngài có ấn tượng không hay, và mình đừng hòng được Hoàng thượng gia quan tấn tước cho nữa. ấy là chưa kể đến nếu Hoàng đế còn kẻ thân tín như Vi Tiểu Bảo thêm mắm muối vào, gièm pha mình có lòng oán vọng, chê bai triều đình giết kẻ công thần, thì cái đầu trên cổ khó mà giữ vững.
Thi Lang càng nghĩ càng hối hận về việc điếu tế Trịnh Thành Công. Hắn càng hối hận hơn về vụ bảo sư gia làm văn tế, khiến cho tên tiểu quỷ tinh ranh cổ quái nắm được cẳng để quật mình.
Thi Lang đứng thộn mặt ra, trong lòng lo lắng, không biết phân biện cách nào cho được.
Hắn còn đang bối rối. Vi Tiểu Bảo lại cất tiếng hỏi:
– Thi tướng quân! Đức Hoàng thượng lên chấp chính, việc đầu tiên của ngài là việc gì?
Thi Lang đáp:
– Việc đầu tiên của đức Hoàng thượng là hạ sát tên gian thần Ngao Bái.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đúng rồi! Ngao Bái cố nhiên là gian thần, nhưng hắn lại là cố mạng đại thần.
Ngày trước hắn đã đánh thành phá giặc lập được rất nhiều công lớn cho nhà Đại Thanh ta.
Rồi gã kể tiếp:
– Lúc giết Ngao Bái Hoàng thượng đã nói một câu:
“Trẫm hạ sát Ngao Bái đại nhân rằng có kẻ bảo trẫm không thể tuất công thần”. Ngài còn nói cái gì chim, cái gì cung nhưng bản tước không nhớ. Tướng quân có biết không?
Thi Lang đáp:
– Đó là câu:
“Chim muông hết cung tên xếp xó”.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Phải rồi! Phải rồi! Cả tướng quân cũng nói như vậy.
Thi Lang vội ngắt lời:
– Không phải thế! Không phải thế! Ty chức chỉ nhắc lại câu thành ngữ mà Hoàng thượng thốt ra.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Tướng quân đọc câu thành ngữ để hình dung Hoàng thượng lúc hạ sát Ngao Bái chứ gì?
Thi Lang vội đáp:
– Không phải thế. Vì đại nhân hỏi ty chức về câu thành ngữ đó, nên ty chức chỉ nói ra để đáp lại câu hỏi của đại nhân mà thôi. Ty chức có mười cái đầu cũng…
chẳng khi nào dám buông lời phỉ báng Hoàng thượng.
Vi Tiểu Bảo dương mắt lên nhìn chằm chằm vào mặt Thi Lang, khiến hắn cực kỳ hoang mang lo sợ.
Từ xưa đến nay, kẻ thần tử tự cho mình lập nên công lớn mà phần thưởng bạc bẽo không xứng đáng, Hoàng đế nhất định tức giận. Đạo làm tôi không bao giờ được thốt lời oán trách, chỉ trong lòng có ý oán hờn cũng đủ tội chết rồi.
Thi Lang trong lúc tâm thần bàng hoàng, bị Vi Tiểu Bảo dẫn dụ phọt ra câu “Điểu tận cung tàng”, nghĩa là chim muông hết cung tên bỏ xó. Hắn biết là nguy rồi nhưng không thu về kịp nữa, huống chi ngoài Vi Tiểu Bảo, còn Lâm Hưng Châu và Hồng Triều ngồi đó làm chứng, thì dù hắn muốn chối cãi cũng không thể được.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Thi tướng quân nói câu “Điểu tận cung tàng” phải chăng là phỉ báng Hoàng thượng? Bản tước ít học không thể hiểu được. Ở triều đình chẳng thiếu gì đại học sĩ, thượng thơ học nhiều hiểu rộng, chúng ta sẽ xin các vị đó bình luận.
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
– Bản tước được kề cận Hoàng thượng trong những thời gian khá lâu dường như ngài thích người ta xưng tụng là “Điểu Sinh Dủy Thang” (Nghiêu Thuấn Vũ Thang), mà không thích ai nói câu “Điểu tận cung tàng”. Đầu hai câu đều có chữ “Điểu”, mà nghĩa lại trái ngược nhau, chắc là một hảo điểu, một ác điểu. Có đúng thế không?
Thi Lang vừa kinh hãi, vừa tức giận, bất giác bụng bảo dạ:
– Trời không chịu đất thì đất chẳng chịu trời. Gã định vu hãm ta thì ta đành liều giết cả ba thằng này đi cho hết mầm họa.
Hắn nghĩ tới đây, bất giác mắt chiếu ra những tia sáng hung dữ.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên nhó thấy Thi Lang đằng đằng sát khí, mặt mũi đanh ác, trong lòng không khỏi khiếp sợ. Gã gượng cười nói tiếp:
– Thi tướng quân là bậc đại trượng phu thì nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy.
Hiện giờ tướng quân chỉ có hai đường. Một là đem bản tước cùng Lâm, Hồng nhị vị giết ngay đi. Tiếp theo hạ sát cả những bảy vị phu nhân và mấy đứa con của bản tước, rồi kéo quân đến Đài Loan tự lập làm Vua. Có điều bọn tùy tùng của tướng quân đều là quan binh nhà Đại Thanh, chưa chắc chúng chịu theo tướng quân làm phản, mặt khác quân dân ở Đài Loan vị tất đã tâm phục tướng quân.
Thi Lang mới thầm tính trong bụng, đã nghe Vi Tiểu Bảo nói huỵch toẹt mưu toan của hắn làm hắn bở vía. Bao nhiêu vẻ hung dữ tiêu tan hết. Thi Lang ngắt lời:
– Ty chức tuyệt không có ý nghĩ như vậy, đại nhân bất tất phải đa nghi mà buộc tội danh vào ty chức.
Hắn dừng lại một chút rồi hỏi:
– Còn đường thứ hai thế nào? Xin đại nhân rộng ơn chỉ điểm cho.
Vi Tiểu Bảo nghe giọng nói đối phương mềm nhũn, gã cũng yên tâm một chút, liền gác chân rung đùi đáp:
– Đường thứ hai là tướng quân phải được hai vị Lâm, Hồng cùng huynh đệ giúp đỡ mới xong…
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
– Vừa rồi Thi tướng quân nhắc tới Hoàng thượng đã nói đến chữ “Điểu” là kính cẩn xưng tụng đức Hoàng thượng như “Điểu sinh dủy thang” thì hay quá rồi!
Mai đây huynh đệ có dịp bái kiến Hoàng thượng nhất định sẽ tâu lên Thi tướng quân chữ Trung đội ở trên đầu, lúc nào cũng tâm niệm ơn đức bao la của Hoàng thượng. Trong khi đàm luận, tướng quân thường chê Ngũ Tử Tư quên ân phụ nghĩa.
Ngô Vương đã phát binh giúp họ Ngũ trả xong mối thù giết cha anh thì đáng lý về sau Ngô Vương sai y làm gì, dù phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng không lùi bước mới phải. Sao y lại ôm lòng bất mãn thốt lời phán vọng? Giả tỷ ngày đó Thi tướng quân là Ngũ Tử Tư thì chẳng những hết sức giữ vững giang sơn nước Ngô muôn ngàn năm mà đừng nói chuyện giữ một Tây Thi mỹ nhân, nếu có Đông Thi, Nam Thi, Bắc Thi, Trung Thi cũng cướp hết đem về dâng Ngô Vương. Ngũ Tử Tư lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình. Còn Thi tướng quân thì ngày ngày tâm niệm đức Thánh minh thiên tử của nhà Đại Thanh. Kẻ hảo tâm tất được đền đáp xứng đáng. Đức Hoàng thượng luận công ban thưởng, dĩ nhiên Thi tướng quân được phong công hầu vạn đái.
Thi Lang nghe Vi Tiểu Bảo thuyết một hồi, sung sướng như mở cờ trong bụng.
Hắn vội đứng dậy chắp tay xá dài đáp:
– Nếu được đại nhân tâu bày Hoàng thượng bằng những lời hoa mỹ như vậy thì ty chức suốt đời chẳng dám lãng quên ơn cao đức cả của đại nhân.
Vi Tiểu Bảo cũng đứng lên đáp lễ, mỉm cười nói:
– Lời nói chẳng mất tiền mua mà lại được ân huệ. Có điều huynh đệ vui dạ thì dĩ nhiên lời tâu càng văn vẻ, khúc chiết.
Thi Lang tự hỏi:
– Nếu ta không để gã đi Đài Loan một chuyến thì tâm tình gã làm sao vui vẻ cho được?
Hắn liền đáp:
– Đài Loan mới bình xong, lòng người chưa ổn. Ty chức muốn tâu lên Thánh thượng phái một viên đại đức cao vọng trọng tới đó tuyên thị thánh đức, vỗ yên trăm họ. Vị đại viên này dĩ nhiên là Vi đại nhân xứng đáng hơn hết. Ty chức lập tức viết biểu tâu trình xin Hoàng thượng giáng chỉ phái đại nhân đến Đài Loan tuyên dụ.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:
– Thi tướng quân dâng biểu về kinh để chờ chỉ ý của Hoàng thượng thì nguyên thời giờ vãng phản đã mất mấy tháng rồi. Trong khoảng thời gian này, e rằng miệng thế phôi pha, những điều này tiếng kia lọt vào tai Hoàng thượng rồi.
Vụ này phải làm thật gấp, không thì sai một ly đi một dặm.
Vi Tiểu Bảo thở phào nói tiếp:
– Hay hơn hết là tướng quân mời một viên thân tín của Hoàng thượng cùng đi Đài Loan mở cuộc điều tra lập tức. Có thế mới chứng minh được tướng quân tuyệt chẳng có ý tự lập làm Vua ở Đài Loan.
Rồi gã nói:
– Bên ngoài người ta phao ngôn Thi tướng quân đã tự đặt cả danh hiệu là Đại Minh Đài Loan Tĩnh Hãi Vương gì đó, có đúng thế không?
Thi Lang nghe đến bảy chữ “Đại Minh Đài Loan Tĩnh Hải Vương” bất giác sợ hết hồn, bụng bảo dạ:
– Lời phao ngôn kia mà đồn đại tới Bắc Kinh thì triều đình dù còn hoài nghi, nhất định cũng tin là chuyện thực đề phòng ngừa, còn hơn bảo là không mà chuẩn bị. Vụ này có thể đưa ta đến chỗ chết không còn đất chôn.
Hắn vội đáp:
– Bọn gian nhân dựng đứng len những lời phao ngôn, xin đại nhân chớ tin tưởng họ.
Vi Tiểu Bảo thủng thẳng nói:
– Nhất định là thế! Huynh đệ cùng tướng quân biết nhau đã lâu, dĩ nhiên chẳng khi nào tin lời đồn bậy. Có điều tướng quân đến bình định Đài Loan, không thể tránh khỏi giết người nhiều quá nên oan gia nhất định tìm cách buộc tội để rửa hờn. Cừu nhân đã âm mưu làm hại tướng quân thì huynh đệ tưởng khó nỗi đề phòng cho xiết. Mối oan khiên nào phải chuyện giải thích dễ dàng cho rõ được?
Người ta đã có câu:
“Trong triều không có người đỡ đầu thì đừng làm quan” thật là phải lắm. Chẳng hiểu Thi tướng quân đã có vị đại lão nào ở trong triều làm hậu thuẫn hết sức bênh vực mình chưa?
Thi Lang càng hồi hộp trong lòng. Tại triều hắn chẳng có nhân vật nào ủng hộ. Chả thế mà năm trước, hắn đến Bắc Kinh bơ vơ lạc lõng, vào cửa nào cũng không lọt. Mãi về sau được Vi đại nhân đây đỡ đầu mới thành công.
Hắn nghiến răng đáp:
– Vi đại nhân có lòng chỉ điểm khiến ty chức cảm kích vô cùng! Tình thế đã cấp bách như vậy, ty chức đánh bạo xin đại nhân sáng mai thượng lộ đến Đài Loan để điều tra cho rõ ngọn ngành.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nhưng gã nghĩ tới hắn đã cầu mình thì cũng làm khó dễ một phen cho hả.
Gã tính vậy liền nói:
– Vì việc minh oan cho tướng quân thì huynh đệ có phải cực nhọc một phen cũng chẳng có chi đáng kể. Nhưng huynh đệ Ở trên đảo Thông Cật lâu ngày quá rồi, nay lại ra khơi chỉ sợ say sóng. Đồng thời vợ con huynh đệ ngày nào cũng ở bên mình, nhất đán khó nỗi phân ly.
Thi Lang mắng thầm trong bụng:
– Người vượt bể không biết bao nhiêu lần rồi, mà ta có thấy ngươi say sóng con mẹ nó lần nào đâu? Đây là ngươi cố ý làm bộ với ta.
Trong lòng nghĩ vậy, nhưng ngoài mặt hắn làm bộ tươi cười đáp:
– Các vị phu nhân, công tử cùng tiểu thư dĩ nhiên đi theo đại nhân. Ty chức sẽ lựa con thuyền thật lớn, thật êm để đại nhân nằm ngồi. Dạo này bể lặng sóng yên, đại nhân bất tất phải quan tâm.
Vi Tiểu Bảo nhíu cặp lông mày nói:
– Đã vậy huynh đệ vì mối giao tình giữa chúng ta mà gắng gượng đi một chuyến để giúp dùm Thi tướng quân.
Thi Lang luôn miệng tạ Ơn.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo cùng bảy vị phu nhân, hai trai là Hổ Đầu, Đồng Trùy, một gái là Song Song xuống ngồi thuyền lớn có treo cờ của Thi Lang.
Bành tham tướng toan cản trở, Thi Lang lập tức hạ lệnh cột y vào gốc cây.
Đoàn thuyền khởi hành ra khơi.
Vi Tiểu Bảo nhìn lên hòn đảo gã đã cư trú mấy năm, cười nói:
– Nhà cái đã dời đảo thì nơi đây không nên kêu bằng Thông Cật đảo nữa.
Chúng ta tìm một tên khác đổi lại mới được.
Thi Lang đáp:
– Đúng thế! Xin đại nhân xem tên gì hay đổi lại là hơn.
Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Đức Hoàng thượng phái người đến truyền chỉ đã nói:
Chu Văn Vương có Khương Thái Công câu cá, Hán Quang Vũ có Nghiêm Tử Lăng câu cá. Hễ có thánh minh thiên tử là có trung thần câu cá. Hoàng thượng phái huynh đệ Ở đây câu cá.
Vậy chúng ta đổi tên hòn đảo này làm Điếu Ngư đảo quách.
Thi Lang vỗ tay hoan hô nói:
– Đại nhân đặt tên như vậy là tuyệt hảo rồi! Điểm thứ nhất xưng tụng đức Hoàng thượng sánh với Chu Văn Vương, Hán Quang Vũ. Điểm thứ hai tỏ rõ đại nhân văn võ toàn tài như Khương Thái Công, lại thanh cao phong nhã bằng Nghiêm Tử Lăng. Phải lắm! Phải lắm! Từ nay, chúng ta kêu trái đảo này bằng Điếu Ngư đảo.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Đây bất quá là huynh đệ muốn đổi tước Thông Cật hầu làm Điếu Ngư hầu.
Nếu ngày sau còn được thăng quan sẽ kêu bằng Điếu Ngư Công gì đó thì lại không “ngon” nữa.
Thi Lang cười nói:
– “Ngư ông đắc lợi” là điểm tốt rồi. Ty chức vẫn thấy ngon lắm.
Vi Tiểu Bảo gật đầu đáp:
– Hoàng thượng phong huynh đệ làm Thông Cật bá, rồi Thông Cật hầu. Huynh đệ nghe rất lọt tai, nhưng mấy vị phu nhân lại không hứng thú. Ngày sau sẽ tâu trình Hoàng thượng đổi làm Điếu Ngư hầu, chắc là mọi người đều hoan hỷ.
Thi Lang cười thầm trong bụng, tự hỏi:
– Cái gì mà Thông Cật bá với Thông Cật hầu? Đây bất quá Hoàng thượng muốn làm cho gã vui dạ và coi gã là kẻ vi thần lãng mạn chứ nào phải có ý tôn trọng. Dù cho đổi làm Điếu Ngư hầu cũng chẳng có chi hay ho hết.
Nhưng ngoài miệng hắn nói:
– Từ ngàn xưa đã có câu “Ngư, tườu, canh độc”. Ngư ông đứng đầu, người đọc sách xuống hàng thứ tư. Vậy Điếu Ngư công hay Điếu Ngư vương so với trạng nguyên, hàn lâm còn tôn quý hơn nhiều.
Điếu Ngư đảo phải chăng đời sau kêu bằng Điếu Ngư hải đảo? Đáng tiếc trong sử sách không chỗ nào nói đến, thành ra khó bề kê cứu. Nếu muốn tìm di tích của Vi Tiểu Bảo ở trên đảo, cũng chỉ thấy nói từ mấy năm đầu Vua Khang Hy, hòn đảo này do người Trung Quốc trường kỳ cư trú và triều đình có phái năm trăm quân xa đồn trú.
Vi Tiểu Bảo ngồi trên kỳ hạm của Thi Lang đi tới Đài Loan, lên bờ ở phủ An Bình.
Dọc đường, Lâm Hưng Châu và Hồng Triều trỏ cho gã hay ngày trước Trịnh Thành Công tiến binh thế nào, đại phá quân Hồng mao ra sao?
Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói rất lấy làm thú vị. Lúc này gã nghiêm trang thốt ra những lời trào phúng.
Thi Lang đặt tiệc lớn ở phủ tướng quân khoản đãi cực kỳ long trọng.
Mọi người đang yến ẩm, chợt nghe báo có chỉ dụ Ở Đế Kinh đưa tới.
Thi Lang vội ra tiếp chỉ. Lúc hắn trở vào vẻ mặt lo âu, nhìn Vi Tiểu Bảo nói:
– Vi đại nhân! Thượng dụ truyền ra phế bỏ Đài Loan không đồn trú nữa. Vụ này thật là hỏng bét!
Vi Tiểu Bảo lấy làm kỳ hỏi:
– Sao lại thế được?
Thi Lang đáp:
– Thượng dụ ra lệnh cho ty chức chuẩn bị bỏ Đài Loan và đưa hết quân dân toàn Đài Loan đi vào nội địa. Không một nhà, một người nào được ở trên đảo…
Hắn thở dài nói tiếp:
– Ty chức đã hỏi sứ thần thì đây là kiến nghị của các đại thần trong triều nói Đài Loan là hòn đảo cô lập ở hải ngoại dễ biến thành sào huyệt của đạo tặc.
Triều đình khống chế khó khăn. Nếu phái đại quân đồn trú phải tiêu phí nhiều lương tiền. Vì thế mà quyết định rút đi.
Vi Tiểu Bảo trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
– Thi tướng quân có biết dụng ý chân chính của các vị đại lão trong triều là thế nào không?
Thi Lang kinh hãi cất giọng run run đáp:
– Chẳng lẽ… chẳng lẽ câu chuyện Ngũ Tử Tư gì đó đã đồn đại vào đến Bắc Kinh.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói:
– Người ta đã có câu:
“Điều hay không ra khỏi cửa, việc dở truyền đi ngàn dặm”. Triều đình sợ tướng quân quả có ý muốn làm Đại Minh Đài Loan Tĩnh Hải Vương gì gì đó.
Thi Lang càng sợ hãi, miệng ấp úng:
– Biết làm… làm thế nào bây giờ? Trăm họ Ở Đài Loan có đến hàng chục vạn người đã an cư lạc nghiệp mấy chục năm mà nay nhất đán đưa vào nội địa thì họ sinh hoạt bằng cách nào? Nếu bức bách cuộc thiên di đi này tất sinh đại biến.
Huống chi quan binh nhà Đại Thanh bỏ đi, quân Hồng mao lại đến chiếm cứ. Người Trung Quốc chúng ta phải bao nhiêu tân khổ mới gây dựng nên cơ nghiệp ở đây mà nay dâng cho bọn Hồng mao quỷ thì bách tính cam tâm thế nào được.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bản tước nhận thấy vụ này không đến nỗi hoàn toàn vô phương cứu vãn.
Đức Hoàng thượng rất mực nhân từ, yêu thương trăm họ. Bây giờ tướng quân thỉnh mạng cho bách tính, may ra Hoàng thượng chuẩn tấu cũng chưa biết chừng.
Thi Lang nghe gã nói đã yên tâm một phần. Hắn hỏi:
– Nhưng trong triều đã phong phanh chuyện gì mà ty chức tâu trình như vậy tựa hồ không muốn dời khỏi Đài Loan, lại càng tỏ ra… có lòng phản nghịch thì sao?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Tướng quân nên lập tức trở về Bắc Kinh đem tình trạng này diện tấu Hoàng thượng. Tướng quân tới Bắc Kinh rồi thì những lời phao vu vụ tự lập làm Đài Loan Vương dĩ nhiên không còn ai tin nữa.
Thi Lang nói:
– Phải lắm! Phải lắm! Lời chỉ giáo của đại nhân hay tuyệt. Sáng mai ty chức phải thượng lộ ngay.
Hắn chợt động tâm cơ nói tiếp:
– Những văn võ quan viên ở Đài Loan, xin đại nhân tạm thời thống lãnh giùm cho, Đức Hoàng thượng hết lòng tín nhiệm đại nhân. Chỉ cần đại nhân trấn giữ Đài Loan là các đại thần ở trong triều chẳng ai dám nói ra nói vào nữa.
Vi Tiểu Bảo mừng thầm nghĩ bụng:
– Ta ở Đài Loan làm quan ít lâu cho biết mùi kể ra cũng thú.
Gã cười hỏi:
– Tướng quân chưa được thánh chỉ, mà thiện tiện giao đại quyền binh mã cho bản tước, nếu Hoàng thượng phiền trách thì làm thế nào?
Thi Lang nghe gã hỏi lại phân vân trong dạ, nghĩ thầm:
– Gã là đệ tử của Trần Cận Nam, là đồng đảng của bọn Thiên Địa Hội phản nghịch. Vì thế đức Hoàng thượng tuy sủng ái gã mà mấy năm nay bắt ở lại Thông Cật đảo, không giao quyền bính hoặc cho làm một việc gì. Nếu gã cầm quyền binh mã vào tay rồi cùng bọn Thiên Địa Hôi tạo phản thì ta… chắc bị xử tử.
Sau một lúc xoay chuyển ý nghĩ, hắn tìm ra kế hoạch tự nhủ:
– Ta đem toàn bộ thủy quân đưa đi là gã không dám cử động gì nữa. Nếu gã lớn mật làm càn, mưu đồ tạo phản, thì ta dẫn binh quay lại cũng dẹp được ngay.
Hắn liền cười đáp:
– Ty chức nghĩ rằng đem đại quyền ở Đài Loan giao cho người khác có khi Hoàng thượng trách phạt, nhưng trao vào tay đại nhân thì chẳng có điều chi phải úy kỵ.
Sau khi tan tiệc, Thi Lang hạ lệnh ngay đêm triệu tập văn võ quan viên ở Đài Loan đến tham kiến Vi Tiểu Bảo để giới thiệu việc trao quyền chỉ huy lại cho gã.
Thi Lang lại mời sư gia viết bản tấu cho Vi Tiểu Bảo nói là vì lo việc quân quốc mà tam thời trấn thủ Đài Loan để triều đình khỏi mối lo về mặt đông, đồng thời xin triều đình tha cho tội tự ý chuyên quyền.
Mọi việc xong xuôi toan xuống thuyền khởi hành ngay.
Hồi 228
Cuộc đông tiến của quân la sát
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Còn một việc lớn, tướng quân đã chuẩn bị chưa?
Thi Lang hỏi lại:
– Ty chức không hiểu còn đại sự gì?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Chuyến này tướng quân bình trị Đài Loan, công lao không phải là nhỏ.
Tướng quân phải đưa ít nhiều lễ vật cho mỗi vị đại thần ở trong triều.
Thi Lang ngơ ngác hỏi:
– Đây là nhờ uy lực của thiên tử, công lao của tướng sĩ mà bình được Đài Loan. Các đại thần trong triều có giúp sức gì đâu?
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:
– Lão Thi ơi! Lão Thi đắc ý lại đâm ra chứng nào tật ấy. Lão Thi bình trị Đài Loan người ta đều tưởng lão là cây tiền núi bạc. Lão Thi phát tài một mình nuốt hết. Các quan trong triều chẳng ai là không đỏ mắt.
Thi Lang vội nói:
– Đại nhân minh xét cho. Thi Lang này mà lấy một lạng bạc nào của Đài Loan thì chuyến này lên Bắc Kinh cam chịu đức Hoàng thượng xử tội lăng trì, ngàn đao phanh thây.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Bản tước biết rồi. tướng quân tự mình muốn làm một vị quan thanh liêm thì được, nhưng không thể bắt mọi người theo mình làm thanh quan. Tướng quân càng thanh liêm, người ta càng dễ gièm pha tướng quân. Họ bảo tướng quân ở Đài Loan mua chuộc lòng người, mưu đồ bất chính. Chuyến này tướng Đài Loan lên Bắc Kinh với hai bàn tay trắng, chẳng đem theo lễ vật mà toàn được ư?
Thi Lang đáp:
– Thổ sản ở Đài Loan có những thứ gỗ khắc, giỏ tre, chiếu cỏ, níp da, đành đem đi mỗi thứ một ít.
Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười hô hố. Gã cười lăn cười lộn khiến cho Thi Lang thẹn đỏ mặt lên. Nhưng rồi hắn tỉnh ngộ ngay, nhìn Vi Tiểu Bảo xá dài nói:
– Đa tạ đại nhân có lòng chỉ điểm. Chuyến này ty chức xuýt nữa lại gây nên vạ lớn.
Vi Tiểu Bảo triệu tập văn võ quan viên lại, nói:
– Này Thi tướng quân lên Bắc Kinh để thỉnh mạng cho trăm họ. Nếu không thành công thì toàn đảo phải nhà tan cửa nát. Khoản thỉnh mạng phí này chẳng lẽ để một mình Thi tướng quân phải bỏ ra? Các vị lão huynh! Các vị mau mau thu xếp đỡ đần cho tướng quân mới được.
Thi Lang trị quân rất nghiêm chỉnh, làm quan rất thanh liêm. Hắn đến Đài Loan chưa từng lấy tiền bạc vàng lụa của dân gian một chút nào. Nay Vi Tiểu Bảo tiếp tay, lệnh đầu tiện của gã là đưa ra khoản thỉnh mạng phí. May mà trăm họ Ở Đài Loan làm ăn cần kiệm, nhà nào cũng phú túc. Họ lại phong phanh có chỉ dụ ban ra cho quân dân phải thiên cư, ai nấy đều hồi hộp lo sợ. Bây giờ nghe nói Thi Lang muốn tiến kinh thỉnh mạng cho trăm họ khỏi phải thiên cư, nên khoản thỉnh mạng phí ai cũng vui lòng gom góp. Mới nửa ngày đã thu được trên ba chục vạn lạng.
Vi Tiểu Bảo lại hạ lệnh mượn ở công khố ngoài sáu chục vạn lạng nữa là một trăm vạn lạng. Gã còn chỉ điểm cho Thi Lang cửa nào cần đưa nhiều tiền và chỗ nào chỉ phải đưa ít.
Thi Lang cảm kích vô cùng! Hắn lật đật thu xếp cho tới canh một mới khai thuyền được.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo ra công đường, nhìn các quan nói:
– Về vụ Thi tướng quân đêm qua khởi hành tiến binh, khoản thỉnh mạng phí tính lui tính tới còn thiếu hơn trăm vạn lạng. Bản tước vì bảo vệ trăm họ mà phải đem hết bao nhiêu tiền gom góp bấy lâu, lấy cả châu báu cùng đồ trang sức của bảy vị phu nhân mới đủ số để giao cho Thi tướng quân đem đi sử dụng. Hỡi ơi!
Làm quan ở Đài Loan thật không phải chuyện dễ dàng. Huynh đệ bất quá tạm thờixử lý mà ngày đầu tiên đã mất không một trăm vạn lạng. Thế là nước lã ra sông, trong nhà sạch sành sanh.
Viên tri phủ ở Đài Loan khom lưng đáp:
– Khải bẩm đại nhân! Đây là đại nhân vì thương yêu trăm họ mà hết lòng. Đại nhân làm cha mẹ dân chẳng khác gì Phật sống của bách tính. Ngoài trừ số tiền hơn sáu chục vạn lạng mượn ở công khố, một trăm vạn lạng của đại nhân dĩ nhiên đều do trăm họ gom góp để kính hoàn.
Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:
– Các vị mỗi người đều phải góp tiền là lại hai bàn tay trắng. Cái đó huynh đệ biết lắm. Bây giờ các vị quan to phải góp đến hàng vạn lạng, quan nhỏ cũng mấy ngàn hay mấy trăm không nhất định. Các vị đồng tâm hiệp lực cũng chỉ vì trăm họ mà thôi. Về khoản này dĩ nhiên nhân dân địa phương sẽ trả lại. Có điều chúng ta đã là quan phụ mẫu thì chẳng thể tính lời với trăm họ. Chỗ đó đành chịu thiệt vậy.
Các quan nghe nói cả mừng, đều ngỏ lời tạ Ơn. Họ nhận thấy Vi đại nhân rất thể tình cho người dưới. Phát tài đều được hưởng chung. Đúng là một vị thượng cấp tuyệt hảo.
Vi Tiểu Bảo làm quan ngày đầu tiên đã khoét được một trăm vạn lạng bạc. Từ đó trở đi tài nguyên tiếp tục cuồn cuộn đưa vào. Nghề xoay tiền của gã rất khôn ngoan, bất tất phải thuật kỹ.
Sau mấy bữa, Vi Tiểu Bảo lại sai chuẩn bị lễ vật đến nhà từ đường tế điện Trịnh Thành Công để coi hình dạng của một vị Quốc tính gia lừng danh thiên hạ xem thế nào?
Vi Tiểu Bảo vào nhà từ đường, ngẩng đầu nhìn lên thấy tượng Trịnh Thành Công ngồi nghiêm trang trên ghế. Khuôn mặt tròn trĩnh, môi trên môi dưới và nơi cằm mọc râu đen tua tủa.
Vi Tiểu Bảo nhìn tượng Trịnh Thành Công thấy tai to nhưng mắt nhỏ, cặp lông mày cong cong. Tướng mạo đầy vẻ hiền hòa, tuyệt không ra chiều hảo mại anh hùng. Trong lòng không khỏi thất vọng, gã liền quay lại hỏi:
– Tướng mạo Quốc tính gia có giống hệt thế này không?Lâm Hưng Châu đáp:
– Pho tượng này tạc theo chân tướng của Quốc tính gia dĩ nhiên giống hệt.
Quốc tính gia nguyên là người đọc sách xuất thân. Ngài nổi tiếng đại anh hùng đại hào kiệt, song tướng mạo rất nho nhã.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Té ra là thế!
Gã lại ngó thấy hai bên đặt hai pho tượng nhỏ. Pho bên trái là phụ nữ, pho bên phải là nam nhân. Gã hỏi:
– Hai pho tượng kia là ai?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Pho nữ tượng là Đổng thái phi, còn nam tượng là Tự vương gia.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Tự vương gia là ai?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Là Đại công tử của Quốc tính gia, lên tiếp nhiệm làm Vương gia.
Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:
– à!Thế ra là Trịnh Kinh. Tướng mạo Tự vương gia cũng hao hao giống tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng.
Gã lại hỏi:
– Còn tượng gia sư là Trần quân sư đặt ở đâu?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Trần quân sư không có tượng.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Mụ Đổng thái phi tồi bại quá chừng! Mau mau hạ tượng mụ xuống và kêu thợ tạc ngay pho tượng Trần quân sư đặt vào đó để bầu bạn với Quốc tính giạLâm Hưng Châu cả mừng, lập tức chuồn vào khám thờ, hạ tượng Đổng thái phi xuống.
Vi Tiểu Bảo quỳ lạy trước mặt tượng Trịnh Thái Công. Gã dập đầu mấy cái rồi khấn.
Khải bẩm Quốc tính gia! Ngài là bậc anh hùng hào kiệt. Vãn bối khấu đầu làm lễ chắc Ngài cũng vui lòng. Mụ kiền bà này làm hư đại sự của Ngài mà hàng ngày bầu bạn với Ngài, nhất định làm cho Ngài phải bực mình. Vãn bối giúp Ngài đuổi mụ đi cho và đặt tượng của gia sư tức Trần quân sư thế vào để bồi tiếp ngài.
Gã nghĩ tới sư phụ bị thảm tử, bất giác dòng châu lã chã khôn cầm.
Trăm họ Ở Đài Loan đều căm hận Đổng phi thấu xương. Còn Trần Vinh Hoa lại chăm việc khẩn điền, mở mang việc học, chấn hưng điều lợi, trừ bỏ điều hại, thương yêu trăm họ. Nhân dân đều xưng hô ông là Gia Cát Lượng ở Đài Loan.
Nhưng gặp lúc Trịnh Khắc Sảng cầm quyền, không ai dám nói đến những điều tệ hại của Đổng thái phi mà cũng không dám ca tụng Trần Vinh Hoa câu nào. Bây giờ Vi Tiểu Bảo hạ lệnh dẹp bỏ tượng Đổng thái phi khiến cho mọi người khoan khoái vô cùng! Lại thấy Vi Tiểu Bảo sụp lạy trước tượng Quốc tính gia, nước mắt đầm đìa, trăm họ đều cảm kích.
Tuy Vi đại nhân đòi tiền khá nặng, nhưng một là y làm đệ tử của Trần quân sư nên nhân dân Đài Loan đem lòng kính ái. Hai là Thi Lang dẫn quân Thanh đến lấy Đài Loan trừ diệt mảnh giang sơn của nhà Đại Minh ở ngoài biển. Vì thế mà chẳng ai ưa, mặc dù hắn là vị quan thanh liêm.
Trăm họ còn nhận thấy ở vị thiếu niên Vi đại nhân này tính nết hòa ái dễ bề thân cận và đều mong y trấn thủ Đài Loan, hay hơn hết là Thi Lang vĩnh viễn không trở về.
Nhưng sự thực trái với tâm nguyện. Sau đó hơn một tháng. Thi Lang dẫn thủy binh trở về Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo ra bờ biển nghênh tiếp. Gã thấy Thi Lang bồi tiếp một vị đại quan mặc phẩm phục vào hàng nhất phẩm đưa lên bờ.
Vị đại quan này vừa bước lên cầu thang đã lớn tiếng hô:
– Vi huynh đệ! Huynh đệ mạnh giỏi chứ? Ca ca nhớ huynh đệ muốn chết.Vi Tiểu Bảo ngưng thần nhìn lại thì ra Sách Ngạch Đồ. Gã mừng rỡ vô cùng lật đật tiến ra.
Hai người tay bắt mặt mừng đứng trên cầu thang, miệng cười ha hả.
Sách Ngạch Đồ cười nói:
– Vi huynh đệ! Ca ca đem tin mừng đến đây. Đức Hoàng thượng xuống chỉ cho huynh đệ trở về Bắc Kinh.
Vi Tiểu Bảo vừa mừng vừa lo, nghĩ bụng:
– Nếu ta chịu đi Bắc Kinh thì đã đi từ trước rồi. Vị tiểu Hoàng đế này rất cố chấp, không chịu đầu hàng ta. Ta không ưng đánh lại Thiên Địa Hội, Ngài cũng không cần nhìn mặt ta nữa.
Thi Lang cũng cười hì hì nói tiếp:
– Hoàng ân bát ngát không thể nói xiết được! Đức Hoàng thượng đã chuẩn tấu thu hồi chỉ dụ thiên di nhân dân ở Đài Loan vào nội địa.
Quân dân ở Đài Loan hơn một tháng nay ngày đêm lo ngay ngáy, chỉ sợ Hoàng đế kiên trì việc phế bỏ Đài Loan, vì họ cho là Kim khẩu của đức Hoàng đế phán ra quyết không thay đổi. Bây giờ Thi Lang nói câu này, quan viên trên bờ vừa nghe lọt tai, không nhịn được lớn tiếng reo hò và đồng thanh hoan hô:
– Muôn năm! Muôn năm! Đức kim thượng vạn vạn tuế.
Tin này không có chân mà chạy thật nhanh. Chỗ nào cũng có tiếng hoan hô nổi dậy tưng bừng. Tiếp theo là tiếng pháo nổ rền không ngớt, so với cuộc đốt pháo ngày tết còn náo nhiệt hơn.
Theo sử chép thì hồi ấy triều đình đã có quyết nghị bỏ Đài Loan. Sau này Thi Lang hết sức tranh đấu, quan đại học sĩ Lý úy cũng xoay dùm mới thành quyết định thiết lập nha quan, phái quân đồn trú. Lúc đương thời việc này tựa hồ nhỏ mọn, nhưng ảnh hưởng rất lớn cho hậu thế.
Ngày ấy nếu Thi Lang đấu tranh bất lực thì Thanh đình bình xong họ Trịnh rồi liền phóng khí Đài Loan, bắt quân dân toàn Đài Loan phải thiên di vào nội địa, tất người Hà Lan trở lại chiếm cứ và từ đó đảo Đài Loan không còn thuộc về bản đồ Trung Quốc nữa.Đương thời tuy rất nhiều người thóa mạ Thi Lang là Hán gian, nhưng đối với dân tộc Trung Hoa, hắn đã ra sức tranh đấu cho triều đình thu hồi quyết nghị bỏ Đài Loan, bảo toàn được mảnh đất lớn lao trên bản đồ Trung Quốc, vậy công lao này không phải là nhỏ. Thi Lang lại tâu lên Hoàng đế xin giảm thuế điền địa cho đảo Đài Loan và được đức Vua theo lời. Vậy hắn cũng có công với trăm họ Ở Đài Loan.
Con thứ của Thi Lang là Thi Thế Luân làm quan rất thanh liêm. Gặp trường hợp bình dân có chuyện tranh chấp với quan viên, Thi Thế Luân tất nhiên che chở bình dân. Vì thế mà nhân dân xưng hô ông bằng Thi Thanh Thiên.
Thi Thế Luân là vai chính trong truyện Thi Công án để lại cho đời sau.
Con thứ sáu của Thi Lang là Thi Thế Loa làm Thủy sư đề đốc tỉnh Phúc Kiến đồn trú ở Đài Loan năm Khang Hy thứ 16.
Sử chép rằng:
“Ngày 13 tháng 8 trời nổi quái phong bạo vũ gây nên tai nạn làm cho quân dân chết hại khá nhiều. Thế Loa đứng suốt đêm ngoài trời rồi mắc bệnh mà chết ở trong quân vào khoảng tháng chín.
Đức Vua hạ chỉ lân tuất truy tặng hàm Thái tử Thái bảo.” Thế Loa suốt đêm ở bên ngoài tắm mưa gội gió chỉ huy cuộc cứu thiên tai nhân đó mà bị bệnh mà thác, cũng đáng kể là một viên quan hết lòng thương yêu bách tính. Đó là việc về sau, hãy xin tạm gác.
Nhắc lại Sách Ngạch Đồ truyền chỉ dụ tưởng thưởng Vi Tiểu Bảo và sai gã lập tức lai kinh để bổ nhiệm vào việc khác.
Vi Tiểu Bảo tạ Ơn xong, hai người liền vào nội đường truyền cho tả hữu lui ra để bàn chuyện kín.
Sách Ngạch Đồ nói:
– Huynh đệ! Thể diện của huynh đệ phen này không phải là nhỏ, đức Hoàng thượng sợ trong lòng huynh đệ còn có điều úy kỵ nên đặc biệt sai tiểu huynh đến thúc giục. Huynh đệ có biết Hoàng thượng sắp phái huynh đệ đi làm sứ mạng gì không?Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:
– Đức Hoàng thượng thần cơ diệu toán thì bọn nô tài chúng ta làm sao mà đoán thấu được?
Sách Ngạch Đồ ghé miệng vào bên tai gã khẽ nói:
– Đánh La Sát quỷ!
Vi Tiểu Bảo sửng sốt rồi nhảy reo lên:
– Tuyệt diệu!
Sách Ngạch Đồ nói:
– Đức Hoàng thượng đã bảo huynh đệ được tin này nhất định cao hứng vô cùng, quả nhiên đúng thiệt. Huynh đệ! Bọn quỷ La Sát chiếm cứ một giải Hắc Long Giang của chúng ta từ triều Thuận Trị. Bọn chúng rất đỗi ngông cuồng. Đức tiên đế khoan hồng đại lượng, không muốn chấp trách. Ngờ đâu bọn quỷ La Sát được đằng chân lân đằng đầu, chiếm đất mỗi ngày mỗi nhiều. Tỉnh Liêu Đông là nơi căn bản của nhà Đại Thanh ta thì để bọn quỷ đó uy hiếp thế nào được? Hiện nay đã dẹp xong loạn Tam Phiên và bình trị họ Trịnh ở Đài Loan rồi, nhà nước không còn việc gì nữa, nên đức Hoàng thượng quyết dùng binh để đối phó với La Sát.
