fbpx
skip to Main Content
Vovinam Schools
Le Sang Library
Vovinam Home
Vovinam University International

Hồi 40

Vì Bạn Vàng Toà n Gia Mắc Nạn

Hồi lâu, một hán tử thanh niên nghẹn ngào lên tiếng:

– Lưu sư bá! Bọn đệ tử cam đành đắc tội với sư bá.

Rồi hơn 30 tên đệ tử phái Hành Sơn sang đứng bên quần ni phái Hằng Sơn.

Bọn này toàn là những hạng sư điệt Lưu Chính Phong còn những nhân vật trực thuộc lão thì không ai bỏ đi.

Phí Bân lại giục:

– Những đệ tử thân truyền của Lưu môn cũng qua mé tả hết đi.

Hướng Đại Niên dõng dạc nói:

– Bọn đệ tử chịu ân nặng của sư môn, nay gia sư gặp nạn vậy nguyện cùng sống chết với ân sư.

Lưu Chính Phong nước mắt chạy quanh nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Đại Niên! Ngươi nói vậy cũng khiến cho sư phụ đây được hả lòng. Nhưng các ngươi qua bên đó đi! Việc sư phụ kết bạn không liên can gì đến các ngươi cả.

Mễ Vi Nghĩa rút thanh trường kiếm đánh soạt một cái nói:

– Một ngành Lưu môn không thể địch lại Ngũ nhạc kiếm phái. Bữa nay chỉ còn cái chết mà thôi. Ai định gia hại ân sư thì trước hết hãy giết Mễ Vi Nghĩa này đã.

Gã nói xong lạng người ra đứng chắn trước mặt Lưu Chính Phong.

Phí Bân cười gằn nói:

– ánh lửa đom đóm mà cũng muốn lập lòe ư?

Hắn giơ tay trái lên. Véo một tiếng, một tia sáng bạc vọt ra nhanh như tên.

Lưu Chính Phong giật mình kinh hãi, đẩy Mễ Vi Nghĩa một cái, hất ra mé tả. Tia sáng bạc nhằm bắn ngay tới trước mặt lão.

Hướng Đại Niên hốt hoảng nhảy ra đỡ đòn cho sư phụ.

Bỗng gã la lên một tiếng. Mũi ngân trâm bắn trúng vào trái tim, gã chết ngay lập tức.

Lưu Chính Phong vươn tay trái ra nắm lấy thi thể gã. Lão sờ mũi thấy đã tắt hơi liền quay sang bảo Đinh Trọng:

– Đinh lão nhị! Phái Tung Sơn nhà lão đã hạ thủ trước giết chết đệ tử của ta rồi!

Đinh Trọng nói:

– Đúng đó! Đúng đó! Bọn ta động thủ trước thì đã sao?

Lưu Chính Phong nhấc bổng thi thể Hướng Đại Niên lên vận nội lực vào để liệng về phía Đinh Trọng.

Đinh Trọng vừa nhìn cách vận kình lực của đối phương đã biết rằng nội công của phái Hành Sơn có chỗ độc đáo. Lưu Chính Phong lại là tay cao thủ hạng nhất phái Hành Sơn thì thế liệng ra không phải tầm thường. Hắn liền ngấm ngầm đề tụ nội lực chuẩn bị đón lấy xác chết để hất ngược lại

Ngờ đâu Lưu Chính Phong nhấc xác chết lên, rõ ràng nhắm liệng về phía trước, nhưng đột nhiên người lão chênh chếch đi, giơ hai tay lên liệng xác Hướng Đại Niên vào trước ngực Phí Bân. Cử động này cực kỳ mau lẹ mà Phí Bân đang lúc bất ngờ, hắn vội giơ thẳng song chưởng lên vận kình lực vào để ngăn chặn xác chết liệng tới.

Giữa lúc ấy hắn thấy hai cánh tay tê chồn thì ra đã bị Lưu Chính Phong điểm huyệt.

Lưu Chính Phong ra một chiêu thành công, liền vươn tay trái ra cướp lấy cây cờ lệnh trong tay Phí Bân. Tay phải rút kiếm chí vào yết hầu hắn, bỏ mặc cho xác Hướng Đại Niên rớt xuống đất. Động tác của Lưu Chính Phong biến hóa mau lẹ đến nỗi Phí Bân bị kiềm chế, cờ lệnh bị cướp rồi mọi người mới nhìn thấy và hiểu mưu thâm của lão.

Lưu Chính Phong thi triển công phu này là một tuyệt chiêu của phái Hành Sơn kêu bằng “Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức”. Mọi người nghe thấy tên này từ lâu nhưng đây là lần đầu được mở rộng tầm mắt.

Bọn Thiên Môn đạo nhân, Nhạc Bất Quần tuy đã nghe tiếng lớn của “Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức” từ lâu, có khi đã thấy đệ tử phái này sử dụng lúc lâm địch, nhưng đến độ xuất quỷ nhập thần như Lưu Chính Phong thì chưa được thấy bao giờ, nên ai cũng thán phục, nhất là Phí Bân, một tay cao thủ phái Tung Sơn, bản lãnh chẳng kém gì Lưu Chính Phong. Nay hắn thấy Lưu Chính Phong ra đòn mới biết là ghê gớm.

Công phu “Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức” là do một vị cao thủ đời trước phái Hành Sơn sáng chế ra. Vị cao thủ đó thường đi phô diễn hí kịch khắp nơi trên chốn giang hồ làm kế sinh nhai. Hí pháp này thanh đông kích tây như hư như thực biến ảo khôn lường để che tai mắt mọi người. Lúc lão tuổi già võ công càng cao, bí pháp biến ảo càng tăng tiến. Lão dùng công phu nội gia để thi triển biến pháp, ai trông thấy cũng phải khen là kỳ tuyệt. Về sau lão đem bí pháp biến ảo đưa vào bản lãnh võ công rồi “ngũ hoa bát môn” đi tới chỗ vô cùng xảo diệu. Khi lão sáng chế võ công này chỉ là cách làm trò du hí cho mình, không ngờ truyền đến đời sau nó lại thành một trong ba đại tuyệt kỷ của phái Hành Sơn. Công phu này biến hóa tuy quái lạ, nhưng lúc lâm địch cũng không bổ ích gì mấy, vì những tay cao thủ ra chiêu họ đề phòng nghiêm mặt, môn hộ toàn thân giữ không sơ hở mà chiêu này chỉ cốt lòe mắt mọi người, nên sử dụng khó thành công. Vì thế khi phái Hành Sơn truyền thụ võ công cho môn đồ vẫn coi thường công phu này. Nếu đồ đệ là người nông nổi nhẹ dạ thì không được truyền thụ để họ tránh khỏi cái nạn chuyên về hư ảo mà khiếm khuyết công phu thực lực.

Lưu Chính Phong là con người thâm trầm ít nói. lão học được công phu này ở nơi sư phụ rồi mà thường ngày chưa từng dùng tới. Nay gặp lúc cấp bách lão mới sử dụng, ai ngờ một chiêu đã thành công, kiềm chế ngay được một tên cao thủ nổi tiếng phái Tung Sơn là Phí Bân.

Lưu Chính Phong tay phải giơ cây lệnh cờ của Ngũ nhạc kiếm phái lên, tay trái dí trường kiắm vào yết hầu Phí Bân dằn giọng nói:

– Đinh sư huynh! Lục sư huynh! Lưu mỗ cả gan cướp cây Ngũ Nhạc lệnh kỳ chỉ là để năn nỉ với hai vị.

Đinh Trọng cùng Lục Bách đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm:

– Phi sư đệ đã bị lão ám toán, bây giờ mình đành hãy nghe xem lão nói gì.

Đinh Trọng nghĩ vậy liền hỏi:

– Năn nỉ điều chi?

Lưu Chính Phong đáp:

– Lưu mỗ năn nỉ hai vị chuyển bẩm lên Tả minh chủ chuẩn cho Lưu mỗ được toàn gia quy ẩn, từ đây không can dự đến bất cứ việc gì trong võ lâm. Lưu mỗ cùng Khúc đại ca cũng bắt đầu từ hôm nay không gặp nhau nữa. Đồng thời Lưu mỗ xin chia tay… cùng các vị sư huynh cùng bằng hữu. Lưu mỗ dắt díu gia nhân cùng đệ tử xa chạy cao bay, còn sống ngày nào cũng không bước chân vào đất trung nguyên nữa.

Đinh Trọng ngần ngừ một chút rồi nói:

– Ta cùng Lục sư đệ không có quyền giải quyết việc này mà phải chờ chỉ thị của Tả sư ca định đoạt.

Lưu Chính Phong nói:

– Hai vị chưởng môn phái Thái Sơn và Hoa Sơn đã có ở đây, Định Dật sư thái phái Hằng Sơn có thể đại diện cho chưởng môn là sư tỷ của ỵ Ngoài ra các anh hùng hảo hán cũng đều chứng kiến, tưởng là đủ lắm.

Lão đảo mắt nhìn vào mặt mọi người rồi trầm giọng nói tiếp:

– Lưu mỗ năn nỉ cùng các vị bằng hữu cho Lưu mỗ được vẹn toàn nghĩa bạn bè và giữ cho gia nhân cùng đệ tử được chu toàn.

Định Dật sư thái là người bề ngoài cứng rắn nhưng bề trong lại rất ôn hòa. Mụ nóng tính mà lòng dạ hiền từ, lên tiếng trước:

– Thế là hay lắm! Chúng ta không bị tổn thương đến hòa khí đồng đạo. Đinh sư huynh! Lục sư huynh! Chúng ta nên ưng thuận lời yêu cầu của Lưu hiền đệ đi! Y đã thôi kết giao với người Ma giáo lại tránh xa trung nguyên thì khác gì trên cõi đời này không còn có y nữa. Hà tất phải giết người cho thêm tội nghiệt?

Thiên Môn đạo nhân cũng gật đầu nói:

– Thế là phải! Nhạc hiền đệ! Hiên đệ tính sao? Lưu hiền đệ lời nói coi trọng bằng non. Y đã hứa như vậy chúng ta có thể tin được lắm. Nào Lưu hiền đệ hãy buông Phí hiền đệ ra chúng ta uống chung rượu giải hòa. Sáng sớm mai hiền đệ nên đưa gia quyến cùng đệ từ rời khỏi thành Hành Sơn ngay.

Lục Bách cất giọng âm trầm nói:

– Hai vị chưởng môn Thái Sơn và Hoa Sơn đã nói vậy, Định Dật sư thái cũng hết sức cởi mở cho Lưu Chính Phong, bọn tại hạ khi nào dám trái các vị? Có điều Phí sư đệ phái Tung Sơn bị Lưu Chính Phong ám toán mà bọn tiểu đệ cũng ưng thuận thì không khỏi mang tiếng với đồng đạo giang hồ là phái Tung Sơn bị Lưu Chính Phong uy hiếp nên đành phải cúi đầu hàng phục. Thế thì còn chi là thể diện cho phái Tung Sơn.

Định Dật sư thái nói:

– Đây là Lưu hiền đệ năn nỉ phái Tung Sơn chứ có phải uy hiếp đâu? Vậy danh từ “cúi đầu hàng phục” kể cũng quá đáng.

Lục Bách hắng giọng một tiếng rồi nói:

– Địch Tu! Chuẩn bị đi!

Gã đệ tử phái Tung Sơn tên gọi Địch Tu đứng ở đằng sau người con lớn của Lưu Chính Phong dạ một tiếng rồi nhẹ nhàng chí mũi đoản kiếm trong tay qua làn da sau lưng Lưu công tử.

Lục Bách vẫn giữ giọng âm trầm nói:

– Lưu Chính Phong! Ngươi muốn năn nỉ thì theo chúng ta lên núi Tung Sơn ra mắt Tả minh chủ để năn nỉ với người. Chúng ta vâng mệnh minh chủ không thể tự quyết định được. Ngươi trả trả lệnh cờ tức khắc và buông tha Phí sư đệ ngay đi.

Lưu Chính Phong nở một nụ cười thê thảm nhìn con hỏi:

– Hài nhi! Ngươi có sợ chết không?

Lưu công tử đáp:

– Hài nhi đã nghe lời gia gia quyết không sợ chết.

Lưu Chính Phong nói:

– Thế thì hay lắm!

Lục Bách quát lên:

– Giết đi!

Địch Tu liền phóng kiếm về phía trước suốt qua sau lưng thấu vào trái tim Lưu công tử. Thanh đoản kiếm vừa rút ra, Lưu công tử té xuống liền, máu tươi trào ra như suối.

Lưu phu nhân thét lên một tiếng nhảy xổ về phía thi thể con mình.

Lục Bách lại quát lên:

– Giết đi!

Địch Tu giơ kiếm lên phóng tới. Thanh kiếm lại đâm vào sau lưng Lưu phu nhân.

Định Dật sư thái cả giận vung chưởng lên đánh Địch Tu và thóa mạ:

– Thật là quân cầm thú!

Đinh Trọng nhảy lại phóng chưởng ra nghinh địch. Song chưởng gặp nhau, nhưng chưởng lực của sư thái yếu hơn, mụ phải lùi lại ba bước.

Mụ lợm giọng máu trào lên miệng. Nhưng bản tính cương cường hiếu thắng, mụ nuốt máu xuống chứ không thổ ra.

Đinh Trọng tủm tỉm cười nói:

– Đa tạ sư thái đả nhẹ đòn.

Nguyên Định Dật sư thái không sở trường về chưởng lực, huống chi phát chưởng này mụ phóng ta để đánh Địch Tu là kẻ dưới, mụ không vận toàn lực. Còn chưởng lực Đinh Trọng thì thế mạnh bằng lay non dốc biển. Định Dật sư thái bị thương nôn huyết, mụ tức quá toan phóng phát chưởng thứ hai. Nhưng lúc vận nội lực thấy huyệt đan điền đau như dao cắt thì biết là mình đã bị thương trầm trọng, hiện không còn đủ sức chống đối nữa.

Mụ hầm hầm vẫy tay nói:

– Chúng ta đi thôi!

Rồi rảo bước đi ra cổng lớn. Bọn quần ni dưới trướng theo mụ đi luôn.

Lục Bách lại quát lên:

– Giết nữa đi!

Hai tên đệ phái Tung Sơn lại phóng đoản kiếm giết chết hai tên đệ tử nhà họ Lưu.

Lục Bách lớn tiếng:

– Đệ tử Lưu môn hãy nghe đây! Tên nào muốn sống thì quỳ xuống năn nỉ kể tội Lưu Chính Phong ta sẽ tha chết cho.

Con gái Lưu Chính Phong là Lưu Tinh căm giận quát mắng:

– Quân gian tặc kia! Phái Tung Sơn các ngươi còn gian ác gấp trăm ngàn lần Ma giáo.

Luc Bách thét:

– Giết đi!

Vạn Thái Bình giơ trường kiếm lên chém sã bả vai bên hữu thẳng xuống Lưu Tinh.

Sử Đăng Đạt cùng bọn đệ tử phái Tung Sơn cũng chém mỗi tên một nhát. Bao nhiêu đệ tử phái Hành Sơn đã bị điểm huyệt kiềm chế rồi, bây giờ bị giết sạch.

Quần hùng trong nhà đại sảnh, tuy đều đã trải qua nhiều trận đao kiếm mà thấy vụ giết chóc thê thảm này cũng không khỏi kinh tâm động phách.

Có mấy vị anh hùng tiền bối muốn đứng ra ngăn cản nhưng phái Tung Sơn động thủ quá lẹ, chỉ chần chờ một chút là thây chết đã nằm ngổn ngang khắp sảnh đường.

