Hồi 118
Chốn hắc lao dào dạt sóng lòng
Hai bên qua lại ngoài 40 hiệp, Lệnh Hồ Xung ra chiêu càng về sau càng tinh diệu. Nhiều chiêu thức chàng chưa được Phong Thanh Dương chỉ điểm mà bây giờ gặp tay địch thủ kiếm pháp cao thâm, phép “Độc cô cửu kiếm” tự nhiên phát sinh những chiêu số chống chọi rất tân kỳ.
Những mối lo âu trong chàng tiêu tan hết, bao nhiêu tâm trí để cả vào kiếm pháp, chàng không hoảng hốt mà cũng không mừng vui.
Lão Nhậm biến đổi đến tám loại kiếm pháp thượng thặng, có môn đánh rất rát, có môn chiêu số liên miên không dứt. Có lúc đánh mau tới tấp, có chiêu uy mãnh trầm trọng. Bất luận lão biến chiêu cách nào, Lệnh Hồ Xung cũng đưa ra ngay những chiêu thức tựa hồ tám loại kiếm pháp của đối phương chàng đã thuộc lòng sẵn những chiêu thức để chiết giải từng thứ một.
Lão Nhậm cầm ngang thanh kiếm quát lên:
– Tiểu bằng hữu! Kiếm pháp này tiểu bằng hữu đã được ai truyền thụ chỏ Tưởng bản lãnh Phong lão không ghê gớm đến trình độ này được.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra một chút rồi đáp:
– Kiếm pháp này mà chẳng phải Phong lão tiên sinh chỉ điểm thì trên đời còn có cao nhân nào truyền thụ cho nữa?
Lão Nhậm nói:
– Tiểu hữu nói cũng có lý. Bây giờ tiểu hữu hãy đón tiếp đường kiếm này của lão phu.
Lão hú lên một tiếng dài, đột nhiên đánh tới.
Lệnh Hồ Xung hươi kiếm đâm chênh chếch lại, bức bách đối phương phải thu kiếm về chống đỡ.
Lão Nhậm quát tháo luôn miệng tựa hồ kẻ phát điên. Tiếng quát tháo càng cấp bách thì kiếm chiêu càng mau lẹ.
Lệnh Hồ Xung nhận thấy kiếm pháp của đối phương chẳng lấy chi làm kỳ dị cho lắm, nhưng vì lão quát tháo om sòm làm chàng rối loạn tâm thần. Chàng cố gắng trấn tĩnh để giải khai kiếm pháp thì đột nhiên lão Nhậm gầm lên một tiếng kinh khủng, khiến chàng ù tai tựa hồ bị đứt lá nhĩ. Đầu óc chàng choáng váng rồi mê đi không biết gì nữa, ngã lăn xuống đất.
Không hiểu Lệnh Hồ Xung hôn mê đã bao lâu, lúc chàng tỉnh lại thấy đầu nhức như búa bổ bên tai văng vẳng tựa hồ nghe sấm sét vẫn nổ ầm ầm không ngớt.
Chàng hé mắt ra nhìn thì chỉ thấy một màu tối om không biết mình hiện ở chỗ nào? Chàng gắng gượng chống tay xuống toan ngồi dậy nhưng toàn thân không còn lấy một chút khí lực, miệng lẩm bẩm.
– Nhất định ta chết rồi đây và đã được người ta chôn ở trong phần mộ.
Vừa thương tâm vừa bồn chồn quá độ, chàng lại ngất đi.
Lần thứ hai Lệnh Hồ Xung tỉnh lại vẫn thấy nhức đầu kịch liệt có điều tiếng vang bên tai đã nhẹ đi nhiều. Chàng cảm thấy nửa dưới mình vừa lạnh vừa cứng dường như nằm trên sắt thép. Chàng liền đưa tay ra sờ soạng thì quả nhiên là một tấm thiết bản. Tay mặt chàng vừa cử động bỗng nghe tiếng loảng xoảng. Đồng thời chàng nhận ra trên tay mình có vật gì lạnh ngắt cột lại.
Lệnh Hồ Xung đưa tay trái lên sờ cũng phát ra tiếng loảng xoảng. Té ra tay trái chàng cũng bị cột nốt.
Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Mừng vì cảm thấy mình vẫn còn sống chứ không phải chết rồi. Kinh hãi vì thấy mình bị cột bằng xích sắt, hiển nhiên đã bị hãm vào tình cảnh bất hạnh như lão Nhậm.
Lệnh Hồ Xung cố sức giơ tay trái lên sờ soạng thì quả nhiên thấy trên tay bị cột bằng một sợi xích sắt nhỏ bé. Chàng khẽ cử động hai chân liền cảm thấy cổ chân cũng bị cột rồi.
Lệnh Hồ Xung ráng mở to mắt ra nhìn nhưng chỉ thấy một màu tối đen như mực chẳng rõ một thứ gì, liền bụng bảo dạ:
– Lúc ta đang cùng Nhậm lão tiên sinh tỷ kiếm đột nhiên ngất xỉu, chẳng hiểu Giang Nam tứ hữu ám toán bằng cách nào? Coi chừng ta cũng bị cầm tù trong địa lao dưới đáy Tây Hồ rồi. Có điều ta chẳng hiểu mình có bị cầm tù với Nhậm lão tiền bối một chỗ không?
Chàng liền cất tiếng gọi:
– Nhậm lão tiền bối! Nhậm lão tiền bối!
Chàng gọi hai tiếng không thấy động tĩnh gì lại càng sợ hãi, lớn tiếng kêu:
– Nhậm lão tiền bối! Nhậm lão tiền bối!
Trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng kêu hốt hoảng của mình vọng lại. Tiếng vọng trong nhà lao cũng làm cho màng tai rung động đau đớn.
Lệnh Hồ Xung hoang mang ngơ ngác lớn tiếng la:
– Đại trang chúa! Tứ trang chúa! Tại sao các vị lại giam tại hạ vào đây? Mau tha tại hạ ra!
Mau mau thả tại hạ ra!
Nhưng dù chàng có kêu gào bể họng thì ngoài tiếng vọng la lối của mình cũng chẳng có chút thanh âm nào khác đáp lại.
Lệnh Hồ Xung giận quá ngoác miệng ra mà thóa mạ:
– Các ngươi là bọn đê hèn, là quân tiểu nhân vô liêm sỉ! Các ngươi giam cầm ta thiệt ử…
Rồi chàng nghĩ tới số phận mình cũng như Nhậm lão tiên sinh mà trong lòng chứa chan tuyệt vọng. Nguyên chàng chẳng biết sợ trời sợ đất gì cả gặp lúc nguy nan sống chết cũng không kể nữa, nhưng chàng nghĩ tới suốt đời bị cầm tù trong hắc lao dưới đáy hồ thì không khỏi hãi hùng, lông tóc dựng
đứng cả lên.
Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng lo âu, xót dạ. Chàng kêu la rầm trời. Tiếng kêu la biến thành tiếng gào khóc. Nước mắt tuôn ra đầy mặt lúc nào chàng cũng không haỵ Chàng nghẹn ngào gầm réo:
-Bốn tên trong Mai trang các ngươi… là bốn quân cẩu tặc hèn hạ. Lệnh Hồ Xung này ngày kia thoát ra khỏi chốn lao lung sẽ đâm lòi tròng mắt các ngươi, chặt cụt tay bọn ngươi… sau khi ta ra khỏi hắc lao…
Đột nhiên chàng dừng lại tưởng chừng trong lòng có tiếng kêu:
– Liệu có ra khỏi hắc lao được không? Nhậm lão tiền bối thần thông quảng đại còn không ra được thì ta ra thế nào nổi?
Lệnh Hồ Xung uất ức quá độ, ọe lên một tiếng, phun ra mấy búng máu tươi, rồi lại ngất đi.
Mỗi lần chàng ngất đi là mỗi lần người chàng thêm hư nhược. Giữa lúc li bì nửa tỉnh nửa mê, dường như nghe có tiếng lách cách vang lên rồi sáng lóe mắt. Chàng giật mình tỉnh lại nhảy lên một cái. Nhưng chàng quên mất rằng tay chân mình đã bị cột bằng xích sắt, hơn nữa toàn thân bất lực nên chỉ nhảy lên được chừng một thước lại rớt xuống đánh huỵch một cái. Chàng té khá nặng, chân tay mình mẩy tựa hồ bị gãy rời.
Lệnh Hồ Xung ở trong tối đã lâu đột nhiên có ánh sáng lòa nên mắt chói khó mở ra được. Chàng lại sợ ánh sáng này chỉ hiện lên một lát rồi vụt tắt là bỏ mất cơ hội tốt, nên dù mắt chàng nhức nhối vẫn cố giương lên để nhìn xem ánh sáng từ đâu rọi tới.
A¨nh sáng này do cái lỗ vuông vắn chừng một thước chiếu vào. Lệnh Hồ Xung liền nhớ lại trên cửa sắt nhà lao giam Nhậm lão tiền bối có một lỗ vuông rất giống chỗ lỗ vuông này, chàng nhìn kỹ lại quả nhiên mình cũng ở trong hắc lao như vậy.
Chàng vội lớn tiếng gọi:
– Thả ta ra mau! Hoàng Chung Công! Hắc Bạch Tử! Bọn cẩu tặc đê hèn các ngươi có giỏi thì tha ta ra!
Lúc trước một mình chàng ở trong chỗ tối tăm vì quá thương thân không nhịn được mà sa đôi hàng lệ, nhưng bây giờ vừa mới thấy địch nhân tới, khí khái anh hùng lại chỗi dậy. Bất luận địch nhân hành hạ ngược đãi đến thế nào, chàng quyết chẳng chịu tỏ ra khiếp nhược.
Bỗng thấy một cái khay khá lớn ở ngoài lỗ hổng từ từ đưa vào. Trên khay đặt một bát cơm lớn.
Trên mặt bát cơm có rau có thịt. Ngoài ra còn một bình sành đựng nước nóng.
Lệnh Hồ Xung vừa ngó thấy lại càng điên tiết, chàng lẩm bẩm:
– Bọn ngươi đưa cơm rau cho ta là muốn giam cầm ta trường kỳ ở đây chăng?
Đoạn chàng lớn tiếng thóa mạ:
– Bốn tên cẩu tặc kia! Bọn ngươi muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ đi! Chứ đừng đem lão gia ra làm trò tiêu khiển.
Chiếc khay gỗ thò qua lỗ hổng rồi dừng lại không nhúc nhích. Hiển nhiên người đưa cố ý để Lệnh Hồ Xung thò tay ra đón lấy.
Căn nhà lao này rất chật hẹp, chàng chỉ nghiêng mình đi một chút vươn tay ra là lấy được. Nhưng chàng phẫn nộ đến cực điểm, vươn tay ra đập mạnh một cái.
Mấy tiếng choang choảng vang lên! bát cơm cùng bình nước rớt xuống đất vỡ tan tành. Cơm rau và nước nóng tung tóe đầy mặt đất, nhưng cái khay gỗ không rớt xuống từ từ rút ra ngoài.
Lệnh Hồ Xung tức giận như người điên xổ đến bên lỗ vuông ngó thấy một lão già tóc bạc, tay trái cầm đèn tay phải cầm khay gỗ đang từ từ trở gót.
Lão già này mặt đầy vết dăn deo coi bộ suy nhược lắm rồi. Lão lại là một người chàng chưa gặp quạ Chàng la gọi:
– Lão về bảo Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử tới đây! Bốn tên cẩu tặc… có phải giống người thì vào đây cùng đại gia quyết một trận tử chiến.
Lệnh Hồ Xung lại kêu lớn:
– Này này! Lão kia!… Lão đã nghe rõ chưa?
Bất luận chàng kêu gọi thế nào lão cũng cứ lầm lũi bước đi không ngoảnh cổ lại.
Lệnh Hồ Xung nhìn bóng sau lưng lão quanh vào lối rẽ đường hầm. ánh đèn ảm đạm dần dần tối lại. Sau một lúc ngoài cửa lại văng vẳng có tiếng chuyển động. Lỗ hổng đóng chặt lại. Trong nhà lao lại tối đen như mực không còn một chút tia sáng hay một tiếng động nào khác.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy đầu óc choáng váng. Chàng ngưng thần một lát rồi từ từ nằm duỗi dài xuống giường tự nhủ:
– Lão già đưa cơm kia chắc đã nhận nghiêm lệnh không được nói chuyện với tạ Dù ta có la gọi lão cũng bằng vô dụng.
Rồi chàng lại nghĩ:
– Nhà lao này giống hệt nơi cầm tù Nhậm lão tiền bối. Xem chừng dưới lòng đất khu vực Mai trang đã kiến trúc rất nhiều hắc lao để giam hãm không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán. Giả tỷ mà ta thông tin được với Nhậm lão tiền bối hoặc có thể liên lạc với một bạn nào cũng bị cầm tù để cùng nhau đồng tâm hiệp lực hoặc giả có cơ hội thoát khỏi chốn lao lung.
Nghĩ tới đây chàng liền giơ tay ra gõ vào tường vách.
Chàng nghe tiếng kêu kình kịch đúng là thanh âm của gang thép phát ra. Tiếng vọng rất trầm trọng hiển nhiên tường vách này không trống rỗng bên trong mà nó dày vô cùng.
Lệnh Hồ Xung dò lại bên bức tường khác đưa tay lên đập cũng thấy phát ra những tiếng chắc nịch.
Chàng vẫn chưa thoái chí, ngồi xuống giường gõ vào bức tường phía sau. Thanh âm vẫn chẳng có gì khác lạ.
Lệnh Hồ Xung sờ mò và đập gõ kỹ càng cả ba mặt tường. Ngoài bức tường có đặt cửa sắt, tựa hồ gian hắc lao nầy biệt lập lẻ loi và sâu xuống lòng đất đến mấy chục trượng. Đã đành dưới lòng đất còn có nhà tù khác, ít ra căn hắc lao cầm tù lão Nhậm, nhưng chàng không biết gian hắc lao kia ở phương hướng nào chàng cũng chẳng hiểu chỗ giam mình đây cách phòng giam khác bao xa.
Lệnh Hồ Xung ngồi tựa lưng vào vách để nghĩ lại tình trạng trước khi mình bị ngất đi. Chàng chỉ nhớ được chiêu kiếm của lão Nhậm phóng ra mỗi lúc một mau lẹ tiếng quát mỗi lúc vang dội rồi đột nhiên chàng ngất đi. Còn vụ Giang Nam tứ hữu bắt chàng ra sao, đưa chàng vào phòng giam thế nào, chàng
không hay biết gì hết. Chàng nghĩ thầm:
– Bốn vị trang chúa kia ngoài mặt đạo đức thanh cao phi thường, hàng ngày tiêu khiển bằng cầm, kỳ, thi, họa hiển nhiên là những cao nhân nhã sĩ không phải tầm thường, nhưng bề trong lại lục súc đê hèn chẳng từ điều ác nào không làm. Trong võ lâm thiếu chi hạng tiểu nhân như rứa, vậy chẳng có chi
là lạ, chỉ lạ Ở chỗ bốn lão này ham mê cầm, kỳ, thi, họa một cách chân thành. Nếu họ giả vờ đến thế được. Ngốc Bút ông viết lên vách bài thơ “Bùi tướng quân thi”. Nét bút lâm ly, kẻ vô sĩ tầm thường quyết không làm nổi.
Chàng lại nghĩ:
– Sư phụ thường nói: “Những quân đại ác nhất định là những kẻ sĩ thông minh tài trí”.Câu đó quả đã không lầm. Bọn Giang Nam tứ hữu bố trí gian kế thiệt cho người ta khó mà phát giác ra được. Tình thực lúc ta tiến vào địa đạo dưới gầm giường Hoàng Chung Công là tự đưa mình vào bẫy, nhưng dù lúc ấy ta có phát giác muốn lùi lại cũng không kịp nữa.
Thình lình chàng la hoảng:
– Trời ơi!
Bất giác chàng ngồi bật dậy như cái lò xọ Trống ngực đánh thình thình chàng tự hỏi:
– Hướng đại ca bây giờ ra sao? Chẳng hiểu y có mắc vào độc thủ của bọn chúng không?
Nhưng chàng tự nhủ:
– Hướng đại ca là người thông minh cơ biến, xem chừng y đã biết trước bọn Giang Nam tứ hữu là người thế nào rồi. Y vùng vẫy giang hồ đến Quang Minh hữu sứ trong Ma giáo thì dĩ nhiên không thể mắc bẫy bọn này một cách khinh xuất. Chỉ cần y đừng bị bọn Giang Nam tứ hữu cầm tù là nhất định có thể tìm cách cứu tạ Dù ta có bị cầm tù dưới lòng đất sâu muôn trượng thì bản lãnh của Hướng đại ca cũng tìm được biện pháp khiến cho ta thoát khỏi chốn lao lung.
Nghĩ tới đây chàng rất yên tâm, cười hì hì, tự nói một mình:
– Lệnh Hồ Xung hỡi Lệnh Hồ Xung! Ngươi thật là đồ nhát gan vô dụng! vừa rồi sợ quá đến phải kêu khóc. Nếu có người biết ra thì cái mặt ngươi biết dấu vào đâu? Sau này dù Hướng đại ca cứu được ngươi ra, ngươi cũng không còn đất để đứng trên chốn giang hồ nữa.
Một khi Lệnh Hồ Xung yên dạ. Chàng từ từ đứng dậy liền cảm thấy bụng đói miệng khát, lại than thầm:
– Đáng tiếc là vừa rồi ta nổi hung đập vỡ cả bát cơm, bình nước. Ta mà không ăn no thì Hướng đại ca có vào đây cứu thoát rồi, sẽ lấy đâu ra khí lực để đối địch với bọn Giang Nam tứ cẩu? Ha ha!
Đúng lắm! Bọn tiểu nhân gian ác này chỉ đáng gọi là Giang Nam tứ cẩu, sao lại kêu bằng Giang Nam tứ hữu được? Trong bọn Giang Nam tứ cẩu, Hắc Bạch Tử lúc nào nét mặt cũng thản nhiên lầm lỳ là một tên nham hiểm hơn hết. Bao nhiêu ngụy kế phần lớn do hắn bầy ra. Sau khi ta thoát khỏi chốn lao tù, hắn là đứa đầu tiên đáng giết. Trong bọn Giang Nam tứ cẩu thì Đan Thanh tiên sinh tương đối thực thà hơn, ta sẽ tha mạng cho hắn cũng chẳng hề chi, nhưng hầm rượu ngon của hắn mà không để ta uống hết không xong.
Vừa nghĩ tới rượu ngon của Đan Thanh tiên sinh, chàng cảm thấy khát như cháy họng, tự hỏi:
– Không hiểu ta mê đi đã bao lâu mà sao chưa thấy Hướng đại ca đến cứu?
Đột nhiên chàng la thầm:
– Trời ơi! Không được rồi! Võ công của Hướng đại ca mà lấy một chọi một thì thắng bọn Giang Nam tứ cẩu có thừa. Nhưng nếu bốn tên liên thủ hợp lực thì Hướng đại ca khó bề thủ thắng. Dù đại ca hiển lộng thần oai giết sạch được cả bốn tên thì việc tìm đường vào trong hắc lao này cũng khó khăn vô
cùng! Ai mà nghĩ ra được cửa ngầm đi vào hắc lao lại ở dưới gầm giường Hoàng Chung Công bao giờ?
Lệnh Hồ Xung bồn chồn trong dạ hồi lâu rồi tự hỏi:
– Hướng đại ca là hạng người nào? Y thần thông quảng đại ngày ở trong quán lương đình dùng sức một người mà đối địch với mấy trăm anh hùng hảo hán cả hai phe chính tà. Lúc đó hai tay y bị cột bằng xích sắt mà vẫn oai phong lẫm liệt chẳng sợ hãi gì, thì việc đối phó với Giang Nam tứ cẩu, y có
coi vào đâu?
Chàng cảm thấy tinh thần mỏi mệt, liền nằm duỗi dài xoay chuyển ý nghĩ:
– Nhậm lão tiền bối ở đây võ công cao cường còn có phần hơn cả Hướng đại ca, về phần cơ trí so với Hướng đại ca lão cũng tương đương chứ không chịu kém. Một nhân vật như lão còn chịu giam cầm thì chắc gì Hướng đại ca thắng được bọn chó má kiả Trước nay những người quang minh lỗi lạc
thường bị kẻ tiểu nhân ám toán, cho nên người ta đã có câu: “Minh thương d tranh, ám tiến không phòng”. Đã bấy nhiêu lâu mà Hướng đại ca vẫn chưa thấy đến cứu mình, e rằng y cũng gặp chuyện bất trắc rồi.
Lệnh Hồ Xung nghĩ quanh nghĩ quẩn bất giác ngủ đi lúc nào không biết. Khi chàng tỉnh dậy giương mắt lên nhìn chỉ thấy tối om, cũng không biết ngày giờ nào nữa, chàng tự hỏi:
– Nếu chỉ trông vào sức mình thì bất luận thế nào cũng không thể thoát ra được. Trường hợp mà Hướng đại ca quả nhiên đã bị bọn chúng ám toán thật thì còn ai cứu mình được nữa không? Sư phụ đã gửi văn thư đi khắp thiên hạ tuyên bố việc trục mình ra khỏi phái Hoa Sơn thì dĩ nhiên người chính
phái không ai đến giải cứu…
Chàng chợt nhớ tới Doanh Doanh, bật tiếng la:
– Doanh Doanh! Doanh Doanh…
Chàng phấn khỏi tinh thần ngồi nhỏm dậy tự nhủ:
– Doanh Doanh đã bảo bọn Lão Đầu Tử phao ngôn trên chốn giang hồ phải cố gắng tìm ta mà hạ sát. Như vậy bọn võ sĩ bàng tả đạo cũng nhất định không đến cứu ta rồi. Nhưng còn Doanh Doanh thì sao? Nếu nàng biết ta bị cầm tù ở đây quyết nhiên tìm đến cứu viện. Kể về bản lãnh tuy nàng không
bằng Hướng đại ca song người đồng đạo chịu nghe mệnh lệnh của nàng có một số rất đông. Nàng chỉ cần hở môi ra một câu là… Ha ha…
Đột nhiên chàng ngừng tiếng cười nghĩ bụng:
– Chà! Cô này coi quí thể diện hơn tính mạng. Nàng rất sợ người ta đồn đại nàng thương yêu mình. Như vậy thì dù nàng có quyết tâm đến cứu nhất định chỉ đến một mình chứ không chịu kêu người giúp sức. Hơn nữa có ai biết nàng đến cứu mình thì tính mạng người đó cũng khó an toàn. Trời ơi!
Lòng dạ của các cô thật khiến cho người ta khó nỗi đo lường. Còn tiểu sư muội…
Lúc này chàng đã gặp điều bất hạnh đến cực điểm mà sực nhớ tới Nhạc Linh San, lòng chàng không khỏi quặn đau. Mối thương tâm tuyệt vọng càng sâu rộng thêm một tầng. Chỉ trong chớp mắt bao nhiêu ý niệm đều đi vào chỗ chán chường, hy vọng đều tan ra mây khói.
Chàng lẩm bẩm:
– Sao ta còn… hy vọng người đến cứu? Lúc này không chừng tiểu muội cùng Lâm sư đệ bái đường làm lễ thành hôn rồi. Dù ta có thoát khỏi chốn lao lung trở về đời trần tục thì cũng chẳng còn chi là thú vị?
Chẳng thà vĩnh viễn bị nhốt trong hắc lao này, không hiểu gì đến thế sự còn hơn.
Rồi chàng cho là mình bị cầm tù cũng có nhiều chỗ rất haỵ Lập tức bao nhiêu mối bồn chồn tiêu tan hết. Trái lại chàng còn nhơn nhơn đắc ý là đã được ngồi tù.
Nhưng chàng yên dạ chẳng được bao lâu lại cảm thấy đói như cào ruột, khát như cháy họng.
Chàng thèm thuồng cảnh ngộ ngồi trên tửu lâu nốc từng bát rượu lớn, nhai những miếng thịt tọ Bất giác chàng cảm thấy ra thoát tù ngục là sung sướng hơn nhiều. Chàng xoay chuyển ý nghĩ theo chiều hướng khác, tự nhủ:
– Tiểu sư muội cùng Lâm sư đệ thành thân thì đã sao? Huống chi mình đã bị người ta khinh mạn từ lâu. Toàn thân nội lực mất hết thành một phế nhân. Bình đại phu cũng bảo là ta chẳng còn sống được bao lâu. Như vậy dù tiểu muội có định lấy ta, ta cũng không thể lấy nàng được. Chẳng lẽ ta lại để nàng suốt đời góa bụa thủ tiết với ta?
Thực ra trong thâm tâm chàng không dám lấy Nhạc Linh San dù nàng có bụng yêu chàng. Nhưng nàng đem lòng yêu Lâm Bình Chi thì cũng lại là một mối đau khổ đến cùng cực cho chàng. Vậy hay hơn hết… là thế nào?
Chàng lẩm bẩm:
– Hay hơn hết là tiểu sư muội vẫn giữ nguyên tình trạng trước kia. Hay hơn hết là đừng xảy ra chuyện gì. Ta vẫn cùng nàng luyện kiếm dưới thác nước trên núi Hoa Sơn. Lâm sư đệ đừng đến phái Hoa Sơn. Ta cùng tiểu sư muội vĩnh vin sống một đời khoái hoạt. Hỡi ôi! Điền Bá Quang! Đào cốc
lục tiên, Nghi Lâm sư muội…
Lệnh Hồ Xung thoáng nghĩ tới Nghi Lâm tiểu ni phái Hằng Sơn, trên môi chàng thoáng một nụ cười ôn nhụ Chàng tự hỏi:
– Không hiểu Nghi Lâm sư muội bây giờ ra sao? Nếu nàng biết ta bị giam cầm ở đây tất nàng nóng nảy vô cùng! Sau khi sư phụ nàng nhận được văn thư của sư phụ ta dĩ nhiên bà không cho nàng đi kiếm tạ Nhưng nàng sẽ năn nỉ phụ thân là Bất Giới hòa thượng lo mưu thiết kế. Không chừng lão sẽ hội đồng cùng bọn Đào cốc lục tiên tới đây. Hỡi ơi! Bảy lão này chỉ làm trò rối là hay, chứ chẳng nên được việc gì. Dù sao có người đến cứu vẫn hơn chắng có ai dòm ngó gì tới mình.
Nghĩ tới Đào cốc lục tiên mồm năm miệng mười lý sự với nhau, Lệnh Hồ Xung không nhịn được bất giác bật tiếng cười khà khà.
Khi cùng ở với sáu anh em bọn họ, chàng không khỏi ý khinh nhờn, nhưng bây giờ chàng lại tiếc rẻ không có bọn họ bầu bạn ở chốn lao tù này. Ngày trước chàng cho những lời nói của họ là kỳ quái chẳng ăn nhằm gì thì lúc này chàng hồi tưởng lại dường như đó là những khúc tiên nhạc du dương.
Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ hồi lâu rồi ngủ thiếp đi.
Chàng ở trong hắc lao không biết ngày giờ, bỗng thấy lờ mờ có ánh sáng từ chỗ lỗ vuông rọi vào.
Chàng mừng rỡ vô cùng ngồi bật dậy, trống ngực đánh thình thình, tự hỏi:
– Không biết ai vào cứu mình đây?
Nhưng nỗi vui mừng chẳng đươc mấy chốc. Chàng nghe tiếng bước chân chậm chạp, trầm trọng.
Hiển nhiên là lão già đưa cơm.
Lệnh Hồ Xung ngồi thừ ra lớn tiếng la:
– Kêu bốn tên chó chết đó vào đây, thử xem bọn chúng còn dám ngó mặt ta nữa không?
Tiếng bước chân mỗi lúc một gần. ánh sáng đèn tỏ hơn. Tiếp theo là cái khay gỗ từ ngoài lỗ vuông đưa vào. Trên khay vẫn đặt một bát cơm và một cái bình sành.
Lão già kia chẳng nói năng gì cứ chìa khay vào để chờ Lệnh Hồ Xung đón lấy.
Lệnh Hồ Xung đói đã lả người, khát đã khô cổ, cơ hồ không nhẫn nại được nữa. Chàng ngần ngừ một chút rồi đón lấy khay gỗ đem vào.
Lão già buông tay xong trở gót đi ngay.
Lệnh Hồ Xung gọi giật giọng:
– Này này! Lão hãy dừng bước để ta hỏi đã!
Lão già vẫn không để ý gì đến chàng, vẫn lặng lẽ lủi thủi cất bước. Tiếng bước chân ỳ ạch mỗi lúc một xạ ánh đèn cũng mất hút.
Lệnh Hồ Xung càu nhàu mấy câu rồi giơ bình sành lên ghé miệng vào vòi bình mà uống một hơi.
Nước bình vừa trong vừa mát chàng khỏi khát rồi mới ăn cơm. Trên mặt bát cơm có mấy thức ăn.
Tuy trong bóng tối chàng cũng phân biệt được đó là rau dưa cùng đậu hũ.
Lệnh Hồ Xung ở trong hắc lao đã bảy tám ngày. Mỗi ngày lão già kia đưa cơm vào một lần, đồng thời để đón lấy đũa bát cùng bình sành bữa trước. Bất luận Lệnh Hồ Xung nói gì lão vẫn trơ trơ, tuyệt không lộ vẻ gì mới la…
Không hiểu đến ngày thứ mấy, Lệnh Hồ Xung vừa thấy ánh đèn lấp lóe liền nhảy xổ lại lỗ vuông.
Chàng nắm lấy khay gỗ la hỏi:
– Tại sao lão không nói với ta một câu nào? Lão có nghe thấy ta hỏi gì không?
Lúc này hai người đứng gần nhau. Lão già thấy vậy không khỏi giật mình kinh hãi. Lệnh Hồ Xung ngó thấy cặp mắt lão trắng dã, nhãn quang trì trệ, hiển nhiên là một người đui mù.
Lão già vừa trỏ tay vào lỗ tai vừa lắc đầu tỏ ra điếc. Lão lại há hốc miệng cho chàng coi.
Lệnh Hồ Xung nhòm vào, kinh ngạc đến thộn mặt ra vì ngọn lưỡi trong miệng lão chỉ còn một nửa coi rất khủng khiếp.
Chàng “ối” lên một tiếng rồi hỏi:
– Đầu lưỡi lão bị người cắt đi ư? Phải chăng bọn Mai trang tứ cẩu đã hạ độc thủ.
Lão già kia vẫn không trả lời, từ từ đưa khay gỗ vào. Hiển nhiên lão không nghe rõ Lệnh Hồ Xung nói gì. Dù lão có nghe thấy chăng nữa cũng không thể trả lời được.
Lệnh Hồ Xung trong lòng khiếp sợ. Chàng chờ cho lão đi ra rồi mới tĩnh tâm ngồi xuống ăn cơm.
Lão già bị cắt nửa lưỡi lại hiển hiện re trong đầu óc chàng. Chàng nằm duỗi dài trên giường ngấm ngầm phát trọng thệ:
– Bọn Giang nam tứ cẩu thật là khả ố! Lệnh Hồ Xung này chung thân bị cầm tù chẳng nói làm chi, nếu còn có ngày thoát khỏi chốn lao lung thì việc đầu tiên là phải cắt đứt đầu lưỡi, dùi thủng lỗ tai, đâm mù hai mắt những tên chó chết đó…
Đột nhiên trong đầu óc lóe ra một tia sáng, chàng la thầm:
– A phải rồi! Tại sao bọn chúng lại ám toán mình thế này? Phải chăng bọn ho… bọn ho…
Chàng sực nhớ tới đêm khuya hôm đó chàng đã dùng trường kiếm đâm đui mắt 15 tên hán tử tại miếu Dược Vương. Lai lịch bọn này thế nào chàng vẫn chưa haỵ Chàng tự hỏi:
– Chẳng lẽ bọn chúng cầm tù ta ở đây để trả mối thù bữa trước.
Lệnh Hồ Xung nghĩ tới đây không nhịn được nữa, buông tiếng thở dài sườn sượt. Những oán khí chứa chất trong lòng chàng bấy nhiêu ngày lập tức vơi quá nửa.
Chàng tự nhủ:
– Ta đã đâm mù mắt 15 người thì họ bày kế trả thù cũng là xứng đáng.
Khí phẫn uất lắng xuống. Lệnh Hồ Xung trải qua những ngày tù ngục một cách d dàng hơn.
– trong ngục tối bất phân nhật dạ. Lệnh Hồ Xung không hiểu mình bị cầm tù đã bao lâu. Chàng cảm thấy mỗi ngày nhiệt độ một nóng hơn thì chắc là mùa hạ đã tới.
Gian nhà tù nhỏ bé không có một luồng gió thổi qua, tình trạng ẩm ướt nóng nảy rất là khó chịu.
Một hôm trời nóng quá chịu không nổi, Lệnh Hồ Xung cởi bỏ hết quần áo để mình trần truồng nằm ngủ trên giường.
|
Nghĩ thâm mưu gạt kẽ thâm mưu
Vì chân tay bị trói bằng xích sắt, nên quần áo cởi ra mà không sao trút đi được, Lệnh Hồ Xung đành cuộn áo đưa lên cổ, còn quần tụt xuống bắp chân. Chàng lại lột cả tấm chiếu rách trải trên tấm thép rám lên nữa. Con người trần truồng nằm xuống thiết bản liền cảm thấy mát lạnh. Mồ hôi dần dần mất hết rồi chàng ngủ đi lúc nào không biết.
Lệnh Hồ Xung ngũ được một lúc, chỗ nằm lại nóng lên. Nửa tỉnh nửa mê, chàng xích người ra chỗ khác cho mát mình. Tay trái chàng dán xuống tấm thiết bản in thành vết ngang dọc, nhưng lúc này chàng ngái ngủ, nên chẳng buồn để ý tới.
Sau khi đánh một giấc ngủ ngon lành, Lệnh Hồ Xung tỉnh dậy cảm thấy trong lòng khoan khoái tinh thần phấn chấn.
Chẳng mấy chốc, lão già mỗi ngày lại đưa cơm tới. Lệnh Hồ Xung rất cảm tình với lão. Mỗi lần lão đưa khay gỗ qua lỗ hổng, chàng lại nắm lấy bàn tay lão, hoặc khẽ vỗ vào vai mấy cái để tỏ lòng cảm ơn lão.
Lần này cũng vậy, chàng đón lấy chiếc khay gỗ rồi rụt tay về, đột nhiên chàng nhìn vào lưng bàn tay mình dưới ánh đèn le lói mà cũng rõ bốn chữ nổi lên. Chàng coi kỹ lại là 4 chữ: “Nhậm Ngã Hành bị tù”.
Lệnh Hồ Xung rất lấy làm kỳ. Chàng không sao hiểu được bốn chữ này ở đâu mà rả Chàng trầm ngâm một lúc rồi hấp tấp đặt cái khay xuống, lấy tay sờ mó trên mặt tấm thiết bản.
Nguyên trên mặt tấm thiết bản này đầy từ tích dầy chi chít không biết bao nhiêu là chữ.
Chàng liền vỡ lẽ ngay tấm thiết bản đã khắc chữ từ trước vì bấy lâu nay vẫn trải chiếu lên nên chàng không phát giác ra được. Đêm qua trời nóng quá, chàng nằm lõa thể trên thiết bản, nên những chữ này mới in vào lưng bàn tay.
Lệnh Hồ Xung lại xoay sờ từ trên lưng xuống đến mông đít, bất giác chàng phải phì cười vì khắp mình chỗ nào cũng lồi lên những chữ lớn bằng đồng tiền một in vào rất sâu. Xem chừng tự tích này dường như đã khắc một cách vội vàng.
Lão đưa cơm đi đã xa rồi, Lệnh Hồ Xung trong lòng nóng nảy muốn khám phá cho ra vụ này, chàng không kịp ngồi ăn cơm nữa chỉ uống mấy ngụm nước rồi đưa tay sờ lần những tự tích từ đầu tấm thiết bản. H chàng mò được chữ nào lại đọc chữ ấy lên rồi chắp lại thành những câu:
– “Bình sinh lão phu thích chuyện đền ân trả oán, giết người như ngóe. Nay có bị giam cầm cũng là một chuyện quả báo xứng đáng… Có điều lão phu Nhậm Ngã Hành bị tù… ”
Chàng đọc tới đây liền lẩm bẩm:
– Té ra bốn chữ “Ngã Hàng bị tù” ở lưng bàn tay ta mà nổi lên là vì ta đã đặt bàn tay vào chỗ này.
Lệnh Hồ Xung tiếp tục đọc những tự tích như sau:
– “… Ở đây thì cả một bản lãnh nghiêng trời lệch đất cũng theo nắm xương khô của lão phu mà mai một… Bọn tiểu tử hậu thế không biết đến tài ba của lão phu thì thật là một điều đáng tiếc”.
Lệnh Hồ Xung dừng tay lại ngẩng đầu lên lẩm bẩm:
– Lão phu Nhậm Ngã Hành, Lão phu Nhậm Ngã Hành! Người khắc chữ đây tên là Nhậm Ngã Hành rồi. Vậy lão Nhậm ở đây có liên can gì với Nhậm lão tiền bối không?
Rồi chàng lại tự hỏi:
– Chẳng hiểu địa lao này kiến thiết đã bao lâu? Có khi người khắc chữ đây qua đời đã mấy chục hay mấy trăm năm cũng chưa biết chừng.
Lệnh Hồ Xung tiếp tục sờ xuống dưới thấy khắc những chữ:
– “Nay lão phu đem những yếu quyết về thần công viết vào đây để bọn tiểu tử hậu thế có kẻ nào luyện tập được là có thể tung hoành thiên hạ thì lão phu chết đi thanh danh cũng không hủ nát”.
“Chương thứ nhất: Nói về tọa công… ”
Phía dưới khắc toàn phương pháp điều khí hành công.
Lệnh Hồ Xung sau khi luyện “Độc cô cửu kiếm” rồi, trong các môn võ chàng chỉ thích kiếm pháp.
Hơn nữa trong người chàng đã mất hết nội lực nên vừa sờ đến hai chữ “tọa công” liền sinh lòng chán nản.
Chàng chỉ còn mong dưới nữa sẽ có khắc một môn kiếm pháp kỳ diệu nào thì dù ở trong ngục tối chàng cũng nghiên cứu rèn luyện được. Hy vọng thoát khỏi chốn lao lung ngày càng mờ mịt, nhất là ngồi trong lao tù không tìm chuyện gì làm cho có việc thì lấy chi để giết thì giờ?
Nhưng chàng sờ thấy những tự tích toàn là yếu quyết về nội công như cách thở hút, thúc đẩy chân khí từ huyệt Đan điền chuyển vào những Nhâm mạch, Kim tỉnh…
Lệnh Hồ Xung tiếp tục sờ cho đến hết tấm thiết bản mà chàng chẳng thấy một chữ “kiếm” nào khiến chàng thất vọng vô cùng miệng lẩm bẩm:
– Lão nói những gì bản lãnh ngiêng trời lệch đất há chẳng làm trò cười với ta ư? Bất cứ võ công gì cũng tốt, nhưng về nội công ta không thể luyện được vì mỗi lần đề khí là khí huyết trong người lại nhộn nhạo cả lên. Nếu ta luyện nội công tức là tự rước lấy cái khổ vào mình.
Bất giác chàng buông tiếng thở dài vừa bưng chén cơm lên ăn vừa nghĩ bụng:
– Không hiểu Nhậm Ngã Hành là nhân vật thế nào? Khẩu khí lão lớn quá. Nói những gì “nghiêng trời lệch đất”, ‘tung hoành thiên hạ”, dường như trên đời không còn ai địch nổi. Té ra căn địa lao này chuyên cầm tù những tay cao thủ về võ học.
Lúc ban đầu khám phá ra tụ tích trên tấm thiết bản, Lệnh Hồ Xung trong lòng phấn khởi vô cùng.
Sau chàng sờ những văn tự dầy chi chít chỉ nói về phép tụ nội công, chà lại buồn thiu than thầm:
-Trời xanh khéo trêu người! chẳng thà ta chẳng tìm ra sự tích này còn hơn.
Rồi chàng tự hỏi:
– Nếu Nhậm Ngã Hành quả có bản lãnh đúng như lời khắc trên thiết bản thì võ công lão phải xuất quỉ nhập thần mà sao vẫn bị cầm tù ở đây không tài nào thoát ra được? Như vậy đủ tỏ địa lao này kiên cố vô cùng, dù ai có bản lãnh thông thần mà đã bị nhốt vào đây thì chỉ còn đường chờ chết.
Chàng liền phế bỏ những văn tự trên thiết bản không nghĩ gì tới nữa.
Về mùa viêm nhiệt, toàn thành Hàng châu nóng như lò lửa. Địa lao này ở dưới đáy hồ, không chịu ánh nắng mặt trời đáng lý mát mẻ mới phải…
Nhưng một là không thông hơi, hai là ẩm thấp vô cùng, nên người ở trong này bực bội khó chịu.
Lệnh Hồ Xung ngày nào cũng trần truồng nằm trên thiết bản. H buồn tay lại mân mê sờ chữ. Bất giác chàng đã thuộc lòng được khá nhiều.
Một hôm chàng nằm trên giường chợt nhớ tới môn phái tự hỏi:
– Không hiểu sư phụ, sư nương, tiểu sư muội bây giờ ở đâu? Đã trở về núi Hoa Sơn chưa?
Bỗng nghe đằng xa có tiếng bước chân vọng lại. Tiếng động này vừa nhẹ vừa mau, khác hẳn với cước bộ của lão già đưa cơm mọi khi.
Lệnh Hồ Xung ở trong hắc lao lâu ngày chàng không mong mỏi gì có người đến cứu nữa. Tiếng bước chân người lạ đột ngột này không khỏi khiến chàng vừa kinh ngạc vừa mừng thầm. Chàng muốn nhảy xổ ra, song toàn thân bất lực. Chàng đành nằm yên trên giường không nhúc nhích.
Tiếng bước chân rất mau đã đến ngoài cửa sắt. Tiếp theo là tiếng kẹt mở lỗ vuông. Lệnh Hồ Xung ngưng thần nín hơi không phát ra nửa tiếng động.
Bỗng nghe người ngoài cửa lên tiếng:
– Nhậm huynh! Mấy bữa nay trời nóng quá. Trong mình Nhậm huynh có dễ chịu không?
Tiếng nói vừa lọt vào tai Lệnh Hồ Xung đã nhận ra ngay là thanh âm Hắc Bạch Tử. Giả tỷ lão nầy tới đây trước một tháng thì Lệnh Hồ Xung tất nhiên đã ngoác miệng ra mà thóa mạ. Bao nhiêu từ ngữ độc ác thô tục chàng tuôn ra hết cho hả giận. Nhưng trải qua một thời gian bị cầm tù khá lâu, lửa phẫn hận đã giảm đi nhiều. Chàng bình tĩnh tự hỏi:
– Sao hắn lại kêu ta bằng Nhậm huynh? Phải chăng hắn đã kiếm lầm nhà lao?
Chàng vẫn lẳng lặng không lên tiếng.
Hắc Bạch Tử lại nói:
– Chỉ vì một câu nói mà cứ hai tháng tiểu đệ lại tới đây hỏi Nhậm huynh một lần. Bữa nay là mồng một tháng bảy. Tiểu đệ hỏi Nhậm huynh về câu đó Nhậm huynh có chịu hay là không chịu?
Lệnh Hồ Xung cười thầm trong bụng tự nhủ:
– Quả nhiên cha này đến lầm phòng rồi. Hắn tưởng chỗ giam mình đây là phòng giam Nhậm lão tiền bối. Sao lại có con người hồ đồ đến thế được?
Nhưng rồi chàng giựt mình tự nghĩ:
– Trong bốn tên trang chúa ở Mai trang, hiển nhiên Hắc Bạch Tử là người tinh tế hơn hết. Bảo Ngốc Bút ông hoặc Đan Thanh tiên sinh đến lầm phòng thì còn có thể, chứ Hắc Bạch Tử cẩn thận như vậy khi nào còn lầm được? Trong vụ này tất có duyên cớ.
Nghĩ vậy chàng liền kín tiếng.
Bỗng nghe Hắc Bạch Tử lại hỏi:
– Nhậm huynh ơi! Một đời được mấy anh hùng như Nhậm huynh? Tội gì mà để mình hủ nát với đất bùn trong chốn lao tù? Tiểu đệ nói lời coi nặng bằng non. Chỉ cầu Nhậm huynh ưng chịu việc đó là tiểu đệ sẽ giúp Nhậm huynh thoát vòng tù tội.
Lệnh Hồ Xung trống ngực đánh thình thình. Bao nhiêu ý nghĩ xoay chuyển trong đầu óc mà không tìm ra được manh mối. Chàng không hiểu Hắc Bạch Tử nói những câu đó với chàng có dụng ý gì?
Tiếng Hắc Bạch Tử bên ngoài lại vọng lên:
– Nhậm huynh có chịu không?
Lệnh Hồ Xung cảm thấy có cơ hội trốn thoát. Chàng bất chấp đối phương có thâm ý gì thì thoát khỏi vòng tù ngục vẫn còn hơn cảnh bị giam cầm sống dở chết dở. Nhưng chàng không tài nào mò ra được dụng ý của đối phương và chỉ sợ nói lỡ một lời là hư mất cơ hội hiếm có, chàng đành im tiếng không trả lời.