Vi Tiểu Bảo ăn không ngồi rồi ngoài đảo Thông Cật chắn ngán chẳng khác gì đánh bài cẩu rút phải “mười tịt” hoài. Nay gã được tin này nức lòng nở dạ, há hốc ra không ngậm lại được nữa.
Sách Ngạch Đồ lại nói:
– Đức Hoàng thượng không muốn bới việc đã gửi mấy đạo chỉ dụ cho Quốc vương nước La Sát mà thủy chung họ không phúc đáp. Sau có sứ thần nước Hà Lan chuyển bẩm nói là nước La Sát tuy lớn nhưng rất man di mọi rợ. Khắp nước không một người nào hiểu được văn tự Trung Quốc. Họ tiếp được chỉ dụ của Hoàng đế ta mà chẳng hiểu chi hết, nên không biết đường phúc đáp. Đã thế quân La Sát thủy chung vẫn không đình chỉ việc chiếm đất.
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Đức Hoàng thượng còn nói Trung Hoa chúng ta là thượng quốc, biết điều nhân nghĩa, chẳng thể không giáo huấn man di đã mở cuộc giết tróc. Vậy trướchết là xử hòa hài, huấn dụ họ một phen dể họ có cơ hội cải quá. Nếu sau khi huấn dụ, họ vẫn bướng bỉnh không tuân giáo hóa, bây giờ sẽ ra tay tru lục. Các vị đại thần ở trong triều không thông hiểu ngôn ngữ La Sát, chỉ có một mình huynh đệ.
Lời chú của tác giả:
Thời bấy giờ cuộc giao thiệp Trung – Nga, hai bên không hiểu ngôn ngữ, không thông văn tự là chuyện thật. Sử chép rằng:
Sa Hoàng nước Nga gửi thư cho Vua Khang Hy có câu:
“Trước đức Hoàng đế có ban cho cuốn sách, nhưng hạ quốc không sao hiểu được, hãy còn bỏ đó”.
Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:
– Té ra là vì ta hiểu tiếng quỷ La Sát mà tiểu Hoàng đế chịu đầu hàng ta.
Vẻ đắc ý của gã lộ ra mặt.
Sách Ngạch Đồ hỏi:
– Huynh đệ tinh thông nói cùng văn tự nước La Sát dĩ nhiên là điều đáng quý lắm rồi, nhưng còn một chuyện lớn càng không ai theo kịp. Nghe nói tỷ tỷ của Quốc Vương La Sát cũng làm Nhiếp chính mà vị nữ vương này lại là chỗ rất thân mật với huynh đệ có đúng thế không?
Vi Tiểu Bảo cười ha hả đáp:
– Nữ nhân nước La Sát đầy mình lông lá. Nhiếp chính nữ vương Tô Phi á tướng mạo coi được, nhưng nàng da to, sờ vào ráp lắm.
Sách Ngạch Đồ cười nói:
– Đức Hoàng thượng đã muốn huynh đệ xuất mã, huynh đệ ráng làm cho nên việc, dù có phải sờ mó cũng cố mà chịu.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:
– Không tiêu được đâu! Không tiêu được đâu!
Sách Ngạch Đồ nói:
– Huynh đệ sờ một cái mà hai nước giao hảo, từ đây khỏi tai họa binh đao.
Đó là một kỳ công để an bang định quốc.
Vi Tiểu Bảo cười nói:- Té ra đức Hoàng thượng chẳng phải phái tiểu đệ dẫn quân đi đánh giặc mà là đi thi triển “Thập bát mô thần công”. Ha ha! Thế này thì tức cười đến chết!
Đoạn gã hắng giọng cất tiếng hát:
– “Một ta sờ, hai ta sờ, sờ vào mái tóc vàng hoe của nữ vương nước La Sát.
Tóc nữ vương chẳng khác hoàng kim. Vi Tiểu Bảo tha hồ mà xài” Hai người trông nhau cả cười.
Vi Tiểu Bảo chợt nhớ tới một điều vội hỏi:
– Tại sao đức Hoàng thượng lại biết chuyện tiểu đệ dính dấp với nữ vương nước La Sát? Minh kiến của ngài trông xa muôn dặm, chẳng lẽ cả chuyện này Ngài cũng nhìn thấy?
Sách Ngạch Đồ cười nói:
– Cái đó thì tiểu huynh không thể biết được. Hoặc giả trong bọn thuộc hạ của huynh đệ có người khải tấu đến tai Hoàng thượng.
Vi Tiểu Bảo vỗ đùi nói:
– Phải rồi! Nhất định là thằng cha Phong Tế Trung đã tâu động cửu trùng.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi đến tình hình nước La Sát xâm chiếm Hắc Long Giang.
Sách Ngạch Đồ liền thuật một cách tường tận:
– Nguyên từ đời Vạn Lịch nhà Minh, người La Sát đã quyết ý xâm lẫn phương Đông.
Nước La Sát tức là nước Nga La Tư. Trong những truyện Thanh sử cảo, Lang Viên có nói:
Nga La Tư hay La Sát chỉ là phiên âm mau hay chậm mà thôi. Đọc chậm là Nga La Tư mà đọc nhanh thành La Sát. Theo bản âm của tiếng Nga thì đọc thành La Sát tương đối giống hơn.
Nước La Sát kế tiếp xây những thành Thác Mộc Tư Khắc, Diệp Ni Tái Tư Khắc, Nhã Khố Thứ Khắc, Ngạc Hoắc Thứ Khắc ở đất Tây Bá Lợi á.
Năm Thuận Trị thứ sáu, người La Sát lại xây thành trên núi Lộc Đỉnh kêu bằng A Nhĩ Ba Thành, người Trung Quốc gọi là Nhã Tát Khắc thành. Đồng thời chúngtheo dòng sông tiến về phía Đông. Dọc đường chúng cướp bóc nhũng nhiễu nhân dân.
Năm Thuận Trị thứ chín, quan đô thống nhà Mãn Thanh ở Ninh Cổ Tháp là Hải Sắc dẫn hai ngàn quân đánh đuổi bọn La Sát ở bên bờ sông Hắc Long Giang.
Về sau lại có cuộc giao phong ở cửa sông Tùng Hoa giang, quan đô thống nhà Mãn Thanh là Minh An Đạt Lý, dũng cảm tiến đánh, phá tan quân La Sát.
Quân La Sát lui về phía tây đắp thành ở Ni Bố Sở, một mặt sai sứ về Mạc Tư Khoa xin viện binh. Sứ giả dọc đường phao ngôn là suốt giải Hắc Long Giang đầy rẫy kim ngân, trâu ngựa từng đàn. Phòng ốc của dân cư đều dát vàng. Vì thế người La Sát mơ mộng một phen đại phát tài, liền kết thành từng đội tiến về phía đông.
Dọc đường chúng cướp bóc tàn hại trăm họ, nhất là toán kỵ binh Kha Tát Khắc lại càng tàn bạo.
Quan đô thống nhà Mãn Thanh ở Ninh Cổ Tháp là Sai Nhĩ Hổ Đạt và tướng quân Ba Hải lĩnh binh cự địch vào những năm Thuận Trị thứ 16, 17, thắng liền mấy trận, giết chết viên đại tướng thống lĩnh quân La Sát và chém giết toán kỵ binh Kha Tất Khắc đến quá nửa. Từ đó, người La Sát không dám tiến đến bờ sông Hắc Long Giang nữa.
Mấy năm đầu Vua Khang Hy, quân dân La Sát lại kéo đến, dùng Nhã Tát Khắc thành làm căn cứ địa.
Vua Khang Hy dần dần lớn tuổi biết dã tâm của người La Sát rất lớn, liền hạ lệnh gia tăng cuộc phòng thủ và dời đội thủy quân ở Cát Lâm đến trú phòng tại Hắc Long Giang.
Quân La Sát cũng không ngớt gia tăng thêm mỗi ngày một nhiều, chúng đắp thành Nhã Tát Khắc rất kiên cố. Đồng thời đặt nhà trạm trên đường giao thông đến bản độ nước La Sát. Chúng quyết ỷ lấy cả khu vực rộng lớn theo giải Hắc Long Giang.
Khi ấy Vua Khang Hy đang đem toàn lực để đối phó với Ngô Tam Quế, không thể chia quân chống cự bọn xâm lược La Sát, phải chờ khi bình xong tam Phiên, họ Trịnh ở Đài Loan cũng quy hàng, không còn lo mối lo nội bộ, ngài mới yên tâm đối ngoại.Nhà Vua nhớ tới Vi Tiểu Bảo đã qua Mạc Tư Khoa, chẳng những gã hiểu nội tình nước La Sát mà còn có mối quan hệ không phải tầm thường với Nhiếp chính nữ vương hiện đang nắm quyền bính nước La Sát. Gã còn được nàng phong tước cho nữa. Đây là một con cờ lợi hại trong tay khi nào Hoàng đế lại không dùng tới?
Nhà Vua vừa hay tin Vi Tiểu Bảo đã đến Đài Loan, liền sai Sách Ngạch Đồ đi triệu về tức khắc.
Vi Tiểu Bảo đem theo vợ con, lại sai phu khuân vác món tiền “thỉnh mạng tài” lấy được ở Đài Loan xuống thuyền bắc tiến.
Lúc lâm hành gã còn đòi Thi Lang trả lại những tướng lãnh thủ hạ của họ Trịnh ngày trước là Hà Hựu, Lâm Hưng Châu, Hồng Triều cùng năm trăm đằng giáp binh.
Thi Lang biết chuyến này gã tiến kinh nhất định lại được trọng dụng. Hắn còn trông cậy gã ở trong triều bảo vệ cho mình, nên gã đòi điều gì hắn cũng chịu ngay. Hắn còn đưa tặng một phần hậu lễ cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ.
Trăm họ Ở Đài Loan biết triều đình sở dĩ thủ tiêu quyết định di dân vào nội địa là nhờ công đức cao cả của thiếu niên Vi đại nhân này, nên ai ai cũng đem lòng cảm kích. Nhân dân lấy cả Vạn dân tán, Hộ dân kỳ ra làm hành trang để tiễn đưa.
Lúc Vi Tiểu Bảo xuống thuyền, hai vị kỳ lão trụt giày gã ra giơ cao lên nói là xin lưu lại để làm kỷ niệm.
Lễ thoát hài này nguyên chỉ dành cho những quan địa phương thanh chính của Thanh triều. Trăm họ quyến luyến mới dùng nghi tiết này.
Vi Tiểu Bảo là một viên quan ăn tiền mà cũng được hưởng vinh dự đó thì thật là chuyện tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả. Cuộc hoan tống còn pháo nổ rầm trời, tiếng reo dậy đất, tưởng không cần thuật kỹ.
Hồi 229
Tưởng hồn ma hóa ra người sống
Một hôm thuyền tới Đường Cô, Vi Tiểu Bảo cùng Sách Ngạch Đồ lên bờ, qua Thiên Tân về đến Bắc Kinh.
Vi Tiểu Bảo vào đến cửa thành, tưởng chừng như đã qua một đời người. Gã nức lòng hởi dạ, tấm thân nhẹ nhàng như muốn bay lên tiên cảnh. Gã vào bái yết đức Hoàng đế ngay tức khắc.
Vua Khang Hy đang ở Ngự thư phòng truyền chỉ cho gã vào triều kiến.
Vi Tiểu Bảo vén rèm cửa tiến đến trước mặt nhà Vua phục xuống dập đầu lạy. Gã chưa đứng thẳng người lên, bất giác trong lòng nổi mối bi thương, cứ nằm phục dưới đất lớn tiếng khóc ròng.
Nhà Vua ngó thấy gã, trong lòng nửa phần hoan hỷ, nửa phần tức giận, bụng bảo dạ:
– Thằng nhỏ này vô pháp vô thiên dám trái thánh chỉ. Chuyến này tuy phái gã đi sứ, nhưng cũng cần trừng giới gã một phen để gã khỏi ỷ mình được sủng ái mà sinh kiêu ngạo. Nếu không thế gã sẽ thành con ngựa bất kham khó mà kiềm chế được.
Tuy đức Vua định bụng như vậy, không ngờ Ngài thấy Vi Tiểu Bảo khóc lóc, long tâm lại nhũn ra. Ngài cười hỏi:
– Con mẹ nó! Thằng lỏi này vừa thấy lão gia, sao lại khóc òa lên?
Vi Tiểu Bảo vừa khóc vừa tâu:
– Nô tài đã tưởng kiếp này không còn cơ hội thấy mặt Hoàng thượng nữa. Mà bữa nay nô tài lại được triều kiến long nhan. Nỗi mừng vui quá độ khiến nô tài xúc động không cầm được nước mắt.
Vua Khang Hy cười nói:
– Dậy đi! Dậy đi! lại đây cho ta coi.
Vi Tiểu Bảo lồm cồm đứng lên, mặt mũi đầy nước mắt nước mũi, bên môi lộ một nụ cười.
Đức Vua cười nói:
– Con mẹ nó! Thằng lỏi này cao lớn gớm rồi!
Bất giác Ngài nổi đồng tâm, dời khỏi ngự tọa, nói:
– Chúng ta thử so xem ta cao hay là ngươi cao.
Ngài tiến lại đứng sát vào lưng Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo thấy bề cao của nhà Vua cũng tương tự như mình, nhưng Ngài đã muốn so sánh cao thấp, chẳng lẽ lại để tôi cao hơn chúa, gã liền co đầu gối lại một chút.
Vua Khang Hy đưa tay lên sờ hai cái đầu, thấy mình cao hơn một tấc liền cười nói:
– Chiều cao của chúng ta tương tự như nhau.
Đoạn Nhà Vua trở gót bước đi mấy bước, vừa cười vừa hỏi:
– Tiểu Quế Tử! Ngươi sinh hạ được mấy trai mấy gái rồi?
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Nô tài kém cỏi lắm, mới được hai trai một gái.
Nhà Vua cười ha hả nói:
– Vụ này ta giỏi hơn ngươi. Hiện nay đã có bốn trai ba gái.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Thánh thượng hùng tài đại lược, dĩ nhiên… dĩ nhiên không ai bì kịp.
Nhà Vua cười nói:
– Đã mấy năm qua mà đường học vấn của ngươi chẳng tiến thêm được chút nào. Việc sinh hạ tử nữ thì có liên quan gì đến hùng tâm đại lược.
Vi Tiểu Bảo tâu:- Ngày trước Vua Văn Vương nhà Chu sinh hạ một trăm con. Đại phàm các vị hảo Hoàng đế đều đông con.
Vua Khang Hy cười hỏi:
– Sao ngươi biết chuyện đó?
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Hoàng thượng phái nô tài đi câu cá cũng tỷ như Chu Văn Vương và Khương Thái Công. Dĩ nhiên nô tài phải hỏi cho biết chuyện Chu Văn Vương, phòng khi Hoàng thượng hỏi đến, biết đường mà tấn đối.
Mấy năm nay Vua Khang Hy lo lắng việc đánh dẹp Ngô Tam Quế. Ngài bận bã suốt ngày đêm lo mưu tính kế, điều động quốc gia đại sự. Bên mình Ngài thiếu Vi Tiểu Bảo, một kẻ thần tử nhỏ tuổi, đàm tiếu để giải khuây. Nhiều lúc Ngài cảm thấy cô đơn. Bây giờ quân thần trùng hội, lòng dạ thảnh thơi, liền nói chuyện phiếm một lúc. Đức Vua hỏi đến các sinh nhai của hắn ở đảo Thông Cật cũng như dân tình ở Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo kể lại tình hình sinh sống của gã ngoài hải đảo rồi đáp:
– Đất cát ở Đài Loan rất phì nhiêu, mức sản xuất thật khả quan. Trăm họ Ở trên đảo đều sinh hoạt sung túc. Dân chúng được tin Hoàng thượng chuẩn cho họ Ở lại Đài Loan đều cảm kích hoàng ân không biết đến thế nào mà kể! Họ coi Hoàng thượng như trời cao đất dầy, như cha sinh mẹ đẻ.
Vua Khang Hy gật đầu nói:
– Việc thi chính trước hết là đừng quấy nhiễu nhân dân. Trăm họ đã an cư lạc nghiệp ở Đài Loan mà cưỡng ép họ phải thiên cư vào lục địa là một vụ rất phiền nhiễu. Các đại thần trong triều chẳng hiểu gì về tình hình Đài Loan nhắm mắt đưa ra đề nghị càn rỡ, xuýt nữa làm lỡ đại sự. Ngươi cùng Thi Lang hết sức khuyên can.
Công lao này không phải là nhỏ.
Vi Tiểu Bảo nhảy xổ lại, quỳ mọp xuống dập đầu tâu:
– Nô tài mấy lần vi chỉ, dù phải chặt đầu đến 17, 18 lần cũng đáng lắm. Bất luận nô tài có công lao gì, Hoàng thượng cũng bất tất phải để tâm. Nô tài chỉ khẩncầu đại đức tha mạng và chuẩn cho nô tài được phục thị luôn bên mình Hoàng thượng.
Vua Khang Hy mỉm cười đáp:
– Ngươi đã biết chặt đầu đến 17, 18 lần cũng đáng, nhưng tiếc rằng ngươi lại chẳng có 18 cái đầu, nếu không ta nhất định chặt đi 17 cái.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Dạ dạ! Nô tài không cần nhiều đâu, chỉ cầu Hoàng thượng để lại một cái cho còn miệng ăn cơm và nói năng được là đủ lấy làm thỏa mãn lắm rồi.
Vua Khang Hy nói:
– Cái đầu này còn để hay không là ở nơi ngươi. Từ nay trở đi ngươi hết lòng trung, không bao giờ dám vi chỉ thì đầu còn, mà trái lại là mất.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Nô tài chữ trung vẫn đội trên đầu, trung tâm cảnh cảnh, xích đảm trung tâm, tận trung báo quốc.
Nhà Vua cười hỏi:
– Những thành ngữ về chữ trung, ngươi nhớ được khá nhiều. Còn gì nữa không?
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Cả tấm lòng của nô tài là một chữ trung, dĩ nhiên nhớ nhiều. Còn… còn trung quân ái quốc, trung thần bất phụ tử, phụ tử bất trung thần… lại còn trung hậu lão thực…
Vua Khang Hy nói:
– Đứng dậy đi! Ngươi mà trung hậu lão thực thì trong thiên hạ chẳng còn một tên nào điêu ngoa giảo hoạt nữa.
Vi Tiểu Bảo đứng dậy nói:
– Tâu Hoàng thượng! Nô tài chỉ trung với một người là đức Hoàng thượng, còn đối với kẻ khác dĩ nhiên không trung mấy, có khi còn gian nữa là khác. Nô tài có tính lưu manh, cái đó Hoàng thượng cũng biết rồi. Nhưng đối với Hoàng thượngdốc dạ trung tâm, đối với bạn bè hết lòng nghĩa khí. Gặp trường hợp trung nghĩa khôn vẹn hai bề, nô tài đành rụt đầu rụt cổ ngồi câu cá ngoài đảo Thông Cật.
Nhà Vua đáp:
– Ngươi bất tất phải lo âu. Ta không bắt ngươi đi đánh Thiên Địa Hội nữa…
Ngài chắp tay để sau lưng, bước đi mấy bước, chậm rãi nói tiếp:
– Đối với bằng hữu hết lòng nghĩa khí, đó là một đức tốt, ta cũng không trách ngươi. Thánh nhân giảng đạo trung thứ chì chữ trung không phải chỉ nói về việc thờ Vua mà đối với ai đã tận tâm kiệt lức cũng là hết lòng trung. Hai chữ trung nghĩa tuy một mà hai, tuy hai mà một. Ngươi chẳng thà chịu chết chứ không phụ bạn, không vì vinh hoa phú quý mà bán đứng bạn hữu là một điều hiếm có, theo đúng phong độ của cổ nhân. Ngươi đã không phụ bạn hữu, dĩ nhiên là không phụ ta. Tiểu Quế Tử! Ta miễn tội trạng cho người chẳng phải hoàn toàn vì người đã lập nhiều công lao từ trước, cũng không phải vỉ ngươi chơi với ta từ thưở nhỏ, mà là vì ngươi biết trọng nghĩa khí.
Vi Tiểu Bảo cảm kích vô cùng. Gã nghẹn ngào tâu:
– Nô tài… nô tài chẳng hiểu chi hết, mà chỉ biết người ta thật lòng đối đãi với mình, thì mình không thể phản bạn được.
Vua Khang Hy gật đầu hỏi:
– Nhiếp chính nữ vương nước La Sát đối với ngươi tử tế lắm, nay ta phái ngươi đi đánh y thì ngươi tính sao?
Vi Tiểu Bảo bật lên tiếng cười hích hích đáp:
– Nhiếp chính nữ vương bị người giam lại xuýt nữa bỏ mạng. Nô tài xui nàng cổ động bọn lính súng đoạt được ngôi cao. Như thế là đã trả ơn rồi. Nàng phái binh định cướp đoạt giang sơn cẩm tú của Hoàng thượng thì chẳng thể nào dung tha được. Người đàn bà này cực kỳ lãng mạn. Bữa nay đi theo một nam nhân, ngày mai lại dính dấp với kẻ khác. Như thế chẳng thể nói là chân tâm được. Đáng tiếc nước La Sát ở xa quá, không thì nô tài dẫn một cánh quân đến bắt nữ vương đó đưa về để Hoàng thượng coi, kể ra cũng thú.
Vua Khang Hy nói:- Năm chữ “Nước La Sát xa quá” là một điều khẩn yếu. Chúng ta phải tính làm sao đánh một trận cho thắng ngay. Hỏa khí của La Sát tuy lợi hại, kỵ binh của La Sát tuy kiêu dũng, nhưng bọn chúng ở xa, mà chúng ta ở gần. Quân La Sát vượt đường vạn dặm, việc tiếp tế binh sĩ, lừa ngựa, hỏa khí, đạn dược, lương thảo, quần áo không phải chuyện dễ dàng…
Nhà Vua dừng lại một chút rồi tiếp:
– Hiện ta đã phái Hộ bộ thượng thư là Y Tang xây đắp hai thành ái Huy và Hô Mã Nhĩ, chứa lương thảo cùng đạn dược rất nhiều, lại thiết lập mười nhà trạm lớn để cung ứng quân nhu lương thảo một cách dễ dàng và liên tục không bị gián đoạn. Hôm trước ta lại truyền chỉ đến Mông Cổ không cho họ giao dịch với người La Sát. Ta còn phái Hắc Long Giang tướng quân là Tát Bố Tố dẫn kỵ binh đến những nơi trồng lúa tiểu mạch và cao lương của người La Sát để phóng hỏa đốt hết, hoặc thấy lừa ngựa của quân La Sát cũng giết con mẹ nó đi.
Lời chú của tác giả:
– Những lời thuật trên đây đều là sự thực theo trong sử ký. Vua Khang Hy dụng binh thắng được nước La Sát chẳng phải là chuyện may mắn mà vì kế hoạch chu đáo, chỉ huy đúng phép, chiến lược chuẩn đích.
Vi Tiểu Bảo cả mừng tâu:
– Hoàng thượng điều động như vậy thì đúng là ngồi trong… cái gì… để quyết thắng ra ngoài ngàn dặm. Trận đánh này thế là thắng được phần nửa rồi.
Vua Khang Hy nói:
– Chưa chắc đâu. La Sát là một nước lớn. Theo lời Nam Hoài Nhân thì địa đồ La Sát còn rộng hơn Trung Quốc chúng ta, nhất quyết không thể khinh địch. Bọn ta mà thất bại để mất Liêu Đông là dao động đến Trung Nguyên. Còn bọn họ có thua cũng không quan hệ đến đại cục, chỉ phải lui về phía tây mà thôi. Vì thế trận đánh này nhất định phải thắng, không thể thua được. Ngươi mà thất bại thì ta phải lĩnh binh thân chinh. Khi ấy việc đầu tiên của ta là chặt đầu ngươi.
Nhà Vua nói mấy câu này vẻ mặt cũng như thanh âm đều nghiêm khắc.
Vi Tiểu Bảo sợ hãi tâu:- Xin Hoàng thượng vạn an. Cái đầu của nô tài không giữ vững được ở trên cổ thì đã bị quân La Sát chém rồi, quyết không đến Hoàng thượng phải ra tay.
Vua Khang Hy nói:
– Ngươi hiểu rõ được điểm này là hay. Binh cơ hung hiểm, chiến sự nguy nan không ai nắm vững được phần thắng. Ta chỉ cần ngươi chớ coi thường. Đánh trận không phải trò đùa.
Vi Tiểu Bảo kính cẩn đáp:
– Dạ dạ! Nô tài xin thận trọng.
Vua Khang Hy lại nói:
– Nếu chỉ có việc hành quân đánh trận thì không cần đến ngươi đi. Nhưng chuyến này khai chiến với nước La Sát không phải để tiêu diệt họ, chỉ cốt cho họ thấy khó mà rút lui, không dám xâm phạm cương thổ của ta nữa. bản ý của ta là như vậy. Vì thế cần kiêm dùng cả ân lẫn uy. Bọn họ đội đức cảm ơn, hai nước vĩnh viễn hòa hảo mới là thượng sách. Nếu chỉ một đường chém giết thì nước La Sát có bại trận cũng làm cho quốc vương họ thẹn quá hóa giận, sẽ điều động cả nước sang đánh. Dù chúng ta có thắng trận cũng gây nên mối họa về binh đao không bao giờ chấm dứt được. Lão tử đã nói:
“Việc binh đao là chuyện bất tường, không phải hành động quân tử, bất đắc dĩ mới phải dùng tới”. Nếu hòa được thì hòa đi là hơn. Không đánh mà khiến cho quân đội của người phải khuất phục là thượng thượng đại cát.
Nhà Vua nhìn thẳng vào mặt gã nói tiếp:
– Nếu ngươi thuyết phục được Nhiếp chính nữ vương nước La Sát hạ lệnh lui binh, hai nước giảng hòa thì công lao của người lại càng lớn nữa.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Nô tài gặp tướng La Sát sẽ đem thánh dụ của Hoàng thượng mở đường cho bọn họ, lại bảo họ chuyển lời đến Nhiếp chính nữ vương.
Vua Khang Hy nói:- Ta đã sai mấy vị giáo sĩ ở Tây dương đi hỏi cho biết những cố sự trải bao triều đại của nước La Sát, cùng là phong thổ, địa lý, quân chinh, nhân sự Ở nước này…
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Hay lắm! Hay lăm! Thế là Hoàng thượng đã biết người biết mình, tất nhiên bách chiến bách thắng.
Nhà Vua mỉm cười nói:
– Bọn giáo sĩ đều nói người La Sát khinh khi kẻ hiền lành, sợ hãi người hung dữ. Nếu ngươi chỉ một niềm dùng lời tử tế với họ thì họ được đằng chân lân đằng đầu, lại càng làm dữ. Vì thế cần lộ ra cho họ biết lực lượng và không dám trêu vào tay bọn ta. Do đó chúng ta một mặt phải huy động đại quân, chuẩn bị đầy đủ, muốn đánh là đánh. Mặt khác mình tỏ ra là một thượng quốc chuộng lễ nghĩa không ỷ mạnh để uy hiếp ai.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Nô tài hiểu rồi. Chúng ta có lúc phải đỏ mặt rút đao tỏ vẻ hùng hổ, có khi đưa bộ mặt trắng ra cười hì hì để vuốt ve họ. ý như Gia Cát Lượng thất cầm Mạnh Hoạch khiến họ thua mà phải tâm phục không dám tạo phản nữa.
Vua Khang Hy cười khành khạch đáp:
– Chính là thế đó.
Vi Tiểu Bảo thấy tiếng cười của nhà Vua có điều cổ quái, gã xoay chuyển ý nghĩ, hiểu rõ lý lẽ, liền cười nói:
– Lại tỷ như đức vạn tuế thất cầm Tiểu Quế Tử, khiến cho nô tài vừa cảm kích vừa sợ hãi, từ nay không dám dở quẻ. Tiểu Quế Tử lại ví như Tôn Ngộ Không, dù thần thông quảng đại cũng không tài nào nhảy ra khỏi bàn tay nhà Phật của đức vạn tuế.
Vua Khang Hy cười nói:
– Ngươi càng lớn tuổi lại càng khiêm nhường. Giả tỷ muốn nhảy ra khỏi lòng bàn tay ta thì ta cũng không nắm giữ được.
Vi Tiểu Bảo đáp:- Nô tài được ở trong lòng bàn tay Hoàng thượng thì trong dạ khoan khoái vô cùng, khi nào còn nhẩy ra nữa?
Vua Khang Hy nói:
– Về vụ Ngô Tam Quế, kể ra công lao của ngươi không phải là nhỏ. Trong công cuộc này không biết ngươi có theo kịp chăng? Nay ta phái ngươi thống lãnh Thủy lục tam quân đi đánh nước La Sát, đã cho đắp thành Nhã Tát Khắc trên núi Lộc Đỉnh và phong ngươi làm Tam đẳng Lộc Đỉnh Công, Phủ viễn đại tướng quân.
Võ tướng có bọn đô thống Bằng Xuân, Hắc Long Giang tướng quân Tát Bố Tố, Ninh Cổ Tháp tướng quân Ba Hải giúp sức, văn có Sách Ngạch Đồ giúp đỡ. Trước hết chúng ta hãy lấy một vạn quân mã bộ, năm ngàn thủy binh. Nếu chưa đủ thì muốn lấy thêm bao nhiêu nữa cũng được. Trong thành ái Huy, Ninh Cổ Tháp đã dồn chứa lương thảo đủ dùng cho đại quân được ba năm. Ngoài ra, quân nhu, lừa ngựa đều chuẩn bị đầy đủ. Về dã chiến pháo có một trăm năm mươi cỗ, súng đánh thành năm mươi cỗ. Như vậy đã đủ chưa?
Vua Khang Hy nói một câu, Vi Tiểu Bảo lạy tạ Ơn một lời. Gã chờ đức Vua nói xong rồi quỳ xuống dập đầu lia lịa.
Vua Khang Hy lại nói:
– Kỵ binh và bộ binh của nước La Sát đóng ở Nhã Tát Khắc và Ni Bố Sở không đầy hai ngàn. Chúng ta dùng binh lực gấp bảy tám lần để đối phó, thế là sức nặng muôn cân đối với họ rồi. Ngươi đừng để oai danh của người Trung Hoa bị tổn thương mới được.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Trận đánh này nô tài đại biểu cho đức Hoàng thượng để xuất binh, bọn nô tài chỉ chùn nhụt một chút cũng đủ khiến người La Sát coi thường. Xin Hoàng thượng cứ yên tâm.
Nhà Vua hỏi:
– Ngươi còn cần dùng gì nữa không?
Vi Tiểu Bảo đáp:- Nô tài có đem theo năm trăm quân đằng giáp ở Đài Loan về kinh. Bọn chúng đã đánh trận với quân Hồng Mao, chuyên chống cự hỏa khí. Nô tài tưởng nên dẫn bọn này đi chinh tiễu La Sát.
Vua Khang Hy cả mừng nói:
– Như vậy càng hay. Bọn cựu bộ của Trịnh Thành Công đã đả bại toán quân Hồng Mao nước Hà Lan mà ngươi dẫn đi chiến đấu với bọn La Sát thì chúng ta lại nắm chắc thêm mấy phần thủ thắng. Ta vẫn lo âu hỏa khí của quân La Sát rất lợi hại có thể gây nên thương vong quá nhiều cho tướng sĩ bên ta.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Đằng bài có thể cản trở súng đạn đối phương. Quân đằng giáp lại lăn mình dưới đất xông tới dùng đao chém vào chân quân địch.
Nhà Vua nức nở khen:
– Thế thì tuyệt diệu! Thế thì tuyệt diệu!
Vi Tiểu Bảo lại tâu:
– Nô tài có một tiện thiếp, ngày trước đã theo đến Mạc Tư Khoa, nên thị cũng tinh thông La Sát quỷ thoại. Nô tài thỉnh cầu Hoàng thượng gia ân chuẩn cho thị được đi theo trong quân đề phòng khi dùng đến.
Nên biết lề luật của Thanh triều lúc ra quân mà đem thao gia quyền là một tội lớn, vì thế Vi Tiểu Bảo phải tấu trình trước.
Vua Khang Hy gật đầu đáp:
– Ta biết rồi. Ngươi đi lập công cho lẹ.
Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ Ơn lui ra. Gã vừa tới cửa phòng, nhà Vua lại hỏi:
– Nghe nói sư phụ ngươi là Trần Vinh Hoa bị Trịnh Khắc Sảng giết chết phải không?
Vi Tiểu Bảo sửng sốt đáp:
– Dạ!… Đúng thế!
Nhà Vua dặn:- Nay Trịnh Khắc Sảng đã quy hàng triều đình và ta chuẩn cho rồi. Vậy con cháu họ Trịnh nhất luật được bảo toàn. Ngươi đừng làm khó dễ gì với hắn.
Vi Tiểu Bảo không làm sao được dĩ nhiên phải vâng chỉ.
Chuyến này gã lai kinh định kiếm Trịnh Khắc Sảng để rửa hận. Ngờ đâu Vua Khang Hy đã tiên liệu và dăn dò như vậy mà còn đụng đến hắn tức là vi chỉ. Gã tự hỏi:
– Chẳng lẽ mối thù hạ sát sư phụ mà ta bỏ qua được ư?
Gã cúi đầu từ từ cất bước. Bỗng nghe tiếng người hô:
– Vi đại nhân! Cung hỷ đại nhân.
Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm rất quen thuộc, ngửng đầu lên nhìn thấy người đứng trước mặt thân cao vai rộng, đang cười hề hề nhìn mình. Người này chính là quan Ngự tiền thị vệ tổng quản Đa Long.
Vi Tiểu Bảo giật nẩy mình lên. Ngày trước gã trốn ra khỏi Hoàng cung về phủ, chính gã đã vung đao đâm chết Đa Long. Gã tự hỏi:
– Phải chăng đây là hồn ma xuất hiện để đòi mạng?
Gã sợ quá, toàn thân run bần bật đã toan xoay mình bỏ chạy rồi lại muốn quỳ xuống năn nỉ xin tha, nhưng hai chân gã vẫn đóng đinh xuống đất, không sao di động được nửa bước. Hạ thể trước sau đều cấp bách, còn thiếu té đái vãi phân.
Bỗng thấy Đa Long tiến gần lại nắm lấy tay gã cười nói:
– Hảo huynh đệ! Lâu nay không thấy mặt, ca ca lúc nào cũng tưởng nhớ. Mọi việc đều được như ý cả chứ? Nghe nói huynh đệ Ở Thông Cật đảo câu cá cho Hoàng thượng. Thỉnh thoảng lại được Thánh chúa vinh thăng quan tước. Ca ca cũng vui mừng.
Vi Tiểu Bảo thấy bàn tay lão nóng hổi. ánh mặt trời đã chiếu vào hành lang.
Bên người lão có bóng hẳn hoi, dường như không phải ma quỷ. Nỗi kinh hãi đã giảm bớt một phần.
Gã ngần ngừ đáp:- Dạ dạ!…
Bây giờ gã lại sợ Đa Long nghĩ tới mối thù cũ tính bài trả oán. Gã rất nghi ngờ vì hiển nhiên gã đã phóng trủy thủ đâm vào trái tim lão thì sao lại không chết?
Trong lúc hoang mang, gã không tìm ra được đáp án.
Lại nghe Đa Long nói:
– Ngày đó ca ca ở trong phủ huynh đệ bị người ám toán may nhờ huynh đệ đánh đuổi thích khách, ca ca mới được toàn mạng. Vụ này ca ca chưa có dịp ngỏ lời tạ Ơn, nhưng trong lòng lúc nào cũng ghi nhớ.
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Huynh đệ Ở Đài Loan còn gửi Thi Lang cho quà, ca ca thật cảm động quá!
Vi Tiểu Bảo thấy vẻ mặt lão rất thành khẩn, quyết không phải đưa lời móc máy. Gã nghĩ thầm:
– Lão làm Ngự tiền thị vệ tổng quản, làn cận thần bên mình Hoàng thượng, Thi Lang chuyến vừa rồi về kinh đút lót dĩ nhiên lão phải có phần. Chắc là lão hỏi Thi Lang về chuyện ta nên họ Thi nhân tiện mua chút nhân tình đã nói là trong lễ vật có phần của ta để tỏ vẻ hắn kết giao thâm hậu với ta ở Đài Loan. Kể ra Thi Lang cũng khôn ngoan. Hắn nói thế phòng khi có ai làm khó dễ cũng phải nể mặt ta phần nào.
Rồi gã tự hỏi:
– Nhưng lão bảo ta đánh đuổi thích khách cứu lão khỏi chết thì làm gì có chuyện đó? Vụ này khiến ta phải điên đầu cũng không nghĩ ra.
Đa Long thấy sắc mặt Vi Tiểu Bảo lúc trắng bợt, lúc xanh lè, hình như trong lòng hồi hộp lo âu, liền cho là vừa rồi gã đã bị nhà Vua chỉ trích điều gì, liền tìm lời an ủi:
– Dạo này đức Hoàng thượng thường khi nóng lòng nóng ruột, chắc là vì nước La Sát khinh ta thái quá. Huynh đệ bất tất phải quan tâm. Lát nữa chúng ta vào quấy Hoàng thượng một bữa rồi sẽ nói chuyện.
Vi Tiểu Bảo đáp:- ¥n đức của Hoàng thượng như trời cao đất dầy. Ngài vừa mới thăng quan cho tiểu đệ. Tiểu đệ hết lòng cảm kích, không biết thế làm thế nào để báo đáp quân ân.
Đa Long cười nói:
– Cung hỷ! Cung hỷ! Huynh đệ làm việc mẫn cán, chia sẻ mối lo của Hoàng thượng được thăng quan là việc dĩ nhiên.
Lão nói câu này cũng lộ vẻ vui mừng.
Hồi 230
Thống lãnh ba quân làm đại soái
Vi Tiểu Bảo thấy giọng nói và vẻ mặt của Đa Long đối với mình vừa ra chiều thân thiết, vừa tỏ vẻ thành thực hâm mộ. Gã lại biết lão là một hán tử thẳng thắn, không quen làm bộ giả dối, bao nhiêu nỗi lo âu sợ hãi trong lòng đều tiêu tan hết. Gã cười nói:
– Đa tạ đại ca! Xin đại ca chờ một chút. Tiểu đệ mắc đi tiểu quá rồi. Vì hầu chuyện Hoàng thượng rất lâu phải nín nhịn cho đến bây giờ thì không nín được nữa rồi.
Đa Long cười hơ hớ. Lão biết Hoàng đế đã tuyên triệu vào bệ kiến thì thần tử chưa thấy nhà Vua xuống chỉ cho lui ra, chẳng khi nào dám cáo thoái. Kẻ thần tử gặp lúc mót đái là một chuyện thật rầy rà. Nhưng trường hợp này cũng hiếm lắm.
Chỉ vì Vi Tiểu Bảo là hạng sủng thần, Hoàng đế mới nói chuyện lâu với gã. Còn đối với đại thần khác, Ngài chỉ nói vài ba câu đã xuống chỉ cho rút lui không đến nỗi té đái vãi phân.
Giữa Đa Long và Vi Tiểu Bảo trước kia rất thân thiết với nhau, nay lại cửu biệt trùng phùng, dĩ nhiên trong lòng cao hứng kể sao cho xiết! Lão liền dắt tay gã đưa đến cửa căn nhà gianh rồi đứng chờ.
Hôm ấy, Vi Tiểu Bảo gặp trường hợp bất đắc dĩ mà phải phóng lao đâm Đa Long. Gã nghĩ tới bình nhật lão đối với mình rất tử tế, thân mật, trong lòng gã không khỏi ân hận.
Ai ngờ lão lại không chết và tuyệt chẳng có ý gì phiền trách gã nên gã vào tiểu tiện càng thêm phần khoan khoái. Gã định đi tiểu xong trở ra sẽ tìm cách dò hỏi cho biết rõ tình trạng ngày trước.
Nhưng gã vừa ra, Đa Long đã nói ngay:
– Hôm ấy lúc ca ca tỉnh lại, hỏi ra mới biết mình nằm liệt giường đã ba ngày bốn đêm. Quan thái y cho hay may mà trái tim của ca ca mọc lệch đi, nên nhát đao của thích khách chỉ đâm vào phổi, chứ chưa chạm đến trái tim. Thái y còn bảo những người trái tim mọc lệch như ca ca thì hàng chục vạn người cũng khó có một.
Vi Tiểu Bảo la thầm:
– Trời ơi! Thật đáng thẹn cho ta! Té ra vì vậy mà lão không chết.
Gã cười đáp:
– Tiểu đệ cứ tưởng đại ca là một hảo hán tâm trường thẳng thắn, dè đâu lại có trái tim thiên lệch. Trái tim đại ca đã thiên lệch thì nhất định cũng thiên ái một vị tiểu di thái thái nào đó đặc biệt hơn các vị thái thái khác?