Mọi người tự nhủ:

– Trước nay chính tà không thể chung sống. Cử động này của phái Tung Sơn tuy tàn bạo, nhưng không phải để báo thù riêng với Lưu Chính Phong mà là vì mục đích đối phó với Ma giáo, vậy họ có ra tay tàn nhẫn một chút cũng không phải là đại tội. Hơn nữa phái Tung Sơn đã kiềm chế toàn cục, cả Định Dật sư thái phái Hằng Sơn danh tiếng lẫy lừng cũng cúp đuôi bỏ đi.

Còn Thiên Môn đạo nhân, Nhạc Bất Quần là những tay cao thủ hơn đều không lên tiếng.

Đây là việc riêng của Ngũ nhạc kiếm phái, mình là người ngoài can thiệp vào làm chi?

Nếu miễn cưỡng xuất đầu tất khó lòng tránh khỏi cái họa sát thân. Chi bằng tự giữ lấy mình mới là người trí.

Bọn đệ tử Lưu môn bị giết sạch rồi chỉ còn lại đứa nhỏ tên gọi Lưu Cần mà Lưu Chính Phong rất yêu dấu.

Thằng nhỏ này năm nay 15 tuổi. Gã mặt thanh mày sáng, thông minh lanh lợi.

Hoàng Diện Gia Cát Lục bách đã tra rõ minh bạch biết Lưu Chính Phong cực kỳ sủng ái đức con nhỏ này.

Hắn dùng gã để đưa ra ngón đòn tối hậu với Lưu Chính Phong, liền quay lại bảo Sử Đăng Đạt:

– Ngươi thử hỏi thằng nhỏ đó xem gã đã chịu van lơn xin tha chưa? Nếu không thì cắt mũi xẻo tai trước rồi móc mắt sau để gã phải đau khổ muôn vàn.

Sử Đăng Đạt dạ một tiếng, đoạn quay lại hỏi Lưu Cần:

– Ngươi có van xin không?

Lưu Cần sợ quá mặt tái mét, toàn thân run bần bật.

Lưu Chính Phong an ủi gã:

– Hảo hài tử! Con hãy coi gương anh chị con chết một cách oanh liệt là thế! Bây giờ dù họ có giết con thì cứ việc mà giết can chi phải sợ hãi?

Lưu Cần giọng run run nói:

– Nhưng… nhưng.. gia gia ơi!.. Họ lại xẻo mũi… móc mắt… hài nhi.

Lưu Chính Phong cười ha hả nói:

– Đã đến nước này, chẳng lẽ ngươi còn hòng họ buông tha chúng ta nữa ư?

Lưu Cần ấp úng:

– Gia gia ơi!… Gia gia chịu lời chịu giết… Khúc bá bá…

Lưu Chính Phong tức quát mắng:

– Thằng tiểu súc sinh kia! Không được nói bậy! Mi bảo sao?

Sử Đăng Đạt khoa lưỡi kiếm vào trước mũi Lưu Cần nói:

– Tiểu tử! Nếu mi không quỳ xuống năn nỉ thì lưỡi kiếm này hớt mũi mi ngay tức khắc. Nào… Một… Hai… Ba…

Sử Đăng Đạt vừa đếm dứt tiếng “ba”, Lưu cần co gối quỳ mọp ngay xuống, van lơn:

– Đừng.. giết cháu…

Lục Bách cười nói:

– Hay lắm! Mi muốn chúng ta buông tha cũng chẳng khó gì. Ta chỉ cần mi tố cáo trước các vị anh hùng thiên hạ hiện diện ở đây những điều lầm lỗi của Lưu Chính Phong mà thôi.

Lưu Cần đăm chiêu ngó phụ thân bằng cặp mắt đầy vẻ van lơn.

Lưu Chính Phong vốn người rất bình tĩnh. Vợ con lão bị thảm tử trước mắt mà da mặt vẫn không rung động chút nào. Thế mà bây giờ lão không nén nổi cơn tức giận, lớn tiếng quát:

– Tiểu súc sinh! Mi hành động hèn nhát như vậy thì còn mặt mũi nào trông thấy mẫu thân mi nữa?

Lưu Cần đưa mắt ngó mẫu thân, ca ca cùng tỷ tỷ nằm chết trên vũng máu. Một mặt Sử Đăng Đạt vẫn tiếp tục khoa kiếm vào trước mũi làm cho gã sợ đến vỡ mật.

Gã nhìn Lục Bách năn nỉ:

– Xin lão gia tha cho cháu… tha cả gia gia cháu nữa.

Lục Bách nói:

– Gia gia mi cấu kết với quân ác nhân trong Ma giáo… như vậy có được không? Mi thử nói nghe!

Lưu Cần khẽ lắp bắp:

– Không… không được.

Lục Bách nói:

– Hạng người như vậy có đáng giết đi không?

Lưu Cần cúi đầu xuống không dám trả lời.

Lục Bách nói:

– Thằng lỏi này không chịu nói. Chém phứt gã đi cho rồi!

Sử Đăng Đạt dạ một tiếng. Nhưng hắn biết Lục Bách nói câu đó là cốt hăm dọa thằng nhỏ chứ không phải giết thật. Hắn vung kiếm lên như cốt hă cốt

Lưu Cần vội nói:

– Nên.. nên giết.

Lục Bách nói:

– Hay lắm! Từ đây trở đi mi không phải là người phái Hành Sơn mà cũng không phải là con Lưu Chính Phong nữa. Ta tha mạng cho mi đó.

Lưu Cần vẫn quỳ mọp dưới đất. Hai đùi gã nhũn ra không đứng dậy được.

Quần hùng nhìn cảnh tượng này cũng lấy làm xấu hổ thay, không nhịn được. Có người quay đầu nhìn ra chỗ khác.

Lưu Chính Phong buông tiếng thở dài nói:

– Họ Lục kia! Thế là ngươi thắng rồi!

Lão vung tay phải liệng cây cờ về phía Lục Bách. Đồng thời chân trái đá hất Phí Bân ra, dõng dạc nói:

– Lưu mỗ nay đã thân danh tan nát, thôi chẳng giết người làm chi nữa.

Tay trái cầm ngang thanh kiắm đưa lên cổ toan tự vẫn.

Giữa lúc ấy, trước thềm đột nhiên có bóng người áo đen xuất hiện. Người này hành động nhanh như cơn gió thoảng.

Y vươn tay chụp lấy cổ tay trái Lưu Chính Phong quát lên:

– Người quân tử báo thù không phải chỉ trong một lúc mà sau mười năm cũng vẫn chưa muộn. Chúng ta đi đi!

Tay phải y khoa về phía sau thành một đường vòng tròn kéo Lưu Chính Phong hấp tấp chạy đi.

Lưu Chính Phong nói:

– Khúc đại ca… đại ca…

Nguyên người áo đen này chính là Khúc Dương, trưởng lão Ma giáo.

Lưu Chính Phong chưa dứt lời Khúc Dương đã gạt đi:

– Đừng nói nhiều nữa.

Y tăng gia kình lực vào chân vừa chạy được ba bước thì bọn Đinh Trọng, Lục Bách, Phí Bân ba người sáu chưởng đồng thời phóng ra nhằm đánh tới sau lưng hai người.

Khúc Dương biết trong Lưu Phủ có rất nhiều tay cao thủ mà người nào cũng coi Ma giáo là tử thù. Nếu để họ xúm xít lại thì khó lòng thoát thân được. Y liền thét lên giục Lưu Chính Phong:

– Chạy lẹ đi!

Y vừa nói vừa đưa tay ra đẩy Lưu Chính Phong đi, đồng thời y vận nội kình sau lưng ra để chịu đựng phát chưởng của bọn Đinh Trọng, Lục Bách, Phí Bân.

Sầm một tiếng vang lên phát chưởng của ba tay đại cao thủ tận lực phóng tới hất người Khúc Dương bay ra ngoài.

Khúc Dương tuy là tay võ công cao cường nhưng chưởng lực của ba tay đại cao thủ phái Tung Sơn cũng ghê gớm vô cùng. Bị trúng chưởng lực của một người còn khó lòng chống chọi được huống chi cả sáu chưởng cùng đánh ra.

Khúc Dương oẹ lên một tiếng, miệng phun máu tươi. Lão xoay tay lại vung lên một cái. Một nắm mũi kim đen liệng ra như mưa.

Đinh Trọng vội la lên:

– “Hắc huyết thần trâm”! Tránh cho mau!

Lão hốt hoảng né sang một bên.

Quần hùng thấy Khúc Dương liệng những mũi kim đen sì và đã được nghe từ lâu đại danh về “Hắc huyết thần trâm” của Ma giáo nên chẳng ai là không kinh hãi. Kẻ lui người tránh nhộn nhạo cả lên.

Vậy mà vẫn còn nghe thấy những tiếng kêu thất thanh:

– Úi chao!

– Nguy to rồi!

Mười mấy người đồng thanh la hoảng.

Nguyên trong sảnh đường đông đặc những người mà “Hắc huyết thần trâm” liệng ra vừa nhiều vừa mau lẹ.

Số người bị trúng độc trâm gây ra tình trạng hỗn loạn.

Khúc Dương cùng Lưu Chính Phong thừa cơ trốn biệt.

 

Hồi 41

Khúc Tiếu Ngạo Từ Đây Bặt Tiếng

Đây nhắc lại Lệnh Hồ Xung tuy bị kiếm thương trầm trọng nhưng được ngoài rịt “Thiên hương đoạn tục giao” và trong uống “Bạch Vân hùng đởm hoàn” là những thánh dược rất thần hiệu của phái Hằng Sơn nên rất mau lành. Hơn nữa Lệnh Hồ Xung đang thời niên tráng lực cường, nội công thâm hậu lại được ngủ bên bờ suối hai đêm một ngày, vết thương gã hoàn toàn bình phục. Suốt trong một ngày hai đêm, gã chỉ ăn dưa cho đỡ đói.

Lệnh Hồ Xung yêu cầu Nghi Lâm bắt cá bắn thỏ, nhưng nàng nhất định không chịu. Nàng bảo gã lần này mà thoát chết là hoàn toàn trông vào pháp lực của đức Bồ tát che chở. Vậy tốt hơn hết là ăn chay trường một năm để tỏ lòng tạ Ơn đức Phật. Còn việc phá giới sát sinh quyết không nên phạm vào.

Lệnh Hồ Xung cười nàng có nghĩ viển vông, nhưng gã không thể nào miễn cưỡng nàng được cũng đành chịu thôi.

Trời đã gần tối, hai người ngồi tựa vách đá nhìn vào đám cỏ rậm thấy ánh lửa đom đóm lập lòe bay đi bay lại coi rất đẹp mắt.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngày trước vào mùa hè tiểu huynh có khi bắt đến hàng mấy ngàn đom đóm bỏ vào mấy chục chiếc túi bằng sa mỏng treo ở trong phòng, thật là thú vị.

Nghi Lâm nghe nói đến chuyện bắt đom đóm bỏ vào mấy chục túi sa, bất giác động tâm nghĩ thầm:

– Lệnh Hồ đại ca là người lãng mạn, chẳng thể làm chuyện tỷ mỷ khâu mấy chục chiếc túi sa được.

Nàng liền hỏi:

– Có phải Linh San sư muội bảo đại ca bắt đom đóm không?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Sư muội thật là thông minh, đoán trúng lắm! Sao sư muội lại biết Linh San sư muội bảo tiểu huynh bắt đom đóm?

Nghi Lâm cười đáp:

– Đại ca đã nóng tính lại không phải là con nít thì khi nào lại nhẫn nại đi bắt hàng ngàn con đom đóm làm trò chơi được?

Nàng ngừng lại một chút rồi hỏi tiếp:

– Đại ca treo những túi đom đóm trong phòng như thế nào?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Linh San sư muội treo những túi đó vào trong màn y rồi bảo: trong giường ánh sáng lấp loáng chẳng khác gì hàng ngàn hàng vạn vì sao, tưởng chừng như người đang ngủ trên mây. Lúc bừng mắt ra chung quanh mình toàn những sao là sao.

Nghi Lâm nói:

– Lệnh sư muội khéo chơi đó. Chỉ riêng đối với y là sư ca thật tình làm theo. Giả tỷ y bảo sư ca lên bắt sao trên trời chắc sư ca cũng chịu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Việc bắt đom đóm cũng do việc muốn bắt những vì sao trên trời mà ra. Một hôm tiểu huynh cùng y đứng hóng mát, nhìn những chòm sao rực rỡ trên trời rồi đột nhiên y thở dài nói: “Chỉ một lúc nữa đã phải đi ngủ, thật là đáng tiếc! Tiểu muội muốn ngủ ngay ngoài trời. Chừng nửa đêm trở dậy được nhìn thấy những vì sao đầy trời nhìn mình mà mấp mấy thì vui thú biết chừng nào! Nhưng má má nhất định không cho”. Tiểu huynh liền bảo y: “Chúng ta đi bắt một ít đom đóm thả vào trong màn thì cũng chẳng khác gì những vì sao kia”…

Nghi Lâm nhẹ nhàng ngắt lời:

– Té ra đó là chủ ý của sư chủ.

Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười nói tiếp:

– Linh San sư muội liền bảo: “Đom đóm ở trong màn bay qua bay lại đậu cả vào mặt thì chán chết. à phải rồi. Tiểu muội may một ít túi sa để đựng đom đóm là được”. Thế rồi y ngồi khâu túi, tiểu huynh bắt đom đóm. Cả hai người bận bịu suốt một ngày một đêm mới xong việc. Nhưng đáng tiếc là qua một đêm, đến đêm thứ hai, bao nhiêu đom đóm đều chết sạch.

Nghi Lâm chấn động tâm thần, run lên hỏi:

– Cà hàng ngàn hàng vạn con đom đóm đều chết hết ư? Thế thì anh em sư ca…

Lệnh Hồ Xung cả cười ngắt lời:

– Sư muội bảo chúng ta tàn nhẫn lắm phải không? Trời ơi! Sư muội là đệ tử nhà Phật, lương tâm mới đặc biệt khác người. Thực ra đom đóm chỉ sống được trong những ngày nắng ấm. Khi gặp trời lạnh là chúng chết cóng hết. Vậy chúng chết sớm mấy ngày có gì quan hệ?

Hồi lâu, Nghi Lâm nét mặt rầu rầu, nàng nói:

– Con người ta ở trên đời cũng thế mà thôi. Người chết sớm kẻ chết muộn, sớm muộn chung quy cũng là phải chết. Nhà Phật đã nói con người không ai tránh khỏi cái khổ não về sinh, lão, bệnh, tử. Còn thuyết luân hồi thì đâu phải là câu chuyện dễ dàng?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng đó! Thế thì sư muội cần gì phải tâm niệm, không dám đơn sai những giới luật thanh quỷ Sao phải kiêng sát sinh hoặc ăn trộm, ăn cắp. Nếu đức bồ tát việc gì cũng nhìn tới thì chật vật quá, làm thế nào được?

Nghi Lâm ngoảnh đầu đi không biết nói sao cho phải.

Giữa lúc ấy đầu núi mé tả, trên trời có một vì sao đổi ngôi lướt qua, vạch không gian một đường ánh sáng rất dài.

Nghi Lâm sực nhớ ra điều gì, nàng hỏi:

– Nghi Tĩnh tỷ tỷ đã nói: người nào mà thấy sao đổi ngôi, một mặt thắn nút giải áo, một mặt trong tâm có điều ước nguyện, hễ ánh sao chưa vụt tắt mà đã thắt nút giải áo xong thì tâm nguyện đó sẽ được như sở cầu. Đại ca bảo có đúng thế không ?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Cái đó tiểu huynh cũng không biết. Bây giờ chúng ta hãy thử coi, nhưng chỉ sợ động tác của mình không mau lẹ đến thế được.