Hắc Bạch Tử lại thở dài hỏi:
– Nhậm huynh ơi! Vì lẽ gì mà Nhậm huynh không lên tiếng? Lần trước tiểu đệ đưa thằng lỏi họ Phong đến tỷ kiếm với Nhậm huynh. Trước mặt ba người anh em của tiểu đệ mà Nhậm huynh không nhắc tới vấn đề tiểu đệ đã nói với Nhậm huynh đủ khiến cho tiểu đệ rất đem lòng cảm tạ. Tiểu đê.
nghĩ rằng cuộc tỷ kiếm vừa qua đã làm cho hào khí trong lòng Nhậm huynh trỗi dậy. Nhậm huynh ra khỏi chốn hắc lao, ngoài kia là vòm trời bát ngát. Bất kể nam nữ lão ấu khắp thiên hạ, Nhậm huynh muốn giết ai thì giết, chẳng một người nào dám kháng cự lại. Như vậy há chẳng khoan khoái ư? Nhậm
huynh ưng chịu việc đó chẳng thiệt hại mảy may gì cho mình mà tại sao đã hơn 12 năm nay, Nhậm huynh vẫn không chịu ưng thuận.
Lệnh Hồ Xung nghe giọng Hắc Bạch Tử ra chiều rất thành khẩn dường như hắn tưởng chàng là lão Nhậm thật sự trong lòng không khỏi động mối hoài nghi.
Bỗng nghe Hắc Bạch Tử ở bên ngoài lại lên tiếng. Hắn vẫn quanh đi quẩn lại thỉnh cầu lão Nhậm chấp thuận đề nghị của hắn.
Lệnh Hồ Xung không hiểu Hắc Bạch Tử năn nỉ điều gì, chàng nóng biết rõ nội vụ, song lại sợ mình mở miệng lên tiếng là hỏng việc ngay tức khắc, chàng đành lẳng lặng không dám mở môi.
Hắc Bạch Tử thở dài nói:
– Nhậm huynh đã cố chấp như vậy, tiểu đệ đành lui về chờ hai tháng sau lại tới.
Đoạn hắn nổi lên mấy tiếng cười nhè nhẹ nói:
– Lần này Nhậm huynh không buông lời thóa mạ, xem chừng trong lòng đã có cơ chuyển động.
Xin để Nhậm huynh nghĩ kỷ trong hai tháng nữa.
Hắc Bạch Tử dứt lời trở gót bước đi.
Lệnh Hồ Xung nổi dạ bồn chồn chàng tính thầm:
– Để hắn ra đi hai tháng mới trở lại mà mình ở trong hắn ngục một ngày đằng đẵng xem không bằng ba thu thì quãng thời gian hai tháng biết bao giờ cho hết?
Chàng thấy Hắc Bạch Tử đi mấy bước rồi lập tức cất giọng ồm ồm và hạ thấp xuống hỏi:
– Ngươi… cầu ta đến chấp thuận điều chi?
Hắc Bạch Tử vừa nghe tiếng đã quay phắt trở lại nhảy vọt tới trước lỗ vuông mau lẹ như chim baỵ Hắn hỏi lại bằng giọng cấp bách:
– Nhậm huynh! Nhậm huynh chấp nhận rồi chăng?
Lệnh Hồ Xung quay mặt vào tường đưa tay lên che miệng cho lạc giọng đi, hàm hồ hỏi lại:
– Chấp thuận điều chi?
Hắc Bạch Tử nói:
– Trời ơi! Mười hai năm nay mỗi năm tại hạ sáu lần mạo hiểm tới đây để năn nỉ Nhậm huynh điều đó. Nhậm huynh đã thừa hiểu sao còn hỏi lại.
Lệnh Hồ Xung đằng hắng giọng một tiếng, uể oải đáp:
– Ta quên sạch cả rồi.
Hắc Bạch Tử nói:
– Tại hạ thỉnh cầu Nhậm huynh đem bí quyết về đại pháp kia truyền thụ chọ Sau khi tại hạ luyện thành, lập tức sẽ thả Nhậm huynh ra.
Lệnh Hồ Xung tự hỏi:
– Có thật là hắn nhận nhầm ta là Nhậm tiền bối không? Hay hắn còn có âm mưu ngụy kế gì khác?
Trong lúc nhất thời chàng chưa thể hiểu được chân ý của Hắc Bạch Tử đành nói mấy câu ấm ớ.
Chính chàng cũng chẳng hiểu là mình nói gì dĩ nhiên Hắc Bạch Tử còn nghe rõ thế nào được? Hắn hỏi dồn:
– Nhậm huynh có ưng thuận chăng? Nhậm huynh có ưng thuận chăng?
Lệnh Hồ Xung vẫn giữ giọng ồm ồm nhưng ra vẻ hững hờ đáp:
– Ngươi là kẻ nói không giữ lời, đừng hòng ta mắc bẫy.
Hắc Bạch Tử nói:
– Nhậm huynh muốn tại hạ bảo chứng bằng cách nào mới chịu tin lòng?
Lệnh Hồ Xung hàm hồ đáp:
– Cái đó ta để tự ngươi nói ra hay hơn.
Hắc Bạch Tử nói:
– Chắc Nhậm huynh chỉ băn khoăn về vấn đề sau khi truyền thụ đại pháp cho tại hạ rồi, tại hạ nuốt lời không chịu buông thạ Có phải vậy không? Về điều này tại hạ nhất định có cách xếp đặt để Nhậm huynh tin cậy là xong.
Lệnh Hồ Xung lạnh lùng hỏi:
– Xếp đặt thế nào?
Hắc Bạch Tử hỏi lại:
– Nhậm huynh cho hay có chấp thuận không đã.
Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ trong đầu óc thật mau:
– Hắn năn nỉ ta truyền thụ bí quyết về đại pháp nào đó, nhưng ta có bí quyết gì đâu thì biết lấy chi mà truyền thụ? Nhưng ta hãy thử nghe xem hắn an bài cách nào. Nếu hắn thiệt tình có thể buông tha ta thì âu là ta đọc bí quyết khắc trên tấm thiết bản này cho hắn nghe. Bất luận cái đó hữu dụng hay là vô dụng, ta hãy lừa cho hắn xuôi rồi sẽ tính.
Hắc Bạch Tử chờ khá lâu không thấy tiếng đáp lại liền nói tiếp:
– Nhậm huynh mà đem phương pháp đó truyền thụ cho tại hạ rồi thì dĩ nhiên tại hạ đã thành một đệ tử dưới trướng. Trong quí giáo những kẻ đệ tử lừa thấy diệt tổ trước nay phải chịu trọng hình lột da lăng trì cả mấy trăm năm không một ai trốn thoát. Một khi tại hạ đã thành đệ tử của Nhậm huynh
khi nào còn dám giam giữ sư phụ mà không buông tha?
Lệnh Hồ Xung hắng hắng giọng một tiếng hững hờ đáp:
– Té ra cách an bài của ngươi là thế.
Hắc Bạch Tử nói:
– Như vậy Nhậm huynh chấp thuận rồi chăng?
Giọng nói của hắn lộ vẻ vừa kinh ngạc vừa vui mừng.
Lệnh Hồ Xung thủng thẳng nói:
– Sau đây ba ngày ta sẽ trả lời.
Hắc Bạch Tử hỏi:
– Nhậm huynh đã chấp thuận là xong, tội gì còn ở trong hắc lao thêm ba ngày nữa?
Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:
– Thằng cha này còn nóng nảy hơn tạ Ta cứ trùng trình lại ba ngày để xem hắn còn ngụy kế gì chăng?
Rồi chàng “hứ” một tiếng ra chiều phẫn nộ.
Hắc Bạch Tử vội nói:
– Dạ dạ! Vậy ba ngày nữa vãn bối sẽ trở lại thỉnh giáo “lão nhân gia”.
Hắn không kêu bằng Nhậm huynh mà lại gọi “lão nhân gia” tỏ ý nhận định đối phương đã chấp thuận thu hắn làm đệ tử.
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng chân Hắc Bạch Tử đi rồi và ba tầng cổng đã đóng chặt, trong lòng chàng những làn sóng tư tưởng nổi lên dồn dập. Chàng tự hỏi:
– Chẳng lẽ hắn nhận nhầm ta là Nhậm tiền bối thật ư? Thằng cha này tâm tư rất cẩn mật làm sao có cái lầm to tát đến thế?
Đột nhiên chàng nghĩ ra điều gì, liền bụng bảo dạ:
– Hay là Hoàng Chung Công đã dò biết chuyện bí mật của hắn, ngấm ngầm đem Nhậm tiền bối đi giam chỗ khác rồi nhốt mình vào đây Đúng rồi! Mười hai năm trời Hắc Bạch Tử cứ cách hai tháng lại đến đây một lần thì hành tung của hắn rất có thể bị phát giác. Vụ này nhất định Hoàng Chung Công ngấm ngầm bố trí cạm bẫy.
Lệnh Hồ Xung chợt nhớ tới Hắc Bạch Tử đã nói một câu: “Những đệ tử trong quí giáo lừa thầy diệt tổ trước nay đều bị trọng hình lột da lăng trì, đã mấy trăn năm chẳng một ai chốn thoát”.
Chàng tự hỏi:
– Hắn nói “quí giáo” là giáo phái nào? Chẳng lẽ lại là Ma giáo? Phải chăng Nhậm tiền bối cũng người trong Ma giáo? Hỡi ôi! Dù lão có ở Ma giáo thì đã sao? Trong Ma giáo thiếu gì hảo nhân. Khúc Dương trưởng lão là người Ma giáo, cả Hướng đại ca ra cũng là người Ma giáo đấy thôi?
Vấn đề Ma giáo hay không chỉ thoáng qua trong đầu óc, rồi chàng gác qua một bên chẳng cần nghĩ tới nữa. Chàng chỉ xoay sở trong hai vấn đề: Hắc Bạch Tử hành động chân thật hay giả trá?
Sau ba ngày hắn trở lại đây mình sẽ trả lời hắn ra sao?
Suốt một ngày đầu Lệnh Hồ Xung suy lui nghĩ tới bao nhiêu vấn đề cổ quái tưởng đến vỡ đầu cũng không quyết đoán được hành động của Hắc Bạch Tử là chân hay giả. Sau chàng mệt quá ngủ thiếp đi.
Lúc tỉnh dậy, Lệnh Hồ Xung nghĩ ngay tới:
– Giả tỷ có Hướng đại ca ở đây, y là người biết nhiều hiểu rộng thì chỉ trong khoảnh khắc là đoán được ngay dụng ý của Hắc Bạch Tử. Đến Nhậm tiền bối trí tuệ lại càng cao, hiển nhiên hơn cả Hướng đại ca… Trời ơi!…
Chàng buột miệng kêu lên một tiếng rồi đứng phắt dậy. Sau một giấc ngủ ngon đầu óc Lệnh Hồ Xung rất tỉnh táo, chàng nghĩ thầm :
– Mười hai năm trời Nhậm lão tiền bối thủy chung không chịu chấp thuận lời thỉnh cầu của Hắc Bạch Tử thì dĩ nhiên vụ này có chỗ Nhậm tiền bối không chấp thuận được. Nhậm lão tiền bối là một nhân vật như vậy có lý nào lại không tính bề lợi hại?
Nhưng sau chàng lại nghĩ:
– Nhậm lão tiền bối không chấp thuận là việc riêng của tiền bối. Ta không phải là Nhậm tiền bối thì sao lại không được?
Trong thâm tâm Lệnh Hồ Xung vẫn nhận thấy vụ này khó ổn vì trung gian còn có những mối nguy hiểm rất lớn. Nhưng lòng chàng lại tha thiết muốn thoát khỏi chốn lao lung, chỉ mong có cơ hội là hành động, bất chấp hiểm họa gì chàng cũng chẳng để tâm.
Rồi chàng quyết định chủ ý:
– Sau ba ngày Hắc Bạch Tử trở lại, ta ưng chịu lời thỉnh cầu của hắn. Ta đem những bí quyết về luyện khí trên mặt tấm thiết bản truyền thụ cho hắn, xem thế nào rồi sẽ tùy cơ ứng biến là xong.
Chàng liền sờ mó lại tự tích học cho thuộc rồi tự nhủ:
– Mình phải thuộc lòng để lúc đọc cho hắn trơn như nước hắn mới khỏi nghi ngờ. Có điều khẩu âm của mình khắc hẳn Nhậm lão tiền bối, vậy mình phải hạ thấp giọng xuống và nói tiếng ồm ồm. Phải rồi!
Ta cả tiếng kêu là trong hai ngày cho thành giọng khàn rồi lúc đó biến thêm cho thành hàm hồ thì hắn không thể phát giác ra được.
Lệnh Hồ Xung đọc khẩu quyết một hồi rồi lớn tiếng la hét một lúc.
Hắc lao này ở sâu dưới lòng đất cách bao nhiêu tầng cửa ngõ trùng điệp thì dù nổ pháo lớn ở đây, bên ngoài cũng không nghe thấy chút gì. Lệnh Hồ Xung biết rõ mình có la rầm trời cũng nhất định chẳng ai nghe thấy.
Chàng liền gân cổ lên, lớn tiếng thóa mạ bọn Giang Nam tứ hữu. Thóa mạ một hồi lại hát xướng om sòm. Chàng hát cho đến lúc tự mình nghe cũng chói tai. Bất giác chàng nổi lên tràng cười rộ rồi quay vào học khẩu quyết trên thiết bản…
Bỗng chàng đọc tới câu: “Huyệt Đan điền như cái rương trống rỗng nó lại giống hang sâu. Rương rỗng có thể đựng đồ, hang sâu có thể chứa nước. Nếu có nội tức thì phải tán ra những huyệt ở Nhâm mạch”. Mấy câu này chàng đã sờ qua mấy lần nhưng trước kia trong lòng vốn chán ghét phương pháp luyện khí, nên để chữ qua tay, chẳng buồn ngẫm nghĩ tới hàm ý bên trong.
Bây giờ chàng rất lấy làm kỳ tự hỏi:
– Trước kia sư phụ dạy ta tu luyện nội công: Nguyên tắc căn bản là phải ngưng tụ chân khí đầy rẫy trong huyệt Đan điền. Nội tức ở huyệt Đan điền đầy rẫy chừng nào thì nội lực thâm hậu chừng ấy mà sao khẩu quyết ở đây lại bảo để huyệt Đan điền trống rỗng không nên giữ lại mảy may nội tức? Trong huyệt Đan điền đã không nội tức thì nội lực ở đâu mà rả Bất luận phép luyện nội công nào cũng đều thế cả, chẳng lẽ phương pháp này chỉ để làm trò cười? Hà hà! Hắc Bạch Tử là quân đê tiện bất nhân ta đem môn pháp này truyền cho hắn để hắn mắc bẫy một phen càng tốt.
Chàng vừa mò chữ trên thiết bản vừa suy luận ý nghĩa thì chỉ thấy mấy trăm chữ này toàn dậy người ta cách tấn công thế nào, hóa giải nội lực ra sao?
Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng kinh hãi tự hỏi:
– Trong thiên hạ làm gì có hạng người ngu ngốc đem nội lực suốt đời khổ công luyện thành hóa giải đi bao giờ? Trừ phi họ quyết ý tự tử. Nếu muốn tự tử thì chỉ cần cầm kiếm đâm cổ một cái là xong, hà tất phải hóa tán nội lực cho mất công? Huống chi công việc này so với tích tụ nội công còn khó khăn
hơn thì luyện nó để làm gì?
Nghĩ tới đây, chàng không khỏi chán phèo, lẩm bẩm:
– Hắc Bạch Tử mà nghe ta đọc khẩu quyết này liền biết ngay ta đùa giỡn hắn. Khi nào hắn chịu mắc bẫy! Xem chừng kế hoạch đó không thông mất rồi.
Hồi 120
Lệnh Hồ Xung tính kế lừa địch
Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng phiền não trong lòng. Miệng chàng không ngớt nhẩm đi nhẩm lại những khẩu quyết:
– Bao nhiêu chân khí trong huyệt Đan điền phải hóa tán vào Nhâm mạch, như cây trúc rỗng ruột, như hang thẳm trống không…
Chàng ngẫm nghĩ một hồi rồi tức quá đập giường chửi bới:
– Con mẹ nó! Cha này giam trong hắc lao lửa giận không tiêu tan ra được rồi bày ra ngụy kế để cạm bẫy kẻ khác.
Chàng thóa mạ một hồi rồi ngủ thiếp đi.
Trong lúc ngủ say Lệnh Hồ Xung vẫn mơ thấy mình ngồi trên giường luyện công theo những khẩu quyết trong thiết bản. Thế rồi chân khí trong huyệt Đan điền tan vào Nhâm mạch. Chàng phát giác ra một luồng nội tức từ từ di chuyển vào Nhâm mạch. Khắp chân tay mình mảy liền cảm thấy khoan khoái không bút nào tả xiết.
Sau một lúc, Lệnh Hồ Xung mơ màng nửa tỉnh nửa mê, tựa hồ thức giấc mà không phải đã tỉnh hẳn, chàng cảm thấy luồng nội tức ở huyệt Đan điền vẫn còn chuyển động trút vào Nhâm mạch. Đột nhiên chàng chấn động tâm thần bật tiếng la:
– Trời ơi! Nguy to rồi! Nội lực của ta không ngớt tan đi như thế này há chẳng biến thành phế nhân trong chớp mắt?
Chàng ngồi bật dậy như cái lò xọ Luồng nội tức từ trong Nhâm mạch chuyển về huyệt Đan điền.
Chàng liền cảm thấy khí huyết nhộn nhạo, đầu nhức mắt hoa.
Hồi lâu lâu lắm, Lệnh Hồ Xung mới trấn tĩnh lại được. Chàng chợt nghĩ ra điều gì bất giác vừa kinh hãi vừa mừng thầm tự nhủ:
– Sở dĩ thương thế ta trầm trọng khó bề chữa khỏi là hoàn toàn vì lý do những luồng chân khí khác biệt của Đào cốc lục tiên cùng Bất Giới hòa thượng chứa chất trong người tạ Thậm chí bậc danh y lừng lẫy tiếng tăm như Bình Nhất Chỉ đại phu cũng đành chịu bó tay vô phương cứu trị. Phương
Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm lại bảo ta chỉ còn biện pháp duy nhất là nghiêm luyện Dịch Cân Kinh mới có thể dần dần hóa tán được những luồng chân khí khác biệt kia. Thế mà trên tấm thiết bản này lại khắc những yếu quyết tán công, há chẳng là dạy ta cách hóa tán nội lực trong mình ư? A ha! Ha ha! Lệnh Hồ Xung ơi! Mi thật là ngu ngốc hết chỗ nói! Kẻ khác sợ nội lực tiên tan đã đành, còn mi trái lại chỉ sợ nội lực không tiêu tan đi được mà thôi. Đã có diệu pháp này để mi tu luyện còn chưa phải là một điều đáng mừng cho mi ư?
Vừa rồi chàng luyện công trong lúc mơ màng đó là hiện trạng ngày nghĩ chuyện gì đêm ngủ mơ màng chuyện đó. Lúc tỉnh táo chàng không ngớt lẩm nhẩm khẩu quyết nên trong đầu óc chàng cũng tâm niệm đến phép luyện công khắc trên tấm thiết bản.
Chàng ngủ đi rồi không biết gì nữa mà vẫn theo phép luyện công. Có điều trong lúc mơ mộng, tâm thần rối loạn chứ không thể chiếu pháp môn mà luyện cho hoàn toàn đúng được.
Bây giờ Lệnh Hồ Xung phấn khởi tinh thần, chàng bắt đầu sờ mò lại khẩu quyết suy xét cho tinh vi, rồi mới ngồi xếp bằng theo thứ tự luyện tập.
Chàng luyện chừng một giờ liền cảm thấy những luồng chân khí dị chủng mất hết trong huyệt Đan điền đã tan vào Nhâm mạch được một phần. Tuy chàng chưa khu trục hẳn được những luồng chân khí kia ra ngoài thân thể, nhưng cái đau khổ vì khí huyết nhộn nhạo đã giảm đi phần lớn.
Lệnh Hồ Xung mừng quá đứng dậy hát nghêu ngao, nhưng tiếng hát ấm ớ chói tai, vì hôm trước chàng la hét cả một ngày cho âm thanh khàn khàn.
Thấy mình đã thu lượm được công hiệu, Lệnh Hồ Xung bất giác nổi lên tràng cười rồi miệng lẩm bẩm:
– Nhậm Ngã Hành ơi Nhậm Ngã Hành! Ngươi lưu lại ngươi lưu lại những khẩu quyết này toan để hại người, ngờ đâu nó lọt vào tay ta thành ra chẳng có hại gì mà lại có lợi. Nếu ngươi chết rồi mà còn hay biết chuyện đời, e rằng tức đến râu tóc dựng đứng cả lên. Hà hà hà!
Lệnh Hồ Xung luyện công rồi cảm thấy đói bụng rất dữ, nóng lòng mong mỏi chờ lão già đưa cơm đến. Hôm nay chàng ăn nghiến ăn ngấu chỉ trong khoảnh khắc đã hết sạch sành sanh. No bụng rồi chàng lại ngồi xếp bằng luyện công.
Lệnh Hồ Xung tiếp tục luyện môn tán công chẳng kể thời gian. Chàng cảm thấy luyện thêm trong một khắc, trong mình lại dễ chịu hơn một chút. Chàng định bụng:
– Sau khi ta hóa tán được những luồng chân khí của Đào cốc lục tiên và Bất giới hòa thượng, sẽ chiếu theo phương pháp của sư phụ truyền thụ luyện tập nội công bản môn trở lại. Tuy phải bắt đầu bằng số không mất nhiều công phu song có thế thì cái mạng này mới có cơ vãn hồi được. Nếu Hướng
đại ca có ngày trở lại đây cứu ta ra khỏi ngục tù, khi đó ta lại có thể hưởng thụ một cuộc đời mới trên chốn giang hồ.
Đột nhiên chàng lại nghĩ:
– Sư phụ đã đuổi ta khỏi môn trường thì hà tất ta phải rèn luyện nội công phái Hoa Sơn nữa?
Trong các nhà các phái võ lâm biết bao nhiêu là nội công, thì ta muốn học Hướng đại ca hay học Doanh Doanh cũng chẳng hề gì.
Lệnh Hồ Xung nghĩ tới những chỗ hào hứng, bất giác khoa chân múa tay, sung sướng như mở cờ trong bụng.
Hôm sau chàng ăn cơm rồi, tâm thần vẫn khoan khoái vô cùng, chàng khẽ bóp tay trái một cái, bất giác mấy tiếng “răng rắc” vang lên. Cái bát sành lớn trong tay chàng bị vỡ làm mấy chục mảnh.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, tiện tay bóp thêm lần nữa, những mảnh bát liền nát vụn ra.
Chàng xòe bàn tay cho những mảnh bát vụn rớt xuống mặt thiết bản kêu đồm độp như trận mưa đá.
Chàng đứng ngẩn người ra không hiểu vì lẽ gì.
Bỗng thanh âm Hắc Bạch Tử đứng ngoài cửa cất lên:
– Công lực tiền bối tuyệt thế vô song quả là tay đệ nhất thiên hạ. Tại hạ khâm phục vô cùng!
Nguyên kỳ hạn ba ngày đã hết. Lệnh Hồ Xung còn đang kinh hãi vì kình lực tay mình ghê gớm bóp nát cả chiếc bát cơm, nên Hắc Bạch Tử đã đến ngoài cửa chàng cũng không haỵ Chàng nghe Hắc Bạch Tử lên tiếng rồi mà vẫn chẳng để ý gì vì còn mải nghĩ về cử động mình bóp vỡ bát là một điều
quá sức tưởng tượng.
Hắc Bạch Tử lại nói:
– Tiền bối chỉ khẽ bóp mà bát đã vỡ thành mảnh vụn như hạt gạo. Thế thì cái bàn tay đó mà nắm vào mình địch nhân liệu họ còn sống được chăng? Thật là tuyệt quá! Ha ha!
Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:
– Hắn nói câu này đúng thiệt!
Bất giác chàng cũng bật lên mấy tiếng cười khô khan.
Hắc Bạch Tử hỏi:
– Bữa nay tiền bối có vẻ cao hứng, thu nạp đệ tử nhập môn được chăng?
Lệnh Hồ Xung tự hỏi:
– Ta thu hắn làm đệ tử để dạy hắn những khẩu quyết này ử… Chà! Ta mới luyện một hai ngày mà công lực đã ghê gớm đến thế. Xem chừng những khẩu quyết trên thiết bản không phải là trò đùa. Điều mà Hắc Bạch Tử năn nỉ ta là dạy hắn pháp môn này, nhưng hắn luyện thành rồi liệu có tha ta thật
không? Một khi hắn mở cửa phát giác ta đây là Phong Nhị Trung chứ chẳng phải tiền bối họ Nhậm nào khác tất nhiên hắn trở mặt. Dù người truyền công là Nhậm tiền bối kia thật thì sau khi luyện thành rồi chắc hắn cũng tìm cách gia hại lão, tỷ như pha thuốc độc vào cơm rau. Phải rồi, Hắc Bạch Tử mà muốn hại mạng ta thật dễ như trở bàn taỵ Hắn luyện thành võ công tuyệt thế khi nào lại chịu buông tha tả Chắc cũng vì vậy mà Nhậm tiền bối trong 12 năm trời không chịu truyền thụ cho hắn.
Hắc Bạch Tử không thấy Lệnh Hồ Xung trả lời, e rằng có chuyện biến đổi liền hỏi ngay:
– Sau khi được tiền bối truyền công, đệ tử lập tức dâng rượu nồng dê béo để tỏ lòng hiếu kính.
Lệnh Hồ Xung bị cầm tù lâu ngày, bữa nào cũng ăn cơm toàn với đậu hũ, rau dưa, nên vừa nghe nói đến rượu nồng dê béo, không khỏi thèm nhỏ nước miếng, liền đáp:
– Được rồi! Ngươi hãy lấy rượu nồng dê béo đến đây cho ta ăn uống một bữa trước. Ta có khoan khoái trong lòng hoặc giả sẽ chịu truyền cho ngươi một chút công phu.
Hắc Bạch Tử tưởng câu nói này để làm mồi nhử chàng truyền công, mà chàng lại đòi rượu nồng dê béo trước, khiến hắn không khỏi chưng hửng. Nhưng hắn lại nghĩ rằng:
– Nếu mình nhất định đòi lão truyền võ công trước, biết đâu lão chẳng nổi giận mà cự tuyệt?
Hắn vội đáp:
– Dạ dạ! Tiền bối muốn dùng rượu nồng dê béo chẳng có chi là khó, nhưng bữa nay thì không được. Ngày mai nếu có cơ duyên, đệ tử sẽ tự mình đem đến kính dâng.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Sao bữa nay lại không được?
Hắc Bạch Tử đáp:
– Vì muốn tới đây tất phải đi qua phòng ngủ của đại ca vãn bối. Vậy phải nhân lúc y ra ngoài mới
có thể… mới có thể…
Lệnh Hồ Xung “hứ” một tiếng rồi không nói gì nữa.
Hắc Bạch Tử vẫn băn khoăn sợ hãi Hoàng Chung Công trở về phòng ngủ, hắn không dám chần chờ, liền lập tức cáo từ ra về.
Lệnh Hồ Xung đưa tay sờ vào đống mảnh bát vỡ vụn, nghĩ thầm:
– Công phu này sao lại ghê gớm đến thế được? Mới luyện một hai ngày đã hiệu nghiệm khôn lường. Nếu mình luyện một tháng trở lên há chẳng có thể… có thể…
Đột nhiên chàng la một tiếng rất lớn rồi nhảy người lên.
Nguyên chàng tính rằng:
– Nếu luyện một tháng trở lên là có thể bẻ đứt xích sắt, đả phá thiết môn để xông ra ngoài.
Nhưng nỗi vui mừng chỉ thoáng qua một cái lại tiêu tan ngay và chàng tự hỏi:
– Nếu công phu này quả ghê gớm như vậy thì sao Nhậm Ngã Hành lại không tự mình xông ra mà cứ chịu làm thân tù tội ở trong ngục tối?
Lòng chàng xoay chuyển ý nghĩ, tay chàng đặt mấy ngón lên cái vòng sắt ở cổ taỵ Chàng liền bóp
thêm mấy cái, cổ tay trái liền thoát ra khỏi vòng.
Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Chàng sờ lại cái vòng sắt té ra khoảng giữa có khuyết một chỗ. Tuy nhiên nếu nội lực chưa phục hồi thì có bóp mạnh chỗ khuyết đó cũng không há ra được. Lệnh Hồ Xung lại đưa tay trái bóp cái vòng sắt xiềng cổ tay phải cho há ra.
Rút được hai cổ tay ra khỏi vòng sắt, chàng tiếp tục nắm những vòng sắt xiềng cổ chân thì vòng nào cũng khuyết chỗ giữa. Chân tay rút được ra ngoài vòng sắt, người chàng tự do không còn bị ràng buộc gì nữa. Chàng rất lấy làm kỳ lạ tự hỏi:
– Tại sao những vòng sắt này lại có chỗ khuyết? Đánh vòng kiểu này thì xiềng xích người thế nào được?
Hôm sau lúc lão già đưa cơm đến, Lệnh Hồ Xung liền giơ vòng sắt soi vào ánh đèn thì thấy những chỗ khuyết màu trắng xanh. Hiển nhiên là vết mới cắt. Chàng lấy làm kỳ dị hơn nữa.
Lệnh Hồ Xung nhìn kỹ lại thấy những chỗ khuyết có vết cưa rất nhỏ rõ ràng người ta đã dùng một thứ lưỡi cưa đặc biệt hay dây thép để cưa đứt bốn chiếc khóa chân khóa tay ra. Chỗ khuyết còn lấp lánh óng ánh chứ chưa han rỉ, tỏ ra cái khóa mới bị cắt trước đây chưa lâu.
Chàng càng lấy làm kỳ ở chỗ những khóa này vẫn đóng nguyên và vẫn móc vào chân tay mình. Bất giác chàng lẩm bẩm:
– Hay là… hay là…
Chàng chợt nghĩ ra điều gì, bụng bảo dạ:
– Xét cho kỹ vụ này thì có người đã ngấm ngầm nghĩ cách cứu tạ Hắc lao đây vô cùng bí ẩn, nghiêm mật, người ngoài quyết không thể vào được. Vậy kẻ cứu ta dĩ nhiên là một nhân vật ở Mai trang.
Y không muốn để ta bị ám toán một cách ty bỉ, mới nhân lúc ta hôn mê bất tỉnh dùng răng cưa bằng giây thép cắt hết các khóa chân taỵ Y không muốn công khai gây thù oán với bọn Mai trang, chắc còn chờ cơ hội thuận tiện sẽ trở lại đây thả ta ra.
Lệnh Hồ Xung nghĩ tới đây bất giác tâm thần phấn khởi tính thầm:
– Cửa đừng hầm ở ngay dưới gậm giường Hoàng Chung Công. Giả tỷ chính y định cứu mình thì dễ quá, chẳng cần chờ cơ hội cho mất thì giờ. Hắc Bạch Tử nhất định không phải rồi. Còn hai vị Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh, thì Đan Thanh tiên sinh rất thắm thiết với mình, mối giao tình khác hẳn
người thường. Vậy mười phần có đến tám chín là ông bạn này rồi.
Chàng lại nghĩ tới ngày mai Hắc Bạch Tử tới đây phải đối phó cách nào rồi quyết định:
– Ta sẽ giả vờ ưng chịu để lấy rượu thịt ăn uống đã. Rồi có cần thì đem công phu giả trá mà truyền thụ cho hắn cũng chẳng chết ai. A ha ! A ha!
Đoạn chàng tự nhủ:
– Chưa biết Đan Thanh tiên sinh đến thả ta lúc nào, ta phải nhân cơ hội này học cho thuộc làu những khẩu quyết khắc trên tấm thiết bản.
Lệnh Hồ Xung liền đưa tay sờ tự tích, miệng lẩm nhẩm đọc để tâm ghi nhớ. Trước kia chàng chỉ lấy tay sờ chữ, bụng không để ý thành ra chẳng thấy khó khăn gì. Bây giờ chàng định tâm học thuộc thật kỷ không bỏ sót hay sai trật chữ nào mới biết chẳng phải là chuyện dễ.
Chàng nghĩ tới pháp môn về công phu thượng thừa này mà để lãng quên hay sai lầm một chữ là lúc luyện công có thể đưa đến kết quả trái ngược. Hoặc luyện công không đúng mức để sai một ly cũng rất d xảy tai nạn tẩu hỏa nhập ma biến thành phế nhân.
Chàng tính cả đến chuyện sau khi thoát khỏi hắc lao này chẳng còn có bao giờ còn có cơ hội trở lại để đối chiếu nếu mình có chỗ sai trật. Vì thế chàng học rất kỹ, nhẩm hết lượt này đến lượt khác, đọc lui, đọc tới không biết bao nhiêu lần, kỳ cho tới lúc thuộc trơn như cháo chảy mới yên tâm nằm ngủ.
Lúc nằm mơ, chàng thấy Đan Thanh tiên sinh đến mở cửa nhà lao tha mình ra. Chàng giật mình tỉnh dậy mới biết đây chỉ là giấc mộng nam khạ Tuy nhiên chàng cũng không lấy thế làm buồn, tự nhủ:
– Bữa nay y không đến cứu là chưa gặp cơ hội thuận tiện, nhưng chẳng bao lâu tất rồi y cũng tới.
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ đến sau khi mình ra khỏi nhà lao mà để những câu khẩu quyết trên tấm thiết bản này cho Hắc Bạch Tử phát giác há chẳng dành phần tiện nghi cho hắn? Thằng cha đó đã là người thâm hiểm mà luyện được thần công tất càng thêm phần độc ác.
Rồi chàng lại sờ mò những tự tích đọc lại từ đầu đến cuối mười mấy lượt nữa. Thấy không còn chỗ nào quên lãng sai trật, chàng lấy chiếc khóa sắt bạt đi mấy chục chữ trên tấm thiết bản.
Suốt ngày hôm ấy Hắc Bạch Tử không tới. Lệnh Hồ Xung cũng chẳng để ý, chàng chỉ chiếu theo khẩu quyết mà tiếp tục luyện công.
Mấy ngày liền, Hắc Bạch Tử thủy chung không trở lại. Lệnh Hồ Xung cảm thấy mình luyện công tiến triển rất nhiều. Những luồng chân khí dĩ chủng của Đào cốc lục tiên và Bất giới hòa thượng đã khu trục ra khỏi huyệt Đan điền đến sáu bảy phần.
Lệnh Hồ Xung mỗi ngày đọc khẩu quyết mười mấy lần, rồi lại khoét đi vài chục chữ trên tấm thiết bản. Chàng tự biết khí lực mình càng ngày càng mạnh, cầm khóa sắt giấy tấm thiết bản xóa cho mặt chữ chẳng khó khăn gì.
Sau hơn một tháng Lệnh Hồ Xung tuy ở dưới lòng đất cũng cảm thấy khí nóng đã giảm. Chàng nghĩ thầm:
– Trong cõi u minh quả có lòng trời. Nếu ta bị cầm tù về mùa đông mình vẫn mặc quần áo, thiết bản vẫn trải chiếu thì chẳng khi nào phát giác ra được những tự tích khắc vào đó. Không chừng chưa tới mùa nóng sang năm mà Đan Thanh tiên sinh đã cứu mình ra rồi thì chẳng bao giờ biết đến những khẩu quyết ở đây mà tu luyện.
Lệnh Hồ Xung ngẫm nghĩ tới đây bỗng nghe trong đường hầm có tiếng chân Hắc Bạch Tử đi tới, chàng đang nằm trên giường liền khẽ trở mình quay mặt vào phía trong. Chàng nghe Hắc Bạch Tử đứng ngoài lên tiếng:
– Nhậm… Nhậm lão tiền bối! Vãn bối thật là có lỗi. Hơn một tháng nay, đại ca vãn bối không ra khỏi cửa. Hàng ngày vãn bối lòng nóng như lửa đốt mong được đến vấn an lão nhân gia mà không sao gặp được cơ hội thuận tiện. Lão Nhậm gia… miễn trách cho.
Mùi rượu thơm cùng mùi thịt béo do lỗ vuông đưa vào trong nhà lao thơm nức.
|
Thoát lao tù muốn cứu ân nhân
Lệnh Hồ Xung đã lâu nay không được một giọt rượu dính môi. Bây giờ chàng ngửi thấy mùi rượu
thì còn nhịn làm sao được, liền quay ra bảo:
– Ngươi hãy đưa rượu thịt vào đây cho ta ăn uống rồi sẽ tính.
Hắc Bạch Tử đáp:
– Dạ! Dạ! Thế là tiền bối đã ưng thuận truyền thụ bí quyết nội công cho vãn bối rồi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mỗi lần ngươi đem đến ba cân rượu là ta truyền thụ cho ngươi bốn câu khẩu quyết. Như vậy ta
uống hết ba ngàn cân rượu ăn hết ngàn con gà thì nội công ngươi chẳng còn kém ta mấy rồi.
Hắc Bạch Tử nói:
– Thế thì chậm quá! Vãn bối sợ lâu ngày sẽ xảy ra biến cố. Mỗi lần vãn bối đem đến sáu cân rượu và
hai con gà để xin tiền bối truyền thụ cho tám câu khẩu quyết được chăng?
Lệnh Hồ Xung cười đáp:
– Ngươi tham lam quá! Nhưng thôi cũng được! Đưa rượu thịt vào đây!
Hắc Bạch Tử nâng khay gỗ lên cao chuồn qua lỗ vuông đưa vào. Trên khay quả có một hồ rượu
lớn và một con gà béo.
Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:
– Ta chưa truyền khẩu quyết cho hắn, tất hắn chưa dám đánh thuốc giết ta!
Chàng bưng hồ rượu lên nốc ừng ực một hồi. Thứ rượu này không ngon lắm nhưng lúc Lệnh Hồ
Xung uống vào miệng, cảm thấy nó thơm ngon vô cùng. Chàng uống một hơi hết nửa hồ. Đoạn chàng
xé một cái đùi gà mà ăn ngấu nghiến.
Chỉ trong khoảnh khắc, chàng uống hết hồ rượu và ăn hết cả con gà rồi vỗ bụng khen.
– Rượu ngon, nhắm tốt!
Hắc Bạch Tử cười nói:
– Tiền bối đã xơi rượu ngon gà béo rồi vậy xin truyền thụ khẩu quyết cho vãn sinh đi!
Hắn không đề cập đến chuyện bái sư nữa, vì cho rằng đối phương sau khi ăn uống say không nhớ
gì nữa.
Lệnh Hồ Xung cũng lờ đi không nhắc tới. Chàng nói:
– Được rồi! Mấy câu khẩu quyết này ngươi nhớ cho thật kỹ: “Kỳ kinh bát mạch, trong có nội tức,
tụ Ở Đan điền, hợp ở Đản trung”. Ngươi có hiểu mấy câu khẩu quyết đó không?’
Nguyên những câu khắc trên thiết bản là: “Nội tức ở huyệt Đan điền, tản ra tứ chị Chân khí ơ?
huyệt Đản trung rót vào bát mạch”. Chàng cố ý đảo lộn cho khác đi.
Hắc Bạch Tử nghe bốn câu khẩu quyết này rất tầm thường chẳng có chi kỳ lạ. Đó là phép luyện
khí phổ thông. Hắn liền đáp:
– Bốn câu này vãn bối đã lĩnh hội rồi. Xin tiền bối truyền cho thêm bốn câu nữa.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:
– Bốn câu đó ta đã đổi lại thành tầm thường nên hắn chưa thỏa mãn. Vậy ta phải đọc bốn câu cực
kỳ cổ quái để chơi trò ú tim hắn mới được.
Rồi chàng bảo:
– Bữa nay là buổi đầu, ta cũng liều truyền thụ cho ngươi thêm 4 câu nữa. Ngươi ráng mà nhớ:
“Rung động cho đứt mạch Dương Duy, bế tắc mạch âm kiều. Bát mạch cùng đoạn tuyệt mới luyện
được thần công”.
Hắc Bạch Tử giật mình kinh hãi lắp bắp hỏi:
– Cái này… kỳ kinh bát mạch trong người mà đoạn tuyệt thì còn sống sao được?… Vãn bối thực
tình không thể hiểu được mấy câu khẩu quyết đó.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu là thứ thần công đại pháp ai cũng hiểu được thì chẳng có chi kỳ lạ? Dĩ nhiên bên trong còn
nhiều chỗ tinh vi ảo diệu người thường không hiểu được.
Hắc Bạch Tử nghe tới đâu cảm thấy giọng lưỡi và từ ngữ khác với lão họ Nhậm, thì không khỏi
sinh lòng ngờ vực.
Nguyên hai lần trước, Hắc Bạch Tử đến Lệnh Hồ Xung nói rất ít lại biến đổi thanh âm cho thành
hàm hồ. Bây giờ rượu uống vào rồi, tinh thần phóng đãng chàng nói hơi nhiều mà Hắc Bạch Tử là người
cơ biến, bản tính đa nghi, không ngờ vực thế nào được? Có điều chẳng khi nào hắn tưởng đến người bi.
cầm tù trong nhà lao lại không phải lão họ Nhậm. Hắn chỉ cho là lão cố ý bịa đặt khẩu quyết để trêu cợt
hắn mà thôi. Hắn liền hỏi:
– Tiền bối bảo bát mạch có đứt hết mới luyện được thần công. Chẳng lẽ kỳ kinh bát mạch trong
mình tiền bối đều đứt hết ư?
Lệnh Hồ Xung hững hờ đáp:
– Dĩ nhiên là thế.
Chàng nghe giọng Hắc Bạch Tử biết là hắn đã có lòng ngờ vực, không dám nói nhiều, chỉ tiếp gọn
một câu:
– Ngươi học hết toàn bộ rồi tự nhiên sẽ hiểu rõ.
Dứt lời Lệnh Hồ Xung đặt hồ vào khay đưa qua lỗ vuông.
Hắc Bạch Tử vừa vươn tay đón lấy, Lệnh Hồ Xung bỗng “ối” lên một tiếng. Người chàng xê về
phía trước đập vào cửa sắt đánh sầm một cái.
Hắc Bạch Tử hỏi ngay:
– Chi vậy?
Hắn là một tay võ công cao cường phản ứng rất mau lẹ, vội thò tay qua lỗ vuông giữ lấy khay gỗ sơ.
để hồ rớt xuống sẽ vỡ tan.
Giữa lúc chớp nhoáng này. Lệnh Hồ Xung xoay tay trái lại nắm lấy tay hắn. Chàng cười hỏi:
– Hắc Bạch Tử! Ngươi thử coi lại xem ta là ai?
Hắc Bạch Tử giật mình kinh hãi, ấp úng:
– Tiền bối… tiền bối…
Mới đáp được một tiếng, cây đèn bị lật xuống.
Lúc Lệnh Hồ Xung đưa khay gỗ ra, chàng chưa có ý định nắm lấy cổ tay hắn. Nhưng khi có ánh
đèn chàng thấy bàn tay hắn ở ngoài lỗ vuông đưa lên đón lấy khay thì đột nhiên trong lòng xúc động không kiềm chế được. Chàng nghĩ tới sở dĩ mình bị cầm tù lâu ngày ở đây là hoàn toàn do ở mưu kế giảo quyệt của Hắc Bạch Tử. Nếu vặn đứt tay hắn thì trong lòng cũng hả giận được đôi phần. Chàng lại nghĩ tới nếu nhân khi bất ý mà nắm lấy hắn tất nhiên làm cho hắn phải một phen hoảng hồn bở vía, cũng là đáng kiếp.
Nguyên chàng chưa tính đến chuyện báo thù, đã nổi lòng tinh nghịch của trẻ nít liền giả vờ té xuống để Hắc Bạch Tử thò tay vào rồi nắm lấy.
Hắc Bạch Tử vốn là người rất cơ cảnh nhưng diễn biến xảy ra quá đột ngột, không có triệu chứng gì báo trước nên không kịp đề phòng. Trong lòng hắn cũng hơi cảm thấy có điều không ổn khi cổ tay bị đối phương nắm lấy
Vừa thấy năm ngón tay đối phương riết lại như một chiếc đai sắt lại nhắm vào hai huyệt đạo Ngoại quan, Nội quan. Hắc Bạch Tử xoay tay lại ra chiêu cầm nã. Bỗng nghe đánh chát một tiếng. Ba ngón chân hắn lập tức bị gãy đau không chịu được, thét lên ầm ỹ.
Tại sao Hắc Bạch Tử bị nắm chặt cổ tay mà ngón chân trái lại bị gãy? Há chẳng là chuyện ly kỳ lắm ư?
Nguyên Hắc Bạch Tử vốn có lòng kính sợ đối phương. Nhưng cổ tay bị giữ hắn lo ngay đến tính mạng. Trong lúc hoang mang hắn liền sử chiêu tuyệt kỹ “Giao long xuất uyên” trong phép Đại cầm nã thủ.
Người bị nắm giữ tay mặt mà phát huy chiêu này thì tay trái xoay vào trong đập mạnh, đồng thời chân trái phát chiêu cực kỳ mãnh liệt. Nếu đá vào trước ngực địch nhân là khiến cho họ phải thổ huyết ngay đương trường. Bằng địch nhân là tay cao thủ biết đường né tránh cũng phải buông tay, không thì chẳng còn cách nào tránh khỏi đòn cước.
Lệnh Hồ Xung chỉ sở trường về kiếm pháp, còn công phu quyền cước cả phái Hoa Sơn chưa có ai đáng gọi là cao thủ. Ngay sư đệ chàng là Lao Đức Nặc quyền cước đã cao hơn chàng nhiều mà đấu với Hắc Bạch Tử cũng còn thua xa.
Hắc Bạch Tử ra chiêu Giao Long xuất uyên, tay đánh vào chỉ là hư chiêu khiến địch nhân phải chú ý đến bàn tay hắn. Lúc hắn phóng chân trái đá tuyệt không hạ thấp vai hay chuyển lưng để lộ hình tích phóng cước.