Đa Long ngạc nhiên một chút rồi cười đáp:
– Huynh đệ không nhắc, ca ca cũng không nghĩ tới. Thực tình ca ca sủng ái đệ bát phòng tiểu thiếp gấp đôi các phòng khác. Đó chắc cũng vì lẽ trái tim thiên lệch mà ra.
Hai người lại cười ồ.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Tên thích khách đó võ công rất cao cường. Hắn đến ám toán đại ca mà tiểu đệ cũng không phát giác.
Đa Long nói:
– Phải rồi!
Lão hạ thấp giọng xuống nói tiếp:
– Vừa gặp lúc Kiến Ninh Công chúa điện hạ đến thăm huynh đệ, chúng ta là phận nô tài không dám hỏi nhiều về vụ này. Ca ca phải dưỡng thương ba tháng mới bình phục. Hoàng thượng cho hay Vi huynh đệ đã liều mạng giải cứu ca ca được toàn sinh và đâm chết thích khách. Những chi tiết tường tận về vụ này, huynh đệ bất tất nhắc tới nữa. Nói tóm lại, ca ca rất cảm ơn huynh đệ.
Vi Tiểu Bảo là hạng mặt dầy, có thể nói là mặt dầy số nhất số nhì tại triều Khang Hy, nhưng nghe lão nói mấy câu này cũng không khỏi thẹn đỏ mặt lên.
Bây giờ gã mới hay Hoàng đế đã dấu diếm cho mình. Một là chính miệng Hoàng đế nói ra, dĩ nhiên Đa Long tin ngay, không còn nghi ngờ gì nữa. Hai là vụnày dính líu đến chuyện tư tình của Công chúa, thì người trong cung càng ít người biết càng hay. Dù ai nghi ngờ đến đâu cũng phải dấu kín trong lòng.
Nếu không thế, Vi Tiểu Bảo cũng phải bịa chuyện hoang đường để che lấp, là một điều khổ tâm cho gã.
Vi Tiểu Bảo trong lòng vô cùng hổ thẹn. Gã định bụng đối với người bạn trung hậu thành thực này phải có phen báo đáp để đền bù tội lỗi.
Gã liền nói:
– Tiểu đệ Ở Đài Loan có đem về một ít thổ nghi. Lúc trở về sẽ sai người đem tới biếu đại ca.
Đa Long xua tay lia lịa gạt đi:
– Bất tất phải thế! Chúng ta như người một nhà, sao huynh đệ còn ra chiều khách sáo? Lần trước Thi Lang đã đưa lễ vật của huynh đệ về cho ca ca. Thế là nhiều quá rồi.
Vi Tiểu Bảo chợt nhớ tới điều gì bụng bảo dạ:
– Vụ này làm ơn được mà không mất tiền. Hoàng thượng có biết ra cũng chẳng thể bảo là ta vi chỉ.
Gã liền cười hì hì hỏi:
– Đa đại ca! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng sau khi quy hàng ở Bắc Kinh làm trò gì?
Đa Long đáp:
– Hoàng thượng đối đãi với hắn cũng tử tế, phong cho hắn hàm Nhất đẳng công. Thằng lỏi đó thật vô tích sự, bất quá nhờ phước ấm của tổ tiên mà tước vị còn cao hơn huynh đệ một bậc.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ngày trước chúng ta giỡn chơi đã vu cho hắn thiếu nợ bọn thị vệ một vạn lạng bạc, do tiểu đệ bỏ ra trả nợ cho hắn. Vụ đó đại ca còn nhớ không?
Đa Long cười khanh khách đáp:- Nhớ chứ! Nhớ chứ! Vị cô nương mà huynh đệ ưa thích đó về sau ra làm sao?
Nếu cô còn đi theo hắn thì chúng ta tới đó đoạt cô lại.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:
– Vị cô nương đó đã thành vợ của tiểu đệ và sinh con rồi.
Đa Long cười nói:
– Cung hỷ! Cung hỷ! Nếu không thế thì tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng ở đất Kinh sư mới là Nhất đẳng công, Nhị đẳng công, một vị tước gia chỉ có hư danh mà không quyền thế phỏng có khác gì hổ lạc bình nguyên bị chó lờn?… Con mẹ nó!
Tiểu huynh nói lầm rồi. Chúng ta tới tận nhà, chắc thằng lỏi đó phải sợ co vòi, đến phát trung tiện cũng không dám phóng ra…
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Loài phiên vương đã đầu hàng thì suốt ngày nơm nớp lo sợ. Chúng ta đại nhân là đại nhân Hoàng thượng thường nghi ngờ hắn trong lòng bất phục rồi toan bài tạo phản.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Chúng ta cũng bất tất phải khinh khi gã. Có điều giết người thì phải thường mạng, thiếu nợ thì phải trả tiền. Đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Đừng nói gã bất quá mới là Nhất đẳng công, dù đến bậc thân vương quốc thích cũng chẳng thể quịt nợ ai được.
Đa Long nói:
– Phải lắm! Phải lắm! Ngày ấy hắn thiếu huynh đệ một vạn lạng bạc. Trong bọn ngự tiền thị vệ của chúng ta rất đông người chứng kiến. Vậy chúng ta đến đòi nợ.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói:
– Thằng lỏi đó thật chẳng ra gì. Nguyên một vạn lạng bạc đó chưa đáng kể.
Sau hắn còn tiếp tục vay tiểu đệ nhiều lần. Chính hắn hạ bút viết giấy thiếu nợ đưa cho tiểu đệ giữ. Ba đời họ Trịnh nhà hắn ở Đài Loan làm Vương gia tích lũy kim ngân tài bảo nào phải ít của? Lần này nhất định hắn đem cả đến Bắc Kinh.
Trịnh Thành Công và Trịnh Kinh là hảo nhân, có khi không khoét tiền của trăm họ, nhưng tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng chẳng lẽ cũng chịu nới tay? Hắn làm Vương giamột ngày, ít ra cũng thu được hàng trăm vạn lạng, hai ngày hai trăm vạn, ba ngày ba trăm vạn. Hắn làm Vương gia mấy ngày thì đại ca cứ tính ra mà lấy nợ.
Đa Long há miệng líu lưỡi đáp:
– Thật là lợi hại! Thật là lợi hại!
Vi Tiểu Bảo nói:
– Tiểu đệ về tìm những giấy nợ đưa cho đại ca. Khoản tiền đòi được, tiểu đệ không lấy nữa…
Đa Long vội ngắt lời:
– Thế thì không được. Tiểu huynh chỉ đòi dùm thôi và nhất định đưa lại không thiếu một đồng. Tiểu huynh đã đem bọn thị vệ dưới trướng đến nhà đòi nợ thì dù hắn lớn mật đến đâu cũg chẳng dám chống cự không trả.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Khoản nợ này lớn lắm! Thằng lỏi đó ngày trước ăn xài dữ quá, phung phí tiền bạc như cỏ rác. Nay muốn đòi một lần mà lấy đủ đại nhân không phải chuyện dễ dàng. Bây giờ làm thế này vậy. Đại ca đưa người đến đòi mà trong vòng mươi ngày lấy không được thì đành để hắn trả làm nhiều lần và cắt ra thành từng món nhỏ, bắt hắn viết văn tự lại để anh em thị vệ đứng tên trái chủ. Mỗi tấm văn tự hoặc một ngàn lạng cũng được. hay hai ngân lạng cũng nên. Tên thị vệ nào đòi được là của y.
Đa Long đáp:
– Như thế không được. Bọn thị vệ đều là cựu bộ hạ của huynh đệ. Nay chúng đòi nợ dùm thượng cấp cũ là việc nhỏ mọn mà lại lấy thưởng thì còn ra thế nào?
Vi Tiểu Bảo nói:
– Bọn chúng là thuộc hạ cũ của tiểu đệ thì cũng là hảo huynh đệ, hảo bằng hữu. Mấy năm nay tiểu đệ bước tiền trình hiển đạt, mấy phen gia quan tấn tước mà chưa có gì đối xử với anh em, trong lòng thật áy náy. Vậy mấy trăm vạn lạng bạc này để đoàn thị vệ chia nhau là phải.
Đa Long kinh hãi hỏi:- Sao… Mấy trăm vạn lạng kia ư?
Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:
– Kể tiền vốn thì không nhiều đến thế. Nhưng bên trong còn nợ cờ bạc, nợ không tên. Vốn lãi chồng chất mãi lên thành ra số mục lớn. Về khoản này dĩ nhiên đại ca cũng dự một phần kha khá.
Đa Long vẫn không tin, miệng lẩm bẩm:
– Mấy trăm vạn lạng kia ư? Cái này… cái này hơi nhiều quá!
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Vì thế mà nên chia ra viết thành nhiều văn tự để đòi cho tiện.
Gã thấp giọng xuống nói tiếp:
– Vụ này đại ca đừng để dính líu gì đến tiểu đệ. Nếu bọn ngự sử biết chuyện sẽ làm bản tấu hặc tiểu đệ về tội giao thông với ngoại Phiên, phóng trái kiếm lời thì tội danh không lớn nhưng cũng không nhỏ. Nhưng nếu bọn Ngự tiền thị về đến đòi nợ hắn mỗi tên một hai nghìn lạng thì thành chuyện nhỏ chẳng can hệ gì.
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
– Nếu đại ca sợ riêng một bọn thị vệ được ăn, mối can hệ hãy còn quá lớn thì cho cả quan quân ở Kiêu Kỵ Doanh cùng đi. Bọn chúng cũng là cựu bộ hạ của tiểu đệ, nên chia chác cho họ.
Đa Long luôn miệng khen phải.
Lão đã định bụng món nợ này đòi về ít ra cũng phải trả cho Vi Tiểu Bảo phân nửa. Lão cho là tuy gã khẳng khái khoáng đạt, nhưng chẳng thể để cho gã mất cả món tiền huyết mạch.
Vi Tiểu Bảo ra khỏi Hoàng cung, trong lòng cực kỳ đắc ý. Gã nghĩ tới Đa Long dẫn đoàn thị vệ cùng quan quân Kiêu Kỵ Doanh hùng hổ đến đòi nợ khiến cho Trịnh Khắc Sảng phen này phải điên đầu, càng lấy làm khoan khoái vô cùng!
Vua Khang Hy đã căn dặn Vi Tiểu Bảo không được đến làm khó dễ Trịnh Khắc Sảng để trả mối thù hắn đã sát hại sư phụ, nhưng gã chơi trò này thì ít ra hắn cũng bị phá sản mất nửa cơ nghiệp.Trịnh Khắc Sảng dù bị vố đau cũng đành câm miệng, ngậm bồ hòn làm ngọt, không dám hó hé để tiếng tăm đồn đại ra ngoài. Dù có người biết tới thì đây chỉ là việc riêng về công nợ, cờ bạc, giữa hắn cùng bọn ngự tiền thị vệ và bọn quan quân ở Kiêu Kỵ Doanh. Người ta sẽ cho là Trịnh Khắc Sảng ỷ con nhà giàu có, ăn chơi đàng điếm, không cẩn trọng trên đường lập thân, đã phải quy hàng đến Bắc Kinh còn dong chơi cờ bạc, chứ chẳng ai phiền trách Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo vừa ở Hoàng cung đi ra liền gặp bọn Khang Thân Vương Kiệt Thư, Lý úy, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Lặc Đức Hồng, Vương Hy, Huỳnh Cơ, Ngô Chính Trị, Tống Đức Nghi toàn là đại thần cả người Mãn lẫn người Hán đến chờ sẵn ở cửa cung. Ai nấy xúm xít lại đưa lời hỷ dạ, rồi cùng kéo nhau đến ngõ Đông Mạo.
Đoàn người chưa tới nơi đã nhìn thấy một tòa phủ đệ rất hùng vĩ ngạo nghễ hiện ra trước mắt. Tòa phủ đệ này so với Bá tước phủ ngày trước đồ sộ gấp mấy lần.
Trên cổng lớn đã treo một tấm biển sơn son nhưng còn trống trơn chưa viết chữ nào.
Vi Tiểu Bảo tuy ít học, nhưng treo biển không chữ cũng phải nhận ra. Gã còn đang ngơ ngác thì Khang Thân Vương cười nói:
– Vi huynh đệ! Đức Hoàng thượng đối với huynh đệ Ơn đức thật bao la như trời cao đất dày. Năm trước Bá tước phủ bị phát hỏa thiêu rụi, huynh đệ không ở kinh thành. Đức Hoàng thượng hay tin liền phái ca ca xây dựng lại phủ đệ cho huynh đệ. Trong thánh chỉ không ấn định khoản tiền xây cất là bao nhiêu, chỉ nói nhất thiết mọi vật ứng dụng cùng tiền bạc cứ vào nội khố mà lấy. Đây là đức Hoàng thượng có ý thưởng công cho huynh đệ thì ca ca hà tất phải dè dụm đồng tiền mà Hoàng thượng đã ban cho? Dĩ nhiên ca ca thực hành công việc kiến trúc một cách rộng rãi. Huynh đệ thử coi đã hợp ý chưa?
Lão vừa nói vừa vuốt râu mỉm cười.
Vi Tiểu Bảo vội ngỏ lời tạ Ơn.
Gã qua cổng lớn đi vào quả nhiên thấy phủ đệ cực kỳ hoàn mỹ, so với phủ Khang Thân Vương chẳng kém mấy.Khang Thân Vương lại nói:
– Tòa phủ đệ này xây dựng đã lâu để chờ huynh đệ trở về cư trú…
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Có điều ca ca chưa biết Hoàng thượng còn gia ơn cho huynh đệ thế nào, phong quan tước gì, nên tấm biển treo ở cổng phủ hãy còn để trống chưa viết chữ vào. Nay được biết huynh đệ được sắc phong Lộc Đỉnh Công. Vậy bốn chữ “Lộc Đỉnh Công Phủ” phải chờ đến Lý đại học sĩ vẫy bút một phen vậy.
Lý úy làm Bảo Hòa điện đại học sĩ kiêm Hộ Bộ thượng thư, là một vị uyên thâm nhất trong làng đại học sĩ. Dĩ nhiên Lý úy cũng không chối từ, cầm bút kính cẩn theo lối khải thư viết bốn chữ “Lộc Đỉnh Công Phủ”.
Kẻ tòng lại hạ biển xuống sai công tượng thiếp chữ vàng vào biển rồi treo lên.
Tối hôm ấy, trong Lộc Đỉnh Công Phủ mở đại yến khoản đãi các vị đại thần cùng Hoàng thân quốc thích đến mừng.
Bọn Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm cùng nhân viên ở Đài Loan quy hàng cũng đưa đồ lễ, nhưng không thân hành đến mừng.
Vi Tiểu Bảo tiễn tân khách ra về rồi lại mở gia yến cùng bảy vị phu nhân chuốc chén khánh hạ.
Gã nói cho mọi người hay sẽ đưa Song Nhi đi theo trong cuộc Bắc chinh.
Sáu vị phu nhân kia đều khó chịu bảo gã lòng dạ thiên lệch.
Vi Tiểu Bảo lại một phen hoa ngôn xảo ngữ, nói đây là ngự chỉ của Hoàng thượng. ngài biết Song Nhi đã qua La Sát quốc, am hiểu ngôn ngữ của nước này, nên phái thị đi theo để giúp việc trong quân trướng.
Sáu vị phu nhân nghe gã nói đành im tiếng, không dám dị nghị gì nữa.
Hay ở chỗ Song Nhi là người ôn nhu khiêm hòa, mối tình đối với cả sáu vị rất tha thiết, nên không ai sinh lòng đố kỵ.
Chí có Kiến Ninh Công chúa nghĩ mình ở địa vị cành vàng lá ngọc ngự muội của đức Hoàng thượng, mà không bằng một tên tiểu nha đầu xuất thân ty tiện,trong lòng không khỏi bực tức. Nhưng bình thời nếu trong bảy vị phu nhân xảy cuộc tranh chấp thì sáu vị kia sẽ về một bè để đối phó với Công chúa.
Kiến Ninh Công chúa đã thân thế cô đơn, lại chẳng được Vi Tiểu Bảo bênh vực. Mấy năm nay nết đành hanh của nàng đã thu lại nhiều, không dám gây hấn một cách khinh suất.
Hôm sau, Vi Tiểu Bảo sai Song Nhi lấy tờ huyết thư vay nợ của Trịnh Khắc Sảng viết ngày ở Thông Cật đảo. Gã mời Đa Long tới để trao cho lão.
Đa Long cả mừng nói:
– Đã có bằng chứng này trong tay thì chúng ta có thể rán sành ra mỡ. Nếu tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng dám lớn mật cãi xóa để quịt nợ thì bọn Ngự tiền thị về và Kiêu Kỵ Doanh chúng ta còn làm việc ở trong kinh thế nào được?
Sau mấy bữa, Vua Khang Hy ngày nào cũng tuyên triệu Vi Tiểu Bảo tiến cung, lấy tấm địa đồ rất lớn chỉ điểm cho gã cách tiến quân thế nào, đánh địch ở đâu, vây thành làm sao phải tiếp viện thế nào.
Nhà Vua nhất nhất chỉ thị một cách tường tận, lại dùng bút son khuyên rõ trên đồ hình.
Vi Tiểu Bảo tâu:
– Cuộc Bắc chinh này là đức Hoàng thượng thân hành tự cầm quân. Kẻ nô tài không dám chủ trương bất cứ một quyết định nào. Nói tóm lại là nô tài nhất nhất tuân chỉ của Hoàng thượng để tiến hành công việc mà thôi. Nếu không thế thì nô tài có thắng trận cũng chẳng làm cho Hoàng thượng được vui lòng.
Vua Khang Hy mỉm cười gật đầu. Vi Tiểu Bảo nói vậy rất hợp ý ngài.
Nhà Vua thưở nhỏ đã học võ nghệ mà chẳng có cách nào thi triển, chỉ được cùng Vi Tiểu Bảo giỡn chơi cho vui. Về sau ngài lại phái Vi Tiểu Bảo ra ngoài làm việc không ngớt. Trong nội tâm nghĩ đều coi gã như người thay mặt mình.
Vi Tiểu Bảo nhỏ tuổi hơn Nhà Vua. Về võ công, mưu trí, học vấn, kiến thức nhất nhất gã còn kém ngài xa. Gã mà thành công được dĩ nhiên ngài càng nổi tiếng.Ngài nghĩ tới Chính Đức Hoàng đế triều nhà Minh tự phong làm Uy Võ Đại tướng quân Trấn Quốc Công, thân hành lĩnh binh ra trận thì chỗ dụng ý chân chính cũng chỉ là không cam chịu cảnh tịch mịch, muốn phô trương thân thủ mà thôi.
Hành động của Vua Khang Hy không nhộn nhịp như Chính Đức Hoàng đế, nhưng do việc phái Vi Tiểu Bảo ra quân, trong lòng ngài cũng lấy làm thỏa mãn.
Mấy năm trước, Ngô Tam Quế tạo phản, cần những mãnh tướng đánh quen trăm trận đối phó, chứ không phải chuyện tầm thường. Nếu Ngài cho Vi Tiểu Bảo thống lãnh đại binh, nhất định hỏng việc.
Cuộc đánh mấy năm đó, tuy Vua Khang Hy không thân hành lâm trận, nhưng chiến dịch nào ngài cũng hỏi cho biết rõ chỗ lợi chỗ hại tựa hồ trông thấy trước mặt. Nhân cuộc chiến vừa qua, ngài hiểu thêm binh pháp.
Chuyến này đi đánh La Sát, bất luận việc to việc nhỏ, nhà Vua đã dự bị kế hoạch hoàn thiện. Đại quân chưa ra khỏi cửa, ngài đã nắm chắc phần thắng, khác hẳn việc trừ loạn Ngô Tam Quế, lúc nào ngài cũng hồi hộp lo âu, chứ chẳng được vững tâm như ngày nay.
Tòa khâm thiên giám lựa ngày Hoàng đạo để ra quân.
Vua Khang Hy ban yến ở điện Thái Hòa.
Ngoài cửa ngọ môn cũng phô trương nghi lễ, đặt nơi ngự tọa, bày sắc ấn.
Vương công bách quan đều đủ mặt.
Vua Khang Hy bước lên ngồi ngự tọa.
Phủ Viễn Đại tướng quân Lộc Đỉnh Công Vi Tiểu Bảo thống lĩnh bọn xuất chinh quan là Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Hà Hựu, Lâm Hưng Châu, cùng bọn vận lương quan Sách Ngạch Đồ tiến ra quỳ xuống. Nội viện đại thần tuyên đọc sắc như theo ba thể chữ Mãn, Mông, Hán để trao sắc ấn Đại tướng quân và ban y mã cung đao.
Các tướng quan xuất chinh chia ban thệ lập ở phía Bắc cầu Kim Thủy.
Hai bên tả hữu tấu nhạc, bày các cuộc vui.
Nhà Vua ban lệnh cho Đại tướng quân tiến lên trước ngự tòa dặn dò Phương lược rồi ban ngự tửu.Đại tướng quân quỳ xuống khấu đầu, uống rượu.
Tiếp theo bọn đô thống, phó đô thống tiến lên, Hoàng đế sai thị vệ ban rượu.
Sau nữa bách quan cùng ba quân đều được uống rượu, ban cho kim tiền và vải lụa.
Quan quân tạ Ơn rồi đại quân bắt đầu khởi hành.
Vua Khang Hy thân hành tiễn đưa ra khỏi cửa Ngọ môn. Đại tướng quân cùng các quan quỳ xuống xin Nhà Vua hồi giá rồi thủy lục đại quân lên đường Bắc chinh.
Từ ngày Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng đế đi hành sự, chưa bao giờ được vinh hạnh như lần này. Trong lòng gã vô cùng đắc ý, khỏi cần tường thuật. Có điều gã biết đây là công cuộc rất hệ trọng, bao nhiêu trò khôi hài đều phải thu lại.
Trong quân không dám mở cuộc đổ bát. Dọc đường những lúc rỗi rãi chỉ mời mấy tên đại tướng vào gieo xúc xắc, ai thua phải uống rượu mà thôi.
Bát nhật, đại quân ra khỏi Sơn Hải quan, tiến vào Liêu Đông.
Vi Tiểu Bảo trùng du cựu địa. Có điều năm trước gã cùng Song Nhi phải vào rừng sâu bắt hươu làm bữa, hành trình trốn lủi rất là thảm hại, đâu được oai phong như cuộc Bắc chinh như ngày nay?
Đại quân tiếp tục tiến về phía Bắc. Một hôm đi tới còn cách thành Nhã Tát Khắc chừng hơn trăm dặm, đội tiên phong của Hà Hựu đến đại doanh báo cáo là được trăm họ cho hay quân La Sát bốn bề nhũng nhiễu nhân dân, giết người phóng hỏa, gian dâm cướp bóc, cực kỳ tàn ác. Cứ mười mấy ngày chúng lại làm một chuyện. Họ tiên liệu chỉ mấy bữa nữa địch quân sẽ gây cuộc cướp bóc.
Vi Tiểu Bảo đã được Vua Khang Hy chỉ thị mưu cơ, liền ra lệnh cho đại quân hạ trại, không tiến binh nữa.
Gã lại sai Hà Hựu thống lĩnh hai mươi đội, mỗi đội một trăm người, chia đi mai phục ngấm ngầm, cách thành Nhã Tát Khắc ba mươi dặm. Hễ thấy đại đội binh mã La Sát kéo đến thì không được đổ ra chiến đấu, tránh cuộc giao binh. Chỉ những khi gặp tiểu đội địch quân mới xông ra mà giết, mà bắt cho kỳ hết, đừng để một tên nào về thành.Hà Hựu vâng lệnh đi ngay.
Qua mấy bữa, một hôm vào buổi chiều, vẳng nghe có tiếng đao thương từ phía xa vọng lại. Chỗ này yên lặng, thì chỗ kia nổi lên hồi lâu không ngớt. Vi Tiểu Bảo biết là quân tiên phong bên mình đang giao chiến với quân La Sát.
Đến lúc gần tối, Hà Hựu phái người về đại doanh báo tin thắng trận:
Giết được tám mươi lăm quân La Sát, bắt được mười hai tên.
Vào khoảng canh hai, tướng tiên phong dẫn mười hai tên quân La Sát đưa tới đại doanh.
Vi Tiểu Bảo thân hành mở cuộc thẩm vấn.
Mười hai tên quân La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát đều không khỏi kinh hãi. Nhưng bọn chúng rất quật cường, nói là vì trúng mai phục mới bị thất bại.
Chúng còn chê Thanh binh ỷ nhiều thắng ít, chẳng lấy gì làm vinh dự.
Vi Tiểu Bảo cả giận gọi hai tên La Sát lại. Gã móc trong bọc lấy bộ xúc xắc ra nói:
– Hai ngươi hãy gieo xúc xắc đi!
Trò gieo xúc xắc các nước ở Tây Phương đã có từ xưa. Người Ai Cập đào cổ mộ lấy được bộ xúc xắc, cũng giống như xúc xắc ở Trung Quốc.
Hồi 231
Tướng la sát xua quân tiến đánh
Hai tên quân La Sát ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu viên tướng quân nhỏ tuổi nhà Thanh này dở trò gì, chúng theo lời gieo xúc xắc xuống. Một tên gieo được bảy điểm, một tên gieo được năm điểm.
Vi Tiểu Bảo trỏ vào tên năm điểm nói:
– Ngươi thua rồi! Tử man cơ!
Theo tiếng La Sát “Tử man cơ” nghĩa là phải chết chém.
Gã quay lại bảo thân binh:
– Đem hắn ra chém đầu.
Bốn tên thân binh liền lôi tên quân La Sát ra cửa trại, vung đao chém chết.
Mười một tên quân La Sát còn lại thấy vậy đều cả kinh thất sắc.
Vi Tiểu Bảo lại trỏ vào hai tên quân La Sát khác nói:
– Các ngươi lại gieo đi!
Hai tên này khi nào chịu gieo nữa. Chúng đồng thanh đáp:
– Ta không gieo.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Giỏi lắm! Các ngươi không gieo cũng chết.
Gã lại bảo thân binh:
– Lôi hai tên này ra chém đầu.
Thế là lại hai tên nữa bị giết.
Vi Tiểu Bảo trỏ hai tên quân La Sát khác nói:
– Hai ngươi vào gieo đi!
Hai tên này biết mình không gieo cũng chết liền, thà rằng cứ gieo còn có chút hy vọng sống sót.
Một tên run cầm cập lượm hai con xúc xắc toan gieo xuống thì tên kia cướp lấy, nhìn Vi Tiểu Bảo nói:
– Ta gieo với ngươi.
Thái độ của hắn cực kỳ ngạo mạn.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Hay lắm! Ngươi lớn mật dám khiêu chiến với ta. Vậy ngươi gieo trước đi.
Tên quân gieo xuống được bảy điểm.
Vi Tiểu Bảo gieo thành mười điểm. Gã cười hỏi:
– Thế nào?
Tên quân kia mặt buồn rười rượi đáp:
– Vận khí ta xui quá, còn nói gì được nữa?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Ngươi đến đất Trung Quốc của chúng ta đã giết bao nhiêu người rồi?
Tên quân kia ngang nhiên đáp:
– Không nhớ rõ bao nhiêu, nhưng ít ra là 17, 18 người. Ngươi có giết ta, ta cũng không thua thiệt.
Vi Tiểu Bảo lại sai thân binh đem hắn ra chém. Gã trỏ một tên quân La Sát khác bảo:
– Ngươi vào gieo đi!
Tên quân này tay lượm xúc xắc mà người run cầm cập. Hai hàm răng đụng vào nhau bật lên những tiếng lách cách.
Hai con xúc xắc trước sau ngã xuống bàn, cộng được mười một điểm, dĩ nhiên phần thắng rất nhiều.
Vi Tiểu Bảo muốn dở trò gian lận gieo thành mười hai điểm. Ngờ đâu lâu nay ít rèn luyện, thủ pháp không linh. Hai mặt lục không ngửa lên mà lại úp xuống, chỉ còn hai điểm.
Gã sửng sốt một chút rồi cười khanh khách nói:- Ta thắng rồi!
Tên quân kia vội hỏi:
– Ta nhưng mười một điểm, ngươi chỉ có hai điểm sao lại thắng được?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Lần này ai ít điểm là được, nhiều điểm là thua.
Tên quân kia không phục cãi:
– Điểm lớn dĩ nhiên là được. Lề luật của nước La Sát chúng ta trước nay là thế đó.
Vi Tiểu Bảo ngửng mặt lên hỏi:
– Nơi đây là đất Trung Quốc hay đất La Sát?
Tên quân đáp:
– Là… là đất Trung Quốc.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Đã ở đất Trung Quốc dĩ nhiên phải theo luật Trung Quốc. Ai bảo các ngươi đến Trung Quốc làm chi? Sau này ta có đến La Sát đánh xúc xắc với các ngươi cũng phải theo lề luật của La Sát. Ngươi bị •Tử man cơ• rồi.
Gã liền quay lại hạ lệnh cho thân binh:
– Lôi hắn ra chém đi!
Gã lại gọi một tên quân La Sát vào. Tên này rất tinh tế, đặt câu hỏi trước:
– Theo lệ luật Trung Quốc thì lần này nhiều điểm thắng hay ít điểm thắng?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Theo lề luật Trung Quốc thì người Trung Quốc thắng. Điểm nhiều là thắng nhiều, điểm ít là thắng ít.
Tên quân kia nói:
– Thế là ngươi chơi lối ăn hiếp chẳng có đạo lý nào nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:- Các ngươi là quân La Sát lại xâm nhập Trung Quốc giết người cướp bóc.
Người Trung Quốc chúng ta chẳng ai qua La Sát giết người cướp của. Thế thì người La Sát dã man, hay người Trung Quốc dã man?
Tên quân kia lẳng lặng không nói gì nữa.
Vi Tiểu Bảo giục:
– Gieo lẹ đi! Gieo lẹ đi!
Tên quân kia nói:
– Đằng nào ta cũng thua rồi, còn gieo làm chi nữa?
Vi Tiểu Bảo hô:
– Không gieo ư? Tử man cơ! Tử man cơ!
Gã lại gọi tên khác vào. Tên này thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm, lớn tiếng:
– Trung Quốc tiểu tử! Ngươi đừng dở trò nữa. Mau mau giết ta đi là xong.
Chuyến này bọn ngươi đông người mai phục trong vùng đất tuyết đột nhiên xô ra tập kích, được cũng chẳng vinh gì. Đại binh của nước La Sát chúng ta mà kéo đến sẽ giết hết các ngươi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Ngươi bị chúng ta bắt mà không phục ư?
Tên quân kia đáp:
– Dĩ nhiên không phục.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Nếu nhân số bên ta ngang với các ngươi rồi hai bên đối diện tỷ đấu thì ngươi tin rằng nhất định sẽ thắng chúng ta phải không?
Tên quân kia ngạo nghễ đáp:
– Cái đó đã hẳn. Một người La Sát chúng ta có thể thắng nổi năm người Trung Quốc. Nếu không thế chúng ta đã chẳng dám lần mò đến nước ngươi. Ta đánhcuộc với ngươi:
Ngươi phái năm người đấu với ta. Các ngươi thắng thì giết ta đi, bằng ta thắng thì lập tức tha ta về.
Nguyên tên quân này là một dũng sĩ nổi danh ở nước La Sát, thần lực phi thường. Hắn thấy những quân tướng ở dưới trướng Vi Tiểu Bảo người nào cũng bé nhỏ thấp lùn, ít nhất hắn còn cao hơn một cái đầu. Hắn cho là một mình hắn địch với năm người cũng nắm chắc phần thắng.
Song Nhi ngồi một bên nghe tên quân La Sát ăn nói ngạo mạn, liền lên tiếng:
– Người La Sát các ngươi toàn đồ vô dụng. Nam nhân ở Trung Quốc không thèm đánh với ngươi, vì nữ nhân ở Trung Quốc đã đủ thắng ngươi rồi.
Thị vừa nói vừa đứng dậy đi đến bên Vi Tiểu Bảo.
Tên quân La Sát kia thấy người thị bé nhỏ, dung mạo xinh đẹp, hắn không nhịn được, cười hỏi:
– Ngươi muốn tỷ võ với ta ư?
Vi Tiểu Bảo sai thân binh chặt dây trói hai tay cho tên quân La Sát rồi mỉm cười nói:
– Hảo Song Nhi! Song Nhi hãy cho hắn biết mùi lợi hại của nữ nhân bên chúng ta.
Tên quân kia nói:
– Nữ nhân ở Trung Quốc mà biết nói tiếng La Sát. Hay lắm! Hay lắm!
Song Nhi nói tiếng La Sát còn kém Vi Tiểu Bảo xa. Thị thấy mình không phô diễn được hết ý kiến, nên không muốn nói nhiều. Thị liền vung chưởng đánh dứ một chiêu vào trước mặt tên quân La Sát.
Tên quân kia ngửa đầu về phía sau, đồng thời đưa tay ra gạt.
Song Nhi vung chân đá đánh “bốp” một cái trúng vào bụng dưới đối Phương.
Tên quân La Sát đau quá gầm lên một tiếng, vung quyền đánh liền mấy thoi.
Hắn là một tay hảo thủ về môn quyền ở nước La Sát. Những thoi quyền đánh tới vừa mau vừa cực kỳ trầm trọng.Song Nhi thấy đối phương sức mạnh không dám tỷ đấu chính diện với hắn.
Thân hình thấp thoáng, thị đã nhảy đến sau lưng đối phương ra chiêu Tả hữu phùng nguyên veo véo đánh tới.
Bốp bốp hai tiếng vang lên! Hai chân thị đã đá trúng vào sau lưng địch nhân.
Tên quân La Sát đau quá phải gò lưng xuống. Hắn la lên:
– Ngươi dùng chân. Thế là phạm luật!
Nguyên người La Sát chỉ tỷ quyền đã quy định không được dùng đến hai chân.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Đây là đất Trung Quốc, vậy cuộc đấu võ phải theo lề luật của người Trung Quốc.
Song Nhi lên tiếng:
– Người La Sát kia! Bề nào ta cũng thắng.
Thị lạng mình chuyển đến trước mặt tên quân La Sát, vung chưởng đánh vào bụng dưới hắn. Tên quân La Sát đưa tay ra gạt, nhưng thoi quyền này của Song Nhi chỉ là hư chiêu. Thị không chờ hắn đỡ gạt đã rụt quyền về, phóng quyền tay trái đánh tới trước ngực hắn.
Tên quân La Sát đưa cánh tay lên gạt.
Song Nhi liên tiếp tấn công mười hai quyền cả hai bên tả hữu mà thoi quyền nào cũng chỉ đánh dứ. Lối đánh này trong võ thuật Trung Quốc kêu bằng Hải thị thần thâu, cực kỳ huyền ảo, vì mỗi chiêu đã không đánh thực sự lại không phát huy hết nội lực, có điều so với quyền pháp thông thường, lối đánh này mau lẹ gấp mấy lần.
Tên quân La Sát đỡ gạt đều vào quãng không. Hắn cười khanh khách nói:
– Con nhỏ này đùa giỡn, đồ vô dụng…
Hắn chưa dứt lời, bỗng nghe bốp bốp hai tiếng. Hai bên má hắn lại trúng chưởng.
Hắn “ối” lên một tiếng rồi hai tay vung lên bổ xuống, tấn công ráo riết.Song Nhi nghiêng mình né tránh. Đột nhiên thị vung chỉ điểm trúng vào huyệt Thái dương bên phải đối phương.
Tên quân La Sát choáng váng, người hắn lảo đảo mấy cái.
Song Nhi nhảy xổ lại vung cườm tay chém vào huyệt Ngọc Chẩm ở sau gáy tên quân kia.
Ngọc Chẩm là một đại huyệt trong người. Tên quân kia dù thân hình to lớn cũng không chống nổi, té huỵch xuống đất, không bò dậy được nữa.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, dắt tay Song Nhi, rồi đá vào đầu tên quân La Sát hỏi:
– Ngươi đã chịu phục chưa?
Tên quân kia hồ đồ đáp:
– Đàn bà Trung Quốc… dùng yêu pháp… là yêu nhân.
Vi Tiểu Bảo quát mắng:
– Con heo thối tha này! Làm gì có yêu pháp! Lôi hắn ra chém đi! Bọn La Sát các ngươi còn tên nào không phục thì tỷ võ đi?
Năm tên quân La Sát còn lại nhìn nhau. Chúng thấy mấy tên dũng sĩ khỏe mạnh đều thua hết rồi, biết mình không địch nổi chẳng dám nói gì.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Các ngươi chịu thua đầu hàng đi, ta sẽ tha cho. Nếu không thì vào đây gieo xúc xắc với ta. Theo luật lệ Trung Quốc, ai thắng ta thì sống, ai thua là chịu tử man cơ.
Gã vừa nói vừa vung tay ra thủ thế chém đầu.
Năm tên quân nghĩ thầm:
Chiếu theo luật Trung Quốc thì bất luận bên mình gieo được gì họ cũng thắng.
Một tên quân liền khom lưng đáp:
– Xin đầu hàng.
Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Lấy rượu thịt ra cho hắn ăn uống.Thân binh liền ra hậu trướng rót một bát rượu lớn và lấy một đĩa thịt đầy rồi cởi trói tên quân La Sát cho hắn ăn uống.
Khí hậu nước La Sát cực kỳ rét lạnh, nên người nước này ai cũng thích uống rượu.
Vi Tiểu Bảo tuy chẳng ham mê rượu chè, nhưng cũng đem theo trong quân toàn những thứ cao lương mỹ tửu. Rượu vừa rót ra, mùi thơm sực nức khắp quân trướng.
Bốn tên quân La Sát đứng ngoài vừa ngửi thấy mùi rượu đã thèm chảy nước miếng. Lúc thấy tên quân kia uống vào mặt mày hớn hở, trong lòng càng thấy ngứa ngáy khó chịu. Tên nào cũng hô:
– Đầu hàng! Đầu hàng! Xin uống rượu!
Vi Tiểu Bảo liền hạ lệnh cởi trói cho cả bốn tên này, và sai thân binh lấy bốn phần rượu thịt chia cho chúng ăn uống.
Năm tên quân La Sát ăn uống hết rồi mà vẫn chưa đủ. Vi Tiểu Bảo lại sai lấy rượu thịt thưởng cho chúng thêm một phần nữa.
Năm tên quân La Sát ăn uống no say, cầm tay nhau hát vang lên một hồi.
Chúng nghĩ đến mình đã thoát chết lại còn được ăn uống thỏa thích, liền nhìn Vi Tiểu Bảo khom lưng tạ Ơn.
Mấy bữa sau, tướng tiên phong là Hà Hựu vẫn tiếp tục bắt được quân La Sát giải về. Ngày nào nhiều được đến 16, 17 tên mà ít ra cũng được một vài tên.
Những tên bị bắt sau hỏi chuyện đám bị bắt trước liền biết là nếu gieo xúc xắc với tướng nhà Đại Thanh thì thế nào cũng chết, bằng chịu đầu hàng sẽ được khoản đãi rượu thịt, nên tên nào cũng đầu hàng ngay.
Nên biết bọn quân La Sát này đều là hạng lưu manh vô lại, không phải đầu trộm đuôi cướp cũng là tử tù trọng phạm. Mười tên có đến tám chín là phường tàn ác bất nhân. Chúng đã mạo hiểm Đông tiến là chẳng còn chút lương tâm nào.
Ban đầu bọn quân La Sát giết hạng bình dân Trung Quốc một cách rất dễ dàng thuận lợi, chúng liền có ý khinh thường cả những người địa vị cao sang. Vìthế tuy chúng đã bị bắt vẫn ra vẻ ngông cuồng ngạo mạn. Mãi đến khi Vi Tiểu Bảo lập nghiêm ra lệnh chém đầu mấy tên, bọn còn lại mới biết là lợi hại.
Những quân dã man ngang ngược thường khinh khi người thiện lương, lại khiếp sợ kẻ hung dữ. Chúng thấy đối phương ngang tàng tàn bạo hơn mình, liền chịu riu ríu đầu hàng.
Đại tướng La Sát – Tổng đốc binh nhung ở thành Nhã Tát Khắc là Đồ Nhĩ Bố Thanh (Alexi Tolbusin) thấy những tiểu đội ra ngoài cướp bóc nhiều ngày đều mất hút, đã phái người đi thám thính mà thủy chung không ai trở về phúc trình. Hắn biết là tình thế bất diệu, liền điểm lấy một nửa binh mã trong thành tổng cộng hơn hai ngàn người đem theo súng ống, giàn thành đội ngũ ra ngoài quan sát.
Hà Hựu được thám tử đưa tin, liền tức tốc phi ngựa về đại doanh báo cáo.
Vi Tiểu Bảo truyền tướng lệnh sai Tát Bố Tố dẫn năm ngàn quân Thanh mai phục ở đường mé tả.
Lại sai Bằng Xuân lãnh năm ngàn quân chẹn đường sau bên địch. Hễ nghe súng nổ là lập tức đánh thành.