Gã nói xong đứng lên cởi giải áo ra nói:

– Sư muội chuẩn bị đi! Chỉ chậm một ly là không kịp đâu.

Nghi Lâm giơ giải áo lên ngơ ngẩn nhìn trời. Đêm hà sao đổi ngôi rất nhiều. Trong khoảnh khắc lại có một vì xẹt qua không gian nhưng chỉ trong nháy mắt đã vụt tắt.

Nghi Lâm động ngón tay vì sao đã biến mất, nàng khẽ la một tiếng:

– ái chà!

Rồi lại ngồi chờ.

Vì sao thứ hai xẹt từ Tây sang Đông thành một đường rất dài.

Nghi Lâm động tác rất mau lẹ, thắt nút giải áo vừa xong.

Lệnh Hồ Xung cả mừng nói:

– Hay quá! Hay quá! Nhờ hoàng thiên trì hộ, nhất định sư muội sẽ được như nguyện.

Nghi Lâm thở dài nói:

– Tiểu muội chỉ chăm chú thắt nút, chứ trong lòng chưa kịp ước nguyện gì cả.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Vậy bây giờ sư muội nghĩ trước đi, nhẩm thuộc lòng mấy lần, kẻo đến lúc thắt nút giải áo lại quên mất điều ước nguyện.

Nghi Lâm giơ giải áo lên tự hỏi:

– Ta biết ước nguyện gì đây? Ta biết ước nguyện gì đây?

Nàng đưa mắt ngó Lệnh Hồ Xung, bỗng hai má ửng đỏ, vội ngoảnh đầu nhìn ra chỗ khác.

Lúc này trên trời mấy vì sao đổi ngôi tiếp tục không ngớt.

Lệnh Hồ Xung kêu gọi luôn miệng:

– Lại một vì! úi chà! Vì sao này xẹt dài gớm. Sư muội đã thắt nút xong chưa? Lần này lại không kịp rồi.

Nghi Lâm ruột rối như mớ bòng bong. Trong thâm tâm nàng ngấm ngầm khát vọng một điều, nhưng nàng lại không dám nghĩ tới, chứ đừng nói đến chuyện cầu đảo hoàng thiên nữa. Lúc này lòng nàng sợ hãi khôn tả mà cũng vui mừng khôn xiết!

Lệnh Hồ Xung lại hỏi:

– Sư muội đã nghĩ xong tâm nguyện gì chưa? Một điều thôi đấy nhé, chứ nhiều thì không linh nghiệm đâu.

Nghi Lâm khẽ lẩm bẩm:

– Mình biết cầu nguyện điều chỉ Mình biết cầu nguyện điều chi?

Nàng thấy một vì sao xẹt trên trời rồi cứ ngẩng đầu ngây người ra mà nhìn.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sư muội đừng nói để tiểu huynh đoán ra sư muội ước nguyện điều gì.

Nghi Lâm vội gạt đi:

– Không! Không! Lệnh Hồ đại ca đừng nói.

Lệnh Hồ Xung cười hỏi:

– Cái đó có quan hệ gì? Tiểu huynh đoán ba lần thử xem có trúng không?

Nghi Lâm liền đứng dậy nói:

– Sư ca mà còn nói thế thì tiểu muội đi đây!

Lệnh Hồ Xung cười ha hả đáp:

– Thế thì thôi. Tiểu huynh chả nói nữa. Tiểu huynh chắc trong lòng sư muội ước nguyện làm chức chưởng môn phái Hằng Sơn và như vậy cũng chẳng hề chi.

Nghi Lâm ngẩn người ra bụng bảo dạ:

– Té ra y đoán mình muốn làm chưởng môn phái Hằng Sơn. Nhưng mình chưa từng có ý nguyện đó.

Bất thình lình mấy tiếng tình tang từ đằng xa vọng lại dường như có tiếng người gảy đàn.

Lệnh Hồ Xung cùng Nghi Lâm ngơ ngác nhìn nhau ra vẻ kinh nghi tự hỏi:

– Ở chốn hoang sơn dã lĩnh này tại sao lại có người gảy đàn?

Tiếng đàn nghe rất thanh nhã. Lát sau lại có tiếng sáo nhu hòa nổi lên họa với tiếng đàn. Hai người còn nghe rõ là tiếng đàn “thất huyền cầm” âm diệu hòa bình trung chính, dóng đôi với tiếng tiêu thanh cao u nhã làm rung động lòng người. Tiếng đàn tiếng tiêu lại tựa hồ một bên vấn một bên đáp dần dần đi gần tới.

Lệnh Hồ Xung xích đến bên Nghi Lâm khẽ nói:

– Điệu nhạc này rất cổ quái e rằng có điều bất lợi cho chúng tạ Bất luận trường hợp nào, sư muội nhất định đừng lên tiếng.

Nghi Lâm gật đầu.

Tiếng đàn dần dần lên cao vòi vọi còn tiếng tiêu lại từ từ trầm xuống nhưng không dứt, tựa hồ như tiếng gió thoảng qua mà liên miên bất tuyệt khiến người nghe không khỏi bâng khuâng trong dạ.

Từ sau tảng đá núi ba bóng người xuất hiện. Lúc này vừng trăng bị núi che khuất, chỉ thấy hình ảnh lờ mờ chứ không rõ rệt. Trong ba người này thì hai cao một thấp. Hai người cao là đàn ông còn người thấp là đàn bà. Hai người đàn ông ngồi tựa vách núi, một người gảy đàn, một người thổi tiêu. Người đàn bà đứng bên người gảy đàn.

Lệnh Hồ Xung thụt đầu vào sau vách đá không dám thò ra nhìn nữa, sợ bị ba người kia phát giác. Nhưng gã nghe đàn sáo du dương có vẻ rất hài hòa thì bụng bảo dạ:

– Bên làn thác nước chảy ồ ồ, thế mà tiếng đàn, tiếng sáo du dương kia vẫn nghe rõ, dường như nội công hai người này không phải hạng tầm thường.

Tiếng đàn đột nhiên thét lên choang choảng ra chiều sát phạt. Một hai tiếng đàn tưởng như chọc vào màng tai khiến người nghe phải kinh tâm động phách, còn tiếng tiêu vẫn dịu dàng uyển chuyển. Một lát sau, tiắng đàn trở lại ôn hòa khi lên bổng khi xuống trầm. Đột nhiên tiếng đàn tiếng tiêu biến đổi thình lình, tựa hồ bảy tám cây đàn cùng bảy tám ống tiêu tấu lên một lúc. Lệnh Hồ Xung kinh ngạc tự hỏi:

– Bây giờ sao lại nhiều người đến thế?

Gã thò đầu ra nhìn trộm thi bên vách đá vẫn chỉ có ba người. Té ra người gảy đàn và người thổi tiêu đã đến chỗ thần diệu ghê hồn. Một thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám. Trong một nhạc khí mà phát ra nhiều âm thanh khác nhau.

Tiếng đàn tiếng tiêu tuy phức tạp nhưng thanh điệu lên bổng xuống trầm rất lọt tai.

Lệnh Hồ Xung lắng tai nghe đến nỗi mạch máu căng thẳng. Gã không nhịn được phải đứng lên. Sau một lúc nữa, tiếng đàn tiếng tiêu lại biến đổi thanh điệu. Cây “thất huyền cầm” chỉ dạo tình tang để giữ nhịp, có điều mỗi lúc một lên cao vòi vọi.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy trong lòng chua xót. Gã ngoảnh đầu nhìn Nghi Lâm thì thấy nàng giọt châu tầm tã.

Đột nhiên cung đàn rít lên một tiếng cấp bách. Dây đàn đứt mấy sợi rồi tiếng đàn ngừng bặt. Tiếng tiêu cũng chấm dứt. Bốn bề trở nên yên lặng như tờ. Trên trời vầng trăng tỏ lên cao chiếu bóng những cây rừng chi chít trên mặt đất.

Bỗng một người cất tiếng nói:

– Lưu hiền đệ! Bữa nay chúng ta mất mạng tại đây chẳng qua là số trời định thế. Nhưng ngu huynh không kịp ra tay sớm một chút để gia quyến cùng môn đồ hiền đệ đều bị tử nạn hết. Ngu huynh thấy chẵng yên tâm chút nào.

Một người khác nói:

– Chúng ta là bạn gan ruột. Hiền huynh sao còn nói thế?

Nghi Lâm nghe khẩu âm bọn này bất giác động tâm, ghé tai Lệnh Hồ Xung nói khẽ:

– Đây là Lưu Chính Phong sư thúc.

Nguyên trong Lưu phủ xảy chuyện tày đình mà hai người không hay biết gì hết. Bây giờ đột nhiên Lưu Chính Phong xuất hiện ở nơi hoang dã này, lại một người nữa nói những gì bữa nay chúng ta mất mạng ở đây… gia quyến cùng môn đồ hiền đệ đều bị tử nạn… khiến hai người kinh ngạc vô cùng!

Bỗng nghe Lưu Chính Phong nói tiếp:

– Người đời ai là không chết? Được một người tri kỷ thì chết cũng hài lòng.

Người kia nói:

– Lưu hiền đệ! Ngu huynh nghe nhạc điệu của hiền đệ dường như còn điều gì ân hận. Phải chăng vì lệnh lang là Lư Cần lúc lâm nguy đã tỏ ra tham sống sợ chết để hổ cho thanh danh hiền đệ?

Lưu Chính Phong thở dài đáp:

– Khúc đại ca đoán trúng đó! Thằng nhỏ này ngày thường tiểu đệ quá cưng chiều, kém bề giáo huấn, bất ngờ làm cho gã trở nên một kẻ hèn nhát chẳng có khí tiết chi hết.

Người kia chính là Khúc Dương, trưởng lão Ma giáo. Lão nói:

– Có khí tiết cũng vậy mà chẳng khí tiết cũng thế thôi. Trăm năm sau đều xuống suối vàng, có gì khác nhau đâu? Ngu huynh đã nằm phục trên nóc nhà từ trước, đáng lý ra tay sớm hơn thì phải nhưng lại nghĩ rằng hiền đệ chẳng khi nào vì mình để tổn thương đến hòa khí giữa Ngũ nhạc kiếm phái, nên chần chờ không muốn động thủ vội. Dè đâu Ngũ nhạc minh chủ ở phái Tung Sơn lại ra tay tàn nhẫn đến thế.

Lưu Chính Phong lặng lẽ hồi lâu rồi thở dài nói:

– Bọn đó là người phàm tục thì hiểu thấu đến chỗ cao nhã về âm luật thế nào được? Họ lấy thường tình để đo bụng dạ chúng ta, tự nhiên họ cho là sự giao kết giữa hiền huynh và tiểu đệ có điều bất lợi cho Ngũ nhạc kiếm phái cùng anh hùng nghĩa hiệp thiên hạ. Hỡi ôi! Họ đã không hiểu thì trách họ cũng bằng thừa. Khúc đại ca! Phải chăng đại ca bị thương huyệt “Đại Truy” làm cho tâm mạch bị chấn động?

Khúc Dương đáp:

– Chính thế! Đại tung dương thủ của phái Tung Sơn quả nhiên lợi hại, không ngờ tiểu huynh giơ lưng ra hứng chịu một đòn mà nội lực bị tổn thương trầm trọng đồng thời làm đứt cả tâm mạch của hiền đệ. Giả tỷ ngu huynh biết trước hiền đệ không thoát được thì chẳng liệng ra một nắm “Hắc huyắt thần trâm” để bọn người vô tội bị thiệt mạng vô ích.

Lệnh Hồ Xung nghe tới bốn chữ “Hắc huyết thần trâm” bất giác chấn động tâm thần tự hỏi:

– Người này phải chăng là một tay cao thủ trong Ma giáo? Tại sao Lưu sư thúc lại kết giao với lão?

Lưu Chính Phong cười mát nói:

– Làm thiệt mạng người vô tội cố nhiên là điều bất hạnh. Nhưng có thế thì anh em mình mới còn được hợp tấu một khúc. Từ này trở đi trên đời không còn âm điệu cầm tiêu này nữa.

Khúc Dương thở dài nói:

– Ngày trước Kê Khang lúc bị hành hình còn tấu một khúc nhạc cuối cùng rồi từ đó khúc “Quảng lăng tán” không còn tồn tại ở thế gian nữa. Ha ha khúc “Quảng lăng tán” dù tinh diệu nhưng bì với khúc “Tiếu Ngạo giang hồ” của chúng ta thế nào được? Có điều tâm tình Kê Khang lúc ấy cũng như tâm tình tiểu huynh lúc này.

Lưu Chính Phong cười nói:

– Khúc đại ca vừa rồi tâm hồn sáng suốt, bây giờ sao còn thắc mắc? Đêm nay chúng ta đã tấu khúc “Tiếu Ngạo giang hồ” đến chỗ lâm ly tận trí. Trên đời có khúc nhạc này mà chúng ta đã tấu nó đến độ chót. Tưởng người đời được đến thế thì còn điều chi phải ân hận nữa?

Khúc Dương vỗ tay nói:

– Hiền đệ nói phải lắm!

Lát sau lão buông tiếng thở dài.

Lưu Chính Phong hỏi:

– Sao đại ca lại thở dài? à phải rồi! Nhất định đại ca không quên được Phi Phị Có phải thế không?

Quả nhiên Khúc Phi Yên lên tiếng:

– Gia gia! Gia gia cùng Lưu công tử từ từ dưỡng thương cho lành rồi chúng ta kéo đến phái Tung Sơn giết hết bọn ác ôn, không để sót một mống đặng rửa hờn cho Lưu bà bà cùng quyến thuộc.

Đột nhiên sau tảng đá núi một tràng cười vọng lại.

Hồi 42

Sợ Lộ Chuyện Phí Bân Hạ Sát Thủ

Tiếng cười chưa dứt, một bóng đen từ sau tảng đá vọt ra. ánh thanh quang vừa lấp loáng, một người tay cầm trường kiếm đứng trước mặt Khúc Dương và Lưu Chính Phong.

Hắn chính là Đại tung dương thủ Phí Bân ở phái Tung Sơn.

Phí Bân cười khành khạch cất tiếng hỏi:

– Con nhãi kia khoác lác những gì muốn tuyệt diệt phái Tung Sơn? Trên đời làm gì có việc xứng tâm toại ý như vậy được.

Lưu Chính Phong đứng dậy nói:

– Phí Bân! Ngươi đã hạ sát cả nhà Lưu mỗ. Chính Lưu mỗ cũng bị bọn sư huynh, sư đệ các ngươi ba người hợp lực đánh một chưởng và tính mạng nguy trong khoảnh khắc, bây giờ ngươi còn muốn điều chi nữa?

Phí Bân cười ha hả đáp:

– Con nhãi ranh này muốn tuyệt diệt phái Tung Sơn nên tại hạ phải đến đây tuyệt diệt thị đi!

Nghi Lâm khẽ bảo Lệnh Hồ Xung:

– Phi Phi cùng gia gia y đã cứu Lệnh Hồ đại cạ Vậy chúng ta phải tìm cách cứu họ mới phải chứ.

Lệnh Hồ Xung không chờ nàng nói ra đã tính kế giải vây cho ông cháu Phi Phi để đền ơn họ đã cứu mình. Nhưng một là Phí Bân là tay cao thủ phái Tung Sơn, ngay lúc gã chưa bị trọng thương cũng không địch nổi hắn. Hai nữa Khúc Dương là người trong Ma giáo, trước nay chính tà chẳng đội trời chung và phái Hoa Sơn vẫn thù nghịch với Ma giáo thì ai lại đi giúp kẻ địch bao giờ? Vì thế gã chần chờ không nhất quyết.