Lệnh Hồ Xung dĩ nhiên không nhận ra dụng tâm của hắn, dù chàng có tiên liệu được thì cũng không tránh khỏi phát cước này, trừ phi trong tay cầm trường kiếm mới có thể kiềm chế được đối phương.
Diễn biến này xảy ra đột ngột, Hắc Bạch Tử hoang mang chỉ mong thoát hiểm, không kịp nghĩ tới giữa mình và đối phương còn cách một cửa sắt rất dày. Chiêu Giao Long xuất uyên hắn sử đến nơi đến chốn đòn cước nhằm đúng bộ vị, lực đạo lại mãnh liệt vô cùng. Vừa nghe đánh chát một tiếng, chân hắn đánh trúng cửa sắt.
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng đụng cửa vang lên rùng rợn mới hiểu mình vừa thoát nạn là nhờ ở cửa sắt che chở chọ Chàng cười ha hả nói:
– Ngươi đá một đòn nữa đi và phải đá nặng như vậy thì ta sẽ buông tha.
Đột nhiên Hắc Bạch Tử cảm thấy hai huyệt đạo Ngoại quan và Nội quan ở tay phải mình có luồng nội lực ào ạt tiết ra. Bất giác hắn nhớ tới đó là một điều đáng sợ nhất trong đời, liền hồn vía lên mây. Một mặt hắn vận lực ngưng khí, một mặt năn nỉ kêu van:
– Lão… Lão tiền bối… lão tiền bối…
Không nói còn khá. Hắn vừa mở miệng thốt lên được mấy tiếng nội lực tiết ra càng nhiều, đành phải ngậm miệng lại. Song nội lực vẫn không ngớt phát tiết ra ngoài.
Lệnh Hồ Xung sau khi luyện công phu khắc trên tấm thiết bản, huyệt đan điền như cây trúc rỗng ruột, như hang thẳm trống không. Bây giờ chàng cảm thấy có luồng chân khí trút vào huyệt Đan điền nhưng cũng không chú ý. Chàng cảm thấy một cánh tay Hắc Bạch Tử run bần bật dường như sợ hãi quá. Lòng chàng vẫn chưa nguôi giận, liền cất tiếng hăm dọa:
– Ta truyền công phu cho ngươi vậy ngươi đã thành đệ tử bản môn rồi. Thế mà ngươi còn lừa thầy diệt tổ thì đáng tội gì?
Hắc Bạch Tử cảm thấy nội lực tiết ra mỗi lúc một nhanh. Hắn gắng gượng ngưng tụ chân khí thì còn đỡ một chút. Khốn nỗi mũi miệng vẫn phải hô hấp. Mỗi lần thở ra hít vào, nội lực lại trút ra ngoài rất nhiều. Lúc này hắn quên hẳn cái đau bị gãy ngón chân mà chỉ mong sao rút được cánh tay ra ngoài lỗ vuông, dù có bị cụt một tay cũng thọt một cẳng cũng đành cam chịu.
Nghĩ tới đây, hắn xoay tay về sau lưng rút kiếm.
Hắc Bạch Tử vừa cử động thì hai huyệt Nội quan và Ngoại quan trên bàn tay tựa hồ mở ra hai chỗ khuyết lớn. Lập tức nội lực toàn thân ào ào chảy ra như nước sông vỡ đê, khó bề ngăn chặn lại được. Hắn biết là nếu còn chần chờ một khắc thì nội lực toàn thân sẽ bị đối phương hút hết. Hắn liền gắng gượng rút thanh trường kiếm ở sau lưng ra rồi rít chặt hai hàm răng toan vung kiếm tự chặt đứt cánh tay mình. Nhưng hắn vừa cố gắng thì nội lực chảy ùa ra. Tai hắn ù đi rồi ngất xỉu.
Lệnh Hồ Xung nắm lấy bàn tay Hắc Bạch Tử bất quá là muốn hăm dọa hắn một phen, hay nhiều lắm là vặn mạnh một cái để trút mối căm phẫn chứa chất trong lòng.
Chàng không ngờ sự hăm dọa lại làm cho hắn khiếp quá đến nỗi phải ngất đi, liền nổi lên tràng cười ha hả rồi buông tay ra.
Lệnh Hồ Xung vừa buông tay thì người Hắc Bạch Tử té xuống, cánh tay thò qua lỗ vuông cũng rụt về theo.
Trong đầu óc Lệnh Hồ Xung bỗng lóe lên một ý nghĩ. Chàng vội thò tay ra nắm chặt bàn tay Hắc Bạch Tử. May ở chỗ cử động của chàng rất mau lẹ, kịp thời giữ lại được. Chàng tự nhủ:
– âu là ta lấy khóa sắt khóa hắn lại để bức bách bọn Hoàng Chung Công phải tha ta ra.
Chàng liền dùng sức mạnh kéo cánh tay Hắc Bạch Tử lại gần.
Dè đâu nội lực trong người chàng ghê gớm vô cùng. Chàng vừa kéo một cái, cả đầu Hắc Bạch Tư?
cũng lọt qua lỗ vuông.
“Vù” một tiếng, toàn thân hắn chuồn vào trong nhà lao.
Biến diễn này xảy ra ngoài sức tưởng tượng của Lệnh Hồ Xung.
Chàng kinh ngạc quá đỗi đến thộn mặt ra.
Rồi chàng tự mắng:
– Mình thật quá ngu ngốc! Lỗ hổng này vuông vắn hai thước. Chỉ cần cái đầu chui lọt tức là toàn thân có thể chuồn qua.
Đoạn chàng tự hỏi:
– Người Hắc Bạch Tử đã lọt vào được, dễ thường ta không chui ra được hay sao? Trước kia chân tay bị khóa, ta chẳng có cách nào vượt ngục đã đành. Bây giờ xiềng khóa đã có người ngấm ngầm cưa giùm ra rồi, sao mình lại không trốn đi?
Nghĩ tới đây chàng tính thầm:
– Đan Thanh tiên sinh đã ngấm ngầm cưa khóa cho mình, chắc hàng ngày y mong mình chốn chạy đến gan ruột bồn chồn.
Nguyên trước kia, lúc chàng phát giác ra xiềng khóa đã bị người cưa đứt vào thời kỳ chàng đang luyện công. Bao nhiêu tinh thần để hết vào công cuộc rèn luyện. Va khi đó chàng chưa thuộc làu những khẩu quyết khắc trên thiết bản nên không muốn rời khỏi nhà lao. Trong thâm tâm đã không có ý định bỏ đi dĩ nhiên chàng chưa tính đến chuyện vượt ngục.
Lúc này Hắc Bạch Tử bị chàng kéo tuột vào phòng, chàng trầm ngâm một lúc rồi quyết định chủ ý.
Lập tức chàng lật đật cởi quần áo Hắc Bạch Tử để mặc vào mình. Chàng lột cả tấm khăn trùm đầu hắn đội lên đầu mình, rồi tự nhủ:
– Lúc ta trốn ra dù có gặp ai họ cũng tưởng ta là Hắc Bạch Tử.
Lệnh Hồ Xung còn lấy xiềng khóa mắc vào chân tay Hắc Bạch Tử bóp mạnh cho chặt lại.
Hắc Bạch Tử đau quá hồi tỉnh, bật tiếng rên la.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Chúng ta đổi địa vị cho nhau. Hàng ngày ngươi đã có lão già kia đem cơm nước đến cho, chẳng lo gì đói khát.
Hắc Bạch Tử vừa rên ư ư? vừa lắp bắp:
– Nhậm.. Nhậm lão tiền bối!… Hấp tinh đại pháp của lão tiền bối…
Ngày Lệnh Hồ Xung liên thủ cùng Hướng Vấn Thiên kháng cự địch nhân ở ngoài bãi hoang, chàng đã thấy trong bọn đối phương có người la lên bốn tiếng “Hấp tinh đại pháp”. Bây giờ chàng nghe Hắc Bạch Tử lại nói tới, liền hỏi:
– Hấp tinh đại pháp gì đâu?
Hắc Bạch Tử thều thào:
– Vãn bối… vãn bối… đáng chết…
Hắn mới nói được mấy tiếng đã mất hết tinh thần. Cổ họng hắn òng ọc rồi không thốt ra lời nữa.
Lệnh Hồ Xung chỉ mong thoát thân không lý gì đến Hắc Bạch Tử nữa, chàng thò đầu qua lỗ vuông chuồn ra. Hai cánh tay thò qua cửa lỗ rồi. Chàng khẽ đẩy bàn tay vào cửa sắt, cả người chàng liền bắn ra, đứng ngay xuống đất.
Lệnh Hồ Xung lại cảm thấy trong huyệt Đan điền lại chứa khá nhiều nội tức khiến chàng khó chịu. Nhưng chàng chỉ cho là lâu không luyện công nên những luồng nội lực của Đào cốc lục tiên và Bất giới hòa thượng di chuyển trở lại vào huyệt Đan điền. Song lúc này chàng không rảnh để luyện công, chỉ mong thoát ly khỏi chốn hang hầm sớm khắc nào hay khắc ấy. Chàng liền cầm lấy cây đèn dầu mà Hắc Bạch Tử bỏ đó, theo đường hầm đi ra.
Các cửa ngõ trong đường hầm chỉ khép hờ. Nguyên Hắc Bạch Tử định lúc trở ra sẽ khóa kỹ lại.
Lệnh Hồ Xung chẳng mất chút hơi sức nào đã thoát ly khỏi chốn lao tù.
Mỗi khi bước qua tầng cửa ngõ kiên cố, chàng nhớ lại những ngày ở trong hắc lao và tưởng chừng mình đã trải qua một đời người. Chàng không nghĩ gì đến mối cừu hận đối với bọn Hoàng Chung Công, miễn sao được tự do là bất luận việc gì cũng bỏ qua.
Lệnh Hồ Xung đi hết đường địa đạo trèo bậc đá mà lên.
Khi đỉnh đầu sắp đụng tấm thiết bản, chàng dừng bước nghiêng mình nghe ngóng thấy bên trên chẳng có động tĩnh gì.
Từ khi chàng trải qua một thời kỳ bị cầm tù, nhất thiết việc gì chàng cũng cẩn thận hơn trước.
Chàng vẫn chưa đẩy tấm thiết bản chui lên ngay mà còn đứng lại hồi lâu để nghe ngóng.
Khi chàng biết đích Hoàng Chung Công không ở trong phòng ngủ mới khẽ nâng tấm thiết bản, để sang một bên rồi nhẹ nhàng tung mình nhảy lên. Chàng ở gậm giường chui ra ngoài, rồi đặt tấm thiết bản lại như cũ, kéo chiếu phủ lên.
Lệnh Hồ Xung đang rón rén toan đi ra, bỗng nghe phía sau có tiếng người the thé hỏi:
– Nhị đệ! Nhị đệ xuống đó một mình làm chi vậy?
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi quay đầu nhìn lại thì thấy ba người là Hoàng Chung Công, Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh đều cầm binh khí vây chàng vào giữa.
Lệnh Hồ Xung có biết đâu Hắc Bạch Tử mười mấy năm nay đi vào địa lao đã theo cửa hầm và đường địa đạo bí mật khác, thực tình hắn không đi qua lối giường nằm Hoàng Chung Công. Bây giờ chàng theo lối cũ trở ra động đến cơ quan báo hiệu khiến cho bọn Hoàng Chung Công biết mà kéo tới đây. May chàng mặc áo trường bào của Hắc Bạch Tử nên họ không nhận ra.
Lệnh Hồ Xung hoang mang ngập ngừng đáp:
– Tiểu đê… tiểu đê…
Hoàng Chung Công xẵng giọng hỏi:
– Tiểu đệ cái gì? Ta thấy ngươi có thái độ bất chính, chắc ngươi đi cầu Nhậm Ngã Hành truyền thụ “Hấp tinh yêu pháp” cho chứ gì? Hừ! Ngày trước ngươi đã có lời thề thốt thế nào?
Lệnh Hồ Xung trong lòng bối rối không hiểu mình nên bộc lộ chân tướng hơn hay là cứ giả mạo làm Hắc Bạch Tử hơn. Trong lúc thảng thốt, chàng không có chủ ý liền rút thanh trường kiếm lấy của Hắc Bạch Tử nhằm Ngốc Bút ông đâm lẹ tới.
Ngốc Bút ông nổi giận hỏi:
– Nhị ca giỏi thiệt! Muốn động thủ thật chăng?
Hắn vung bút lên gạt.
Không ngờ Lệnh Hồ Xung phóng kiếm đó chỉ là hư chiêu chàng thừa cơ lúc hắn vung bút lên gạt, co giò chạy vọt đi.
Bọn Hoàng Chung Công lập tức rượt theo.
Lệnh Hồ Xung đề khí chạy thật nhanh, chớp mắt đã đến nhà đại sảnh.
Hoàng Chung Công lớn tiếng la:
– Nhị đệ! Nhị đệ! Nhị đệ đi đâu thế?
Lệnh Hồ Xung không đáp cứ cắm đầu dông tuốt. Đột nhiên một người đứng giữa cửa lớn lên tiếng:
– Nhị trang chúa! Xin trang chúa hãy lưu bộ!
Lệnh Hồ Xung đang chạy vội quá không dừng chân kịp, đầu chàng húc vào người kia đánh binh một tiếng. Thế húc mạnh quá, người kia thân hình to lớn cũng bị bắn tung đi xa mấy trượng té xuống.
Lệnh Hồ Xung nhìn lại thì ra Nhất tự điện kiếm Đinh Kiên nằm đưỡn đừ dưới đất đúng như hình chữ “nhất”. Còn hai chữ “điện kiếm” thì không dính dấp gì đến.
Lệnh Hồ Xung chân không dừng bước theo đường nhỏ mà chạy.
Bọn Hoàng Chung Công đuổi ra đến cổng trang thì dừng lại không rượt theo nữa.
Lệnh Hồ Xung tiếp tục lựa những đường nhỏ hẻo lánh mà chạy như baỵ Chẳng bao lâu chàng phát giác mình đã đến một khu hoang dã không người, hiển nhiên khá xa thành thị rồi. Chàng chạy được khá nhiều đường đất mà cũng không hay.
Một điều rất kỳ quái là sau một hồi chạy nhanh như vậy mà lúc dừng bước chàng đã không nhọc mệt lại không thở mạnh. So với thời kỳ trước khi bị nội thương, dường như công lực hiện nay còn cao thâm hơn.
Lệnh Hồ Xung bỏ chiếc khăn trùm đầu ra, bỗng nghe tiếng nước chảy róc rách. Gặp lúc miệng khát, chàng liền tìm tới bờ khe suối. Chàng cúi xuống toan vốc nước uống chợt nhìn thấy bóng mình in đáy nước. Đầu tóc bù xù, mặt mũi râu ria xồm xoàm. Tướng mạo rất xấu xa cổ quái!
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, rồi chàng bật cười tự nhủ:
– Vì ta bị cầm tù mấy tháng nay không được tắm gội lại không cạo mặt nên hình dong cổ quái như vậy.
Nghĩ thế chàng cảm thấy toàn thân ngứa ngáy, liền cởi bỏ áo bà, nhảy xuống vừa tắm rửa cho thỏa thích vừa lẩm bẩm:
– Trong mình ta đầy bùn đất cáu ghét chẳng đến nửa gánh thì cũng phải mấy chục cân.
Chàng tắm rửa sạch, uống nước trong no rồi, lấy tay gỡ tóc lật lên đỉnh đầu. Chàng ngó lại bóng mình dưới nước thấy bộ râu tua tủa càng lộ vẻ hào hùng. So với chàng thiếu niên mặt mày nhẵn nhụi ngày trước Lệnh Hồ Xung nay đã thành con người khác. Bây giờ coi chàng với lúc hóa trang theo Hướng Vấn Thiên cũng chẳng còn giống chút nào.
Lệnh Hồ Xung chợt nghĩ ra điều gì, tự hỏi:
– Mai trang là chỗ thế nào? Tại sao bọn chúng đem vị tiền bối họ Nhậm kia giam vào địa lao? Mình phải đi thám thính kỹ càng cho biết rõ. Nếu Nhậm tiền bối quả bị họ ám toán thì phải tìm cách cứu lão ra mới được.
Nhưng rồi chàng lại nghĩ:
– Có điều Nhậm tiền bối đã nói là sau khi thoát khỏi chốn lao lung, lão lại đại khai sát giới tàn hại đồng đạo võ lâm. Vậy lão là người hay hay dở. Ta cần đổi bộ áo khác rồi cứ việc trở lại Mai trang nói là đến bái phỏng. Bọn Hoàng Chung Công chắc không nhận ra ta được.
|
Lệnh Hồ Xung do thám Mai Trang
Lúc Lệnh Hồ Xung mặc áo vào, cảm thấy khí huyết trong lòng làm cho bứt rứt khó chịu, liền ngồi xếp bằng ngay xuống bờ suối vận công.
Sau một lúc, bao nhiêu nội lực lại tán hết vào kỳ kinh bát mạch. Huyệt Đan điền trở lại như cây trúc rỗng ruột, như hang thẳm trống không. Chàng không hiểu là mình thực ra đã luyện được võ công lợi hại vào bậc nhất trên đời. Vừa rồi chàng nắm lấy cổ tay Hắc Bạch Tử đã trút hết nội công của hắn rèn luyện suốt đời chứa vào huyệt Đan điền và bây giờ chàng lại hóa tán hết vào kỳ kinh bát mạch. Thế là chàng chiếm lấy nội lực của Hắc Bạch Tử làm của chàng. Đột nhiên chàng tăng thêm cả phần công lực của một tay cao thủ, nên tinh thần phấn khởi rất nhiều.
Lệnh Hồ Xung thấy trời sắp tối mà bụng đói rồi, chàng sờ túi áo trường bào của Hắc Bạch Tử chẳng thấy tiền bạc chi hết, chỉ có một cái tẩu hút thuốc bằng ngọc phí thúy xanh biếc rất xinh xắn, biết ngay đây là một thứ đồ cổ quí giá.
Chàng mặc áo chỉnh tề rồi ngó về phía thành Hàng Châu thấy tứ bề khói bốc lên nghi ngút, liền xuống núi nhằm về hướng đó mà đi.
Tới nơi, Lệnh Hồ Xung tìm vào quán trọ. Chàng kêu tiểu nhị lấy rượu thịt ăn uống no say một bữa rồi rồi ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng.
Sáng hôm sau, chàng đưa cái tẩu hút thuốc cầm cho nhà hàng lấy mấy chục lạng bạc. Chàng sắm quần áo giầy vớ, mặc đồ mới vào mình.
Lệnh Hồ Xung đứng trước gương soi, chính chàng cũng không nhận được ra mình nữa. Bất giác chàng lẩm bẩm:
– Giả tỷ tiểu sư muội nhìn thấy ta diện mạo thế này, không hiểu nàng sẽ nghĩ sao? Hỡi ơi! mình đã gặp đại nạn thoát chết, chẳng khác gì thay một kiếp người, sao còn nhớ tưởng tiểu sư muội canh cánh bên lòng?
Lệnh Hồ Xung ra khỏi quán trọ đi thơ thẩn thả bước đến bờ Tây Hồ. Chàng chợt thấy ngay ở đầu đường một tòa tửu lâu rất lớn quay mặt xuống hồ. Lá cờ hiệu phất phơ bay trước gió đề ba chữ lớn “Tống Thị Lâu”.
Tiêu hứng trỗi dậy, chàng rảo bước tới nơi tìm cái bàn ngó ra mặt hồ ngồi xuống. Điếm tiểu nhị vội chạy lại rót rượu.
Lệnh Hồ Xung nhắp một tợp thì đây là thứ Trạng Nguyên Hồng đời Trần Thiệu Hưng năm thứ 12. Nó là rượu ngon hạng nhất.
Lúc này vừa qua mùa hạ, quanh hồ toàn thị lá sen bát ngát, gió mát rười rượi. Lệnh Hồ Xung ngồi trông ra xa nước hồ xanh biếc một màu, cảm thấy trong lòng khoan khoái, chàng tự nhủ:
– Giờ này hôm qua ta vẫn còn bị nhốt trong hắc lao dưới đáy hồ mà bữa nay đã được thảnh thơi ngồi uống rượu ngắm cảnh. Tưởng Hoàng Thiên đối đãi với ta như thế cũng là hậu lắm!
Trong lòng cao hứng, chàng uống hết cân nọ đến cân kia. Điếm tiểu nhị tay không ngớt đem hồ này vào lấy hồ khác ra, gã luôn miệng khen ngợi:
– Vị khách quan này tửu lượng khá lắm!
Lệnh Hồ Xung đang uống rượu, bỗng nghe tiếng bước chân nhộn nhịp. Bốn người từ cầu thang lầu đi lên. Lòng chàng cũng hơi hồi hộp. Bốn người này mắt đều chiếu ra những tia hàn quang lấp loáng dòm ngó bốn mặt. Hiển nhiên là những nhân vật võ công rất cao thâm.
Trong bốn người thì ba là lão hán vào trạc năm, sáu chục tuổi còn một người là thiếu phụ trung niên.
Cả bọn người đều ăn mặc quê mùa. Trên lưng người nào cũng chỉ đeo một bọc vải chứ không dắt binh
khí.
Một lão già cao hơn hết đứng đầu cầu thang có vẻ cực kỳ uy võ. Lão ngó Lệnh Hồ Xung một cái rồi quay lại bảo đồng bọn:
– Chỗ này khá sạch sẽ, mình ngồi đây ăn được rồi.
Ba người kia gật đầu đáp:
– Hay lắm!
Bốn người ngồi xuống bên chiếc bàn hướng ra mặt hồ.
Điếm tiểu nhị đon đả chạy lại chào mời. Ngờ đâu bốn nhân vật tướng mạo hùng tráng này đã không uống rượu lại không ăn mặn, chỉ kêu toàn đồ chay và sáu cân bánh bao.
Lúc bốn người ngồi ăn không ai nói nửa lời dường như họ chỉ ăn no cho xong việc, chẳng để ý gì tới món ăn có ngon hay không.
Điếm tiểu nhị đến bên ân cần mời mọc nói:
– Món xào này là đồ chay thập cẩm do những tay đầu bếp rất giỏi xào nấu. Tuy nói dùng toàn đồ chay mà ăn vào thấy mùi vị ba thứ khác nhau, như gan gà, như thịt thăn heo lại như mề vịt. Bốn vị thấy thế nào?
Một lão hán to béo trừng mắt hỏi lại:
– Đồ chay là đồ chay, sao lại có mùi vị gan heo với gan bò gì gì?
Lệnh Hồ Xung lắng tai nghe thì khẩu âm lão này người ở Sơn Đông. Chàng tự hỏi:
– Không hiểu bốn người này ở bang phái nào? Họ đến Hàng châu có việc gì?
Tuy nhiên, lòng chàng còn mải nghĩ kế cứu lão Nhậm, không muốn đa sự làm gì, định ăn uống xong là lập tức xuống lầu.
Ngờ đâu bốn người kia ăn rất mau. Mấy đĩa bánh lớn vèo một cái đã hết sạch.
Bọn này ăn xong tính trả tiền hàng rồi đi thẳng xuống lầu, không cho tiểu nhị lấy đồng nào.
Gã tiểu nhị cân phân có vẻ bất mãn. Gã nói:
– Mấy bố người Bắc này keo kiệt quá! Một đồng một chữ cũng không chịu mất.
Gã vừa dứt lời, chợt nhớ tới Lệnh Hồ Xung cũng là người phương Bắc, liền nở nụ cười cẩu lại nói gở:
– Xin lão nhân gia đừng để tâm, tiển nhân không dám nói tới lão nhân gia đâu. Lão nhân gia ăn xài
lớn, nào phải như bọn họ.
Lệnh Hồ Xung cười đáp:
– Ăn nhiều uống lắm thì thành bì rượu túi cơm chứ hay ho gì ?
Đoạn chàng trả tiền hàng xuống lầu.
Lệnh Hồ Xung đi ngao du khắp phố phường thành Hàng Châu một lượt. Đến chiều chàng lại tìm vào một tửu lâu khác uống một bữa rồi mới về quán trọ.
Chàng ngủ cho tới canh ba, đẩy cửa sổ chuồn ra ngoài, vượt qua bức tường cây đi về phía núi Cô Sơn ở Tây hồ. Khinh công chàng trước kia vào hạng bình thường, nhưng từ khi chàng luyện thiết bản thần công rồi, chẳng những chân bước nhẹ nhàng mà còn tùy ý muốn nhảy vọt lên cao hay lao người đi xa cũng được. Thế là chàng đã đạt tới một trình độ bình sinh chưa từng thấy bao giờ.
Đêm tối mà lại đi nhanh, Lệnh Hồ Xung thoăn thoắt lướt mau chính chàng cũng không nghe thấy tiếng động.
Bỗng chàng dừng bước quay nhìn bóng mình ở dưới gốc liễu, tự hỏi:
– Ta là người hay là mả Phải chăng ta bị người dưới địa lao giết chết rồi biến thành oan hồn? Tại sao
ta chạy nhanh mà chỉ thấy nhẹ lâng lâng, chẳng phí chút hơi sức nào?
Tay phải chàng bóp mạnh tay trái hiển nhiên hãy còn thấy đau.
Chàng bật cười nghĩ bụng:
– Thiết bản thần công thật là cổ quái! Mình mới luyện được hơn một tháng đã tiến đến trình độ này, nếu còn luyện nữa sẽ biến thành yêu quái chăng?
Chàng không hiểu phép luyện công ghi trên tấm thiết bản khó nhất là ở chỗ hóa tán công lực toàn thân khiến cho trong huyệt Đan điền không còn một tý gì. Mấu chốt sự thành bại về luyện công là chỗ có tán công được hay không. Nếu hóa tán không hết hoặc di chuyển lầm huyệt đạo là lập tức bị tẩu hỏa nhập ma, nhẹ thì toàn thân tê liệt biến thành phế nhân, nặng thì kinh mạch chạy ngược đường khiến cho thất khiếu đổ máu ra mà chết.
Công phu này sáng lập đã mấy trăm năm, nhưng chẳng mấy người luyện thành được chỉ vì phép tán công khó khăn quá. Lệnh Hồ Xung chiếm được phần tiện nghi rất lớn là nội lực trong người chàng đã mất hết, muốn hóa tán là hóa tán được ngay chẳng mất chút sức lực nào. Song đối với người khác thì đây là bước đường nguy hiểm vô cùng.
Lệnh Hồ Xung vô tình đã bước qua được giai đoạn khó khăn nhất. Người khác muốn luyện môn công phu này thì nguyên một việc hóa tán nội lực mỗi ngày một chút đã phải mất công khó nhọc từ mười đến hai mươi năm mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, hễ sai trật một chút là phải họa thương vong. Chàng ngẫu nhiên gặp được cơ duyên này rồi đột nhiên nhận thấy hiệu lực quá lớn mà cách rèn luyện lại quá dễ dàng. Công phu rèn luyện so với kết quả thu lượm chênh lệch nhau xa, nên chàng không tự tin được.
Sau khi tán công, lại cần phải hút lấy chân khí của người khác chứa vào huyệt Đan điền rồi mới theo đúng khuôn phép đưa vào kỳ kinh bát mạch để làm của mình mà sử dụng. Giai đoạn này cũng khó khăn vô cùng vì lẽ nội lực mình đã hóa tán hết mà muốn thu hút lấy chân khí của người ngoài, thì có khác gì đem trứng trọi với đá để rước lấy cái chết vào mình, trừ phi gặp trường hợp người thân tình hết lòng luyến ái đã nguyện đem chân khí bản thân tặng cho để giúp mình thành công chẳng nói làm chi.
Môn công phu này lại rất hiểm độc. Người luyện thành rồi chỉ mưu đồ chuyện ích kỷ hại nhân, gây tai vạ lớn. Vì thế nên rất ít khi có bậc chính nhân quân tử chịu rèn luyện. Còn kẻ gian ác mà mong có người hy sinh cho mình thì đâu phải chuyện dễ.
Thường thường những người luyện công phu này, sau khi tán công phải ngấm ngầm dùng kế giảo quyệt cho người khác uống rượu say ngã lăn ra, nếu không thì phải trói lại đánh cho ngất xỉu rồi tìm cách hút trộm lấy chân khí của họ.
Trong giai đoạn này, Lệnh Hồ Xung cũng may mắn là trong mình chàng đã có những luồng chân khí dị chủng của bọn Đào cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng vừa nhiều vừa mạnh mà chàng đã di chuyển đúng phép vào kỳ kinh bát mạch nên phát sinh hiệu lực ghê gớm. Chàng mới khẽ bóp một cái mà chiếc bát đựng cơm đã lập tức nát nhừ chẳng khác gì Đào cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng cả bảy người đồng thời phát huy nội lực. Kế đó chàng lại vô tình nắm lấy cổ tay Hắc Bạch Tử và bất giác thu hút lấy nội lực của hắn. Thế là chàng đã thu nội lực của tám tay cao thủ vào làm của mình để sử dụng nên kình lực của chàng ghê gớm đến trình độ không ai tưởng tượng được.
Kể ra bọn Đào cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng mới trút sang cho chàng một phần chân khí của họ, nhưng bảy người này võ công rất cao thâm thì chỉ góp vào một phần cũng đã lợi hại vô cùng.
Thêm vào đó khi chàng ở chùa Thiếu Lâm Phương Chứng đại sư nhân khi trị bệnh đã truyền sang người chàng một bộ phận Thiếu Lâm thần công.
Lúc này Lệnh Hồ Xung có một bản lãnh mà trong võ lâm đương thời hiếm người sánh kịp, nhưng chàng không hiểu lý do nên đành hưởng mà thôi.
Lệnh Hồ Xung từ từ xoay mình lại đồng thời hít một hơi chân khí, người chàng bồng bồng như muốn bay lên. Chàng lại giật mình kinh sợ và la lên một tiếng “úi chà”.
Vừa mở miệng thở ra người chàng liền hạ xuống. Chàng giơ tay lên gãi đầu tự nói một mình:
– Sao lạ thế này! Sao lạ thế này!
Khi Lệnh Hồ Xung người còn lơ lửng trên không chàng thừa thế rút lấy trường kiếm ở sau lưng tiện tay phóng ra. Cổ tay chàng vừa rung động đã nghe đánh “cách” một tiếng. Thanh trường kiếm tra vào vỏ rồi, chân trái chàng cũng vừa chấm đất. Chàng ngửng đầu nhìn lên thấy năm chiếc lá liễu ở trên không đang từ từ bay xuống.
Nguyên vừa rồi chàng phóng nhát kiếm đó dĩ nhiên đã phân biệt đâm trúng vào năm cuống lá liễu.
Lệnh Hồ Xung lại rút kiếm ra khỏi vỏ lần thứ hai khoa thành một đường hình cánh cung. Kiếm quang vừa lấp loáng lóe mắt, năm chiếc lá liễu đều đã thu vào trên mặt lưỡi kiếm. Chàng rụt kiếm về thò tay trái cầm lấy một chiếc lá coi, trong lòng vừa xiết nỗi hoan hỉ vừa rất lấy làm kỳ.
Lệnh Hồ Xung đứng lặng giờ lâu trên bờ hồ, bỗng lòng chàng se lại nghĩ thầm:
– Bản lãnh ta đã tới trình độ khôn lường, dĩ nhiên sư phụ cùng sư nương chẳng thể nào dạy ta đến thế này được. Nhưng chẳng thà vẫn giữ nguyên tình trạng ngày trước, nội lực cùng kiếm pháp tầm thường mà được tiêu dao khoái lạc trong phái Hoa Sơn còn hay hơn là thành một kẻ cô thân trên chốn giang hồ, lập lờ như bóng du hồn dã quỉ.
Chàng tự biết từ ngày ra đời võ công chưa hồi nào cao thâm bằng lúc này mà cũng chưa lúc nào quạnh hiu tịch mịch như bây giờ.
Mấy tháng qua chàng bị cầm tù dưới địa lao phải chịu cảnh cô đơn đã đành. Ngày nay chàng đã tự do mà vẫn một mình một bóng vẩn vơ trên bờ hồ giữa lúc canh khuya, khiến chàng xiết nỗi bâng khuâng.
Lệnh Hồ Xung bản tính ưa cảnh náo nhiệt, thích trà rượu bạn bè. Tuy chàng phát giác võ công mình tiến bộ một cách không ngờ mà nỗi mừng vui lại tiêu tan ngaỵ Dưới cảnh thanh phong lãnh nguyệt lòng chàng cảm thấy thê lương vô hạn.
Chàng đứng ngẩn người ra một lúc rồi tự nhủ:
– Hỡi ôi! Người đời chẳng ai nhìn nhỏi gì đến ta nữa. âu là ta trở lại địa lao ở Mai trang để thăm Nhậm tiền bối. Giả tỷ lão gia chịu lập lời trọng thệ: Sau khi thoát khỏi chốn lao lung không sát hại người lành thì ta cứu lão gia ra cũng chẳng hề gì.
Chàng liền nhìn nhận đường lối nhằm phía Mai trang mà đi.
Chỉ trong khoảnh khắc chàng đã lên tới núi Cô Sơn ở cạnh Mai trang. Chàng liền theo sườn núi xuyên qua khu rừng cây tiến đến gần trang viện. Chàng lắng tai nghe ngóng trong trang viện yên lặng như tờ, liền nhẹ nhàng nhảy vọt lên mặt tường vây. Chàng thấy mấy chục phòng ốc đều một màu tối đen như mực. Chỉ một căn phòng ở mé hữu là có ánh đèn lọt qua khe cửa chiếu ra ngoài.
Lệnh Hồ Xung liền đề khí hạ mình xuống, len lén đi tới dưới cửa sổ.
Bỗng chàng nghe một thanh âm khàn khàn quát hỏi:
– Hoàng Chung Công! Ngươi đã biết tội chưa?
Giọng nói cực kỳ nghiêm khắc.
Lệnh Hồ Xung rất lấy làm kỳ, nghĩ bụng:
– Hoàng Chung Công là tay bản lãnh phi thường mà sao lại có người giở giọng hách dịch với lão như vậy?
Chàng liền lún thấp người xuống dòm qua khe cửa sổ vào trong. Chàng giật mình, trong lòng hồi hộp, miệng lẩm bẩm:
– Té ra bọn này.
Nguyên chàng đã ngó thấy bốn người ngồi ghế chính là những người mà lúc ban ngày chàng đã gặp trong Tống thị tửu lâu.
Bọn Hoàng Chung Công, Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh đứng trước bốn người kia xây lưng về phía cửa sổ. Tuy chàng không trông rõ vẻ mặt ba người này nhưng thấy bên ngồi bên đứng liền hiểu ngay địa vị tôn ti giữa hai bên.
Bỗng nghe Hoàng Chung Công đáp:
– Dạ! Thuộc hạ biết tội rồi. Bốn vị trưởng lão giá lâm mà thuộc hạ không ra xa nghinh tiếp là một tội lớn…
Lão già thân thể cao lớn cười lạt ngắt lời:
– Chà! Ra xa đón hay không ra xa đón thì có gì đáng tội? Ngươi thật khéo giả vờ! Hắc Bạch Tử đâu? Sao không thấy vào ra mắt ta?
Lệnh Hồ Xung cười thầm trong bụng:
– Hắc Bạch Tử bị mình giam vào địa lao, song bọn Hoàng Chung Công lại tưởng là hắn bỏ trốn rồi.
Hoàng Chung Công chột dạ đáp:
– Thưa bốn vị trưởng lão! Thuộc hạ quản giáo bất nghiêm mà tính tình Hắc Bạch Tử gần đây tệ hại khác trước nhiều. Mấy bữa nay y không ở trong trang.
Lão kia hỏi gằn:
– Hừ! Không ở trong trang ư? Không ở trong trang ư?
Hoàng Chung Công khẽ dạ một tiếng.
Lão già trợn mắt lên nhìn hắn. Mắt chiếu ra những tia hàn quang rùng rợn, lão hỏi:
– Hoàng Chung Công! Giáo chủ phái các ngươi coi giữ Mai trang có phải để các ngươi đánh đàn uống rượu và hội họa tiêu khiển không?
Hoàng Chung Công khom lưng đáp:
– Bọn thuộc hạ bốn người vâng chỉ ý của giáo chủ ở đây quản cố trọng phạm.
Lão kia lại hỏi:
– Đúng thế đó! Vậy tên yếu phạm đó hiện giờ ra sao?
Hoàng Chung Công đáp:
– Khai bẩm trưởng lão! Tên yếu phạm vẫn bị cầm tù dưới địa lao. Mười hai năm nay thuộc hạ không rời khỏi Mai trang nửa bước, chẳng dám khiếm khuyết chức vụ.
Lão già dằn giọng:
– Hay lắm! Hay lắm! Các ngươi không rời khỏi Mai trang nửa bước! chẳng dám khiếm khuyết chức vụ! Ngươi nói thế thì ra yếu phạm vẫn bị giam cầm ở dưới địa lao chăng?
Hoàng Chung Công đáp:
– Chính thế!
Lão già ngửng đầu nhìn tấm Thiên hoa bản. Đột nhiên lão bật tiếng cười khanh khách. Lập tức tro bụi trên thiên hoa bản rớt xuống lả tả. Lão ngừng lại một lúc rồi bảo:
– Ngươi dẫn bọn ta đi coi tên yếu phạm đó!
Hoàng Chung Công đáp:
– Xin bốn vị nguyên lượng cho! Ngày đó giáo chủ đã nghiêm lệnh bất luận là ai cũng không được vào thăm yếu phạm. Người nào trái lệnh… trái lệnh…
Lão già kia thò tay vào bọc móc ra một vật giơ cao, đồng thời lão đứng thẳng người lên. Ba người kia đang ngồi cũng lập tức đứng dậy vẻ mặt rất cung kính.
Lệnh Hồ Xung chú ý nhìn kỹ thấy cái đó dài chừng nửa thước. Nó là một mẩu gỗ đen sì, trên mặt có điêu khắc hoa văn cùng văn tự, coi rất kỳ bí.
Bọn Hoàng Chung Công ba người khom lưng nói:
– Hắc mộc lệnh bài của giáo chủ giá lâm. Bọn thuộc hạ kính cẩn tuân chỉ.
Lão già nói:
– Hay lắm! Ngươi đi dẫn yếu phạm lên đây!
Hoàng Chung Công ngần ngừ đáp:
– Chân tay yếu phạm đều bị xiềng khóa, không thể… không thể đưa lên đây được.
Lão già cười lạt hỏi:
– Đến bây giờ mà ngươi hãy còn cãi chầy cãi cối mưu chuyện lừa gạt. Ta hỏi ngươi: Tên yếu phạm đó đã trốn thoát trong trường hợp nào?
Hoàng Chung Công giật mình ấp úng hỏi lại:
– Tên yếu phạm đó… tên yếu phạm đó trốn rồi ư? Quyết… quyết không có chuyện đó. Rõ ràng hắn bị giam trong địa lao. Sao lại… sao lại trốn ra được?
Lão già kia dằn giọng:
– Hừ! Vậy ngươi nhất định không chịu nói thật rồi?
Lão chậm chạp bước lại gần, đột nhiên vươn tay ra đập vào vai Hoàng Chung Công.
Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh đồng thời lùi lại hai bước. Hai người cử động cực kỳ mau lẹ, nhưng lão già kia ra tay còn thần tốc hơn.
Hai tiếng “binh, binh” khẽ vang lên! Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh liên tiếp bị đập trúng vai bên hữu.
Đan Thanh tiên sinh lớn tiếng la:
– Bảo trưởng lão! Bọn thuộc hạ phạm tội gì mà trưởng lão… hạ độc thủ này để đối phó?
Tiếng la vừa ra chiều đau đớn vừa tỏ vẻ oán hờn.
Lão già bĩu môi nói:
– Giáo chủ sai các ngươi ở đây quản cố yếu phạm mà để yếu phạm trốn mất thì tội ấy đáng chết hay không đáng chết?
Hoàng Chung Công đáp:
– Nếu yếu phạm đã trốn thoát thực sự thì bọn thuộc hạ tội đáng muôn thác. Nhưng… nhưng rõ ràng hắn còn ở trong địa lao mà. Bảo trưởng lão đã lạm dụng độc hình khiến bọn tại hạ trong lòng không phục.
Khi lão nói câu này khẽ nghiêng mình đi, Lệnh Hồ Xung đứng ngoài cửa sổ nhìn rõ trán lão có những giọt mồ hôi lớn bằng hạt đậu không ngớt nhỏ xuống. Chàng nghĩ bụng:
– Vừa rồi Bảo trưởng lão vỗ vai Hoàng Chung Công một cái chắc là thủ pháp ghê gớm lắm nên con người bản lãnh cao thâm như hắn mà còn không chịu nổi.
Lão kia nói:
– Các ngươi cứ xuống địa lao mà coi, nếu quả yếu phạm vẫn còn ở đó thì… Bảo Đại Sở này sẽ dập đầu trước “ba vị” để tạ tội và lập tức giải khai trọng hình “Lam sa thủ” cho.
Hoàng Chung Công nói:
– Hay lắm! Xin bốn vị hãy chờ đây một chút.
Hắn liền cùng Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh lùi ra.
Lệnh Hồ Xung thấy ba người ra khỏi cửa phòng, người vẫn run lẩy bẩy, chàng không hiểu vì họ khích động hay vì trúng phải Lam sa thủ.
Chàng sợ bốn người trong nhà phát giác, nên không dám ngó qua cửa sổ nữa, từ từ ngồi xuống đất, tự hỏi:
– Không hiểu giáo chủ nào đó sai bọn Giang Nam tứ hữu ở đây canh giữ yếu phạm đã 12 năm. Dĩ nhiên yếu phạm đó không phải ta mà là Nhậm tiền bối. Chẳng lẽ Nhậm tiền bối đã trốn ra rồi ư? Lão gia trốn khỏi địa lao mà bọn Hoàng Chung Công không một ai hay biết thì thật là bản lãnh nghiêng trời thần thông quảng đại! Đúng rồi! Nhất định bọn họ không hay biết. Nếu không thì chẳng khi nào Hắc Bạch Tử lại nhận lầm ta là Nhậm tiền bối.
Chàng nghĩ tới bọn Hoàng Chung Công khi nhận ra Hắc Bạch Tử thì những chuyện ngoắt nghéo bên trong thật ly kỳ, thật buồn cười. Chàng tính thầm:
– Tại sao bọn họ lại giam ta vào địa lao? Chắc là sau khi ta tỷ kiếm với Nhậm tiền bối, họ sợ để ta ra làm tiết lộ cơ mật nên mới giam lại. Chà! Như vậy tuy không phải là giết người bịt miệng nhưng cũng chẳng khác giết người là mấy.
Chàng thấy bốn người ngồi trong nhà, không hề nói nửa lời, tự hỏi:
– Bốn người này thâm trầm ghê gớm. Họ không uống rượu, không ăn mặn thì đời người còn chi lạc thú? Vị giáo chủ kia ở giáo phái nào? Chẳng lẽ lại là Ma giáo? Ma giáo chủ là Đông Phương Bất Bại hiện là tay cao thủ đệ nhất võ lâm, võ công đứng đầu thiên hạ. Phải chăng bốn người này là trưởng lão Ma giáo nên Hoàng Chung Công mới sợ hãi đến thế? Nếu vậy thì cả bọn Hoàng Chung Công trước nay vẫn tỏ ra là nhân vật chính phái mà thực tình cũng là người Ma giáo hay sao?
Trong đầu óc Lệnh Hồ Xung, những làn sóng tư tưởng nổi lên dồn dập không ngớt. Nhưng chàng không dám thở mạnh vì lẽ bốn người kia chỉ cách chàng một bức tường và chỗ họ ngồi cách chỗ chàng ẩn không đầy một trượng, nếu chỉ hơi thở mạnh một chút là lập tức bị đối phương phát giác.
|
Đầu hàng phải uống Nảo Thần Đan
Bốn bề phẳng lặng như tờ. Đột nhiên có tiếng rên.
– Trời ơi!
Thanh âm đầy vẻ đau đớn sợ sệt. Canh khuya thanh vắng, khiến người nghe càng ớn lạnh xương sống.
Lệnh Hồ Xung biết đó là tiếng la của Hắc Bạch Tử thì lòng chàng không khỏi ngấm ngầm áy náy, mặc dù vì hắn mưu đồ ám toán mà bị quả báo.
Chàng cho là hắn lọt vào bàn tay bọn Bảo Đại Sở thì nhất định dữ nhiều lành ít.
Tiếp theo chàng lại nghe tiếng bước chân nhộn nhịp. Bọn Hoàng Chung Công tiến vào trong nhà.
Lệnh Hồ Xung lại ghé mắt nhòm qua cửa sổ thì thấy Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh chia nhau đỡ hai bên Hắc Bạch Tử.
Hắc Bạch Tử mặt xám như tro tàn. Cặp mắt lờ đờ thất thần khác hẳn với ngày trước hắn tỏ ra rất tinh minh cường kiện.
Hoàng Chung Công khom lưng nói:
– Khai bẩm… bốn vị trưởng lão!… Tên yêu phạm đó quả nhiên… đã đi mất rồi… Thuộc hạ xin nạp mình trước bốn vị trưởng lão để chịu chết.
Dường như hắn biết rằng không còn có lý nào thoát được nên giọng nói tỏ ra trấn tĩnh, không khích động như lúc trước.
Bảo Đại Sở sa sầm nét mặt hỏi:
– Ngươi bảo Hắc Bạch Tử không ở trong trang mà sao bây giờ hắn lại xuất hiện? Vụ này là thế nào đây?