Vi Tiểu Bảo lại sai Lâm Hưng Châu dẫn năm trăm quân ra dụ địch giả vờ thua chạy về phía có cắm cờ Hoàng Long.
Chúng tướng lãnh mạng ra đi.
Nhắc lại Đồ Nhĩ Bố Thanh mở cửa thành tiến quân, chẳng thấy bóng địch binh đâu mà chỉ gặp những người Trung Quốc trú ngụ trong các nông xá liền hạ lệnh phóng hỏa đốt nhà. Bất luận nam nữ đều bị giết hết.
Đoàn quân La Sát đi được hơn hai chục dặm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Một toán kỵ binh chừng năm trăm người xông lại.
Đồ Nhĩ Bố Thanh vừa ra lệnh cho quân sĩ tấn khai đội ngũ, thì thấy một đội quân Thanh phóng ngựa chạy đến dương cung bắn loạn xạ.
Đồ Nhĩ Bố Thanh cười ha hả nói:
– Bọn man tử ở Trung Quốc chỉ biết bắn tên thì sao địch nổi súng ống của người La Sát chúng ta?
Hắn hạ lệnh nổ súng. Lập tức mười mấy tên Thanh binh ngã ngựa liền.Viên tướng thống lãnh đội Thanh binh này chính là Lâm Hưng Châu, y thấy quân La Sát bắn súng liền hạ lệnh khua chiêng thu binh.
Hiệu chiêng choang choang vừa nổi lên, quân Thanh liền xoay ngựa chạy về phía Nam.
Đồ Nhĩ Bố Thanh hạ lệnh rượt theo, nhưng đội Thanh binh cưỡi đoàn tuấn mã chạy rất nhanh, không sao theo kịp.
Đoàn quân La Sát đuổi theo chừng bảy, tám dặm thì thấy bên rừng cây phía trước dựng một cây Hoàng Long kỳ.
Quân La Sát đuổi tới nơi thấy khu này có dựng bảy tám doanh trướng quân Thanh.
Quân La Sát liền nổ súng. Mấy chục tên quân Thanh bỏ trướng đào tẩu đồng thời dương cung bắn mấy phát rồi chạy về phía Nam.
Đội tiên phong La Sát xông vào doanh trại thì quân Thanh đã trốn hết rồi.
Đồ Nhĩ Bố Thanh xuống ngựa vào trại thấy trên bàn còn bày la liệt rượu thịt, hơi bốc lên nghi ngút.
Dưới đất đầy những thoi vàng đĩnh bạc cùng là châu báu, xiêm y, gấm đoạn.
Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng nói:
– Đây là tên nguyên soái của bọn Trung Quốc man tử vội chạy tháo thân, đến kim ngân cũng không mang đi hết được phải bỏ lại chạy lấy người. Chúng ta hãy rượt gấp!
Hắn lại tuyên bố:
– Ai bắt được nguyên soái man tử sẽ có trọng thưởng. Bên mình chủ soái man tử còn đem theo rất nhiều vàng bạc châu báu, các ngươi tha hồ mà cướp lấy.
Bọn binh tướng La Sát thấy vàng bạc châu báu, tới tấp thu lượm. Một phần vồ lấy rượu thịt trên bàn mà ăn uống.
Chúng nghe chủ soái hạ lệnh liền lớn tiếng hoan hô, kéo ùa ra khỏi doanh trại, lên ngựa rượt theo. Dọc đường còn thấy rải rác những đĩnh vàng, thoi bạc, đao thương, cung nỏ.Bọn binh tướng trông thấy vàng bạc thi nhau lượm lấy. Chúng cho là quân Trung Quốc vừa nghe đại binh La Sát kéo đến đã khiếp sợ đến té đái vãi phân, liệng cả binh khí chạy lấy người, không còn thiết gì nữa.
Đoàn người ngựa tiếp tục rượt theo một hồi, lại thấy bên đường còn có mấy đôi giầy và những mũ đỏ liệng trên cành cây thấp bên đường.
Đồ Nhĩ Bố Thanh la lên:
– Bọn man tử Trung Quốc chạy vỡ mật. Nguyên soái của chúng cải trang để hòng thoát thân. Chắc hắn giả làm tiểu tốt. Vậy chúng ta bắt được tên nào cũng phải tra khảo tường tận, đừng để mắc lừa chúng.
Bọn tùy tùng đồng thanh đáp:
– Tướng quân liệu việc như thần. Nhất định đúng thế.
Đồ Nhĩ Bố Thanh sai quân thu lượm cả giầy mũ rồi nói:
– Hễ bắt được bọn man tử Trung Quốc thì bất luận là tiểu tốt hay đầu bếp cũng bắt chúng thử đội mũ đi giầy. Tên nào giầy mũ vừa đúng thì chắc là đại tướng đó.
Bọn thuộc hạ lại ca ngợi trí thông minh sáng suốt của chủ tướng ít người bì kịp.
Đoàn quân La Sát đuổi thêm mấy dặm thì đến một tòa doanh trại của Thanh binh. Chúng thấy lác đác trên mặt đất ngoài vàng bạc khí giới, còn khá nhiều áo quần phụ nữ màu xanh màu hồng rất rực rỡ.
Bên ngoài doanh trướng còn có những hộp son phấn, khăn tay, vòng vàng là những đồ trang sức của phụ nữ. Quan quân lại động lòng sắc dục la lên:
– Rượt cho mau! Rượt cho mau! Bọn man tử Trung Quốc đem cả phụ nữ đi theo.
Thế là dọc đường quân La Sát rượt theo đã chiếm được bảy tòa doanh trại.
Bỗng trước vẳng nghe có tiếng kêu gào khóc lóc. Đồ Nhĩ Bố Thanh đứng trên yên ngựa lấy Thiên Lý kính ra soi thì thấy ngoài mấy dặm có một đội binh Trung Quốc đang tức tưởi chạy trốn, cờ xí tán loạn, đội ngũ tơi bời. Hắn cả mừng hô lớn:- Đuổi kịp chúng rồi!
Hắn lại rút đao ra chém lên không, miệng hô:
– Xung phong! Giết giặc!
Hắn dẫn binh tướng xông về phía trước. Bên đường cách quãng lại gặp một vài con ngựa chết nằm lăn ra đó. Cả thảy có đến hơn hai chục con. Bọn binh tướng cả mừng reo lên:
– Ngựa cưỡi của bọn man tử không đủ sức để chạy trốn nữa rồi.
Chúng liền giục ngựa đuổi theo mỗi lúc một gần.
Bỗng thấy quân Thanh chạy vào con đường hẹp giữa hai dãy núi.
Đồ Nhĩ Bố Thanh rượt đến cửa hang thấy địa thế hiểm trở, không khỏi ngần ngừ nghĩ bụng:
– Nếu địch nhân bố trí mai phục nơi đây thì thật là nguy hiểm!
Đột nhiên trong hang núi ở phía trước mặt có người hò bằng tiếng La Sát:
– Trung Quốc man tử! Sao không đầu hàng đi?
Lại có tiếng người nói theo:
– Ha ha! Phen này bọn man tử Trung Quốc đã bị thảm bại!
Chính là ngữ âm của quan binh bản quốc, không còn sai được nữa.
Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng, chẳng ngần ngại gì nữa, tung ngựa tiến vào. Hơn một ngàn năm trăm quân kỵ binh ở phía sau cũng kéo ùa vào sơn cốc.
Đồ Nhĩ Bố Thanh lên tiếng hỏi:
– Phía trước là đội nào vậy? Các ngươi ở đâu?
Lại nghe phía sau vách núi có tiếng hơn mười người đồng thanh đáp:
– Bọn thuộc hạ Ở đây. Quân man tử Trung Quốc bị thảm bại rồi!
Đồ Nhĩ Bố Thanh hô lớn:
– Hay lắm!
Hắn vừa giật cương cho ngựa chạy, bỗng nghe mặt sau súng nổ đoàng đoàng.Đồ Nhĩ Bố Thanh giật mình kinh hãi quay đầu nhìn lại thì thấy cửa hang khói bụi mịt mờ. Hai bên vách núi trong rừng cây ánh lửa thấp thoáng. Súng ống bày thành hàng bắn xuống. Quan quân La Sát la hoảng vang trời.
Đồ Nhĩ Bố Thanh lớn tiếng hô:
– Mau mau quay ngựa lùi ra khỏi hang núi.
Lập tức hai bên vách đá có đến mấy ngàn người tiếng reo dậy đất:
– Binh tướng La Sát! Đầu hàng đi! Đầu hàng đi!
Tiếp theo những tảng đá lớn cùng những khúc cây từ hai bên sườn núi đổ xuống ào ào. Chỉ trong khoảnh khắc đã vít chặt cửa hang.
Bọn quan binh La Sát ở trong hang núi chen chúc nhau. Tiếng người huyên náo lẫn tiếng ngựa hý rối loạn cả lên.
Quân Thanh ở trên cao vừa nổ súng vừa bắn tên xuống như mưa.
Đồ Nhĩ Bố Thanh không ngớt la thầm:
– Nguy to rồi! Nguy to rồi!
Hắn biết là trúng phải ngụy kế của địch nhân, lại thấy mặt sau bị chặn đường, đành phải quay ngựa lại hô lớn:
– Chúng ta phải xông về phía trước.
Nhưng vừa chạy được vài trượng, lại nghe súng lớn nổ đoàng đoàng, đạn bay tới tấp. Lập tức mấy chục tên quân sĩ bị tan xác.
Đồ Nhĩ Bố Thanh chẳng còn hồn vía nào nữa. Hắn không ngờ hỏa lực của Thanh binh cũng ghê gớm như vậy, lại mai phục đại pháo ngay trên đường sơn đạo cheo leo này.
Hắn nhảy xuống ngựa lớn tiếng hô:
– Bỏ hết ngựa lại, tập trung hỏa lực, dò đường cũ xông ra.
Quân La Sát tới tấp xuống ngựa trở ra cửa hang trèo lên gỗ đá vượt qua.
Hậu đội đi hai bên vách đá nổ súng yểm hộ.Hỏa lực của quân La Sát rất mãnh liệt, tầm bắn lại xa, nên chúng giết được khá nhiều Thanh binh.
Đại pháo của quân Thanh cũng bắn xuống không ngớt khiến binh mã La Sát máu thịt bắn lên tung tóe.
Hồi 232
Bạc thua cãi cối phải ăn đòn
Mấy trăm binh tướng La Sát vừa bò ra khỏi đống gỗ đá thì đột nhiên nghe những tiếng đoàng đoàng vang dội từ dưới lòng đất tung lên.
Bọn này người thì bị hất tung lên cao đến mười mấy trượng, kẻ bị đứt đầu gãy chân, máu thịt tan tành bắn tung tóe. Tên nào may mắn chưa chết hốt hoảng bò quay trở lại.
Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy hai mặt trước sau đều không đường rút lui đành thúc thủ vô sách.
Một tên quan binh cực kỳ dũng mãnh dẫn mấy chục tên ở đội cảm tử trèo lên vách núi mé Bắc với ý định xung sát địch quân tìm đường thông lộ chạy đi.
Nhưng vách núi đứng dựng lại nhẵn nhụi, không có chỗ đặt chân để lấy đà.
Bọn này mới trèo lên được mấy trượng đã có hơn mười tên rớt xuống, chẳng chết cũng bị thương.
Quân Thanh ở trên đỉnh núi liệng đá đẩy lui mấy chục tên còn lại phải nhảy xuống hết.
Bọn này bể óc chết ngay lập tức.
Lúc này đại pháo quân Thanh nổ đoàng đoàng không ngớt. Quân La Sát chen chúc nhau trong khe núi kêu rú cực kỳ thê thảm.
Xem chừng chỉ một lúc nữa là toàn quân phải tiêu diệt, Đồ Nhĩ Bố Thanh liền hô lớn:
– Không đánh nữa! Xin đầu hàng! Xin đầu hàng!
Nhưng tiếng súng nổ và tiếng binh tướng kêu la át hẳn thanh âm của hắn.
Mấy tên quan binh đứng gần thấy chủ tướng muốn đầu hàng, liền đồng thanh la lên:
– Đầu hàng! Đầu hàng!
Tiếp theo bao nhiêu quân La Sát đều hô •đầu hàng• vang dội cả vùng sơn cốc.
Quân Thanh dừng tiếng súng. Có người dùng tiếng La Sát hô:
– Quẳng hết súng ống đao thương, cởi bỏ y phục toàn thân.
Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận vô cùng la lên:
– Chỉ quăng vũ khí, không cởi áo quần.
Trong đám Thanh binh lại có tiếng hô:
– Quăng vũ khí cởi bỏ áo quần rồi ra đây uống rượu. Kẻ nào không thoát y phục là tử man cơ.
Đồ Nhĩ Bố Thanh lại la:
– Nhất định không cởi bỏ áo quần.
Hắn vừa dứt lời, những tiếng đoàng đoàng lại nổi lên. Quân Thanh bắn súng lớn xuống.
Trong đoàn quân La Sát, một số sợ chết tới tấp quẳng khí giới và bắt đầu thoát y.
Đồ Nhĩ Bố Thanh rút súng lục bắn chết một tên đang cởi áo. Hắn quát:
– Tên nào cởi áo đều phải xử tử.
Quân Thanh bắn dữ quá. Nghiêm lệnh của chủ tướng, quân La Sát không lý gì đến. Chớp mắt đã mười mấy tên mình trần trùng trục trèo qua đống gỗ đá ra ngoài.
Quân Thanh ở hai bên sườn núi đều vỗ tay cười rộ, la lớn:
– Cởi bỏ áo quần cho mau! Cởi bỏ áo quần cho mau!
Số binh sĩ thoát y mỗi lúc một nhiều. Đồ Nhĩ Bố Thanh nổ súng lục liên thanh bắn chết hai tên nữa mà vẫn không ngăn cản được. Về sau cả trong đám quan binh cũng có người mình trần như nhộng bò ra ngoài.
Quân Thanh tạm ngưng nổ súng. Trên đỉnh núi vẫn có tiếng hô lớn:
– Muốn sống phải thoát y cho lẹ!Lúc này quân La Sát không còn ý chí phấn đấu, mười phần có đến tám, chín tới tấp cởi áo tụt quần.
Đồ Nhĩ Bố Thanh buông tiếng thở dài, giơ súng lục lên toan bắn vào huyệt Thái Dương để tự sát, nhưng phó tướng đứng bên hắn đoạt lấy súng nói:
– Tướng quân! Làm thế không được. Chim ưng để hai cánh lại mới bay qua được núi cao.
Câu thành ngữ La Sát này cũng đồng nghĩa với câu “Non xanh còn đó lo gì hết củi đun”.
Lại nghe trong đám quân Thanh có người hô bằng tiếng La Sát:
– Anh em hãy lột quần áo Đồ Nhĩ Bố Thanh đi! Không thì ta lại nổ súng.
Câu nói tiếng La Sát này rất đúng điệu. Hiển nhiên là những quân La Sát đã đầu hàng vâng lệnh tuyên bố.
Đồ Nhĩ Bố Thanh cực kỳ phẫn nộ cơ hồ không chịu nổi, lại thấy mấy tên bộ thuộc trợn mắt lên nhìn mình tỏ ra muốn hành động bất pháp, hắn liền xoay tay rút yêu đao. Nhưng tay hắn vừa đụng vào đốc đao thì một tên quân ở phía sau nhảy xổ lại ôm chặt lấy đầu hắn. Năm, sáu tên quân nữa xô lại đè hắn xuống đất động thủ lột hết quần áo của chủ tướng rồi khiêng ra ngoài.
Bọn binh tướng La Sát trước đây một khắc đều ủ rũ lo âu, đột nhiên thấy chủ tướng bình nhật rất oai nghiêm hà khắc mà bây giờ cũng biến thành tình trạng thảm hại này. Chúng không nhịn được nổi lên tràng cười hô hố.
Trên núi dưới núi chỗ nào cũng toàn những tiếng cười vang dội tưởng chừng để khua tan làn mù thảm mây sầu.
Cứ một tên quân La Sát vừa bò ra là lại có hai tên Thanh binh đón lấy bắt quặt hai tay chúng buộc ra sau lưng rồi áp giải đến khu bình nguyên rộng rãi cách đó chừng vài dặm.
Đoàn quân La Sát lúc ra đi là hơn hai nghìn người. Bây giờ trừ những kẻ bị chết và bị trọng thương không nhúc nhích được độ sáu, bảy trăm tên. Hiện còn một nghìn tám trăm vừa quân vừa tướng đều bị trói chặt cánh khuỷu, thân thể trần truồng xếp thành đội ngũ.Quân Thanh áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh đến đứng trước đội quan binh La Sát.
Quân La Sát thấy chủ tướng mình trần như nhộng hở cả đít ra, mấy chục tên không nhịn được phải phì cười.
Người ta nói tiếng cười rất dễ truyền nhiễm. Mấy người cười trước rồi sau cả toán cùng cười. Hơn nghìn quan binh đều cười rộ vang dội cả một vùng.
Đồ Nhĩ Bố Thanh tức muốn vỡ mật quay lại lớn tiếng quát:
– Lập nghiêm! Cười cái gì?
Trên người hắn không còn một mảnh áo lại làm bộ Oai nghiêm, coi càng hoạt kê vô cùng!
Bọn quân tướng ngày thường đối với hắn đều sợ hãi rất mực, nhưng lúc này không thể nhịn cười được.
Giữa lúc tiếng cười huyên náo, bỗng nghe những tiếng đùng đùng nổi lên rồi đến tiếng trống tiếng tù và vang dội. Một đội quan quân bên Thanh từ sau núi đi ra. Những quân cầm cờ xanh bày hàng ở phương Đông. Tiếp theo ba đội quân Thanh nữa trương cờ hiệu màu hồng, màu trắng, màu lam đứng sắp hàng ở ba mặt Nam, Tây, Bắc quây bọn quân La Sát ở giữa.
Quan binh La Sát thấy quân Thanh hoặc cầm trường thương, hoặc sử đại đao, hoặc dùng cung tên, lại có cả đội lính súng. Hàng ngũ chỉnh tề, khôi giáp rực rỡ, khí giới sắc bén, cực kỳ oai nghiêm, mà bọn chúng đều mình trần trùng trụ, càng cảm thấy bị địch quân uy hiếp. Tên nào tên nấy không dám cười nữa. Sắc mặt đều lộ vẻ khủng khiếp.
Đội ngũ quân Thanh sắp hàng đâu đấy rồi, phía sau núi nổ ba tiếng súng lớn, tiếp theo là tiếng đàn sáo nổi lên.
Hai lá cờ lớn tung bay trước gió. Lá cờ mé tả viết hàng chữ “Phủ Viễn Đại tướng quân Vi”.
Lá cờ mé hữu viết bốn chữ “Lộc Đỉnh Công Vi”.
Mấy trăm tên quân cầm đao hộ vệ một vị tướng quân nhỏ tuổi cưỡi ngựa đi rạVị tướng quân này đầu đội mũ chóp đỏ, mình mặc áo giáp vàng, mặt mày hớn hở. Tay trái phe phẩy cây quạt lông theo điệu Gia Cát Lượng. Tay mặt cầm ngược thanh đại đao, nghiễm nhiên như Quan Vân Trường.
Viên tướng này chính là Vi Tiểu Bảo.
Gã tung người nhảy xuống rồi ngửa mặt lên trời cười ha hả ba tiếng.
Đây là gã bắt chước bộ điệu của Tào Tháo trong tuồng hát. Đáng tiếc bên mình gã không có người đóng trò ra hỏi một câu:
– Sao tướng quân lại bật cười?
Đồ Nhĩ Bố Thanh đang tức giận đầy ruột không nơi phát tiết, hắn chẳng sợ hãi gì nữa vì đã gác chuyện sinh tử ra ngoài, hắn lớn tiếng thóa mạ:
– Tên tiểu quỷ Trung Quốc kia! Ngươi dùng ngụy kế bắt được ta, không đáng mặt anh hùng. Ngươi muốn giết thì giết đi, sao còn làm nhục ta?
Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa hỏi lại:
– Ta làm gì mà bảo là vũ nhục tướng quân?
Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận đáp:
– Ta… ta thành người thế này mà còn bảo… không phải vũ nhục ư?
Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
– Quần áo của tướng quân bị ai lột ra?
Gã nói câu này khiến Đồ Nhĩ Bố Thanh câm họng. Hắn nghĩ bụng:
– Ta bị bọn thuộc hạ bóc lột quần áo mà trách mạ tên tiểu quỷ Trung Quốc kể ra không đúng lý thực.
Hắn tức giận như người điên, mặt đỏ bừng lên, xông lại định liều mạng với Vi Tiểu Bảo.
Bốn tên thân binh đi kèm Vi Tiểu Bảo vội chĩa mũi trường thương sáng loáng nhằm vào trước ngực và dưới bụng Đồ Nhĩ Bố Thanh.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Tướng quân có chịu đầu hàng không?Đồ Nhĩ Bố Thanh đáp:
– Không hàng! Ngươi băm nát ra như tương, lão gia cũng không đầu hàng.
Vi Tiểu Bảo cất giọng cao hỏi bọn quan binh La Sát:
– Các ngươi có chịu đầu hàng không?
Bọn quan binh La Sát cúi đầu xuống, lẳng lặng không đáp.
Vi Tiểu Bảo trỏ vào đội cờ trắng ở mé Tây nói:
– Những quan binh và binh sĩ đầu hàng thì đứng qua bên đó.
Bọn quan binh La Sát vẫn đứng thộn mặt ra không nhúc nhích.
Sự thực rất nhiều quan binh muốn đầu hàng, nhưng không thấy người nào tiến ra, nên chẳng ai dám đi trước.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Các ngươi không ai chịu đầu hàng cả. Nhà bếp đâu?
Đội đầu bếp mười mấy tên ở phía sau đội thân binh, nửa người trên để mình trần, tay cầm tiêm đao, dùi nhọn tiến lên khom lưng vâng lệnh.
Vi Tiểu Bảo nhìn Đồ Nhĩ Bố Thanh nói:
– Ngày trước ta qua Mạc Tư Khoa đã được nếm món “Hà Thư Ni Khắc” của nước La Sát các ngươi. Món đó quả thật ngon lành. Bây giờ ta lại muốn ăn.
Gã quay lại bảo mười tên đầu bếp:
– Các ngươi hãy làm món “Hà Thư Ni Khắc”!
Mười tên đầu bếp dạ ran đáp:
– Xin tuân lệnh!
Lập tức hai mươi tên binh sĩ đẩy mười cái lò sắt lớn ra. Trong lò đã đốt than hồng.
Bọn quan binh La Sát thấy tình trạng này không khỏi ngơ ngác nhìn nhau.
Chúng vẫn chưa hiểu vị tướng quân Trung Quốc muốn dở trò gì.Vi Tiểu Bảo vẫy tay một cái. Hai mươi tên thân binh liền chạy đến lôi mười tên quân La Sát lại.
Vi Tiểu Bảo hô bằng tiếng La Sát:
– Xẻo thịt bọn chúng đem nướng làm món “Hà Thư Ni Khắc”.
Nguyên Hà Thư Ni Khắc là món thịt xiên chả nướng trên than lửa và là một món ngon nhất của nước La Sát.
Mười tên đầu bếp thân thể to lớn sấn đến trước mặt mười tên quân La Sát.
Chúng giơ mũi tiêm đao sáng loáng lên rồi bổ xuống.
Mười tên quân La Sát bật tiếng rú thê thảm.
Bọn thân binh đem mười tên quân La Sát ra phía sau sườn núi. Máu tươi lênh láng trên mặt đất.
Mười tên đầu bếp tay trái đều cầm những dùi sắt xâu thịt đem vào lò nướng.
Bọn quan binh La Sát ngó thấy kinh hãi nhìn nhau.
Bốn bề im lặng như tờ, chỉ nghe tiếng than nổ lách cách cùng tiếng mỡ rót xuống lửa cháy xèo xèo.
Vi Tiểu Bảo lại hô lớn:
– Lôi mười tên quân La Sát khác ra làm Hà Thư Ni Khắc.
Hai mươi tên thân binh dạ một tiếng chạy lại bắt quân La Sát.
Trong mười tên quân này, bốn tên la:
– Đầu hàng! Đầu hàng!
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Tên nào đầu hàng thì đưa qua bên kia.
Bọn thân binh liền đưa hàng binh đến đứng dưới lá cờ trắng và đem rượu thịt cho ăn uống.
Bốn tên đầu hàng rồi, bọn thân binh lại kéo bốn tên khác thay vào.
Bốn tên này thấy bọn đầu hàng khỏi chết lại được uống rượu ăn thịt. Còn kẻ không chịu đầu hàng bị xẻo thịt là Hà Thư Ni Khắc đều khiếp sợ vô cùng!Tuy chúng không nhìn rõ bọn Thanh binh lóc thịt ở chỗ nào nhưng thấy toán đầu bếp cứ mắt la mày lét nhìn xuống hạ bộ mình lại càng kinh tâm động phách, bất giác lớn tiếng hô:
– Đầu hàng!
Sáu tên quân La Sát lúc trước rất quật cường bây giờ cũng nhìn ra. Chúng không nhịn được, hô theo:
– Đầu hàng!
Đã có người dẫn đầu cuộc đầu hàng, cánh quân La Sát chẳng dám sinh cường mà cũng không e dè nữa, liền chịu đầu hàng hết. Phần lớn không chờ bọn thân binh lại dẫn đi mà tự động chạy đến đứng dưới lá cờ trắng.
Chỉ trong khoảnh khắc, hơn nghìn quan quân La Sát đều đầu hàng hết. Chỉ còn một mình Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn đứng sừng sững đương trường.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Tướng quân có đầu hàng không?
Đồ Nhĩ Bố Thanh đáp:
– Ta thà chết chứ không đầu hàng.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Vậy ta tha ngươi trở về thành Nhã Tát Khắc.
Gã sai Hồng Triều đem năm trăm quân hộ tống Đồ Nhĩ Bố Thanh trở về Nhã Tát Khắc.
Đồ Nhĩ Bố Thanh đã tưởng mình quật cường như vậy là vị tướng quân bên Thanh sai đem chém đầu. Hắn không ngờ gã lại buông tha, liền nói:
– Ngươi đã buông tha ta thì trả lại áo quần cho ta mặc.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Không thể trả quần áo được.
Gã quay lại dặn Hồng Triều:- Tướng quân đưa y đến chân thành Nhã Tát Khắc và truyền tướng lệnh của ta hãy tạm đình việc đánh thành rồi dắt vị tướng quân La Sát trần truồng này đi vòng quanh trên tường thành ba lượt xong hãy thả y vào thành.
Hồng Triều lĩnh mệnh dẫn quân áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh đưa đi.
Lâm Hưng Châu hỏi:
– Xin hỏi đại soái:
Đã bắt được tướng La Sát sao lại buông tha? Xin đại soái cho hay chỗ ảo diệu bên trong được chăng?
Vi Tiểu Bảo cười hỏi lại:
– Tướng quân có biết cuộc đại thắng của chúng ta bữa nay là theo kế hoạch nào không?
Lâm Hưng Châu đáp:
– Đây là thần cơ diệu toán của đại soái. Thuộc hạ khâm phục vô cùng.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:
– Không phải thần cơ diệu toán của bản soái mà là xảo kế của Hoàng thượng.
Đức Hoàng thượng phán bảo:
Ngày trước Gia Cát Lượng thất cầm Mạch Hoạch là kế rất hay. Ngài dặn ta phải theo kế đó.
Rồi gã hỏi:
– Tướng quân đã coi vở tuồng “Thất cầm Mạch Hoạch” bao giờ chưa? Dù chưa coi tuồng hát thì chắc cũng được nghe thầy đồ giảng sách rồi. Trong tích này Gia Cát Lượng phái Ngụy Diên thua liền mười lăm trận, bỏ bảy tòa doanh trại cho Mạch Hoạch cướp lấy mới dẫn dụ được hắn xông vào Bàn Xà cốc rồi phóng hỏa đốt cánh quân đằng giáp. Kế hoạch của chúng ta bữa nay là theo kế của Gia Cát Lượng ngày trước.
Chúng tướng nghe gã nói đều bái phục.
Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Đức Hoàng thượng tâm địa nhân từ. Ngài bảo Gia Cát Lượng hỏa thiêu đằng giáp binh là tàn nhẫn quá đến nỗi phải giảm thọ. Nếu quân La Sát chịu đầu hàng thì tha mạng cho chúng.Phó đô thống Lang Thản nói:
– Nếu không được đại soái dùng kế “Hà Thư Ni Khắc” xẻo thịt mười tên quân La Sát đem nướng chả khiến chúng kinh hồn táng đởm thì bọn quân La Sát quật cường kia chưa chắc đã chịu đầu hàng. Diệu kế này còn hơn cả Gia Cát Lượng.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Mười tên đầu bếp đã dấu mười miếng thịt bò sống. Chúng chỉ rạch mấy dao vào đùi bọn quân La Sát cho chúng kêu rú lên. Còn thịt nướng chả là thịt bò thượng hảo. Các vị thử nếm coi mùi vị thế nào?
Chúng tướng đều cười ồ.
Vi Tiểu Bảo sai bọn đầu bếp đem món Hà Thư Ni Khắc bằng thịt bò thái ra cho mọi người ăn. Món này quả nhiên vừa thơm vừa mềm, ăn rất ngon lành.
– Chúng tướng lại hỏi:
Đại soái bắt được tướng giặc lại tha về, phải chăng là theo phép “Thất cầm thất túng” để từ nay hắn không dám phản nghịch nữa?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Không phải đâu. Vụ này bản soái khi ở Bắc Kinh đã thỉnh thị Hoàng thượng.
Bản soái hỏi:
Hoàng thượng là Điểu sâng dủy thang rộng lượng khoan hồng. Chúng ta có nên bắt chước Gia Cát Lượng khi tóm được nguyên soái nước La Sát cũng tha hắn bảy lần không? Hoàng thượng đáp:
Cái đó không được. Học Gia Cát Lượng là phải học một cách linh động chứ không thể học một cách mù quáng.
Mạch Hoạch là một tù trưởng đất Man di. Y tuyên bố không phản là vĩnh viễn không bao giờ tạo phản nữa. Còn hoàn cảnh nước La Sát lại khác hẳn. Những nhân vật cầm quyền nước này là Sa hoàng và Nữ Nhiếp chính vương. Nguyên soái chỉ là kẻ vâng lệnh bậc quân thượng đem quân đến xâm lược bờ cõi nước ta, có thể thay đổi luôn, không chỉ định một ai.
Chúng tướng gật đầu khen phải.
Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Thám tử về báo quân thủ thành Nhã Tát Khắc cực kỳ hung hăng, hỏa pháo vô cùng lợi hại. Sĩ tốt của chúng ta đánh thành bị tử thương rất nhiều mà không hạđược. Ta tha cho nguyên soái La Sát trở về nhưng lột trần truồng người hắn dong đi quanh trên mặt thành ba vòng để quân La Sát trong thành ngó thấy đem lòng khinh khi hắn. Nguyên soái mất hết oai phong thì về sau hiệu lệnh tất không linh nghiệm nữa.
Chư tướng lại đồng thanh khen phải.
Lâm Hưng Châu hỏi:
– Có phải đức Hoàng thượng đã chỉ thị cho đại soái lột hết áo quần của tướng soái bên địch không?
Vi Tiểu Bảo cười ha hả đáp:
– Đức Hoàng thượng là đấng tôn nghiêm khi nào chỉ thị những điều hỗn loạn như vậy? Ngài chỉ bảo ta nghĩ cách làm phấn khởi ý chí của quan binh bên mình mà hủy diệt oai phong của quân tướng La Sát. Ngài phán:
quân La Sát vừa cao lớn, đầy mình lông lá, chẳng khác người man dã. Hỏa khí của chúng lại cực kỳ lợi hại.
Quân ta ngó thấy hình dạng man mọi thường sinh lòng khiếp sợ. Phải làm mất nhuệ khí của họ là mình thắng trận dễ dàng hơn.
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
– Hoàng thượng lại dặn:
“Tiểu Quế Tử! Ngươi cũng nhiều trò khôi hài, vậy tìm cách khiến quân binh bên ta từ trên xuống dưới coi thường bọn Man tử là được”.
Bản soái nghĩ lui nghĩ tới không tìm được biện pháp gì. Thế rồi một hôm chợt nhớ tới chuyện đánh bạc ngày còn nhỏ…
Các tướng ngơ ngác tự hỏi:
– Chủ soái đánh bạc hồi nhỏ thì có dính líu gì đến chuyện đi đánh La Sát.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói tiếp:
– Hồi nhỏ ta ở Dương Châu cùng người đánh bạc thua rồi không có tiền trả đành phải cãi xóa, họ muốn đánh muốn chửi như thế nào ta cũng không sợ. Một lần ta đã bị họ chỉnh rất thảm hại. Người được bạc bắt ta lột hết quần áo để ta trần truồng chạy về nhà. Lúc đi qua đường phố, ai ngó thấy cũng vỗ tay cười hô hố. Từ đó ta đánh bạc phải thận trọng hơn.
Các tướng nghe gã nói đều cười ồ.Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Hoàng thượng dạy phép chiến đấu cần linh động, biến hóa. Ngài chỉ đưa ra những phương lược, những kế hoạch đại khái, còn lúc thực hành đi vào chi tiết thì chính ta phải huy động cân não làm cho nên việc. Ta nghĩ rằng ngày mình nhỏ tuổi đã sợ kẻ khác lột quần áo thì khi nào binh tướng La Sát lại không sợ? Quả nhiên vừa bị lột quần một cái, bọn chúng riu ríu đầu hàng.
Các tướng đồng thanh ca ngợi, trong lòng rất khâm phục. Có người lẩm bẩm:
– Phép lột quần áo trong “Tôn Tử binh pháp” cũng không nói đến. Vậy điều này phải kêu bằng “Vi Tử binh pháp” và là một điểm rất lợi hại.
Vi Tiểu Bảo sai bọn hàng binh La Sát mặc áo giáp của quân Thanh vào, gã lại phái một tên tham tướng dẫn hai nghìn quân Thanh áp giải hàng binh đến Bắc Kinh tâu trình Hoàng đế hiến công.
Một vị sư gia ở trong trướng viết biểu chương tâu về triều đình nói:
Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tuân theo phương lược ngự chế của Hoàng thượng mở cờ đắc thắng. Quân La Sát ngưỡng mộ Trung Hoa thượng quốc, tận tâm quy thuận, Thánh đức của Ngô hoàng bao la thiên địa, cảm hóa man di…
Tối hôm ấy Vi Tiểu Bảo hạ lệnh mở tiệc khao thưởng ba quân.
Sáng hôm sau gã thân hành dẫn quân đến ngoài thành Nhã Tát Khắc.
Chủ tướng đánh thành này là Bằng Xuân vào trướng bẩm báo nói hỏa pháo ở trong thành rất mãnh liệt, không thể tới gần để tấn công.
Vi Tiểu Bảo hạ lệnh:
– Chúng ta bắc súng lớn bắn con mẹ nó vào.
Bằng Xuân truyền lệnh ra ngoài. Chẳng bao lâu cả bốn mặt Đông, Nam, Tây, Bắc súng nổ vang trời bắn vào trong thành.
Người La Sát kinh doanh thành Nhã Tát Khắc từ lâu, cách kiến trúc cực kỳ kiên cố. Binh tướng La Sát ẩn ở phía trong thành lũy.
Quân Thanh khai hỏa bắn sập rất nhiều phòng ốc, nhưng quân La Sát vẫn kiên thủ không ra, nên Thanh binh chẳng làm gì được.Cuộc đánh kéo dài mấy ngày rồi, Hà Hựu dẫn một nghìn dũng sĩ tiến gần lại trèo lên, nhưng súng ống ở trên mặt thành bắn xuống từng loạt. Bên Thanh binh bị chết bốn, năm trăm người.
Bằng Xuân thấy tình thế bất lợi liền khua chiêng thu binh.
Quân La Sát đứng trên mặt thành vỗ tay gieo cười. Lại có mấy chục tên vén quần đi tiểu xuống thái độ rất ngạo mạn.
Hồi 233
Vi Tiểu Bảo niệu xạ Lộc Đỉnh Sơn
Hắc Long Giang tướng quân là Tát Bố Tố cả giận, thân hành đốc suất quan quân đánh thành.
Trên mặt thành hàng loạt súng bắn xuống. Tát Bố Tố trúng đạn ngã ngựa.
Thanh quân rối loạn cả lên.
Cửa thành mở, mấy trăm quân La Sát xông ra.
Lâm Hưng Châu dẫn đội đằng bài lăn mình dưới đất xông vào, tay cầm đại đao vung múa. Quân La Sát vội tung mình nhảy lên né tránh.
Đội quân đằng bài này do Lâm Hưng Châu ra tay huấn luyện phép “Địa đường đao pháp” cực kỳ thuần thục. Bọn chúng lăn mình dưới đất, tay trái cầm đằng bài che đỡ súng đạn bên địch. Tay mặt vung đại đao chém vào chân quân La Sát.
Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy tình thế bất lợi vội hạ lệnh thu binh.
Lâm Hưng Châu cứu Tát Bố Tố đưa về. Tát Bố Tố bị trúng đạn ở trán may chưa vào tới óc. Hắn bị thương rất nặng nhưng không nguy đến tính mạng.
Trận này cả hai bên cùng tổn thất, có điều quân Thanh bị tử thương nhiều hơn.
Vi Tiểu Bảo đã đưa quân y đi theo, liền cho Tát Bố Tố ở trong trướng trị thương và trọng thưởng Lâm Hưng Châu. Gã hạ lệnh lui binh hai mươi dặm hạ trại.
Tối hôm ấy Vi Tiểu Bảo ở trong trướng hội họp chư tướng, thương nghị kế hoạch đánh thành.
Có người nói:
– Bữa nay quân đằng bài đã lập được công lớn, vậy sáng mai lại khiêu chiến dẫn dụ bọn quỷ La Sát ra ngoài thành rồi huy động quân đằng bài chém quân giặc.
Có kẻ bàn:
– Quân địch đã mất hết nhuệ khí, e rằng chúng không dám xuất chiến. Chi bằng đắp lũy cao bốn mặt vây hãm cho chúng chết đói.
Lại có người bày kế:
Nên đào đường hầm tiến quân vào thành tấn công.
Theo địa đạo đánh thành nguyên là kế hoạch từ xưa của Trung Quốc. Câu này nhắc nhở Vi Tiểu Bảo nhớ tới trong thành Nhã Tát Khắc đã có đường hầm.
Nguyên năm trước gã ôm Tô Phi á Công chúa thân thể lõa lồ dưới địa đạo, nhưng hiện nay nàng đã thành Nhiếp Chính Nữ Vương, địa vị rất tôn quý, trong tay nắm đại quyền về quân chính của nước La Sát, mà gã lại đang đánh nhau ở đây với bộ hạ của nàng. Bất giác gã lẩm bẩm:
– Giả tỷ nàng chỉ huy binh tướng ở trong thành Nhã Tát Khắc thì ta theo địa đạo chuồn vào bò lên giường nàng để sờ. Một ta sờ, hai ta sờ, sờ vào tấm thân mềm nhũn của nàng, tất nàng phải chịu đầu hàng.
Các tướng nghị luận một hồi thấy Vi Tiểu Bảo trầm ngâm không nói, miệng lại tủm tỉm cười, thì cho là gã đã nghĩ ra diệu kế, nên ai nấy thảy đều im tiếng, lẳng lặng chờ đợi nghe lệnh của đại soái. Ai mà biết được trong lòng gã lúc này đang nghĩ tới chuyện sờ soạng vào da dẻ đầy lông lá của nàng Tô Phi á.
Bỗng thấy cặp mắt gã nửa nhắm nửa mở, miệng lảm nhảm:
– Hỏng bét! Không tiêu được!
Các tướng ngơ ngác nhìn nhau. Bỗng nghe đại soái nói:
– Con mẹ nó! Mình bị phát đá từ trên giường rớt xuống.
Chúng tướng cũng chẳng hiểu ra làm sao. Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Nước La Sát tuy lợi hại, nhưng rồi lão gia sẽ có biện pháp đối phó.
Bằng Xuân nói theo:
– Đại soái nói phải lắm! Bọn quỷ La Sát dù lợi hại đến đâu, chúng ta cũng có cách đối phó.
Vi Tiểu Bảo giật mình mở bừng mắt ra hỏi:
– Chúng ta nào? Ngươi cũng có đến đó ư?
Nhưng rồi gã tỉnh ngộ ngay cười ha hả nói:- Phải rồi! Phải rồi! Đường địa đạo đó hẹp quá chỉ lọt một người đi vào mà cửa hầm lại ở trong phòng tướng quân. Chắc hiện nay họ vít chặt rồi. Chúng ta nên đào đường khác là hơn.
Các tướng lại càng mờ mịt chẳng hiểu chi hết.