Bỗng nghe Lưu Chính Phong nói:

– Họ Phí kia! Ngươi cũng đáng kể là một nhân vật tai mắt trong chính phái, bữa nay Khúc Dương cùng Lưu Chính Phong này đã lọt vào tay ngươi, muốn giết muốn mổ thế nào chúng ta cũng không oán hận nhưng ngươi hà hiếp một đứa con gái nhỏ thì còn chi là anh hùng hảo hán? Phi Phi ngươi chạy mau đi.

Khúc Phi Yên đáp:

– Tiểu nữ nguyện sống chết cùng gia gia và Lưu công công một chỗ, quyết chẳng chịu sống lấy một mình.

Lưu Chính Phong lại giục:

– Ngươi chạy mau đi! Chạy mau đi! Công việc của bọn người lớn chúng ta không liên can gì đến ngươi cả.

Khúc Phi Yên nói:

– Tiểu nữ không đi! Nhất định không đi!

Cô vừa nói vừa rút hai thanh đoản kiếm ở sau lưng ra rồi xoay người lại đứng chắn trước mặt Lưu Chính Phong.

Phí Bân thấy Khúc Phi Yên rút kiếm ra thì rất vừa lòng, hắn cười nói:

– Con nhãi này muốn tuyệt diệt phái Tung Sơn ta, thế thì ta không tuyệt diệt thị còn để làm chỉ Chẳng lẽ Phí mỗ bó tay để thị phanh thây hay là cắm đầu chạy trốn?

Lưu Chính Phong vội kéo tay Khúc Phi Yên nói:

– Chạy lẹ đi! Chạy lẹ đi!

Nhưng lão bị luồng nội lực Đại tung dương thủ làm chấn động đứt hết tâm mạch. Hơn nữa lão vừa đem hết tâm lực thổi khúc “Tiếu Ngạo giang hồ” nên tuy lão nắm tay Khúc Phi Yên mà chẳng có chút lực lượng nào cả. Khúc Phi Yên khẽ cựa một cái đã thoát khỏi tay Lưu Chính Phong.

Giữa lúc ấy ánh thanh quang lấp loáng. Phí Bân đã phóng trường kiếm đến trước mặt cô.

Khúc Phi Yên giơ thanh đoản kiếm ở tay trái lên gạt rồi tay phải cũng phóng kiếm ra liền.

Phí Bân cười gằn một tiếng, khoa thanh kiếm một vòng rồi đập đánh chát một tiếng trúng vào thanh đoản kiếm bên tay phải Khúc Phi Yên.

Khúc Phi Yên cảm thấy cánh tay mặt tê nhức. Hổ khẩu bị toạc cực kỳ đau đớn. Thanh đoản kiếm bên tay trái cô cũng rớt theo liền.

Phí Bân gạt chéo thanh trường kiếm một cái bật lên tiếng choang.. Thanh đoản kiếm rời khỏi tay trái Khúc Phi Yên bị hất văng ra xa ngoài mấy trượng.

Phí Bân đã chí mũi kiếm vào cổ họng cô bé rồi quay lại nhìn Khúc Dương cười nói:

– Khúc trưởng lão! Tại hạ đâm mù mắt bên tả lệnh tôn nữ trước rồi sẽ cắt mũi thị. Sau nữa khoét mắt bên phải thi…

Khúc Phi Yên kêu to một tiếng rồi nhảy xổ về phía trước cho cổ họng đâm vào thanh trường kiếm của Phí Bân.

Thủ pháp Phí Bân cực kỳ mau lẹ. Hắn rút thanh trường kiắm về. Người Khúc Phi Yên xô đến trước mặt hắn. Hắn đưa ngón tay trỏ điểm trúng vào vai bên phải cộ Người cô xoay đi ngã lăn xuống liền.

Phí Bân cười ha hả nói:

– Quân tà ma ngoại đạo này tàn ác đã nhiều. Mi muốn chết cũng không phải dễ đâu. Ta hãy đâm mù mắt bên trái mi trước rồi hãy tính.

Hắn đưa trường kiắm lên toan đâm vào mắt bên trái Khúc Phi Yên.

Bất thình lình phía sau có tiếng quát:

?????????????????

Gã nói xong hai tay ôm bụng, tựa lưng vào một gốc cây.

Phí Bân sát khí đằng đằng, bật tiếng cười hung ác nói:

– Mi tưởng dùng ngọn lưỡi để kìm hãm ta, hòng ta tha chết cho ba tên yêu nhân này chăng? ô hô! nếu thế thì mi ngu quá! Phí mỗ muốn giết ba người hay bốn người là giết liền.

Hắn nói rồi tiến lên một bước. Tuy hắn thấy người Lệnh Hồ Xung lảo đảo đứng không vững nhưng từng nghe nói đại đệ tử phái Hoa Sơn là một truyền nhân rất đắc ý của Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần. Võ công gã cao thâm chẳng kém gì những tay hảo thủ vào hàng tiền bối phái khác. Sự việc trước mắt có liên quan đến thanh danh của phái Tung Sơn nhà hắn, nếu hắn để gã trốn thoát thì giá trị hắn không đáng đồng xụ Đồng thời giữa hai phái Hoa Sơn và Tung Sơn sẽ vì vụ này mà xảy chuyện phong bạ Chỉ có cách giết gã cho lẹ để bịt miệng mới khỏi mối lo về sau.

Lệnh Hồ Xung thấy Phí Bân ra chiều hung dữ thì không khỏi kinh hãi. Gã ngấm ngầm tính kế giải vây, nhưng ngoài mặt không lộ vẻ chi hết. Gã hất hàm hỏi:

– Phí sư thúc! Phải chăng sư thúc định giết luôn cả tiểu điệt để bịt miệng?

Phí Bân đáp:

– Mi quả là thông minh. Đúng thế đó!

Hắn dứt lời tiến lại gần thêm bước nữa.

Đột nhiên sau tảng đá núi lại xuất hiện một nữ ni nhỏ tuổi. Nàng nói:

– Phí sư thúc! Bể khổ mênh mông nhưng quay đầu lại là thấy bờ. Hiện giờ sư thúc đang định làm việc bại hoại, nhưng việc chưa thực hành mà biết gò cương ngựa thi cũng chưa muộn.

Nữ ni này chính là Nghi Lâm.

Nguyên Lệnh Hồ Xung đã căn dặn nàng nấp yên ở phía sau tảng đá núi chớ để ai nhìn thấy. Nhưng nàng nghe Lệnh Hồ Xung lâm vào tình trạng nguy cấp, không kịp suy nghĩ gì nữa đánh bạo tiến ra muốn đem lời nói phải để khuyên Phí Bân dừng tay.

Phí Bân giật mình kinh hãi hỏi:

– Phải chăng mi là đồ đệ phái Hằng Sơn? Sao lại lén lút nấp nánh ở đây làm chi?

Nghi Lâm đỏ mặt lên, miệng ấp úng:

– Tiểu điệt nữ… tiểu điệt nữ…

Khúc Phi Yên từ lúc bị điểm huyệt nằm lăn dưới đất không nhúc nhích được liền lớn tiếng gọi:

– Nghi Lâm tỷ tỷ! Tiểu muội đã đoán trước là tỷ tỷ chữa cho Lệnh Hồ đại ca của tỷ tỷ. Quả nhiên tỷ tỷ đã chữa được thương thế cho ỵ Đáng tiếc là… bọn tiểu muội đều sắp chết đến nơi.

Nghi Lâm lắc đầu đáp:

– Không phải đâu! Phí sư thúc là bậc đại anh hùng, đại hào kiệt, tiếng tăm lừng lẫy võ lâm, khi nào lại gia hại những người bị trọng thương cùng một vị tiểu cô nương như muội muội.

Khúc Phi Yên cười lạt hỏi:

– Lão có thật là đại anh hùng đại hào kiệt không?

Nghi Lâm đáp:

– Tung Sơn là Minh chủ của Ngũ nhạc kiếm phái là lãnh tụ những tay nghĩa hiệp trên chốn giang hồ. Bất luận làm việc gì, dĩ nhiên cũng lấy nghĩa hiệp làm đầu.

Nàng nói đây với cả một tấm lòng thành thực. Nàng đã không hiểu thế sự thì làm gì có cơ tâm? Nàng thường nhìn mọi người theo khía cạnh tốt đẹp. Nhưng Phí Bân nghe nàng nói thế lại cho là lời mỉa mai, bụng bảo dạ:

– Trời không chịu đất thì đất chẳng chịu trời. Nếu bữa nay để một tên sống sót thì từ đây Phí mỗ mắc tiếng ô danh. Mình giết bọn tiểu nhân trong Ma giáo nhưng trong lúc chúng bị trọng thương thì không phải là hành vi của anh hùng hào kiệt và vẫn bị người ta chê cười.

Hắn vung trường kiếm lên trỏ vào Nghi Lâm nói:

– Mi không bị trọng thương mà cũng không phải là một cô bé chẳng hiểu võ công. Vậy ta giết mi được chứ?

Nghi Lâm giật minh kinh hãi hỏi lại:

– Tiểu điệt nữ ử… Tại sao sư thúc lại giết tiểu điệt nữ?

Phí Bân đáp:

– Mi cấu kết với bọn yêu nhân Ma giáo, kêu nhau bằng tỷ muội, thế là cùng một phe với yêu nhân, dĩ nhiên không thể dung tha được.

Hắn nói xong tiến lại một bước vung kiếm toan đâm Nghi Lâm.

Lệnh Hồ Xung đưa song chưởng ra chắn trước mặt Nghi Lâm, la lên:

– Sư muội chạy lẹ đi! Kêu lệnh sư đắn cứu mạng.

Gã biết nơi đây hoang vắng, bao giờ tìm cho thấy Định Dật sư thái. Nhưng gã bảo nàng đi kêu cứu binh chẳng qua là để nàng rời xa chốn này cho khỏi uổng mạng.

Phí Bân vung trường kiếm nhằm đâm vào vai bên phải Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung nghiêng mình né tránh.

Phí Bân phóng ba kiếm liên hoàn veo véo trông rất nguy hiểm.

Nghi Lâm thấy vậy rút thanh kiếm gãy ở sau lưng ra nhằm đánh lại Phí Bân. Nàng la lên:

– Lệnh Hồ đại ca! Đại ca đã bị trọng thương, phải lùi lại cho mau!

Phí Bân cười khanh khách nói:

– Tiểu ni cô đã động lòng trần rồi đây. Trông thấy chàng trai trẻ đẹp, ni cô cũng liều mình.

Dứt lời hắn vung kiếm chém xuống đánh choang một tiếng. Hai thanh kiếm chạm nhau. Thanh kiếm gãy trong tay Nghi Lâm lập tức rớt xuống.

Phí Bân hươi kiếm nhằm đâm vào trước ngực nàng. Chiêu kiếm này vừa mau lẹ vừa chuẩn xác. Nó là một trong những tuyệt chiêu của Tung Sơn kiếm pháp.

Ta nên biết Phí Bân nhận thấy phải giết hết cả năm người, tuy ngoại trừ Nghi Lâm những người kia chẳng một ai có sức lực chống chọi, nhưng hắn sợ đêm dài sinh lắm chuyện, chỉ để một tên lọt lưới phát sinh hậu hoạn, nên đã hạ thủ ngay bằng tuyệt chiêu.

Nghi Lâm la lên một tiếng úi chao.

Nàng muốn lùi lại nhưng lưỡi kiếm đã tới trước ngực.

Lệnh Hồ Xung băng mình xô tới. Hai ngón tay gã nhằm đâm vào mắt Phí Bân.

Nếu Phí Bân tiắp tục phóng kiếm về phía trước thì lập tức giết chết được Nghi Lâm nhưng chính hắn bị hỏng hai mắt. Hắn đành vận kình lực vào chân nhảy lùi lại. Lúc hắn rút trường kiếm về liền thừa thế lia vào cánh tay bên trái Lệnh Hồ Xung vạch một đường dài.

Lệnh Hồ Xung liều mình xông vào cứu nguy cho Nghi Lâm nhưng gã thở lên hồng hộc, người lảo đảo muốn té.

Nghi Lâm vội đỡ lấy gã, nghẹn ngào nói:

– Để y giết chết cả chúng ta đi.

Lệnh Hồ Xung vừa thở vừa giục:

– Sư muội!… Chạy lẹ đi…

Khúc Phi Yên cười nói:

– Chàng ngốc kia! Đến bây giờ mà vẫn chưa hiểu người ta ư? Nghi Lâm tỷ tỷ muốn chết với ngươi đó.

Cô vừa nói xong thì Phí Bân nở một nụ cười đanh ác. Hắn chống trường kiếm từ từ tiến lên một bước. Tiếp theo hắn chí chân trái xuống tiến thêm bước nữa.

Lệnh Hồ Xung tự hỏi:

– Tại sao Nghi Lâm sư muội lại muốn chết theo tả Tuy ta cứu y nhưng y đã cứu ta một lần. Thế là y đã đền đáp rồi không còn khiếm khuyết gì nữa. Ta với y lại không phải là bạn tri giao mà chỉ có tình sư huynh sư muội giữa Ngũ nhạc kiếm phái. Trên chốn giang hồ tuy trọng đạo nghĩa nhưng bất tất phải chết vì nhau. Không ngờ những đệ tử dưới trướng phái Hằng Sơn lại giữ nghĩa khí võ lâm đến thế! Định Dật sư thái là một nhân vật ít người bì kịp.

Gã thấy Phí Bân tiến lên một bước. Mũi trường kiếm của hắn lấp loáng ánh thanh quang lóe mắt.

Giữa lúc ấy đột nhiên sau gốc cây tùng bật lên mấy tiếng hồ cầm. Điệu đàn nghe rất thê lương ảo não, tựa hồ như tiếng than thở, tiếng khóc lóc tỷ tê.

Tiếp theo tiếng đàn run run lúc đứt, lúc nối như hạt mưa nhỏ giọt xuống lá cây.

Phí Bân chấn động tâm thần, lẩm bẩm:

– Tiêu Tương Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh đã đến rồi.

Hồi 43

Sắp Chết Vẫn Còn Mê Nhạc Điệu

Tiếng hồ cầm mỗi lúc một thêm ảo não thê lương.

Mạc Đại tiên sinh vẫn còn đứng sau gốc cây chưa chịu xuất hiện.

Phí Bân lớn tiếng hỏi:

– Có phải Mạc Đại tiên sinh đó chăng? Sao lại không ra đây tương kiến?

Tiếng hồ cầm đột nhiên đình chỉ. Một bóng người gầy khẳng gầy kheo từ sau gốc cây đi ra.

Lệnh Hồ Xung đã nghe tiếng Tiêu Tương Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh từ lâu, nhưng chưa từng thấy mặt. Bây giờ dưới ánh trăng gã thấy người lão gầy như que củi, hai vai nhô lên trông chẳng khác người mắc bệnh lao hay bị ma làm, chẳng cứ lúc nào cũng có thể lăn đùng ra chết bất thình lình. Gã không ngờ chưởng môn phái Hành Sơn lại hình dung cổ quái như vậy.

Mạc Đại tiên sinh tay trái cầm cây hồ cầm nhìn Phí Bân chắp tay nói:

– Phí sư huynh! Tả minh chủ vẫn mạnh giỏi đấy a?

Phí Bân thấy lão không có ác ý, lại biết lão trước nay vẫn bất hòa với Lưu Chính Phong liền đáp :

– Đa tạ Mạc Đại tiên sinh. Tệ sư ca vẫn mạnh giỏi. Mạc Đại tiên sinh ơi! Lưu Chính Phong ở quý phái giao kết với yêu nhân bên Ma giáo, bây giờ nên xử trí thế nào?