Hoàng Chung Công đáp:
– Thuộc hạ không hiểu chi hết. Hỡi ơi! Vụ này đều do bọn thuộc hạ bốn người ham mê cầm, kỳ, thi, họa để đến nỗi bị người nhòm thấy chỗ sơ hở rất lớn của mình. Kẻ thi hành gian kế này chắc là mưu sâu thâm hiểm đem người ấy… đem người ấy ra thoát rồi.
Lệnh Hồ Xung không khỏi bâng khuâng tự hỏi:
– Té ra Nhậm tiền bối cũng trốn thoát rồi. Bọn này không biết thật ư?
Bỗng nhiên Bảo Đại Sở nói:
– Bọn ta bốn người vâng lệnh giáo chủ đến điều tra cho biết rõ yếu phạm tẩu thoát trong trường hợp nào. Nếu các ngươi bẩm báo sự thất đừng dấu diếm một chút gì, thì hoặc giả chúng ta có thể năn nỉ giáo chủ giảm cho, may ra giáo chủ phát lạc các ngươi một cách nhân đức.
Hoàng Chung Công thở dài nói:
– Dù cho giáo chủ có dạ từ bi, bốn vị trưởng lão đem lòng kiến cố thì bọn thuộc hạ cũng chẳng còn mặt mũi nào sống ở thế gian nữa. Có điều những chuyện ngoắt ngoéo trong vụ này mà thuộc hạ lại chẳng biết gì thì dù có chết cũng không nhắm mắt được. Bảo trưởng lão! Giáo chủ lão nhân gia có ở Hàng Châu không?
Bảo Đại Sở giương cặp mày rậm lên hỏi lại:
– Ai bảo ngươi là lão nhân gia ở Hàng Châu?
Hoàng Chung Công đáp:
– Thế thì hôm qua tên yếu phạm trốn thoát sao giáo chủ lão nhân gia đã biết ngay? Lão nhân gia vừa
hay biết liền phái bốn vị trưởng lão tới Mai trang ngay chứ gì?
Bảo Đại Sở hừ một tiếng rồi hỏi:
– Ngươi nói mỗi lúc một thêm hồ đồ. Ai bảo ngươi tên yếu phạm đó trốn đi hôm qua?
Hoàng Chung Công đáp:
– Người đó đúng là mới vượt ngục giữa trưa hôm quạ Khi đó bọn thuộc hạ ba người tưởng hắn là Hắc Bạch Tử dè đâu hắn đã dùng cách “Di hoa tiếp mộc”, đem Hắc Bạch Tử giam vào nhà lao, mặc quần áo Hắc Bạch Tử vào mình đi xông ra ngoài. Vụ này tam đệ cùng tứ đệ cố nhiên đã thấy rõ ràng. Ngoài ra Đinh Kiên còn bị hắn đá hất đi gãy mất mấy rẻ xương sườn.
Bảo Đại Sở quay lại nhìn ba vị trưởng lão kia lắc đầu nói:
– Cha này nói quanh nói quẩn, không hiểu hắn nói gì.
Người béo mập lên tiếng:
– Chúng ta mới được tin mồng tám tháng trước.
Lão vừa nói vừa bấm ngón tay tính toán rồi tiếp:
– Đến bữa nay là 24 ngày.
Hoàng Chung Công lùi lại hai bước. Bỗng nghe đánh “binh” một tiếng. Lưng hắn đập mạnh vào tường, hắn ấp úng:
– Quyết… quyết không thể thế được. Bọn thuộc hạ mắt thấy rõ ràng hắn mới trốn ra hôm qua.
Hắn đi ra đến cửa lớn tiếng gọi:
– Thi Lệnh Oai! Khiêng Đinh Kiên vào đây!
Thi Lệnh Oai ở đằng xa đáp lại:
– Dạ!
Bảo Đại Sở tiến lại trước mặt Hắc Bạch Tử nắm lấy ngực hắn nhấc người hắn lên thì thấy chân tay rũ liệt tựa hồ bao nhiêu khớp xương trong người đều gãy hết chỉ còn một túm da.
Lão gày nhom đen đủi nói:
– Đúng thế rồi! Y bị “Hấp tinh đại pháp” của thằng cha đó hút hết khí lực toàn thân rồi.
Bảo Đại Sở hỏi:
– Ngươi bị hại vào lúc nào?
Hắc Bạch Tử ấp úng đáp:
– Thuộc hạ đúng hôm qua bị hắn nắm giữ rồi không nhúc nhích được chút nào đành để mặc cho hắn muốn làm gì thì làm.
Bảo Đại Sở trong lòng rất đỗi nghi ngờ hỏi tiếp:
– Thế là nghĩa làm sao?
Hắc Bạch Tử đáp:
– Hắn kéo thuộc hạ qua lỗ vuông nhà lao, cởi hết quần áo ra rồi… lấy xiềng khóa sắt khóa vào chân tay thuộc hạ. Đoạn hắn chuồn qua lỗ vuông ra ngoài.
Bảo Đại Sở chau mày hỏi:
– Hôm qua ư? Sao lại hôm qua được?
Lão gầy nhom cũng hỏi:
– Xiềng khóa chân tay kia làm sao mà bẻ gãy được?
Hắc Bạch Tử đáp:
– Thuộc hạ thật không hiểu…
Ngốc Bút ông nói:
– Thuộc hạ xem kỹ chỗ khóa đứt thì ra hắn đã dùng một thứ cương ty cực kỳ lợi hại để cứa đứt.
Xiềng khóa đúc bằng thép nguyên chất thì thứ cương ty này phải ghê gớm lắm mới cưa đứt được.
Không hiểu hắn lấy đâu ra được thứ cương ty đó?
Ngốc Bút ông đang nói thì Thi Lệnh Oai đã dẫn hai tên gia đinh khiêng Đinh Kiên vào. Đinh Kiên được đặt xuống giường và phủ một chiếc khăn đen.
Bảo Đại Sở bóc chăn ra thò tay vào trước ngực khẽ ấn một cái. Đinh Kiên la lên một tiếng thật to, hiển nhiên hắn đau đớn vô cùng.
Bảo Đại Sở gật đầu rồi vẫy tay một cái Thi Lệnh Oai cùng hai tên gia nhân lại khiêng Đinh Kiên ra.
Bảo Đại Sở nói:
– Y bị hất quả nhiên nặng lắm. Đúng là hành động của thằng cha đó gây ra.
Người đàn bà đứng tuổi ngồi ở mé tả bây giờ mới lên tiếng:
– Bảo trưởng lão! Nếu thằng cha đó mới vượt ngục hôm qua thế thì mùng tám tháng trước chúng ta được tin e rằng tin ấy là tin giả mạo. Té ra bè đảng hắn ở bên ngoài cố ý bày ra nghi trận khiến cho chúng ta phải nao núng trong lòng.
Tuổi mụ hiển nhiên đã lớn mà thanh âm rất nên trường đẹp chăng?
Bảo Đại Sở lắc đầu đáp:
– Không có lý nào giả được.
Phu nhân hỏi lại:
– Sao lại giả được?
Bảo Đại Sở đáp:
– Tiết Hương chủ toàn thân mặc thiết giáp bằng một thứ vải sắt chế luyện rất công phu đao kiếm tầm thường chém không vào. Thế mà bị năm ngón tay y đâm thủng, móc lấy trái tim. Trừ thằng cha đó thì hiện trên đời này không còn thằng cha nào khác nữa…
Lệnh Hồ Xung nghe tới đây thì đột nhiên có người khẽ vỗ vai một cái mà trước cử động này không có triệu chứng gì khiến chàng giật mình đánh thót một cái quay phắt lại thì thấy hai người đứng ở sau lưng. Hai người này xây lưng về phía bóng trăng nên không nhìn rõ mặt. Một người vẫy tay nói:
– Huynh đệ! Chúng ta tiến vào đi!
Chính là thanh âm Hướng Vấn Thiên. Lệnh Hồ Xung cả mừng khẽ gọi:
– Hướng đại ca!
Tuy hai người nói rất khẽ mà mấy nhân vật trong nhà cũng nghe rõ.
Bảo Đại Sở quát hỏi:
– Ai?
Bỗng nghe một người nổi lên tràng cười the thé. Tiếng cười vang động cả mái ngói, chính do người đứng bên Hướng Vấn Thiên đã phát ra. Tiếng cười này khiến cho Lệnh Hồ Xung ù cả tai, chàng lại cảm thấy khí huyết trong người nhộn nhạo khó chịu khôn tả. Người kia rảo bước tiến về phía trước.
Gặp bức tường chắn ngang, y đưa hai tay ra đẩy đánh sầm một tiếng. Bức tường thủng ra một lỗ hổng lớn. Người kia liền chạy vào.
Hướng Vấn Thiên thò tay ra dắt Lệnh Hồ Xung sóng vai tiến vào trong nhà. Bọn Bảo Đại Sở bốn người đều đã đứng lên tay cầm binh khí. Vẻ mặt rất đỗi hoang mang.
Lệnh Hồ Xung nóng lòng muốn coi người đó là ai thì thấy y xây lưng về phía chàng nên không trông rõ mặt chỉ thấy mớ tóc dài đen xỏa xuống vai. Người đó mặc áo màu xanh.
Bảo Đại Sở hỏi:
– Té ra… là Nhậm… Nhậm tiền bối đã đến…
Người kia hừ một tiếng sừng sững tiến lại.
Bọn Bảo Đại Sở, Hoàng Chung Công bất giác lùi lại hai bước.
Người kia quay lại ngồi xuống chiếc ghế ở giữa nhà. Chính là chiếc ghế mà Bảo Đại Sở vừa ngồi.
Bây giờ Lệnh Hồ Xung mới nhìn rõ tướng mạo, chàng thấy mặt y dài thườn thượt, mặt cắt không còn giọt máu, nước da trắng bạch, mày thanh mắt sáng, sắc mặt y khiến cho người ta phải sợ hãi, trông chẳng khác thây ma dưới mộ móc lên.
Y đưa tay ra vẫy Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung nói:
– Hướng huynh đệ! Lệnh Hồ huynh đệ! Lại đây ngồi chơi.
Lệnh Hồ Xung nghe thanh âm này không khỏi vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, chàng hỏi:
– Lão gia! Lão gia là Nhậm tiền bối ư?
Người kia tủm tỉm cười đáp:
– Chính thị! Kiếm pháp huynh đệ rất cao minh!
Lệnh Hồ Xung nói:
– Quả nhiên tiền bối đã thoát được hiểm. Bữa nay…
Người kia cười hỏi:
– Bữa nay huynh đệ định cứu ta ra thoát khỏi lao lung, có đúng thế không? Ha ha! Ha ha! Hướng huynh đệ. Chú này có thể chơi được đây.
Hướng Vấn Thiên kéo tay Lệnh Hồ Xung đặt chàng ngồi xuống mé hữu người kia còn hắn ngồi xuống mé tả, rồi nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ gan dạ hơn người, quả là một đấng nam nhi đường đường có dũng khí trên đời.
Người kia cười nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ! khuất tất huynh đệ phải giam ở dưới đáy hồ ba tháng. Ta rấy lấy làm áy náy.
Ha ha!
Lúc này trong lòng Lệnh Hồ Xung đã ngấm ngầm hơi rõ manh mối, nhưng chàng chưa hiểu rõ hoàn toàn.
Lão Nhậm cười hề hề ngó Lệnh Hồ Xung nói:
– Tuy huynh đệ vì ta mà phải ở tù ba tháng rưỡi, nhưng đó cũng là cơ duyên khéo xếp đặt cho lão đệ luyện thành môn “Hấp tinh đại pháp” mà ta đã khắc vào tấm thiết bản. Ha ha! Cái đó ta tưởng cũng đủ để đền bù cho lão đệ rồi.
– Thần công khắc trên tấm thiết bản là của… lão tiền bối đấy ư?
Lão họ Nhậm mỉm cười đáp:
– Nếu không phải ta thì ở trên đời này còn ai hiểu được “Hấp tinh đại pháp” nữa?
Hướng Vấn Thiên cũng xen vào:
– Lệnh Hồ huynh đệ! Hấp tinh thần công của Nhậm giáo chủ ở trên đời này chỉ truyền cho một mình lão đệ mà thôi. Tiểu huynh mừng cho lão đệ.
Lệnh Hồ Xung hỏi lại:
– Lão tiền bối đây là Nhậm giáo chủ ư?
Hướng Vấn Thiên đáp:
– Té ra đến bây giờ mà lão đệ vẫn chưa rõ địa vị của Nhậm giáo chủ? Vị này chính là Nhậm giáo chủ của Triêu Dương thần giáo, húy là Nhậm Ngã Hành đó. Lão đệ đã từng nghe danh bao giờ chưa?
Lệnh Hồ Xung đã biết Triêu Dương thần giáo tức là Ma giáo. Có điều chỉ người trong giáo phái họ mới kêu là Triêu Dương thần giáo, còn người ngoài đều gọi là Ma giáo. Nhưng chàng ngạc nhiên ở chỗ giáo chủ Ma giáo là Đông Phương Bất Bại, thì sao lại mọc ra lão Nhậm Ngã Hành này?
Chàng liền ấp úng đáp:
– Tên húy Nhậm… giáo chủ, tiểu đệ có sờ thấy khắc vào tấm thiết bản, nhưng tiểu đệ chưa biết lão gia lại chính là giáo chủ.
Lão già gầy khẳng gầy kheo đột nhiên la lên:
– Y có phải là giáo chủ gì đâu! Giáo chủ của Triêu Dương thần giáo ta là Đông Phương giáo chủ, khắp thiên hạ còn ai không biết? Thằng cha họ Nhậm đây làm loạn phản thầy đã bị khai trừ và trục xuất ra khỏi môn trường. Hướng Vấn Thiên kia! Ngươi giúp kẻ phản nghịch làm điều tội lỗi mà không sợ bị tội lăng trì thảm khốc ư?
Nhậm Ngã Hành từ từ quay lại ngó chằm chặp lão cao gầy hỏi:
– Có phải ngươi là Tần Bang Vĩ không?
Lão gầy nhom dõng dạc đáp:
– Chính thị!
Nhậm Ngã Hành lại hỏi:
– Khi ta lên chấp chưởng giáo phái, có phải ngươi đang làm kỳ chủ đội Thanh Kỳ không?
Tần Bang Vĩ đáp:
– Đúng thế!
Nhậm Ngã Hành thở dài nói:
– Thế mà bây giờ ngươi đã được liệt vào hàng mười vị trưởng lão, thì ra ngươi thăng chức mau quá!
Không hiểu vì lẽ gì Đông Phương Bất Bại lại coi trọng ngươi như vậy?
Tần Bang Vĩ đáp:
– Ta hết dạ trung thành với bản giáo, hễ gặp việc là đi trước. Hơn hai chục năm hết mình phục vụ, lập nhiều công trạng, nên được thăng lên đến chức trưởng lão.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Thế là đáng lắm nhỉ?
Đột nhiên y lạng người đi một cái vọt đến trước mặt Bảo Đại Sở. Tay trái y thò ra nhằm chụp vào cổ họng đối phương.
Bảo Đại Sở sợ tái mặt. Tay phải hắn cầm đơn đao mà không kịp vung lên chém vào cánh tay Nhậm Ngã Hành. Hắn đành đưa khuỷu tay trái lên che đỡ cổ họng. Đồng thời hắn lùi chân trái lại một bước, tiện đà tay phải khoa đao chém tới.
Bảo Đại Sở ra một chiêu thủ và một chiêu phản công chỉ trong nháy mắt. Thế thủ rất nghiêm mật mà thế công cũng lợi hại vô cùng. Đúng là thủ pháp của bậc cao nhân.
Nhưng Nhậm Ngã Hành phóng tay phải còn lẹ hơn hắn một bước. Đơn đao của Bảo Đại Sở chưa chém tới y đã nắm được trước ngực đối phương.
Bỗng nghe đánh soạt một tiếng! Nhậm Ngã Hành đã móc được một vật trong bọc Bảo Đại Sở kéo ra. Chính là tấm Hắc mộc lệnh bài.
Y xoay tay mặt lại liền nắm ngay được cổ tay phải Bảo Đại Sở vặn đi một cái.
Đột nhiên ba tiếng “choảng, choảng, choảng” vang lên. Hướng Vấn Thiên đã hươi kiếm đâm Tần Bang Vĩ và hai tên trưởng lão kia, mỗi người một chiêu.
Ba tên trưởng lão đều vung binh khí lên gạt.
Hướng Vấn Thiên phóng ba chiêu này chỉ cốt để ngăn trở bọn họ không kịp cứu viện Bảo Đại Sở mà thôi.
Ba chiêu qua rồi, Bảo Đại Sở đã hoàn toàn bị Nhậm Ngã Hành kiềm chế.
Nhậm Ngã Hành mỉm cười hỏi:
– Ta chưa thi triển “Hấp tinh đại pháp” ngươi có muốn nếm một chút cho biết mùi vị không?
Bảo Đại Sở là một tay từng trải việc đời trong Ma giáo, lại biết nhiều hiểu rộng. Trong khoảng thời gian chớp nhoáng, hắn đã nghĩ ngay tới trước tình trạng này mà không đầu hàng thì ắt phải uổng mạng, chứ chẳng còn đường lối nào khác.
Hắn quyết định chủ ý rất mau lẹ, đáp ngay:
– Nhậm giáo chủ! Bảo Đại Sở này từ giờ trở đi xin tận trung với giáo chủ.
Nhậm Ngã Hành hỏi:
– Bây giờ ngươi tuyên thệ tận trung với tạ Sau này ngươi lại hối hận thì sao?
Bảo Đại Sở đáp:
– Xin Nhậm giáo chủ cho thuộc hạ đới tội lập công, lấy công chuộc tội.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Được lắm! Vậy ngươi hãy uống viên thuốc này đi.
Y nói rồi buông tay, móc trong bọc lấy cái bình sứ dốc ra một viên thuốc màu đỏ, liệng cho Bảo Đại Sở.
Bảo Đại Sở đón lấy, chẳng cần ngó lại, bỏ ngay vào miệng nuốt xuống bụng.
Tần Bang Vĩ bỗng la thất thanh:
– Đó là… Đó là “Tam thi não thần đan”?
Nhậm Ngã Hành gật đầu đáp:
– Ngươi nói đúng đó! Chính là Tam thi não thần đan.
Nhậm Ngã Hành lại lấy trong bình ra sáu viên não thần đan màu hồng nữa, tiện tay liệng xuống bàn.
Sáu viên thuốc ở trên mặt bàn vẫn lăn long lóc không ngừng. Chẳng những không viên nào rớt xuống đất, mà vẫn giữ tình trạng một viên ở giữa, năm viên xung quanh. Những viên thuốc vẫn tiếp tục xoay chuyển, cách quãng thủy chung vẫn đều đặn không thay đổi chút nào.
Nhậm Ngã Hành lại hỏi:
– Các ngươi có biết Tam thi não thần đan lợi hại thế nào không?
Bảo Đại Sở đáp ngay:
– Ai đã uống Não thần đan của giáo chủ rồi là vĩnh viễn nghe lời giáo chủ sai bảo, dẫu chết cũng chẳng dám từ nan. Nếu không thế con thi trùng trong viên thuốc đang nằm chết cứng tự nhiên hoạt động trở lại chui vào trong óc mà cắn não tủy. Dĩ nhiên là nạn nhân đau đớn không thể chịu nổi, hành động lại càng càn rỡ điên rồ, so với bị chó dại cắn còn ghê gớm hơn.
Nhậm Ngã Hành hỏi:
– Ngươi nói đúng lắm! Nhưng ngươi đã biết Não thần đan linh nghiệm là thế mà sao còn dám cả gan nuốt vào?
Bảo Đại Sở đáp:
– Từ nay trở đi thuộc hạ đã nhất tâm trung thành với giáo chủ thì Não thần đan có lợi hại gấp trăm lần nữa cũng chẳng can gì cho thuộc hạ.
Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:
– Hay lắm! Hay lắm! – đây còn ai muốn uống nữa không?
Hoàng Chung Công, Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh ngơ nhác nhìn nhau. Họ đều biết rằng Bảo Đại Sở nói thế là đúng sự thật.
Bọn trưởng lão ở trong Ma giáo lâu ngày đã biết trong những viên “Tam thi não thần đan” có giống thi trùng bình thường chúng không phát tác thì chẳng có chi khác lạ. Nhưng cứ đến giờ ngọ ngày tết Đoan Ngọ mà không uống thêm thuốc của Nhậm Ngã Hành không được.
Nguyên chất thuốc đó kiềm chế thi trùng đã hết hiệu nghiệm thì con trùng lại hoạt động xuyên vào trong óc khiến cho người hành động như yêu quái lý tính khác thường. Khi lý tính đã thất thường, thì cắn cả cha mẹ vợ con để ăn thịt. Hiện nay chất độc đến thứ này là tệ nhất.
Mọi người còn đang ngần ngừ, Hắc Bạch Tử bỗng lớn tiếng:
– Giáo chủ từ bi! thuộc hạ xin được uống một viên trước.
Hắn nói xong gắng gượng đi tới bên bàn, với tay lên định lấy thuốc.
Nhậm Ngã Hành khẽ phất tay áo một cái. Hắc Bạch Tử chân đứng không vững ngã nằm ngửa xuống đánh huỵch một tiếng. Đầu đụng vào tường khá mạnh.
Nhậm Ngã Hành cười lạt bảo:
– Ngươi đã mất hết công lực biến thành phế nhân thì còn uống linh đan diệu dược của ta thế nào được?
Rồi y quay lại hỏi:
– Tần Bang Vĩ! Vương Thành! Tang Tam Nương! các ngươi không muốn uống linh dược của ta chăng?
Thiếu phụ trung niên là Tang Tam Nương khom lưng đáp:
– Thuộc hạ xin thề từ nay trở đi tận trung giáo chủ, quyết chẳng hai lòng.
Một lão nữa người béo chùn béo chụt là Vương Thành nói:
– Thuộc hạ cũng xin kính cẩn tuân theo mệnh của giáo chủ.
Hai người liền đến bên bàn, mỗi người thò tay lấy một viên nuốt.
Nguyên hai người này từ trước nay vốn úy kỵ Nhậm Ngã Hành. Nay thấy y vượt ngục ra được thì chẳng còn hồn vía nào nữa. Vì sợ quá nên hai người không dám ho he phản kháng.
Còn Tần Bang Vĩ ở lấy đầu mục hạng giữa mới được thăng lên. Lúc Nhậm Ngã Hành nắm giữ quyền bính, hắn đi trông coi mấy huyện trong tỉnh Giang Tây chưa biết thủ đoạn lợi hại của Nhậm Ngã Hành. Vừa thấy Vương Thành và Tang Tam Nương tiến lại lấy thuốc uống, hắn liền la lên:
– Ta xin kiếu đây!
Hắn chí đầu ngón chân xuống nhảy vọt ra cửa sổ ngoài.
Nhậm Ngã Hành bật lên tiếng cười khanh khách. Y không đứng lên ngăn cản, chờ cho Tần Bang Vĩ chuồn qua cửa sổ rồi mới phất tay một cái. Một cây trường tiên màu đỏ từ trong tay áo vọt ra.
Mọi người vừa hoa mắt lên bỗng nghe Tần Bang Vĩ “ối” lên một tiếng. Cây trường tiên từ trong cửa sổ vọt ra đã quấn lấy chân hắn kéo ngược trở lại.
Cây trường tiên này chỉ lớn bằng đầu ngón tay út, thế mà Tần Bang Vĩ bị nó quấn lấy mắt cá chân trái, đành nằm lăn lộn dưới đất không lối nào đứng lên được.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Tang Tam Nương! Ngươi hãy lấy một viên thi não thần đan bóc cẩn thận lần vỏ ngoài đi!…
Tang Tam Nương dạ một tiếng rồi cầm một viên thuốc trên bàn, mụ đưa mấy ngón tay nhỏ nhắn ra bóc lần vỏ màu hồng bên ngoài. Bên trong lộ ra một viên tròn nhỏ mầu xám.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Nhét cho nó uống đi!
Tang Tam Nương đáp:
– Dạ!
Rồi chạy đến Tần Bang Vĩ quát:
– Há miệng ra!
Tần Bang Vĩ xoay mình lại phóng chưởng véo một cái nhằm đánh Tang Tam Nương.
Võ công Tần Bang Vĩ so với Tang Tam Nương chỉ kém một chút nhưng hai người cách nhau khá xa, chân hắn lại bị cây trường tiên quấn lấy, huyệt đạo bị kiềm chế nên kình lực ở cánh tay bị giảm sút rất nhiều.
Tang Tam Nương phóng chân trái đá vào cổ tay hắn. Mụ giơ chân phải lên nện trúng ngực hắn đánh “binh” một tiếng. Tiếp theo chân trái mụ thi triển thế Uyên ương liên hoàn đá vào bả vai hắn.
Tay trái Tang Tam Nương giữ bóp má Tần Bang Vĩ còn tay phải nhét viên thuốc đã bóc vào miệng hắn.
|
Trả bản đàn Chung Công tự vận
Tần Bang Vĩ đã bị cây trường tiên mầu hồng quấn giữ chân trái toàn thân hắn liền bị kiềm chế. Tang Tam Nương lại đá luôn ba phát trúng vào ba nơi huyệt đạo, khiến hắn không nhúc chích được nữa.
Miệng hắn bị Tang Tam Nương bóp cho há ra rồi nhét viên “Tam thi não thần đan” vào. Hắn cố ý nhổ ra mà không được.
Tang Tam Nương lại đưa tay mặt ra bóp cổ họng Tần Bang Vĩ đánh “ặc” một tiếng. Thế là viên thuốc nuốt xuống bụng rồi.
Lệnh Hồ Xung thấy chân tay Tang Tam Nương cử động chân ngoăn ngoắt, ra vẻ rất thành thạo, bất giác chàng lẩm bẩm:
– Thủ cước mụ này lanh lợi ghê thật.
Chàng có biết đâu mụ chuyên về công phu cầm nã và đánh xáp lá cà. Người nào đấu với mụ đứng gần quá thì dù bản lãnh có cao hơn mụ một bậc mà sơ ý một chút là bị mụ thừa cơ hạ ngaỵ Bữa nay là buổi đầu mụ qui đầu Nhậm Ngã Hành, dĩ nhiên mụ phấn khởi tinh thần một là để phô trương thủ đoạn, hai là để tỏ dạ trung thành và đắc lực với chủ mới.
Nhậm Ngã Hành lẩm nhẩm gật đầu ra chiều vừa ý.
Tang Tam Nương nét mặt vẫn thản nhiên, đứng sang một bên, thái độ khép nép kính cẩn.
Mọi người lúc nãy mới nghe Bảo Đại Sở nói trong viên “Tam thi não thần đan” có đặt giống thi trùng cứng đơ vì bị chất thuốc kiềm chế, thì chắc rằng Tang Tam Nương vừa bóc lần vỏ bọc màu hồng tức là bỏ chất thuốc đó đi để con thi trùng hành hạ Tần Bang Vĩ.
Nhậm Ngã Hành lại đưa mắt nhìn bọn Hoàng Chung Công, Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh ba người hiển nhiên để hỏi ý bọn họ có chịu uống “Tam thi não thần đan” hay không?
Ngốc Bút ông không nói gì, lẳng lặng đến bên bàn cầm lấy một viên bỏ vào miệng nuốt.
Đan Thanh miệng lẩm bẩm không hiểu y nói gì, rồi sau cũng lại lấy một viên uống.
Hoàng Chung Công nét mặt cực kỳ thê thảm, thò tay vào bọc móc ra một cuốn giấy, chính là bản nhạc “Tiếu Ngạo Giang Hồ”. Y tiến lại trước mặt Lệnh Hồ Xung nói:
– Tôn giá võ lâm đã cao thâm lại lắm mưu nhiều trí, bày ra xảo kế cứu được Nhậm Ngã Hành thoát vòng tù ngục. Chà chà! Tại hạ bái phục sát đất. Bản cầm phổ này làm hại bốn anh em tại hạ đến thân tàn danh bại. Vậy xin đem nguyên vật trả về chủ cũ.
Dứt lời y liệng bản cầm phổ vào lòng Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung đang ngẩn người ra thì thấy Hoàng Chung Công xoay mình trở lại bên bàn. Lòng chàng rất áy náy bụng bảo dạ:
– Việc cứu thoát Nhậm giáo chủ thoát khỏi chốn lao lung hoàn toàn nhờ ở mưu kế của Hướng đại ca, chính mình trước kia cũng chẳng hiểu gì ráo. Nhưng bọn Hoàng Chung Công đem lòng oán hận mình cũng là lẽ thường, mình chẳng còn cách nào giải thích được nữa.
Bỗng nghe Hoàng Chung Công khẽ “hự” một tiếng rồi người y từ từ rũ xuống.
Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh hốt hoảng đồng thanh la:
– Đại ca! Đại ca!
Rồi chạy lại nâng đỡ thì thấy trước ngực Hoàng Chung Công đã cắm lưỡi đao trủy thủ. Cặp mắt trợn tròn xoe, y tắt thở chết rồi.
Ngốc Bút ông và Đan Thanh líu lưỡi gọi:
– Đại ca! Đại ca!
Đoạn khóc òa lên.
Vương Thành quát bảo:
– Hoàng Chung Công đã không tuân chỉ ý của giáo chủ lại còn sợ tội tự tử, thế là đáng gia tội lên một tầng nữa, các ngươi còn làm nhộn chi vậy?
Đan Thanh mặt giận hầm hầm, quay phắt lại, toan nhảy xổ vào liều mạng với Vương Thành.
Vương Thành quát hỏi:
– Sao! Ngươi muốn làm phản chăng?
Đan Thanh nhớ tới mình đã uống “Tam thi não thần đan”, từ đây không được trái lệnh Nhậm Ngã Hành nữa. Bao nhiêu lửa giận tiêu tan liền, y đành cúi đầu gạt lệ.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Hãy khiêng xác chết và tên phế nhân này ra ngoài kia rồi lấy rượu thịt ra đây. Bữa nay ta cùng Hướng huynh đệ và Lệnh Hồ huynh đệ uống say một bữa.
Ngốc Bút ông dạ một tiếng rồi ôm thi thể Hoàng Chung Công đi. Đoạn y sai gia nhân đem bát vào sáu chỗ ngồi.
Bảo Đại Sở nói:
– Bày bàn ba chỗ thôi. Chúng ta ngồi cùng giáo chủ thế nào được?
Y vừa nói tay vừa dọn bàn giúp gia nhân.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Bữa nay các vị cũng phải một phen tân khổ, vậy ra ngoài kia cùng nhau uống chén tẩy trần.
Bảo Đại Sở, Vương Thành cùng Tang Tam Nương khom lưng đáp:
– Tạ Ơn giáo chủ đã ban ân cho.
Rồi từ từ lui ra.
Lệnh Hồ Xung thấy Hoàng Chung Công tự tử, liền nghĩ đến y là một hảo hán nghĩa liệt, lại nhớ tới bữa trước y đã viết thư cho Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm yêu cầu nhà sư này chữa bịnh cho mình, đúng là có hảo tâm với mình, lòng chàng bất giác nổi lên mối thương cảm.
Bỗng nghe Hướng Vấn Thiên cười nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ! Hiền đệ nhờ có duyên mà học được “Hấp tinh đại pháp” của giáo chủ trong trường hợp nào? Hãy kể lại cho tiểu huynh nghe!
Lệnh Hồ Xung liền đem chuyện phát giác tự tích khắc trên tấm thiết bản trong trường hợp nào, Hắc Bạch Tử đến khẩn cầu mình truyền công ra sao, chàng tự mình luyện tập thế nào nhất nhất thuật lại.
Hướng Vấn Thiên cười nói:
– Cung hỉ! Cung hỉ hiền đệ. Bấy nhiêu cơ duyên phải đủ hết nếu khiếm khuyết một điều cũng không được. Thế mới biết: cố ý trồng hoa hoa chẳng nảy, vô tâm tiếp liễu liễu xanh om.
Nhậm Ngã Hành và Lệnh Hồ Xung cũng cạn chén theo.
Nhậm Ngã Hành cười nói:
– Vụ này thiệt nguy hiểm vô cùng! Khi ta khắc bí quyết thần công vào tấm thiết bản vị tất đã có hảo tâm gì đâu. Bí quyết thần công tuy là sự thật, song nếu không được chính ta chỉ điểm phương pháp tán công, mà cứ theo yếu quyết khắc trên thiết bản tự mình rèn luyện thì nhất quyết phải đi vào đường tẩu hỏa nhập ma, cả ngàn người không một ai chạy thoát. Thế mà Lệnh Hồ huynh đệ luyện được thành công thì quả đó lòng trời.
Lòng bàn tay Lệnh Hồ Xung toát mồ hôi lạnh ngắt, chàng đáp:
– May mà…
Chàng muốn nói: “May mà vãn bối đã bạt những bí quyết đó đi rồi”.
Nhưng chàng lại nghĩ Nhậm Ngã Hành phải phí bao nhiêu tâm lực khắc bí quyết lưu lại cốt để hại người, nếu lão biết chàng đã bạt đi rồi tất sinh lòng tức giận. Chàng liền đổi giọng:
– May mà… nội lực của vãn bối đã mất hết, khỏi phải tán công, nếu không thì hậu quả chưa biết đến đâu mà lường. Hướng đại ca! Nhậm giáo chủ làm thế nào mà thoát ra khỏi hắc lao được? Đến nay tiểu đệ vẫn chưa hiểu rõ.
Hướng Vấn Thiên cười khà khà móc trong bọc ra một vật nhét vào tay Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Cái này là cái gì?
Lệnh Hồ Xung thấy vật trong tay mình hình tròn mà rắn chắc. Đúng là cái mà bữa trước Hướng Vấn Thiên đã đưa cho chàng để trao lại cho Nhậm Ngã Hành.
Lệnh Hồ Xung mở bàn tay ra nhìn lại thấy đó là một trái cầu bằng gang thép. Trên trái cầu có khảm một hạt cương châu. Chàng bấm hạt cương châu thì thấy nó chuyển động mấy vòng, rồi một sợi cương ty rất nhỏ thò ra. Sợi cương ty này một đầu dính liền vào hạt cương châu. Trên sợ cương ty lại có răng cưa. Đó chính là một lưỡi cưa bằng thép chế tạo cực kỳ tinh xảo.
Lệnh Hồ Xung tỉnh ngộ nói:
– Té ra giáo chủ đã dùng sợi cương ty này để cắt đứt những xiềng khóa ở chân tay.
Nhậm Ngã Hành cười nói:
– Hôm ấy trong mấy tiếng cười lớn, ta đã dùng công lực thượng thặng làm chấn động bọn các ngươi năm người phải ngã lăn ra, rồi ta dùng cương ty cắt đứt xiềng khóa chân taỵ Còn về sau ngươi đối với Hắc Bạch Tử thế nào thì ta đối xử với người cũng vậy.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Té ra giáo chủ cũng đổi quần thay áo, rồi đem xiềng khóa sắt mắc vào chân tay vãn bối. Chẳng trách bọn Hoàng Chung Công không phác giác ra được.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Kể ra việc lừa gạt bọn Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử không phải chuyện dễ dàng, nhưng sau khi bọn họ tỉnh lại, giáo chủ cùng ta đã ra khỏi Mai trang rồi. Bọn Hắc Bạch Tử thấy ta để lại kỳ phổ cùng thư họa thì mừng quá đỗi, khi nào còn nghĩ tới trong hắc lao đã xảy ra chuyện đánh tráo tù nhân?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thần cơ diệu toán của đại ca thật ít người bì kịp.
Rồi chàng nghĩ bụng:
– Té ra y đã sắp đặt đâu vào đấy, cố ý để lại những đồ thị hiếu khiến cho họ dễ bị mắc lừa. Nhưng không hiểu sao giáo chủ thoát nạn đã lâu mà không thấy đến cứu mình?
Hướng Vấn Thiên nhìn vẻ mặt đã đoán ra tâm ý chàng liền cười nói:
– Hiền đệ! Sau khi giáo chủ thoát nạn, còn nhiều việc khẩn cấp phải làm ngay và phải giữ kín không cho bọn đối đầu hay biết, nên đành để hiền đệ chịu khuất tất ở trong hắc lao dưới đáy hồ thêm ít bữa. Hôm nay chúng ta định đến cứu hiền đệ đây. May ở chỗ nhân họa thành phước, như vậy cũng đủ đền bù rồi. Ha ha! Ca ca chỉ còn việc xin lỗi chú nữa là xong.
Hắn nói xong rót đầy rượu vào chung cho cả ba người rồi tự mình uống trước một chung.
Nhậm Ngã Hành cười khanh khách nói:
– Ta cũng xin lỗi Lệnh Hồ huynh đệ.
Lệnh Hồ Xung bụng dạ khoát đạt, huống chi việc đã qua rồi, chàng không để tâm nữa, liền cười hỏi:
– Làm sao các vị lại xin lỗi, chính ra vãn bối phải thâm tạ hai vị mới đúng. Vãn bối trong mình bị nội thương chẳng có cách nào trị được, may nhờ thần công của giáo chủ mà tự nhiên hết bệnh, vãn hồi được sinh mạng. Đó là cái ơn tái tạo.
Ba người cùng nổi lên tràng cười rộ ra chiều khoan khoái vô cùng.
Sau khi đã cạn mười mấy chung rượu rồi, Lệnh Hồ Xung cảm thấy Nhậm giáo chủ là người hào sảng, kiến thức cũng không phải hạng tầm thường. Đáng là một vị đại anh hùng đại hào kiệt trên đời hiếm có, không thể lấy lẽ thường mà đo bụng dạ lão được.
Lúc trước chàng thấy Nhậm Ngã Hành đối xử với bọn Tần Bang Vĩ, Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử bằng một thủ đoạn tàn độc thì cũng có ý bất mãn, nhưng sau chàng nghe lão đàm luận một hồi, bao nhiêu mối bất bình dần dần tiêu tan hết.
Nhậm Ngã Hành uống cạn chung rượu rồi nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ! Ta đối với bọn địch nhân thường ra tay cực kỳ thảm khốc, luật lệ của ta vô cùng nghiêm khắc. Có khi huynh đệ chưa quen chứng kiến phải lấy làm buồn. Nhưng huynh đệ thử nghĩ coi: Ta bị bọn chúng giam cầm trong hắc lao dưới đáy hồ đã lâu ngày, huynh đệ cũng đã nếm qua cảnh tù ngục cực nhục là thế nào rồi. Người ta đối với mình như vậy, thì mình đối với những tên bạn đồ kia khó mà nhân từ được.
Lệnh Hồ Xung gật đầu khen phải. Chàng chợt nhớ ra điều gì liền đứng dậy nói:
– Vãn bối có điều muốn thỉnh cầu, mong được giáo chủ ưng thuận.
Nhậm Ngã Hành hỏi:
– Điều chi?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối tưởng lại buổi đầu tiên được gặp giáo chủ, Hoàng Chung Công đã nói giáo chủ mà thoát ra khỏi chốn lao lung trở lại giang hồ thì ngay một phái Hoa Sơn ít ra là bị chết hết quá nửa. Vãn bối còn được nghe chính miệng giáo chủ nói ra nếu còn gặp sư phụ vãn bối sẽ làm cho người phải cay cực không chịu nổi. Giáo chủ bản lãnh thông thần như vậy mà muốn gây sự với phái Hoa Sơn thì còn ai chống chọi được?…
Nhậm Ngã Hành ngắt lời:
– Ta được Hướng huynh đệ đây cho hay là sư phụ của lão đệ đã thông tư đi khắp thiên hạ trục xuất lão đệ ra khỏi môn trường phái Hoa Sơn. Nếu ta có làm khổ nhục hắn hay đi xa hơn nữa là tiêu diệt phái Hoa Sơn xóa hẳn tên phái này trong võ lâm há chẳng làm cho lão đệ hả giận ư?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:
– Vãn bồi mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, nhờ ơn sư phụ cùng sư nương thu vào làm môn hạ và nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn tuy danh thầy trò mà tình chẳng khác cha con. Gia sư có đuổi vãn bối ra khỏi môn phái thì một là vì vãn bối quả tình làm nên tội lỗi, hai là vì có chỗ hiểu lầm. Bất luận trường hợp nào, vãn bối cũng không dám oán hận ân sư.
Nhậm Ngã Hành mỉm cười hỏi:
– Lệnh Hồ huynh đệ đã nói vậy thi dù Nhạc Bất Quần có vô tình với lão đệ, lão đệ cũng quyết không chịu bất nghĩa với hắn hay sao?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Điều mà vãn bối thỉnh cầu giáo chủ là tấc dạ khoan hồng đại độ, xin giáo chủ đừng làm khó dễ với sư phụ, sư nương cùng sư đệ, sư muội của vãn bối.
Nhậm Ngã Hành trầm ngâm một lát rồi nói:
– Ta thoát được chốn hắc lao, cũng nhơ công lão đệ xuất lực rất nhiều, nhưng ta đã truyền Hấp tinh đại pháp để cứu mạng cho lão đệ. Thế là hai bên có vay có trả cả rồi, không ai nợ ai nữa. Nay ta trở lại giang hồ có rất nhiều chuyện đền ân trả oán, không thể hứa với lão đệ điều gì đệ tự ràng buộc chân tay.
Lệnh Hồ Xung nghe Nhậm Ngã Hành nói thì ra lão nhất định kiếm chuyện với Nhạc Bất Quần, bất giác trong lòng nóng mảy vô cùng, vẻ bồn chồn lộ ra ngoài mặt.
Nhậm Ngã Hành thấy vậy cười ha hả nói:
– Lão đệ! Lão đệ hãy ngồi xuống đã. Hiện nay ta ở trên đời chỉ có Hướng đệ và lão đệ là hai người thân tín. Lão đệ đã có việc cầu ta thì thế nào cũng có thể nhân nhượng. Thôi bây giờ thế này vậy:
Lão đệ ưng chịu một điều kiện với ta, thì ta cũng nhân nhượng một điều. Từ nay ta có gặp thầy trò phái Hoa Sơn bọn họ đừng tỏ ra bất kính đối với ta, thì ta cũng không gây chuyện đối với họ. Giả tỷ có cần giáo huấn bọn họ ta cũng nể mặt lão đệ mà nương tay mấy phần. Như vậy lão đệ đã vừa lòng chưa?
Lệnh Hồ Xung cả mừng đáp:
– Giáo chủ có điều chi dạy bảo, vãn bối nhất nhất tuân theo.
Nhậm Ngã Hành hỏi:
– Ta muốn cùng hai vị kết nghĩa kim lan, tình đồng huynh đệ cùng hưởng hạnh phúc cùng chia hoạn nạn. Hướng huynh đệ thăng lên chức Quang Minh tả sứ, còn lão đệ nhận chức Quang Minh hữu sứ trong Triều Dương thần giáo của tạ Y¨ lão đệ thế nào?
Lệnh Hồ Xung vừa nghe Nhậm Ngã Hành nói vậy, chàng rất đỗi ngạc nhiên, vì chàng không bao giờ ngờ tới lão lại rủ chàng gia nhập Ma giáo. Từ thuở nhỏ chàng đã được nghe sư phụ cùng sư nương nhắc tới sự tích gian tà độc ác của Ma giáo. Bây giờ tuy chàng đã bị trục xuất ra khỏi phái Hoa Sơn, trong lòng chỉ ước ao làm thân hạc nội mây ngàn, hay một tán nhân trên chốn giang hồ, không thuộc môn phái nào hết. Còn qui đầu Ma giáo thì nhất định không thể được. Trong lúc thảng thốt, ruột rối như mối bòng bong, chàng không biết trả lời thế nào cho tiện.
Nhậm Ngã Hành cùng Hướng Vấn Thiên ngó chàng chằm chặp. Trong nhà bỗng thành yên lặng như tờ, không một tiếng động.
Sau một lúc khá lâu Lệnh Hồ Xung mới đáp:
– Mỹ ý của giáo chủ khiến cho Lệnh Hồ Xung này rất lấy làm khó nghĩ. Mình là kẻ hậu tiến mạt học, khi nào dám kề vai hô huynh gọi đệ với giáo chủ? Hơn nữa, vãn bối tuy hiện giờ không còn là người phái Hoa Sơn nhưng vẫn mong sư phụ có ngày hồi tâm chuyển ý thu hồi lệnh trục xuất…
Nhậm Ngã Hành cười ruồi nói:
– Lão đệ kêu ta bằng giáo chủ, nhưng tính mạnh ta sống nay chết mai cũng chưa biết chừng. Hai chữ giáo chủ chỉ nói cho nghe êm tai mà thôi. Hiện nay khắp thiên hạ ai cũng biết giáo chủ Triều Dương thần giáo là Đông Phương Bất Bại. Lão này võ công cao cường nhất định chẳng kém gì ta, mà mưu trí lại hơn ta nhiều. Dưới trướng hắn nhân tài đầy rẫy, thế thì ta cùng Hướng huynh đệ hai người muốn cướp lại ngôi giáo chủ trong tay hắn không có khác gì lấy trứng chọi với đá và đó chỉ là những cử động ngu dại, hão huyền. Lão đệ không muốn kết làm anh em với ta cũng là một mỹ sự để giữ mình một cách sáng suốt. Này này! Chúng ta bây giờ chỉ uống rượu nói chuyện vui cười hay hơn, không đề cập đến những chuyện đó nữa.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Quyền vị của giáo chủ tại sao lại bị Đông Phương Bất Bại tranh đoạt? Vì lẽ gì giáo chủ bị cầm tù tại chốn hắc lao? Những chuyện đó vãn bối chẳng hiểu chi hết. Liệu hai vị có nói cho vãn bối nghe được chăng?