Vi Tiểu Bảo đứng dậy nói:
– Kế hoạch của các vị tướng quân đều tuyệt diệu. Những cửa Thanh Long, Bạch Hổ, Thiên Môn của chúng ta đều ăn thông hết. Sáng sớm mai chúng ta chia nhau đôn đốc đắp thành bao vây, đào đường hầm, đồng thời nổ súng lớn dẫn dụ bọn La Sát xuất chiến, để quân đằng bài lăn vào chém chân bọn quỷ sứ.
Các tướng thấy kế hoạch của mình đề nghị đều được đại soái thu dụng, ai nấy hoan hỷ lui ra.
Hôm sau, trời chưa sáng rõ, các tướng đã dẫn bọn bộ thuộc chia nhau hành động.
Bằng Xuân đốc suất binh lính đắp tường đất bao vây. Lang Thản chỉ huy đội phóng pháo. Hà Hựu đôn đốc việc đào đường hầm. Hồng Triều dẫn năm trăm quân đã học được ít tiếng La Sát của bọn hàng binh về những câu chửi bới, đến chân thành lớn tiếng thóa mạ.
Đáng tiếc là người La Sát hủ lậu kém văn chương, rất ít từ ngữ thóa mạ.
Thanh âm của binh lính tuy vang dội nhưng hàm nghĩa rất bình thường, quanh đi quẩn lại chỉ có mấy câu “Ngươi là con heo thối tha”, “Ngươi ăn phân không biết thối… ” Những lời thóa mạ của nước La Sát so với Trung Hoa thật còn kém xa, làm gì có chuyện biến hóa vô cùng ?
Vi Tiểu Bảo nghe một lúc rồi phát ngán.
Bọn quân La Sát hôm qua đã nếm mùi chặt chân đau khổ, lại thấy quân Thanh thế mạnh, quả nhiên kiên thủ không ra. Chúng ẩn mình ở sau tường để chửi lại.
Quân Thanh nổ súng bắn vào thành, nhưng không gây được tổn hại đáng kể.
Nên biết thời bấy giờ nhồi hỏa dược vào nòng súng rồi đốt lửa để bắn đạn sắt đạn chì. Ai bị trúng đạn trực tiếp mới bị bong gân gẫy xương, còn đạn rơixuống đất thì không sao. Đâu có được như đời sau một phát đạn nổ sát thương rất nhiều người.
Trăm họ Ở quanh vùng này đã bị quân La Sát tàn hại mười mấy năm. Nhà tan người chết không biết bao nhiêu mà kể! Nay họ được tin Hoàng thượng phái binh đến đánh bọn quỷ La Sát, ai nấy mừng rỡ như phát điên. Kẻ đem cơm rượu úy lạo ba quân, người đem quang gánh thuổng cuốc giúp việc đào đất đắp lũy bao vây.
Tin tức truyền đi rất mau chóng cả nhân dân ở ngoài mấy trăm dặm cũng đến trợ lực cuộc tấn công.
Đồ Nhĩ Bố Thanh lên mặt thành nhìn xuống thấy người đông như kiến cỏ, hăm hở đào đất đắp lũy bao vây ngoài thành mỗi ngày một cao. Cứ tình thế này thì quân La Sát sẽ bị vây hãm đến chết.
Hắn chỉ mong thành Ni Bố Sở ở phía Tây phát binh cứu viện, nội ngoại giáp công mới có cơ thủ thắng.
Ngờ đâu Vua Khang Hy đã tiên liệu chuyện này, chỉ thị cho một đội kỵ binh kéo đến giả vờ tấn công thành Ni Bố Sở để cầm chân.
Tướng thủ thành Ni Bố Sở cũng mong Đồ Nhĩ Bố Thanh đem quân đến cứu viện.
Súng ống La Sát vừa mạnh vừa bắn xa khiến quân Thanh không dám tiến vào gần tấn công. Thành Nhã Tát Khắc lại dùng làm căn cứ địa của quân La Sát để tiến về phía Đông, nên được gia cố rất vững vàng.
Người La Sát hoài bão dã tâm rất lớn, chuẩn bị chiếm cứ giải đất rộng mông mênh ở miền Hắc Long Giang và Trung Hoa Giang rồi sẽ tràn xuống phía Nam, mưu đồ lấy cả Trung Quốc sát nhập vào nước La Sát, khiến mấy trăm triệu người trở thành nông nô cho chúng.
Tường thành Nhã Tát Khắc rất kiên cố. Trong thành đạn dược đầy đủ, lương thảo chất thành non. Dù phải cố thủ mấy năm cũng không lo thiếu thốn.
Ngoài ra, chúng còn đào giếng sâu để giải quyết vấn đề nước uống.
Đồ Nhĩ Bố Thanh sợ người Trung Quốc ở trong thành nổi loạn để làm nội ứng, nên lôi hết lên mặt thành giết chết rồi quẳng xác xuống.Người Trung Quốc ở ngoài thành thấy vậy vô cùng phẫn nộ, lớn tiếng thóa mạ.
Hiện thời đường địa đạo đã đào đến bên thành.
Vi Tiểu Bảo nghĩ tới núi Lộc Đỉnh là chỗ long mạch phát tích đế nghiệp của nhà Thanh, nếu đào đường là tổn thương long mạch, nguy hại đến tính mạng Nhà Vua là một điều không ổn.
Gã liền hạ lệnh không được đào đường hầm tiến thẳng vào trong thành, mà chỉ đào men theo chân tường rồi đặt chất nổ phá thành cho đại quân xông vào.
Không ngờ một hôm trong thành có mấy chỗ nước giếng vọt lên. Đồ Nhĩ Bố Thanh chuyên nghề dụng binh được tin báo, hắn suy nghĩ rồi đoán biết địch quân đào đường hầm trúng phải mạch nước mới có hiện tượng này. Hắn liền suy đoán phương vị, đặt chất nổ trên đường địa đạo rồi châm ngòi cho nổ tung.
Hơn trăm quân Thanh bị chết dưới địa đạo và đường hầm cũng bị vít lại.
Việc đánh thành Nhã Tát Khắc không thể hạ được trong một thời gian ngắn, khí trời lại mỗi ngày một thêm khá lạnh.
ở miền cực Bắc này, tới mùa thu khí hậu đã hàn lạnh phi thường. Sang mùa đông nước đóng thành băng. Người nào bất cẩn một chút hay phòng vệ không được chu đáo là lỗ mũi lỗ tai nước đọng nghẹt cứng. Còn chân tay cóng lại rồi bị hủ nát là chuyện thường.
Mấy ngày trời xuống tuyết lớn, trăm họ đến giúp cuộc tấn công không chịu nổi phải từ biệt quan quân trở về để chờ mùa hạ sang năm tuyết tạnh băng tan sẽ trở lại trợ lực.
Mọi người còn khuyên quan quân lui về phía Nam để tránh giá lạnh nơi băng thiên tuyết địa.
Bọn Tát Bố Tố, Lang Thản đã đóng quân lâu ngày ở miền Bắc đều biết cục diện mùa đông rất nguy hiểm. Nếu đêm đến gặp hàn trào thì quan binh bị chết rét phân nửa là sự thường.
Quân La Sát ở trong phòng đã có tường vách ngự hàn, nên đỡ phần giá lạnh.
Còn quân Thanh ở doanh trại ngoài hoang dã muốn đốt lửa sưởi cũng không được.Vi Tiểu Bảo buồn rầu nghĩ thầm:
– Đức Hoàng thượng phái ta dẫn quân Bắc chinh mà không hạ nổi một tòa thành đã phải lui binh thì thật là đồ vô dụng.
Gã do dự mấy bữa thủy chung không tìm được chủ ý gì thì bộ tướng vào báo mấy chục thương binh không chịu nổi giá lạnh chết cóng rồi.
Vi Tiểu Bảo đang chán nản bỗng có thánh chỉ đưa tới.
Vua Khang Hy ban thượng dụ nói:
– “Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo ra quân đắc lợi thật đáng khen thưởng.
Nay đã phái hàng tướng La Sát mang sắc thư của nhà Đại Thanh đến Mạc Tư Khoa tuyên dụ cho Quốc vương La Sát bãi chiến lui binh để hai nước vĩnh viễn hòa hảo.
Hiện nay tiết trời giá lạnh, binh tướng lao khổ, nằm băng giãi tuyết khiến lòng trẫm không khỏi đau thương. Vậy Vi Tiểu Bảo lui quân về phía Nam đóng ở hai thành ái Huy và Hô Mã Nhi để sĩ tốt nghỉ ngơi điều dưỡng.
Nếu sang xuân quân La Sát vẫn ngoan cố không chịu hàng phục sẽ hạ lệnh tiến binh đánh dẹp.
Nay ban cho Phủ Viễn Đại tướng quân cùng quan binh dưới trướng từ Đô thống, phó Đô thống trở xuống đều được dự phần y phục, kim ngân tửu thực.
Các tướng hãy thể theo ý trẫm, thương xót ba quân, chớ có tham công tốc chiến để sĩ tốt và nhân dân phải chịu gian lao, giá lạnh.
Cuộc Bắc chinh của vương sư nguyên vì mục đích bảo vệ nhân dân mà binh sĩ cũng là nhân dân vậy”.
“Khâm thử” Vi Tiểu Bảo cùng các tướng tiếp chỉ tạ Ơn.
Các tướng đều biết đức Vạn tuế thương yêu tướng sĩ, ơn đức bao la. Có điều mọi ngươi nghĩ tới bây giờ triệt binh bỏ dở cuộc bao vây không khỏi uổng phí tiền công, nên trong lòng hối tiếc.Quan khâm sai truyền chỉ dụ đến các doanh trại ban thưởng ba quân, sĩ tốt hoan hỷ reo hò như sấm dậy.
Hôm sau, Vi Tiểu Bảo hạ lệnh cho Tát Bố Tố dẫn binh rút lui trước. Gã lại sai Hà Hựu và Lâm Hưng Châu lĩnh binh đoạn hậu. Nếu quân La Sát kéo ra đuổi theo thì phải đánh giết chúng tơi bời hoa lá.
Quân La Sát thấy Thanh binh triệt thoái, trong thành reo hò vang dội cả góc trời.
Mấy trăm tên quân La Sát đứng trên mặt thành đi tiểu xuống.
Vi Tiểu Bảo tức quá cũng hạ lệnh cho sĩ tốt nhất tề ngó lên thành mà đi tiểu.
Trên thành dưới thành tiếng cười hô hố pha lẫn với tiếng thóa mạ náo loạn cả lên.
Có điều quân La Sát ở trên cao đi tiểu xuống thì được, còn quân Thanh ở dưới không thể bắn nước tiểu lên thành đành là chịu thua.
Mé tường thành chỗ nào cũng có nước tiểu mà gặp gió lạnh chỉ trong khoảnh khắc đã đóng lại thành một mửng vàng khè.
Vi Tiểu Bảo nổi tính trẻ nít, không chịu được cái tức này. Gã trỏ lên mặt thành chửi cha chửi mẹ quân La Sát.
Quan Khâm sai liền tìm lời khuyên giải nói:
– Quân La Sát chẳng khác gì bầy dã thú. Đại soái bất tất phải chấp với chúng.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Không được! Mình thua là mất thể diện.
Gã hạ lệnh lấy vòi rồng đến.
Vòi rồng là đồ dùng cứu hỏa, dĩ nhiên quân đội phải đem theo để phòng khi chữa lửa.
Bọn thân binh kéo mười mấy cái vòi rồng đến. Vi Tiểu Bảo sai chúng bắc lên mặt lũy.Hiện thời nước sông đóng lại thành băng không thể dùng được. Gã liền sai hỏa phu bắc những nồi lớn lên đun cho băng chảy ra rồi đổ nước nóng vào vòi rồng.
Vi Tiểu Bảo lại vén quần đi tiểu vào nước nóng và hạ lệnh cho thân binh:
Các ngươi hãy thụt nước lên thành.
Bọn thân binh thấy chủ soái nghĩ ra được diệu kế liền hăm hở huy động vòi rồng phun nước nóng lên mặt thành.
Bọn thân binh vừa thụt nước vừa hô:
– Vi đại soái ban nước tiểu cho bọn quỷ La Sát các ngươi giải khát.
Nước nóng bắn vào, quân La Sát kêu la, thóa mạ ầm ĩ và tới tấp né tránh.
Các tướng có người lẩm bẩm:
– Nhộn quá!
Có người muốn lấy lòng đại soái, đứng lên reo hò để trợ Oai.
Nhưng trời lạnh quá nước trong vòi rồng chỉ sau giây lát đã đóng thành băng, cứ phải đổ nước nóng hoài.
Vi Tiểu Bảo thấy mình thắng được một trận chiến đấu bằng nước tiểu, trong lòng rất cao hứng, mình lại tự khen mình:
– Gia Cát Lượng hỏa thiêu Bàn Xà Cốc, Vi Tiểu Bảo niệu xạ Lộc Đỉnh Sơn.
Cả hai vụ đều oai phong chẳng kém gì nhau.
Đột nhiên hai mắt gã trợn ngược, ngơ ngẩn xuất thần. Hắn quát một tiếng lớn rồi nhảy lên cười ha hả hô:
– Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!
Phó Đô thống là Lang Thản đứng bên ca tụng:
– Một bầu nước tiểu của đại soái đủ làm cho bọn quỷ La Sát phải chùn nhụt nhuệ khí.
Vi Tiểu Bảo lại sai đánh trống triệu tập chúng tướng vào trong trướng hỏi:
– Trong doanh trại chúng ta cả thảy có bao nhiêu vòi rồng?Tên tham tướng phụ trách quân nhu đáp:
– Khải bẩm đại soái! Tất cả có mười tám bộ.
Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi:
– ít quá! ít quá! Sao không mang nhiều đi?
Tham tướng dạ một tiếng.
Hắn nghĩ bụng:
– Quân doanh thất hỏa chẳng phải là chuyện thường xảy ra. Mười tám bộ vòi rồng đủ dùng rồi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Ta cần dùng một nghìn bộ vòi rồng. Bây giờ sai người đi trưng dụng ở các thành thị lân cận thì bao giờ mới có đủ?
Nơi đây là biên thùy cực Bắc, đất rộng người thưa. Thành thị gần nhất cũng xa tới mấy trăm dặm. Thị trấn lại nghèo nàn, lèo tèo chỉ mấy trăm nhà, chứ không sầm uất như ở Trung Nguyên. Tại thị trấn chưa chắc đã có vòi rồng. Muốn trưng tập nghìn bộ thì nhất quyết không sao tìm đủ được.
Tên tham tướng vẻ mặt đăm chiêu đáp:
– Khải bẩm đại soái! ở quan ngoại mà muốn kiếm đủ một nghìn bộ vòi rồng thì e rằng không sao có đủ. Vậy phải tiến vào quan ải đến Bắc Kinh, Thiên Tân thu thập và chuyển vận tới đây.
Vi Tiểu Bảo tức giận nói:
– Thối lắm! Từ đây trở về Bắc Kinh, Thiên Tân lấy được vòi rồng đưa tới mất bao nhiêu ngày giờ? Việc đánh nhau là phải thần tốc, nửa ngày còn không chậm được.
Tên tham tướng vâng dạ luôn miệng. Hắn sợ hãi thất sắc than thầm:
– Phen này thì cái đầu ta đến phải lìa khỏi cổ mất!
Quan Khâm sai ngồi bên không nhịn được liền khuyên giải:- Đại soái! Qúy niệu đã bắn lên mặt thành của người La Sát rồi. Cái đó… cái đó quý ở chỗ tinh vi chứ không cần nhiều. Chúng ta đã thắng một trận rồi. Theo ngu kiến củ tiểu đệ thì giặc đến bước đường cùng không nên… bắn theo nữa.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:
– Không được. Phải đủ một nghìn vòi rồng mới làm nên đại sự.
Viên Khâm sai bụng bảo dạ:
– Gã này làm đại soái mà rắc rối quá chừng! Vụ bắn nước tiểu để tranh hơi, ngẫu nhiên đùa giỡn một chút thì không tổn thương gì đến đại thể, đâu có thể mở cờ gióng trống làm trò vô vị. Thiếu niên Hoàng đế ưa dùng tướng quân nhỏ tuổi.
Quân thần họ ý hợp tâm đầu nên người ngoài không dám nói nhiều. Nhưng gã đùa dai thái quá chẳng còn ra thể thống gì nữa, tất không tránh khỏi bị thiên hạ chê cười.
Y muốn đưa lời khuyên giải, bỗng nghe Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Các vị tướng quân! Vị nào nghĩ ra được diệu kế gì điều động đến đây ngay lập tức một hai nghìn cỗ vòi rồng để dùng chăng? Đây là một công lao rất lớn.
Bằng Xuân hỏi lại:
– Xin hỏi đại soái:
Phải chăng đại soái muốn dùng một nghìn vòi rồng để…
để bắn nước tiểu lên thành?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Nếu chúng ta có đủ nghìn vòi rồng mà dùng vào việc bắn nước tiểu lên thành thì lấy đâu ra được nhiều nước tiểu như vậy? Bản soái tưởng cả trăm vạn nhân mã đi tiểu cũng không đủ dùng.
Bằng Xuân cười nói:
– Đúng thế! Thuộc hạ thật là ngu muội! Xin đại soái chỉ thị cho.
Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
– Vừa rồi bản soái thấy “quý niệu” của bản soái bắn lên mặt thành lập tức đóng lại thành băng. Nếu chúng ta dùng một vài nghìn cỗ vòi rồng suốt ngày thâu đêm bắn nước nóng lên mặt thành thì sẽ ra sao?Chúng tướng sửng sốt một chút ròi những người đầu óc linh mẫn nổi lên hoan hô. Về sau ai cũng vỡ lẽ, tiếng reo hò như sấm động trong doanh trướng.
Chúng tướng hô lớn:
– Diệu kế chân diệu kế! Nước tràn Nhã Tát Khắc! Băng đóng Lộc Đỉnh Sơn!
Sau một lúc, tiếng hoan hô dừng lại. Có người nói:
– Dù phải đến Bắc Kinh, Thiên Tân lấy một nghìn vòi rồng cũng phải ra sức đi suốt ngày đêm vận tải đưa về đây.
Lập tức mấy tên phó tướng, tá lãnh tự nguyện tận tâm kiệt lực và xin lệnh đi trưng tập vòi rồng, Hồng Triều chức vị thấp kém đứng ở hàng sau cùng, bây giờ mới khom lưng lên tiếng:
– Khải bẩm chủ soái! Mạt tướng xin đưa ra ý kiến nông cạn để chủ soái định đoạt.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Tướng quân có ý kiến gì cứ nói ra.
Hồng Triều nói:
– Mạt tướng là người ở Phúc Kiến, làng mạc nghèo nàn không làm nổi vòi rồng. Khi hương thôn phát hỏa, nhân dân liền dùng ống thụt bằng tre để chữa cháy. Thứ ống thụt này chỉ cần dùng một cây bương lớn đục cho rỗng ruột. Một đâu khoan lỗ nhỏ bằng đồng tiền. Còn một đầu lắp khúc gỗ vừa khít. Khi cứu hỏa thì dùng đầu có lỗ nhỏ xuống nước, kéo mạnh khúc gỗ lên hút nước đầy vào ống tre. Tiếp theo đẩy mạnh khúc gỗ để bắn nước vào chỗ lửa cháy.
Vi Tiểu Bảo ồ lên một tiếng rồi suy nghĩ cách làm ống thụt.
Hà Hựu nói:
– Khải bẩm chủ soái! ống thụt này muốn làm lớn nhỏ thế nào cũng được. Hồi ty chức còn nhỏ thường cùng bạn bè dùng ống thụt nước bắn nhau chơi. Trò này rất thú vị.
Y dừng lại một chút rồi tiếp:- Đáng tiếc giải đất này không có giống tre bương thật lớn để làm ống thụt đựng nhiều nước. Thứ tre này phải qua sông Trường Giang mới có nhiều.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi Hồng Triều:
– Tướng quân còn có biện pháp nào không?
Hồng Triều đáp:
– Mạt tướng nghĩ rằng:
Nơi đây tuy không có trúc lớn nhưng rất nhiều cây tùng cây sam. Chúng ta chặt nhiều cây lớn khoét ruột đi có thể làm thành ống thụt nước.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Muốn khoét ruột cây súng lớn đâu phải chuyện dễ dàng?
Một tên phó tướng họ Ban xuất thân là thợ mộc ở Sơn Tây tiến ra đáp:
– Khải bẩm chủ soái! Vụ này không khó khăn gì. Trước hết lấy cưa xẻ dọc cây gỗ lớn ra làm hai nửa. Mỗi nửa khoét ruột rỗng thành hình bán nguyệt bào cho nhẵn rồi lắp hai nửa vào thì thành cái ống tròn rỗng ruột. Khi lắp hai nửa muốn cho đẹp thì dùng khâu sắt đóng vào, bằng làm sơ sài thì chỉ đóng đinh sắt cũng được.
Vi Tiểu Bảo cả mừng reo lên:
– Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu.
Rồi gã hỏi:
– Làm một cây ống thụt lớn như vậy phải mất bao nhiêu thì giờ?
Ban phó tướng đáp:
– Tiểu tướng tự mình ra tay thì một ngày có thể xong một cây. Làm cả đêm thì được hai cây.
Vi Tiểu Bảo chau mày nói:
– Chậm lắm, chậm lắm! Tướng quân đến khắp doanh trại tìm kiếm những tay trợ thủ, cần thật đông người làm. Tướng quân đóng vai sư phụ dạy cho các đồ đệ khởi công tức khắc.
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:- Vụ này chỉ cần làm cho được việc chứ có phải tân nương tử về nhà chồng đâu mà làm đồ đẹp. Cũng chẳng phải tài chủ đóng quan tài cần làm cho kỹ. Vỏ cây làm ống thụt cũng không cần đến nữa. Chỉ cốt sao bắn nước lên thành là được.
Gã lại lớn tiếng hô:
– Chư tướng! Chúng ta lập tức động thủ, phạt mộc làm ống thụt.
Chúng tướng được lệnh liền dẫn quân bộ thuộc vào rừng đốn cây phạt mộc.
Hồi 234
Hạ thành không mất một tên quân
Bên ngoài quan ải, khắp nơi mọc đầy những cây tùng, cây sam. Cả một giải ven sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chi chít rừng rậm. Cây cao ngất trời hàng trăm năm không biết bao nhiêu mà kể. Quân Thanh phát động không đầy nửa ngày đã đốn được mấy ngàn cây lớn.
Binh sĩ trong quân có hơn trăm tên nguyên là thợ mộc được Ban phó tướng điều động khởi công. Hắn lựa thêm bốn, năm trăm quân khéo tay giúp việc chế tạo ống thụt ngay đêm hôm ấy.
Chính Ban phó tướng làm một cây kiểu mẫu. Cây ống thụt này đường kính hai thước, dài hơn một trượng. Đầu ống thụt lắp khúc gỗ để nằm ngang. Sáu tên quân chia ra đứng hai bên nắm quai khúc gỗ này thụt ra thụt vào.
ống thụt hút nước nóng vào rồi, Ban phó tướng hạ lệnh cho sáu tên quân hết sức xô đẩy khúc gỗ nằm ngang để bắn nước nóng ra xa được hai trăm bộ.
Vi Tiểu Bảo coi diễn thử trầm trồ khen ngợi.
Gã nói:
– Cái này không phải là ống thụt mà là súng bắn nước.
Gã ngẫm nghĩ nói tiếp:
– Chúng ta phải dặt cho nó một cái tên, kêu bằng… Bạch Long thủy pháo.
Gã lấy vàng bạc khao thưởng Ban phó tướng và quan binh chế tạo thủy pháo. Đồng thời gã đốc thúc binh tướng làm việc suốt ngày đêm.
Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy quan Thanh đã rút lui rồi quay trở lại, liền lên mặt thành quan sát. Hắn ngó thấy trong trại binh xếp từng đống gỗ rất lớn, nghĩ thầm:
– Bọn man tử Trung Quốc đốn nhiều gỗ thế kia là để làm củi đốt lửa sưởi ấm.
Chắc bọn chúng ở lại vây thành không rút lui nữa.
Rồi hắn lẩm bẩm:
– Hừ! Chỉ nửa tháng nữa là gió to tuyết dữ. Ta thử coi bọn ngươi có chịu nổi không? Dù các ngươi đốt bao nhiêu củi lửa cũng chẳng thể cản được âm phong hàn khí ở trong vòng địa ngục này tiết ra.
Hắn trở về doanh trướng sai thân binh đốt lò lửa, rót thứ rượu mạnh La Sát ra uống, lại gọi hai thiếu nữ Trung Quốc bắt được từ trước vào trướng hầu rượu.
Bên này bọn Bằng Xuân, Hà Hựu sai kỵ binh thu lượm nồi đồng, chảo gang của trăm họ để lại trong mấy dặm vuông vào một chỗ. Chúng lại sai binh sĩ đào đất làm bếp.
Củi khô cùng băng tuyết xếp thành từng đống cao như những trái núi nhỏ.
Bao nhiêu Bạch Long thủy pháo đều dùng cành cây che lấp để bọn quân La Sát khỏi phát giác.
Đến ngày thứ chín, Ban phó tướng báo cáo đã chế tạo được ba ngàn Bạch Long thủy pháo.
Hôm sau là ngày hoàng đạo, Vi Tiểu Bảo thăng trướng từ giờ mão. Gã nổi trống tụ tập chúng tướng rồi hạ lệnh khiêng hết thủy pháo đặt lên mặt lũy. Miệng súng nằm hướng vào thành Nhã Tát Khắc.
Trong quân hiệu trống và tù và nổi lên inh ỏi. Súng nổ đoàng đoàng liền chín phát.
Tướng sĩ các doanh trại nhất tề động thủ khuân băng tuyết bỏ vào nồi đồng chảo gang và đốt lửa đun lên.
Đồ Nhĩ Bố Thanh đang trùm chăn ngủ kỹ chợt nghe ngoài thành pháo nổ rầm trời. Hắn hốt hoảng bổ dậy, vội vã mặc quần áo, bên ngoài khoác áo cừu, rồi lật đật lên mặt thành quan sát.
Lúc này gió to tuyết dữ, bầu trời ảm đạm, Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ nhìn thấy lờ mời trên mặt tường lũy, quân Thanh đặt đầy những cây gỗ lớn mà không hiểu để làm gì?
Đồ Nhĩ Bố Thanh còn đang nghi hoặc, bỗng nghe quân Thanh lớn tiếng reo hò, uy thế tựa trời long núi lở.Đột nhiên mấy ngàn cây gỗ lớn phun nước ra. Cả bốn mặt tám phương đều bắn nước vào thành.
Đồ Nhĩ Bố Thanh cả kinh. Bỗng hắn thét lên một tiếng:
– Úi chao!
Một làn nước nóng bắn trúng ngực hắn.
Tiết trời lạnh quá. Nước nóng bắn tới nơi nhiệt lực đã giảm sút rất nhiều, nhưng Đồ Nhĩ Bố Thanh chân không đứng vững, lảo đảo người đi rồi ngã quay ra.
Bọn thân binh đứng bên vội lại đỡ hắn dậy.
Bốn mặt tiếng quân reo hò pha lẫn với tiếng ào ào lướt qua trên đầu bọn quân La Sát. Chúng ngửng mặt lên nhìn tưởng chừng đoàn Bạch Long đang phun tên nước vào thành.
Chỉ trong khoảnh khắc, trên thành Nhã Tát Khắc bao phủ một làn mù mịt mờ do hơi nước gặp khí lạnh gây ra.
Đồ Nhĩ Bố Thanh ruột rối như mớ bòng bong, trong lòng cực kỳ xao xuyến, hắn lớn tiếng la:
– Bọn Man tử Trung Quốc lại dùng yêu pháp rồi!
Hắn thấy nước từ trong cây lớn phun ra rất lấy làm kỳ và cho đây là bên quân Thanh thi triển yêu pháp, không còn nghi ngờ gì nữa.
Trong lúc hoang mang, Đồ Nhĩ Bố Thanh hô lớn:
– Các ngươi phải nổ súng, đừng để bọn Man tử Trung Quốc xông lên mặt thành.
Nhưng từ hôm hắn bị Vi Tiểu Bảo lột trần truồng dong đi trên mặt thành ba vòng, uy tín hắn bị tổn thương rất nhiều. Trước kia, một khi hắn phát hiệu lệnh là bọn thuộc hạ đều tuân theo răm rắp, mà lần này chúng tỏ ra uể oải, lơ là.
Có điều quân La Sát thấy Thanh binh vây thành đánh rát, chúng sợ thành vỡ tất không thoát chết mà phải cố sức phòng thủ.
Lúc này chúng thấy tình thế biến đổi bất ngờ. Mấy nghìn thủy pháo bắn tên nước vào thành, bỏ chạy tán loạn, chẳng còn ai nhìn đến chủ tướng nữa.May mà quân Thanh chỉ bắn nước lên chứ không thừa cơ đánh thành. Binh tướng La Sát hoang mang một lúc, vừa bình tĩnh được một chút, lại thấy dưới đất nước đóng thành băng. Trên đầu từng cây cột nước như rót vào đổ xuống ầm ầm.
Bao nhiêu đàn ông Trung Quốc ở trong thành Nhã Tát Khắc đã bị quân La Sát giết sạch sành sanh. Chúng chỉ lưu lại bọn phụ nữ ít tuổi làm doanh kỹ để chúng gian dâm thủ lạc.
Ngoài bọn quân tướng La Sát trong thành chỉ có những quan văn do Mạc Tư Khoa phái đến, hoặc những giáo sĩ truyền giáo, hay những người thương mại đi theo trong quân để bán hàng. Bọn này nghĩ rằng cuộc Đông tiến là một dịp đại phát tài, nên rất nhiều quân trộm cắp trà trộn vào.
Chỉ trong khoảnh khắc, người nào người nấy ướt như chuột lột.
Ban đầu nước còn hơi ấm, nhưng sau một lúc áo ướt bắt đầu kết lại thành băng.
Quân dân thấy vậy kinh hãi vô cùng, tới tấp cởi áo tụt giầy.
Nên biết áo ướt một khi đóng thành băng là dính liền vào da thịt, mà ngón tay mọi người giá lạnh cứng đơ, không còn sức để cởi nữa. Dù có bạn giúp đỡ, cũng chỉ thọc tay vào xé rách áo quần mới lôi ra được. Như vậy vẫn nguy hiểm vô cùng.
Nước đọng dưới đất đóng lại mỗi lúc một cao. Trên mặt đất bầy nhầy trơn như mỡ đổ.
Bọn người La Sát tụt bỏ hết giầy dép, chỉ còn chân không dẫm lên băng giá lạnh thấu xương. Chúng không chịu nổi, hai chân nhảy lên như cào cào, miệng kêu la:
– Lạnh đến chết người, lạnh đến chết người!
Mọi người tới tấp chạy lên chỗ cao để tránh nước đọng. Có kẻ liều lĩnh bò lên nóc nhà.
Bỗng trong đám đông, một người hô lớn:
– Đầu hàng đi, đầu hàng đi! Nếu không đầu hàng là chết sạch đến nơi bây giờ.Đồ Nhĩ Bố Thanh mình khoác áo cừu, tay trái cầm dù. Hắn cưỡi trên lưng con ngựa lớn, đầu cao nghêu nghện, đi lại tuần tiều, vừa nghe tiếng hô •đầu hàng• liền nổi giận quát tháo:
– Kẻ nào ở trong này làm náo loạn quân tâm? Bọn gian tế rồi! Phải bắn chết đi!
Mọi người thấy hắn khoác áo da cừu chống được nước, trong mình vẫn ấm áp, mới đi lại diễu võ dương oai. Xung quanh hắn toàn là quân dân mình trần trùng trục bị khí lạnh hành hạ còn thiếu chết đi sống lại, ai cũng đem lòng căm phẫn.
Giữa lúc ấy, một người cúi xuống lượm khối băng dưới đất, nhắm Đồ Nhĩ Bố Thanh liệng tới.
Đồ Nhĩ Bố Thanh liền giơ súng lục lên bắn vào đám đông •đẹt đẹt• hai phát. Lập tức hai người ngã lăn ra chết.
Những người đứng kế bên thấy thế càng cáu giận, đều lượm mảnh băng ném vào hắn loạn lên.
Lại có người nhảy xổ tới lôi hắn xuống ngựa.
Bọn vệ binh múa đao chém giết cũng không cản trở được.
Đang khi náo loạn, một đội kỵ binh chạy tới, bọn loạn dân La Sát mới bị giải tán.
Đồ Nhĩ Bố Thanh lồm cồm bò dậy.
Giữa lúc ấy, trên đầu hai tia nước rót thẳng vào khiến toàn thân hắn ướt đầm.
Hai chân nhảy loạn lên, Đồ Nhĩ Bố Thanh lớn tiếng thóa mạ, đồng thời bọn vệ binh giúp sức cởi áo tụt giầy.
Quân Thanh bắn thủy pháo có lúc nước dựng lên như cây cột có luồng phun ra tản mát như thủy châu trên mặt thành, lại tựa hồ mưa rào đổ xuống. Có tia nước bắn lên cao, có tia bắn thấp hơn văng trúng vào người.
Nên biết những thủy pháo này chế tạo một cách rất thô sơ. Có cây luồng lực đạo bắn đi xa, có cây xạ trình rất gần. Lại có nhiều cây chỉ bắn mấy lần ống súng đã bể nát làm bị thương khá nhiều “pháo thủ” bên Thanh.Ba nghìn cỗ thủy pháo bắn trong vòng hơn một giờ, đã có sáu bảy trăm cây bị hư hại.
Mặt khác, việc đun băng tuyết tan thành nước nóng chậm hơn không đủ cung ứng cho thủy pháo. Về sau “đạn dược” tiếp ứng không kịp.
Quân Thanh thấy tình trạng quân La Sát trong thành tất tưởi khốn đốn, chúng đứng trên mặt lũy reo hò như sấm dậy. Một số đông lại cất tiếng Nam giọng Bắc ca hát râm ran.
Trong đám này có cả Vi Tiểu Bảo cử bài “Thập Bát mô”… một ta sờ, hai ta sờ…
Bằng Xuân cùng các tướng lật đật trong việc chỉ huy đội pháo binh. Ban phó tướng cũng cực nhọc điều động bọn mộc tượng sửa chữa những cây pháo bị hư hoại.
Đội binh sĩ phụ trách đun nước, gia sức cuốc băng bỏ vào chảo. Đội thủy binh khuân hết thùng lớn thùng nhỏ nước nóng đổ vào nòng súng.
Nòng súng đầy nước rồi, đội pháo thủ ấn đầu súng cho miệng súng hướng lên rồi hô:
– Một, hai, ba, bắn!
Sáu tên pháo thủ liền đẩy mạnh phiến gỗ thụt bắn nước vào thành.
Cuộc bắn tiếp tục hơn nửa giờ nữa, số thủy pháo mỗi lúc hư hại một nhiều.
Nước nóng mỗi lúc một thiếu hụt thêm. Sau chỉ còn tám, chín trăm cỗ thủy pháo phát xạ. Dĩ nhiên uy lực giảm đi rất nhiều.
Vi Tiểu Bảo đang cảm thấy trong lòng nao núng, bỗng cổng thành Nhã Tát Khắc mở rộng. Mấy trăm người La Sát mình trần như nhộng ào ào kéo ra, lớn miệng hô:
– Đầu hàng, đầu hàng!
Lúc này Tát Bố Tố, vết thương trên đầu đã lành được quá nửa liền dẫn một nghìn kỵ binh chạy lại hô:
– Ai đầu hàng thì ngồi cả xuống đất!Người La Sát ngơ ngác nhìn nhau chẳng hiểu hắn nói gì.
Một tên bá tổng trong đội quân Thanh liền ngồi xuống đất la lên:
– Ngồi xuống! Ngồi xuống!
Giữa lúc ấy, cổng thành đóng sập lại. Trên mặt thành từng loạt súng bắn xuống làm chết mấy chục người La Sát.
Bọn người ra hàng thấy trên thành bắn súng xuống bỏ chạy tán loạn.
Quân Thanh liền lái thủy pháo nhằm bắn vào binh tướng La Sát đứng trên mặt thành nổ súng. Bọn chúng hoảng sợ tới tấp nhảy xuống.
Lúc này trong thành ngập nước đến hơn hai thước đã đóng thành băng. Nếu muốn toàn thành đầy nước để trở nên một tòa đại băng thành thì phải tiếp tục bắn nước lên hàng nửa tháng hay ít ra cũng phải mười ngày.
Nhưng quân tướng La Sát đã không quần áo lại chẳng thể đốt lửa sưởi ấm, người nào người nấy bị rét cóng, toàn thân run bần bật như thằn lằn đứt đuôi, sắc mặt xanh xám. Mấy tên quân phải ôm nhau cho đỡ lạnh.
Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn lớn tiếng quát tháo, đốc thúc binh tướng thủ thành, nhưng sĩ tốt ngoảnh mặt làm ngơ, không lý gì đến hắn.
Đồ Nhĩ Bố Thanh tức quá giơ tay lên tát một tên quân.
Tên quan quân này lùi lại né tránh. Đồ Nhĩ Bố Thanh rượt theo trượt chân té xuống.
Một tên quân sĩ đứng bên liền đưa tay ra đẩy hắn xuống hố đầy nước đọng.
Đồ Nhĩ Bố Thanh hết sức giẫy dụa để bò lên, nhưng chân tay lạnh cóng không sao lên được. Hắn lớn tiếng la:
– Cứu ta! Cứu ta!
Các binh tướng lờ đi như không nghe thấy, xúm quanh khối nước dương mắt lên nhìn hắn.
Chẳng bao lâu, nước trong hố đóng thành băng vít chặt Đồ Nhĩ Bố Thanh thành một khối không nhúc nhích được. Nửa người trên hắn chìa ra ngoài hố, miệngthở hồng hộc. Từ ngực trở xuống chìm vào trong khối băng như người bị chôn sống.
Các binh tướng La Sát chẳng ai bảo ai mà cùng chung một quan điểm, mở rộng cửa thành, hô lớn:
– Đầu hàng, đầu hàng!
Quân dân La Sát, ngoại trừ những người bị rét cóng không nhúc nhích được, hết thảy kéo ùa ra như đàn ong để xin đầu hàng.
Vi Tiểu Bảo sung sướng như người phát điên. Gã khoa chân múa tay, miệng nói ba hoa. Hiệu lệnh của gã chẳng còn ra đường lối nào nữa.
May ở chỗ những tướng lĩnh bên Thanh toàn là tay lão luyện trong quân trường, trải qua rất nhiều chiến trận. Miệng chúng lớn tiếng hô:
– Xin tuân lệnh.
Rồi tự ý xử trí với cuộc tiếp thu đầu hàng, cùng thi hành thủ tục tiếp thu, nhập thành, kiểm soát khí giới, thanh lý mọi việc cần thiết rất có phép tắc, thường khi ra ngoài hiệu lệnh của đại soái.
Có điều trước khi bắn nước vào thành chỉ lo không đủ, mà bây giờ trái lại thấy nhiều quá. Công cuộc hóa băng, tiêu nước trong thành thật không phải chuyện dễ dàng, Lang Thản đốc thúc quan binh trước hết là dọn dẹp Tổng đốc phủ, mời Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và quan Khâm sai vào ngồi.
Kế đó hắn đi niêm phong những kho hỏa dược, súng ống, kim ngân và phái binh coi giữ.
Hiện thời uy thế Thanh triều mới cường thịnh, kỷ luật trong quân rất nghiêm minh, chẳng ai dám tơ hào đụng chạm đến. Dĩ nhiên các quan lớn là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ càng thừa cơ phát tài.
Tối hôm ấy thành nội thành ngoại giết trâu mổ cừu mở tiệc khánh chúc.
Bọn Sách Ngạch Đồ hết lời tâng bốc Vi Tiểu Bảo, ca tụng Vi đại soái dụng binh như thần. Dù Tôn, Ngô phục sinh cũng không thể bì kịp.Viên Khâm sai theo hùa lên tiếng:
– Chuyến này tiểu đệ dời khỏi kinh sư, đức Hoàng thượng ân cần nhắn nhủ Vi đại soái không nên làm tổn thương nhân mạng quá nhiều. Bữa nay Vi đại soái hạ thành khắc địch dĩ nhiên là một kỳ công, nhưng tuyệt ở chỗ chẳng cần động dụng đến đao thưng kiếm kích, cung tên hỏa khí. Bên thành không một ai chết trận.
Trong một ngày trời phá đại địch, hạ thành trì, mà không hao tổn một chiến tướng, một tên quân thì tự cổ chí kim chỉ có một mình Vi đại soái làm được mà thôi. Tiểu đệ nhận thấy đây là công cuộc chẳng những tiền vô cổ nhân mà còn dám chắc hậu vô lai giả nữa.
Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý lại càng ba hoa khoác lác. Gã đáp:
– Muốn phá thành Nhã Tát Khắc sự thực không phải là việc khó, nhưng khó ở chỗ hoàng ân bát ngát, thương tiếc quân dân, mình phải giữ sao tránh được thương vong quá nhiều cho khỏi trái với tâm nguyện của Hoàng thượng. Vì thế mà tiểu đệ phải chờ tới bữa nay mới trù liệu xong kế hoạch, để Khâm sai đại thần thân hành chứng kiến:
Bọn tiểu đệ vì Hoàng thượng ra sức phá giặc đoạt thành mà thành công không phải chuyện lạ. Cái khó là ở chỗ phải ngừa tuân thánh ý, thắng trận nhưng không giết người.
Các tướng tuy biết gã khoe khoang khoác lác, nhưng sự thực thắng trận hạ thành mà không giết một người nào quả là một việc khó khăn hơn cả lên trời, nên ai cũng lẩm nhẩm gật đầu ra chiều rất khâm phục.
Sách Ngạch Đồ nói:
– Trước công cuộc hiện đại này, Sách mỗ chỉ có thể kết luận bằng một câu:
Đây là hồng phúc của Hoàng thượng, kỳ tài của Vi đại soái.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Công cuộc bữa nay phải nói là từ trên xuống dưới, ai cũng đóng góp một phần công lao rất lớn. Tỷ như không được Khâm sai đại nhân và Sách đại nhân thân lâm trận thượng, ra sức đốc chiến thì bọn tiểu đệ làm sao thắng trận được dễ dàng?
Khâm sai và Sách Ngạch Đồ nghe gã nói trong lòng khoan khoái lại vô cùng cảm kích. Lúc đối trận vừa rồi, hai vị văn quan này ẩn lánh ở đằng xa, chỉ sợ tênbay đạn lạc, làm gì có chuyện thân lâm trận thượng, gia sức đốc chiến? Nhưng Vi Tiểu Bảo đã tuyên bố như vậy là trong bản tâu báo tin thắng trận, họ cũng dự một phần công lớn trong vụ này.
Người ta thường nói:
“Rung rinh cỗ kiệu người khiêng người”. Sách lễ cũng nói:
“Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Vi Tiểu Bảo là một tay rất thạo nghề làm quan. Gã dâng Khâm sai một phần công lớn là được ơn mà chẳng thiệt gì cho mình. Chuyến này Khâm sai trở về Bắc Kinh, dĩ nhiên sẽ thổi phồng gã lên ở trước mặt Hoàng đế. Dù công lao gã chỉ đáng ba phần, lão cũng tăng lên mười phần.
Còn những chuyện vượt ra ngoài vòng luật pháp ở trong quân, Khâm sai cùng Sách Ngạch Đồ dĩ nhiên bưng kín miệng bình.
Mọi người ăn uống một lúc rồi, bộ hạ của Lâm Hưng Châu đưa bọn hàng binh La Sát vào báo cáo là chúng đã đào hố băng lôi Đồ Nhĩ Bố Thanh ra ngoài, hiện khiêng đến để dưới thềm.
Lúc này Đồ Nhĩ Bố Thanh đã chết cóng từ lâu. Toàn thân hắn biến thành màu xanh xám.
Vi Tiểu Bảo ngó thấy liền thở dài nói:
– Cha này đặt cái tên xúi quá! Nếu hắn không phải là Đồ Nhĩ Bố Thanh mà là Đồ Nhĩ Bố Tài thì chẳng đến nỗi chết xanh chết xám thế này mà còn phát tài nữa.
Gã lại sai người lấy quan tài gỗ để thu liệm Đồ Nhĩ Bố Thanh.
Đêm hôm ấy Vi Tiểu Bảo ngủ với Song Nhi ở trong ngọa phòng tại phủ Tổng đốc. Nơi đây đã có lửa đỏ hồng, lại đủ chăn đoạn đệm gấm, đầy vẻ xuân tình.
Ngày trước Vi Tiểu Bảo đã vào phòng này. Cựu địa trùng du, gã mở nắp rương ở cạnh giường lên coi thấy trong rương đựng toàn quân phục cùng súng ống.
Song Nhi cười hỏi:
– Phải chăng tướng công mở rương coi xem có Công chúa La Sát chui lên.
Vi Tiểu Bảo cũng cười đáp:
– Nàng là Công chúa Trung Quốc, so với Công chúa La Sát còn hay hơn nhiều.Song Nhi lại cười nói:
– Đáng tiếc là Công chúa Trung Quốc của tướng công hiện ở Bắc Kinh chứ không có ở đây.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Hảo Song Nhi! Bữa nay chúng ta có thể coi như “Đại công cáo thành” được không?
Song Nhi mỉm cười, hai má đỏ hồng.
Tuy thị cùng Vi Tiểu Bảo thành vợ thành chồng đã lâu ngày, nhưng nghe trượng phu nhắc câu “Đại công cáo thành” thị vẫn bẽn lẽn.
Vi Tiểu Bảo giang tay ra ôm lưng thị. Hai người sóng vai ngồi ở cạnh giường.
Gã nói:
– Song Nhi giáp tấm địa đồ hao tổn rất nhiều tâm huyết. Nay chúng ta lại lấy được Lộc Đỉnh Sơn. Đức Hoàng thượng đã phong thành làm Lộc Đỉnh công, chắc ngài giao thành thành này quản thủ. Trong lòng đất dưới đây cất dấu số Kim ngân tài bảo. Chúng ta từ từ đào lên mà lấy. Ta phải đổi tên Vi Tiểu Bảo thành tên Vi Đa Bảo cho hợp.
Song Nhi đáp:
– Tướng công hiện đã có rất nhiều vàng bạc, tiêu xài không hết, lấy thêm châu báu cũng bằng vô dụng. Tiện thiếp tưởng cứ là Vi Tiểu Bảo hay hơn.
Vi Tiểu Bảo khẽ hôn vào má thị, nói:
– Đúng lắm, đúng lắm! Mấy bữa nay ta không quyết định được chủ ý. Nếu đào đất tìm châu báu e làm đứt long mạch nguy hại đến tính mạng tiểu Hoàng đế.
Ngài là đại cữu tử mà trước nay đối đãi với ta rất tử tế. Nếu hành động của mình làm ngài chết oan thì yên tâm thế nào được? Nhưng không đào lên để lấy bảo vật thực cũng đáng tiếc. Bây giờ đành thế này vậy. Chúng ta tạm thời hoãn việc khai quật bảo tàng, chờ sau khi Hoàng thượng ngự giá thăng thiên mà chúng ta nghèo đói, khi ấy sẽ bắt đầu khai quật cũng chưa muộn…
Gã vừa nói tới đây, bỗng thấy bức rèm lay động rồi trong rương gỗ bật lên những tiếng lạch cạch.Hai người đưa mắt ra hiệu với nhau, chăm chú nhìn xuống rương gỗ.
Sau một lúc lâu không thấy động tĩnh gì nữa, Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ tay ba cái.
Song Nhi ra mở cửa phòng. Lập tức bốn tên thân binh chầu chực bên ngoài chạy vào khom lưng chờ lệnh.
Vi Tiểu Bảo trỏ cái rương khẽ nói:
– Trong đó có người.
Bốn tên thân binh giật mình kinh hãi chạy lại mở nắp rương thì chỉ thấy bên trong xếp đầy quần áo.
Vi Tiểu Bảo đánh tay ra hiệu. Bọn thân binh liền bốc quần áo bỏ ra ngoài, lật đáy rương lên ngó thấy huyệt động.
Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng nổ rùng rợn. Một cây súng từ trong huyệt thò lên.
Một tên thân binh bật tiếng la:
– Úi chao!
Vai gã trúng đạn, người ngả về phía sau.
Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo đưa ra sau lưng để che chở cho gã.
Vi Tiểu Bảo trỏ vào đống than lò lửa rồi đánh tay làm hiệu.
Một tên thân binh liền tiến lại bưng lò than đổ xuống huyệt động.
Trong động nổi lên những tiếng kêu rú bằng La Sát ngữ. Tiếp theo là tiếng ho sù sụ không ngớt.
Vi Tiểu Bảo hô bằng tiếng La Sát:
– Quẳng súng lên trước rồi hãy chui ra.
Lập tức một cây súng lục từ trong huyệt động liệng ra. Tiếp theo một tên quân La Sát thò đầu lên.
Một tên thân binh nắm tóc tên quân La Sát giật ngửa về phía sau. Một tên thân binh nữa chí đao vào cổ hắn.Hàm râu tên quân La Sát đang bị lửa cháy chưa tắt. Hắn đau quá thét lên be be, lồm cồm bò ra ngoài, trông rất thảm hại.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Ở dưới còn người nào không?
Trong động có tiếng hô:
– Còn một người. Đầu hàng, đầu hàng.
Hồi 235
Nịnh không phải đường bị quở trách
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Liệng súng lên đi!
Cửa động lấp loáng ánh bạch quang. Một thanh mã đao quăng ra. Tiếp theo một vùng lửa cháy nhô lên.
Nguyên tên quân La Sát này đầu tóc đang bị cháy đỏ hồng.
Đội thân binh canh giữ ngoài cửa nghe tiếng đại soái ở trong phòng quát tháo liền có một bọn chạy vào. Bảy tám tên giữ lấy hai tên quân La Sát, dập tắt lửa cháy trên râu tóc bọn chúng rồi trói lại.
Đột nhiên Vi Tiểu Bảo trỏ vào một tên quân La Sát hô:
– Ô kìa! Ngươi là Vương Bát Tử Kê.
Tên quân đó lộ vẻ vui mừng reo lên:
– Dạ dạ! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài chính là Hoa Bá Tư Cơ.
Một tên nữa cũng reo lên:
– Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài… là Tề Lạc Nặc Phu.
Vi Tiểu Bảo chú ý nhìn hắn thấy hàm râu cháy xém tơi bời, mặt mũi chỗ đỏ chỗ sưng, nhưng sau gã cũng nhận ra liền đáp:
– Phải rồi! Ngươi là Trư La Nọa Phu.
Tề Lạc Nặc Phu cả mừng hô:
– Đúng lắm, đúng lắm! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài là bạn cũ của đại nhân.
Nguyên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là hai tên vệ sĩ của Tô Phi á Công chúa. Ngày trước chúng đã làm quen với Vi Tiểu Bảo ở thành Nhã Tát Khắc rồi lại cùng đi Mạc Tư Khoa.
Hai tên vệ sĩ này hồi ở Liệp cung đã theo bọn lính súng làm phản lập được chút công lao.
Khi Tô Phi á Công chúa lên nắm quyền quốc chính liền thăng quan cho bọn vệ sĩ hầu cận để đền công chúng đã tùy tùng và ra sức.
Chuyến này có bốn tên vệ sĩ đi theo Đồ Nhĩ Bố Thanh trong cuộc Đông tiến và chúng đều làm Đội trưởng. Trong bọn một tên chết trận, một tên chết rét.
Còn lại hai tên này gặp cơn binh biến, thành vỡ, lén lút chui xuống đường hầm định trốn ra ngoài thành, không ngờ cửa ra đã vít chặt. Hai tên hết đường tiến thoái rồi tung tích bị bại lộ.
Ngày trước Vi Tiểu Bảo kêu chúng bằng Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu (Nguyên Hoa Bá Tư Cơ đọc hơi giống Vương Bát Tử Kê nghĩa là gà chết khốn nạn, Tề Lạc Nặc Phu đọc tương tự Trư La Nọa Phu nghĩa là chó lợn hèn hạ. Vi Tiểu Bảo hô tên chúng như vậy cho dễ nhớ và cũng là để chế diễu chúng).
Hai tên này đâu có hiểu được ý nghĩ của Vi Tiểu Bảo, chúng vui vẻ chịu liền, hễ gọi đến tên Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu là chạy tới ngay.
Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nghe Công chúa kêu Vi Tiểu Bảo là “Trung Quốc tiểu hài”, ban đầu chúng cũng xưng hô gã như vậy. Sau Vi Tiểu Bảo lập được công trạng, Công chúa phong tước cho gã. Bọn vệ sĩ mới kêu gã bằng “Trung Quốc tiểu hài đại nhân” để tỏ lòng tôn kính.
Vi Tiểu Bảo hỏi rõ lai lịch rồi sai bọn thân binh cởi trói và lấy rượu thịt khoản đãi chúng.
Bọn thân binh sợ dưới đường hầm còn có gian tế liền chui xuống soát hết một lượt, lại điều tra khắp mọi chỗ thì trong phòng ngoài đường hầm này không có địa đạo cùng ngõ ngách nào khác, chúng mới lui ra.
Tên đội trưởng bọn thân binh sợ hãi vô cùng, luôn miệng xin tha tội. Hắn nghĩ rằng đây là cái may tầy đình… Nếu hai tên quân La Sát này chờ tới nửa đêm ở dưới đường hầm chui lên đâm chết Vi đại soái thì hắn sẽ bị toàn gia tru lục.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ra hỏi thăm tình hình Tô Phi á Công chúa.Hai tên cho gã hay:
Công chúa điện hạ nắm hết công việc triều chính. Vương công đại thần, tướng quân, chủ giáo trong toàn nước La Sát không ai dám chống cự nàng. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, nhất thiết đều nghe theo lời tỷ tỷ.
Tề Lạc Nặc Phu còn nói:
– Công chúa điện hạ vẫn tưởng nhớ Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Điện hạ dặn bọn nô tài tới đây dò la tin tức của đại nhân và hễ gặp đại nhân thì mời qua Mạc Tư Khoa du ngoạn, điện hạ sẽ ban thưởng cho.
Hoa Bá Tư Cơ nói:
– Công chúa điện hạ chưa biết Trung Quốc tiểu hài đại nhân đem binh đến đây chinh phạt. Nếu không thì hai bên thân ái vui vẻ như tình bằng hữu. Cuộc chiến cũng không xảy ra nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Các ngươi nói nhăng nói càn để lừa gạt ta. Làm gì có chuyện Công chúa dặn dò như vậy?
Hai tên liền thề sống thề chết là đã nói đúng sự thực, không nửa lời sai trái.
Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:
– Bản tâm Hoàng thượng muốn ta nghĩ cách giảng hoà cùng La Sát. Vậy ta bảo hai tên này về tâu lại với Tô Phi á Công chúa cũng chẳng hề gì.
Gã nghĩ vậy liền nói:
– Ta muốn gửi thư cho Công chúa các ngươi, nhưng không biết viết chữ ngoằn ngoèo như giun bò của nước La Sát, vậy các ngươi viết giùm ta.
Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngơ ngác nhìn nhau ra chiều khó nghĩ. Cả hai tên này chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn chuyện viết chữ thì chẳng hiểu gì.
Tề Lạc Nặc Phu đáp:
– Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Đại nhân muốn viết thư tình thì bọn nô tài không làm được. Để nô tài… đi kêu một vị giáo sĩ đến viết dùm cho.
Vi Tiểu Bảo ưng ngay, sai chúng đi kiếm trong bọn người La Sát đã đầu hàng.
Lát sau hai tên dẫn vào một vị giáo sĩ râu quai nón.Thời bấy giờ phần lớn quân nhân La Sát không biết chữ. Những giáo sĩ đi theo trong quân ngoài việc cầu đảo Thượng đế, khích lệ chiến sĩ, còn chức vụ trọng yếu là viết gia thư giùm cho các binh tướng.
Vị giáo sĩ này người cao lớn lại vận quân phục của Thanh binh, áo quần chật hẹp như người đóng rọ rất tức cười.
Giáo sĩ sợ run bần bật theo hai tên đội trưởng vào tham kiến Vi Tiểu Bảo. Y hô:
– Cầu đức Thượng đế ban phước lành cho Trung Quốc đại tướng quân! Đại tước gia! Cầu chúc Trung Quốc đại tướng quân toàn gia an bảo.
Vi Tiểu Bảo bảo y ngồi xuống rồi nói:
– Ngươi viết cho ta một phong thư gửi đến Tô Phi á Công chúa.
Giáo sĩ vâng dạ luôn miệng.
Bọn thân binh đã lấy văn phòng tứ bảo để trên bàn.
Giáo sĩ tay cầm bút lông, mở to giấy bản, viết chữ La Sát ngùng ngoèo.
Y nhận ra cây bút lông mềm nhũn quá, nét chữ chỗ lớn chỗ nhỏ coi rất tức cười, nhưng y tuyệt nhiên không dám bình luận gì về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị Trung Quốc tướng quân này nổi giận.
Vi Tiểu Bảo nói:
Ngươi theo lời ta đọc mà viết:
– “Sau buổi chia tay, lúc nào ta cũng tưởng nhớ Công chúa, chỉ mong lấy được nàng làm vơ….” Giáo sĩ giật bắn người lên. Tay run rẩy, ngọn bút lông chấm xuống giấy một vết mực lớn.
Tề Lạc Nặc Phu đứng bên cổ vũ giáo sĩ:
– Vị Trung Quốc tiểu hài đại nhân này là người yêu của Tô Phi á Công chúa điện hạ. Công chúa điện hạ rất thương mến đại nhân. Điện hạ thường nói tình nhân Trung Quốc hay hơn tình nhân La Sát gấp trăm lần.
Hắn muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo nên đã phóng đại ra như vậy.Vị giáo sĩ vâng dạ luôn miệng, đáp:
– Phải rồi! Phải rồi! Hơn gấp trăm lần, hơn gấp trăm lần…
Trong lòng hồi hộp, văn tứ trì trệ, nhưng y không dám dừng bút nghĩ ngợi, đành dùng những câu thường nhật đã viết giùm binh tướng La Sát gửi cho vợ con hoặc tình nhân ở cố hương và toàn là những câu tha thiết về thể xác. Nào là “Có gần gũi mới thỏa lòng”, nào là “Đêm qua ta lại mộng thấy mình”, nào là “Hôn mình muôn ngàn cái”… v.v Vi Tiểu Bảo thấy giáo sĩ cầm bút viết như gió cuốn, rất lấy làm thỏa mãn. Gã đọc tiếp:
– “Quân La Sát của nàng chiếm đất Trung Quốc của ta và giết tróc trăm họ người Trung Quốc. Trung Quốc đại Hoàng đế tức giận vô cùng, phái ta đem quân đến đây để bắt hết bọn binh tướng của nàng xẻo từng miếng thịt nướng thành Hà Thư Ni Khắc… ” Giáo sĩ lại giật mình kinh hãi, bất giác bật tiếng la:
– Trời ơi!
Rồi miệng hô:
– Lạy đức Thượng đế! Lạy đức Thượng đế!
Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:
– “Nhưng ta nể mặt Công chúa, tạm thời hãy để chúng đó, chưa xẻo thịt nướng chả. Nếu nàng ưng chịu từ nay trở đi không cho quân La Sát đến xâm phạm cương giới Thanh thì ta sẽ tha hết bọn chúng. Đồng thời Trung Quốc và nước La Sát vĩnh viễn thành tình bằng hữu.
Bằng nàng không chịu nghe lời, ta sẽ phái binh đến giết cho kỳ hết đàn ông La Sát, nàng không còn nam nhân để ngủ chung nữa. Nếu nàng muốn ngủ chung với nam nhân thì khắp thiên hạ chỉ có đàn ông Trung Quốc mà thôi”.
Giáo sĩ rất lấy làm bất phục, bụng bảo dạ:
– Trong thiên hạ ngoài đàn ông La Sát, bao nhiêu nước khác thiếu gì nam nhân, há phải riêng một Trung Quốc mới có? Câu này thật vô lý không thể viết vào được.Y lại nhận định viết thư lên Công chúa điện hạ, nhất thiết không thể hành văn một cách vô lễ. Y liền nhất quyết đổi mấy câu này vừa tỏ ra kính cẩn vừa đầy vẻ thân mật.
Giáo sĩ tiên liệu vị tướng quân Trung Quốc này không biết chữ La Sát, tất chẳng khám phá ra nổi. Nhưng bản tính thận trọng, y sợ Vi Tiểu Bảo nhìn thấy chỗ sơ hở liền viết bằng chữ La Tinh. Thỉnh thoảng trên môi lại điểm một nụ cười.
Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:
– “Nay ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu đưa phong thư này đến tay nàng, lại tặng lễ vật cho nàng nữa. Nàng muốn làm tình nhân hay là kẻ thù của ta, cái đó tự nàng quyết định lấy” Giáo sĩ còn đem mấy câu sau cùng đổi thành lời văn rất kính cẩn. Y viết:
– “Kẻ tiểu thần ở Trung Quốc lúc nào cũng nhớ đến ân thâm đức trọng của điện hạ. Nay kính cẩn dâng đồ cống vật để tỏ chút dạ trung thành.
Tiểu thần còn sống ngày nào, năm nào cũng là kẻ thần hạ trung tâm bất nhị ngày ấy năm ấy của điện hạ.
Tiểu thần chỉ mong lưỡng quốc hòa hợp. Những quân La Sát hiện còn ở Nhã Tát Khắc mà được trùng qui cố thủ đều là nhờ ơn đức cao dầy của điện hạ” Mấy câu sau cùng do tâm tư của giáo sĩ nghĩ ra. Y cho rằng vạn nhất cuộc nghị hòa của hai nước không thành thì y cùng bao nhiêu người La Sát đầu hàng tất phải chết vùi chết dập ở nơi tha hương đất khách, vĩnh viễn không mong gì trở về quê quán.
Vi Tiểu Bảo chờ giáo sĩ viết xong, nói:
– Hết rồi! Ngươi đọc lại cho ta nghe.
Giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đứng nghiêm trang tuyên đọc. Những chỗ nào y thay đổi vẫn đọc theo ý của Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo hiểu biết tiếng La Sát chẳng được bao nhiêu, gã nghe giáo sĩ đọc lại chắc là không sai trật. Gã lại tiên liệu chẳng khi nào giáo sĩ dám tự ý thay đổi lời lẽ của mình.
Vi Tiểu Bảo nghe giáo sĩ đọc xong, nói:- Hay lắm!
Đoạn gã lấy ấn “Phủ Viễn đại tướng quân Vi” đóng dấu son vào.
Thế là phong thư này thư tình chẳng ra thư tình, công văn chẳng ra công văn, nhưng cũng xong việc.
Vi Tiểu Bảo cho giáo sĩ lui ra lĩnh thưởng. Gã lại sai vị sư gia trong doanh trại bỏ thư vào bao, ngoài đề bằng chữ Trung Quốc gửi cho Tô Phi á Công chúa.
Sư gia mài mực thật đặc, dầm bút cho kỹ. Hàng đầu viết:
– “Đại Thanh Quốc Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn Đại tướng quân Vi phụng thư”.
Hàng thứ hai viết:
– “Nga La Tư Quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố Luân trưởng Công chúa điện hạ”.
Nguyên hai chữ “La Sát” trong kinh Phật là một thứ quỷ dữ, nếu dùng để xưng hô nước Nga là có điều khinh mạn, nên trong văn thư kêu bằng “Nga La Tư”.
Sư gia lại nhận thấy ba chữ “Tô Phi á” không được thuần nhã và chữ “Phi” nghĩa là phất phơ khiến cho người ta tưởng đến câu “Phương thảo phi phi” nghĩa là cỏ thơm phất phơ, tựa hồ có ý chê toàn người nàng đầy những lông lá, nên y đổi là “Tô Phi Hà” (Phi Hà là ráng chiều bay).
Y dùng điển cố trong câu “Lạc hà dữ cô tế tề thí” nghĩa là ráng chiều bay song song với chim trĩ. Lại có câu “Phi hà phát diện” tả cảnh đẹp ráng bay trước mặt.
Còn “Cố Luân trưởng Công chúa” là một phong hiệu rất tôn quý của một vị Công chúa Thanh triều. Em gái Hoàng đế kêu bằng trưởng Công chúa. Con gái Hoàng đế là cười.
Tô Phi á đã làm đến Nhiếp chính, lại là tỷ tỷ của hai vị Sa hoàng, dĩ nhiên nàng là Công chúa hàng đầu.
Lại nghe Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Giữa ta và nàng Công chúa La Sát này đã có mối liên quan. Mấy năm chưa gặp, không hiểu tình trạng nàng hiện nay như thế nào?Tên sư gia liền viết vào mặt sau bao thư hai hàng chữ:
– “Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phước dã. Như nhạc chi họa vô sở bất tài.
Thỉnh dữ tử lạc chi”.
Y nghĩ bụng:
– Những câu này lấy trong sách Tả Truyện, nhưng La Sát là một nước Nhung Địch chưa chắc đã hiểu được những câu trong kinh truyện nước Trung Hoa. ý nghĩa ở hai câu song quan lại càng khó hơn.
Thực ra chẳng những “Cố Luân trưởng Công chúa nước Nga La Tư” quyết chẳng thể nào hiểu được ý nghĩa sâu sắc về những chữ Trung Quốc này, mà cả đến “Đại Thanh quốc tam đẳng Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo” thì ngoài ba chữ tên mình và hai chữ “Đại”, “Tiểu” là gã mù tịt.
Vi Tiểu Bảo thấy sư gia viết trên bao thư đầy những chữ là chữ, liền nói:
– Đủ rồi! Đủ rồi! Ngươi viết chữ hay lắm! Hay hơn cả tên rậm râu nước La Sát.
Gã lại dặn sư gia chuẩn bị một món lễ vật quý trọng mà là những đồ đã thu được ở trong thành Nhã Tát Khắc, chứ không tốn một đồng một chữ nào.
Vi Tiểu Bảo kêu hai tên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đến, truyền cho chúng lựa lấy một trăm người trong bọn hàng binh La Sát để làm vệ đội và lập tức đăng trình về Mạc Tư Khoa đưa thư.
Hai tên đội trưởng mừng như bắt được vàng, sì sụp lạy mãi không ngớt.
Chúng lại kéo tay Vi Tiểu Bảo ra mà hôn vào lưng bàn tay gã rất lâu.
Vi Tiểu Bảo bị hàm râu của hai tên đội trưởng xát vào lưng bàn tay ngứa ngáy không chịu được, gã bật lên tràng cười hơ hớ.
Thành Nhã Tát Khắc nhỏ bé không đủ chỗ để cho đại quân đồn trú.
Vi Tiểu Bảo liền cùng Khâm sai và Sách Ngạch Đồ thương nghị việc đóng quân. Gã phái Lang Thản, Lâm Hưng Châu lĩnh hai nghìn quân ở lại trong thành phòng thủ. Còn đại quân kéo xuống miền Nam chia ra đóng ở hai thành ái Huy và Hô Mã Nhi để chờ đợi thánh chỉ.
Đồng thời phái kỵ binh chạy về Bắc Kinh báo tin thắng trận lên Hoàng đế.Lúc ra đi, Vi Tiểu Bảo căn dặn hai tướng Lang Thản và Lâm Hưng Châu không được đào giếng hay đào đường hầm trong thành Nhã Tát Khắc.
Đại quân rầm rộ nhằm hướng Nam tiến phát.
Vi Tiểu Bảo cung bọn Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở ái Huy. Tát Bố Tố lãnh một cánh quân đóng ở Hô Mã Nhi.
Vi Tiểu Bảo nhàn rỗi không có việc gì làm, chỉ uống rượu đánh bạc vui chơi, bất tất phải tường thuật.
Gã sai hàng binh La Sát mặc quân phục Thanh binh và phái người dạy tiếng Trung Hoa, cần cho chúng thuộc lòng những câu “Nga hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế”… “Trung Quốc Hoàng đế đức bì tứ hải, uy chấn tuyệt vực”… “Vạn tuế gia thần thánh văn võ, Hoàng ân hạo đăng”… “Thánh Thiên tử vạn thọ vô cương”…
Đó toàn là những câu cầu chúc và phụng sự nhà Vua.
Sau khi bọn hàng binh La Sát thuộc kỹ những câu này rồi, Vi Tiểu Bảo phái binh đưa chúng về Bắc Kinh và dặn chúng khi đi qua những đường phố tại kinh thành phải hô lớn những khẩu hiệu đã thuộc kỹ. Nhất là lúc vào triều kiến Vua Khang Hy càng phải hô thật lớn. Gã bảo chúng:
Tên nào hô càng lớn, đức Hoàng thượng càng ban thưởng nhiều.
Sau hơn một tháng, Vua Khang Hy ban chiếu thư đến khen ngợi nhiệt liệt các tướng sĩ xuất chinh.
Vi Tiểu Bảo được thăng tước Nhị Đẳng Lộc Đỉnh Công. Kỳ dư các tướng sĩ đều được thăng thưởng.
Viên Khâm sai truyền chỉ lại giao cho Vi Tiểu Bảo một cái hộp gỗ niêm phong sơn đỏ nói là của đức Hoàng thượng ngự tứ.
Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ Ơn, mở hộp gỗ coi, gã không khỏi ngẩn người.
Nguyên trong hộp gỗ đựng một cái bát ăn cơm bằng Hoàng kim, trong bát khắc bốn chữ “Gia quan tấn tước” phảng phất giống như cái bát mà Thi Lang đã tặng gã ngày trước. Có điều những hoa văn và tự tích bị sây sứt thì đã được tu bổ hoàn chỉnh.Vi Tiểu Bảo nhớ lại cái bát vàng này ngày trước để ở Bá Tước phủ trong hẻm Đông Mạo. Đêm hôm ấy, gã hoang mang chạy trốn không kịp đem theo. Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, gã hiểu liền ra lý lẽ.
Đêm hôm ấy chắc là sau khi nổ súng bắn vào Bá Tước Phủ, đội quân Tiền Phong Doanh nhặt nhạnh những đồ vật còn lại, cả những thứ bị sứt mẻ cũng kê vào thành đơn phúc trình Hoàng thượng.
Cái bát vàng này tuy đã vỡ nhưng chưa đến nỗi tan tành. Nhà Vua liền sai thợ hàn gắn lại và bây giờ ban cho gã.
Dĩ nhiên nhà Vua muốn nhắn nhủ gã:
Cái bát vàng gã đã bị sứt mẻ một lần, phen này phải giữ gìn cẩn thận đừng để nó phải tan tành.
Vi Tiểu Bảo nghĩ vậy rồi tự nhủ:
– Tiểu Hoàng đế đã dùng nghĩa khí đối đãi với ta thì ta cũng phải có đi có lại, không đào hầm hố để khỏi tổn thương long mạch mà gây tai hại đến vận mạng của ngài.
Qua mười mấy bữa nữa, Vua Khang Hy lại ban thượng dụ tới nơi. Lần này ngài nặng lời quở trách, phán rằng:
Vi Tiểu Bảo có những hành động phá quấy vì gã bắt hàng binh La Sát hô khẩu hiệu “Vạn thọ vô cương” là một điều rất đáng buồn.
Trong thượng dụ nói:
– “Bậc nhân quân giữ việc chăn dắt nhân dân phải thể theo lòng trời, thương yêu bách tính”.
“La Sát tuy là nước Man Di, xa với vương hóa, nhưng dân tộc nước này cũng là người. Chúng đã quy thuận hàng phục, thì không thể khinh nhờn vũ nhục họ được”.
“Ngươi đã làm đại thần nên can gián quân thượng những điều tàn tệ, thi hành nhân chính tới muôn dân”.
“Nếu trẫm có ơn huệ với trăm họ thì dù chẳng sống lâu cũng là bậc minh quân. Bằng trẫm kiêu sa tàn bạo thì “Vạn thọ vô cương” chỉ tổ làm khổ thiên hạ”.
“Kẻ đại thần xu nịnh quân thượng, đưa chúa vào hành vi bất đức là tội nặng lắm. Ngươi phải nhớ mà răn mình”.Chuyến này Vi Tiểu Bảo bợ đít ngựa mà lại vỗ vào chân để nó đá hộc máu mồm.
Nếu ở địa vị người khác tất lấy vụ này làm lo âu, buồn bã. May ở chỗ gã là kẻ mặt dầy, vẫn chẳng quan tâm. Trước mặt quan Khâm sai truyền chỉ, gã tự mắng mình tội thật đáng chết, nhưng trong lòng lại tự nhủ:
– Trong thiên hạ còn ai là người không ăn phỉnh? Nhất định vụ này bọn quân La Sát thốt lời Trung Quốc không được hoàn hảo, khiến tiểu Hoàng đế nghe chẳng ra sao nên mới bực mình.
Gã liền kêu mấy tên sư gia đã dạy Hoa ngữ cho bọn quân La Sát đến thống mạ một hồi.
Sau đó gã lại cùng bọn chúng mở cuộc đánh bạc. Gã gieo mấy bàn xúc xắc rồi là bao nhiêu lời huấn giới của Nhà Vua bay lên chín tầng mây hết.
Thì giờ thấm thoát, đông qua xuân tới, Vi Tiểu Bảo ở thành ái Huy tuy được nhàn hạ, nhưng thường thường nhớ tới bọn A Kha, Mộc Kiếm Bình mấy người thê tử.
Thỉnh thoảng gã lại sai thân binh đưa đồ về nhà. Sáu vị phu nhân cũng gửi ra y phục cùng phẩm vật. Ai cũng biết gã không hiểu chữ nghĩa nên không gửi gia thư mà chỉ dặn lời là trong nhà đều bình yên cả, mong mỏi Đại soái ca khúc khải hoàn về kinh cho sớm.
Một hôm, có thượng dụ ban ra, khâm mạng cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm những đại thần trong cuộc nghị hòa để cùng sứ thần nước La Sát kiềm đính hòa ước.
Trong kinh còn phái đến bốn nhân vật giúp đỡ công cuộc này là Hán quân Hoàng Kỳ Đô thống Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Ni và Tả đô Ngự sử Mã Tề.
Đông Quốc Cương tuyên đọc thượng dụ xong, lại lấy ra một đạo công văn đọc tiếp.
Đạo công văn này là Quốc thư của hai vị Sa hoàng La Sát gửi lên Vua Khang Hy. Tờ quốc thư đã do hai vị truyền giáo sĩ người Hà Lan ở Bắc Kinh dịch ra Hán văn.
Bức quốc thư như sau:”Cẩn phụng thượng:
Đức Đại thánh Hoàng đế.
Ngồi chơi hoa hạ, ảnh hưởng bao trùm hoàn vũ, hướng dẫn tôi hiền trong cuộc phân chia cương thổ, cai trị muôn dân. Trung Quốc gồm thâu Mãn Hán, oai danh lừng lẫy bốn Phương.
Nguyên tiền triều A Liệt Khắc Tịch Mễ Hàn ở hạ quốc đã phái bọn Ni Quả Lai qua thiên triều mưu việc giao hảo cho hai nước.
Kẻ sứ thần không am tường điển lễ Trung Quốc, cử chỉ có điều thô lỗ, ngữ ngôn lại thiếu văn hóa, đành trông vào đức độ khoan hồng của thượng quốc.
Cả việc ca tụng Hoàng đế cũng không khỏi phạm vào thất thể, vì hạ quốc ở nơi hẻo lánh xa xăm, vương hóa khó bề phổ cập. May mà thượng quốc cũng không hạch tội.
Ngày trước Hoàng đế đã gửi quốc thư, nhưng hạ quốc không ai biết chữ, chẳng hiểu thánh ý ra sao.
Sau bọn Ni Quả Lai trở về, Hạ quốc hỏi ra mới biết thượng quốc chất vấn về vụ bọn Cán Đặc Mộc Nhĩ bôn đào qua hạ quốc. Trong quốc thư còn đề cập đến những việc quấy nhiễu biên thùy.
Mới đây hạ quốc được tin Hoàng đế hưng binh đến vùng biên cảnh, khiến tình giao hảo hai bên bị tổn thất.
Nếu dân gian hạ quốc ở chốn biên cương quả đã gây hấn làm càn thì thiên triều chỉ cần minh thị là hạ quốc bắt về nghiêm trị ngay, hà tất phải dấy động can qua?
Nay hạ quốc phụng tiếp chiếu chỉ mới rõ đầu đuôi, liền hỏa tốc hạ lệnh cho tướng sĩ không được giao binh.
Cung thỉnh thiên triều minh xét những tên nào đã gây họa loạn để hạ quốc đem ra chính pháp.
Ngoài việc phái sứ thần quyết định biên giới, hạ quốc lại sai bọn Phật Nhi Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa mang thư đi suốt ngày đêm để dâng thượng quốc.Xin thiên triều rút cuộc bao vây Nhã Tát Khắc. Nếu còn xẩy chuyện lôi thôi, cứ phái sứ thần đưa thư hiểu dụ là hai nước vĩnh viễn giữ cuộc hòa mục.
Một vị đại thần ở thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ năm trước có quen biết Hoàng tỷ ở hạ quốc là Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á điện hạ. Vi đại nhân lại tới kinh thành Mạc Tư Khoa giúp việc dẹp loạn lập nên công lớn ở hạ quốc. Đây thật là một ơn huệ của thượng quốc ban cho. Chúa tôi hạ quốc không bao giờ quên ơn đức này.
Kính dâng trọng lễ trên Đại thánh Hoàng đế bệ hạ. Thứ nhì là trọng lễ phụng tặng Vi Tiểu Bảo đại thần các hạ, để tỏ lòng thành tín hòa mục của hạ quốc”.
Đông Quốc Cương đọc quốc thư rồi, sư gia liền đem những ý tứ trong thư giải thích cho Vi Tiểu Bảo cùng chúng tướng nghe.
Đây là một thông lệ Ở trong quân, vì những văn thư qua lại thường gặp chữ nghĩa sâu xa khó hiểu mà số đông binh tướng lại không biết chữ. Dù nhiều người đã đọc sách mấy năm, nhưng kiến thức vẫn còn kém cỏi. Những văn kiện trong quân quan hệ đến quân cơ đại sự, nếu xảy chuyện hiểu lầm sẽ đưa tới hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Vì thế mà quân chế nhà Mãn Thanh phải đặt sư gia vào việc giải thích văn thư.
Đông Quốc Cương nói:
– Vị Nhiếp Chính Nữ Vương La Sát vẫn nhớ mối tình cố cựu với Vi đại soái, đưa tặng rất nhiều lễ vật. Đức Hoàng thượng phải tiểu đệ đêm hết tới đây để giao lại cho đại soái thu nhận.
Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp:
– Đa tạ, đa tạ!
Gã nói tiếp:
– Người La Sát không hiểu lễ tiết, chẳng nhún mình là lòng thành lễ bạc lại khoe khoang đồ lễ quý trọng. Phần lễ trọng nhất dâng lên Hoàng thượng, còn phần lễ trọng thứ hai gì đó đưa tặng tiểu đệ. Họ nói thế mà không sợ người ta cười cho.
Đông Quốc Cương nói:- Vi đại soái phái quân giải bọn người đầu hàng nước La Sát về kinh thành, đức Hoàng thượng thân hành thẩm vấn. Ngài phát giác trong bọn tiểu tốt có một vị đại quan La Sát trà trộn vào…
Vi Tiểu Bảo “ủa” lên một tiếng, nhảy bổ lên hỏi:
– Có chuyện đó ư?
Đông Quốc Cương đáp:
– Người này thật giảo quyệt! Hắn trà trộn vào trong đám tiểu tốt, nhất thiết không động thanh sắc, hôm ấy Hoàng thượng thẩm vấn bọn người đầu hàng đã sai một vị giáo sĩ Hà Lan làm thông ngôn. Sau Hoàng thượng nói mấy câu Lạp Đinh (La Tinh) với giáo sĩ. Trong bọn người La Sát đầu hàng có một tên tiểu binh đột nhiên lộ vẻ khác lạ. Hoàng thượng liền hỏi có phải hắn hiểu tiếng Lạp Đinh không, nhưng hắn chỉ lắc đầu. Hoàng thượng lại dùng tiếng Lạp Đinh ra lệnh:
•Đem tên tiểu binh này ra chém đầu!•. Hắn sợ hãi thất sắc, quỳ xuống năn nỉ xin tha và thú nhận có hiểu tiếng Lạp Đinh.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Tiếng Lạp Đinh là thế nào? Có phải người La Sát khi lôi bọn tráng đinh đi vận tải quân nhu thì nói thứ tiếng này? Sao Hoàng thượng lại hiểu được ngôn ngữ đó?
Đông Quốc Cương đáp:
– Tiểu đệ cũng không hiểu đạo lý vụ này. Khi nào đại soái có dịp bái kiến Hoàng thượng khẽ dập đầu xin ngài giải thích cho.
Vi Tiểu Bảo gật đầu hỏi:
– Hoàng thượng xử trí với hắn ra sao?
Đông Quốc Cương đáp:
– Người đó không thể dấu diếm được, phải thổ lộ hết chân tình. Tên hắn là á Nhĩ Thanh Tư Cơ, làm Đô tổng quản hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc.
Mọi người nghe nói không khỏi giật mình kinh hãi, bất giác •ủa• lên một tiếng.Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Thế ra chức quan của thằng cha đó lớn lắm ư?
Đông Quốc Cương đáp:
– Phải rồi! Những quan chức mà nước La Sát phái đến mặt Đông, địa vị hắn lớn hơn hết. Hôm thành Nhã Tát Khắc bị hạ, hắn cải trang làm tên tiểu tốt nên không ai nhận ra được.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói:
– Ngày hạ thành Nhã Tát Khắc thì người La Sát từ Đại tướng cho đến tiểu tốt, từ quan lớn cho đến quan nhỏ, nhất thời đều bị lột trần như nhộng. Ngó lui ngó tới ai cũng như ai, trong mình chẳng còn tý gì để phân biệt. Như vậy thì vụ này không nhận ra tên đại quan La Sát này cũng không phải là lỗi ở bọn tiểu đệ.