Mạc Đại tiên sinh tiến gần về phía Lưu Chính Phong vẻ mặt lầm lì đáp:

– Phải giết đi!

Tiên sinh chưa dứt lời, ánh hàn quang lấp loáng. Tay tiên sinh cầm một thanh trường kiếm vừa mảnh vừa nhỏ. Kiếm quang vừa lóe lên đã đâm thẳng vào ngực Phí Bân.

Chiêu kiếm này Mạc Đại tiên sinh phóng ra cực kỳ mau lẹ. Phí Bân hốt hoảng lùi lại.

Roạc một tiếng! Trước ngực Phí Bân bị vạch một đường dài. Vạt áo bị lưỡi kiếm bén xẻo rách vào đến da thịt. Hắn bị thương rồi.

Phí Bân vừa kinh hãi vừa tức giận phóng kiếm đâm trả. Nhưng Mạc Đại tiên sinh phóng chiêu đầu chiếm được tiên cơ rồi tiếp tục khoa kiếm đánh rất rát. Thanh kiếm của tiên sinh mỏng như giấy phóng ra ngoằn nghào coi chẳng khác con linh xà rung động không ngớt luồn vào giữa làn kiếm quang của Phí Bân.

Phí Bân muốn cất tiếng quát mắng, song chiêu kiếm của Mạc Đại tiên sinh thi triển mau lẹ quá chừng, bức bách hắn phải lùi hoài.

Bọn Khúc Dương, Lưu Chính Phong, Lệnh Hồ Xung đều là những tay kiếm thuật cừ khôi mà thấy chiêu kiếm của Mạc Đại tiên sinh biến ảo như quỷ mỵ cũng không khỏi kinh tâm động phách.

Lưu Chính Phong cùng Mạc Đại tiên sinh là bạn đồng môn học nghệ mấy chục năm trời, nhưng lão không ngờ Mạc Đại sư huynh lại tinh thâm kiếm thuật đến thế.

Từng giọt máu tươi nhỏ xuống giữa hai thanh trường kiắm. Phí Bân chạy nhảy né tránh, cố sức chống đỡ, mà không sao thoát được luồng kiếm quang của Mạc Đại tiên sinh chụp xuống người hắn.

Chung quanh hai người, máu tươi chảy thành một vòng tròn đỏ lòm.

Đột nhiên Phí Bân thét lên một tiếng thật to rồi nhảy vọt lên cao, Mạc Đại tiên sinh rụt kiếm lùi lại xỏ trường kiếm vào trong hồ cầm rồi trở gót đi luôn.

Sau gốc cây tùng, khúc đờn Tiêu Tương Dạ Vũ lại văng vẳng dạo lên mỗi lúc một xa.

Nguyên trong lúc kịch chiến vừa rồi, Phí Bân vọt người lên cao rồi té xuống. Máu trong ngực hắn phun ra như suối. Hắn bị Mạc Đại tiên sinh đâm trúng ngực rồi mà nội lực chưa tiêu tan hết liẳn vận cho máu tươi phun vào lưỡi kiếm coi vừa kỳ bí lại vừa rùng rợn.

Nghi Lâm đang đứng nâng đỡ cho Lệnh Hồ Xung, nàng sợ quá trống ngực đánh thình thình. Tuy nàng đã học võ nhiều năm, nhưng chưa từng thấy thảm trạng giết người thế này bao giờ.

Phí Bân nằm trên vũng máu không nhúc nhích, dĩ nhiên hắn chết rồi.

Khúc Dương thở dài nói:

– Lưu hiền đệ! Hiền đệ vẫn nói là bất hòa với lệnh sư huynh, không ngờ giữa lúc hiền đệ lâm nguy, y lại ra tay giải cứu.

Lưu Chính Phong nói:

– Hành vi của Mạc Đại sư ca thật là cổ quái, khiến cho người ta khó mà hiểu được. Giữa tiểu đệ và y có mối bất hòa, quyết không phải là vì chuyện bần phú thường tình mà vì tính nết chẳng hợp nhau chỗ nào.

Khúc Dương lắc đầu nói:

– Kiếm pháp y tinh thông đến thế, song tiếng hồ cầm cực kỳ đau khổ khiến người nghe phải rớt nước mắt. Vậy là y chưa thoát tục, vẫn bị trói buộc trong vòng luẩn quẩn.

Lưu Chính Phong nói:

– Chính thế! Mạc Đại sư ca tấu hồ cầm chỉ có đi mà không trở lại. Khúc điệu vô cùng não ruột chạy thẳng một chiều trên đường sầu thảm. Những thi từ hay vui vẻ mà không dâm dật, bi ai mà không thảm đạm thì khúc nhạc cũng vậy. Hễ tiểu đệ nghe y dạo hồ cầm là lập tức muốn tránh xa.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Hai lão này say mê âm nhạc đến thế là cùng. Sắp chết tới nơi mà còn nghiên cứu tiếng đàn, nói những gì bi ai mà không thê thảm, cũng là phong nhã, tục khí chi chi lắm chuyện.

Bỗng nghe Lưu Chính Phong lại nói:

– Nhưng về kiắm pháp, võ công thì tiểu đệ còn thua xa y lắm. Bình nhật tiểu đệ vẫn thường thất kính với y, bây giờ nghĩ lại thật là xấu hổ.

Khúc Dương gật đầu nói:

– Chưởng môn phái Hành Sơn quả nhiên là nhân vật danh bất hư truyền.

Khúc Phi Yên bỗng lớn tiếng la:

– Gia gia! Gia gia giải huyệt đạo cho tôn nhi mau, rồi chúng ta nên đi thôi.

Khúc Dương chống tay xuống định đứng dậy, nhưng lão vừa nhỏm người lên một chút lại phải ngồi phệt ngay xuống. Lão lắc đầu nói:

– Ta không làm gì được nữa rồi.

Lão quay sang bảo Lệnh Hồ Xung:

– Tiểu huynh đệ! Ta có điều yêu cầu, chẳng hiểu tiểu huynh đệ có ưng không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiền bối sai bảo điều gì… vãn bối xin tuân theo.

Khúc Dương đưa mắt nhìn Lưu Chính Phong nói:

– Ta cùng Lưu hiền đệ say mê âm luật, mất công mấy năm trời mới sáng chế ra được khúc “Tiếu Ngạo giang hồ” mà ta tin là một khúc nhạc kỳ diệu cổ kim chưa từng có. Từ đây về sau hàng ngàn năm nữa, dù trên đời này lại nẩy Khúc Dương khác nhưng khó lòng có Lưu Chính Phong. Hay là có những nhân vật như Lưu Chính Phong song không thể đồng thời có cả hai được. Hai người đã tinh thông âm luật lại nội công thâm hậu, thanh khí tương đồng để cùng sáng chế ra một khúc nhạc thì thật là một điều thiên niên vạn nạn. Khúc nhạc kỳ tuyệt này khiến cho ta cùng Lưu hiền đệ Ở dưới suối vàng không khỏi ngậm ngùi.

Lão nói tới đây, lấy trong bọc ra một cuốn sách mỏng rồi nói tiếp:

– Đây là cầm phổ khúc: “Tiếu Ngạo giang hồ”, Lưu hiền đệ còn có bản tiêu phổ về khúc này. Ta xin tiểu huynh đệ nghĩ tình hai ta tốn bao nhiêu tâm huyết mà đem cầm phổ cùng tiêu phổ đi khắp thế gian ráng tìm cho được truyền nhân.

Lưu Chính Phong cũng lấy trong bọc ra một cuốn sách, cười nói:

– Nếu khúc “Tiắu Ngạo giang hồ” này mà còn lưu truyền được ở đời thì ta cùng Khúc đại ca có chết cũng nhắm mắt.

????????????????????

Ngoài ra là những yếu quyết về chưởng pháp, chỉ pháp. Chừng hai chục trang nói về cách đánh đàn. Còn gần một nửa cuốn thì toàn là những chữ kỳ lạ cổ quái, gã chẳng hiểu được chữ nào.

Lệnh Hồ Xung vốn đã ít hiểu biết về văn tự mà cầm phổ “Thất huyền cầm” lại toàn là những chữ quái dị, văn lý rất uyên thâm huyền diệu, gã chưa từng đọc bao giờ. Gã đành đút ngay sách vào bọc, quay lại bảo Nghi Lâm :

– Tiểu sư muội! Sư muội hãy nghỉ một chút rồi hãy vùi lấp thi thể của Khúc trưởng lão và Lưu sư thúc.

Nghi Lâm đáp lại bằng một tiếng dạ.

Khúc Phi Yên nghe nói đến chuyện vùi lấp di thể gia gia lại khóc oà lên.

Nghi Lâm nghe cô khóc rất thảm thiết cũng không khỏi sa lệ.

Lệnh Hồ Xung ngẩng đầu lên buông một tiắng thở dài bụng bảo dạ:

– Lưu sư thúc vì việc kết giao bằng hữu mà cả nhà phải uổng mạng. Tuy y kết giao với một vị trưởng lão trong Ma giáo, nhưng hai người cùng nghĩa khí ngất trời, thiệt không hổ là những trang hảo hán lẫm liệt khiến cho ai cũng phải khâm phục.

Gã nghĩ tới đây, bất thình lình thấy góc Tây Bắc có ánh thanh quang lấp loáng. Gã vừa nhìn qua đã nhận ra ngay là một tay cao thủ bản môn đang cùng người đấu kiếm thì trong lòng không khỏi run sợ, gã dặn Nghi Lâm:

– Tiểu sư muội! Sư muội hãy ở đây bầu bạn với Phi Phi, tiểu huynh đi một lúc rồi quay về ngay.

Nghi Lâm không nhìn thấy ánh thanh quang tưởng gã bỏ đi một lúc cho thoải mái, liền gật đầu ngay.

Lệnh Hồ Xung cầm cành cây chống đi chừng mười bước. Gã lượm thanh trường kiếm của Phí Bân cài vào sau lưng tiếp tục rảo bước đi về phía có ánh kiếm xanh là. Gã đi một lúc đã nghe văng vẳng tiếng khí giới chạm nhau chát chúa như pháo liên châu, cuộc đấu xem chừng rất cấp bách.

Gã tự hỏi:

– Vị tôn chưởng nào ở bản môn đang cùng người động thủ?

Cuộc đấu lâu thế này thì hiạn nhiên đối phương cũng là một cao thủ.

Gã lún thấp người xuống từ từ tiến lại. Gã nghe tiếng khí giới chạm nhau không còn xa mấy, liền nấp vào sau một gốc cây thò nửa mặt nhìn ra ngoài.

Dưới ánh trăng, gã thấy một vị nho sinh tay cầm trường kiếm đứng nguyên một chỗ.

Vị này chính là Nhạc Bất Quần, sư phụ gã, còn người nữa là đạo nhân thấp bé đang xoay quanh người lão một cách mau lẹ phi thường.

Đạo nhân tay cầm trường kiếm cứ xoay quanh một vòng lại phóng ra mười mấy nhát kiếm.

Đạo nhân chính là Dư Thượng Hải, chưởng môn phái Thanh Thành.

Lệnh Hồ Xung thấy sư phụ mình cùng người động thủ một cách bất ngờ mà đối thủ lại là chưởng môn phái Thanh Thành bất giác trong lòng hứng khởi vô cùng. Gã thấy sư phụ mình phong độ nhàn nhã, mỗi khi Dư Thượng Hải phóng kiếm đâm tới lão đưa tay ra gạt.

Dư Thượng Hải xoay đến sau lưng, lão vẫn không thèm quay lại mà chỉ vung kiếm cùng vận chân khí hộ vệ hậu tâm.

Dư Thượng Hải tiếp tục tấn công không ngừng. Hắn vung thanh trường kiếm mỗi lúc một mau lẹ hơn.

Nhạc Bất Quần thủy chung vẫn giữ thế thủ chứ không phản công.

Lệnh Hồ Xung lại càng khâm phục nghĩ thầm:

– Các bạn võ lâm kêu sư phụ mình là Quân tử kiếm, quả nhiên phong độ người vẫn ung dung nho nhã. Cả lúc cùng người động thủ ra chiêu, cũng không tỏ vẻ gì cục súc nóng nẩy.

Gã coi một lúc nữa rồi bụng bảo dạ:

– Sở dĩ sư phụ mình giữ được bình thản không động hỏa khí là vì kiếm thuật người cao thâm hơn đối phương. Như vậy chẳng những do phong độ cao cả mà còn do bản lãnh phi thường.

Nhạc Bất Quần rất ít khi cùng người động thủ. Lệnh Hồ Xung chỉ thấy lão ra tay khi tỷ thí với sư mẫu hoặc lúc truyền dạy đệ tử mà thôi. Nhưng những trường hợp này chỉ là giả đấu chứ không phải đánh nhau thực sự như bữa nay, khiến người coi phải kinh tâm động phách.

Gã thấy Dư Thượng Hải lúc ra chiêu, kiắm phong đều rít lên veo véo, đủ biết kiếm lực của lão không phải tầm thường. Gã không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, miệng lẩm bẩm:

– Mình vẫn coi thường võ công phái Thanh Thành, ngờ đâu lão đạo sĩ thấp lùn này lại lợi hại đến thế. Dù mình không bị thương cũng chẳng thể nào đối thủ với lão được. Lần sau mình có chạm trán lão phải rất cẩn thận, hay xa lánh lão là hơn hết.

Lệnh Hồ Xung theo dõi cuộc tỷ đấu đến lúc nữa. Dư Thượng Hải càng đánh càng mau. Luồng thanh quang biến ảo thành một vòng bóng xanh xây lấy Nhạc Bất Quần mà chuyển động.

Hai thanh kiếm chạm nhau quá lẹ đến nỗi tiếng trước dính liến với tiếng sau thành một tiếng dài bất tuyệt, chứ không còn choang choảng như trước nữa.

Gã bụng bảo dạ:

– Giả tỷ mấy chục nhát kiếm kia đều phóng tới đánh mình là e rằng một chiêu mình cũng không đỡ nổi mà toàn thân sẽ bị đâm đến mấy chục vắt thương.

Lệnh Hồ Xung thấy sư phụ vẫn không chuyển thế công thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ:

– Lão đạo sĩ lùn này ra chiêu thần tốc thế kia, thật là bình sinh mình chưa từng thấy bao giờ. Sư phụ mình chỉ sơ tâm một chút là bị hại dưới lưỡi kiếm của lão ngay tức khắc.

Bỗng nghe một tiếng choang rùng rợn vang lên. Dư Thượng Hải bay vọt về phía sau hơn trượng nhanh như tên bắn. Hắn đứng lại không hiểu hắn đã tra kiếm vào vỏ từ lúc nào mà không nghe thấy tiếng động.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi nhìn lại sư phụ cũng thấy lão tra kiếm vào vỏ rồi và lão vẫn đứng yên không nói nửa lời, không một tiếng động. Nhỡn lực của Lệnh Hồ Xung tuy sắc bén là thế mà cũng không nhận ra được ai thắng ai bại. Có bị thương hay không?

Nhạc Bất Quần và Dư Thượng Hải đứng lặng một lúc rồi Dư Thượng Hải lên tiếng:

– Thôi hãy biết vậy. Sau này còn có ngày tái ngộ.

Đoạn hắn chuyển động thân hình tạt qua mé hữu dông tuốt.

Nhạc Bất Quần lớn tiếng quát hỏi:

– Lão họ Dư kia! Lão tưởng cứ thế rồi bỏ đi là xong chuyện chăng? Vợ chồng Lâm Chấn Nam hiện trạng ra sao?

Lão vừa nói vừa băng mình rượt theo. Dư âm chưa dứt cả hai người đã mất hút.