Nhậm Ngã Hành lắc đầu, nở một nụ cười thê lương đáp:
– Ta ở dưới đáy hồ đã 12 năm, danh lợi quyền vị gì coi cũng nhạt phèo rồi. Hà hà! Có điều tuổi càng già thì lòng càng nóng nảy mà thôi.
Nhậm Ngã Hành nói xong rót đầy rượu vào chung uống một hơi cạn sạch rồi bật lên tràng cười ha hả rất lâu, song tiếng cười đầy vẻ thê lương.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ! Bữa trước Đông Phương Bất Bại phái bao nhiêu người đi rượt ta, thủ đoạn họ tàn độc thế nào, chính mắt hiền đệ đã chứng kiến rồi đó. Nếu hiền đệ không giàu lòng trượng nghĩa ra tay viện trợ thì ta đã bị chúng băm vằm nát ra như tương ở quán lương đình. Trong con mắt hiền đệ còn phân chia hai phe chính tà, nhưng hôm ấy bọn chúng mấy trăm người liên thủ hạ sát cả đôi ta thì liệu có phân biệt được chính tà nữa không? Sự thực là ở người: trong phái chính dĩ nhiên là lắm người tử tế nhưng há phải không có kẻ đê hèn gian ác? Người trong Ma giáo quả chẳng thiếu chi phường tồi bại, song cũng có những người như ba chúng ta đây ra mà nắm giữ quyền binh, chỉnh đốn mọi việc cho đâu vào đấy, thanh trừ hết bọn gian ác đê hèn, há chẳng khiến cho những bậc hào kiệt trên chốn giang hồ phải mở mắt ra mà nhìn?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lời đại ca thật là chí lý.
Hướng Vấn Thiên lại nói:
– Ngày trước, giáo chủ đây đối với Đông Phương Bất Bại chẳng khác chân tay ruột thịt, đề bạt hắn lên làm chức Quang Minh tả sứ. Bao nhiêu quyền hành bản giáo đều giao cho hắn. Hồi ấy giáo chủ tĩnh tâm tu luyện “Hấp tinh đại pháp” để sửa chữa lại những điểm nhỏ nhặt hãy còn thiếu sót sai trật, nên không rảnh để tâm đến công việc thường nhật trong bản giáo. Dè đâu Đông Phương Bất Bại mặt người dạ thú. Bên ngoài hắn giả bộ cực kỳ cung kính, bất cứ việc gì hắn cũng tỏ ra rất trung thành không dám mảy may vị phản, mà bề trong hắn ngấm ngầm gây dựng thế lực. Hắn bịa ra lắm chuyện để trừ khử những thuộc hạ trung thành của giáo chủ, hoặc là cách chức, hoặc đem xử tử. Chỉ trong vài năm mà bao nhiêu những kẻ thân tín của giáo chủ phải điêu tàn tan tác gần hết. Giáo chủ lại là người trung hậu chí thành. Ngài thấy Đông Phương Bất Bại ra vẻ thành kính mà công việc bản giáo hắn lại xếp đặt đâu vào đấy, nên chẳng chút hoài nghi.
Nhậm Ngã Hành thở dài nói:
– Hướng huynh đệ! Mỗi lần ta nghĩ tới vụ này trong lòng lại hổ thẹn vô cùng. Huynh đệ đã mấy phen đưa lời trung thực can gián và nhắc ta cần phải gia tâm đề phòng. Nhưng ta đã tín nhiệm Đông Phương Bất Bại một cách thái quá, những lời trung ngôn thường hay trái tai. Ta đã không nghe còn trách huynh đệ nặng lòng ghen ghét đưa lời ly dán, gây chuyện thị phi khiến cho huynh đệ tức giận bỏ đi, từ đó không thấy mặt nữa.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Thuộc hạ quyết chẳng bao giờ dám có lòng oán hận giáo chủ, chỉ vì mình nhận ra tình thế có điền ngoắt ngoéo nguy nan mà thằng cha Đông Phương Bất Bại lại bố trí rất nghiêm mật, có thể xảy tai nạn đến nơi. Nếu thuộc hạ còn thị phụng kề cận bên mình giáo chủ tất bị mắc tay độc thủ. Tuy thuộc hạ đã nghĩ đến việc hy sinh cho bản giáo là phận sự của người đệ tử, nhưng sau khi suy đi tính lại thì thấy mình tạm lánh đi là hơn. Nếu giáo chủ soi thấy lòng gian của hắn khiến hắn không thi mưu phản nghịch được là hay hơn hết. Bằng không còn thuộc hạ Ở bên ngoài giám thị nghiêm mật, ít ra cũng khiến hắn phải đem lòng úy kỵ mà không dám càn rỡ thái quá.
Nhậm Ngã Hành gật đầu nói:
– Đúng thế! Nhưng khi ấy ta đâu có biết nỗi khổ tâm của huynh đệ? Ta thấy huynh đệ không cáo từ bỏ đi thì trong lòng rất căm hận. Lại gặp lúc luyện công tới kỳ tối quan trọng, rất dễ sảy ra nguy hiểm bối rối. Một mặt Đông Phương Bất Bại càng làm ra vẻ ân cần. Hắn khuyên can ta không nên nóng giận để mất bình tĩnh mà hư việc lớn. Vì thế ta càng trúng phải gian kế của hắn, lại đem cả bí lục Qùy Hoa Bảo Điển của bản giáo truyền cho hắn.
Lệnh Hồ Xung nghe Nhậm Ngã Hành nói đến bốn chữ “Qùy Hoa Bảo Điển”, chàng không tự chủ được nữa, bật lên tiếng ủa ra chiều kinh ngạc.
Hướng Vấn Thiên hỏi:
– Hiền đệ! Hiền đệ cũng biết “Qùy Hoa Bảo Điển” ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu đệ từng nghe sư phụ nói tới cái tên “Qùy Hoa Bảo Điển” và chỉ biết đó là một pho bí lục về võ học cực kỳ tinh thâm bát ngát, nhưng tiểu đệ không ngờ Bảo Điển này lại ở trong tay giáo chủ.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Mấy trăm năm nay “Qùy Hoa Bảo Điển” là vật chí bảo trấn sơn của Triêu Dương thần giáo. Trải bao nhiêu năm giáo chủ đời trước truyền lại cho giáo chủ đời sau. Hồi ta tu luyện “Hấp tinh đại pháp” bỏ ngủ quên ăn, bao nhiêu tâm trí mài miệt vào việc luyện công. Bất cứ việc gì cũng chẳng để tâm đến nữa. Cả ngồi giáo chủ cũng muốn truyền sang cho Đông Phương Bất Bại, nên mới đem “Qùy Hoa Bảo Điển” truyền cho hắn, cốt tỏ cho hắn hiểu rõ rằng là chẳng bao lâu nữa ta sẽ trao chức. Hỡi ơi! Đông Phương Bất Bại là người thông minh ghê gớm, thế mà ngôi giáo chủ rõ ràng ta đã giao vào tay hắn sao hắn còn nóng nảy khó chịu chờ đợi ít lâu để ta chính thức triệu khai đại hội công bố với mọi người mà lại tính bề phản nghịch gây nên nguy hiểm?
Nhậm Ngã Hành nhíu cặp lông mày, dường như cho đến bây giờ lão vẫn chưa hiểu vụ này ra sao?
Hướng Vấn Thiên nói:
– Một là hắn không muốn chờ đợi vì chẳng hiểu bao giờ giáo chủ mới chính thức truyền ngôi. Hai là hắn vẫn hồi hộp trong lòng chỉ sợ xảy ra biến cố.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Thực ra hắn đã bố trí rất thỏa đáng thì việc gì mà sợ biến cố xảy ra đột ngột? Đó là điều khiến cho người ta khó bề giải thích. Ta ở trong hắc lao đã tĩnh tâm suy nghĩ muốn tìm cho ra chỗ gian mưu của hắn,
vì lý do gì hắn không chờ đợi? Đến nay ta vẫn nghĩ không ra. Ta chỉ biết rằng hắn vẫn úy kỵ lão đệ và nghi ngờ không chừng ta sẽ đem ngôi giáo chủ truyền lại cho đệ thì hắn mất phần. Nhưng lão đệ không cáo từ bỏ đi tức là hắn đã nhổ được cái đinh trước mắt thì còn lo gì mà không chờ đợi?
Hướng Vấn Thiên hỏi:
– Năm ấy Đông Phương Bất Bại mở một đại tiệc vào buổi tối ngày tết Đoan Ngọ, trên tiệc tiểu thư đã nói một câu giáo chủ còn nhớ không?
Nhậm Ngã Hành gãi đầu gãi tai ra chiều suy nghĩ một lúc rồi hỏi lại:
– Ngày tết Đoan Ngọ ư? Tiểu Linh Linh còn là đứa con nít đã nói gì nhỉ? Câu nói đó có can hệ gì?
Ta quên hết rồi.
Hướng Vấn Thiên đáp:
– Giáo chủ đừng tưởng tiểu thư là đứa con nít. Cô thông minh lanh lợi mà suy nghĩ rất hay chẳng thua kém người lớn. Năm ấy tiểu thư mới lên tám. Cô đứng trên tiệc đếm người rồi hỏi giáo chủ: “Gia gia! Tại sao ngày tết Đoan Ngọ mỗi năm mở tiệc uống rượu lại bớt đi một người?”. Giáo chủ ngẩn ngơ hỏi lại: “Sao mỗi năm lại bớt một người?”. Tiểu thư đáp: “Hài nhi nhớ năm ngoái có mười người, năm kia có mười một người, năm kìa có mười hai người. Còn về trước nữa hài nhi không biết. Năm nay… một, hai, ba, bốn ,năm… chỉ còn lại có chín người”.
Nhậm Ngã Hành thở dài nói:
– Phải rồi! Khi ấy ta nghe tiểu Linh Linh nói vậy trong lòng rất lấy làm buồn. Năm trước Đông Phương Bất Bại xử tử Hắc hiền đệ, rồi năm trước nữa Khâu trưởng lão chết một cách ám muội ở tỉnh Cam Túc. Bây giờ ta nghĩ lại thì đó là Đông Phương Bất Bại đã ngấm ngầm bày kế độc. Lại một năm trước nữa Văn trưởng lão bị cách đuổi khỏi bản giáo, rồi bị những tay cao thủ các phái Hoa Sơn, Hành Sơn vây đánh mà bị uổng mạng. Vụ này người gây nên tai vạ đúng là Đông Phương Bất Bại rồi. Hỡi ôi! Tiểu Linh Linh là đứa con nít vô tình thổ lộ chân ngôn. Khi ấy ta chẳng khác người trong mộng nên không hiểu được.
Lão ngừng lại một chút, uống tợp rượu rồi nói tiếp:
– Hướng huynh đệ! Chẳng dấu gì lão đệ! Khi ấy ta tu luyện võ công đại pháp đã hơn 10 năm, tuy thần công nổi danh lừng lẫy trên giang hồ khiến người chính giáo nghe tiếng đều táng đởm kinh hồn, nhưng ta biết trong thần công đại pháp còn mấy điều khiếm khuyết trọng đại. Ban đầu ta cũng không hay, rồi sau nội thương phát lộ khiến trong mấy năm lòng ta thật lo lắng vì biết rằng nếu không sớm bổ cứu kịp thời thì có ngày bị độc hỏa thiêu thân. Những công lực mà ta hút được ở người ngoài đột nhiên phản lại cấu xé tạ Cường lực càng hút vào nhiều thì sức phản động càng lớn. Khi ấy trong mình ta đã chứa chất công lực của hơn 20 tay cao thủ trong chính giáo. Có điều hơn 20 tên này thuộc bảy tám phái nên công lực của họ luyện được không giống nhau. Ta cần tìm cách dung hợp vào làm một để mà sử dụng nếu không thế thì thành mối họa tâm phúc. Trong mấy năm trời ta lo lắng ngày đem chỉ vì một chuyện này. Hôm đó gặp ngày tết Đoan Ngọ, mở yến tiệc lớn, tuy ta vừa uống rượu vừa truyện trò cười cợt mà trong lòng vẫn ngấm ngầm suy tính 22 huyệt Dương Kiều và 32 huyệt Dương Duỵ Trong 54 huyệt đạo này phải làm thế nào cho nội tức lưu thông để d dàng từ Dương Kiều vào Dương Duy lại từ Dương Duy qua Dương Kiều. Vì thế mà tiểu Linh Linh nói vậy tuy ta nghe trong lòng cảm thấy buồn bã, song chỉ thoáng qua chốc lát rồi lại quên ngay.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Thuộc hạ rất lấy làm kỳ là giáo chủ trước nay vẫn đề cao cảnh giác, linh mẫn vô cùng. Người ta chỉ nói nửa lời là mười phần đã hiểu đến chín, không sai trật bao giờ. Thế mà trong mấy năm đó bao nhiêu gian mưu của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ hoàn toàn không phát giác và thường nhật…
Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:
– Thường nhật ta chỉ ngơ ngơ ngác ngác tâm thần bất định, có đúng thế không?
Hướng Vấn Thiên đáp:
– Đúng thế! Tiểu thư nói câu đó rồi, Đông Phương Bất Bại cười khanh khách hỏi: “Tiểu thư! Có phải tiểu thư ưa náo nhiệt không? Nếu vậy thì sang năm chúng ta sẽ mời thêm mấy người nữa đến uống rượu”. Hắn nói vậy rồi mặt mày hớn hở tươi cười, nhưng thuộc hạ coi trong luồng nhãn quang của hắn thấy đầy vẻ kinh dị, lo lắng. Hắn yên trí giáo chủ vẫn tinh minh, chỉ giả vờ ngớ ngẩn mà thực ra đã đem lòng ngờ vực hắn rồi.
Nhậm Ngã Hành nhíu cặp lông mày ra chiều ngẫm nghĩ rồi nói:
– Té ra hôm ấy giữa tiệc đại yến tết Đoan Ngọ tiểu Linh Linh đã nói như vậy. Bây giờ Hướng huynh đệ nhắc tới, ta nhớ mang máng quả có thế thật, nhưng đã mười mấy năm ta chưa từng đề cập đến bao giờ, tưởng Đông Phương Bất Bại làm gì mà phải ôm mối hoài nghi?
Hướng Vấn Thiên nói:
– Hơn nữa, tiểu thư mỗi tuổi một khôn lớn, trí thông minh càng ngày càng phát triển. Đến khi cô thành niên, hắn chắc giáo chủ sẽ truyền ngôi cho cô chứ không đến lượt hắn. Hắn còn sợ trong một vài năm Tiểu thư khám phá ra được âm mưu của hắn cũng là một mối nguy hiểm khôn lường, nên hắn mạo hiểm một phen để trút hết mối lo về sau. Có lẽ vì vậy cũng chưa biết chừng.
Nhậm Ngã Hành gật đầu luôn mấy cái rồi thở dài nói:
– Hỡi ôi! Giả tỷ bây giờ ta có tiểu Linh Linh kề cận bên mình há chẳng thêm được một người và không đến nỗi thế cô lực bạc như hiện tại.
Hướng Vấn Thiên quay lại ngó Lệnh Hồ Xung nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ! Vừa rồi giáo chủ đã nói trong Hấp tinh đại pháp còn có chỗ khiếm khuyết trọng đại. Theo chỗ tiểu huynh biết thì giáo chủ bị cầm tù ở hắc lao 12 năm trời là một nỗi uất ức khôn tả, nhưng cũng nhờ có thời gian này để thoát hết những mối ràng buộc ngoài đời mà tịnh tâm nghiên cứu và đã khám phá ra được những chỗ bí ẩn huyền diệu về thần công đại pháp.
Hắn quay sang hỏi Nhậm Ngã Hành:
– Thưa giáo chủ! Thuộc hạ nói vậy có đúng không?
Nhậm Ngã Hành đưa tay vuốt chòm râu vừa rậm vừa đen, nổi lên tràng cười ha hả ra chiều rất đắc ý đáp:
– Đúng thế! Từ nay trở đi ta mà hấp được công lực người nào là có thể đồng hóa hết để mà sử dụng,
không còn e ngại những luồng chân khí dị chủng nổi lên xung đột nữa. Ha ha Lệnh Hồ huynh đệ. Lão
đệ thử hít một hơi chân khí thử xem luồng nội tức trong huyệt Ngọc chẩm trên đầu và Đản trung trước ngực có nhộn nhạo không?
Lệnh Hồ Xung theo lời hít một hơi chân khí thì quả nhiên thấy nội tức trong huyệt Ngọc Chẩm và huyệt Đản Trung hai nơi ngấm ngầm chuyển động, chàng không khỏi cả kinh thất sắc.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Lão đệ bất quá mới luyện tập được một cách ngẫu nhiên thì làm gì đã phát giác ra những điều bí ẩn. Còn ta đây khi chưa khám phá ra được chỗ bí ẩn đó, luồng nội tức trong hai huyệt đạo không xung kích, tưởng chừng trời đất quay cuồng sụp đổ cơ hồ chịu không thấu. Bề ngoài tuy yên lặng không một tiếng động mà trong tai tưởng chừng nghe rõ tiếng vó ngựa dồn dập của muôn ngàn con đang phóng nước đại. Có lúc tựa hồ sấm nổ liên hồi, ầm ầm không ngớt. Hỡi ôi! Giả tỷ trong người ta mà không có những biến cố trọng đại này thì vụ mưu đồ phản nghịch của Đông Phương Bất Bại sinh cường thế nào được? Lệnh Hồ Xung biết Nhậm Ngã Hành nói thế là đúng sự thực. Chàng còn hiểu sở dĩ Hướng Vấn Thiên đưa vấn đề này ra là trong thâm tâm muốn chàng cầu lão chỉ giáo cách chữa trọng bệnh cho.
Nhưng chàng bản tâm không muốn gia nhập Triêu Dương thần giáo, mà lại mở miệng xin truyền thụ diệu pháp thì còn ra thế nào?
Chàng liền tính thầm trong bụng:
– Té ra việc luyện Hấp tinh đại pháp là cốt để hút lấy công lực của người ngoài vào làm của mình mà sử dụng. Đó là một công phu hiểm độc toan bài ích kỷ hại nhân. Nếu ta sớm biết vậy thì chẳng luyện làm chị Bây giờ sự đã lỡ rồi, ta nhất định không dùng đến nó. Còn những luồng chân khí dị chủng ở trong mình ta không có cách nào giải trừ kể ra cũng nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng Lệnh Hồ Xung này đường đường là một hán tử trượng phu đội trời đạp đất, có lý đâu lại vì việc tham sống sợ chết mà phản bội chí nguyện bình sinh?
Chàng liền đáng trổng lảng, hỏi sang chuyện khác:
– Thưa giáo chủ! Tại hạ còn một vấn đề chưa hiểu mong được giáo chủ chỉ giáo. Số là gia sư thường bảo Qùy Hoa Bảo Điển là một thiên bí lục về võ học tối cao vô thượng, người luyện được chẳng những sẽ trở thành thiên hạ vô địch mà còn tăng thêm tuổi thọ sống đến trăm năm. Vậy mà sao giáo chủ lại không rèn luyện võ học trong Qùy Hoa Bảo Điển mà còn đi vào… môn Hấp Tinh Đại Pháp cực kỳ nguy hiểm này làm chi?
Nhậm Ngã Hành cười mát đáp:
– Nguyên do vụ này không tiện nói với người ngoài.
Lệnh Hồ Xung thẹn đỏ mặt lên nói:
– Dạ! Tại hạ xin lỗi đã quá đường đột.
Hướng Vấn Thiên đứng dậy, dõng dạc nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ! Giáo chủ đã cao niên, tiểu huynh cũng chỉ kém lão nhân gia mấy tuổi. Nếu hiền đệ gia nhập bản giáo thì rồi đây sẽ trở thành người thừa kế của lão nhân gia chứ chẳng còn ai nữa.
Dù cho hiền đệ có ý tị hiềm Triêu Dương thần giáo thanh danh không tốt chẳng lẽ bàn tay của hiền đê.
không chỉnh đốn giáo phái lại được để tạo phúc cho thiên hạ ư?
Tay trái hắn cầm cái chung đặt mạnh xuống bàn, tay phải cầm hồ rượu rót đầy vào chung rồi tiếp:
– Mấy trăm năm nay, Triêu Dương thần giáo ta đã thành cừu địch với những môn phái chính thành thế chẳng đội trời chung. Nếu lão đệ không gia nhập bản giáo, nội thương chẳng lành mà phải uổng mạng cũng chưa đáng kể. Ta e rằng sư phụ cùng sư nương lão đệ Ở phái Hoa Sơn… Ha ha… Hiện giờ giáo chủ thành công cái thế, bản lãnh nghiên trời mà muốn tiêu diệt toàn thể thầy trò phái Hoa Sơn xóa hẳn tên trong võ lâm không phải là chuyện không làm được. Ta cùng lão đệ một ngày nên nghĩa chi lan cần phải nói thực. Nếu lão đệ mà chịu nghe lời khuyên của ta thì uống cạn chung rượu này!
|
Tiên Hà Lĩnh chạm trán tà ma
Hướng Vân Thiên thuyết một hồi bằng những lời vừa hợp lý vừa ra chiều uy hiếp, vừa lấy danh lợi
nhử Lệnh Hồ Xung, tựa hồ bức bách chàng nhất định phải gia nhập Triều Dương thần giáo.
Lệnh Hồ Xung nghe y nói lập tức bầu nhiệt huyết trong ngực trào lên, chàng cất tiếng dõng dạc đáp:
– Thưa giáo chủ cùng đại ca! Tại hạ vô tình học được “Thần công đạp pháp” của giáo chủ, nếu môn công phu này từ đây sắp tới không có cách nào quên đi được thì tại hạ còn sống ngày nào cũng nhất quyết không đem ra sử dụng với người ngoài. Phái Hoa Sơn đã sáng lập ra mấy trăm năm nay đương nhiên nó có quyền tồn tại, vị tất người khác chỉ một cái cất tay là hủy diệt được. Còn tính mạng của tại hạ thì tự mình đã coi nhẹ từ lâu. Người ta thường nói: “Tử sinh hữu mạng”. Tại hạ cũng liều nhắm mắt đưa chân rồi đến đâu thì đến. Bữa nay tại hạ nói đến đây là dứt lời. Mong rằng sau nầy chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.
Dứt lời, Lệnh Hồ Xung đứng dậy nhìn hai người chắp tay thi lễ rồi trở gót đi luôn.
Hướng Vân Thiên muốn nói thêm nhưng Lệnh Hồ Xung đi đã xa rồi.
Ra khỏi Mai Trang, Lệnh Hồ Xung thở phào một cái. Ngọn gió trong buổi sơ thu thổi mát rười rượi khiến chàng thoải mái tâm hồn. Chàng ngửng đầu trông mảnh trăng lưỡi liềm tựa hồ treo chênh chếch trên đầu cành liễu.
Xa xa làn nước hồ gợn bóng trăng soi có ánh phù vân lăn ngược. Phong cảnh Giang Nam sơn thủy thanh u, so với cảnh núi non hiểm trở trên Hoa Sơn thật khác nhau xa.
Lệnh Hồ Xung đi tới bờ hồ đứng ngẩn người một lúc, nghĩ thầm trong bụng:
– Đại sự của Nhậm giáo chủ hiện thời là phải thanh toán ngay món nợ Đông Phương Bất Bại để đoạt lại ngôi giáo chủ, chắc lão chưa rảnh đi tìm phái Hoa Sơn để trả oán. Nhưng nếu sư phụ, sư nương cùng bọn sư đệ, sư muội mà chạm trán lão thì khó lòng tránh khỏi độc thủ. Ta cần phải chạy về báo cáo để các vị biết mà đề phòng.
Đoạn chàng lại nghĩ tới sư phụ đã gửi thư đi khắp võ lâm tuyên bố việc trục xuất mình ra khỏi sư môn thì lòng chàng không khỏi se lại. Nhưng sư phụ sư nương đối với chàng như là cha mẹ ruột đối với con, chàng chỉ thấy trong lòng bứt rứt chứ tuyệt không oán hận. Chàng lại tự nhủ:
– Ta mà đem việc Nhậm giáo chủ bức bách ta gia nhập Ma giáo bẩm lại cho sư phụ sư nương hay, chắc các người sẽ hiểu rõ đầu đuôi không phải là ta cố ý kết giao với bọn Ma giáo, rồi thu hồi lệnh trục xuất cũng chưa biết chừng. Dù ta có phải bị phạt quay mặt vào vách ba năm để sám hối cũng là may.
Nghĩ tới hy vọng lại được trở về sư môn, chàng phấn khởi tâm thần, bụng bảo dạ:
– Tiêu cục của Lâm sư đệ tên gọi Phước Oai Tiêu Cục. Phủ Hàng Châu là một thị trấn lớn, tất có phân cục. Sáng mai ta thử đi nghe ngóng xem có được tin tức gì không.
Lệnh Hồ Xung trở về khách điếm, vượt tường nhảy vào mà trong điếm chẳng một ai haỵ Chàng lên giường nằm ngủ giữa lúc bốn mặt gà gáy dồn dập,phương Đông đã tang tảng sáng.
Lệnh Hồ Xung ngủ cho tới giờ ngọ mới đẫy giấc.
Chàng nghĩ bụng:
– Trước khi gặp sư phụ, sư nương không nên để lộ bản tướng. Huống chi Doanh Doanh đã sai bọn Tổ Thiên Thu phao ngôn trên giang hồ là muốn giết mình. Thế thì mình càng cần cải trang để tránh mọi sự rắc rối. Nhưng không biết mình nên giả trang làm hạng người nào bây giờ?
Lệnh Hồ Xung vừa ngẫm nghĩ vừa bước ra khỏi phòng. Ra tới giữa sân con chàng, đột nhiên nghe đánh bộp một tiếng. Rồi một chậu nước đổ vào người chàng. Lúc này thân thủ chàng mau lẹ phi thường, lập tức chàng lộn người đi tránh khỏi. Chậu nước đổ xuống quảng không.
Chàng thấy một viên quan võ trong tay đang cầm chiếc chậu rửa mặt, nhìn chàng ra chiều tức giận, lớn tiếng hỏi:
– Ngươi không có mắt hay sao mà không nhìn thấy lão gia đang bưng chậu nước.
Lệnh Hồ Xung cũng nỗ cơn tức giận, tự nghĩ:
– Trong thiên hạ sao lại có hạng người ngang ngược thế này?
Nhưng chàng không nói gì, nhìn kỹ lại thấy võ quan này trạc ngoài tứ tuần, tướng mạo rất oai nghiêm. Sắc phục tựa hồ vào hàng hiệu úy. Lưng cài yêu đao. Hắn đứng phưỡn ngực ra. Hiển nhiên là con người thường làm oai làm phước với thiên hạ đã quen.
Quan võ kia lại quát hỏi:
– Ngươi còn ngó gì vậy? Không nhận ra lão gia chăng?
Lệnh Hồ Xung chợt động tâm linh nghĩ thầm:
– Giả trang làm một quân nhân thế mà thú! Ta cải trang rồi oai vệ qua lại giang hồ. Bạn hữu võ lâm chẳng ai muốn nhìn tới.
Chàng còn đang ngẫm nghĩ thì quan võ lại quát hỏi:
– Cười cái gì! Con mẹ nó! Có gì đáng cười đâu?
Nguyên Lệnh Hồ Xung trong lòng nghĩ tới chỗ đắc ý, bất giác trên môi lộ nụ cười.
Chàng để mặt tên quan võ càu nhàu đi thẳng vào trước quầy trả tiền ăn tiền phòng, đồng thời khẽ hỏi chủ quán:
– Vị quan võ kia là ai?
Chủ quán mặt buồn rười rượi đáp:
– Nào ai biết hắn làm chức gì? Hắn tự xưng ở thành Bắc Kinh tới đây. Mới trọ một đêm mà tên điếm tiểu nhị đã bị hắn tát cho ba cái nảy đom đóm mắt. hắn ăn nhiều uống lắm , đòi hỏi không biết bao nhiêu thứ mà chưa hiểu trả tiền cơm phòng ra sao.
Lệnh Hồ Xung gật đầu đi sang một quán trà gần đó gọi pha cho mình một bình trà, ngồi thủng thẳng uống.
Sau chừng nữa giờ, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Quan võ kia cưỡi con ngựa màu hồng thẫm từ trong khách điếm đi ra. Hắn vung roi ngựa cho bật lên tiếng lách cách. Miệng quát tháo om sòm.
– Tránh ra! Tránh ra! Mẹ kiếp! Còn không tránh cho mau!
Mấy người đi đường tránh chậm một chút liền bị viên quan võ vung roi quất lấy quất để. Những người bị vụt trúng đau quá kêu oai oái không ngớt.
Lệnh Hồ Xung trả tiền trà nước rồi liền đúng dậy theo sau ngựa võ quan.
Võ quan ra cửa Tây, nhắm đường lớn về nẻo tây Nam mà tiến, đi chừng được vài dặm, người đi đường dần dần thưa thớt.
Lệnh Hồ Xung tăng gia cước bộ đi thật lẹ vượt lên trước ngựa. Chàng giơ tay phải ra. Con ngựa giật mình kinh hải. Nó hí một tiếng dài rồi đua hai vó trước lên không đứng thẳng như người khiến cho võ quan suýt té nhào. May ở chỗ hắn cưỡi ngựa rất thạo kìm được dây cương. Người hắn nhảy chồm lên một cái rồi ngồi vững lại ngay.
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng quát:
– Con bà nó! Đi đường không có mắt hay sao? Suýt nữa để con súc sinh này đá chết lão gia thì sao?
Chàng im tiếng cũng đủ khiến cho võ quan tức giận lắm rồi, huống chi chàng lại lớn tiếng thóa mạ thì hắn còn chịu sao được?
Hắn chờ cho ngựa hạ hai chân trước xuống rồi quất roi vào đầu Lệnh Hồ Xung đánh véo một cái.
Lệnh Hồ Xung thấy ở giữa đường cái không tiện hành động liền la làng:
– Trời ơi! lại còn đánh người ta nữa ư?
Chàng giả vờ loạng choạng rẽ vào đường nhỏ chạy trốn.
Võ quan khi nào chịu bỏ qua , hắn nhảy vèo xuống ngựa, lật đật buộc ngựa vào gốc cây rồi rượt theo Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung vừa chạy vừa la:
– Trời ơi! ối làng nước ơi!…
Rồi chuồn vào rừng cây.
Võ quan vừa thóa mạ vừa rượt theo.
Đột nhiên dưới nách bị tê chồn, hắn ngã huỵch xuống đất.
Lệnh Hồ Xung đạp chân trái lên người hắn, cười nói:
– Con bà nó! Bản lãnh hèn kém thế này thì hành quân xuất trận thế nào được?
Chàng thò tay vào trong bọc võ quan móc ra một phong thơ có kiêm dấu “Binh Bộ Thượng Thư Đại Đường Chính ân”. Ngoài dấu son đỏ chói còn viết thêm hai chữ lớn “Cáo Thân”. (Dấu hiệu ghi vào văn thư bổ nhiệm quan chức).
Chàng mở thơ ra coi thì bên trong có một tấm giấy dày. Chính là một bản ủy nhiệm lệnh của quan binh bộ thượng thư thăng quan cho Ngô Thiên Đức ở phủ Thương Châu, tỉnh Hà Bắc lên chức Tham Tướng tại phủ Thần Châu tỉnh Phúc Kiến, và phải lên đường đến nhiệm sở mới ngay.
Lệnh Hồ Xung cười hỏi:
– Té ra ngài là Tham Tướng đại nhân. Có phải đại danh ngài là Ngô Thiên Đức không?
Võ quan bị chàng đạp lên ngực không nhúc nhích được phẫn nộ vô cùng! Mặt hắn tím bầm, hắn quát hỏi:
– Mau mau buông ta dậy. Mi… mi… lớn mật làm càn xúc phạm đến mệnh quan triều đình… không biết sợ vương pháp ư?
Tuy miệng hắn quát tháo om sòm song cũng tự biết mình chịu nước lép rồi.
Lệnh Hồ Xung cười đáp:
– Lão gia túng tiền, muốn mượn quần áo của ngươi đem đi cầm xài đỡ.
Chàng xoay tay vỗ vào đỉnh đầu võ quan hắn liền ngất đi.
Lệnh Hồ Xung lột quần áo hắn ra thật lẹ. Chàng nghĩ bụng:
– Thằng cha này thật là khả ố. Cho hắn một bài học để hắn biết thân cũng đáng.
Đoạn chàng trút bỏ hết quần áo lót để toàn thân hắn trần truồng như nhộng.
Chàng lại nhấc cái bọc của võ quan thấy nặng trịch liền mở ra coi thì thấy bên trong có mấy trăm lạng bạc và ba thoi vàng mười. Chàng lẩm bẩm:
– Đây là tiền hắn hút máu hút mủ của nhân dân. Chẳng biết nguyên chủ của nó ở u mà trả. Thôi thì để cho tham tướng đại nhân là ta đây thu lấy mua rượu uống.
Chàng đắc ý bật lên tràng cười khanh khách. Rồi cỡi quần áo ra lấy quân phục, dầy ủng, yêu đao của tham tướng mặc vào mình, bỏ tiền bạc vào bọc đem đi. Còn quần áo của mình thì chàng xé ra từng mảnh để trói dặt cánh khuỷu tham tướng lại và lấy bùn nhét vào miệng hắn.
Lệnh Hồ Xung an bài Ngô Thiên Đức rồi trở ra đường lớn mở ngựa nhảy lên cưỡi. Chàng vung roi miệng quát tháo:
– Tránh ra! Tránh ra! Mở đường cho quan lớn đi! Chúng bây đi đường không có mắt hay sao?
Chàng nổi lên tràng cười khoái trá ruổi ngựa cho chạy về phía Nam.
Tối hôm ấy chàng vào ngủ trọ trong thành Dư Hàng. Chủ quán cùng tiểu nhị luôn miệng một điều quan gia, hai điều quan gia, hầu hạ rất chu đáo.
Sáng sớm hôm sau, Lệnh Hồ Xung gọi chủ quán hỏi thăm đường đi Phúc Kiến rồi thưởng cho chúng một lạng bạc ngoài tiền trọ. Chủ quán cùng điếm tiểu nhị cung kính đưa chân chàng ra khỏi điếm.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:
– Phúc cho các ngươi gặp ta đây là tham tướng giả hiệu được tử tế thế này. Bằng gặp tham tướng Ngô Thiên Đức thật đến ngủ trọ thì còn khổ với hắn.
Lệnh Hồ Xung nhắm hướng Nam mà tiến cho tới phủ Kim Hoa. – đây nhân dân nói khẩu âm phương Nam, khác hẳn tiếng Trung Châu nên rất khó nghe. May ở chỗ họ thấy chàng là quan quân nên uốn lưỡi cong lên để nói tiếng Quan Thoại, nên chàng nghe cũng hiểu.
Trong đời chàng chưa bao giờ có nhiều tiền như bữa nay, chàng tha hồ mà ăn uống rượu ngon cùng cao lương mỹ vị cho thích khẩu.
Những luồng chân khí dị chủng trong các kinh mạch không khu trục hẳn ra ngoài được, thỉnh thoảng lại trào vào huyệt dan điền khiến chàng đầu nhức mắt hoa, lợm giọng buồn nôn. Chàng lại phải theo phương pháp của Nhậm Ngã Hành khắc trên tấm thiết bảng, dồn chân khí ra khỏi huyệt Đan điền thì tinh thần trở lại thoải mái vô cùng dễ chịu!
Ngày Lệnh Hồ Xung rời khỏi Mai Trang, chàng đã từng nói với Hướng Vân Thiên là vô tình học được “Thần Công Đại Pháp” của Giáo Chủ. Nếu “Thần Công Đại Pháp”đó sau này không có cách nào quên đi được thì chàng còn sống ngày nào cũng quyết không đem ra sử dụng với người ngoài.
Câu đó nói ra thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Lúc này trong người chàng bị bảy tám luồng chân khí dị chủng xung kích nhau làm cho khí huyết nhộn nhạo, khó chịu vô cùng. Chàng đành phải theo phương pháp tán công của Nhậm Ngã Hành, dồn chân khí từ huyệt Đan điền ra kỳ kinh bát mạch. May ở chỗ chàng chỉ sử dụng đại pháp trong người mình chứ không phải đối phó với người ngoài. Như thế không phải là chàng đã nuốt lời.
Lệnh Hồ Xung đi tới giờ Ngọ thì thấy phía trước có ba hán tử cũng đi về hướng Nam. Cước trình bọn này mau lẹ hiển nhiên là người trong võ lâm.
Lệnh Hồ Xung không muốn sinh sự rắc rối, liền cất tiếng gọi:
– Này ba vị! Xin nhường lối cho tại hạ!
Rồi chàng giục ngựa từ từ tiến lên.
Ba người quay đầu nhìn lại thấy là một võ quan, chức vị không phải thấp kém.
Hiện thời bọn quan quân thường hoành hành càn rỡ ở dân gian, ba hán tử thấy chàng ăn nói khiêm nhường thật là hiếm có, liền lập tức đúng tránh sang bên đường.
Lệnh Hồ Xung ngồi trên mình ngựa chắp tay nói:
– Tại hạ xin lỗi ba vị.
Ba người kia cũng chắp tay đáp lễ nói:
– Quan gia dạy quá lời!
Lệnh Hồ Xung cưỡi ngựa lúc lướt qua bên mình ba người liền liếc mắt nhìn thì thấy trong bọn này có một lão già tuổi ngoài năm mươi, cặp lông mày xếch ngược, cặp môi cũng cong lên. Còn hai người nữa đều là thanh niên cỡ ngoài hai chục tuổi. Trong hai thanh niên có một người tướng mạo rất xinh đẹp.
Cả hai thanh niên đều lưng cài đơn đao, còn lão già thì không mang binh khí chi hết.
Trên bước giang hồ thiếu gì người võ lâm, nên chàng cũng không để ý.
Chàng tiếp tục đi chừng hơn hai chục dặm nữa thì tới một phạn điếm. Chàng liền vào nghĩ chân ăn uống. Chàng kêu chủ quán mổ một con gà lớn và lấy hai cân rượu. Trong khi chờ đợi nấu thịt gà và thổi cơm, chàng ngồi đủng đỉnh rót rượu uống.
Chủ quán vừa vặt lông gà sạch sẽ xong, chưa kịp nấu nướng thì ba người kia cũng tới nơi. Họ nhìn Lệnh Hồ Xung gật đầu chào rồi ngồi xuống ghế.
Lão già ngó thấy con gà nhẵn nhụi liền nói:
– Chủ quán! Làm cho bọn ta hai con gà và nếu có thịt bò thì lấy cho hai mâm.
Lão nói khẩu âm người Trung Châu.
Chủ quán đáp:
– Trời ơi! Thế này thì khó quá! Hiện giờ trong tệ quán chỉ có một con gà mà quan gia đây đã lấy rồi. Thịt bò cũng không có. Tiểu nhân nấu hai cạn thịt heo khô có được không?
Lão kia chau mày đáp:
– Bọn ta cử ăn thịt heo. Thôi được! Có hột gà lấy ra một mâm cũng xong.
Chủ quán đáp:
– Hột gà cũng vừa sạch rồi mới thật là phiền.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:
– Bọn này cử ăn thịt heo là người trong giáo phái Thanh Chân.
Chàng liền nói:
– Huynh đài đã nói vậy thì tại hạ nhường con gà lại cho các vị. Tại hạ ăn thịt heo khô cũng được.
Lão già cười nói:
– Quan gia thật là người đại lượng, nhưng bọn tại hạ đâu dám thế?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Cái đó có làm quái gì? Chúng ta đều quê quán ở phương Bắc cả nên nhường nhịn nhau một chút là sự thường.
Ba người kia liền chắp tay ngỏ lời cảm ơn rồi rót rượu uống.
Con gà lớn bỏ vào chảo quay, chẳng mấy chốc mùi thơm đưa lên sực nức.
Bên ngoài cửa có tiếng lọc cọc vang lên. Mấy cỗ xe đang đẩy tới. Năm tên cước phu trần trùng trục đi tới trước quán. Trên xe toàn bao muối có vẻ rất nặng. Năm hán tử mồ hôi nhễ nhại ngồi xuống trước cái bàn hóng mát, tay cầm nón lá quạt lấy quạt để.
Một tên hán tử nói:
– Thơm quá! Chủ quán! Có gà phải không? Lấy cho hai con thật béo.
Chủ quán cười đáp:
– Nếu biết bữa nay đông khách thế này thì hôm trước mua thêm mấy con gà nữa. Xin lỗi các bạn.
Trong quán chỉ có một con gà, quan gia đây lấy rồi, nhưng người có lòng tốt nhường lại cho ba vị khách
quan này.
Hán tử kia dưa mục quan ngó Lệnh Hồ Xung rồi trừng mắt nhìn lão già và hai thanh niên nói:
– Chết đến gáy rồi còn đòi ăn thịt gà nữa ư? Sao không chạy cho thoát thân?
Hai thanh niên nghe hán tử nói vậy nổi giận đùng đùng, cầm đao đứng phắt dậy. Gã to béo quát hỏi:
– Ngươi nói gì thối thế?
Một tên cước phu thấp lủn thủn mà thù lù cười gằn hỏi lại:
– Bọn ngươi là quân chó má trong Ma Giáo, lén lút tới đây làm gì?
Lão già đưa mắt cho hai thanh niên rồi hắng giọng một tiếng, trầm giọng nói:
– Chúng ta cùng là bạn đi dường, sao lại cùng bọn lão phu…
Lão chưa dứt lời đột nhiên bóng người thấp thoáng rồi chát chát hai tiếng. Hai gã cước phu đều bị trúng chưởng vào lưng. Lập tức hai gã mềm nhũn người ra.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi. Nguyên về môn quyền cước chàng rất tầm thường nên lão già kia dùng thủ pháp gì mà mau lẹ hiểm độc đến thế chàng cũng không nhìn ra.
Bỗng nghe một tiếng quát lớn:
– Úi chà!
Chủ quán tung mình vọt ra, hai tay cần hai lưỡi trủy thủ nhảy xổ vào lão già. Còn ba tên cước phu rút binh khí trong xe muối ra để động thủ với hai thanh niên Ma Giáo.
Đột nhiên bốn mặt nổi lên tiếng quát tháo om sòm. Từ bên góc tường trong rừng cây, sau núi đá có đến hơn hai chục người ồ ạt chạy ra lao tới trước cửa phạn điếm.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi lẩm bẩm:
– Té ra quanh đây đã mai phục rất nhiều người.
Thân thủ lão già rất linh hoạt. Lão lẫn tránh chủ quán, nhào tới sau bọn cước phụ Lão vung song chưởng lại đánh ngã hai tên. Chưởng lực lão lợi hại chẳng kém gì cương đao bảo kiếm, đụng vào aingười ấy chết.
Bỗng thấy hàn quang lấp loáng, một đạo nhân ở ngoài cửa chống trường kiếm lại đâm lão già.
Lệnh Hồ Xung lẩm bẩm:
– Đây là Hòa Phong sư thúc ở phái Thái Sơn.
Nguyên Hòa Phong đạo nhơn liệt vào hàng thứ tư trong phái Thái Sơn. Bản lãnh lão cao cường gần bằng chưởng môn Thiên Môn đạo nhân.
Hòa Phong động thủ đánh ra hai bốn kiếm liên hoàn bức bách lão già phải lùi lại hai bước.
Lão già kia vung tít hai bàn tay không, xuyên qua xuyên lại giữa luồng kiếm quang, vẫn không chịu kém thế.
Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm:
– Trong Ma Giáo thật lắm nhân tài, chẳng trách các môn phái chính giáo đã mấy trăm năm nay không sao tiêu diệt được bọn họ. Lão già này cũng là một tay cao thủ hạng nhất.
Hòa Phong đạo nhân tiếp tục uy hiếp. Lão già lùi lại thêm hai bước rồi đột nhiên xoay chưởng phản kích đánh vào trước ngực chủ quán đang tập kích phía sau. Lão phóng chưởng ra không quay đầu lại mà sau lưng tựa hồ cũng có mắt, phát chưởng nhắm bộ vị rất trúng. Lão đánh đòn này trúng đích rồi lún thấp người vòng quanh ra phía sau chủ quán, lại bồi thêm một chưởng vào sau lưng hắn. Người chủ quán bắn lên xô về phía Hòa Phong đạo nhân.
Hòa Phong đạo nhân né tránh sang một bên. Lão liền thừa cơ chạy vào hậu đường.
Hòa Phong đạo nhân cùng hai người nữa chống kiếm rượt theo lão già.
Trong quán mười mấy người đều vung kiếm lên đâm chết gã thanh niên đẹp.
Thanh niên béo vung kiếm chiến đấu rất ác liệt. Người gã bị thương đến sáu bảy chỗ mà gã vẫn không tỏ ra khiếp sợ, hung dữ chẳng khác nào con dã thú lâm vào bước đường cùng. Đột nhiên trên đùi gã lại trúng thêm một đòn rất nặng, té nhào xuống đất.
Ba người liền nhảy xổ tới đè chặt lấy chân tay gã.
Bỗng nghe tiếng quát tháo ầm ầm ở sau núi. Đó là Hòa Phong đạo nhân và hai cao thủ khác đang rượt theo lão già kia.
Lệnh Hồ Xung vừa thấy bóng sau lưng thấp thoáng lão đã chuồn mất hút vào trong rừng. Chàng cho là khinh công lão cao tuyệt, bọn Hòa Phong đạo nhân không thể đuổi kịp.