Chúng tướng nổi lên tràng cười ha hả.
Mọi người liền thuật lại tình hình hôm đánh phá thành Nhã Tát Khắc cho Đông Quốc Cương nghe.
Đông Quốc Cương cười nói:
– Té ra là thế. Như vậy quả không trách ai được.
Lão lại kể tiếp:
– Đức Hoàng thượng phán:
Vi Tiểu Bảo bắt được Đô tổng quản của nước La Sát trông coi hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc là một công trạng rất lớn. Đáng tiếc y tưởng người này cũng là tên tiểu tốt tầm thường. Y đã phạm vào tội làm việc hồ đồ, vậy công kia chuộc lại lỗi này là xong. Việc đó thành ra vô thưởng vô phạt.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đức Hoàng thượng cầm cân nảy mực rất đúng. ¥n điển của ngài khiến cho bọn nô tài chúng tôi muôn vàn cảm kích.
Đông Quốc Cương nói:
– Đức Hoàng thượng thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ liên tiếp sáu ngày liền.
Chẳng những ngài biết hết về quân chính đại sự nước La Sát, mà cả việc phân chiacương vực, phong tục tập quán, thổ sản địa Phương ngài cũng hiểu rõ một cách tỷ mỷ. Đức Hoàng thượng của chúng ta quả được trời ban cho tài trí thông minh khác đời. Ngài chỉ biết qua thái độ của á Nhĩ Thanh Tư Cơ mà phát hiện ra chuyện bí mật.
Lão nhìn Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói tiếp:
– Theo lời Vi đại soái thì á Nhĩ Thanh Tư Cơ lúc bị bắt cũng thân thể trần truồng như mọi người. Ai ngờ hắn vẫn dấu được văn kiện bí mật.
Hồi 236
Trai la sát toàn là đồ bỏ
Vi Tiểu Bảo tức mình thóa mạ:
– Tổ bà nó! Thằng cha á Nhĩ Tử Kê gì đó quả là quỷ kế đa đoan.
Lần sau còn gặp hắn phải xét kỹ mới được. Văn kiện bí mật hắn dấu ở chỗ nào?
Đông Quốc Cương đáp:
– Bọn người La Sát đầu hàng trước khi vào triều kiến Hoàng thượng dĩ nhiên đã bị bọn Ngự tiền thị vệ lục soát trong mình rất kỹ. Người ta moi móc cả trong túm râu, mớ tóc. Chúng còn phải tụt giầy cởi quần để thị vệ khám xét không sót một chỗ nào. bọn người Phiên bang lòng dạ hiểm sâu khôn lường! Chỉ sơ hở một chút để chúng mang lợi khí trong mình thì nguy hiểm vô cùng!…
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Tên á Nhĩ Thanh Tư Cơ này dĩ nhiên cũng bị lục soát như ai. Trong người hắn chẳng có vật gì. Nhưng đức Hoàng thượng rất tinh tế. Ngài thấy trên vai bên phải hắn cao gồ lên một chút. Thỉnh thoảng hắn lại liếc mắt nhìn vào chỗ đó.
Hoàng thượng liền hỏi hắn:
Trên cánh tay có vật gì. á Nhỉ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên. Cánh tay hắn buộc băng vải thật dày. Hắn nói là đã bị thương ở Nhã Tát Khắc.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Hắn dấu văn kiện trên vai hay sao?
Đông Quốc Cương kể tiếp:
– Hoàng thượng bảo hắn tiến gần lại rồi bóp mạnh cánh tay hắn một cái. á Nhĩ Thanh Tư Cơ la lên một tiếng “úi chao!” nhưng tiếng la không lộ vẻ gì đau đớn…
Vi Tiểu Bảo bật cười nói:
– Thú thật! Tên quỷ La Sát này giả vờ bị thương rồi.
Đông Quốc Cương nói:
– Nhất định là thế, Hoàng thượng liền sai thị vệ cởi bỏ băng quấn trên cánh tay hắn ra. Lập tức mặt hắn tái mét, toàn thân run bần bật.
Đông Quốc Cương nói tới đây, nhìn Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Vi đại soái! Đại soái thử đoán xem á Nhĩ Thanh Tư Cơ đã dấu vật gì dưới lần băng đó?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Khâm sai vừa nói trong người hắn có văn kiện bí mật, phải chăng là cái đó?
Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói:
– Chính thị! Trách nào Hoàng thượng thường khen ngợi đại soái rất thông minh, quả nhiên đoán việc gì cũng trúng. á Nhĩ Thanh Tư Cơ dấu một văn kiện bí mật dưới lần băng tay kia. Văn kiện này là một đạo mật dụ của Sa hoàng nước La Sát hửi cho hắn.
Đông Quốc Cương kể tiếp:
– Hoàng thượng liền gọi giáo sĩ Hà lan dịch văn kiện đó ra Hán văn. Bản sao tiểu đệ có đem tới đây.
Lão nói rồi lấy bản văn kia ra lớn tiếng đọc:
– “Ngươi nên nói cho Hoàng đế Trung Quốc biết rằng:” “Nga Hoàng bệ hạ thống lĩnh toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, độc tài đại quân chủ Hoàng đế cùng đại vương kiêm trị nhiều nước, quyền oai rất lớn bao trùm cả những nước xa xôi. Rất nhiều quân vương các nước đã được đặt dưới quyền thống trị tối cao của Đại Hoàng đế bệ hạ.” “Vậy Hoàng đế Trung Quốc cũng nên cầu khẩn được lĩnh ơn huệ của Đại Hoàng đế bệ hạ như toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư. Đại Hoàng đế bệ hạ sẽ hết lòng bảo vệ cho Hoàng đế Trung Quốc được hưởng hoàng ân bát ngát và giữ cho địch nhân khỏi xâm phạm cương thổ. Hoàng đế Trung Quốc chỉ phải triều cống Đại quân chủ bệ hạ là vĩnh viễn bình yên vô sự” “Ngoài ra Đại Hoàng đế bệ hạ còn ưng chuẩn cho những thuộc quốc được doanh thương tự do ở Trung Quốc.” “Ngược lại, Trung Quốc Hoàng đế cũng chuẩn cho sứ thần của Đại Hoàng đế bệ hạ được đi lại không bị cản trở.””Ngươi lấy thư phúc đáp của Hoàng đế Trung Quốc đưa về trình Đại Hoàng đế bệ hạ.” Đông Quốc Cương cứ đọc một câu là Vi Tiểu Bảo lại mắng một tiếng:
– Thối lắm!
Lão đọc hết bản mật dụ, không hiểu Vi Tiểu Bảo đã mắng bao nhiêu câu “thối lắm!”.
Đông Quốc Cương lại nói:
– Hoàng thượng phán rằng:
Người La Sát dã tâm bồng bột, lại cực kỳ vô lễ! Vị Hoàng đế La Sát ra đạo mật dụ này là phụ thân của hai vị Sa hoàng hiện nay. Vị Hoàng đế kia đã chết rồi. Khi ấy họ chưa hiểu người Trung Quốc ta lợi hại nên mới coi thường. Nhưng hiện nay người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không dám càn rỡ như trước nữa. Có điều khi nghị hòa cùng chúng, ta cần phải vừa cương vừa nhu, chớ có khinh suất.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đúng thế! Hoàng thượng đã dặn dò như vậy thì chúng ta cứ việc tát vào mặt, đá đít bọn chúng. Đồng thời còn đập vai, sửa lưng chúng nữa.
Đông Quốc Cương nói:
– Vị nữ Nhiếp Chính Vương La Sát cũng giảo quyệt vô cùng! Y giả vờ không biết thành Nhã Tát Khắc đã bị chúng ta hạ rồi, nói là hạ lệnh cho binh tướng La Sát không được giao phong với quân ta. Nhưng y đã khôn lại không ngoan, trong quốc thư để lòi đuôi ở câu:
Xin Hoàng thượng trả những người La Sát bị bắt về cho họ chính pháp.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Đâu có chuyện dễ dàng thế được? Y tặng cho tiểu đệ mấy tấm da điêu, vài viên bảo thạch mà bảo là trọng lễ thứ nhì để đòi thả quân binh của y mà được ư?
Đông Quốc Cương nói:- Hoàng thượng dặn bảo:
Người La Sát đã cầu hòa thì mình nghị hòa với họ cũng không sao, nhưng chúng ta phải đem đại quân đi để họ cùng ký điều ước “thành hạ chi minh”.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Thành hạ chi minh là cái gì?
Đông Quốc Cương đáp:
– Hai nước giao binh. Đại quân bên ta vây thành trì Phiên bang. Phiên bang xin hòa. Ta cùng họ ký hòa ước ở dưới chân thành. Cái đó kêu bằng “thành hạ chi minh”. Phiên bang tuy không đầu hàng, nhưng thế là đã nhận thua.
Vi Tiểu Bảo nói:
– à thì ra thế. Thực tình chúng ta ra quân hạ Ni Bố Sở cũng chẳng khó gì.
Đông Quốc Cương đáp:
– Hoàng thượng phán bảo:
Muốn thắng mấy trận nữa, kể ra mình đã nắm vững, nhưng La Sát là một nước lớn trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nước nhỏ bị đặt dưới quyền thống trị. Nếu bọn họ thua xiểng liểng ở mặt Đông thì oai phong bị tổn thương rất lớn, khiến cho những nước nhỏ thuộc quyền bất phục. Trường hợp này mà xảy ra, tất La Sát phải kéo đại quân đến báo thùm gây nên nạn binh hỏa lâu dài, lại đưa đến nỗi cừu địch khó bề thu thập, chẳng biết bao giờ mới kết thúc…
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Đức Hoàng thượng đã thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ và biết rằng phía Tây nước La Sát có một nước lớn nữa là nước Thụy Điển. La Sát và Thụy Điển đang lâm vào tình trạng căng thẳng, chỉ va chạm thêm một chút là chiến tranh bùng nổ.
Nếu La Sát bị cả hai mặt Đông Tây giáp công tất phải điên đầu. Chúng ta nhân cơ hội này ký hòa ước với La Sát là chiếm phần tiện nghi nhiều lắm. ít ra mình khỏi lo về mặt Bắc và giữ được thái bình hàng trăm năm.
Vi Tiểu Bảo sau mấy trận đại thắng, những muốn thừa thế xông lên tấn công hạ thành Ni Bố Sở. Gã nghe nói Hoàng thượng thuận cho La Sát cầu hòa, không khỏi cụt hứng. Đây là quyết sách của Hoàng đế thì gã muốn “ngồi trong cái gì đểquyết thắng ra ngoài cái gì” cũng đành đình chỉ, vì chẳng khi nào kẻ vi thần dám chống lại mệnh lệnh của Nhà Vua.
Rồi gã lại nghĩ:
– Lão là mẫu cửu của Hoàng thượng, đồng thời cũng là mẫu cửu của cô vợ ta.
Kể theo vai vế, lão là trưởng bối trên ta một bậc. Mặt khác lão là Nhất Đẳng Công, còn ta vừa mới được thăng Nhị Đẳng Công. Thế mà chuyến này đi nghị hòa với La Sát, Hoàng thượng lại phái lão làm phó cho ta, là ngài nể mặt ta lắm.
Gã nghĩ tới chi tiết đó, trong lòng rất lấy làm đắc ý.
Nguyên phụ thân của Đông Quốc Cương là Đông Đồ Lại. Đông Đồ Lại là phụ thân của Hiếu Khang Hoàng hậu, mẹ Vua Khang Hy, cũng dòng Hán tộc. Vì thế mà người ta nói huyết thống Vua Khang Hy nửa phần là Mãn, nửa phần là Hán.
Hiện nay, Đông Đồ Lại chết rồi. Đông Quốc Cương tập ấm được phong làm Nhất Đẳng Công.
Ngày trước Đông Đồ Lại lập được nhiều quân công lừng lẫy, oai danh rất lớn, nhưng Vi Tiểu Bảo nhận thấy lão rất dở. Gã lẩm bẩm:
– Đồ Lại! Đồ Lại! Đồ Lại nghĩa là chỉ chực cãi cối. Cái đó thuyết minh hễ lão thua bạc là cãi cối. Đường đường một vị quốc trượng, sao lại chơi kiểu đó?
Tối hôm ấy, sau bữa tiệc tiếp phong, các đại thần theo lời đề xướng của Vi Tiểu Bảo mở cuộc đánh bạc. Đông Quốc Cương thua bạc liền lấy ngân phiếu sáu trăm lạng ra trả đàng hoàng và thản nhiên như không, chẳng cãi cối chi hết.
Vi Tiểu Bảo thấy lão chơi sòng phẳng, không giống phong độ của ông bố, gã không khỏi ngạc nhiên.
Khi về phòng lên giường ngủ, gã chợt tỉnh ngộ, bụng bảo dạ:
– Tên lão này là Đông Cốt Quang (Quốc Cương gã đọc trạnh thành Cốt Quang) đã chứng minh lão đánh bài thua mà vẫn quang minh lỗi lạc. Vậy đổ tính của lão rất tốt, ta nên kết bạn với lão.
Hôm sau, Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị quốc sự. Các quan đều nói:
Ta đã cùng đối phương sắp ký hòa ước “thành hạ chi minh” vậy nên dẫn đạiquân đến trước chờ họ tức là kế “dĩ dật đãi lao” (Mình nhàn rỗi đối với bên kia nhọc mệt).
Vi Tiểu Bảo khen phải. Gã liền phát tướng lệnh cho hai cánh quân đống ở ái Huy và Hô Mã Nhĩ nhắm thành Ni Bố Sở tiến phát. Cuộc hội sư sẽ diễn ra ở dưới chân thành này.
Hiện thời đã hết xuân sang hạ, băng rữa tuyết tan, khí trời ấm áp. Việc tiến quân rất phương tiện.
Một hôm đại quân đi tới bờ sông Hải Lạp Nhĩ, đội tiên phong báo cáo có toán quân La Sát nhỏ xin ra mắt đại soái.
Vi Tiểu Bảo truyền cho vào.
Hai tên đội trưởng toán quân này là Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu.
Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu.
Hai người khom lưng thi lễ xong, đệ trình bức thư phúc đáp của Tô Phi á Công chúa.
Vị giáo sĩ La Sát vẫn còn lưu lại trong quân trướng để phòng khi có việc dùng đến.
Vua Khang Hy cũng sai một giáo sĩ Hà Lan đến giúp việc trong công cuộc kiềm đính hòa ước.
Vi Tiểu Bảo truyền cho cả hai vị giáo sĩ vào trong trướng để họ phiên dịch phúc thư của Công chúa. Giáo sĩ La Sát ngày trước đã thay đổi nguyên ý trong bức thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc này trong lòng rất là hồi hộp. Y chỉ sợ trong phúc thư của Công chúa sẽ lòi ra những điều không ăn khớp với bức thư kia. Y vội cầm lấy bức phúc thư coi hết một lượt, chẳng thấy chỗ nào đáng ngại mới yên lòng.
Y liền đem văn tự La Sát trong thư dịch ra chữ La Tinh. Kế đó vị giáo sĩ Hà Lan lại dịch sang Hoa ngữ.
Trong thư nói:
Từ buổi chia tay ta hằng tưởng nhớ. Mong rằng sau khi ký hòa ước, Vi Tiểu Bảo qua Mạc Tư Khoa một chuyến để tự sự tình cố nhân. Vi Tiểu Bảođược quân thượng hai nước cùng có lòng sủng ái, vậy nên giải thích những chỗ hiểu lầm cho đôi bên, hầu tiêu trừ mọi xích mích, xây dựng nền hòa hảo muôn đời trong lưỡng quốc.
Trong thư còn nói:
– Trung Hoa và La Sát một nước ở mé Đông, một nước ở phương Tây đều là nước lớn nhất trên thế giới. Nếu lưỡng quốc liên minh là có thể bao trùm thiên hạ, chẳng còn quốc gia nào kháng cự được.
Bằng nghị hòa bất thành, cuộc chiến tranh còn kéo dài, tất không tránh khỏi cả hai bên cùng bị kiệt quệ.
Vì những lẽ trên, Tô Phi á Công chúa mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến giúp vụ này cho thành tựu, dĩ nhiên gã lập công lớn ở Trung Quốc. Đồng thời nước La Sát cũng đền ơn trọng hậu.
Công chúa lại xin Vi Tiểu Bảo tiến ngôn lên Hoàng đế Trung Quốc thỉnh cầu ngài buông tha những tướng sĩ La Sát bị bắt cho họ trở về đoàn tụ vui vẻ với gia đình.
Giáo sĩ Hà Lan dịch thư xong, Vi Tiểu Bảo thấy Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đưa mắt ra hiệu mấy lần. Gã biết là còn có biệt tình, liền cho hai vị giáo sĩ lui ra rồi hỏi:
– Các ngươi còn điều chi muốn nói?
Hoa Bá Tư Cơ nói:
– Công chúa điện hạ dặn bọn tiểu nhân nói với Trung Quốc tiểu hài đại nhân là ngài vẫn tưởng nhớ đại nhân. Bọn đàn ông La Sát kém lắm, chỉ có Trung Quốc tiểu hài đại nhân là hay nhất thiên hạ. Ngài nhất định mời đại nhân qua Mạc Tư Khoa.
Vi Tiểu Bảo hắng giọng một tiếng, nghĩ bụng:
– Đây là mê thang của nước La Sát, ta không thể tin được.
Tề Lạc Nặc Phu nói:
– Công chúa điện hạ còn mấy việc nữa muốn nhờ Trung Quốc tiểu hài đại nhân lo dùm. Cái này là Công chúa điện hạ tặng cho đại nhân.Hắn nói rồi cời sợi giây đồng buộc trên cổ xuống. Đầu dưới sợi dây buộc một cái túi da.
Hoa Bá Tư Cơ cũng cởi cái túi da ở trên cổ xuống. Đây chắc là hai người bạt thiệp trường đồ sợ xảy chuyện thất lạc mà phải dùng giây đồng buộc vào cổ.
Miệng túi da khóa bằng khóa đồng.
Hoa Bá Tư Cơ lại cởi chiếc chìa khóa ở giây lưng ra mở khóa đồng trên túi da của Tề Lạc Nặc Phu.
Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy chìa khóa mở túi da của Hoa Bá Tư Cơ.
Hai người kính cẩn đặt túi da lên án trước mặt Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo cầm túi da đảo lộn nghe những tiếng loảng xoảng vang lên. Gã đổ ra mấy chục viên bảo thạch, màu sắc khác nhau coi rất ngoạn mục.
Những viên bảo thạch này rất lớn và đủ thứ:
Hồng bảo thạch, Lam bảo thạch, Lục bảo thạch, Hoàng bảo thạch.
Còn cái túi da nữa trong đựng kim cương, toàn thạch và ngọc phỉ thúy.
Trong lúc nhất thời, Vi Tiểu Bảo trông hoa cả mắt. ánh bảo quang tỏa ra khắp quân trướng.
Châu báu đối với gã là thường, nhưng những viên bảo thạch vừa lớn vừa nhiều thế này thì gã chưa từng được thấy qua.
Gã liền cười nói:
– Công chúa đưa hậu lễ tặng ta thế này, ta nhận thế nào được?
(Lời chú của tác giả:
Theo bài lược khảo về cuộc mậu dịch sơ khởi giữa Trung Hoa và nước Nga của Lưu Tuyển Dân đăng trên Yên Kinh Học Báo số 25 thì Nga hoàng phái đại sứ là Quả La Văn sang Trung Quốc đàm phán về việc chia cương thổ và việc thông thương giữa hai nước.
Dọc đường Đông du, Quả La Văn lại tiếp được mật dụ của Nga hoàng trịnh trọng chỉ thị:
Nếu cuộc đàm phán về cuộc giao thương với Trung Quốc mà thắng lợi thì dù có phải nhường thành Nhã Tát Khắc cho Trung Quốc cũng được, miễn làđừng để tổn thương đến uy danh Nga hoàng. Sứ giả còn bí mật đưa lễ vật đút lót đại biểu Trung Quốc.) Hoa Bá Tư Cơ nói:
– Công chúa điện hạ còn dặn tiểu nhân trình Trung Quốc tiểu hài đại nhân là nếu làm xong đại sự, Công chúa điện hạ sẽ tặng lễ vật quý trọng. Ngoài ra còn lựa mỹ nữ của mười nước là Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Kha Tát Khắc, Thát Đát, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Lập Đào Uyển, Đan Mạch mỗi nước một cô, cô nào cô ấy đều nhỏ tuổi xinh đẹp và toàn là xử nữ chứ không phải quả phụ đưa đến tặng cho Trung Quốc tiểu hài đại nhân.
Vi Tiểu Bảo cười khanh khách đáp:
– Hiện ta đã có bảy cô vợ mà mình ứng phó chưa được chu đáo, nếu lại thêm mỹ nữ mười nước thì cái mạng của Trung Quốc tiểu hài đại nhân này đến phải ô hô ai tai mất!
Hoa Bá Tư Cơ vội nói:
– Không phải đâu! Không phải đâu. Mười vị xử nữ xinh đẹp này, Công chúa điện hạ chuẩn bị cả rồi. Chính mắt bọn tiểu nhân đã trông thấy, cô nào tướng mạo cũng như bông mai côi, da mỡ như sữa bò, tiếng nói như dạ Oanh.
Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh thình thình hỏi:
– Công chúa điện hạ muốn ta làm việc gì?
Tề Lạc Nặc Phu đáp:
– Việc thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định cương giới một cách công bằng. Từ nay trở đi không xảy cuộc giao binh nữa.
Vi Tiểu Bảo tự nhủ:
– ý kiến của Hoàng đế cũng muốn như vậy. Việc này có thể làm được.
Nhưng gã chau mày hỏi:
– Phía Tây nước La Sát các ngươi có một nước Thụy… Thụy gì đó đã phái sứ giả đến yêu cầu Trung Quốc chúng ta đồng thời ra quân giáp công La Sát cả hai mặt Đông và Tây để chia đôi giang sơn của các ngươi. Khi đó thì những gì Đại NgaLa Tư, Tiểu Nga La Tư, bất dại bất diểu Trung Nga La Tư, Hắc Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ngũ Hoa Thập Sắc Nga La Tư chẳng thiếu gì giai nhân mỹ nữ, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, chẳng cần phải Công chúa điện hạ của các ngươi đưa tặng nữa.
Huống chi mỗi thứ chỉ đưa tặng có một cô là keo kiệt quá!
Hai tên đội trưởng La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy không khỏi giật mình kinh hãi.
Hồi ấy, Quốc Vương nước Thụy Điển là Lý đệ thập bát mới lên ngôi là một vị anh quân niên thiếu, chỉnh đốn quân cơ, sửa sang võ bị, có ý muốn khởi binh đánh La Sát. Bọn văn võ đại thần ở triều đình Mạc Tư Khoa đều lấy làm lo lắng, vì ngày ngày cho đại đội binh mã không ngớt kéo qua mặt Đông. Chẳng ngờ Thụy Điển lại toan tính đến việc liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy cường thịnh, nhưng hai mặt trước sau đều thụ địch thì đại cuộc tất lâm nguy.
Vi Tiểu Bảo nhìn mặt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu biết là mình đánh đòn gió đã sinh hiệu lực, liền nói tiếp:
– Nhưng giữa ta và Công chúa điện hạ là chỗ hảo bằng hữu tâm đầu ý hợp thì khi nào còn nhận lời đề nghị của bọn man tử nước Thụy gì gì đó? Hiện giờ Trung Quốc Hoàng đế chưa quyết định chủ ý, nếu quả nước La Sát thành tâm cầu hòa thì ta đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về.
Hai tên đội trưởng cả mừng vội đáp:
– Nước La Sát rất mực chân thành, tuyệt chẳng có điều chi giả dối. Xin Trung Quốc tiểu hài đại nhân đuổi ngay sứ giả Thụy Điển về nước, hay chặt đầu hắn đi càng tốt.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:
– Việc chặt đầu sứ giả thì không được đâu. Huống chi hắn lại đưa tặng ta rất nhiều kim cương bảo thạch và mỹ nữ mười mấy nước thì làm sao chém chết hắn cho đành? Có đúng thế không?
Hai tên đội trưởng luôn miệng khen phải. Chúng nghĩ thầm:
– Té ra nước Thụy Điển cố ý giao hảo với Trung Quốc. Họ thả vỏ quít trước rồi ăn mắm rươi sau. Thủ đoạn của họ còn sáng nước hơn mình.Rồi chúng tự nhủ:
– May mà gã Trung Quốc tiểu hài đại nhân này giao hảo với Công chúa nhà mình, không thì vụ này thật nát bét, khó bề vãn hồi được.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
– Công chúa còn muốn ta làm việc gì nữa?
Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười đáp:
– Công chúa điện hạ chân thành mời Trung Quốc tiểu hài đại nhân tới điện Cẩm Linh thành Mạc Tư Khoa để cùng bàn việc trong tẩm thất.
Vi Tiểu Bảo bật tiếng cười khành khạch bụng bảo dạ:
– Đây lại là món mê thang của La Sát hay gọi tắt là La Sát thang cho tiện, La Sát thang ăn được nhưng không thể tin được.
Gã cười nói:
– Té ra bọn đàn ông La Sát toàn là đồ bỏ.
Tề Lạc Nặc Phu mỉm cười đáp:
– Chẳng phải đàn ông La Sát toàn là đồ vô dụng, nhưng Công chúa điện hạ đặc biệt tưởng niệm Trung Quốc tiểu hài đại nhân.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:
– Lại thêm một chén La Sát thang nữa.
Gã liền hỏi:
– Chỉ có vậy thôi, không còn việc gì nữa chứ?
Hoa Bá Tư Cơ đáp:
– Công chúa thỉnh cầu Trung Quốc Hoàng đế bệ hạ chuẩn cho các nhà buôn hai nước được đi lại tự do thông thương.
Tề Lạc Nặc Phu nói theo:
– Một khi thương nhân hai nước đi lại thường xuyên, Công chúa thời thường có thể viết thư, đưa lễ gửi sang cho đại nhân.Vi Tiểu Bảo mắng thầm:
– Con mẹ nó! Lại thêm một chén La Sát thang nữa.
Gã liền hỏi:
– Ngươi nói thế thì hai nước giao thương là làm việc riêng cho Công chúa hay sao?
Tề Lạc Nặc Phu đáp:
– Dạ dạ! Hoàn toàn vì Trung Quốc tiểu hài đại nhân.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hiện giờ ta không còn là trẻ nít, các ngươi không được xưng hô Trung Quốc tiểu hài gì gì đó.
Hai tên liền khom lưng hô:
– Dạ dạ! Trung Quốc đại nhân các hạ.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:
– Được rồi! Các ngươi hãy lui về nghỉ ngơi. Bọn ta sẽ đến Ni Bố Sở. Các ngươi cùng theo đi là xong.
Hai tên kinh hãi đưa mắt nhìn nhau tự hỏi:
– Đại quân Trung Quốc kéo đến Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ họ lại đánh thành?
Vi Tiểu Bảo nói tiếp:
– Các ngươi cứ yên lòng. Ta đã nhận lời với Công chúa là hai nước hòa hiếu, không còn chuyện giao tranh nữa.
Hai tên khom lưng nói:
– Đa ta Trung Quốc tiểu… à quên… đại nhân các hạ.
Hoa Bá Tư Cơ lại nói:
– Công chúa nghe nói những cầu ở Trung Quốc xây cất rất hay. Bất luận trường giang đại hà đều dùng đá lớn để bắc cầu. Phía dưới không cần thạch trụ, kiều đôn. Công chúa đem lòng yêu mến Trung Quốc đại nhân các hạ, nên ưu thíchcả những cái gì của Trung Quốc. Điện hạ xin đại nhân phái mấy tên thợ giỏi chuyên nghiệp bắc cầu qua Mạc Tư Khoa để dựng mấy tòa thạch kiểu thuần kỳ.
Hàng ngày Công chúa điện hạ ra chơi thạch kiều Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:
– La Sát thang đưa hết chén này đến chén khác, ta mà ăn mãi vào tất phải ộc ra mất. Tại sao Công chúa La Sát lại đặc biệt thẩm mỹ những tòa thạch kiều của Trung Quốc? Trong vụ này tất có điều chi ngoắt ngoéo. Ta không thể để mắc vào cạm bẫy của hồ ly tinh nước La Sát.
Gã liền đáp:
– Công chúa mà tưởng niệm ta cũng bất tất phải bắc cầu đá cho tốn nhiều công trình. Ta tặng nàng mấy tấm chăn bông và gối đầu ở Trung Quốc là đủ. Khi nàng ngủ cứ ôm chăn và gối của ta thì cũng như nàng ngủ chung với Trung Quốc đại nhân các hạ.
Hai tên đội trưởng La Sát đưa mắt nhìn nhau, vẻ mặt đều ra chiều bẽn lẽn.
Tề Lạc Nặc Phu ngập ngừng nói:
– Cái đó… dường như…
Hoa Bá Tư Cơ đầu óc linh hoạt hơn, liền đỡ lời:
– Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh. Chăn gối Trung Quốc do bọn tiểu nhân đưa về để Công chúa điện hạ không ôm Trung Quốc đại nhân các hạ thì ôm chăn gối Trung Quốc cũng hay rồi. Có điều chăn gối chỉ được mấy năm là rách nát, chẳng thể kiên cố bằng cầu đá. Vậy xin đại nhân phái mấy kỹ sư qua dựng thạch kiều mới là tuyệt diệu.
Vi Tiểu Bảo nghe giọng lưỡi hai tên đội trưởng La Sát rất tha thiết về việc phái kỹ sư đi bắc cầu, liền nghi là chúng có âm mưu ngụy kế. Gã chưa hiểu thời bấy giờ kỹ thuật bắc cầu của Trung Quốc đứng vào bậc nhất thiên hạ. Người ngoại quốc đến Trung Hoa thấy những cây thạch kiều hùng vĩ đều tấm tắc khen là kỳ dị. Ai cũng tán thưởng không ngớt. Họ tự hỏi:- Những cây thạch kiều ở đáy dưới không có cột chống mà sao bắc qua sông được? Thật là thần diệu khôn lường!
Người La Sát cũng mong học được phương pháp bắc cầu bằng cách này, vì họ rất ca ngợi môn kỹ thuật về khoa học của Trung Quốc mà thôi, chứ chẳng có âm mưu nào khác.
(Lời chú của tác giả:
“Năm Khang Hy thứ 15 những Nga phái Tư Ba Tháp Lôi (N. G. Spatinary) làm khâm sai, đem theo những chuyên gia về bảo thạch, chuyên gia về dược tài đến Bắc Kinh, đưa ra mấy khoản yêu cầu.
Trong những khoản này có một điều xin chuẩn cho nước Nga được mượn kỹ sư bắc cầu của Trung Hoa.
Viên Khâm sai La Sát vì không chịu quỳ xuống dập đầu trước mặt Hoàng đế Trung Quốc nên bị Thanh đình đuổi về nước.”) Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ:
– Những tên này đòi hỏi hết điều nọ đến điều kia. Chúng càng đòi hỏi, ta càng không chịu ưng thuận.
Gã liền nói:
– Ta biết rồi. Các ngươi hãy lui ra.
Hai tên đội trưởng không dám nói gì nữa. Chúng thi lễ rồi rút lui.
Đại quân lên đường tiến về phía Tây, một hôm đến gần thành Ni Bố Sở.
Khâm sai đại thần nước La Sát là Phi Yến Đa La được tin báo đại quân bên Thanh kéo đến không khỏi giật mình kinh hãi. Y vội viết thư sang xin quân Thanh đồn trú ở ngoài rồi y lập tức đến tương hội.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bất tất phải khách sáo. Cứ để bọn ta đến chào khách là được.
Quân Thanh rầm rầm rộ rộ kéo đến tận chân thành Ni Bố Sở.
Bọn Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Mã Lạt chia lấy ba đội nhân mã đi quanh giữ ba mặt Bắc, Tây, Nam thành Ni Bố Sở, đóng trên những yếu đạo để ngăn chặn đườngrút lui của quân La Sát trong thành, lại cản trở cả đường viện binh của quân tiếp viện từ mặt Tây kéo đến.
Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ cùng bọn Đông Quốc Cương thống lĩnh trung quân đồn trú ở ngoài thành phía Đông.
Trung quân bắn pháo thay phiên. Bốn mặt cũng nổi hiệu súng vang rền.
Các đại thần và quan quân La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh tập hợp đông như kiến, khí thế rất là hùng dũng, không khỏi khiếp sợ.
Phi Yến Đa La liền sắp sửa lễ vật phái người đưa đến doanh trướng quân Thanh và đệ thư lên khâm sai đại thần Trung Quốc.
Trong thư nói:
Hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, vậy cuộc hội ngộ này chuyên về việc kiềm đính hòa ước. Quân đội hai bên không nên gần nhau quá để tránh khỏi xảy cuộc xung đột bất ngờ, có thể đưa đến chỗ tổn thương tình giao hảo giữa hai nước.
Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị, đều nói:
Trung Hoa là thượng quốc không xử sự ngang trái, cần giữ điều tiên lễ hậu binh.
Vi Tiểu Bảo liền hạ lệnh lui binh mấy dặm, đồn trú ở phía Đông sông Thân Nhĩ Khắc. Đồng thời gã ra lệnh cho ba cánh quân đóng ở ba mặt Bắc, Tây, Nam cũng rút vào trong núi chờ đợi.
Phi Yến Đa La thấy quân Thanh triệt thoái mới hơi yên dạ. Y lại viết văn thư đưa ra bốn điều kiện về cuộc tương hội.
Điều thứ nhất:
Cuộc hội kiến diễn ra tại khu vực giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khắc.
Điều thứ hai:
Ngày hội kiến, Khâm sai hai nước đều đêm bốn chục tùy viên.
Điều thứ ba:
Hai nước đều giàn hàng năm trăm quân. Quân Nga sắp hàng ở dưới chân thành. Quân Thanh sắp hàng ở bờ sông.
Điều thứ tư:
Hai nước đều đem kèm đội vệ binh gồm hai trăm sáu chục người.
Ngoài đao kiếm, vệ binh không được mang một thứ vũ khí nào khác.
Sở dĩ bên La Sát phải đưa bốn điều đề nghị này vì uy thế quân Thanh rất lớn mà quân Nga ít người. Nếu không hạn chế nhân số thì bên Nga lâm vào tình thếhạ phong. Mặt khác võ khí quân La Sát lợi hại hơn quân Thanh mà không hạn chế khí giới thì quân Nga lại chiếm thế thượng phong, chắc đối phương không chịu. Vì vậy, họ đề nghị trước là khôn và quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm.
Vi Tiểu Bảo sau khi thương nghị với các đại thần, nhận thấy đề nghị này có thể theo được, liền tiếp nhận ngay.
Ngay đêm hôm ấy, Vi Tiểu Bảo phái thân binh dựng doanh trướng để làm hội sở.
Sáng sớm hôm sau, bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn hai trăm sáu chục tên quân đằng bài đến hội sở.
Bỗng thấy cử thành Ni Bố Sở mở rộng, hơn hai trăm quân kỵ Kha Tát Khắc đều cầm trường đao hộ vệ cho quan viên La Sát đến hội sở.
Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm liệt. Còn quân đằng bài bên Thanh đều là bộ binh, coi về ngoài không hùng dũng bằng quân La Sát.
Hồi 237
Lần đầu tiên nếm món Trung Hoa
Đông Quốc Cương cất tiếng thóa mạ:
– Tổ bà nó! Bọn quỷ La Sát thật là xảo quyệt! Mới bước đầu mình đã mắc hợm. Chúng bảo mỗi bên đem đi hai trăm sáu chục tên vệ binh, mình quên không hỏi kỵ binh hay bộ binh. Bây giờ chúng đem đoàn kỵ binh thành ra hơn mình hai trăm sáu chục con ngựa.
Sách Ngạch Đồ nói:
– Vụ này nhắc nhở chúng ta phải rất thận trọng, mỗi khi giao dịch với bọn quỷ La Sát chớ có sơ hở. Mình chỉ bất cẩn một chút là mắc lừa chúng.
Trong khi hai người đang nói chuyện thì bọn quan binh La Sát đã gần tới trước mặt.
Đông Quốc Cương nói:
– Chúng ta tuân chiếu lời phán bảo của Hoàng thượng thì việc gì cũng phải theo lễ nghĩa Trung Hoa là thượng quốc. Vậy chúng ta xuống ngựa đi.
Vi Tiểu Bảo hô:
– Phải lắm! Hết thảy mọi người phải xuống ngựa!
Quan quân nghe lệnh nhất tề hạ mã, chắp tay đứng nghiêm chỉnh.
Khâm sai Phi Yến Đa La thấy vậy cũng hạ lệnh cho quan viên La Sát xuống ngựa, khom lưng hành lễ.
Hai bên đều tiến gần vào nhau.
Phi Yến Đa La hô:
– Khâm sai nước Nga La Tư là Phi Yến Đa La vâng mệnh Sa hoàng kính chúc Đại Thanh quốc Hoàng đế thánh thể an khang.
Vi Tiểu Bảo bắt chước hắn, đáp lại:
– Khâm sai Đại Thanh quốc là Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng thượng kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang.
Gã lại thêm một câu:
– Và chúc Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á Công chúa xinh đẹp, bình yên.
Phi Yến Đa La mỉm cười nghĩ bụng:
– Đại Thanh Hoàng đế chúc Công chúa bên ta xinh đẹp, bình yên thì thật là một câu ly kỳ cổ quái, song Công chúa nghe thấy tất lấy làm hoan hỷ.
Hai bên đưa ra những câu chúc tụng, có điều Vi Tiểu Bảo nghe tiếng La Sát câu được câu chăng, mà gã nói càng văn phạm đảo diên, từ cú lệch lạc. May chỉ là những lời khách sáo, chẳng có gì quan hệ.
Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát đứng nghiêm trang kính cẩn nghe lời, lễ mạo cũng chu đáo, nhưng hai trăm sáu chục tên quân kỵ Kha Tát Khắc vẫn ngang nhiên cưỡi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao xếp thành đội ngũ. Chúng ngồi trên cao trông xuống, phảng phất có vẻ uy hiếp. Gã càng nhìn càng tức, liền hỏi:
– Đội vệ binh bên quý quốc rất vô lễ! Chúng tham kiến Trung Quốc đại nhân các hạ mà sao không xuống ngựa?
Phi Yến Đa La đáp:
– Theo luật lệ của tệ quốc thì kỵ binh đang ở trong đội ngũ dù tham kiến Sa Hoàng bệ hạ cũng không phải xuống ngựa.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đây là đất Trung Quốc. Đã đến Trung Quốc là phải theo luật lệ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:
– Xin lỗi Trung Quốc đại nhân các hạ! Các hạ lầm rồi. Chỗ này là lãnh thổ của Sa Hoàng nước Nga La Tư, chứ không phải đất Trung Quốc.
Vi Tiểu Bảo cãi:
– Đây hiển nhiên là đất Trung Quốc, các vị đến cưỡng chiếm mà thôi.
Phi Yến Đa La đáp:- Xin lỗi các hạ. Trung Quốc Khâm sai đại thần các hạ lầm rồi đó. Đây là lãnh thổ Sa Hoàng nước Nga. Thành Ni Bố Sở do người Nga La Tư dựng lên.
Cuộc hội đàm lần này nguyên là để phân chia ranh giới hai nước, nên chỗ đất này thuộc về Trung Quốc hay thuộc về Nga Quốc phân định cho rõ là một điều trọng yếu. Khâm sai đại thần hai nước vừa gặp mặt, chưa kịp vào trướng mở cuộc đàm phán đã xảy chuyện tranh chấp.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Người La Sát các vị đắp thành lên đất Trung Quốc rồi tự nhận là lãnh thổ của mình mà được ư? Trong thiên hạ sao lại có chuyện kỳ thế?
Phi Yến Đa La cãi:
– Chỗ này nhất định là lãnh thổ nước Nga. Người Nga La Tư xây thành ở đây, người Trung Quốc không xây thành đắp lũy đủ chứng minh là đất nước Nga. Bây giờ Trung Quốc đại thần các hạ bảo là đất Trung Quốc thì có gì làm chứng cứ không?
Thực ra một giải Ni Bố Sở trước nay chẳng có gì ước thúc. Nó là chỗ biên thùy hai nước Trung, Nga nhưng chưa vạch rõ cương giới. Nó thuộc về Trung Quốc hay thuộc về nước Nga, chẳng ai có bằng chứng đưa ra.
Vi Tiểu Bảo nghe đối phương hỏi đến chứng cứ không khỏi tắc họng. Gã muốn cưỡng biện, khốn nỗi gã không thông suốt từ ngữ La Sát. Ngay những câu đối đáp tầm thường đã cảm thấy khó khăn thì làm sao đủ tiếng để trình bày biện bác được?
Gã nói ẩu:
– Đây là đất Trung Quốc, chẳng thiếu gì chứng cứ.