Lệnh Hồ Xung nghe giọng nói cũng biết sư phụ mình đã thắng được Dư Thượng Hải thì trong bụng mừng thầm.

Hắn trong người còn bị trọng thương mà đứng lâu như vậy nên đã cảm thấy mỏi mệt, miệng lẩm bẩm:

– Hai vị cao nhân tuyệt thế này mà thi triển khinh công rượt nhau thì chỉ trong chớp mắt là đã chạy xa hàng mấy chục dặm.

Hắn liền lượm một cành cây làm gậy chống đi về phía trước. Bỗng hắn nhìn qua kẽ lá thấy thấp thoáng có một đoạn tường mầu đỏ, xem chừng là một tòa miếu vũ tàn phế. Hắn đang định kiếm nơi ngồi nghỉ, liền tiến dần về phía bức tường đỏ. Lệnh Hồ Xung đi còn cách bức tường mấy trượng, bỗng nghe trong tòa phá miếu có tiếng người vọng ra.

Hồi 44

Lâm Chấn Nam Ủy Thác Di Ngôn

Lệnh Hồ Xung lập tức dừng bước lạng người né tránh sang một bên, bỗng nghe trong miếu có thanh âm khàn khàn của một lão già cất lên:

– Ngươi cứ cho ta biết chỗ cất “Tịch tà kiếm phổ” kia là ta lập tức giết sạch phái Thanh Thành để báo thù cho vợ chồng ngươi.

Lúc Lệnh Hồ Xung nằm trên giường trong viện Quần Ngọc nghe người này nói câu đó liền biết ngay lão là Tái Bắc Minh Đà Mộc Cao Phong thì trong lòng không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ:

– Vụ này không ổn rồi, Mộc Cao Phong đi trước một bước, bây giờ vợ chồng họ Lâm lọt vào tay lão thật là rầy rà to.

Bỗng nghe tiếng một người đàn ông đáp:

– Tại hạ không biết “Tịch tà kiếm phổ” là gì. Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm chỉ khẩu truyền từ đời nọ đến đời kiachứ không có kiếm phổ.

Người nói câu này dĩ nhiên là Lâm Chấn Nam, tổng tiêu đầu trong Phước Oai tiêu cục.

Lâm Chấn Nam ngừng lại một chút rồi nói tiếp:

– Nếu tiền bối nguyện báo thù cho thì tại hạ cảm kích muôn vàn. Có điều Dư Thượng Hải phái Thanh Thành làm nhiều điều bất nghĩa sau này tất hắn cũng phải chịu quả báo. Dù hắn không bị tiền bối chu lục thì cũng có ngày phải chết dưới đao kiếm của một vị anh hùng hảo hán nào khá-

Mộc Cao Phong dằn giọng:

– Ngươi nói thế tức là không chịu bảo ta rồi. Cái danh hiệu Tái Bắc minh đà của ta chắc ngươi đã biết rõ.

Lâm Chấn Nam nói:

– Oai danh Mộc tiền bối lừng lẫy trên chốn giang hồ còn ai không biết?

Mộc Cao Phong nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm!

Lão nói luôn ba tiếng “hay lắm” rồi cười ha hả tiếp:

– Oai danh lừng lẫy giang hồ thì chưa chắc, nhưng họ Mộc này đã ra tay là tàn nhẫn, chưa có chút thiện tâm bao giờ, tưởng ngươi cũng đã nghe qua.

Lâm Chấn Nam đáp:

– Mộc tiền bối dùng cường lực để đối phó với Lâm mỗ, Lâm mỗ cũng đã liệu trước điều đó rồi. Đúng là nhà họ Lâm không có “Tịch tà kiếm phổ”, dù có đi chăng nữa thì bất luận là ai hoặc dùng thế lực uy hiếp, hoặc đem danh lợi nhử mồi, tại hạ cũng quyết chẳng nói ra. Lâm mỗ bị phái Thanh Thành bắt được chẳng ngày nào không bị thảm hình, nhưng võ công Lâm mỗ tuy hèn kém mà mấy rẻ xương vẫn cứng rắn.

Mộc Cao Phong gật đầu nói:

– Phải rồi! Phải rồi! Phải rồi!

Lệnh Hồ Xung ở bên ngoài nghe lão nói vậy thì tự hỏi:

– Sao lại phải rồi, phải rồi? à té ra là thế.

Gã là người tâm cơ linh biến, vừa xoay chuyển nghĩ đã hiểu ngay ba câu phải rồi của Mộc Cao Phong có dụng ý thế nào.

Quả nhiên Mộc Cao Phong nói tiếp:

– Phải rồi! Ngươi tự khoe mình có xương cứng rắn chịu nổi thảm hình. Ngươi có cho ta hay nhà họ Lâm quả có “Tịch tà kiếm phổ” và con quỷ mũi trâu thấp lùn phái Thanh Thành bức bách ngươi bất luận bằng cách nào, ngươi vẫn kiên tâm không chịu thổ lộ. Nếu họ Lâm nhà ngươi không có “Tịch tà kiếm phổ” thì ngươi đã chẳng nói thế. Ta chẳng cần bàn tới xương ngươi có cứng rắn hay không cứng rắn chỉ biết rằng ngươi có “Tịch tà kiếm phổ” thật, nhưng bất cứ bằng cách nào cũng không chịu đưa cho

Mộc Cao Phong trầm ngâm một lúc rồi thở dài nói tiếp:

– Ta thấy ngươi thật là ngu xuẩn. Lâm tổng tiêu đầu ơi! Tại sao ngươi kiên quyết không chịu đưa kiếm phổ rả Ta xem chừng kiếm phổ đó đối với ngươi chẳng được ích gì. Chắc là kiếm pháp ghi trong kiếm phổ cũng rất tầm thường. Nếu không thế thì sao ngươi không chống nổi cả mấy tên đệ tử phái Thanh Thành. Vậy cái võ công gia truyền đó chẳng nhắc đến làm chi nữa.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đúng thế! Mộc tiền bối dạy phải lắm. Đừng nói là tại hạ không có “Tịch tà kiếm phổ” dù có đi nữa cũng tầm thường thôi. Tấn công không đủ để giết kẻ gian tà, thế thủ không đủ để phòng thân. Cái thứ kiếm pháp mèo quào đó chẳng đáng lọt vào mắt Mộc tiền bối.

Mộc Cao Phong cười nói:

– Chẳng qua là vì ta động tính hiếu kỳ muốn biết mà thôi. Ta thấy con quỷ mũi trâu thấp lùn hưng sư động chúng cố tình bức bách ngươi lấy kiếm phổ thì ta nghĩ rằng trong đó có điều chi kỳ dị. Không chừng kiếm phổ đó có chép kiếm pháp tinh vi cũng nên, mà ngươi lại tư chất ngu muội không tài nào lĩnh hội được. Như vậy há chẳng làm mai một thanh danh của tổ tiên nhà họ Lâm ngươi ư? Vậy ngươi lấy cho lão gia coi một chút để vạch những chỗ hay về “Tịch tà kiếm phổ” của nhà họ Lâm khiến cho anh hùng thiên hạ đều biết rõ. Như vậy có phải làm cho thanh danh nhà họ Lâm được thêm phần rạng rỡ không?

Lâm Chấn Nam nhăn nhó cười đáp:

– Hảo của Mộc tiền bối, tại hạ xin lãnh tâm. Bây giờ Mộc tiền bối cứ việc lục soát trong mình tại hạ xem có cuốn “Tịch tà kiếm phổ” đó không.

Mộc Cao Phong lắc đầu nói:

– Cái đó vô dụng. Ngươi bị phái Thanh Thành bắt đã lâu ngày thì e rằng họ lục soát trong mình ngươi nếu không 10 lần thì cũng tám rồi. Lâm tổng tiêu đầu! Ta biết ngươi ngu xuẩn lắm! Ngươi có hiểu không?

Lâm Chấn Nam đáp:

– Tại hạ ngu xuẩn thật, chẳng cần tiền bối chỉ bảo cũng đã tự biết mình.

Mộc Cao Phong lắc đầu quầy quậy đáp:

– Không đúng! Ngươi có biết cóc đâu.

Mộc Cao Phong quay lại hỏi Lâm Chấn Nam phu nhân:

– Hoặc giả phu nhân có biết chăng? Tấm lòng yêu con của người từ mẫu thường sâu nặng hơn nghiêm phụ.

Lâm phu nhân thủt lên hỏi lại:

– Mộc tiền bối bảo sao? Cái đó có liên quan gì đến Bình nhỉ Bình nhi làm sao?Y… hiện giờ ở đâu?

Mộc Cao Phong đáp:

– Thằng nhỏ Lâm Bình Chi rất thông minh lanh lợi. Lão phu vừa thấy gã đã ưa ngaỵ Gã nhỏ tuổi mà kiến thức khá rộng, hiểu ngay võ công của lão phu lợi hại phi thường và đã bái lão phu xin làm môn hạ.

Lệnh Hồ Xung đứng bên ngoài nhà nghe rõ liền mắng thầm:

– Lão này thật là đồ vô sỉ. Bức bách người ta không được liền dùng lời đường mật định lừa lấy kiếm phổ của Lâm lão bá.

Người ta thường nói: “Biết con chẳng ai bằng cha”. Lâm Chấn Nam biết con mình tính khí cương cường mà ăn nói nghiêm trang. Ông cho là chẳng khi nào chàng chịu khuất phục lão lưng gù nói hươu nói vượn này. Dù bản lãnh lão có cao thâm đến đâu thì con mình cũng chẳng chịu bái lão làm thầy. Ông liền đáp:

– Té ra thằng nhỏ của tại hạ đã bái Mộc tiền bối làm thầy. Thế thì thật phúc đức cho gã. Vợ chồng tại hạ chịu nhiều thảm hình, người đã bị trọng thương, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Mong rằng Mộc tiền bối kêu gã đến đây để vợ chồng tại hạ được thấy mặt gã một lần nữa.

Mộc Cao Phong nói:

– Ngươi muốn cho con đến tống chung là thường tình của con người. Việc đó chẳng khó gì.

Lâm phu nhân lại giục:

– Bình nhi hiện ở đâu? Mộc tiền bối! Tiểu phụ năn nỉ tiền bối mau cho hài nhi ra đây. Ơn đức ấy xin ghi lòng tạc dạ.

Mộc Cao Phong đáp:

– Được rồi! Lão phu sẽ đi kêu gã có điều Mộc Cao Phong này xưa nay không chịu để ai sai bảo. Lão phu đi kêu thằng nhỏ đó là chuyện dễ như trở bàn taỵ Song các ngươi phải cho lão phu biết “Tịch tà kiếm phổ” hiện để ở đâu?

Lâm Chấn Nam biết lão lừa gạt. Tuy võ công ông bình thường nhưng ông đã là Tổng tiêu đầu một tiêu cục lớn nhất trong 20 năm trời, dĩ nhiên ông hiểu rõ nhân tình thế thái, liền bụng bảo dạ:

– Giả tỷ Bình nhi có thờ lão làm thầy thật cũng chẳng cần lão đưa gã tới đây. Thà mình chịu chết chứ chẳng khi nào chỉ chỗ để “Tịch tà kiếm phổ” với người ngoài, mình giữ như vậy cũng chỉ vì thằng con. Nếu Bình nhi tới đây thì vợ chồng mình đến lúc lâm chung cũng có điều tội lỗi với gã.

ông nghĩ vậy rồi thở dài nói:

– Mộc tiền bối không tin thì tại hạ cũng chẳng biết làm thế nào được. Tính mệnh vợ chồng tại hạ như sợi tơ mành chỉ mong thấy mặt con một lần cuối cùng, nhưng xem chừng khó lòng được như nguyện. Nếu trên đời quả có “Tịch tà kiếm phổ” thiệt mà lão tiền bối chẳng hỏi tới, tại hạ cũng cầu tiền bối bảo cho gã biết.

Mộc Cao Phong nói:

– Phải rồi! Ta bảo ngươi ngu lắm là vì thế. Đến chết ngươi còn không chịu nói chỗ để kiếm phổ là nghĩa làm sao? Ta muốn biết chẳng qua là vì danh dự cho nhà họ Lâm mà bảo toàn công phu tổ truyền. Nếu ngươi chết rồi thì nhà họ Lâm chỉ còn lại một thằng nhỏ Lâm Bình Chị Bất hạnh gã chết nốt, trên đời còn lại kiếm phổ mà nhà họ Lâm lại không có con cháu để luyện kiếm phổ há chẳng thành vô dụng ư?

Lâm phu nhân kinh hãi hỏi:

– Thằng con nhỏ của tiểu phụ có bình yên không?

Mộc Cao Phong đáp:

– Hiện giờ dĩ nhiên gã bình yên, chẳng có chuyện gì. Các người nói chỗ để kiếm phổ để ta đi lấy về. Ta bảo đảm sẽ giao cho thằng nhỏ đó. Có chỗ nào gã không hiểu ta sẽ chỉ điểm giùm để gã không đến nỗi như Lâm tổng tiêu đầu suốt đời nghiên cứu “Tịch tà kiếm phổ” mà chẳng hiểu gì ráo. Như vậy thì thà rằng phóng chưởng đánh chết thằng con đi còn hơn.

Lão nói xong vung tay phải lên khẽ phóng tới thần tượng thổ địa cách xa chừng hơn một trượng. Chưởng phong vừa phóng tới, ba tiếng lách cách vang lên, thần tượng bị đổ ngay xuống.

Lâm phu nhân thất kinh hỏi:

– Sao… sao lại bảo vung chưởng đánh chết con trai của tiểu phụ?

Mộc Cao Phong cười ha hả đáp:

– Lâm Bình Chi là đồ đệ tạ Ta để gã sống thì gã được sống. Ta muốn gã chết thì gã phải chết. Lúc nào ta thích phóng chưởng đánh chết gã thì ta cứ vung chưởng lên mà đánh liền.

Lão nói xong chuyển tay lại phóng chưởng đánh tới một thần vị Ở phía trước làm cho gẫy nát.

Lâm phu nhân muốn hỏi thêm, nhưng Lâm Chấn Nam đã gạt đi:

– Nương tử! Nương tử bất tất hỏi làm chi nữa. Thằng con chúng ta vị tất đã ở trong tay lão. Nếu có, lão đã đem ra đây để uy hiếp chúng ta rồi.

Mộc Cao Phong cười ha hả nói:

– Ta bảo ngươi ngu xuẩn, quả là ngu xuẩn đến cùng cực! Tái Bắc Minh Đà này muốn giết thằng con ngươi phỏng có khó gì? Dù cho hiện giờ gã không ở trong tay ta mà ta đã quyết tâm kiếm gã để giết đi, chẳng lẽ cũng không làm nổi hay sao? Trong thiên hạ đâu đâu Mộc mỗ chẳng có bạn bè? Đã sẵn tai mắt khắp nơi mà muốn tìm thằng con ngươi, ta chẳng cần phí một chút hơi sức.

Lão lại vung chưởng đánh gãy tan một chiếc ghế.

Lâm phu nhân nhận thấy chưởng lực của lão ghê gớm như vậy thì trong lòng rất là kinh hãi, khẽ hỏi Lâm Chấn Nam:

– Tướng công! Giả tỷ lão muốn tìm con mình để giết cho hả giận…

Mộc Cao Phong ngắt lời:

– Đúng thế! Các ngươi cứ nói ra. Dù vợ chồng ngươi mất mạng mà còn để lại được thằng con để tiếp tục hương khói sau này há chẳng hơn ư?