Quả nhiên sau một lúc, bọn Hòa Phong đạo nhân ba người hậm hực chạy về, một người lùn ngoài bốn mươi tuổi nhổ bãi đòm xuống đất đánh toẹt một cái rồi thóa mạ:
– Con mẹ nó! Bọn yêu nhân trong Ma giáo bản lãnh chẳng ra gì, nhưng chạy trốn thì lẹ lắm!
Lúc mọi người ác đấu trong quán, Lệnh Hồ Xung ngồi co rúm vào một góc nhà làm ra chiều khiếp sợ.
Nguyên chàng thấy bọn này toàn là đệ tử phái Thái Sơn do Hòa Phong đạo nhân cầm đầu.
Trong hơn hai chục người chỉ có bảy là đạo nhân còn là tục gia đệ tử. Chàng quen mặt tám chín tên vì đã được gặp nhiều lần.
Mười mấy bữa nay, từ hôm rời khỏi Hàng Châu Lệnh Hồ Xung chưa từng cạo mặt, râu đâm tua tủa. Chàng chắc bọn kia cũng không nhận ra mình được. Có điều chàng chưa bôi thuốc dịch dung thì cũng có cơ nguy bại lộ hình tích, nên chàng cúi gằm mặt xuống, không dám ngửng đầu lên trông bọn họ.
Bọn đồ đệ phái Thái Sơn thấy chàng sợ quá, chân tay run bần bật liền có người bảo chàng:
– Quan gia! Đây là bọn yêu nhân trong Ma Giáo giữa ban ngày chúng cũng hành hung giết người, chính quan gia cũng nhìn thấy rõ. Vụ này không liên quan tới quan gia. Vậy quan gia nên lên đường ngay đi!
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ dạ! Tại hạ xin đi ngay đây!
Rồi chàng lật đật ra khỏi quán nhảy lên ngựa đi liền. Chàng vừa đi vừa tự hỏi:
– Bọn này đến Phúc Kiến làm gì? Không hiểu có liên quan gì đến phái Hoa Sơn mình không?
Lệnh Hồ Xung gặp trường đánh giết này chàng chưa kịp ăn cơm.
Trên Tiêu Hà Lĩnh rất ít người ở.
Chàng lại đi thêm hơn hai chục dặm đường nữa mà thủy chung không gặp một nhà nào.
Lệnh Hồ Xung thấy trời đã xế chiều liền hái mấy trái cây rừng để ăn qua loa cho đỡ đói.
Bỗng thấy bên gốc cây lớn có một cái động nhỏ khô khan, xem chừng không có sâu bọ Ong kiến quấy nhiu, chàng liền buộc ngựa vào gốc cây để nó gậm cỏ rồi lấy cỏ khô trải xuống đất trong động chuẩn bị làm chỗ nghĩ qua đêm.
Lúc này nếu đi đường nữa thì sợ chậm quá mà ngủ ngay lại sớm quá. Chàng cảm thấy khí huyết trong huyệt Đan điền lại nhộn nhạo làm cho khó chịu, liền ngồi xuống hành công.
|
Tiên Hà Lĩnh Chạm Trán Tà Ma
Hướng Vân Thiên thuyết một hồi bằng những lời vừa hợp lý vừa ra chiều uy hiếp, vừa lấy danh lợi nhử Lệnh Hồ Xung, tựa hồ bức bách chàng nhất định phải gia nhập Triều Dương thần giáo.
Lệnh Hồ Xung nghe y nói lập tức bầu nhiệt huyết trong ngực trào lên, chàng cất tiếng dõng dạc đáp:
– Thưa giáo chủ cùng đại ca! Tại hạ vô tình học được “Thần công đạp pháp” của giáo chủ, nếu môn công phu này từ đây sắp tới không có cách nào quyên đi được thì tại hạ còn sống ngày nào cũng nhất quyết không đem ra sử dụng với người ngoài. Phái Hoa Sơn đã sáng lập ra mấy trăm năm nay đương nhiên nó có quyền tồn tại, vị tất người khác chỉ một cái cất tay là hủy diệt được. Còn tính mạng của tại hạ thì tự mình đã coi nhẹ từ lâu. Người ta thường nói: “Tử sinh hữu mạng”. Tại hạ cũng liều nhắm mắt đưa chân rồi đến đâu thì đến. Bữa nay tại hạ nói đến đây là dứt lời. Mong rằng sau nầy chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.
Dứt lời, Lệnh Hồ Xung đứng dậy nhìn hai người chắp tay thi lễ rồi trở gót đi luôn.
Hướng Vân Thiên muốn nói thêm nhưng Lệnh Hồ Xung đi đã xa rồi.
Ra khỏi Mai Trang, Lệnh Hồ Xung thở phào một cái.
Ngọn gió trong buổi sơ thu thổi mát rời rợi khiến chàng thoải mái tâm hồn. Chàng ngửng đầu trông mảnh trăng lưỡi liềm tựa hồ treo chênh chếch trên đầu cành liễu.
Xa xa làn nước hồ gợn bóng trăng soi có ánh phù vân lăn ngược. Phong cảnh Giang Nam sơn thủy thanh u, so với cảnh núi non hiểm trở trên Hoa Sơn thật khác nhau xa.
Lệnh Hồ Xung đi tới bờ hồ đứng ngẩn người một lúc, nghĩ thầm trong bụng:
– Đại sự của Nhậm giáo chủ hiện thời là phải thanh toán ngay món nợ Đông Phương Bất Bại để đoạt lại ngôi giáo chủ, chắc lão chưa rảnh đi tìm phái Hoa Sơn để trả oán. Nhưng nếu sư phụ, sư nương cùng bọn sư đệ, sư muội mà chạm trán lão thì khó lòng tránh khỏi độc thủ. Ta cần phải chạy về báo cáo để các vị biết mà đề phòng.
Đoạn chàng lại nghĩ tới sư phụ đã gửi thư đi khắp võ lâm tuyên bố việc trục xuất mình ra khỏi sư môn thì lòng chàng không khỏi se lại. Nhưng sư phụ sư nương đối với chàng như là cha mẹ ruột đối với con, chàng chỉ thấy trong lòng bứt rứt chứ tuyệt không oán hận.
Chàng lại tự nhủ:
– Ta mà đem việc Nhậm giáo chủ bức bách ta gia nhập Ma giáo bẩm lại cho sư phụ sư nương hay, chắc các người sẽ hiểu rõ đầu đuôi không phải là ta cố ý kết giao với bọn Ma giáo, rồi thu hồi lệnh trục xuất cũng chưa biết chừng. Dù ta có phải bị phạt quay mặt vào vách ba năm để sám hối cũng là may.
Nghĩ tới hy vọng lại được trở về sư môn, chàng phấn khởi tâm thần, bụng bảo dạ:
– Tiêu cục của Lâm sư đệ tên gọi Phước Oai Tiêu Cục. Phủ Hàng Châu là một thị trấn lớn, tất có phân cục. Sáng mai ta thử đi nghe ngóng xem có được tin tức gì không.
Lệnh Hồ Xung trở về khách điếm, vượt tường nhảy vào mà trong điếm chẳng một ai haỵ Chàng lên giường nằm ngủ giữa lúc bốn mặt gà gáy dồn dập , phương Đông đã tang tảng sáng.
Lệnh Hồ Xung ngủ cho tới giờ ngọ mới đẫy giấc.
Chàng nghĩ bụng:
– Trước khi gặp sư phụ, sư nương không nên để lộ bản tướng. Huống chi Doanh Doanh đã sai bọn Tổ Thiên Thu phao ngôn trên giang hồ là muốn giết mình. Thế thì mình càng cần cải trang để tránh mọi sự rắc rối. Nhưng không biết mình nên giả trang làm hạng người nào bây giờ?
Lệnh Hồ Xung vừa ngẫm nghĩ vừa bước ra khỏi phòng.
Ra tới giữa sân con chàng, đột nhiên nghe đánh bộp một tiếng. Rồi một chậu nước đổ vào người chàng. Lúc này thân thủ chàng mau lẹ phi thường, lập tức chàng lộn người đi tránh khỏi. Chậu nước đổ xuống quảng không.
Chàng thấy một viên quan võ trong tay đang cầm chiếc chậu rửa mặt, nhìn chàng ra chiều tức giận, lớn tiếng hỏi:
– Ngươi không có mắt hay sao mà không nhìn thấy lão gia đang bưng chậu nước.
Lệnh Hồ Xung cũng nỗ cơn tức giận, tự nghĩ:
– Trong thiên hạ sao lại có hạng người ngang ngược thế này?
Nhưng chàng không nói gì, nhìn kỹ lại thấy võ quan này trạc ngoài tứ tuần, tướng mạo rất oai nghiêm. Sắc phục tựa hồ vào hàng hiệu úy. Lưng cài yêu đao. Hắn đứng phưỡn ngực ra. Hiển nhiên là con người thường làm oai làm phước với thiên hạ đã quen.
Quan võ kia lại quát hỏi:
– Ngươi còn ngó gì vậy? Không nhận ra lão gia chăng?
Lệnh Hồ Xung chợt động tâm linh nghĩ thầm:
– Giả trang làm một quân nhân thế mà thú! Ta cải trang rồi oai vệ qua lại giang hồ. Bạn hữu võ lâm chẳng ai muốn nhìn tới.
Chàng còn đang ngẫm nghĩ thì quan võ lại quát hỏi:
– Cười cái gì! Con mẹ nó! Có gì đáng cười đâu?
Nguyên Lệnh Hồ Xung trong lòng nghĩ tới chỗ đắc ý, bất giác trên môi lộ nụ cười.
Chàng để mặt tên quan võ càu nhàu đi thẳng vào trước quầy trả tiền ăn tiền phòng, đồng thời khẽ hỏi chủ quán:
– Vị quan võ kia là ai?
Chủ quán mặt buồn rười rượi đáp:
– Nào ai biết hắn làm chức gì? Hắn tự xưng ở thành Bắc Kinh tới đây. Mới trọ một đêm mà tên điếm tiểu nhị đã bị hắn tát cho ba cái nảy đom đóm mắt. hắn ăn nhiều uống lắm , đòi hỏi không biết bao nhiêu thứ mà chưa hiểu trả tiền cơm phòng ra sao.
Lệnh Hồ Xung gật đầu đi sang một quán trà gần đó gọi pha cho mình một bình trà, ngồi thủng thẳng uống.
Sau chừng nữa giờ, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập.
Quan võ kia cưỡi con ngựa màu hồng thẫm từ trong khách điếm đi ra. Hắn vung roi ngựa cho bật lên tiếng lách cách. Miệng quát tháo om sòm.
– Tránh ra! Tránh ra! Mẹ kiếp! Còn không tránh cho mau!
Mấy người đi đường tránh chậm một chút liền bị viên quan võ vung roi quất lấy quất để. Những người bị vụt trúng đau quá kêu oai oái không ngớt.
Lệnh Hồ Xung trả tiền trà nước rồi liền đúng dậy theo sau ngựa võ quan.
Võ quan ra cửa Tây, nhắm đường lớn về nẻo tây Nam mà tiến, đi chừng được vài dặm, người đi đường dần dần thưa thớt.
Lệnh Hồ Xung tăng gia cước bộ đi thật lẹ vượt lên trước ngựa. Chàng giơ tay phải ra. Con ngựa giật mình kinh hải. No hí một tiếng dài rồi đua hai vó trước lên không đuúng thẳng như người khiến cho võ quan suýt té nhào. May ở chỗ hắn cưỡi ngựa rất thạo kìm được dây cương. Người hắn nhảy chồm lên một cái rồi ngồi vững lại ngay.
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng quát:
– Con bà nó! Đi đường không có mắt hay sao? Suýt nữa để con súc sinh này đá chết lão gia thì sao?
Chàng im tiếng cũng đủ khiến cho võ quan tức giận lắm rồi, huống chi chàng lại lớn tiếng thóa mạ thì hắn còn chịu sao được?
Hắn chờ cho ngựa hạ hai chân trước xuống rồi quất roi vào đầu Lệnh Hồ Xung đánh véo một cái.
Lệnh Hồ Xung thấy ở giữa đường cái không tiện hành động liền la làng:
– Trời ơi! lại còn đánh người ta nữa ư?
Chàng giả vờ loạng choạng rẽ vào đường nhỏ chạy trốn.
Võ quan khi nào chịu bỏ quạ hắn nhảy vèo xuống ngựa, lật đật buộc ngựa vào gốc cây rồi rượt theo Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung vừa chạy vừa la:
– Trời ơi! ối làng nước ơi!…
Rồi chuồn vào rừng cây.
Võ quan vừa thóa mạ vừa rượt theo.
Đột nhiên dưới nách bị tê chồn, hắn ngã huỵch xuống đất.
Lệnh Hồ Xung đạp chân trái lên người hắn, cười nói:
– Con bà nó! Bản lãnh hèn kém thế này thì hành quân xuất trận thế nào được?
Chàng thò tay vào trong bọc võ quan móc ra một phong thơ có kiêm dấu “Binh Bộ Thượng Thư Đại Đường Chính ân”. Ngoài dấu son đỏ chói còn viết thêm hai chữ lớn “Cáo Thân”. (Dấu hiệu ghi vào văn thư bổ nhiệm quan chức).
Chàng mở thơ ra coi thì bên trong có một tấm giấy dày. Chính là một bản ủy nhiệm lệnh của quan binh bộ thượng thư thăng quan cho Ngô Thiên Đức ở phủ Thương Châu, tỉnh Hà Bắc lên chức tham tướng tại phủ Thàn Châu tỉnh Phúc Kiến, và phải lên đường đến nhiệm sở mới ngay.
Lệnh Hồ Xung cười hỏi:
– Té ra ngài là tham tướng đại nhân. Có phải đại danh ngài là Ngô Thiên Đức không?
Võ quan bị chàng đạp lên ngực không nhúc nhích được phẫn nộ vô cùng!
Mặt hắn tím bầm, hắn quát hỏi:
– Mau mau buông ta dậy. Mi… mi… lớn mật làm càn xúc phạm đến mệnh quan triều đình… không biết sợ vương pháp ư?
Tuy miệng hắn quát tháo om sòm song cũng tự biết mình chịu nước lép rồi.
Lệnh Hồ Xung cười đáp:
– Lão gia túng tiền, muốn mượn quần áo của ngươi đem đi cầm xài đỡ.
Chàng xoay tay vỗ vào đỉnh đầu võ quan hắn liền ngất đi.
Lệnh Hồ Xung lột quần áo hắn ra thật lẹ. Chàng nghĩ bụng:
– Thằng cha này thật là khả ố. Cho hắn một bài học để hắn biết thân cũng đáng.
Đoạn chàng trút bỏ hết quần áo lót để toàn thân hắn trần truồng như nhộng.
Chàng lại nhấc cái bọc của võ quan thấy nặng trịch liền mở ra coi thì thấy bên trong có mấy trăm lạng bạc và ba thoi vàng mười. Chàng lẩm bẩm:
– Đây là tiền hắn hút máu hút mủ của nhân dân. Chẳng biết nguyên chủ của nó ở u mà trả. Thôi thì để cho tham tướng đại nhân là ta đây thu lấy mua rượu uống.
Chàng đắc ý bật lên tràng cười khanh khách. Rồi cỡi quần áo ra lấy quân phục, dầy ủng, yêu đao của tham tướng mặc vào mình, bỏ tiền bạc vào bọc đem đi. Còn quần áo của mình thì chàng xé ra từng mảnh để trói dặt cánh khuỷu tham tướng lại và lấy bùn nhét vào miệng hắn.
Lệnh Hồ Xung an bài Ngô Thiên Đức rồi trở ra đường lớn mở ngựa nhảy lên cưỡi. Chàng vung roi miệng quát tháo:
– Tránh ra! Tránh ra! Mở đường cho quan lớn đi! Chúng bây đi đường không có mắt hay sao?
Chàng nổi lên tràng cười khoái trá ruổi ngựa cho chạy về phía Nam.
Tối hôm ấy chàng vào ngủ trọ trong thành Dư Hàng.
Chủ quán cùng tiểu nhị luôn miệng một điều quan gia, hai điều quan gia, hầu hạ rất chu đáo.
Sáng sớm hôm sau, Lệnh Hồ Xung gọi chủ quán hỏi thăm đường đi Phúc Kiến rồi thưởng cho chúng một lạng bạc ngoài tiền trọ.
Chủ quán cùng điếm tiểu nhị cung kính đưa chân chàng ra khỏi điếm.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:
– Phúc cho các ngươi gặp ta đây là tham tướng giả hiệu được tử tế thế này. Bằng gặp tham tướng Ngô Thiên Đức thật đến ngủ trọ thì còn khổ với hắn.
Lệnh Hồ Xung nhắm hướng Nam mà tiến cho tới phủ Kim Hoa.
Ở đây nhân dân nói khẩu âm phương Nam, khác hẳn tiếng Trung Châu nên rất khó nghe. May ở chỗ họ thấy chàng là quan quân nên uốn lưỡi cong lên để nói tiếng Quan Thoại, nên chàng nghe cũng hiểu.
Trong đời chàng chưa bao giờ có nhiều tiền như bữa nay, chàng tha hồ mà ăn uống rượu ngon cùng cao lương mỹ vị cho thích khẩu.
Những luồng chân khí dị chủng trong các kinh mạch không khu trục hẳn ra ngoài được, thỉnh thoảng lại trào vào huyệt dan điền khiến chàng đầu nhức mắt hoa, lợm giọng buồn nôn. Chàng lại phải theo phương pháp của Nhậm Ngã Hành khắc trên tấm thiết bảng, dồn chân khí ra khỏi huyệt Đan điền thì tinh thần trở lại thoải mái vô cùng dễ chịu!
Ngày Lệnh Hồ Xung rời khỏi Mai Trang, chàng đã từng nói với Hướng Vân Thiên là vô tình học được “Thần Công Đại Pháp” của Giáo Chủ. Nếu “Thần Công Đại Pháp”đó sau này không có cách nào quên đi được thì chàng còn sống ngày nào cũng quyết không đem ra sử dụng với người ngoài.
Câu đó nói ra thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Lúc này trong người chàng bị bảy tám luồng chân khí dị chủng xung kích nhau làm cho khí huyết nhộn nhạo, khó chịu vô cùng. Chàng đành phải theo phương pháp tán công của Nhậm Ngã Hành, dồn chân khí từ huyệt Đan điền ra kỳ kinh bát mạch. May ở chỗ chàng chỉ sử dụng đại pháp trong người mình chứ không phải đối phó với người ngoài. Như thế không phải là chàng đã nuốt lời.
Lệnh Hồ Xung đi tới giờ Ngọ thì thấy phía trước có ba hán tử cũng đi về hướng Nam. Cước trình bọn này mau lẹ hiển nhiên là người trong võ lâm.
Lệnh Hồ Xung không muốn sinh sự rắc rối, liền cất tiếng gọi:
– Này ba vị! Xin nhường lối cho tại hạ!
Rồi chàng giục ngựa từ từ tiến lên.
Ba người quay đầu nhìn lại thấy là một võ quan, chức vị không phải thấp kém.
Hiện thời bọn quan quân thường hoành hành càn rỡ ở dân gian, ba hán tử thấy chàng ăn nói khiêm nhường thật là hiếm có, liền lập tức đúng tránh sang bên đường.
Lệnh Hồ Xung ngồi trên mình ngựa chắp tay nói:
– Tại hạ xin lỗi ba vị.
Ba người kia cũng chắp tay đáp lễ nói:
– Quan gia dạy quá lời!
Lệnh Hồ Xung cưỡi ngựa lúc lướt qua bên mình ba người liền liếc mắt nhìn thì thấy trong bọn này có một lão già tuổi ngoài năm mươi, cặp lông mày xếch ngược, cặp môi cũng cong lên. Còn hai người nữa đều là thanh niên cỡ ngoài hai chục tuổi. Trong hai thanh niên có một người tướng mạo rất xinh đẹp.
Cả hai thanh niên đều lưng cài đơn đao, còn lão già thì không mang binh khí chi hết.
Trên bước giang hồ thiếu gì người võ lâm, nên chàng cũng không để ý.
Chàng tiếp tục đi chừng hơn hai chục dặm nữa thì tới một phạn điếm. Chàng liền vào nghĩ chân ăn uống. Chàng kêu chủ quán mổ một con gà lớn và lấy hai cân rượu. Trong khi chờ đợi nấu thịt gà và thổi cơm, chàng ngồi đủng đỉnh rót rượu uống.
Chủ quán vừa vặt lông gà sạch sẽ xong, chưa kịp nấu nướng thì ba người kia cũng tới nơi. Họ nhìn Lệnh Hồ Xung gật đầu chào rồi ngồi xuống ghế.
Lão già ngó thấy con gà nhẵn nhụi liền nói:
– Chủ quán! Làm cho bọn ta hai con gà và nếu có thịt bò thì lấy cho hai mâm.
Lão nói khẩu âm người Trung Châu.
Chủ quán đáp:
– Trời ơi! Thế này thì khó quá! Hiện giờ trong tệ quán chỉ có một con gà mà quan gia đây đã lấy rồi. Thịt bò cũng không có. Tiểu nhân nấu hai cạn thịt heo khô có được không?
Lão kia chau mày đáp:
– Bọn ta cử ăn thịt heo. Thôi được! Có hột gà lấy ra một mâm cũng xong.
Chủ quán đáp:
– Hột gà cũng vừa sạch rồi mới thật là phiền.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:
– Bọn này cử ăn thịt heo là người trong giáo phái Thanh chân.
Chàng liền nói:
– Huynh đài đã nói vậy thì tại hạ nhường con gà lại cho các vị. Tại hạ ăn thịt heo khô cũng được.
Lão già cười nói:
– Quan gia thật là người đại lượng, nhưng bọn tại hạ đâu dám thế?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Cái đó có làm quái gì? Chúng ta đều quê quán ở phương Bắc cả nên nhường nhịn nhau một chút là sự thường.
Ba người kia liền chắp tay ngỏ lời cảm ơn rồi rót rượu uống.
Con gà lớn bỏ vào chảo quay, chẳng mấy chốc mùi thơm đưa lên sực nức.
Bên ngoài cửa có tiếng lọc cọc vang lên. Mấy cỗ xe đang đẩy tới. Năm tên cước phu trần trùng trục đi tới trước quán. Trên xe toàn bao muối có vẻ rất nặng. Năm hán tử mồ hôi nhễ nhại ngồi xuống trước cái bàn hóng mát, tay cầm nón lá quạt lấy quạt để.
Một tên hán tử nói:
– Thơm quá! Chủ quán! Có gà phải không? Lấy cho hai con thật béo.
Chủ quán cười đáp:
– Nếu biết bữa nay đông khách thế này thì hôm trước mua thêm mấy con gà nữa. Xin lỗi các bạn. Trong quán chỉ có một con gà, quan gia đây lấy rồi, nhưng người có lòng tốt nhường lại cho ba vị khách quan này.
Hán tử kia dưa mục quan ngó Lệnh Hồ Xung rồi trừng mắt nhìn lão già và hai thanh niên nói:
– Chết đến gáy rồi còn đòi ăn thịt gà nữa ư? Sao không chạy cho thoát thân?
Hai thanh niên nghe hán tử nói vậy nổi giận đùng đùng, cầm đao đứng phắt dậy.
Gã to béo quát hỏi:
– Ngươi nói gì thối thế?
Một tên cước phu thấp lủn thủn mà thù lù cười gằn hỏi lại:
– Bọn ngươi là quân chó má trong Ma Giáo, lén lút tới đây làm gì?
Lão già đưa mắt cho hai thanh niên rồi hắng giọng một tiếng, trầm giọng nói:
– Chúng ta cùng là bạn đi dường, sao lại cùng bọn lão phu…
Lão chưa dứt lời đột nhiên bóng người thấp thoáng rồi chát chát hai tiếng.
Hai gã cước phu đều bị trúng chưởng vào lưng. Lập tức hai gã mềm nhũn người ra.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi. Nguyên về môn quyền cước chàng rất tầm thường nên lão già kia dùng thủ pháp gì mà mau lẹ hiểm độc đến thế chàng cũng không nhìn ra.
Bỗng nghe một tiếng quát lớn:
– Úi chà!
Chủ quán tung mình vọt ra, hai tay cần hai lưỡi trủy thủ nhảy xô vào lão già.
Còn ba tên cước phu rút binh khí trong xe muối ra để động thủ với hai thanh niên Ma Giáo.
Đột nhiên bốn mặt nổi lên tiếng quát tháo om sòm. Từ bên góc tường trong rừng cây, sau núi đá có đến hơn hai chục người ồ ạt chạy ra lao tới trước cửa phạn điếm.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi lẩm bẩm:
– Té ra quanh đây đã mai phục rất nhiều người.
Thân thủ lão già rất linh hoạt. Lão lẫn tránh chủ quán, nhào tới sau bọn cước phụ Lão vung song chưởng lại đánh ngã hai tên. Chưởng lực lão lợi hại chẳng kém gì cương đao bảo kiếm, đụng vào ai người ấy chết.
Bỗng thấy hàn quang lấp loáng, một đạo nhân ở ngoài cửa chống trường kiếm lại đâm lão già.
Lệnh Hồ Xung lẩm bẩm:
– Đây là Hòa Phong sư thúc ở phái Thái Sơn.
Nguyên Hòa Phong đạo nhơn liệt vào hàng thứ tư trong phái Thái Sơn. Bản lãnh lão cao cường gần bằng chưởng môn Thiên Môn đạo nhân.
Hòa Phong động thủ đánh ra hai bốn kiếm liên hoàn bức bách lão già phải lùi lại hai bước.
Lão già kia vung tít hai bàn tay không, xuyên qua xuyên lại giữa luồng kiếm quang, vẫn không chịu kém thế.
Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm:
– Trong Ma Giáo thật lắm nhân tài, chẳng trách các môn phái chính giáo đã mấy trăm năm nay không sao tiêu diệt được bọn họ. Lão già này cũng là một tay cao thủ hạng nhất.
Hòa Phong đạo nhân tiếp tục uy hiếp. Lão già lùi lại thêm hai bước rồi đột nhiên xoay chưởng phản kích đánh vào trước ngực chủ quán đang tập kích phía sau. Lão phóng chưởng ra không quay đầu lại mà sau lưng tựa hồ cũng có mắt, phát chưởng nhắm bộ vị rất trúng. Lão đánh đòn này trúng đích rồi lún thấp người vòng quanh ra phía sau chủ quán, lại bồi thêm một chưởng vào sau lưng hắn.
Người chủ quán bắn lên xô về phía Hòa Phong đạo nhân.
Hòa Phong đạo nhân né tránh sang một bên. Lão liền thừa cơ chạy vào hậu đường.
Hòa Phong đạo nhân cùng hai người nữa chống kiếm rượt theo lão già.
Trong quán mười mấy người đều vung kiếm lên đâm chết gã thanh niên đẹp.
Thanh niên béo vung kiếm chiến đấu rất ác liệt. Người gã bị thương đến sáu bảy chỗ mà gã vẫn không tỏ ra khiếp sợ, hung dữ chẳng khác nào con dã thú lâm vào bước đường cùng. Đột nhiên trên đùi gã lại trúng thêm một đòn rất nặng, té nhào xuống đất.
Ba người liền nhảy xổ tới đè chặt lấy chân tay gã.
Bỗng nghe tiếng quát tháo ầm ầm ở sau núi. Đó là Hòa Phong đạo nhân và hai cao thủ khác đang rượt theo lão già kia.
Lệnh Hồ Xung vừa thấy bóng sau lưng thấp thoáng lão đã chuồn mất hút vào trong rừng. Chàng cho là khinh công lão cao tuyệt, bọn Hòa Phong đạo nhân không thể đuổi kịp.
Quả nhiên sau một lúc, bọn Hòa Phong đạo nhân ba người hậm hực chạy về, một người lùn ngoài bốn mươi tuổi nhổ bãi đòm xuống đất đánh toẹt một cái rồi thóa mạ:
– Con mẹ nó! Bọn yêu nhân trong Ma giáo bản lãnh chẳng ra gì, nhưng chạy trốn thì lẹ lắm!
Lúc mọi người ác đấu trong quán, Lệnh Hồ Xung ngồi co rúm vào một góc nhà làm ra chiều khiếp sợ.
Nguyên chàng thấy bọn này toàn là đệ tử phái Thái Sơn do Hòa Phong đạo nhân cầm đầu. Trong hơn hai chục người chỉ có bảy là đạo nhân còn là tục gia đệ tử. Chàng quen mặt tám chín tên vì đã được gặp nhiều lần.
Mười mấy bữa nay, từ hôm rời khỏi Hàng Châu Lệnh Hồ Xung chưa từng cạo mặt, râu đâm tua tủa. Chàng chắc bọn kia cũng không nhận ra mình được. Có điều chàng chưa bôi thuốc dịch dung thì cũng có cơ nguy bại lộ hình tích, nên chàng cúi gằm mặt xuống, không dám ngửng đầu lên trông bọn họ.
Bọn đồ đệ phái Thái Sơn thấy chàng sợ quá, chân tay run bần bật liền có người bảo chàng:
– Quan gia! Đây là bọn yêu nhân trong Ma Giáo giữa ban ngày chúng cũng hành hung giết người, chính quan gia cũng nhìn thấy rõ. Vụ này không liên quan tới quan gia. Vậy quan gia nên lên đường ngay đi!
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ dạ! Tại hạ xin đi ngay đây!
Rồi chàng lật đật ra khỏi quán nhảy lên ngựa đi liền. Chàng vừa đi vừa tự hỏi:
– Bọn này đến Phúc Kiến làm gì? Không hiểu có liên quan gì đến phái Hoa Sơn mình không?
Lệnh Hồ Xung gặp trường đánh giết này chàng chưa kịp ăn cơm. Trên Tiêu Hà Lĩnh rất ít người ở. Chàng lại đi thêm hơn hai chục dặm đường nữa mà thủy chung không gặp một nhà nào.
Lệnh Hồ Xung thấy trời đã xế chiều liền hái mấy trái cây rừng để ăn qua loa cho đỡ đói.
Bỗng thấy bên gốc cây lớn có một cái động nhỏ khô khan, xem chừng không có sâu bọ Ong kiến quấy nhiễu, chàng liền buộc ngựa vào gốc cây để nó gậm cỏ rồi lấy cỏ khô trải xuống đất trong động chuẩn bị làm chỗ nghĩ qua đêm.
Lúc này nếu đi đường nữa thì sợ chậm quá mà ngủ ngay lại sớm quá. Chàng cảm thấy khí huyết trong huyệt Đan điền lại nhộn nhạo làm cho khó chịu, liền ngồi xuống hành công.
|
Giả say sưa cản lối bọn Hằng Sơn
Thần công Nhậm Ngã Hành truyền thụ cho, lúc ban đầu chàng luyện tập không thấy gì khác lạ, nhưng những lần càng về sau càng thấy dễ chịu vô cùng. Toàn thân thoải mái, nhẹ lâng lâng như muốn bay bổng lên không.
Lệnh Hồ Xung thở phào một cái đứng dậy, bất giác nở nụ cười nhăn nhó nghĩ thầm:
– Hôm ấy mình hỏi Nhậm giáo chủ đã có một tuyệt học Qùy Hoa Bảo Điển trong tay, sao còn đi luyện “Hấp tinh đại pháp” thì không thấy lão trả lời. Bây giờ mình mới hiểu rõ nội tình. Té ra luyện môn “Hấp tinh đại pháp” này tựa hồ trong xương có một thứ trùng không thể bỏ được.
Nghĩ tới đây bất giác chàng không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ:
– Mình thường nghe sư nương đã nói người rợ Miêu nuôi một thứ trùng chắc cũng thế này. Đã nuôi nó tuy biết là có hại mà không thể bỏ được. Nếu không để trùng hút chân khí hại người thì nó quay lại cắn chủ. Vậy rồi đây ta phải tránh lối nuôi trùng của người rợ Miêu mới được.
Lệnh Hồ Xung ra khỏi sơn động thấy tinh tú đầy trời. Bốn mặt côn trùng rên rỉ. Bỗng nghe trên đường sơn đạo có tiếng bước chân người đi tới. Lúc này họ hãy còn xa, nhưng nội lực chàng cao cường nên thính giác rất linh mẫn. Chàng chấn động tâm thần, liền cởi dây cương buộc ngựa ra khẻ vỗ vào mông nó. Con ngựa liền từ từ đi xuống thung lũng.
Lệnh Hồ Xung ẩn mình vào gốc cây. Sau một khắc chàng thấy tiếng bước chân mỗi lúc một gần, số người đi rất đông. Dưới ánh sao chàng thấy một đoàn người đều mặc áo xanh.
Trong đoàn này có một người cước bộ rất mau, chính là lão già mà chàng đã gặp ban ngày trong phạn điếm đánh nhau với đệ tử phái Thái Sơn. Ngoài lão già còn có hơn ba chục người vừa cao vừa thấp lốc nhốc theo sau.
Lệnh Hồ Xung tự hỏi:
– Bọn này đi xuống phía Nam đi vào đất Mân (Phúc Kiến), hay là bọn họ có liên quan với phái Hoa Sơn tả Chẳng lẽ họ vâng lệnh Nhậm giáo chủ đến làm khó dễ cùng sư phụ sư nương mình?
Chàng chò cho đoàn người đi xa rồi mới len lén theo sau.
Đi chừng được vài dặm đường trên núi bỗng dốc ngược. Hai bên ngọn núi đứng dựng. – giữa một lối đi rất chật hẹp chỉ lọt một người đi. Hơn ba chục người kia phải bày thành hàng chữ nhất mà bò lên núi.
Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:
– Nếu ta cũng trèo lên ngay thì bọn kia ở trên cao nhìn xuống chỉ một người quay đầu lại ngó xuống là thấy mình liền. Ta hãy chờ cho bọn họ trèo hết sườn núi bắt đầu đi xuống hãy rượt theo.
Chàng liền ẩn vào bụi cỏ rậm.
Ngờ đâu bọn kia lên đến đỉnh sườn núi đột nhiên tản mát chia ra ẩn vào sau những tảng đá núi. Chỉ trong khoảng khắc là họ nấp hết không còn thấy bóng một người nào.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi , ý nghĩ thứ nhất của chàng là:
– Không chừng bọn kia đã nhìn thấy mình?
Nhưng rồi chàng lại nghĩ:
– Bọn họ mai phục thế này là để tập kích người lên núi. Phải rồi! Chỗ này địa thế rất haỵ Người trèo sườn núi mà không biết trước bọn Ma giáo này đột nhiên đổ ra thì khó lòng tránh khỏi độc thủ. Chắc bọn này định phục kích Hòa Phong sư thúc cùng bọn đệ tử phái Thái Sơn. Năm phái đã kiên thủ cũng như cây liền cành. Vậy ta phải cảnh cáo họ mới được.
Chàng liền từ trong bụi cỏ len lén bò ra bỏ đường sơn đạo rời khỏi chỗ đó rồi cứ theo những đống loạn thạch chạy xuống núi. Chàng đi quanh mấy khúc, ngoảnh đầu lại nhìn không thấy sườn núi cao đâu nữa mới chuyển qua đường sơn đạo trở về phía Bắc.
Lệnh Hồ Xung vừa chạy thật mau vừa để ý lắng tai nghe xem có tiếng bước chân người không. Chàng chạy được hơn mười dặm bỗng nghe trên sườn núi cao mé tả có tiếng đàn bà thét lên lanh lảnh:
– Gã Lệnh Hồ Xung là một đứa chẳng ra gì mà ngươi còn cưỡng biện cho gã ư?
Giữa lúc đêm tối lại ở chốn núi thâm sơn mà đột nhiên nghe tiếng đàn bà kêu tên mình rất rõ ràng thì Lệnh Hồ Xung dù lớn mật đến đâu cũng không khỏi kinh hồn táng đởm, toàn thân ớn da gà.
Chàng tự hỏi:
– Đây là yêu tinh hay quỉ quái? Sao lại kêu tên gọi họ ta ở chỗ này?
Tiếp theo Lệnh Hồ Xung lại nghe thanh âm một thiếu nữ cất lên, nhưng vì quãng cách khá xa mà tiếng nói lại nhỏ nên chàng không nghe rõ cô này nói gì.
Lệnh Hồ Xung động tính hiếu kỳ liền đúng nghển cổ trông về phía đó thì thấy bóng đen lố nhố có đến hai, ba chục người.
Chàng lẩm bẩm một mình:
– Té ra bọn họ đang nói chuyện mình, nhưng sao họ lại thóa mạ mình là một đứa không ra gì?
Chàng liền lún thấp người xuống chuồn vào đám cây rậm bên dường lén lút đi quanh ra phía sau chỗ sườn núi kia. Chàng cúi lom khom đi rất lẹ đứng ẩn vào sau một gốc cây.
Bỗng nghe thanh âm thiếu nữ nói:
– Thưa sư bá! Lệnh Hồ sư huynh làm điều nghĩa hiệp…
Mới nghe thấy câu này, trong đầu óc Lệnh Hồ Xung đã hiện lên bộ mặt trái xoan rất xinh đẹp, ngực chàng nóng bừng, vì chàng biết người nói đó chính là tiểu ni cô Nghi Lâm ở phái Hằng Sơn.
Giữa lúc Lệnh Hồ Xung đang hồi hộp trong lòng, Nghi Lâm nói thêm câu gì, chàng cũng không nghe rõ nữa.
Thanh âm the thé của bà già nói trước lại cất lên:
– Ngươi còn nhỏ tuổi, đầu óc còn non nớt mà sao lại cố chấp đến thế? Chẳng lẻ Nhạc tiên sinh, chưởng môn phái Hoa Sơn gởi thơ đi còn là chuyện bịa hay sao? Trong thơ sư phụ gã đã nói rõ vì gã cấu kết với Ma giáo nên tiên sinh trục xuất gã ra khỏi môn trường thì còn oan uổng gì nữa? Chuyến này chúng ta đi Phúc kiến tất xảy cuộc động thủ với bọn Ma giáo. Người ta thường nói: “Đòn thật dễ bề tránh né, tên ngầm khó nỗi phòng ngừa”. Trong Ma giáo thật lắm kẻ gian tà. Vậy chúng ta phải gia tâm phòng bị, kẻo bị chúng ra tay ám toán… Ta biết trước kia Lệnh Hồ Xung đã có lần cứu ngươi, chắc gã sẽ dựa vào chút ân tình nhỏ xíu để ngấm ngầm hại chúng ta…
Nghi Lâm ngắt lời:
– Sư bá! Đó không phải là chút ân tình nhỏ xíu đâu. Lệnh Hồ sư huynh đã chẳng kể gì đến tính mạng y…
Tiếng mụ già lại quát lên:
– Ngươi còn kêu gã bằng Lệnh Hồ sư huynh ư? Gã là một tên ác tặc lắm mưu thần chước quỷ lại khéo giả vờ để lừa gạt bọn con nít các ngươi. Trên chốn giang hồ lòng người quỉ quái muôn mặt chẳng thiếu thứ gì. Các ngươi là hạng trẻ nít rất dễ bị lừa. Nghi Lâm! Ngươi có nghe lời ta không thì bảo?
Nghi Lâm đáp:
– Sư bá đã truyền dạy, đệ tử khi nào dám cãi lời? Có điều… có điều..Lệnh Hồ sư…
Đến chữ “huynh” cô phải đột nhiên dừng lại không dám nói ra.
Mụ già hỏi:
– Có điều làm sao?
Nghi Lâm dường như sợ hãi quá, cô không dám nói nữa.
Mụ già lại nói:
– Chuyến này cả Ngũ Nhạc Kiếm Phái cùng xuống Phúc Kiến, ai cũng biết là đi lấy Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu. Gã tiểu tử họ Lâm đã quy đầu vào làm môn hạ Nhạc tiên sinh. Nếu bộ kiếm phổ này mà lọt vào tay phái Hoa Sơn là hay hơn hết. Phái Hằng Sơn chúng ta trước nay vẫn giữ thái độ chí công không thiên vị, quyết chẳng tham lam vật gì của người tạ Dù có lấy được kiếm phổ, chúng ta cũng giao trả lại cho gã họ Lâm, cần nhất là đừng để lọt vào tay Ma giáo mà thành vạ lớn cho thiên hạ. Ngoài bọn Ma giáo còn lắm kẻ bàng môn tà đạo tỷ như Tái Bắc Minh Đà Mộc Cao Phong, nếu kiếm phổ mà lọt vào tay họ cũng rất nguy hiểm. Chưởng môn đã giao phó trọng trách này cho ta gánh vác, sai ta thống lĩnh quần đệ tử vào đất Mân. Vụ này có liên quan đến vận mạng hai phe chính tà, không thể nào khinh xuất được, mà phải đem toàn lực để đối phó. Vô phước để Tịch Tà kiếm phổ cho bọn Ma giáo lấy được, võ công chúng mà còn tăng tiến thì hết thảy chúng chết không có đất chôn. Còn ba chục dặm đường là tới chỗ giáp giới hai đất Triết Mân. Từ đây trở đi mỗi bước đều có thể xảy ra nguy hiểm. Bữa nay chúng ta phải một phen tân khổ, đi đường suốt đêm cho tới Trấp Bát Đô hãy nghỉ. May ở chỗ Hòa Phong sư thúc phái Thái Sơn đã giết bọn Ma giáo trước đi rồi. Bây giờ chúng ta tới đó đón đầu. Thế là dùng kế mình khỏe để đánh kẻ mệt nhọc, vì bọn Ma giáo khi kéo đến tất xảy ra một trường chiến đấu ác liệt.
Bỗng nghe thanh âm mấy chục cô gái vâng lời răm rắp.
Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:
– Bà này không phải chưởng môn phái Hằng Sơn mà cũng không phải sư phụ Nghi Lâm sư muội.
Không hiểu bà là một vị sư thái tiền bối nào trong phái Hằng Sơn? Bà đã tiếp được truyền thư của sư phụ ta, dĩ nhiên coi ta là kẻ tàn ác bất nhân, vậy không thể trách bà được. Có điều bà bảo đi đón đầu bọn Ma giáo là trật lất. Bà có biết đâu bọn giáo chúng Ma giáo đã mai phục ở phía trước rồi. May mà ta phát giác ra được. Bây giờ ta phải làm cách nào báo cho đoàn người phái Hằng Sơn biết mới được.
Bỗng nghe mụ già lại lên tiếng:
– Đức Phật từ bi không cho ta phạm pháp giới một cách khinh xuất là để cứu người lành. Nhưng chúng ta nên thể theo lòng dạ đại từ đại bi của Đức Bồ Tát là cứu khổ nạn cho chúng sinh.Vậy chúng ta phải gắng sức hàng ma diệt yêu.
Bọn nữ đệ tử đồng thanh:
– A di đà phật! Đức Phật từ bi cứu khổ cứu nạn!
Bỗng nghe bà già nói:
– Nơi đây là chốn hoang sơn. Ta cần nhắc cho ai nấy đều biết khi vào tới địa phận đất Mân (Phúc kiến), bốn mặt đều là địch nhân. Không chừng cả điếm tiểu nhị trong phạn điếm hay tên hầu trà trong trà quán cũng là quân gian tế của bọn Ma giáo. Chẳng những trong vách có tay mà trong đám cỏ rậm thường cũng có địch nhân ẩn núp. Từ giờ phút này không ai được nhắc một câu Tịch Tà kiếm phổ, cả những tên Nhạc tiên sinh, Lệnh Hồ Xung, Đông Phương Tất Bại cũng đừng nói đến.
Bọn nữ đệ tử nghe lão nói đều dạ một tiếng.
Nguyên Giáo chủ Ma giáo là Đông Phương Bất Bại, thần công vô địch nên tự xưng là Bất Bại.
Nhưng người trong phái chính khi nhắc tới lão thường gọi trệch đi là Đông Phương Tất Bại để nổi tráng khí của mình, giảm oai phong của địch.
Lệnh Hồ Xung nghe mụ già đưa tên tuổi của mình đồng hàng với sư phụ và Đông Phương Bất Bại thì không khỏi nở nụ cười chua chát tự hỏi:
– Mình bất quá là tên vô danh tiểu tốt, mà sao một vị tiền bối phái Hằng Sơn lại đề cao đến như vậy?
Mụ già lại nói tiếp:
– Bây giờ chúng ta lại lên đường!
Quần đệ tử dạ ran.
Bỗng thấy bảy tên đệ tử từ trên sườn núi cao chạy lẹ xuống.
Sau một lúc lại bảy người khác chạy xuống.
Nguyên môn khinh công phái Hằng Sơn có một đường lối đặc biệt rất nổi tiếng trong võ lâm. Bảy người tốp trước cách bảy người tốp sau một quảng đều đặn. Những tay áo rộng thùng thình bay phất phới coi rất ngoạn mục, lại tựa hồ kết thành trận pháp, xa trông càng đẹp.
Sau một lúc lại bảy người khác nữa chạy xuống. Những cô này chẳng phải nữ ni mà là tục gia đệ tử.
Lúc này đêm tối khó phân biệt được Nghi Lâm ở trong đội nào.
Lệnh Hồ Xung thấy mọi người đều theo hướng Nam thẳng tiến thì bụng bảo dạ:
– Bọn sư tỷ sư muội phái Hằng Sơn kia đều có tuyệt kỹ, nhưng lên tới đỉnh đèo, hai bên núi non chót vót giữa chỉ có một đường hẻm. Bọn Ma giáo mà đổ ra tập kích thì phần thương vong rất đổi nặng nề.
Chẳng bao lâu phái Hằng Sơn đã điều động năm tốp đệ tử. Tốp sau cùng có tám người, chắc bà già thống lĩnh quần đệ tử cũng ở trong tốp này.
Lệnh Hồ Xung hái nắm cỏ xanh vắt lấy nước bôi vào mặt rồi lại bốc bùn xoa lên một lượt. Chàng chắc ngay giữa ban ngày Nghi Lâm cũng không thể nhận ra được mình rồi quanh đường sơn qua mé tả đề khí rượt theo.