Rồi gã dùng tiếng Dương Châu thóa mạ:
– Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát các ngươi.
Gã thốt câu này rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao thao bất tuyệt, thóa mạ cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội,ngoại bà, di má, cô mẫu nhà Phi Yến Đa La. Gã chửi tưới hạt sen, chửi vung xích chó. Bao nhiêu đàn bà nhà họ Phi nước La Sát gã chửi tuốt chẳng tha một ai.
Các quan viên cả hai bên Trung, Nga thấy Khâm sai đại thần Trung Quốc nổi lôi đình đều băn khoăn kinh hãi. Có điều gã mồm năm miệng mười đưa ra từng tràng như pháo nổ liên thanh, đừng nói Phi Yến Đa La chẳng hiểu gì mà cả quan viên Trung Quốc cùng thông dịch viên hai bên cũng lờ mờ.
Nên biết những câu chửi rủa của Vi Tiểu Bảo này toàn là lời thô tục đê hèn trong đám dân quê ở Dương Châu. Ngay những vị thân sĩ, thục nữ người Dương Châu cũng chưa chắc đã hiểu được mấy phần. Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương, hoặc là người Bát Kỳ, hoặc là võ quan ở phương Bắc từ lâu thì còn lý hội làm sao được?
Vi Tiểu Bảo thóa mạ hồi lâu đã tiết hận, trong lòng khoan khoái. Gã không nhịn được lại nổi lên tràng cười khanh khách.
Phi Yến Đa La ban đầu tuy không hiểu ngữ ngôn của gã, nhưng coi vẻ mặt cùng nghe giọng nói cũng đoán là gã đang nổi giận. Sau lại thấy gã đột nhiên cười rộ không khỏi ngơ ngác, cất tiếng hỏi:
– Xin hỏi quý sứ đưa ra trường thiên đại luận đó để chỉ giáo điều gì? Ngôn từ của quý sứ sâu xa và huyền diệu, mà tệ nhân lại học thức thô sơ, kiến văn hủ lậu, khó bề thông tình đạt lý. Xin quý sứ nói chậm chạp từng câu một, để tệ nhân lãnh giáo.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bản sứ vừa nói quý sứ không hiểu đạo lý gì hết. Bản sứ muốn quý tổ mẫu đến đây làm người bạn lòng và làm bà vợ.
Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:
– Tổ mẫu của tệ nhân là người đẹp nổi danh ở thành Mạc Tư Khoa. Lão nhân gia là con gái của Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ Bá tước. Té ra Trung Quốc đại nhân các hạ cũng biết tiếng tệ tổ mẫu. Tệ nhân thực lấy làm vinh hạnh vô cùng! Đáng tiếc tệ tổ mẫu đã chết trước đây ba mươi tám năm.
Vi Tiểu Bảo nói:- Thế thì bản sứ muốn giao du thân mật với lệnh mẫu để lấy bà làm vợ.
Phi Yến Đa La nở mày nở mặt, càng lộ vẻ hoan hỷ đáp:
– Má má của tệ nhân là con nhà danh môn vọng tộc ở thành Cơ Phụ. Nước da người vừa trắng vừa non. Người biết làm thơ chữ Pháp. Ở thành Mạc Tư Khoa chẳng thiếu gì bậc vương công, tướng quân rất sùng bái người. Ở tệ quốc còn có một vị đại thi nhân đã làm mấy chục bài thơ tán dương sắc đẹp của tệ má má. Hiện nay tuy người đã ba mươi sáu tuổi nhưng tướng mạo còn non trẻ chỉ bằng một thiếu phụ dưới ba mươi. Trung Quốc đại nhân các hạ mai đây có dịp qua Mạc Tư Khoa, tệ nhân nhất định giới thiệu đại nhân các hạ với má má. Việc kết hôn thì đại nhân rằng không được, còn làm bạn tâm tình thì có thể.
Nguyên theo phong tục Tây dương thì ai có mẫu thân hoặc thê tử xinh đẹp được người tán tụng, chẳng những họ không lấy thế làm hỗn xược, trái lại họ cho là một điều rất vinh hạnh và khoan khoái hơn cả ca tụng chính họ.
Vi Tiểu Bảo không hiểu phong tục Tây dương, lại cho là Phi Yến Đa La sợ mình, có ý muốn bái mình làm cha hờ, mới chịu phụng hiến thân mẫu.
Gã sướng quá, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết, liền cười đáp:
– Hay lắm! Hay lắm! Sau này nếu quả bản sứ có dịp qua Mạc Tư Khoa nhất định sẽ vào làm thượng khách của quý phủ.
Gã dắt tay Phi Yến Đa La đi vào doanh trướng. Bọn tùy tùng hai bên liền theo sau tiến vào.
Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi ở đằng Đông. Bọn Phi Yến Đa La ngồi ở mé Tây.
Phi Yến Đa La lên tiếng:
– Nhiếp Chính Nữ Vương Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã dặn bảo cuộc hòa đàm chuyến này để hoạch định cương giới. Tệ quốc hết sức thành ý, mong hai bên giữ mực công bằng, đừng ai lấn át đối phương. Vì vậy tệ quốc đề nghị lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn cho hai nước. Mặt Nam sông này là Trung Quốc.
Mặt Bắc thuộc về Nga La Tư. Sau khi cương giới đã hoạch định, quân Nga La Tư không được qua sông tràn xuống phía Nam. Quân Trung Quốc cũng không được qua sông tiến lên miền Bắc.Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Thành Nhã Tát Khắc ở Giang Nam hay Giang Bắc?
Phi Yến Đa La đáp:
– Nhã Tát Khắc ở Giang Bắc. Thành này do người La Sát xây đắp. Cái đó chứng tỏ mặt Bắc sông Hắc Long Giang đều là lãnh thổ của nước Nga.
Vi Tiểu Bảo nghe nói lại nổi cơn tức giận hỏi:
– Trong thành Nhã Tát Khắc có một trái núi nhỏ. Các hạ có biết tên trái núi này là gì không?
Phi Yến Đa La quay lại hỏi tùy viên rồi đáp:
– Trái núi đó kêu bằng Cao Trợ Lược Sơn.
Vi Tiểu Bảo hiểu được tiếng La Sát, Cao Trợ Lược tức là con hươu, liền nói:
– Người Trung Quốc kêu bằng Lộc Đỉnh Sơn.
Rồi gã hỏi:
– Qúy sứ có biết bản sứ được phong tước vị gì không?
Phi Yến Đa La đáp:
– Các hạ là Lộc Đỉnh Công. Nếu nói bằng tiếng La Sát tức là Cao Trợ Lược Sơn Công tước.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Thế là các hạ còn có lòng muốn lấn át bản sứ. Các hạ đã biết rõ bản sứ là Lộc Đỉnh Công sao còn cưỡng chiếm Lộc Đỉnh Sơn của bản sứ? Phải chăng các hạ bảo bản sứ không phải là Công tước?
Phi Yến Đa La đáp:
– Không không! Tệ nhân quyết chẳng có ý đó.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
– Tước hiệu của các hạ là gì?
Phi Yến Đa La đáp:- Tệ nhân là Mạc Nặc Sa Phạt Hầu tước.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Vậy thì Lạc Nặc Sa Phạt thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi rồi mỉm cười nói:
– ấp phong của tệ nhân Lạc Nặc Sa Phạt còn ở phía Tây Mạc Tư Khoa, cách xa Trung Quốc vạn dặm, sao lại thuộc về lãnh thổ Trung Quốc được?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Qúy sứ bảo ấp phong của mình kêu bằng Lão Miêu Lạp Thi Pháp…
Phi Yến Đa La sửa lại:
– Lạc Nặc Sa Phạt.
Vi Tiểu Bảo không lý gì đến hắn, tiếp tục câu hỏi:
– Từ thành Bắc Kinh bên bản sứ tới Lão Miêu Lạp Thi Pháp cộng bao nhiêu dặm đường?
Phi Yến Đa La đáp:
– Từ Lạc Nặc Sa Phạt đến Mạc Tư Khoa đã hơn trăm dặm, phải đi mất bốn ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh phải đi ba tháng nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Nếu vậy từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp phải đi mất ba tháng lẻ năm ngày. Lộ trình xa quá nhỉ?
Phi Yến Đa La đáp:
– Xa lắm! Xa lắm!
Vi Tiểu Bảo nói:
– Đường đất đã xa như vậy thì Lão Miêu Lạp Thi Pháp dĩ nhiên không phải là lãnh thổ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La đáp:
– Công gia nói đúng lắm!Vi Tiểu Bảo nâng chung rượu lên nói:
– Mời quý sứ xơi rượu.
Người La Sát quý rượu như tính mạng. Chung rượu đặt ở trước mặt Phi Yến Đa La đã lâu, mùi thơm tho xông lên mũi hắn từng hồi, nhưng chủ nhân chưa nâng chung, hắn không dám thiện tiện uống trước.
Bây giờ Phi Yến Đa La thấy Vi Tiểu Bảo nâng chung, hắn mừng quá cầm chung rượu uống một hơi cạn sạch.
Bọn tùy viên bên Thanh lại rót rượu vào chung cho hắn rồi lấy đồ nhắm trong hộp ra và toàn là những món do đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng.
Thời bấy giờ nước La Sát mới được khai hóa, nên cách ăn mặc hãy còn thô sơ. Về sau Bỉ Đắc đại đế lớn lên, đoạt lại quyền hành ở tay tỷ tỷ là Tô Phi á Công chúa rồi giam nàng vào ni am. Bỉ Đắc đại đế từ đó mới thâu nhập phần lớn văn hóa Tây Âu.
Hồi nước La Sát giao thiệp với Vi Tiểu Bảo, nhất thiết khí vật, chế độ, văn hóa đều kém Trung Quốc nhiều. Về cách nấu nướng thì cho tới ngày nay La Sát so với Trung Quốc vẫn còn cách xa vạn dặm.
Đây là lần đầu tiên Phi Yến Đa La được nếm những thức ăn tuyệt hảo của nước Trung Hoa ở ngoài thành Ni Bố Sở, dĩ nhiên hắn phải trợn mắt há miệng, cơ hồ muốn nuốt luôn cả cái lưỡi của mình vào bụng.
Vi Tiểu Bảo bồi tiếp Phi Yến Đa La nếm đủ các món ăn và giải thích cho hắn nghe vây cá là thế nào? Yến sào là gì? Chân vịt làm thế nào cho thành món trân quý? Gan gà chế hóa làm sao cho thành món tối hảo trong bữa ăn?…
Phi Yến Đa La ăn ngon miệng quá vui mừng khôn xiết, khen không ngớt miệng.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
– Qúy sứ dời thành Mạc Tư Khoa ngày nào?
Phi Yến Đa La đáp:
– Tệ nhân vâng chỉ dụ của Công chúa điện hạ ngày 12 tháng 4 ở thành Mạc Tư Khoa ra địVi Tiểu Bảo nói:
– Hay lắm! Qúy sứ cạn chung này đi! Đông Công gia ở bên bản sứ tửu lượng cũng khá lắm. Hai vị hãy đối ẩm mấy chung.
Đông Quốc Cương liền kính tửu Phi Yến Đa La, đối ẩm ba chung.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Phải chăng quý sứ mới tới Ni Bố Sở trong tháng này?
Phi Yến Đa La đáp:
– Tệ nhân đến đây ngày rằm tháng bảy.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Ồ! Qúy sứ ra đi ngày 12 tháng 4 đến đây ngày rằm tháng bẩy, tức là mất hơn ba tháng lộ trình.
Phi Yến Đa La đáp:
– Dạ. Đi mất hơn ba tháng là may nhờ tiết trời ấm áp, dọc đường không bị điều gì khó khăn cản trở.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Phen này quý sứ nói thật đi! Chịu thừa nhận thành Ni Bố Sở không phải ở trên đất nước La Sát.
Phi Yến Đa La uống rượu mười mấy chung rượu, đã ngà ngà say. Hắn nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy ngạc nhiên hỏi:
– Tệ nhân… tệ nhân có thừa nhận hồi nào đâu?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
– Từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp đi mất hơn ba tháng, lộ trình xa quá, nên Lão Miêu Lạp Thi Pháp không phải đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa đến Ni Bố Sở, quý sứ cũng phải đi hơn ba tháng, tức là đường đất chẳng gần gũi gì.
Cái đó chứng tỏ Ni Bố Sở dĩ nhiên không phải là đất nước La Sát.
Phi Yến Đa La dương to cặp mắt. Trong lúc nhất thời không biết nói sao.
Hắn ngẩn người ra hồi lâu mới đáp:- Nước Nga La Tư bên tệ nhân đất rộng bao la, không phải như những nước khác.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Nước Đại Thanh bên bản sứ phạm vi cũng không nhỏ hẹp.
Phi Yến Đa La cười gượng đáp:
– Trung Quốc đại nhân khéo nói giỡn. Hai vụ đó… không thể… nghị luận giống nhau…
Vi Tiểu Bảo nói:
– Nếu quý sứ nhất định bảo Ni Bố Sở là lãnh thổ nước La Sát thì chúng ta làm một cuộc trao đổi. Bản sứ tới Mạc Tư Khoa xin Công chúa điện hạ phong quý sứ làm Ni Bố Sở Bá tước, và phong bản sứ làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước.
Thành Lão Miêu Lạp Thi Pháp được kể là đất Trung Quốc.
Phi Yến Đa La đỏ mặt lên đáp:
– Cái đó… nhất định không được…
Trong lòng hồi hộp, hắn nghĩ bụng:
– Công chúa là tình nhân của gã, nếu lúc đầu gối tay ấp nàng bị gã cho ăn thuốc mê mà ưng thuận cuộc trao đổi thì thật là nét bét. Lạc Nặc Sa Phạt là ấp phong tổ truyền của ta, sản vật rất phong phú. Nếu Công chúa cải phong cho ta đến Ni Bố Sở là một nơi khí hậu rét mướt, dân cư thưa thớt, thì có khác gì giết ta không? Huống chi ta đang làm Hầu tước mà lại cải phong làm Ni Bố Sở Bá tước thì ra bị giáng cấp hay sao?
Hắn nghĩ tới điểm này, bất giác nét mặt lộ ra rất khó coi.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
– Tâm địa của quý sứ tệ hại quá chừng! Qúy sứ đã muốn chiếm cứ cả thành Nhã Tát Khắc là đất phong của bản sứ, khi đó bản sứ không còn là Lộc Đỉnh Công thì bản sứ biết làm thế nào? Đành là làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước vậy.
Tuy ấp phong của quý sứ mang cái tên cứt mèo, cứt chó gì đó thật khó nghe, bản sứ cũng cam chịu vậy.Phi Yến Đa La tính thầm trong bụng:
– Gã là người Trung Quốc mà muốn chiếm thành Lạc Nặc Sa Phạt của ta quyết không thể được, nhưng gã đã được phong tước ở nước La Sát mà lại mưu lấy ấp phong của ta tất không khỏi rắc rối cho ta. May ở chỗ Công chúa đã dặn có thể lui cương giới về đến Ni Bố Sở. Sự thực chúng ta cũng không cần đòi Nhã Tát Khắc. Thành Nhã Tát Khắc đã bị bọn họ hạ rồi mà bảo họ rút lui, dĩ nhiên họ không chịu.
Gã tính vậy liền lộ vẻ tươi cười đáp:
– Thành Nhã Tát Khắc đã là ấp phong của đại nhân, thì bọn tệ nhân xin thoái nhượng một bước. Hai nước vẫn lẫy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, nhưng thành Nhã Tát Khắc và phạm vi chung quanh thành này trong vòng mười dặm thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đây là bọn tệ nhân hoàn toàn nể mặt quý sứ và đã làm một cuộc nhượng bộ rất lớn rồi đó.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
– Bọn ngươi thua trận mà còn lên mặt như vậy. Nếu trận đánh vừa rồi quân La Sát các ngươi thắng thì đại nhân rằng các ngươi đòi cả thành Bắc Kinh cũng là lãnh thổ của các ngươi nữa.
Gã nghĩ vậy liền hỏi:
– Chúng ta đã trải qua một trận giao phong. Không hiểu các vị thắng hay là bản sứ thắng?
Phi Yến Đa La chau mày đáp:
– Đó mới là cuộc đụng độ nhỏ bé, chưa đáng kể ai thắng ai bại. Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã ra nghiêm lệnh không cho tướng sĩ được chính thức giao phong để duy trì hòa hiếu giữa hai nước. Vì thế lúc quân đội quý quốc tấn công, tướng sĩ bên tệ quốc không phản kích. Nếu cuộc giao binh thật sự diễn ra thì cục diện sẽ khác hẳn.
Vi Tiểu Bảo nghe nói cả giận hỏi:
– Té ra quân La Sát đã nổ súng mà chưa kể là phản kích ư?
Phi Yến Đa La đáp:- Đây bất quá là tướng La Sát hành động để bảo vệ lãnh thổ cho bản quốc chứ không phải phản kích. Nếu người La Sát đánh trận thực sự thì chẳng khi nào chỉ thủ chứ không công. Một khi cuộc đại chiến xảy ra giữa hai nước thì đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh kha Tát Khắc đã đến tấn công thành Bắc Kinh rồi.
Vi Tiểu Bảo tức quá mắng thầm:
– Tổ bà nó! Bọn quỷ sứ lông lá các ngươi chuyên nói khoác để hăm người. ta mà sợ các ngươi hăm dọa thì sẽ theo họ ngươi mà làm con ngươi. Ta chẳng phải Vi Tiểu Bảo nữa mà là Tiểu Bảo Phi Yến Đa La.
Gã đến thành Mạc Tư Khoa đã biết tập quán của người La Sát đặt tên trước họ. Phi Yến Đa La là họ chứ không phải tên.
Gã liền nói:
– Vậy thì hay lắm! Thưa Hầu tước đại nhân đáng kính đáng sợ! Hầu tước đại nhân có biết trong lòng bản sứ mong mỏi điều gì nhất không?
Phi Yến Đa La đáp:
– Tệ nhân không rõ. Xin đại nhân chỉ giáo.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Hiện nay bản sứ mới là Công tước, trong bụng chỉ mong mỏi được gia quan tấn tước thăng làm quận vương hay thân vương.
Phi Yến Đa La nghĩ bụng:
– Gia quan tấn tước thì ai mà chẳng muốn?
Hắn mỉm cười đáp:
– Công tước đại nhân tinh minh mẫn cán lại được Hoàng đế quý quốc đem lòng tin yêu sủng ái thì chỉ lập tiếp mấy vụ công lao là nhất định sẽ thăng đến quận vương, thân vương chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Tệ nhân chân thành kính chúc đại nhân sớm đặng thành công.
Vi Tiểu Bảo khẽ nói:- Vụ này cần được Bá tước đại nhân giúp đỡ, nếu không thì chẳng còn cơ hội nào khác.
Phi Yến Đa La ngạc nhiên hỏi:
– Dĩ nhiên tệ nhân hết sức, nhưng chưa hiểu tệ nhân giúp đại nhân bằng cách nào?
Vi Tiểu Bảo cúi xuống ghé vào tai Phi Yến Đa La khẽ nói:
– Theo lề luật nước Đại Thanh bên bản sứ thì chỉ khi nào đánh trận đại thắng, lập nhiều quân công mới được phong vương. Nhưng hiện giờ trong nước thái bình vô sự, bao nhiêu quân phản nghịch đã bị dẹp tan. Phải chờ hai ba chục năm nữa đại nhân rằng cũng chưa chắc đã xẩy chiến tranh. Như vậy việc phong vương của bản sứ khó quá…
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
– Vậy việc phân chia cương giới, nghị định hòa ước này, rất mong quý sứ đừng nhượng bộ chút gì. Hay hơn là quý sứ phái binh khiêu chiến với tệ quốc, giết chết một hai vị đại thần bên bản sứ. Hai nước chúng ta xẩy cuộc đại chiến rồi, quý sứ phái đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến tấn công thành Bắc Kinh, bản quốc sẽ cùng Thụy Điển liên minh phái binh đến đánh Mạc Tư Khoa. Có đánh nhau cái bụi mịt mù, trời sầu đất thảm, máu chảy thành sông thì cuộc phong vương của bản sứ mới mong thành tựu. Đây là một điều bản sứ ký thác ở nơi quý sứ. Xin quý sứ hết lòng giúp cho. Qúy sứ nói gì xin hạ thấp giọng xuống, đừng để người ngoài nghe thấy.
Hồi 238
Cuộc đàm phán phân chia cương giới
Phi Yến Đa La càng nghe càng kinh hãi, nghĩ thầm:
– Gã thiếu niên này lớn mật làm càn. Vì mong được phong vương, gã không quản gây cuộc chiến tranh giữa hai nước. Trận đánh này rồi ai thắng ai bại tuy không thể biết trước, nhưng hiện giờ bên họ đông người mà ta ít, lực lượng hai bên chênh lệch quá xa thì cái thua thiệt trước mắt nhất định mình phải hứng chịu.
Hắn càng nghĩ càng hối hận là đã huênh hoang hăm dọa nói những gì dẫn đội hỏa thương La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh, ai ngờ gã thiếu niên lại cho là sự thực. Chẳng những gã không sợ mà còn hoan hỷ vô cùng.
Phi Yến Đa La thấy mình đã trót khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ vẻ khiếp nhược thì không khỏi bị đối phương khinh nhờn.
Trong lúc nhất thời, hắn không biết làm thế nào, đâm ra luống cuống.
Vi Tiểu Bảo lại nói:
– Mạc Tư Khoa cách đây xa quá. Quân Đại Thanh kéo đến tấn công thực ra cũng chẳng nắm chắc được phần thắng. Nếu bại trận, Hoàng đế còn thống trách bản sứ…
Phi Yến Đa La nghe chừng có cơ xoay chuyển, hắn lộ vẻ vui mừng vội nói:
– Dạ dạ! Tệ nhân kính cẩn khuyên can đại nhân đừng mạo hiểm là hơn.
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bản sứ chỉ muốn lập công để được phong vương chứ không muốn diệt nước La Sát. Đất đai bên quý quốc rất rộng, nhất định bản sứ không đủ bản lãnh để trừ diệt.
Phi Yến Đa La luôn miệng khen phải.
Vi Tiểu Bảo khẽ nói:
– Bây giờ chúng ta đành làm thế này. Qúy sứ phát binh đi đánh Bắc Kinh.
Bản sứ phát binh đánh Ni Bố Sở. Anh em mình đường ai nấy đi. Đánh được Bắc Kinh là công lao của quý sứ. Hạ được Ni Bố Sở là công lao của bản sứ. Qúy sứ thử tính xem có phải kế này tuyệt diệu không?
Phi Yến Đa La ngấm ngầm kêu khổ. Trong tay hắn chỉ có hơn hai nghìn nhân mã, muốn phản công lấy lại Nhã Tát Khắc cũng chưa đủ lực lượng, còn nói chi đến chuyện đi đánh Bắc Kinh?
Hắn nghĩ bụng:
– Nếu mình không nhận lỗi thì gã thiếu niên này lộng giả thành chân cũng chưa biết chừng.
Hắn liền nhăn nhó cười nói:
– Xin Công tước đại nhân bất tất phải quan tâm. Vừa rồi tệ nhân bảo kéo đội hỏa thương thủ và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh chỉ là câu chuyện hồ đồ chứ không phải sự thực. Tệ nhân đã đưa ra ý kiến lầm lẫn, bây giờ xin thu về.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Qúy sứ đã tuyên bố rồi còn thu về sao được?
Phi Yến Đa La đáp:
– Tệ nhân xin Công tước đại nhân vì tình mà quên câu chuyện này đi.
Vi Tiểu Bảo cười khanh khách hỏi:
– Qúy sứ nói vậy thì ra bãi việc dẫn quân La Sát đến đánh Bắc Kinh hay sao?
Phi Yến Đa La đáp:
– Không đi đâu. Nhất định là không đi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Các vị còn muốn cưỡng chiếm thành Nhã Tát Khắc của bản sứ nữa hay thôi?
Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:- Không có đâu. Không có đâu.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Cả thành Ni Bố Sở các vị cũng không được đụng đến chứ?
Phi Yến Đa La sửng sốt đáp:
– Thành Ni Bố Sở này là lãnh thổ của Sa Hoàng bên tệ quốc. Xin Công tước đại nhân lượng cho.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:
– Người ta thường nói:
•Bạn hàng nói thách, khách mua giá cao•. Ta mà đòi hắn lấy thành Ni Bố Sở, nhất định là không được rồi. Vậy ta thử đòi từ chân thành Ni Bố Sở lăn về phía Tây xem sao?
Gã liền hỏi:
– Cuộc nghị hòa của chúng ta phen này nhất định phải cho công bằng, đừng lừa già dối trẻ, không để ai thua thiệt. Phải vậy không?
Phi Yến Đa La đáp:
– Đúng thế. Hai nước cùng chân thành hoạch định cương giới, dựng nên nền hòa bình vĩnh cửu.
Vi Tiểu Bảo nói:
– Thế là hay lắm! Nếu biên giới cắt gần thành Mạc Tư Khoa quá thì người La Sát phải thiệt thòi. Ngược lại, gần Bắc Kinh qua thì người Trung Quốc thua thiệt.
Cách hay nhất là chia biên giới quãng giữa, theo phép •Nhị nhất thiêm tác ngũ•.
Phi Yến Đa La hỏi:
– Nhị nhất thiêm tác ngũ là thế nào?
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
– Phải chăng từ Mạc Tư Khoa đến Bắc Kinh lộ trình mất ước hơn ba tháng?
Phi Yến Đa La đáp:
– Phải rồi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:- Ba tháng chia đôi là bao nhiêu ngày?
Phi Yến Đa La không hiểu ý gã, cũng đáp:
– Một nửa là tháng rưỡi.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Vậy chúng ta khỏi cần đàm thoại nữa. Bên nào về kinh thành bên ấy. Các vị từ Mạc Tư Khoa đi sang phía Đông. Bọn bản sứ xuất phát từ Bắc Kinh, tiến về phía Tây. Hai bên cùng đi một tháng rưỡi rồi đụng đầu nhau, phải không?
Phi Yến Đa La đáp:
Đúng thế! Nhưng chưa hiểu đại nhân làm như vậy với dụng ý gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Đó là cách chia ranh giới công bình nhất. Chỗ hai bên giáp nhau dùng làm biên thùy của hai nước. Các vị không chiếm phần tiện nghi mà bên bản sứ cũng chẳng dành phần hơn. Bên bản sứ thắng trận vừa rồi coi như bỏ đi. Đã là hảo bằng hữu với nhau, việc mua bán lại cần sòng phẳng.
Phi Yến Đa La mặt mũi đỏ bừng, miệng ấp úng:
– Cái đó… cái đó…
Rồi hắn đứng lên.
Vi Tiểu Bảo cười hỏi:
– Qúy sứ cũng nhận thấy phương pháp này là rất công bình phải không?
Phi Yến Đa La xua tay lia lịa đáp:
– Không, không! Nhất định là không được! Phân chia địa giới như vậy há chẳng là đem nửa phần đất nước Nga La Tư cắt cho quý quốc?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
– Có đâu mà một nửa? Phía Tây Mạc Tư Khoa quý quốc còn rất nhiều đất đai, phần ấy khỏi phải dùng phép “Nhị nhất thiềm tác ngũ” cắt cho Trung Quốc nữa.
Hà tất quý sứ còn khách sáo như vậy?
Phi Yến Đa La tức quá, râu tóc dựng đứng cả lên hồi lâu mới nói:- Công tước đại nhân! Nếu đại nhân thành tâm nghị hòa thì nên đưa ra chủ trương thông tình đạt lý. Cách này… là cắt lấy nửa phần lãnh thổ của tệ quốc.
Thật là… thật là khinh người thái quá!
Hắn vừa nói vừa thở hồng hộc, đặt đít đánh bình một cái ngồi xuống, làm ghế rung động vang lên những tiếng lách cách.
Vi Tiểu Bảo khẽ hỏi:
– Nói tình thực với quý sứ thì nghị hòa hay phân chia cương giới chẳng có chi thú vị. Chúng ta hãy đánh nhau một trận đã. Qúy sứ bảo có nên không?
Phi Yến Đa La vẫn chưa hết thở hồng hộc, phẫn nộ cơ hồ nhịn không nổi, những muốn đập bàn đứng lên quát lớn:
– Đánh nhau thì đánh nhau chứ sợ gì?
Nhưng hắn nghĩ tới nếu xảy cuộc chiến tranh, hậu quả sẽ cực kỳ nghiêm trọng! Bên mình tuyệt không hy vọng thủ thắng.
Hắn đành ráng nhịn, lẳng lặng không nói gì.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên vỗ tay xuống bàn, cười nói:
– Có rồi, có rồi! Bản sứ còn một biện pháp khác rất công bằng.
Gã luồn tay vào bọc móc ra hai con xúc xắc, ghé miệng vào thổi một hơi rồi liệng xuống bàn nói:
– Qúy sứ đã không muốn đánh nhau, lại không thích dùng phép •Nhị nhất thiêm tác ngũ•. Vậy chúng ta gieo xúc xắc…
Gã dừng lại một chút rồi tiếp:
– Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa hãy kể là một vạn dặm đường. Chúng ta chia làm mười phần. Mỗi phần một ngàn dặm. Chúng ta liệng xúc xắc xuống mười bàn, mỗi bàn đặt cuộc ngàn dặm quốc gia. Nếu quý sứ thắng cả mười bàn thì giải đất từ đây cho đến chân thành Bắc Kinh thuộc về nước La Sát.
Phi Yến Đa La đằng hắng một tiếng rồi hỏi:
– Thế nhỡ tệ nhân thua cả mười bàn thì sao?
Vi Tiểu Bảo cười nói:- Có lẽ để quý sứ tự nói ra hay hơn.
Phi Yến Đa La hỏi:
– Chẳng lẽ giang sơn muôn dặm của tệ quốc về mé Đông thành Mạc Tư Khoa lại thuộc hết về Trung Quốc?
Vi Tiểu Bảo đáp:
– Bản sứ đoán vận khí của quý sứ không đến nỗi xúi quẩy như ngài nghĩ. Đâu có lý nào không ăn một bàn? Qúy sứ chỉ thắng được một bàn là giữ được nghìn dặm lãnh thổ, hai bàn được hai nghìn dặm. ¡n đến bốn bàn là chiếm phần tiện nghi rồi.
Phi Yến Đa La hỏi:
– Sao như thế lại chiếm tiện nghi? Từ Mạc Tư Khoa đi về phía Đông đến Bắc Kinh đa phần là đất của nước Nga. Bảy nghìn dặm, tám nghìn dặm là thuộc về lãnh thổ Nga Quốc.
Hai bên tranh luận hồi lâu. Giáo sĩ phiên dịch đứng bên khẽ dịch sang Trung Quốc thoại.
Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương nghe ngóng, ban đầu còn tưởng Phi Yến Đa La ngang ngạnh vô lý, đòi lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, uy hiếp tỉnh Liêu Đông của Trung Quốc. Thế thì Mãn Châu là nơi phát tích gây dựng nghiệp rồng cũng để bọn di dịch uy hiếp hay sao? Trong lòng bọn họ đều cực kỳ phẫn nộ.
Sau họ nghe Vi Tiểu Bảo kéo dằng kéo dọ. Nào là trao đổi ấp phong, nào là dùng phép Nhị nhất thiêm tác ngũ, nào là gieo xúc xắc để hoạch định cương giới, mỗi bàn ăn nghìn dặm thổ địa, họ mới biết là gã nói nhăng nói càn, đối phương quyết chẳng ưng thuận.
Nhưng họ thấy Phi Yến Đa La khí thế chùn nhụt, lại nghe Vi Tiểu Bảo nói chỉ ham đánh trận lập công để mong cắt đất phong vương. Còn sứ thần nước Nga hiển nhiên ngoài mặt hung hăng mà trong lòng mềm nhũn không dám đối lời. Ai nấy đều nghĩ bụng:Người La Sát ngang ngược dã man, quả nhiên danh bất hư truyền. Nếu đàm phán một cách nghiêm chỉnh với chúng là mình bị kém thế. Đức Hoàng thượng phái Vi Công tước chủ trương hòa nghị, quả là có tài dùng người một cách rất sáng suốt. Bọn quỷ phiên bang là hạng người dã man, chỉ có Vi Công gia bất học vô thuật nhưng đủ điều dân dã lưu manh mới dư bản lĩnh đối phó với chúng. Thật là vỏ quít dày gặp móng tay nhọn.
Nên biết bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương lên mặt đại thần, tuy bề ngoài họ tỏ ra cực kỳ lễ độ cung kính đối với Vi Tiểu Bảo, mà thực ra trong lòng coi gã rất tầm thường.
Họ đều cho Vi Tiểu Bảo bất quá là thằng hề được Hoàng thượng sủng ái làm nên quan lớn. Hành động cùng ngôn từ bình nhật của gã biểu lộ xấu xa hèn hạ mà chính gã không biết xấu hổ.
Họ còn đinh ninh chuyến này gã đụng chạm với sứ thần ngoại quốc tất để ngoại bang cười cho và làm mất thể diện của Quốc gia.
Ngờ đâu đức Hoàng thượng liệu tài bổ chức, thu dụng gã vào việc trọng đại này thật xứng đáng.
Giả tỷ Hoàng thượng không sai phái một nhân vật chuyên nói chuyện trò bậy và cãi chầy cãi cối là Vi Tiểu Bảo vào công cuộc hòa đàm, thì trong các văn võ đại thần đầy rẫy chốn triều đường, thực không tìm được nhân vật thứ hai nào làm nổi.
Các đại thần càng nghe càng khâm phục và càng tôn sùng đức Hoàng thượng anh minh tài trí, chúng thần chẳng ai bì kịp.
Sách Ngạch Đồ nghe tới đây đột nhiên xen vào:
– Mạc Tư Khoa nguyên trước cũng là đất của Trung Quốc.
Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi nghĩ bụng:
– Thằng lỏi kia giở giọng thiên hô bách sát đã đành. Sao cả lão già này cũng nhắm mắt nói mò như tuồng vô sỉ? Hắn bảo thành Mạc Tư Khoa của nước mình là đất Trung Quốc mới thật là kỳ?
Lại nghe Sách Ngạch Đồ nói:- Theo lời quý sứ thì người La Sát tạm thời chiếm cứ nơi nào là nơi ấy cũng thuộc lãnh thổ La Sát hay sao?
Phi Yến Đa La đáp:
– Như vậy cũng còn có lý. Qúy sứ nói là Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc thì, hà hà… tức cười đến nẻ ruột.
Sách Ngạch Đồ nói:
– Nhân dân La Sát gồm nhiều chủng tộc:
Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, lại còn Kha Tát Khắc, Thát Đát gì gì nữa cũng đều là người La Sát?
Phi Yến Đa La đáp:
– Nhất định là thế. Đất đai tệ quốc rộng bát ngát, nhân dân dưới quyền thống trị cũng nhiều lắm.
Sách Ngạch Đồ nói:
– Trăm họ bên tệ quốc cũng gồm rất nhiều chủng tộc:
Người Hán có, người Mông có, người Mãn có, người Miêu có, người Hồi có, người Tạng có…
Phi Yến Đa La đáp:
– Chính thế! Nga La Tư là nước lớn. Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là nước lớn nhất trong những nước lớn.
Sách Ngạch Đồ nói:
– Chuyến này quý sứ đem đội vệ binh đi, dường như toàn là kỵ binh Kha Tát Khắc?
Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:
– Kỵ binh Kha Tát Khắc nổi tiếng anh hùng vô địch. Có thể họ là những dũng sĩ lợi hại nhất thiên hạ.
Sách Ngạch Đồ hỏi:
– Kỵ binh Kha Tát Khắc còn lợi hại hơn cả người Nga La Tư nữa ư?
Phi Yến Đa La đáp:- Câu chuyện không phải như vậy. Người Kha Tát Khắc là trăm họ của nước La Sát, người Nga La Tư cũng là trăm họ trong nước La Sát, chẳng có gì phân biệt. Tỷ như người Mãn Châu cũng là bách tính của Trung Quốc, người Mông, người Hán…
cũng là bách tính của Trung Quốc, chẳng có gì phân biệt.
Sách Ngạch Đồ gật đầu nói:
– Thế thì phải rồi. Vì vậy mà thành Mạc Tư Khoa cũng là lãnh thổ của Trung Quốc.
Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói tới đây, còn chưa rõ chỗ dụng ý của Sách Ngạch Đồ. Gã biết đích Mạc Tư Khoa cách đây xa hàng vạn dặm, quyết chẳng phải lãnh thổ Trung Quốc, nhưng nghe lý thuyết của Sách Ngạch Đồ thì dường như có chứng cứ. Còn Phi Yến Đa La trán nổi gân xanh, sắc mặt lúc xám lại, lúc đỏ bừng. Hiển nhiên trong lòng hắn tức giận như phát điên, gã liền xen vào:
– Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc là đúng lắm, tuyệt không sai lầm. Đức Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng cho các vị mượn ở đã lâu. Bản sứ tưởng bây giờ nên trả lại là phải, đừng bắt chước kiểu Lưu Bị tá Kinh Châu rồi muốn chiếm cứ vĩnh viễn, chẳng bao giờ hoàn lại.
Dĩ nhiên Phi Yến Đa La chẳng hiểu tích Lưu Bị tá Kinh Châu ý nghĩa thế nào, mà chỉ biết bọn Man tử Trung Quốc này không hiểu đạo lý, ăn nói hoàn toàn khác hẳn người văn minh. Hắn cười lạt nói móc:
– Trước kia tệ nhân nghe nói đến lịch sử Trung Quốc và tưởng là người Trung Quốc học vấn sâu rộng. Không ngờ… ha ha… toàn nói những chuyện mù tịt chẳng có chứng cứ gì.
Sách Ngạch Đồ đáp:
– Qúy sứ là một đại thần nước La Sát, dù chẳng có học vấn gì mấy, nhưng ít ra cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?
Phi Yến Đa La đáp:
– Lịch sử bên tệ quốc đều có sách vở chứng minh rõ ràng, quyết chẳng khi nào căn cứ vào những lời loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy.
Sách Ngạch Đồ nói:- Thế thì hay lắm! Trước kia Trung Quốc có một vị Hoàng đế tên gọi Thành Cát Tư Hãn…
Phi Yến Đa La vừa nghe đến bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác la lên một tiếng:
– ái chà!
Hắn than thầm:
– Hỏng bét, hỏng bét! Sao ta lại hồ đồ đến thế, quên khuấy cả việc lớn đó?
Sách Ngạch Đồ nói tiếp:
– Vị Thành Cát Tư Hãn này, bên Trung Quốc kêu bằng Nguyên Thái Tổ, vì ngài là Hoàng đế dựng ra cơ nghiệp nhà Nguyên ở Trung Quốc. Ngài là người Mông Cổ. Qúy sứ vừa nói:
Người Mãn Châu, người Mông Cổ hay người Hán đều là người Trung Quốc chẳng có gì phân biệt.
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Ngày ấy đạo kỵ binh Mông Cổ lên đường chinh Tây đã cùng quân La Sát đánh mấy trận lớn. Lịch sử quý quốc có chép rõ ràng. Quyết chẳng phải loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy. Không hiểu trong mấy trận đó người Trung Quốc thắng hay người La Sát thắng?
Phi Yến Đa La lặng thinh, hồi lâu mới đáp:
– Người Mông Cổ thắng.
Sách Ngạch Đồ hỏi vặn:
– Người Mông Cổ có phải là người Trung Quốc không?
Phi Yến Đa La đành phải gật đầu.
Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không hiểu ngày trước đã có vụ này. Gã vừa nghe nói bất giác nở mặt nở mày, lên tiếng:
– Người Trung Quốc mà đánh với người La Sát thì người La Sát tất phải thất bại không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lĩnh của các vị còn kém một bậc. Lần sau có đánh nhau, bên bản sứ chỉ dùng một tay đánh nhau cũng đủ. Nếu không thế thì lực lượng hai bên chênh lệch nhau quá, cuộc chiến đấu chẳng còn thú vị nữa.Phi Yến Đa La tức quá trợn mắt lên nhìn, miệng lẩm bẩm:
– Nếu không phải Công chúa điện hạ ban nghiêm lệnh lần này chỉ cho hòa chứ không cho đánh, thì gã buông lời nhục mạ người La Sát ta thế này, ta quyết đấu với gã một phen.
Vi Tiểu Bảo cười ha hả hỏi Sách Ngạch Đồ:
– Sách đại ca! Ngày trước Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát sự tích thế nào? Đại ca kể lại nghe chơi.
Sách Ngạch Đồ đáp:
– Hồi đó Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân đi chinh Tây, mỗi đội một vạn người, cộng là hai vạn nhân mã mà đánh cho mười mấy vạn quân La Sát phải thua chạy thất điên bát đảo.
Lão dừng lại một chút rồi tiếp:
– Sau đó bên xứ Mông Cổ của chúng ta lại sản xuất một vị đại anh hùng tên gọi Bạt Đô, Bạt Đô thống lĩnh quân