Lâm Chấn Nam cười ha hả nói:

– Phu nhân! Ta mà nói chỗ để “Tịch tà kiếm phổ” cho lão gù này biết thì việc thứ nhất là lão đi lấy kiếm phổ rồi việc thứ hai là lão giết con chúng tạ Trái lại, nếu chúng ta không nói thì lão gù muốn lấy được kiếm phổ tất phải bảo toàn tính mệnh cho Bình nhị Còn ngày nào Bình nhi chưa nói ra, lão gù chưa dám hại mạng gã ngày ấy. Đây là một yếu quyết mình cần phải hiểu.

Lâm Chấn Nam kêu Mộc Cao Phong bằng “lão gù” là ông đã đâm liều với lão rồi.

Mộc Cao Phong tức giận đến cực điểm.

Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:

– Nếu mình còn chần chờ không tìm cách ly khai Mộc Cao Phong thì vợ chồng Lâm lão bá khó lòng toàn mạng.

Gã liền dõng dạc lên tiếng:

– Mộc tiền bối! Tiểu tử là Lệnh Hồ Xung, môn hạ phái Hoa Sơn vâng mệnh gia sư kính thỉnh Mộc tiền bối rời gót ngọc qua chỗ lão gia, người có việc muốn thương lượng với Mộc tiền bối đó.

Mộc Cao Phong vung chưởng lên toan đánh xuống đầu Lâm Chấn Nam thì đột nhiên nghe tiếng Lệnh Hồ Xung ở ngoài cổng miếu nói vọng vào, lão không khỏi giật mình kinh hãi. Bình sinh lão ít khi nhường nhịn ai, nhưng vẫn có lòng úy kỵ Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn. Nhất là từ lúc ở ngoài viện Quần Ngọc chính lão đã nắm “Tử hà thần công” rất ghê gớm của Nhạc Bất Quần. Lão biết chưởng môn tuy bề ngoài coi lả lướt như thầy đồ mà thực ra nội công cao thâm khôn lường. Lão đang tìm cách uy hiếp vợ chồng Lâm Chấn Nam là hành động mà danh môn chính phái không thèm làm. Lão chắc thầy trò Nhạc Bất Quần đứng ngoài miếu nghe lỏm đã lâu, bụng bảo dạ:

– Nhạc Bất Quần kêu mình đi thương lượng điều chỉ Phải chăng hắn dùng lời xa xôi khuyên can mình có khi còn mai mỉa làm mình phải khó chịu. Đã là hảo hán khi nào lại chịu thua người? Chi bằng mình chuồn đi là hơn.

Lão nghĩ vậy liền đáp:

– Mộc mỗ còn có việc gấp không thể bồi tiếp được. Ngươi về bẩm lệnh tôn sư khi nào y được rảnh xin mời qua chơi Tái Bắc. Mộc mỗ quủt nhà chờ đợi.

Mộc Cao Phong dứt lời từ trong điện nhảy ra ngoài sân. Lão khẽ điểm chân xuống đất nhảy vọt lên nóc nhà, rồi lại nhảy xuống phía sau miếu. Lão sợ Nhạc Bất Quần ngăn đón để chất vấn liền chạy vù đi như luồng khói tỏa.

Lệnh Hồ Xung thấy lão chạy xa rồi thì trong bụng mừng thầm, miệng lẩm bẩm:

– Té ra lão gù khiếp sợ sư phụ mình chạy trối chết. Nếu lão không bỏ đi cứ động thủ với mình thì nguy hiểm biết mấy?

Gã chống gậy bằng cành cây tiến vào miếu thổ địa. Trong điện tối mò chẳng có đèn lửa chi hết, nhưng gã cũng nhìn thấy bóng một người đàn ông và một đàn bà ngồi ghé vào một góc miếu, liền khom lưng thi lễ nói:

– Tiểu điệt là Lệnh Hồ Xung, môn hạ phái Hoa Sơn, cùng với Lâm Bình Chi sư đệ có nghĩa đồng môn. Tiểu điệt xin lạy chào Lâm bá phụ và Lâm bá mẫu.

Lâm Chấn Nam cả mừng nói:

– Xin thiếu hiệp miễn lễ, lão phu không dám đương. Hai vợ chồng lão phu hiện bị trọng thương không thể đáp lễ được, xin thiếu hiệp tha tội cho! Có thật thằng con lão phu đã bái Nhạc đại hiệp phái Hoa Sơn xin làm môn hạ không?

Nên nhớ tiếng tăm Nhạc Bất Quần ở trong võ lâm còn vang dội hơn Dư Thượng Hải nhiều. Lâm Chấn Nam muốn lấy lòng Dư Thượng Hải nên hàng năm phái tiêu sư đưa lễ đến núi Thanh Thành. Còn đối với Nhạc Bất Quần, một vị chưởng môn nhân trong Ngũ nhạc kiếm phái Lâm Chấn Nam tự thấy mình không xứng đáng kết giao với họ, mà cũng không dám đưa lễ đến cầu thân. Hiện giờ ông thấy Mộc Cao Phong hung dữ là thế mà vừa nghe nói đến phái Hoa Sơn đã phải chạy mất mật. Nếu con ông được may mắn vào làm môn hạ phái này thì nỗi mừng kể sao cho xiết!

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng thế! Lão gù Mộc Cao Phong này muốn cưỡng bách thu lệnh lang làm đồ đệ, nhưng lệnh lang nhất định không chịu. Lão toan gia hại lệnh lang thì vừa lúc gặp gia sư đi qua ra tay giải cứu. Lệnh lang năn nỉ xin quy đầu bản phái. Gia sư thấy y lòng thành lại có tư cách thành tài nên đã ưng chọ Vừa rồi gia sư cùng Dư Thượng Hải đấu kiếm, hắn bị thua rồi, bắt buộc phải khai chỗ giam cầm bá phụ, bá mẫu. Gia sư sai tiểu điệt đến đây trước để trông nom, chắc là lão nhân gia cùng Lâm Bình Chi sư đệ cũng sắp tới nơi.

Lâm phu nhân nghe nói sắp được gặp con, bà không ngớt niệm Phật.

Lâm Chấn Nam nói:

– Lão phu chỉ mong Bình Chi đến ngay được là maỵ Chứ chậm thì không kịp nữa…

Lệnh Hồ Xung thấy Lâm Chấn Nam vừa nói vừa thở hắt ra. Hiển nhiên tính mạng nguy trong khoảnh khắc. Kể ra gã có thể đem chân khí của mình trút vào người ông để chống đỡ chờ đợi gia sư tới nơi, nhưng gã bị trọng thương rất nặng, không tài nào vận khí được, liền nói:

– Lâm bá phụ! Bá phụ đừng nói nữa. Gia sư sau khi tính toán xong với Dư Thượng Hải sẽ tới tìm bá phụ ngaỵ Chắc lão nhân gia có thuốc trị thương cho bá phụ được.

Lâm Chấn Nam nhăn nhó cười rồi nhắm mắt lại.

Một lúc sau ông khẽ nói:

– Lệnh Hồ hiền điệt!… Ta nguy đến nơi mất!… Bình nhi được vào làm môn hạ phái Hoa Sơn là ta mừng quá rồi… Ta nhờ hiền điệt… chỉ bảo thêm cho gã.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Bá phụ cứ yên tâm. Đã là chỗ đồng môn học nghệ mọi người coi như anh em ruột. Nay tiểu điệt chịu lời ủy thác của bá phụ dĩ nhiên có bổn phận phải hết mình chiếu cố cho Lâm sư đệ.

Lâm phu nhân nói xem vào:

– Ơn nặng đức dầy của Lệnh Hồ thiếu hiệp, vợ chồng ta dù chết dưới suối vàng cũng không lúc nào quên được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Xin hai vị ngưng thần tĩnh dưỡng, đừng nói nhiều cho mệt.

Lâm Chấn Nam hơi thở cấp bách, lúc đứt lúc nối. Ông thều thào nói:

– Xin… Lệnh Hồ hiền điệt bảo cho con ta hay… dưới hầm một căn nhà cũ trong ngõ Qùy Hoa ở Phúc Châu… có vật gì… thì đó là vật tổ truyền của nhà họ Lâm… cần phải giữ gìn cho cẩn thận nhưng… tằng tổ y là Viễn Đồ Công có để lại lời di huấn. Hết thảy con cháu ta… bất luận là ai cũng không được mở coi mà sinh tai họa ghê gớm… ! Y cần phải nhớ kỹ điều đó…

Lệnh Hồ Xung gật đầu đáp:

– Được rồi! Tiểu đệ sẽ dặn y những câu này.

Lâm Chấn Nam ngập ngừng:

– Đa… đa…

Thủy chung ông chưa nói ra được chữ tạ thì đã tắt hơi rồi.

Lâm phu nhân nói:

– Lệnh Hồ thiếu hiệp! mong rằng thiếu hiệp bảo với con ta đừng lúc nào quên mối thù của cha mẹ.

Bà nghẹo đầu cố sức đập mạnh vào cột miếu.

Nguyên bà đã bị trọng thương, chỉ đập đầu một cái là chết liền.

Lệnh Hồ Xung thở dài nghĩ bụng:

– Dư Thượng Hải cùng Mộc Cao Phong bức bách Lâm Chấn Nam nói chỗ cất dấu “Tịch tà kiếm phổ” mà y thà chết chứ không chịu nói. Lúc y biết mình chết đến nơi, đành gởi lời dặn Lâm sư đệ. Nhưng y sợ ta lấy mất kiếm phổ của nhà họ Lâm nên mới có câu: “Bất luận là ai cũng không được mở coi để tránh tai họa ghê gớm”. Chà chà! Lâm lão bá coi Lệnh Hồ Xung này là hạng người nào mà lại dòm dỏ kiếm phổ của nhà họ Lâm. Ngay võ công của phái Hoa Sơn bọn ta còn không sao học hết được thì hơi đâu mà đi coi kiếm pháp của phái khác? Hơn nữa nếu kiếm pháp của nhà họ Lâm có chỗ độc đáo hơn người thì sao vợ chồng lão bá lại đi đến kết quả này?

Gã nghĩ vậy rồi ngồi tựa cột nhắm mắt dưỡng thần.

Sau chừng nửa giờ, bỗng nghe ngoài cổng miếu có tiếng Nhạc Bất Quần gọi:

– Xung nhi! Ngươi có ở trong miếu không?

Lệnh Hồ Xung đáp vọng ra:

– Dạ! Đệ tử đây!

Gã bừng mắt ngồi dậy thì trời đã bình minh.

Nhạc Bất Quần thủng thẳng đi vào. Lão thấy thi thể vợ chồng họ Lâm, liền cau mày hỏi:

– Chết cả rồi ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vâng.

Rồi gã đem chuyện Mộc Cao Phong bức bách vợ chồng Lâm Chấn Nam thế nào cùng là gã đã mượn oai danh của sư phụ hăm dọa cho lão phải bỏ đi ra sao thuật lại một lượt. Gã kể cả tình hình vợ chồng họ Lâm lúc lâm chung đã dặn lại những gì cho sư phụ nghe.

Nhạc Bất Quần trầm ngâm một lúc rồi nói:

– Hừ! Dư Thượng Hải đã uổng công mệt sức một phen chẳng được ích gì lại gây nên tội ác không nhỏ.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Sư phụ! Lão thấp lùn họ Dư tạ tội với sư phụ rồi a?

Nhạc Bất Quần đáp:

– Dư quán chủ cước trình cực kỳ mau lẹ. Ta đuổi y chừng nửa giờ mà không kịp. Thấy y chạy mỗi lúc một xa hơn ta đành bỏ thôi không đuổi nữa. Khinh công của phái Thanh Thành quả nhiên còn cao thâm hơn phái Hoa Sơn ta một bậc.

Nhạc tiên sinh là người quân tử. Hơn ông bảo là hơn, kém ông chịu là kém. Thật là một nhân vật quang minh lỗi lạc.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Phái Thanh Thành về cái môn chổng đít về đường sau mà chạy trốn vẫn nổi tiếng là cao thâm hơn người.

Nhạc Bất Quần sa sầm nét mặt trách mắng:

– Xung nhi! Miệng lưỡi ngươi lúc nào cũng ra chiều khinh bạc, ăn nói chẳng đứng đắn chút nào. Như thế thì làm gương cho sư đệ, sư muội thế nào được?

Lệnh Hồ Xung quay sang phía khác lè lưỡi ra đáp:

– Dạ!

Nhạc Bất Quần lại nói:

– Ngươi trả lời thì trả lời cho thẳng thắn, sao còn lè lưỡi rả Phải chăng ngươi không có thành ý?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ!

Gã được Nhạc Bất Quần nuôi dưỡng từ thuở nhỏ đến lớn, nghĩa là thầy trò mà tình chẳng khác cha con.

Nhạc Bất Quần ung dung nho nhã, đối với đệ tử, tiên sinh chẳng lúc nào tỏ vẻ nghiêm khắc.

Lệnh Hồ Xung không có sợ tiên sinh liền cư š sợ tiên

– Sư phụ! Sao sư phụ lại biết đệ tử lè lưỡi?

Nhạc Bất Quần hừ một tiếng rồi đáp:

– Làn da dưới tai ngươi chuyển động. Nếu ngươi không là lưỡi làm sao lại thế được? Ngươi quen tính vô thiên vô pháp. Lần nay ngươi bị lộ tẩy rồi. Ha ha!

Hồi 45

Lệnh Hồ Xung Trổ Tài Miệng Lưỡi

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Mỗi lần thất bại là một lần khôn ra.

Nhạc Bất Quần hắng giọng một tiắng rồi hỏi:

– Ngươi đã khôn quá thành tinh rồi còn chưa đủ ư?

Lão lấy trong bọc một cây hỏa tiễn pháo rồi đi ra ngoài sân bật lửa châm ngòi, đoạn ném lên không gian. Cây hỏa tiễn pháo bay bổng lên cao, nổ đánh sầm một tiếng trên lưng chừng trời biến thành một cây trường kiếm sắc bạc. Thanh trường kiếm lơ lửng trên không một hồi rồi từ từ rớt xuống. Phía sau trong vòng mươi trượng biến thành vô số ngôi sao sa.

Đây là tín hiệu của chưởng môn triệu tập đồ đệ. Thanh trường kiếm sắc bạc giữa đám yêu hoa tức là tiêu biểu cho ngoại hiệu “Quân tử kiếm” của Nhạc Bất Quần.

Sau khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, bỗng nghe tiếng bước chân từ đằng xa vọng lại đang chạy về miếu thổ địa.

Nhạc Bất Quần nói:

– Đây là Căn Minh. Cước bộ nhẹ nhàng thì có thừa nhưng trầm trọng lại không đủ. Cước lực gã mau lẹ hơn hết các đệ tử, ít kẻ bì kịp.

Quả nhiên chẳng mấy chốc Cao Căn Minh tay cầm bàn tính kêu lách cách chạy tới ngoài cổng miếu. Gã lớn tiếng gọi:

– Sư phụ! Có phải lão nhân gia ở trong ấy không?

Ta nên biết rằng người ở xa trông thấy tín hiệu hỏa tiễn chỉ biết đại khái phương hướng mà thôi, chứ không tài nào biết đích xác là ở trong miếu thổ địa này được.

Nhạc Bất Quần đáp ngay:

– Ta ở đây!

Cao Căn Minh chạy vào miếu khom lưng nói:

– Sư phụ!…

Gã trông thấy Lệnh Hồ Xung đứng bên thì cả mừng nói tiếp:

– Đại sư ca! Trong người sư ca đã mạnh chưa? Bọn đàn em phải một phen lo sốt vó.

Lệnh Hồ Xung thấy gã lộ vẻ mừng vui một cách chân thành thì trong lòng không khỏi xúc động. Hắn tủm tỉm cười đáp:

– Phen này mà không chết thì quả là ngôi sao chiếu mệnh khá lớn.