Nguyên khinh công chàng rất tầm thường. Song môn này cao hay thấp là hoàn toàn lệ thuộc vào nội lực mạnh hay yếu. Nay nội lực chàng đã hùng hậu thì tùy ý cất bước hay muốn nhảy xa cũng được.
Chàng đề khí chạy rất gấp chỉ trong khoảnh khắc đã đuổi kịp bọn người phái Hằng Sơn.
Lệnh Hồ Xung sợ bản lãnh bà già ghê gớm nghe tiếng bước chân mình nên chàng chạy theo đường vành cung để đón đầu bọn họ. Rẽ vào sơn đạo, chàng chạy nhanh hơn.
Lúc vầng trăng tỏ lên đến giữa trời. Lệnh Hồ Xung đã chạy đến chân sườn núi cao lúc nãy. Chàng dừng bước lại lắng tai nghe thì tuyệt không thấy động tĩnh chi hết, liền bụng bảo dạ:
– Giả tỷ mình không chính mắt nhìn thấy bọn Ma giáo mai phục ở hai bên sườn núi nầy thì nguy hiểm biết chừng nào! Địa thế chỗ này hiểm trở thì mối nguy cơ càng ghê gớm.
Chàng từ từ đi lên sườn núi, khi đến chỗ đường hẻm giữa hai dãy núi, cách khu vực bọn Ma giáo mai phục chừng một dặm thì ngồi xuống nghĩ thầm:
– Chắc trong bọn Ma giáo có người nhìn thấy ta rồi, xong họ sợ rút dây động rừng nên không muốn động thủ với ta mà thôi.
Chàng chờ một lúc rồi đánh bạo nằm kềnh xuống đất.
Trong khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà, bỗng nghe dưới núi xa xa có tiếng bước chân người.
Lệnh Hồ Xung tự nhủ:
– Nếu dẫn dụ được bọn Ma giáo xuống động thủ với mình càng haỵ Ta chỉ cần tỷ với họ một lúc là phái Hằng Sơn biết ngay.
Nghĩ vậy chàng liền lên tiếng thách thức:
– Bình sinh lão gia rất ghét kẻ dùng tên ngầm để hại người. Nếu có giỏi sao không vung đao múa giáo ra đấu nhau một trận mà lại ẩn nấp giỡ thói đê hèn vô liêm sĩ để ngấm ngầm đánh lén.
Chàng quay mặt về phía núi cao đề khí nói lớn! Tuy thanh âm chàng không vang dội lắm nhưng nội lực đầy dẫy, đủ khiến cho thanh âm vọng đi rất xa, chắc là bọn Ma giáo đã nghe rõ.
Ngờ đâu bọn Ma giáo vẫn im hơi lặng tiếng không nghĩ gì đến chàng.
Chỉ trong khoảnh khắc, bảy tên đệ tử phái Hằng Sơn đi đầu đã tới trước mặt chàng.
Dưới ánh trăng tỏ, bọn nữ đệ tử thấy rõ một vị quân quan nằm duỗi dài dưới đất.
Đường sơn đạo nầy chỉ lọt một người đi, hai bên đều vách núi dựng đứng. Nếu muốn trèo lên tất phải bước qua người Lệnh Hồ Xung.
Bọn nữ đệ tử kể ra chỉ khẽ nhún mình là nhảy qua được, nhưng hiềm vì nam nữ hữu biệt, bảy cô mà nhảy qua một người đàn ông thì thật vô lễ.
Một nữ ni đúng tuổi trong đám liền cất tiếng dõng dạc.
– Phiền quan gia cho mượn đường đi!
Lệnh Hồ Xung ú ớ mấy tiếng rồi đột nhiên nổi lên tiếng gáy o o.
Vị nữ ni này pháp danh là Nghi Hòa, nhưng tính tình mụ lại chẳng hòa chút nào. Mụ thấy võ quan này đang đêm ngủ giữa đường đi đã là một chuyện bê bối, lại còn giả tảng ngáy ầm ầm cố ý ngăn cản lối đi thì tức giận vô cùng, nhưng mụ cố nén, nhắc lại:
– Nếu quan gia không tránh đường thì bắt buộc bọn ta phải nhảy qua đó.
Lệnh Hồ Xung vẫn ngáy o o rồi cất giọng ngái ngủ đáp:
– Trên đường này rất nhiều yêu ma quỉ quái không đi được đâu… -! -!… Bể khổ mênh mông… quay lại là thấy bờ.
Nghi Hòa sửng sốt nghe chàng nói câu này dường như có ý nghĩa bí ẩn.
Một tên nữ ni khác kéo áo Nghi Hòa. Rồi cả bảy người đều lùi lại mấy bước.
Một người khẽ nói:
– Sư tỷ! Dường như người này tính tình cổ quái.
Lại một người khác nói:
– Không khéo hắn là gian nhân bên Ma giáo. Họ chực sẵn ở đây để khiêu chiến với chúng ta.
Người thứ ba nói:
– Bọn Ma giáo quyết không ai làm quan quân của triều đình. Dù họ có giả dạng thì cũng cải trang cách khác.
Nghi Hòa nói:
– Bất chấp hắn là hạng người nào. Nếu còn bướng không chịu nhường lối thì chúng ta cứ việc nhảy qua.
Đoạn mụ rảo bước tiến về phía trước, lớn tiếng quát:
– Nếu quan gia không chịu nhường lối thì bọn ta đành đắc tội.
Lệnh Hồ Xung liền vươn vai ngáp dài rồi uể oải ngồi dậy. Chàng chỉ sợ Nghi Lâm nhận ra mình, phải quay mặt vào sườn núi lưng hướng về chúng đệ tử phái Hằng Sơn. Chàng chống tay vào vách núi người lắc lư như kẻ say rượu cất giọng ấm ớ:
– Rượu ngon rượu ngon quá!
Giữa lúc này tốp đệ tử thứ hai của phái Hằng Sơn cũng tới nơi. Một tên tục gia nữ đệ tử cất tiếng hỏi:
– Nghi Hòa sư tỷ! Người nầy đến đây làm chi vậy?
Nghi Hòa chau mày gắt lên:
– Ai biết được hắn làm gì?
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng:
– Vừa rồi mổ chó ăn vào thành ra chướng bụng, lại uống nhiều rượu quá chỉ chực buồn nôn. Trời ơi! Nguy rồi! Đến phải mửa ra mất!
Rồi chàng nôn oẹ liên hồi, tưởng chừng mửa ra nhiều lắm.
Bọn nữ đệ tử này đều là những người thanh khiết. Họ đã gia nhập phái Hằng Sơn là phái cữ ăn mặn cùng uống rượu. Họ vừa nghe Lệnh Hồ Xung nói vậy đều bịt mũi lùi lại.
Lệnh Hồ Xung nôn oẹ mấy tiếng nhưng có nôn mửa gì đâu. Bọn đệ tử còn đang thì thào bàn tán thì tốp thứ ba lại tới nơi.
Bỗng nghe thanh âm êm đềm cất lên:
– Người này say quá rồi! Thật là tội nghiệp! Hãy để họ nghỉ một lúc rồi chúng ta sẽ đi cũng không muộn.
Lệnh Hồ Xung nghe thanh âm này, trong lòng cảm thấy rung động nghĩ thầm:
– Tâm địa Nghi Lâm tiểu sư muội quả là tâm địa lương thiện.
Bỗng nghe Nghi Hòa nói:
– Hắn cố ý gây sự mình chẳng cần phải tử tế làm chi.
Đoạn mụ tiến lại quát:
– Tránh ra!
Đồng thời mụ vung chưởng đánh vào vai bên trái Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung lảo đảo người đi, la lên:
– Trời ơi! Đừng mà! Không được đâu!
Chàng chệnh choạng tiến lên mấy bước. Chàng đi lên như vậy thì cục diện lại càng tắc nghẽn.
Người chàng bít hết con đường sơn đạo nhỏ hẹp. Người đi sau trừ cách nhảy qua đầu chàng, không còn biện pháp nào khác.
Nghi Hòa cũng trèo lên theo, hét lớn:
– Tránh ra mau!
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ dạ.
Rồi chàng lại đi lên mấy bước. Đường núi càng lên cao càng chật hẹp hơn.
Đột nhiên chàng lớn tiếng hô:
– Này này! Những ông bạn mai phục trên đó hãy để ý! Bọn người mà các bạn chờ đã tới nơi rồi.
Các vị xổ ra đánh thì chẳng một ai trốn thoát.
Bọn Nghi Hòa vừa nghe tiến hô lập tức lùi lại.
Một người nói:
– Chỗ này địa thế cực kỳ hiểm trở, nếu địch nhân mai phục ở đây đột nhiên tập kích thì khó mà chống chọi được.
Nghi Hòa nói:
– Nếu có mai phục thì sao hắn còn hô hoán làm chỉ Binh pháp đã nói: “Hư mới là thực, thực lại là hư”. Nhất định trên kia không có người. Nếu chúng ta sợ hãi lùi lại là để địch cười cho đó.
Hai vị nữ ni đúng chỗ khác đồng thanh:
– Phải đó! Ba chúng ta đi trước mở đường. Các sư muội hãy theo sau.
Ba người rút trường kiếm ra khỏi võ, thi triển khinh công chạy đến sau lưng Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung vừa thở hồng hộc vừa nói:
– Sườn núi này dốc quá! Hỡi ôi! Lão gia lớn tuổi rồi, cất bước không nỗi nữa.
Một tên nữ ni khác quát:
– Này này! Quan gia nép vào một bên nhường lối cho chúng ta đi trước được không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Người xuất gia không nên nóng nảy như vậy. Đi nhanh cũng đến mà đi chậm cũng đến nơi. Trời ơi! Các vị định đến quỉ môn quan thì đi chậm lại càng hay.
Nữ ni kia hỏi lại:
– Có phải quan gia thóa mạ bọn ta không?
Mụ vung kiếm phóng qua bên mình Nghi Hòa, nhằm đâm vào sau lưng Lệnh Hồ Xung.
Mụ chỉ muốn hăm chàng, chứ không có ý đả thương, nên mũi kiếm gần đụng người chàng mụ liền dừng lại không phóng tới nữa.
|
Trong hẻm núi, phái Hằng Sơn bị khốn
Lệnh Hồ Xung giữa lúc ấy xoay người lại, chàng thấy mũi kiếm trỏ vào trước ngực mình liền lớn tiếng quát:
– Ngươi… Ngươi làm gì thế này? Ta đây là mệnh quan của triều đình mà ngươi dám vô lễ thế sao?
Chúng bây đâu! Bắt lấy mụ nữ ni này cho ta!
Dù chàng quát tháo om sòm thì ở chốn hoang sơn dã lĩnh này cũng có ai nhìn tới.
Mấy tên nữ đệ tử nhỏ tuổi bưng miệng mà cười, vì chúng thấy chàng ra oai ở nơi đây thì thật là một trò hoạt kê hết chỗ nói.
Một tên ni cô cười nói:
– Quan gia! Bọn tiểu ni có việc gấp phải đi ngay, phiền quan gia tránh sang bên đường một chút.
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng quát:
– Cái gì mà quan gia với chẳng quan giả Ta đây đường đường là một viên Tham tướng. Các ngươi phải kêu ta bằng tướng quân mới hợp lý.
Bảy tám cô đệ tử vừa cười vừa la:
– Bẩm tướng quân đại nhân! Xin tướng quân tránh đường cho.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả đứng phưỡn ngực ra chiều đắc chí.
Đột nhiên chàng trượt chân té nhào.
Bọn đệ tử la hoảng:
– Coi chừng
Rồi hai người nắm lấy tay chàng.
Lệnh Hồ Xung lại trượt xuống một chút nữa rồi mới đứng lên được. Chàng văng tục thóa mạ một cách rất hách dịch:
– Mẹ kiếp! .. Đường đất gì mà trơn thế này? Bọn địa phương quan toàn là hạng cơm toi, không biết điều động dân phu để tu sửa con đường nhỏ này.
Người chàng tuột xuống nằm co ro dựa vào vách núi. Chỗ sườn núi này hơi lõm vào một chút. Bọn nữ đệ tử liền thi triển khinh công lướt qua bên mình chàng.
Có người cười nói:
– Đáng lý địa phương quan phải phái tám tên phu đưa một cỗ kiệu lớn để khiêng tướng quân đại nhân qua ngọn núi này mới hợp lý.
Có người nói:
– Tướng quân thì cưỡi ngựa chứ ai lại ngồi kiệu bao giờ?
Người trước nói:
– Nhưng tướng quân này khác với quan thường, cưỡi ngựa sẽ bị té nhào.
Lệnh Hồ Xung tức mình quát lớn:
– Những quân này quen miệng nói càn. Có bao giờ tướng quân lại cưỡi ngựa mà ngã được?
Tháng trước một con lão hổ đáng chết nhảy ra. Ta từ trên lưng ngựa tuột xuống bị thương ở cạnh sườn, nhưng chẳng có chi đáng kể.
Bọn nữ đệ tử nổi lên tràng cười rộ.
Lệnh Hồ Xung thấy một tấm thân mảnh dẻ lướt qua chính là Nghi Lâm. Chàng liền đúng dậy đi theo nàng. Thế là những người phía sau bị ngăn chặn.
May mà Lệnh Hồ Xung tuy cất bước trầm trọng, thở lên hồng hộc, ba bước lại trượt, năm bước lại nhào, nhưng chàng đi khá mau lẹ.
Bọn đi sau có kẻ cười ngặt nghẽo, có người lại oán thán, miệng lảm nhảm:
– Ông tướng này thật là đáng… Hỡi ơi! Mỗi ngày không biết ổng té bao nhiêu lần?
Nghi Lâm quay lại hỏi:
– Nghi Thanh sư tỷ! Sư tỷ đừng thúc giục ổng, dể ổng hoang mang trong dạ rồi lại té nhào.
Đường núi dốc thế này, té xuống không phải chuyện đùa.
Lệnh Hồ Xung coi cặp mắt sâu thẳm của nàng chẳng khác hi hai dòng suối biếc. Bộ mặt trái xoan dưới ánh mặt trời càng đẹp lộng lẫy.
Chàng nhớ lại ngày trốn tránh phái Thanh Thành truy kích, nàng đã ôm mình từ trong thành Hằng Sơn chạy ra. Lúc đó chàng cứ giương mắt bần thần nhìn nàng, lòng chàng lại nỗi lên một mối tình êm dịu, bất giác miệng lẩm bẩm:
– Trên sườn núi cao kia có bọn cường địch mai phục gia hại nàng. Mạng ta sống chết chẳng kể làm chi, nhưng quyết bảo vệ cho nàng được an toàn.
Nghi Lâm ngó thấy cặp mắt của chàng đã không có tinh thần mà vẻ mặt lại quê mùa cục mịch, nhưng nàng cũng nhìn chàng khẽ gật đầu và lộ ra một nụ cười hiền hòa.
Nàng nói tiếp:
– Nghi Thanh sư tỷ! Nếu tướng quân đây có trượt chân té nhào thì sư tỷ đỡ y cho lẹ.
Nghi Thanh cười hỏi:
– Y nặng thế này ta đỡ sao thế nào được?
Nguyên giới luật phái Hằng Sơn rất nghiêm ngặt. Bọn nữ đệ tử không được cười cười nói nói với người ngoài một cách bừa bãi,. Nhưng một là Lệnh Hồ Xung khéo giỡ trò hề, không ngớt làm vui cho họ. Hai là quanh đây không có bậc trưởng bối lại giữa lúc đêm khuya thì có bỡn cợt mấy câu cũng chẳng hề gì, lại khiến tinh thần thêm phấn khởi.
Lệnh Hồ Xung làm mặt giận nói:
– Những cô nhỏ này ăn nói không biết đường khinh trọng. ta đây đường đường là một vị tướng quân, nhớ lại ngày trước giết giặc ở chốn sa trường, oai phong lẫm liệt sát khí đằng đằng. Các cô mà ngó thấy thì, ha hạ. tất phải phục lăn ra. Con đường núi nhỏ mọn này đã ăn thua gì té thế nào được. Các cô nói thế là bạ đâu nói đấy. úi chao! Chết rồi!..
Tưởng chừng chân chàng xéo phải hòn đá, người chàng chúi hẳn xuống sát đất. Chàng mà rớt xuống thì ở chỗ dốc núi nguy hiểm này còn khiến cho nhiều người phái Hằng Sơn phải bị thương lây.
Chàng liền giơ hai tay ra vẫy loạn lên.
Mấy cô nữ đệ tử ở phía sau Lệnh Hồ Xung thét lên lanh lảnh.
Nghi Lâm vội xoay mình lại, vươn tay ra.
Lệnh Hồ Xung liền nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của nàng.
Nghi Lâm đề khí vân kình kéo mạnh một cái. Đồng thời Lệnh Hồ Xung chống tay trái xuống đất đẩy mạnh lên mới đúng thẳng dậy được. Thái độ chàng coi rất bối rối.
Mấy cô nữ đệ tử đứng ở phía sau không nhịn dược bật lên tiếng cười khúc khích.
Lệnh Hồ Xung nói chữa thẹn:
– Bản tướng đi đôi giày ủng này leo núi rất là bất tiện. Giả tỷ bản tướng cũng đi giày vải gai như các cô thì làm gì mà té được. Vả lại bản tướng bất quá trượt chân nằm xoài ra, chứ có phải là ngã thực sự đâu? Thế thì có gì đáng cười?
Nghi Lâm từ từ buông tay ra nói:
– Phải đấy! Tướng quân đi giày ủng trèo núi quả là bất tiện thực.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dù là bất tiện, song mình làm Tham tướng vẫn phải đi ủng cho có vẻ oai phong. Nếu cũng đi giày cỏ dép gai như các cô là người bách tính thì còn chi là thể diện?
Bọn nữ đệ tử nghe chàng nói vậy lại cười ồ cả lên.
Lúc này mấy toán sau cũng lục tục kéo đến chân núi, còn toán đi đầu thì gần tới chỗ cao nhất trên sườn núi.
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng la:
– Trên dãy núi này rất nhiều tên giặc cỏ cắp gà trộm chó. Nếu sơ ý không đề phòng là bị chúng vác gậy đánh lén để sang đoạt tiền tài, các cô là người xuất gia, trong mình tuy chẳng có gì quý giá, nhưng phải vất vả đi xin cúng đường mới được chút bạc vụn. Vậy phải coi chừng mới đừng để chúng cướp đoạt mất.
Nghi Thanh cười nói:
– Đã có đại tướng quân của chúng ta ở đây, chắc những quân tiểu tặc không dám đến vuốt râu hùm đâu mà ngại.
Lệnh Hồ Xung bỗng la hoảng:
– Úi chà! Phải coi chừng đó! Bản tướng thấy dường như có kẻ đang ngấp ngó đấy.
Một tên nữ đệ tử nói:
– Ông tướng này thật khéo ba hoa. Chẳng lẽ bọn ta còn sợ những tên giặc cỏ đó sao?
Cô vừa dứt lời, đột nhiên nghe tiếng hai tên nữ đệ tử la hoảng:
– Úi chao!
Rồi từ trên sườn núi lăn long lóc xuống.
Hai tên nữ đệ tử khác vội chạy lên ôm lấy.
Mấy cô đệ tử phía trước bỗng la lên:
– Bọn tặc tử phóng ám khí đó! Hãy coi chừng!
Tiếng la chưa dứt, lại một cô nữa lăn xuống.
Nghi Lâm vội hô:
– Nằm rạp cả xuống. Coi chừng ám khí!
Mọi người đều hấp tấp cúi rạp xuống.
Lệnh Hồ Xung cất tiếng thóa mạ:
– Bớ quân giặc cỏ lớn mật kia! Chúng bây không biết có Lưu tướng quân ở đây hay sao?
Nghi Lâm kéo tay chàng vội nói:
– Tướng quân! Mau mau nằm rạp xuống đi!
Bọn nữ đệ tử phía trước móc ám khí ra. Nào Tụ tiến, nào Thiết bồ đề liệng lên tới tấp. Nhưng địch nhân ở tên sườn núi ẩn vào sau những tảng đá lớn, không nhìn thấy một tên nào lộ diện. Dĩ nhiên bao nhiêu ám khí đều bắn vào khoảng không, chẳng trúng một ai.
Người dẫn đầu quần đệ tử phái Hằng Sơn là Định Tĩnh sư thái được tin phía trước có quân địch động thủ. Bà vội tung mình nhảy lên, vọt qua đầu bọn nữ đệ tử. Khi tới phía sau lưng Lệnh Hồ Xung, bà lại nhảy vèo một cái qua đầu chàng.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Xả xui! Xả xui! Tài lợi đại cát!
Rồi chàng nhổ nước miếng mấy cái.
Bỗng thấy tay áo Định Tĩnh sư thái rộng thùng thình bay phất phới đang tiến lên để tấn công.
Bên địch liệng ám khí ra vù vù. Mũi thì cắm vào tay áo bà. Mũi thì bị thanh tụ đao của bà gạt bắn đi.
Định Tĩnh sư thái nhô lên hụp xuống mấy cái đã lên tới đỉnh sườn núi. Chân trái vừa đặt xuống, bỗng nghe tiếng gió rất gấp! Một cây thục đồng côn nhè đỉnh đầu bà đánh xuống.
Định Tĩnh sư thái nghe tiếng gió do binh khí phát ra cũng đủ biết cây côn này rất trần trọng, bà không dám thẳng thắng đón tiếp, nghiêng mình qua một bên tránh khỏi.
Lại thấy cây Liễu tử thương một trên một dưới đâm tới uy thế rất mãnh liệt. Bà biết ngay người sử thương là một tay hảo thủ.
Định Tĩnh sư thái lớn tiếng quát:
– Những quân khốn kiếp kia! Chuyên nghề đánh lén. Thật là hạng đê hèn.
Bà xoay tay lại rút trường kiếm. Bà vung kiếm gạt song thương. Nhưng giữa lúc ấy, cây thục đồng côn lại quét tới ngang lưng.
Nguyên bên địch đã đặt ba tay hảo thủ ở đây để giữ cửa ải này, không cho Định Tĩnh sư thái lên sườn núi.
Định Tĩnh sư thái một mình chọi với ba tay hảo thủ mà không hoang mang chút nào. Bà vung kiếm gạt côn rồi thuận đà lia xuống dưới gạt cây Liu tử thương nhằm đâm vào bả vai bên hữu.
Đột nhiên mấy cô đệ tử ở lưng chừng sườn núi bật lên những tiếng la hoảng rầm trời. Bọn địch đã trèo lên đỉnh núi bích lập rồi ở trên đẩy những tảng đá lớn xuống.
Quần đệ tử phái Hằng Sơn lúc nhảy lên lúc phục xuống để tránh những tảng đá kia. May mà chuyến này phái Hằng Sơn lựa toàn những tay hảo thủ để kéo vào đất Mân. Khinh công cuả họ đều vào hàng trác tuyệt. Tuy nhiên cũng có người trúng đá bị thương.
Định Tĩnh sư thái nghe bọn đệ tử la hoảng vội lùi lại hai bước lớn tiếng hô:
– Toàn thể hãy rút lui! Xuống chân núi rồi sẽ tính.
Tự bà ngăn chặn phía sau để phòng địch nhân truy kích.
Tiếp theo lại nghe tiếng binh khí giao đấu.
Nguyên ở dưới chân núi đã có địch nhân kéo đến mai phục . Chúng chờ cho trên đỉnh phát động, cũng kéo ra ngăn chặn đường rút lui.
Ngay lúc ấy có tin từ phía dưới đưa lên:
– Thưa sư bá! Quân giặc đúng đầy đường chật cứng mà thế mạnh vô cùng, không xông ra được.
Lát sau lại có tin báo:
– Hai vị sư tỷ bị trọng thương rồi!
Định Tĩnh sư thái nổi giận đùng đùng thét lớn:
– Những tên cướp đường này to gan thật.
Rồi bà lao mình xuống như bay.
Bỗng thấy hai tên hán tử mình mặc áo xanh, tay cầm kim đao ánh vàng lấp loáng đang bức bách hai tên nữ đệ tử Hằng Sơn phải lùi ngược lại.
Định Tĩnh sư thái lại quát lên một tiếng thật to, đồng thời vung trường kiếm phóng về phía trước.
Bỗng nghe hai tiếng veo véo rít lên. Một hán tử cầm hai cây Bát giác chùy có quai sắt dài từ phía dưới vung lên nhắm đánh vào trước mặt Định Tĩnh sư thái.
Định Tĩnh sư thái hươi kiếm lên khều, một ngọn bát giác chùy phải hạ xuống theo thanh trường kiếm của bà. Còn một ngọn trùy nữa bị bắn tung lên rồi lại từ trên đè xuống.
Định Tĩnh sư thái trong lòng đã hơi sợ hãi miệng lẩm bẩm:
– Tý lực tên này khiếp thực!
Nên biết hai ngọn bát giác trùy, mỗi ngọn nặng ít ra ngoài hai chục cân. Thế mà hán tử sử dụng coi nhẹ như không, có thể cầm quai để huy động, công thủ tùy ý. Vậy kình lực hai cánh tay gã quả là lợi hại.
Giả tỷ ở dưới đất bằng thì Định Tĩnh sư thái chẳng coi cuộc đấu sáp lá cà vào mùi gì. Bà chỉ thi triển một chút tiểu xảo là có thể tấn công vào mé bên, nhưng đường núi này quá chật hẹp chỉ có một mặt xông về phía dưới, ngoài ra không còn đường đất nào khác. Hai ngọn bát giác trùy của đối phương múa tít, bỗng thấy trước mặt có hai làn mù đen xông thẳng vào mặt.
Định Tĩnh sư thái kiếm thuật tinh diệu nhưng không sao thi triển được, bà đành trở ngược lên sườn núi.
Bỗng phía bên trên nỗi lên những tiếng la hoảng không ngớt. Mấy tên nữ đệ tử bị trúng ám khí rớt xuống.
Định Tĩnh sư thái định thần nhận xét thấy võ công bọn địch trên núi có vẻ yếu hơn, tương đối dễ bề đối phó. Bà liền xông lên, tung mình vọt qua đỉnh đầu bọn nữ đệ tử.
Khi bà nhảy qua đầu Lệnh Hồ Xung, chàng la lên:
– Trời ơi! Làm gì thế này? Nhảy vòng đấy ư? Bà đã lớn tuổi rồi mà còn thích chơi trò nhảy nhót.
Bà cứ nhảy qua nhảy lại trên đầu người ta mãi, bị xúi quẩy thế này thì còn đánh bạc sao được?
Định Tĩnh sư thái đang vội phá địch giải vây, nên chàng muốn nói gì thì nói, bà cũng chẳng để vào tai.
Nghi Lâm vội đỡ lời:
– Xin lỗi tướng quân! Sư bá tiểu ni đang mãi mốt nhảy cho lẹ, người không cố ý muốn vậy đâu.
Lệnh Hồ Xung miệng vẫn lải nhải trách oán:
– Bản tướng đã bảo trước là chỗ này có giặc cướp, các cô cứ không tin.
Nhưng trong bụng chàng lo thầm:
– Mình chỉ thấy bọn Ma giáo mai phục ở trên đỉnh núi. Té ra dưới chân núi họ cũng bố trí những tay hảo thủ đầy đường. Số người phái Hằng Sơn tuy đông, nhưng không có đường đất dụng võ thì cũng đành chịu bó tay.
Định Tĩnh sư thái lên gần tới đỉnh, đột nhiên thấy bóng trượng thấp thoáng, một cây thiền trượng nhắm đầu bà đánh xuống.
Nguyên bọn địch còn điều động những tay hảo thủ canh giữ nơi đây.
Định Tĩnh sư thái bụng bảo dạ:
– Bữa nay mà ta không phá được quan ải này để ra ngoài thì e rằng bao nhiêu đệ tử phải chết hết mất.
Bà né mình đi đồng thời phóng kiếm đâm chênh chếch lên. Người bà né tránh khỏi cây thiền trượng chỉ khẽ chừng vài tấc. Cả người lẫn kiếm bà nhảy xổ tới một tên đầu đà to béo cầm thiền trượng. Thật là một chiêu thục mạng cực kỳ hiểm độc không kể gì đến tính mạng, cho hai bên cùng chết cũng đành.
Tên đầu đà không kịp đề phòng, muốn biến chuyển thiền trượng cũng không được nữa.
“Sột” một tiếng. Thanh trường kiếm đâm vào dưới nách hắn.
Đầu đà cực kỳ hung hãn. Hắn la lên một tiếng, vung quyền đánh xuống.Thanh trường kiếm lập tức gãy làm hai đoạn. Tay hắn cũng máu chảy đầm đìa.
Định Tĩnh sư thái lớn tiếng hô:
– Lên đây mau! Lấy kiếm đây!
Nghi Hòa tung mình vọt lên, cầm ngang thanh kiếm nói:
– Thưa sư bá! Kiếm đây!
Định Tĩnh sư thái xoay lại đoán lấy.
Bỗng một Liêu tử thương nhằm đâm tới Nghi Hòa và một thanh đâm tới Định Tĩnh sư thái.
Nghi Hòa đành vung kiếm lên gạt.
Gã sử thương bức bách Nghi Hòa phải lùi xuống, thành ra thanh trường kiếm không tài nào đua đến tay Định Tĩnh sư thái được.
Bên trên còn có ba người chạy tới. Hai người sử đơn đao, một người sử Phán quan bút, Định Tĩnh sư thái bị vây vào giữa. Bà vẩn thản nhiên không sợ gì, múa tít song chưởng vung lên đánh xuống. Bà thi triển tuyệt kỹ trấn sơn là Thiên trường chưởng pháp xuyên qua xuyên lại giữa bốn cây binh khí.
Tuổi ngoại sáu mươi mà thân thủ còn mau lẹ phi thường chẳng kém gì hồi tuổi trẻ.
Bốn tay hảo thủ Ma giáo đánh một mình bà mà không làm gì được nhất là bà lại tay không.
Nghi Lâm lẩm bẩm trong miệng:
– Trời ơi! Làm thế nào bây giờ! Làm thế nào bây giờ?
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Mấy tên giặc cỏ này phỏng có gì đáng kể ? Tránh ra! Tránh ra! Để bản tướng lên bắt giặc.
Nghi Lâm cản lại nói:
– Không được đâu! Bọn này không phải là giặc cỏ mà là những tay hảo thủ, võ nghệ rất cao cường. Tướng quân mà lên, tất bị chúng giết chết.
Lệnh Hồ Xung phưỡn ngực ra ngang nhiên đáp:
– Giữa lúc thanh thiên bạch nhật…
Chàng nói dỡ câu ngửng đầu lên trông thì trời mới tờ mờ sáng chứ chưa phải thanh thiên bạch nhật nhưng chàng cũng chẳng để ý, tiếp tục lớn tiếng hỏi:
– Tụi giặc cỏ chúng bay đón đường cướp của, khinh thường bọn nữ lưu, chẳng lẽ không sợ vương pháp ư?
Nghi Lâm bụng bảo dạ:
– Bọn mình đâu có phải bọn nữ lưu tầm thường mà là đệ tử phái Hằng Sơn đều có võ công cao cường. Bên địch cũng không phải quân giặc cỏ cướp đường. Hai bên đánh nhau bấy nhiêu lâu mà ông tướng này vẫn chưa nhận ra. Hỡi ơi! Bọn họ làm quan thật chẳng hiểu chuyện võ lâm chút nào.
Lệnh Hồ Xung sấn sổ tiến lên, cứ chen bừa bên cạnh những cô nữ đệ tử mà đi.
Bọn nữ đệ tử đành dán sát người vào vách đá để cho chàng lướt qua.
Lệnh Hồ Xung lên gần tới đỉnh xoay tay lại rút yêu đao. Chàng giả vờ gắng sức mà rút mãi không được liền cất tiếng thóa mạ:
– Con bà nó! Thanh đao này thật rắc rối! Đã đến lúc người ta lâm vào tình trạng tối khẩn cấp lại còn han rỉ không rút ra được. Hừ! yêu đao của tướng quân han rỉ thì còn bắt giặc thế nào được.
Nghi Hòa đang múa kiếm chống chọi với hai tên Ma giáo, bỗng nghe bên mình có tiếng bi bô những gì yêu đao han rỉ không rút ra được, thì vừa tức mình lại vừa buồn cười la lên:
– Tướng quân lùi ra mau! Nơi đây nguy hiểm lắm.
Vì mụ la lên một câu, thành ra phân tâm nột chút. Bỗng cây Liễu tử thương véo một cái nhằm đâm vào bả vai mụ, xuýt nữa mụ bị trúng thương.
Nghi Hòa vừa lùi lại một bước thì đối phương lại phóng thương đâm tới.
Lệnh Hồ Xung hét lớn:
– Hỏng bét! Hỏng bét! Quân giặc này thật là lớn mật! Tụi bay không nhìn thấy bản tướng hay sao?
Chàng né mình chênh chếch lướt ra đứng chắn trước mặt Nghi Hòa.
Hán tử sử cây Liễu tử thương thấy rõ ràng một người sắc phục đúng là mệnh quan triều đình, liền dừng lại. Gã trỏ mũi thương vào trước ngực Lệnh Hồ Xung, quát hỏi:
– Ngươi là ai? Lúc nãy tên cẩu quan dưới kia hô hoán om sòm là tên cẩu quan này ư?
Lệnh Hồ Xung quát mắng:
– Mẹ kiếp! Tên này dám kêu bản tướng bằng cẩu quan thì hỗn thật! Chỉ có mi là cẩu tặc. Bọn mi ở đây đón đường cướp giật đã thấy bản tướng đến mà không cúp đuôi chạy trốn cho xa thì thật coi trời bằng vung. Bản tướng phải bắt bọn mi giao về huyện nha để đánh mỗi tên năm chục trượng cho vọt cứt té đái, bắn máu đít ra, một tiếng kêu cha ba tiếng gọi mẹ mới đáng kiếp.
Chàng nói lăng nhăng một hồi, bọn đệ tử phái Hằng Sơn đứng đằng sau nghe thấy chỉ lắc đầu quầy quậy.
Lệnh Hồ Xung thấy Định Tĩnh sư thái chưa đến nỗi thất bại ngay trong lúc nhất thời mà bọn Ma giáo cũng không phóng ám khí xuống nữa.
Chàng lại cất tiếng quát:
– Bớ những quân giăc cỏ lớn mật! Tụi bây mau mau quỳ xuống khấu đầu. Bản tướng thấy trong tụi bay có cả bà già tám chục tuổi, hoặc giả bản tướng mở lòng nhân đức phát lạc nhẹ cho một phần. Bằng không thì… hà hà… sẽ chém đầu cả lũ chó…
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn nghe chàng nói đều chau mày lẩm bẩm:
– Ông tướng này mắc bệnh khùng rồi.
Nghi Hòa tiến lên một bước chống kiếm hộ vệ. Mụ định hễ địch nhân phóng thương tới đâm chàng là mụ vung kiếm ra gạt.
Lệnh Hồ Xung lại vận kình rút đao, vừa rút vừa mắng:
– Con mẹ nó! Đã đến lúc lâm trận khẩn cấp mà thanh bảo đao tổ truyền lại han rỉ nằm chết dí ở trong bao. Hừ! Thanh đao bản tướng mà không han rỉ thì bọn giặc cỏ chúng bay mỗi tên có đến mười cái đầu bản tướng cũng chặt đứt như sung rụng.
Hán tử sử thương nghe chàng nói nổi lên tràng cười rộ rồi nạt lớn:
– Ngươi không có thù hằn gì với bọn tạ Cút đi cho lẹ!
Gã giơ lưng lên nhằm chém xuống lưng Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung tức mình giựt mạnh một cái kéo cả đao lẩn túi đao ra. Chàng la:
– Úi chà!
Người chàng bỗng ngã chúi về phía trước.
Nghi Hòa vội kêu lên:
– Coi chừng!
Người chàng bỗng ngã chúi về phía trước.
Lúc Lệnh Hồ Xung té xuống, thanh yêu đao phóng ra đã sử một chiêu trong phép Độc cô cửu kiếm.
Đầu túi đao điểm trúng vào yếu huyệt trên lưng hán tử. Hán tử chưa kịp rú lên đã ngã quay ra…
Lệnh Hồ Xung vừa té huỵch xuống đất lại lồm cồm bò dậy. Chàng la lên một tiếng rồi reo lên:
– A ha! Mi cũng té xuống thế là hòa. Chúng ta lại đánh nữa.
Nghi Hòa là người rất linh mẫn. Mụ túm lấy hán tử bị té hất về phía sau, vì mụ tính thầm:
– Mình có một tên tù binh trong tay thì cục diện bữa nay sẽ thu xếp được dễ dàng hơn.
Giữa lúc ấy ba người trong Ma giáo xông tới để cứu đồng bọn.
Lệnh Hồ Xung quát lên:
– Ô kìa! không được đâu! Ta còn phải bắt hết bọn giặc cỏ chúng bay.
Chàng vung yêu đao lên đánh tả chém hữu chẳng vào chương pháp nào hết.
Nguyên phép Độc cô cửu kiếm không có chiêu thức nhất định, coi sử rất ung dung, vụng về mà cứng rắn. uy lực kỳ diệu có thể khắc địch chế thắng. yếu điểm của nó là ở kiếm ý chứ không ở chiêu thức.
Lệnh Hồ Xung chân bước loạng choạng xiêu tả lệch hữu, cầm thanh đao cả túi múa may quay cuồng. Đột nhiên chàng không dừng lại kịp, xô vào một tên Ma giáo.
|
Mượn bồ câu, Định Tĩnh đưa thơ
“Kịch” một tiếng. Đầu túi đao đụng vào huyệt khí hải ở bụng dưới gã này.
Gã chỉ kịp thở rốc lên một tiếng rồi té nhào xuống.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Úi chà! Chàng nhảy lùi lại một bước. Đốc đao lại đụng vào huyệt Thần đường trên bả vai một người khác.
Người này té xuống không ngớt lăn long lóc dưới đất.
Lệnh Hồ Xung hai chân vấp lên người hắn. Chàng lại cất tiếng thóa mạ:
– Mẹ quân khốn kiếp này!
Người chàng bắn ra. Túi đao lại đâm trúng vào mình một tên giáo chúng cầm đao.
Gã này là một trong ba tên hảo thủ vây đánh Định Tĩnh sư thái. Lưng gã bị đụng mạnh, thanh đao cầm tay bị tuột ra văng đi.
Định Tĩnh sư thái cơ linh cực kỳ mau lẹ, bà phóng chưởng đánh vèo một cái vào trước ngực gã khiến gã miệng thổ máu tươi, coi chừng khó sống được.
Lệnh Hồ Xung lại la lên:
– Coi chừng! Coi chừng!
Chàng lùi lại mấy bước, lưng chàng hướng về phía một người sử Phán quan bút.
Người này liền phóng bút nhằm điểm vào huyệt Thần đạo ở xương sống chàng.
Lệnh Hồ Xung lảo đảo người đi xông về phía trước. Túi đao của chàng lại điểm trúng huyệt đạo hai tên giáo chúng.
Người sử Phán quan bút chân tay mau lẹ dị thường, nhảy xổ tới phía chàng.
Lệnh Hồ Xung la hoảng:
– Ối mẹ Ôi!
Rồi chạy về phía trước. Người kia băng mình rượt theo.
Lệnh Hồ Xung đột nhiên dừng bước lại. Đốc đao cắp dưới nách thò ra một nữa.
Người kia không ngờ chàng đang chạy trốn rất gấp đột nhiên đứng sững lại. Tuy võ công hắn cao cường nhưng biến chiêu không kịp. Trong lúc hấp tấp, huyệt Thông cốc ở giữa chỗ ngực và bụng giáp nhau bị đụng vào đốc đao của Lệnh Hồ Xung thò ra.
Người kia lộ vẻ cực kỳ cổ quái. Đối với việc xảy ra hắn không tin là sự thực, nhưng người hắn dần dần mềm nhũn rồi té xuống.
Lệnh Hồ Xung xoay mình nhìn lại thấy cuộc đánh nhau trên sườn núi đã dừng taỵ Gần một nữa trong bọn đệ tử phái Hằng Sơn đã lên đến đỉnh núi đang đứng đối lập với giáo chúng Ma giáo. Còn một nữa nửa đang thoăn thoắt leo lên.
Lệnh Hồ Xung lại hô lớn:
– Những quân giặc cỏ kia! Đã thấy bản tướng đến đây, sao không quỳ cả xuống mà xin đầu hàng? Thế thì kỳ thiệt! Lạ thiệt!
Chàng múa túi đao quát lên một tiếng rồi xông về phía giáo chúng.
Người cầm đầu bọn giáo chúng cũng không khám phá ra được lai lịch của Lệnh Hồ Xung. Lập tức bọn chúng vung gươm đao lên đoán đỡ.
Quần đệ tử phái Hằng Sơn đều muốn tiến lên trợ lực, nhưng Lệnh Hồ Xung vội la:
– Bọn giặc cỏ này rất lợi hại và hung hăng lắm.
Người chàng đã từ trong đám đông chạy ra. Chân bước trầm trọng, lúc chạy thì lôi thôi lốc thốc thỉnh thoảng lại trượt chân té huỵch xuống đất. Lúc vung túi đao lên thường khi đụng cả vào trán mình đến ngất đi. Nhưng mỗi lần chàng xông vào đám đông hoặc ở trong đó chạy ra là lại đánh ngã năm sáu tên hảo thủ.
Cả hai phe thấy tình trạng như vậy đều không khỏi kinh ngạc đến thộn mặt ra.
Nghi Hòa và Nghi Thanh song song tiến lại la hỏi:
– Tướng quân! Tướng quân làm sao vậy?
Lệnh Hồ Xung hai mắt nhắm nghiền tựa hồ mê man bất tỉnh.
Lão già cầm đầu Ma giáo thấy mới trong khoảnh khắc mà bên mình một người bị chết, mười một người bị điểm huyệt té nhào về tay một viên võ quan điên khùng. Vừa rồi lúc võ quan xông vào trận chính lão đã ra hai chiêu cầm nã mà xuýt nữa bị đối phương điểm trúng huyệt đạo, trong lòng lão ngấm ngầm kinh hãi, miệng lẩm bẩm:
– Bản lãnh người này cao thâm không biết đến đâu mà lường, bên mình trong mười một người bị điểm ngã thì năm người bị phái Hằng Sơn bắt giữ. Cuộc diện hôm nay biết thu xếp cách nào cho được?
Lão liền lớn tiếng hỏi:
– Định Tĩnh sư thái! Những đệ tử quý phái trúng ám khí có cần lấy thuốc giải không?
Định Tĩnh sư thái thấy mấy tên đệ tử bên mình bị trúng ám khí đều mê man bất tỉnh. Vết thương tím bầm máu đen chảy ra thì biết rằng ám khí có chất kịch độc. Bà vừa nghe đối phương hỏi câu này đã hiểu ý lão ngay liền đáp:
– Lấy thuốc giải ra, bên này sẽ trả lại người!
Lão kia gật đầu. Lão nói khẽ mấy câu thì thấy một tên giáo chúng cầm chiếc bình sứ đi tới trước mặt Định Tĩnh sư thái. Hắn khom lưng đưa bình thuốc lên.
Định Tĩnh sư thái đón lấy bình thuốc rồi lớn tiếng tuyên bố:
– Hễ thuốc giải phát sinh hiệu nghiệm thì bên này thả người ngay.
Lão già bên Ma giáo đáp:
– Được lắm! Định Tĩnh sư thái phái Hằng Sơn chắc không phải là kẻ nuốt lời hứa.
Rồi lão vẫy tay một cái. Hai người chạy ra khiêng thi thể người bị chết về. Hai người khác lại nâng gã sử Phán quan bút dậy. Cả bọn Ma giáo theo mé Tây xuống núi.
Chỉ trong khoảnh khắc bọn Ma giáo rút lui hết chẳng còn một ai.
Lệnh Hồ Xung dần dần hồi tỉnh. Chàng la lên:
– Đau quá!
Chàng đưa tay lên sờ chỗ trán bưu rồi đảo mắt nhìn quanh ra chiều kinh ngạc cất tiếng hỏi:
– Ô hay! Những quân đầu trộm đuôi cướp chạy đâu hết cả rồi?
Nghi Hòa cười khanh khách nói:
– Ông tướng này thật ly kỳ cổ quái! Vừa rồi nhờ có tướng quân xông vào trận địch đánh loạn một hồi, khiến cho bọn giặc đó phải một phen bở vía, bỏ chạy siểng liểng.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:
– Hay tuyệt! Hay tuyệt! Đại tướng quân ra trận oai phong lẫm liệt, sát khí đằng đằng quả nhiên khác bọn tầm thường. Bọn giặc cỏ kinh hồn táng đởm cúp đuôi mà chạy. úi chao!
Chàng đưa tay lên sờ chỗ trán bướu rồi nhăn mặt lại, ra chiều đau đớn vô cùng.
Nghi Thanh hỏi:
– Tướng quân! Tướng quân bị thương chăng? Bọn bần ni có đem theo thuốc dấu, lấy rịt cho tướng quân nhé?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không sao! Không sao đâu! Bậc đại trượng phu da ngựa bọc thây cũng là chuyện thường…
Nghi Hòa bĩu môi cười nói:
– Không khéo thì bọc thây da ngựa. Còn câu “da ngựa bọc thây” nghĩa là gì?
Nghi Thanh đưa mắt nguýt Nghi Hòa nói:
– Ngươi còn muốn bày trò, nói chuyện đó làm chi?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bọn ta người phương Bắc đọc là “da ngựa bọc thây”. Các vị phương Nam đọc có khác đôi chút.
Nghi Hòa quay lại cười nói:
– Bọn bần ni cũng là người phương Bắc.
Định Tĩnh sư thái đưa thuốc cho những tên đệ tử đúng bên để đem chữa thương cho mấy người bị trúng ám khí.
Rồi bà đến trước Lệnh Hồ Xung khom lưng thi lễ nói:
– Lão ni là Định Tĩnh ở phái Hằng Sơn không dám hỏi đến oai tính đại danh thiếu hiệp.
Lệnh Hồ Xung nghe bà nói vậy run lên, nghĩ thầm trong bụng:
– Bà này là tiền bối trong phái Hằng Sơn quả nhiên có cặp mắt khác thường. Bà biết rõ mình còn nhỏ tuổi và giả làm một vị tướng quân.
Chàng liền khoanh tay đáp lễ nói:
– Kính chào sư thái! Bản tướng họ Ngô, tên gọi Thiên Đức, được bổ làm Tham tướng ở Phủ Toàn Châu! Hiện giờ bản tướng đang trên đường phó nhiệm.
Định Tĩnh sư thái bụng bảo dạ:
– Người này có võ công tuyệt thế quyết chẳng cam tâm làm tôi mọi cho triều đình. Nhưng y đã nói vậy là không muốn lộ chân tướng. Bữa nay phái Hằng Sơn ta mà không nhờ được y cứu viện thì toàn quân tất bị tan rã. Ơn đức cao cả này không biết phải tìm cách nào báo đáp mới được.
Nghĩ vậy bà liền nói:
– Cổ nhân đã có câu “Bậc đại ẩn lánh mình ở chốn triều trung, bậc trung ẩn náu mình ở giữa chợ, còn hạng tiểu mới ẩn lánh mình ở chốn thâm sơn”. Té ra tướng quân là một cao nhân ẩn ở triều đình. Bản lãnh tướng quân tinh thâm đến mức độ khôn lường. Lão ni từng trải giang hồ đã lâu ngày mà không nhận ra được tướng quân ở môn phái nào. Sư thừa là ai, nên lại càng kính phục.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả đáp:
– Thực ra võ công bản tướng lợi hại vô cùng! Trên có thể đánh tuyết hoa phủ núi, dưới đánh cây già rể cái, giữa đánh hắc hổ lấy tim… úi chà! úi chà!
Chàng vừa nói vừa khoa chân múa tay vung quyền đánh ra. Đoạn chàng lại làm như dùng quá sức để đôi xương đau đón như dần.
Lệnh Hồ Xung liếc mắt nhìn trộm Nghi Lâm thấy nàng kinh hãi ra chiều rất quan tâm, thì nghĩ bụng:
– Cô tiểu sư muội này thật là người có lương tâm. Giả tỷ cô nhận ra mình thì chẳng hiểu cô nghĩ sao?
Định Tĩnh sư thái dĩ nhiên biết chàng giả vờ như vậy.
Bà mỉm cười nói:
– Tướng quân là chân nhân không muốn lộ bản tướng. Vậy bần ni chỉ còn biết ngày đêm thắp nến tâm hương cầu chúc cho tướng quân phúc thể khang cường mọi sự tốt lành.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đa tạ! Đa tạ! Sư thái cầu đức Bồ tát phù hộ cho bản tướng mau đặng thăng quan phát tài, cờ bạc đánh đâu được đấy, lấy cả chục bà vợ trai gái đầy đàn đầy đống. Ha ha!
Đoạn chàng nỗi lên tràng cười rồi chắp tay từ biệt dông tuốt.
Quần đệ tử phái Hằng Sơn ngó theo chàng chân bước loạng choạng đi về phía Nam rồi vây lấy Định Tĩnh sư thái nhao nhao lên.
Một cô hỏi:
– Thưa sư bá, ông tướng ấy lai lịch như thế nào?
Cô khác hỏi:
– Ông ta điên thật hay giả vờ?
Người khác hỏi:
– Bản lãnh y cao cường thật hay là gặp vận hên, đánh bừa đánh bãi mà trúng địch nhân?
Lại còn cô nữa hỏi:
– Đồ nhi coi chừng ông tướng này dường như chưa lớn tuổi. Phải vậy không?
Định Tĩnh sư thái thở dài quay lại ngó mấy cô đệ tử trúng ám khí thì thấy vết thương sau khi rịt thuốc màu đen đã hồng trở lại, mạch chạy nhanh hơn, không còn nguy hiểm nữa. Chính phái Hằng Sơn cũng có thuốc trị rất linh nghiệm, rồi sau sẽ chữa thêm. Bà liền giải khai huyệt đạo cho năm tên giáo chúng Ma giáo rồi thả họ về.
Đoạn bà bảo quần đệ tử:
– Bây giờ các ngươi hãy lại chỗ gốc cây kia nghỉ một lúc.
Rồi bà ngồi xuống phiến đá lớn, nhắm mắt nghĩ thầm:
– Lúc người này xông vào trận địa Ma giáo thì tên trưởng lão cầm đầu bọn chúng đã động thủ với y.
Thế mà chỉ trong khoảnh khắc y điểm huyệt được năm người. Chiêu thức của y không rõ là bộ môn của phái nào trong võ lâm hiện naỵ Thật ta chưa từng thấy nhân vật nào lợi hại như vậy. Chắc y phải là đệ tử của một cao nhân dị sĩ. Nếu những nhân vật như vậy mà là bạn chứ không phải thù thì là cái may lớn cho phái Hằng Sơn vậy.
Định Tĩnh trầm ngâm hồi lâu rồi sai đệ tử lấy nghiên bút và một tấm lụa mỏng bà viết thơ.
Bà viết xong cất tiếng gọi:
– Nghi Chất đâu? Lấy con bồ câu đem đây.
Nghi Chất là đệ tử chân truyền của Định Tĩnh sư thái dạ một tiếng rồi bắt con chim ở trong lồng trúc cô đeo trên lưng ra.
Định Tĩnh sư thái cuộn mảnh lụa nhỏ lại nhét vào trong ống trúc nhỏ đậy nắp lại. Bà lại sai đốt nhựa lên và dùng sắt nhỏ cột vào chân chim gắn lại cho cẩn thận.
Bà lâm râm nói nhỏ mấy câu rồi liệng chim lên không.
Con bồ câu vỗ cánh bay đi. Mới trong khoảnh khắc nó chỉ còn là một chấm nhỏ xa tít.
Định Tĩnh sư thái từ lúc viết thơ đến lúc thả bồ câu, cử động chậm chạp, khác hẳn với lúc bà xông xáo vào trận địch, thân thủ mau lẹ phi thường.
Định Tĩnh ngửa mặt lên trời trông cho đến khi cái chấm đen biến vào đám mây trắng mà bà vẫn còn ngửa cổ nhìn hoài.
Mọi người không một ai dám lên tiếng, vì biết rằng cuộc chiến vừa rồi tuy nhờ được ông tướng trò hề xen vào đánh giúp được địch, song thực ra cục diện hãy còn nghiêm trọng vô cùng.
Mọi người đã thoát chết mà Định Tĩnh sư thái vẫn chua yên tâm họ biết phong thư bà viết đó, để đem tình trạng cuộc chiến trình bày với chưởng môn bản phái là Định Nhàn sư thái.
Sau một lúc lâu, Định Tĩnh sư thái nhìn một cô bé chừng 15,16 tuổi, vẫy tay một cái.
Cô bé này lập tức đúng dậy chạy đến trước bà khẽ gọi:
– Sư phụ!
Định Tĩnh sư thái nhẹ nhàng xoa đầu vuốt tóc cô hỏi:
– Quyên nhi! Vừa rồi con có sợ không?
Cô bé gật đầu đáp:
– Hài nhi sợ lắm! May nhờ vị tướng quân kia phi thường dũng cảm mới đánh đuổi được bọn ác nhân đi.
Định Tĩnh sư thái tủm tỉm cười nói:
– Không phải ông tướng đó dũng cảm phi thường mà là bản lãnh y cao thâm khôn lường.
Cô bé hỏi:
– Thưa sư phụ! Bản lãnh ông cao lắm ư? Thế mà sao hài nhi thấy ông ra chiêu loạn xạ, không cẩn thận đến nổi đụng cả túi đao vào trán sưng vù lên. Rồi thanh yêu đao của ông han rỉ đến thế nào mà dính chặt vào túi không rút ra được?
Quần đệ tử thấy Định Tĩnh sư thái chuyện trò với tiểu sư muội Tần Quyên, liền bu quanh lại.
Nguyên Tần Quyên đã được Định Tĩnh sư thái thu làm đệ tử quan sơn. Cô thông minh linh lợi nên rất được sư phụ thương yêu.
Quần đệ tử phái Hằng Sơn mười phần thì hết sáu phần là người xuất gia làm ni cô, còn bốn phần là tục gia đệ tử.
Trong đám sau này có người đã lấy chồng vào hạng trung niên, có người đã thành bà già năm, sáu chục tuổi. Tần quyên là một cô gái nhỏ tuổi nhất trong phái Hằng Sơn.
Nghi Hòa hỏi xen vào:
– Có phải y ra chiêu bừa bãi đâu. Đó là y giả vờ để giấu diếm võ công thượng thặng cho khỏi lộ hình tích. Như thế mới lại càng cao minh. Thưa sư bá! Sư bá coi vị tướng quân đó lai lịch ra sao? Thuộc môn phái nào?
Định Tĩnh sư thái từ từ lắc đầu đáp:
– Nếu ta mà đoán được đôi chút thì đã chẳng quan tâm lắm. Võ công người này chỉ có thể miêu tả bằng bốn chữ “cao thâm khôn lường” còn ngoài ra ta cũng chẳng hiểu chi hết.
Tần Quyên kéo áo bà nói:
– Sư phụ Ơi! Sư phụ quan tâm điều chỉ Làm sao mà phải quan tâm? ông tướng đó chẳng đã giúp mình để đuổi hộ địch nhân rồi ư?
Định Tĩnh sư thái thở dài đáp:
– Nếu địch nhân cầm gươm giáo ra giao chiến thật mặt với chúng ta thì chẳng có chi đáng sợ.
Đánh được thì địch nhân phải trốn chạy, mà đánh chẳng được thì bị địch nhân giết chết. Việc gì phải quan tâm? Nhưng nếu chúng ta bị bưng mắt thì chẳng khác chi kẻ đui mù, mỗi bước đường là nột bước kinh tâm, chẳng hiểu chân mình sẽ đặt vào đâu, có đặt vào đất liền hay lại đặt vào phiến băng trôi nổi, không chừng còn bước cả xuống vực sâu thẳm muôn trượng. Như vậy thì chẳng quan tâm sao được?
Tần Quyên gật đầu hỏi lại:
– Thưa sư phụ! Có phải phong thơ vừa rồi sư phụ gửi về cho chưởng môn sư thúc không? Liệu đến ngay được chăng?
Định Tĩnh sư thái đáp:
– Con chim bay đi đến am Bạch Vân ở Tô Môn là một trạm rồi đổi chim khác. Từ am Bạch Vân đến am Diệu Tướng ở Tế Nam lại đổi chim đến am Thanh Tĩnh ở Hà Khẩu lại đổi lần nữa. Tức là bốn con chim bồ câu tiếp sức mới đưa được thơ về đến núi Hằng Sơn.
Nghi Hòa nói:
– May mà chúng ta chưa bị tổn hại người nào. Mấy vị sư tỷ sư muội rịt thuốc giải rồi sau hai ngày thì không có gì đáng ngại nữa.
Định Tĩnh sư thái mãi ngoẹo đầu ngẫm nghĩ nên Nghi Hòa nói gì cũng không đẻ tâm nghe.
Đột nhiên bà quay vào nhìn Nghi Lâm giữa đám đông hỏi:
– Nghi Lâm! Ngươi bảo võ công của Lệnh Hồ Xung không bằng Điền Bá quang, mấy lần gã không đánh lại hắn. Phải vậy chăng?
Nghi Lâm chưng hửng, hai má ửng hồng.
Một khi nàng nghe ai đề cập đến tên Lệnh Hồ Xung là trống ngực đập loạn lên, tựa hồ có tật giật mình. Nàng tưởng chừng người ta đã nhìn thấu tâm can mình. Nhưng nàng lại có một cảm giác rất êm ái và muốn cho người ta lúc nào cũng nhắc đến chàng bất phân nhật dạ mới vừa lòng.
Định Tĩnh sư thái thấy nàng đỏ mặt lên ra chiều bẻn lẻn thì nghĩ bụng:
– Con nhãi này nghe đến tên Lệnh Hồ Xung là thần thái khác lạ. Phải chăng y động lòng trần tục?
Bà nhắc lại:
– Ta hỏi ngươi có đúng không?
Nghi Lâm kinh hãi ngửng đầu lên đáp:
– Đúng thế! Võ công của Lệnh Hồ huynh quả không bằng Điền Bá Quang. Lúc y ra tay cứu đệ tử liền bị hắn đâm trúng mấy đao suýt nguy đến tính mạng.
Định Tĩnh sư thái gật đầu lẩm bẩm như nói để mình nghe:
– Lệnh Hồ Xung biết rõ gốc ngọn Ngũ nhạc kiếm phái tạ Gã lại cấu kết với Ma giáo thì mối họa không nhỏ. Nếu không phải tiết lộ tin tức thì làm sao bọn Ma giáo lại biết bọn mình qua Tiêu Hà Lĩnh vào lúc này?
Nghi Lâm nghe thế vội nói:
– Thưa sư bá! Y Lệnh Hồ sư huynh không thể biết được chúng ta qua Tiêu Hà Lĩnh vào lúc này.
Định Tĩnh trợn mắt nhìn nàng hỏi:
– Sao ngươi lại biết là gã không hay?
Nghi Lâm đáp:
– Lệnh Hồ sư huynh không hiểu lúc này hiện giờ ở nơi đâu. Không chừng y ở Tái Bắc, có khi y đến Quan Đông rồi cũng nên. Sao y lại cấu kết với Ma giáo để hại bọn mình.
Định Tĩnh sư thái hắng giọng một tiếng vẻ mặt không vui bà nói:
– Nghi Lâm! Ngươi là người xuất gia lục căn phải thanh tịnh. Hơn nữa, ngươi đã quy y đầu Phật mà còn lầm đường thì hối không kịp đó.
Nghi Lâm chấp tay dập đầu khẽ đáp:
– Đệ tử không dám!
Định Tĩnh sư thái thấy cặp lông mi dài của nàng lấp lánh hạt châu thì biết là mình đã quá nghiêm khắc. Lòng bà rất thương xót liền vỗ vai nói:
– Địch nhân chạy trốn xa rồi. Chắc trong nhất thời chúng chưa dám trở lại xúc phạm. Chúng ta gặp đại địch một cách đột ngột, e rằng mỏi mệt lắm rồi. Bây giờ hãy lấy lương khô ra ăn rồi qua rừng bên kia nằm nhủ dưới bóng cây một lúc.
Mọi người vâng lời. Có người chất bếp nấu nước uống.
Nguyên phái Hằng Sơn chuyến này xuống phía Nam giữ hành tung rất bí mật. Ngày nghỉ đêm đi.
Mấy chục người xuống tới đây mà nhân vật giang hồ chưa ai hay biết. Thế mà bọn Ma giáo đã được tin ở dây phục kích nên Định Tĩnh sư thái càng thêm phần kinh hãi.
Đoàn người ngủ mấy giờ rồi dậy ăn cơm trưa.
Hồi 130
Trại 28, Quần Ni mất tích
Định Tĩnh sư thái thấy những đệ tử bị thương vẻ mặt thẫn thờ liền nói:
– Hành tung chúng ta đã bị lộ rồi vậy từ giờ không cần đi đêm nữa. Những người bị thương phải nghỉ lại. Tối nay chúng ta đến trạm 28 trọ đêm.
Từ trên sườn núi cao đi xuống phải mất ba giờ mới đến trạm 28. Chỗ này là giáp giới hai tỉnh Triết, Mân mà cũng là mấu chốt giao thông rất xung yếu.
Bóng chiều bảng lảng, trong thị trấn không có một bóng người.
Nghi Hòa nói:
– Phong tục tỉnh Phúc Kiến thực là kỳ quái! Còn sớm thế này mà họ đã ngủ hết cả rồi.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Chúng ta hãy tìm đến quán trọ mà nghỉ.
Nguyên phái Hằng Sơn vẫn cùng thanh khí với các ni am trong võ lâm, song trạm 28 không có ni am, nên đành phải tìm khách sạn ngủ trọ.
Có điều bất tiện là người ngoài cõi tục đối với ni cô vẫn úy kỵ, họ cho là điềm bất lợi. Nhưng bọn ni cô vốn đã quen với những trường hợp này rồi nên dù có gặp kẻ bàn ra tán vào các cô chỉ nín thinh.
Bỗng thấy có một khách điếm đóng cửa rồi.
Trạm 28 không to mà cũng không bé, có chừng mấy trăm nóc nhà, trông một cái là thông suốt hết, chẳng khác nột thị trấn chết. Bóng hoàng hôn chưa tắt mà ở trạm 28 này tưởng chừng như đã đêm khuya.
Mọi người liền quanh sang trước khách điếm thì thấy tấm chiếu dài bằng vãi trắng bay phất phới trên đề bốn chữ lớn “Tiền An Khách Điếm”. Nhưng cửa lớn lại đóng chặt. Đâu đấy im lặng như tờ không một tiếng động.
Một cô nữ đệ tử liền gõ cửa. Nữ đệ tử này tên gọi Trịnh Ngạc là người ngoài tục. Miệng cô lúc nào cũng tươi cười, cô lại khéo nói nên được nhiều ưa thích. Trên đường khi cần có dịp giao thiệp với người ngoài là đều phái cô ra đối đáp, dẻ cho người ta khỏi phải nhìn thấy ni cô mà sinh lòng cự tuyệt.
Trịnh Ngạc gõ cửa mấy cái. Cô dừng lại một chút rồi gõ thêm mấy tiếng nữa. Nhưng hồi lâu vẫn không thấy có người mở cửa.
Cô liền lớn tiếng gọi:
– Đại thúc ơi! Mở cửa cho cháu với.
Tiếng cô trong trẻo rõ ràng cô lại tập võ nên thanh âm vang đi rất xa, dù ở cách mấy tòa viện cũng nghe thấy. Thế mà trong khách điếm lại không có người nào ra mở cửa. Hiển nhiên tình hình này có điều khác lạ.
Nghi Hòa tiến lại dán tai vào cánh cửa nghe ngóng, song bên trong vẫn không thấy động tĩnh gì.
Mụ quay ra nói:
– Thưa sư bá! Trong điếm không có người.
Định Tĩnh sư thái cũng ngấm ngầm cảm thấy có điều kỳ dị. Tòa điếm này khá mới, cánh cửa rửa rất sạch sẽ. Nhất định không phải đã đình nghiệp. Bà nói:
– Hãy đi coi nữa đi! Chắc trong thị trấn này còn có khách điếm khác.
Đoàn người lại tiến về phía trước hơn trăm nhà thì đến tòa An Nam Khách Điếm. Nhưng Trịnh Ngạc chạy lại gõ cửa cũng chẳng thấy ai thưa.
Trịnh Ngạc nói:
– Nghi Hòa sư tỷ! Chúng ta thử tiến vào coi.
Nghi Hòa đáp:
– Phải đấy!
Hai người vượt tường vào trong.
Trịnh Ngạc gọi to:
– Trong điếm có ai không?
Vẫn không có tiếng đáp lại.
Hai người liền rút kiếm ra khỏi vỏ tiến vào nhà khách, rồi vào nhà bếp, chuồng ngựa, phòng ngủ, xem xét hết mọi nơi quả nhiên chẳng thấy một ai. Nhưng bàn ghế vẫn sạch trơn không bụi bậm. Bình nước trà để trên bàn hãy còn hơi ấm.
Trịnh Ngạc mở cửa lớn ra để Định Tĩnh sư thái và mọi người tiến vào. Cô đem tình hình nói lại thì ai cũng chép miệng lấy làm kỳ dị.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Các ngươi hợp thành từng đội bảy người chia nhau đi coi các ngã để nghe ngóng xem vì duyên cớ gì mà có hiện tượng này. Bảy người phải luôn luôn liền nhau, hễ thấy dấu vết địch nhân là thổi còi báo hiệu.
Quần đệ tử vâng lời chia nhau đi rất mau. Trên nhà khách chỉ còn lại một mình Định Tĩnh sư thái.
Ban đầu còn nghe tiếng bước chân bọn đệ tử, về sau không thấy một tiếng động nào nữa.
Thị trấn 28 này quạnh hiu đến nỗi người ta phải ớn da gà. Cả một trấn diện mấy trăm nhà mà tuyệt không có tiếng người, cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không nốt, mới thật là lạ!
Sau một lúc Định Tĩnh sư thái đột nhiên thấy băn khoăn trong dạ nghĩ thầm:
– Không khéo bọn Ma giáo đã bố trí cạm bẫy thì bọn nữ đệ tử của ta ít từng trải giang hồ bị bọn chúng một mẻ quét hết rồi cũng chưa biết chừng.
Bà liền đi ra cửa thì thấy góc Đông Bắc có bóng người thấp thoáng. Mé Tây cũng có thấy người nhảy qua tường vào nhà người ta, đều là đệ tử bản phái, bà mới hơi yên dạ.
Sau một lúc bọn đệ tử lục tục chạy về báo đều nói là trong thị trấn không có một người.
Nghi Hòa nói:
– Chẳng những không người, súc vật cũng không có lấy một con.
Nghi Thanh nói:
– Xem chừng những người trong thị trấn rời khỏi đây chưa lâu. Nhiều nhà rương hộp mở cả ra để thu nhặt những của cái đáng tiền đem đi.
Định Tĩnh sư thái gật đầu hỏi:
– Các ngươi nghĩ thế nào?
Nghi Hòa đáp:
– Đệ tử đoán rằng bọn yêu nhân Ma giáo đã đuổi cư dân trong thị trấn ra ngoài chắc chẳng bao lâu sẽ kéo đến rất đông để đánh mình.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Đúng rồi! Chuyến này bọn Ma giáo sẽ thực sự giao đấu với chúng tạ Thế thì càng hay! Các người có sợ không?
Quần đệ tử đồng thanh đáp:
– Hàng yêu diệt ma là thiên chức của Phật môn đệ tử chúng ta.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Chúng ta cứ ở lại khách điếm này nghỉ ngơi và ăn no một bữa rồi sẽ liệu. Nhưng phải coi xem trong cơm rau có chất độc không.
Lúc phái Hằng Sơn ăn cơm kể ra không được lên tiếng. Nhưng lần này trong lúc khẩn trương ai cũng lắng tai để nghe bên ngoài có tiếng động gì không.
Toán thứ nhất ăn xong rồi liền ra ngoài đổi phiên cho tốp khác vào ăn cơm.
Nghi Thanh bỗng nghĩ ra một kế nói:
– Thưa sư bá! Chúng ta đi vào các nhà thắp đèn lên để bọn địch không biết mình ở chỗ nào.
Định Tĩnh sư thái đáp:
– Đó là kế nghi binh rất haỵ Các ngươi lại từng tốp bảy người chia nhau đi thắp đèn.
Bọn đệ tử chia nhau đi một lúc rồi, Định Tĩnh sư thái đúng ở cửa lớn trông ra ngoài thấy đường sá mé Tây, trong khách điếm chỗ nào cũng có ánh đèn lọt ra ngoài cửa sổ. Sau một lúc nhiều nhà ở phía Đông cũng có ánh đèn lửa.
Đèn lửa khắp nơi thắp sáng rồi vẫn không thấy một tiếng động.
Định Tĩnh sư thái ngửng đầu trông vầng trăng lưỡi liềm trên trời miệng lâm râm khấn:
– Xin đức Bồ Tát bảo vệ cho quần đệ tử phái Hằng Sơn chuyến này được bình yên rút lui. Đệ tử là Định Tĩnh mà trở về được núi Hằng Sơn thì từ đây đèn hương lễ Phật không đụng đến đao kiếm nữa.
Định Tĩnh sư thái trước kia lừng tiếng giang hồ, gây nên sự tích oanh liệt rất nhiều. Nhưng từ hôm qua cuộc ác chiến nguy hiểm trên Tiên Hà Lĩnh, bây giờ bà hãy còn kinh hãi. Bà lo cho bao nhiêu đệ tử do mình cầm đầu. Giả tỷ có một mình bà thì gặp tình trạng nguy hiểm gấp mười, bà cũng chẳng thèm để tâm.
Định Tĩnh sư thái lại khấn thầm:
– Đức Quan Thế âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn! Nếu phen này phái Hằng Sơn có bị tổn thất thì xin để một mình Định Tĩnh này gánh lấy tai họa. Bao nhiêu, sự báo ứng oan nghiệt một mình đệ tử xin chịu hết.
Giữa lúc ấy, ở góc Đông Bắc có tiếng phụ nữ kêu thét lên:
– Ối làng nước ơi! Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Trong đêm tối bồn bề tịch mịch quạnh hiu, tiếng la hét lại càng thê thảm chói tai.
Định Tĩnh sư thái không khỏi giật mình, nhưng bà phân biệt được đó không phải là thanh âm của nữ đệ tử phái Hằng Sơn. Bà chú ý nhìn về góc Đông Bắc thì thấy tốp bảy người do Nghi Thanh cầm đầu lao nhanh về phía đó để xem xét quan sát xem sự gì đã xảy ra.
Định Tĩnh chờ một lúc khá lâu vẫn không thấy Nghi Thanh trở về báo cáo.
Nghi Hòa nói:
– Thưa sư bá! Sư bá cho đệ tử cùng sáu vị sư muội qua đó coi tình hình ra sao?
Định Tĩnh gật đầu.
Nghi Hòa liền dẫn sáu cô sư muội chạy thẳng lên góc Đông Bắc.
Trong đêm tối, ánh kiếm lấp loáng, thoáng cái đã mất hút.
Sau lúc nữa, tiếng phụ nữ lúc trước lại la làng:
– Trời ơi! Chúng giết người! Ai cứu tôi… cứu tôi với!
Quần đệ tử phái Hằng Sơn khiếp đảm , ngơ ngác nhìn nhau tự hỏi:
– Chẳng hiểu bên kia đã xảy chuyện gì? Vì sao hai tốp do Nghi Thanh và Nghi Hòa cầm đầu đi đã bấu lâu không thấy trở lại? Nếu họ gặp địch nhân thì sao lại không nghe tiếng đánh nhau?
Nhưng những tiếng kêu cứu của người đàn bà nào đó đã thúc đẩy lòng nghĩa hiệp của các cô trỗi dậy. Các cô ngửng lên ngó Định Tĩnh sư thái để chờ bà phát lệnh đi cứu ứng người bị nạn.
Định Tĩnh sư thái cất tiếng gọi:
– Vu Tẩu ngươi là người già dặn, chắc chắn, vậy ngươi dẫn sáu tên sư muội đi coi. Bất luận thấy chuyện gì ngươi cũng lậo tức phái người về báo.
Vu tẩu là mụ nạ dòng đúng tuổi, trạc ngoại tứ tuần. Nguyên trước mụ chỉ là bộc phụ hầu cận Định Nhàn sư thái tại am Bạch Vân. Sau Định Nhàn sư thái thấy mụ là người mẫn cán rất đắc lực, lại hết dạ trung thành với bà, bà liền thu làm đồ đệ. Chuyến này mụ theo Định Tĩnh sư thái xuống Nam là lần đầu tiên mụ len lõi vào chốn giang hồ.
Vu tẩu nghe Định Tĩnh sư thái hạ lệnh vội khom lưng vâng lời, dắt sáu tên sư muội đi về góc Đông Bắc.
Bảy người này đi một lúc lâu vẫn đám tin như đá chìm đáy biển mới càng lạ kỳ!
Định Tĩnh sư thái mỗi lúc một thêm chột dạ nghĩ thầm:
– Hay là địch nhân đã bố trí cạm bẫy để dụ địch khiến cho hai chục đệ tử của ta tới nơi đều bị chúng bắt hết rồi.
Bà lại chờ hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Cả tiếng người đàn bà kêu cứu lúc nãy giờ cũng im bặt.
Định Tĩnh sư thái lại lên tiếng:
– Nghi Chất! Nghi Chân! Hai tốp các ngươi 14 tên ở lại đây để trông coi cho bọn sư tỷ sư muội bị thương. Bất luận xảy ra chuyện quái dị gì cũng không được rời khỏi khách điếm để khỏi trúng kế điệu hổ ly sơn của địch.
Nghi Chất, Nghi Chân hai người cúi đầu vâng lệnh.
Định Tĩnh sư thái lại nói:
– Còn ai nữa thì đi theo ta!
Lúc này bên bà chỉ còn ba cô đệ tử nhỏ tuổi là Trịnh Ngạc, Nghi Lâm và Tần Quyên. Bà nắm chặt trường kiếm đi trước chạy về góc Đông Bắc.
Ở góc Đông Bắc có một dãy phòng tối mò, đã không đèn lửa, lại không tiếng người.
Định Tĩnh sư thái lớn tiếng la:
– Bớ quân yêu nhân Ma giáo! Tụi bay có giỏi thì ra đây quyết một trận tử chiến. Nếu cứ ở trong bóng tối giở trò ma quái thì đâu phải anh hùng hảo hán.
Bà dùng lại một chút trong nhà vẫn không có tiếng người đáp lại.
Định Tĩnh sư thái liền phóng chân đá vào cửa phòng gần chỗ bà đứng.
Mấy tiếng “rắc rắc” vang lên! Then cửa gẫy lìa. Cánh cửa mở tung ra.
Trong phòng tối đen như mực, chẳng biết có người hay không.
Định Tĩnh sư thái không dám mạo muội xông vào, bà cất tiếng gọi:
– Nghi Hòa! Nghi Thanh! Vu Tẩu! Các người có nghe thấy tiếng ta gọi không?
Thanh âm bà truyền đi rất xạ Sau giây lát từ đàng xa có tiếng dội lại.
Trại 28 bốn mặt núi non vây bọc thanh âm của Định Tĩnh sư thái đụng vào vách núi dội ngược lại phát ra tiếng vọng.
Tiếng vọng yên rồi bốn bề lại im phăng phắc.
Định Tĩnh sư thái quay lại nói:
– Ba người theo sát bên mình ta, chớ có xa rời!
Bà cầm kiếm đi quanh dãy phòng hết một lượt mà chẳng phát giác ra một chút gì khác lạ. Bà liền chí đầu ngón chân xuống tung mình vọt lên nóc nhà, đua mắt nhìn ra bốn phía.
Lúc này đâu đấy yên lặng như tờ, cơn gió hiu hiu cũng không có. Đầu cành ngọn cỏ đúng im. Mảnh trăng lạnh lùng tỏa ánh sáng xuống mái ngói. Phong cảnh chẳng khác gì ngày trước ở am Bạch Vân núi Hằng Sơn lúc nữa đêm bà đi đoạn nguyệt. Chỉ khác ở chỗ trên núi Hằng Sơn bà được yên tịnh, còn bây giò bà ở vào giữa đám sát khí kỳ bí khôn lường.
Định Tĩnh sư thái là một tay có võ công quán thế nhưng địch nhân thủy chung không chịu lộ diện , bà cũng đành chịu bó tay chẳng biết làm thế nào?
Định Tĩnh sư thái trong lòng vừa nóng nảy lại vừa hối hận, bà lẩm bẩm:
– Mình mà sớm biết bọn yêu nhân Ma giáo lắm mưu thần chước quỷ thì chẳng cho bọn đệ tử chia thành toán tới đây.
Đột nhiên lòng bà phát run. Bà vỗ tay trái một cái từ trên nóc nhà nhảy xuống rồi thi triển khinh công chạy vội về Nam Yên khách điếm, lớn tiếng gọi:
– Nghi Chất! Nghi Chân! Có chuyện gì không?
Nhưng trong khách điếm không có tiếng người đáp lại.
Định Tĩnh sư thái vội vàng xông vào nhà thì trong điếm chẳng thấy một ai. Cả những tên đệ tử bị thương nằm trên giường cũng không biết đi đâu mất rồi.
Định Tĩnh sư thái dù công phu hàm dưỡng cao thâm đến đâu thì trước tình trạng này cũng không thể bình tĩnh được nữa.
Dưới ánh đèn, mũi kiếm không ngớt rung động lấp loáng thanh quang. Thế đủ biết thanh trường kiếm bà câm trong tay đang run lên bần bật.
Hoang mang trong lúc lâm địch là một điều tố kỵ của con nhà võ.
Định Tĩnh sư thái về nội công cũng như võ thuật đều vào hàng thượng thặng đáng lý không có tình trạng này. Dù là có mười tay cao tủ vây đánh, bà tự biết không thể thoát chết, bà cũng không rung động đến một đầu ngó taỵ Nhưng vì mấy chục tên đệ tử mới trong khoảnh khắc đã thất tung một cách đột ngột không tiến động là một trưòng hợp rất đặc biệt. Chẳng khác gì người trúng phải yêu thuật, bà cảm thấy lưỡi ráo môi khô.
Chỉ trong khoảnh khắc gân cốt toàn thân bà đều mềm nhũn ra không sao chuyển động được nữa. Song tình trạng tê chồn này chỉ diễn ra trong chốc lát.
Định Tĩnh sư thái hít mạnh một hơi chân khí vào huyệt đan điền, gia tâm vận động nội lực. Lập tức bà phấn khởi tinh thần trở lại, đi vòng quanh đình viện phòng ốc một lượt rất mau.
Lúc bà trở về trước sân bỗng ngó thấy một chiếc hài dưới gốc cây quế. Bà lượm lên coi thì đấy là một chiếc hài đàn bà bằng vải xanh đúng là của người bản phái thường đi. Trong hài hãy còn hơi ấm hiển nhiên đệ tử bản phái bị bắt đi đánh rớt. Lạ Ở chỗ trước đây bà không nghe thấy tiếng hô hoán hoặc tiếng quát tháo chi hết.
Định Tĩnh sư thái định thần lên tiếng gọi:
– Ngạc nhi! Quyên nhi! Các ngươi lại đây coi xem chiếc hài này của vị sư tỷ nào?
Nhưng trong đêm tối, bà chỉ nghe thấy tiếng mình gọi, chứ không có thanh âm của bọn Trịnh Ngạc, Tần quyên và Nghi Lâm đáp lại.
Bà la thầm:
– Hỏng mất rồi!
Bà nhảy vội ra cửa lớn tiếng hỏi:
– Ngạc nhi! Quyên nhi! Nghi Lâm! Các ngươi ở chỗ nào?
Bà kêu luôn mấy câu mà bốn bề vẫn yên lặng không một tiếng động.
Định Tĩnh sư thái không nhịn được nữa lớn tiếng thóa mạ. Nhưng trại 28 là một tòa trấn điện khá lớn tựa hồ chỉ còn lại một mình bà.
Định Tĩnh sư thái đã xuất gia làm ni cô, tuy trong lòng căm hận cất tiếng thóa mạ, song chỉ bằng những câu văn nhã còn lời thô tục bà không tiện thốt ra ngoài miệng.
Giữa lúc tình trạng không còn gì để thi thố nữa Định Tĩnh sư thái động tâm cơ, dõng dạc hô:
– Bớ quân yêu nhân Ma giáo! Nếu tụi bây không dám chường mặt ra là đủ chứng tỏ tên Đông Phương Bất Bại là quân hèn hạ khiếp nhược, không dám phái người chống đối ra mặt với bọn tạ Vậy hắn tự xưng là Đông Phương Bất Bại thế nào được? Bất quá chỉ đáng tên Đông Phương Bất Bại mà thôi. Bớ Đông Phương Bất Bại! Ngươi có giỏi thì chường mặt ra đây để gặp mặt lão ni! Đông Phương Bất Bại! Đông Phương Bất Bại! Ta chắc rằng chẳng đời nào ngươi dám ló mặt ra.
Bà biết trong Ma giáo từ trên xuống dưới coi Giáo chủ chúng như đấng thần minh. Nếu gặp người nào xỉ nhục đến tên tuổi giáo chủ, giáo đồ nghe thấy không xông ra liều mạng để bảo vệ vinh dự cho Giáo chủ là phạm vào một tội đại ác theo luật lệ của giáo hội.
Quả nhiên Định Tĩnh sư thái mới hô mấy tiếng Đông Phương Bất Bại, bỗng thấy bảy người từ trong mấy gian phòng nhảy ra rồi vọt lên nóc nhà không một tiếng động.
Định Tĩnh sư thái thấy địch nhân lộ hình thì trong bụng mừng thầm tự nhủ:
– Bọn yêu ma quỉ quái nhà mi bị ta thóa mạ phải chường mặt ra rồi! Dù bọn mi có đem đao mà băm vằm ta, ta cũng nhận thấy còn dễ chịu hơn bọn mi chỉ chui rúc chỗ kín không một tên nào ló ra.
Lạ Ở chỗ bảy người kia tay không cầm binh khí, miệng không hở một lời. Chúng chỉ đúng bao vây chung quanh bà.
Định Tĩnh sư thái tức giận hỏi:
– Bọn nữ đệ tử của ta đâu? Tụi bay giam chúng vào nơi nào?
Bọn bảy người kia vẫn lặng lẽ không lên tiếng.
Định Tĩnh sư thái thấy hai tên đứng ở mé tây đều ngoài năm chục tuổi. Mặt chúng trơ như xác chết, tuyệt không lộ vẻ hỉ nộ chút nào.
Định Tĩnh lại hô:
– Được lắm! Bọn mi coi kiếm đây!
Bà vung kiếm nhằm đâm vào trước ngực một tên đứng ở góc tây bắc.
Bà cũng tự biết mình ở giữa đám trùng vi thì đâm một kiếm chẳng tái nào trúng được. Đó chẳng qua là một hư chiêu. Kiếm mới phóng ra nữa vời liền dừng lại.
Người kia cũng đáo để. Hắn biết chiêu của Định Tĩnh sư thái là hư chiêu nên vờ như chẳng thấy gì. Hắn không né tránh chi hết.
Nhưng những tay võ công cao cường thì chiêu kiếm nào cũng hư hư thực thực chứ không nhất định. Thường khi hư lại biến thành thực mà thực lại chuyển thành hư.
Định Tĩnh sư thái thấy đối phương tỏ vẻ thản nhiên không lý gì đến chiêu kiếm bà đâm tới, bà liền xoay chuyển ý nghĩ rất mau. Chỉ trong nháy mắt bà bỏ ý định thu kiếm về, vận toàn lực vào cánh tay rồi tiếp tục phóng tới.
Bỗng thấy bóng hai người đứng bên lay động thấp thoáng. Hai người này vươn tay ra nhằm chụp vào hai vai Định Tĩnh sư thái.
Định Tĩnh sư thái chuyển động thân hình nhanh như làn gió thoảng bà xoay mình lại tấn công một người thân hình cao nghễu cao nghều.
Người này lướt đi nửa bước, rút binh khí đánh soạt một tiếng. Binh khí của hắn là tấm thiết bài rất trầm trọng. hắn vung thiết bài lên gạt kiếm của đối phương.
Nhưng Định Tĩnh sư thái đã đưa thanh kiếm thành đường vòng tròn.
Véo một cái! Bà nhằm đâm tới lão già mé tả. Lão này liền đưa tay trái định chụp lấy thân kiếm.
Dưới ánh trăng, Định Tĩnh sư thái nhìn rõ tay lão có đeo bao sắt đen. Bà chắc thứ bao này rất cứng rắn, đao kiếm chém không vào, lão mới dám đưa tay ra bắt kiếm.
Định Tĩnh sư thái liền xoay kiếm đánh người khác.
Mới trong khoảnh khắc mà trong bảy tên bà đã giao thủ với năm tên. Năm tên này đều là những tay cao thủ, võ công rất tinh thâm. Giả tỷ lấy một chọi một hoặc mình bà phải đấu với hai tên, bà quyết chẳng sợ gì. Nhưng hiện giờ bà phải đấu với bảy người thì hể sơ hở một chút là có kẻ lập tức đánh vào ngaỵ Thế là bà lâm vào tình thế chỉ có phần chống đỡ, không còn cơ hội nào phản kích được.
Cuộc chiến càng kéo dài Định Tĩnh sư thái càng thêm phần nao núng.
Bọn địch bảy người hiển nhiên đã luyện thành một thứ trận pháp. Chúng tiến thoái ăn nhịp như thể một người. Lúc họ đõ gạt đã không đụng chạm vào nhau mà thế công hay thế thủ của chúng là cả 14 cánh tay cùng đưa ra. Còn Định Tĩnh sư thái khác nào như người phải đấu với một quái vật có 14 tay.
Bà nghĩ thầm trong bụng:
– Những nhân vật nổi tiếng trong Ma giáo thì trong mười người mình đã từng biết mặt hay nghe danh đến tám chín. Gia số về võ công của họ ai dùng thứ binh khí gì Ngũ Nhạc kiếm phái ta đều biết cả. Song bảy tên này là những nhân vật ta chưa từng mắt thấy hay tai nghe ai nói đến bao giờ, nên lai lịch của chúng ta chẳng hiểu tý gì. Mấy năm gần đây, Ma giáo đã tìm cách bành trướng thế lực tại Trung Nguyên, chúng cũng thu dụng được một số cao nhân thân thế thần bí.
Cuộc chiến đấu đã kéo dài đến sáu bảy chục chiêu, Định Tĩnh sư thái phải đở tả gạt hữu rất là chật vật, bà thở lên hồng hộc. Bà cầm chắc sẽ phải bỏ mạng ở trại 28 này rồi.
Sau bà lại phát giác thêm số người ẩn trên mái nhà cộng đến trên chục tên đã mai phục từ lâu. Lúc trước bà còn mãi đối địch nên không khám phá ra được. Sau mặt trăng thiên về phía Tây, bóng người dài lê thê bà mới khám phá ra được.
Bà than thầm:
– Hỏng rồi! Thật hỏng rồi! Bọn chúng chỉ bảy người mình còn không chống nổ, huống chi bây giờ còn một số rình mò bên cạnh. Bữa nay Định Tĩnh này tới số rồi! Đàng nào cũng chết mà lọt vào tay địch để cho chúng xỉ nhục, hành hạ, thì sao bằng mình tự tử đi là hơn. Nhà Phật ngăn cấm kẻ tự hủy mình. Nhưng đây là ta ở trên chiến trường vì kiệt lực mà đành chịu chết, chứ đâu phải tự hủy sinh mạng. Thân ta chết chẳng có gì đáng tiếc nhưng mấy chục tên đệ tử do ta thống lĩnh cũng bị uổng mạng thì thật là một điều tủi hổ với liệt vị tiền nhân phái Hằng Sơn ở dưới suối vàng.
Quyết định rồi, Định Tĩnh sư thái phóng kiếm luôn ba mhát. Kiếm phong rít lên veo véo!
Địch nhân bắt buộc phải lùi lại hai bước.
Đột nhiên Định Tĩnh sư thái xoay trường kiếm nhằm đâm vào ngực mình.
Mũi kiếm vừa tới trước ngực.
Bất thình lình nghe đánh choang một tiếng! Cổ tay bà bị chấn động kịch liệt, thanh trường kiếm bị hất sang một bên.
Một người đàn ông tay cũng cầm kiếm đúng bên cạnh bà la lên:
– Định Tĩnh sư thái chớ liều mình! Đã có đồng bạn ở Tung Sơn đến viện trợ đây!
Lại nghe tiếng khí giới chạm nhau chát chúa. mười mấy người mai phục trong bóng tối ào ạt nhảy xổ tới chiến đấu với bảy tên Ma giáo. Té ra bọn họ là đồ đệ phái Tung Sơn chứ không phải địch.
Định Tĩnh sư thái chết hụt lại phấn khởi tinh thần, kiền chống kiếm lại nhảy vào vòng chiến.
Đoàn người phái Tung Sơn thi triển kiếm pháp bổn môn mà lại hai người đánh một. Bọn Ma giáo lập tức lâm vào thế kém.
Bảy tên Ma giáo thấy mình số ít không địch lại đám đông liền thổi còi ra hiệu rút lui rồi đột nhiên chạy về phía Nam.
Định Tĩnh sư thái đang cầm kiếm rượt theo, bỗng nghe tiếng gió rít lên!
Mười mấy mũi ám khí đồng thời bắn ra tới tay.
Định Tĩnh sư thái nhớ tới bữa qua ở Tiêu Hà Lĩnh đã bị địch nhân phóng ám khí cực kỳ lợi hại, bà không dám coi thường vội vung trường kiếm lên chú ý ngưng thần gạt cho rớt hết.
Trong đêm tối, dưới ánh trăng lờ mờ, bà thi triển kiếm pháp của phái Hằng Sơn rất tinh diệu. Tay áo rộng thùng thình bay phất phới. Thanh trường kiếm múa tít như giao long vùng vẫy biển khơi. Những tiếng leng keng vang lên không ngớt.
Mấy chục mũi ám khí lại rớt xuống lả tả.
Đây là chỗ tinh tuyệt về mặt kiếm pháp của phái Hằng Sơn. Chỉ có một mình Định Tĩnh sư thái sau khi rèn luyện mấy chục năm mới tới chỗ tinh thần ngưng nhất! bà không để cho một mũi ám khí nào chạm vào da thịt.
Có điều bọn Ma giáo bảy tên đã nhân cơ hội Định Tĩnh sư thái dừng lại chạy trốn xa rồi.
Bỗng nghe phía sau có người lón tiếng quát:
– Vạn Hoa kiếm pháp của phái Hằng Sơn quả nhiên tinh diệu tuyệt luân! Bữa nay đã khiến cho người ta mở rộng tầm mắt!