Lệnh Hồ Xung chưa dứt lời, đã nghe văng vẳng có tiếng bước chân từ đằng xa đi tới mà lần này là hai người.

Nhạc Bất Quần hỏi:

– Ai đến đó?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Một người trầm trọng một người hời hợt. Đây là nhị sư đệ và Lục sư đệ.

Nhạc Bất Quần gật đầu nói:

– Xung nhi! Ngươi thật là thông minh, mới nghe qua đã rõ. Ngươi biết được Lao Đức Nặc trầm trọng là ta yên tâm rồi.

Lao Đức Nặc và Lục Đại Hữu chưa vào miếu thì tiếng bước chân của tam đệ tử Lương Phát và tứ đệ tử Thi Đới Tử lại nhộn lên.

Sau khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà, thất đệ tử Đào Điều, bát đệ tử Anh Bạch La, con gái Nhạc Bất Quần là Nhạc Linh San và cả tên đệ tử mới nhập môn là Lâm Bình Chi cũng tới nơi.

Lâm Bình Chi vừa thấy thi thể song thân đã nhảy xổ lại nằm phục trên hai người mà khóc rống lên. Bọn đồng môn nghe chàng khóc lóc thảm thiết cũng không khỏi sa lệ.

Nhạc Linh San thấy Lệnh Hồ Xung bình yên vô sự thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng khôn xiết. Nhưng cô thấy Lâm Bình Chi đau thương như vậy, không tiện thổ lộ nỗi hân hoan, cô chạy đến bên nắm tay Lệnh Hồ Xung khẽ hỏi:

– Đại ca… không việc gì ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không sao cả.

Mấy bữa nay Nhạc Linh San lo lắng bàng hoàng vì anh chàng đại sư ca này. Ban đầu cô nghe nói gã bị La Nhân Kiệt phái Thanh Thành gia hại, mấy phen cô khóc hết nước mắt. Nhưng cô biết gã thông minh quyền biến, bản lãnh lợi hại, chưa chắc đã bị bọn đệ tử phái Thanh Thành giết chết, trong lòng vẫn còn mấy phần hy vọng. Quả nhiên sau cô được sư phụ cho hay đại sư ca chưa chết thực. Bây giờ cô gặp gã trong miếu thổ địa này, bao nhiêu mối kích động chứa chất trong lòng bữa nay không tài nào cô đè nén được. Đột nhiên cô kéo tay áo gã mà khóc oà lên.

Lệnh Hồ Xung nhẹ nhàng vỗ vai cô khẽ hỏi:

– Tiểu sư muội! Tiểu sư muội làm sao thế? Sư muội bị ai khinh khi ta sẽ trả đũa cho sư muội hài lòng!

Nhạc Linh San không trả lời chỉ khóc hoài. Cô khóc một lúc rồi trong lòng khoan khoái, kéo tay áo Lệnh Hồ Xung lên lau nước mắt nói:

– Đại ca không chết. Đại ca không chết chứ?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Ta không chết đâu.

Nhạc Linh San nghẹn ngào nói:

– Té ra vị tiạu ni cô phái Hằng Sơn đã lừa gạt… khiến cho tiểu muội sợ quá.

Cô toan nói “Tiểu muội sợ muốn chết”, nhưng thấy nói như vậy thì lộ liễu chân tình ở trước mặt phụ thân cùng các bạn đồng môn nên dừng lại không nói nữa. Cô nghĩ tới mấy bữa nay khúc ruột quặn đau, tâm thần hoảng hốt , cay cực muôn phần cô không nhịn được, nước mắt lại tầm tã như mưa.

Lệnh Hồ Xung an ủi:

– Vị sư muội phái Hằng Sơn đó không phải cố lừa tiểu sư muội đâu. Khi đó y tưng phải cố

Nhạc Linh San ngẩng đầu lên, hai mắt đẫm lệ, trông lờ mờ thấy Lệnh Hồ Xung hình dung tiều tụy, mặt không còn chút huyết sắc thì trong lòng rất đỗi thương xót. Cô nói:

– Đại sư ca! Lần này đại sư ca… bị thương trầm trọng. Đại sư ca nên về núi để điều dưỡng mới được.

Nhạc Bất Quần thấy Lâm Bình Chi nằm phục trên thi thể song thân khóc lóc rất bi thảm liền bảo chàng:

– Bình nhi! Ngươi nên bớt nỗi bi ai để liệu lý việc mai táng song thân là việc khẩn liệu

Lâm Bình Chi vâng lời đứng dậy. Chàng thấy nét mặt song thân chết còn tỏ ra rất đau khổ thì không nhịn được, hai hàng nước mắt lại chảy xuống ròng ròng. Chàng nghẹn ngào nói:

– Gia gia cùng má má lìa bỏ cõi đời mà đệ tử không được thấy mặt lần cuối cùng… chẳng hiểu… người có trối trăng câu gì cho đệ tử không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lâm sư đệ! Lúc lệnh tôn cùng lệnh đường lâm chung, tiểu huynh có mặt tại đó. Hai vị lão nhân gia có dặn tiểu huynh chiếu cố cho Lâm sư đệ. Cái đó là lẽ dĩ nhiên dù hai vị không dặn, tiểu huynh cũng phải trông nom sư đệ. Lệnh tôn còn một lời dặn tiểu huynh chuyển cho Lâm sư đê…

Lâm Bình Chi khom lưng nói:

– Đại sư ca… Gia gia cùng má má tiểu đệ lúc lâm chung mà được đại sư ca bầu bạn không đến nỗi tứ cố vô thân khiến tiểu đệ cảm kích muôn vàn.

Lệnh Hồ Xung lại nói:

– Lệnh tôn cùng lệnh đường bị bọn ác đồ phái Thanh Thành dùng thảm hình đối phó. Chúng bức bách hai vị nói chỗ cất dấu “Tịch tà kiếm phổ” nhưng hai vị kiên quyết không chịu thổ lộ rồi chúng làm chấn động tâm mạch mà thiệt mạng. Lão Dư Thượng Hải không xứng đáng làm tôn sư một phái. Hành động đê hèn này tất bị anh hùng thiên hạ chê cười.

Lâm Bình Chi nghiến răng nói:

– Nếu Lâm Bình Chi này mà không trả được mối đại thù cho song thân thì thật chẳng bằng giống cầm thú.

Chàng vung quyền lên đập mạnh vào cột miếu. Tuy võ công chàng bình thường nhưng vì đầy lòng phẫn hận nên thoi quyền đánh ra rất mạnh, làm rung động cả tường nhà, cát bụi đổ xuống ào ào.

Nhạc Linh San nói:

– Lâm sư đệ! Vụ này đúng là sư tỷ gây nên tai vạ. Nếu sư đệ quyết chí báo thù thì sư tỷ cũng nhất định không tự thủ bàng quang.

Lâm Bình Chi khom lưng đáp:

– Đa tạ sư tỷ.

Nhạc Bất Quần thở dài lẩm bẩm:

– Phái Hoa Sơn ta từ trước đến nay vẫn hoài bảo tôn chỉ “Người không phạm đến mình thì mình không đụng chạm đến ai”. Phái mình chẳng hiềm khích với một môn phái nào cả. Nhưng từ đây sắp tới e rằng trên Ngọc Nữ phong không còn ngày nào yên tĩnh nữa. Hỡi ôi! Đã dấn thân vào chốn giang hồ mà muốn không động chạm đến ai, thiệt không phải dễ dàng.

Lão nghĩ tới Lưu Chính Phong đã quyết lui khỏi võ lâm mà cũng không được như nguyện, cả nhà ngộ nạn, lòng càng cảm khái muôn và quyết

Lao Đức Nặc nói:

– Lâm sư đệ! Tiạu sư muội! Vụ tai họa này không phải vì đại sư ca đá hai tên đệ tử phái Thanh Thành xuống lầu, cũng không phải tự Lâm Bình Chi giữa đường thấy chuyện bất bình hạ sát tên nghiệt tử của Dư Thượng Hải, chỉ vì lão họ Dư dòm dỏ pho kiếm phổ gia truyền của nhà Lâm sư đệ mà ra. Ngày trước chưởng môn phái Thanh Thành là Trường Thanh Tử bị bại dưới Tịch tà kiếm pháp của tằng tổ Lâm sư đệ là Viễn Đồ Công. Mối họa này nảy mầm ngay tự ngày đó.

Nhạc Bất Quần nói:

– Đúng thế! Trong võ lâm trước nay chẳng bao giờ tránh khỏi chuyện tranh cường hiếu thắng. Khi nghe tới võ công bí lục gì họ chẳng cần biết chân giả, người nào cũng muốn tranh cướp cho kỳ được, bất chấp bằng một thủ đoạn nào. Thực ra Dư quán chủ và Tái Bắc minh đà là những tay cao thủ có địa vị trong võ lâm không nên tham lam mưu đồ lấy kiếm phổ của nhà họ Lâm mới phải.

Lâm Bình Chi nói:

– Thưa sư phụ! Thiệt tình nhà đệ tử chẳng có “Tịch tà kiếm phổ” chi chi hết. Bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm phổ kiagia gia truyền miệng cho, bảo đệ tử phải dụng tâm ghi nhớ. Nếu có kiếm phổ thật thì dù gia gia không tiết lộ với người ngoài còn có lý, chẳng lẽ lại giữ bí mật cả với con em trong nhà.

Nhạc Bất Quần gật đầu nói:

– Ta cũng không tin nhà họ Lâm có Tịch tà kiếm phổ. Nếu có thì sao phụ thân ngươi lại chẳng địch nổi Dư Thượng Hải. Vụ này hiển nhiên chỉ là ngoa truyền.

Lệnh Hồ Xung nhớ tới lời dặn của Lâm Chấn Nam bụng bảo dạ:

– Phụ thân của Lâm sư đệ quả nhiên dặn ta mà chẳng yên lòng. Y nói những gì ai mở ra coi là gặp tai họa ghê gớm. Kiếm phổ nhất định có rồi. Hừ y coi Lệnh Hồ Xung này là hạng người nào. Mình đâu có thuộc vào loại vô sỉ như Dư Thượng Hải, Mộc Cao Phong. Dù “Tịch tà kiếm phổ” có là một thứ võ công bậc nhất thiên hạ, Lệnh Hồ Xung này cũng không dòm dỏ.

Gã nghĩ vậy rồi nói:

– Lâm sư đệ! Lệnh tôn có di ngôn: ở ngõ Qùy Hoa thành Phúc Châu…

Nhạc Bất Quần động tâm nghĩ thầm:

– Dư Thượng Hải đã khao khát Tịch tà kiếm phổ vậy ta chớ nên để lời di ngôn của Lâm Chấn Nam lọt vào tai. Lão liền xua tay gạt đi:

– Đã là di ngôn của phụ thân Bình nhi thì chỉ nên nói riêng cho gã biết mà thôi, người ngoài không nên nghe tới.

Lệnh Hồ Xung vâng lời.

Nhạc Bất Quần lại nói:

– Đức Nặc, Căn Minh! hai ngươi vào thành Hành Sơn mua lấy hai cỗ quan tài.

Việc thu liệm vợ chồng Lâm Chấn Nam bận bả suốt ngày đến chiều mới xong.

Lao Đức Nặc mướn người khiêng quan tài ra bờ sông rồi đoàn người lên thuyền đi về phía Tây.

Một ngày kia về đến chân ngọn Ngọc Nữ phong núi Hoa Sơn.

Cao Căn Minh cùng Lục Đại Hữu lên trước báo tin.

Hơn 20 đệ tử phái Hoa Sơn xuống núi bái kiến sư phụ.

Lâm Bình Chi thấy bọn đệ tử này người lớn tuổi đã ngoài 40, người nhỏ mới độ 12, 13. Trong bọn này có 6 nữ đệ tử. Họ vừa thấy Nhạc Linh San là véo von chuyện trò không ngớt.

Lao Đức Nặc dẫn Lâm Bình Chi yết kiến từng người. Theo quy củ phái Hoa Sơn thì ai nhập môn trước là sư huynh, ai đến sau là sư đệ. Vì thế gã Thư Kỳ nhỏ tuổi nhất mà Lâm Bình Chi vẫn kêu gã bằng sư huynh. Chỉ có Nhạc Linh San là ra ngoài thể lệ. Cô là con gái Nhạc Bất Quần nên không thể xắp theo thứ tự như bọn môn đồ, cứ theo tuổi mà xưng hô, ả nào lớn hơn gọi cô bằng sư muội còn nhỏ hơn thì kêu bằng sư tỷ. Kể ra cô còn ít tuổi hơn Lâm Bình Chi mấy tuổi, nhưng cô nhất định đòi làm sư tỷ chàng, Nhạc Bất Quần cũng không ngăn trở nên Lâm Bình Chi vẫn kêu cô bằng sư tỷ.

Đoàn người lên núi thấy cây cối thanh u, nước chảy róc rách, chim hót líu lọ Những căn nhà lớn tường trắng la liệt đó đây cái cao, cái thấp theo sườn núi.

Một thiếu phụ đứng tuổi xinh đẹp từ từ bước tới gần. Nhạc Linh San chạy vội lại nhảy vào lòng bà gọi:

– Má má! Hài nhi lại được thêm một gã sư đệ.

Cô vừa nói vừa trỏ vào Lâm Bình Chi.

Lâm Bình Chi đã được bọn sư huynh nói cho hay sư mẫu tức Nhạc phu nhân tên gọi Ninh Trung Tắc cùng với sư phụ ngày trước là sư huynh, sư muội đồng môn. Kiếm thuật của sư mẫu cũng tinh thâm chẳng kém gì sư phụ. Chàng vội tiến lại khấu đầu nói:

– Đệ tử là Lâm Bình Chi xin bái kiến sư nương.

Nhạc phu nhân niẳm nở tươi cười đáp:

– Ngươi bất tất phải khách sáo. Đứng dậy đi!

Rồi bà nhìn Nhạc Bất Quần cười nói:

– Mỗi lần tiên sinh xuống núi nếu không kiếm được bảo bối là về không hả dạ. Lần này tiên sinh đi dự đại hội ở Hành Sơn tưởng ít ra là thu được 3, 4 tên đệ tử mà sao lại chỉ có một?

Nhạc Bất Quần cười hỏi lại:

– Phu nhân thường nói quân quí là ở chỗ tinh nhuệ chứ không quý ở số nhiều. Phu nhân coi gã này thế nào

Nhạc phu nhân cười đáp:

– Tướng mạo y đẹp quá, không giống người luyện võ. Tiên sinh cho y học Tứ thư, Ngũ kinh để sau này đi thi cử tú hay thi trạng nguyên quách.

Lâm Bình Chi thẹn đỏ mặt lên, bụng bảo dạ:

– Sư nương thấy mình có tướng học trò yếu ớt và ra chiều khinh rẻ. Mình phải gắng sức dụng công để theo kịp các vị sư huynh khiến người ta khỏi coi thường mình mới được.

Nhạc Bất Quần nói:

– Như vậy càng hay! Phái Hoa Sơn mà sản xuất ra một vị trạng nguyên lang cũng là một giai thoại hiếm có.

Nhạc phu nhân trừng mắt lên nhìn Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Ngươi lại đi gây chuyện đánh nhau với người ta rồi bị thương phải không? Tại sao bộ mặt lợt lạt khó coi thế?

Lệnh Hồ Xung dọc đường đã dưỡng thương khỏi rồi, nhưng nguyên khí chưa hoàn toàn hồi phục. Gã được Nhạc phu nhân nuôi dưỡng từ thuở nhỏ cho đến khi khôn lớn. Phu nhân coi hắn chẳng khác gì con ruột. Tuy giọng nói ra chiều trách móc song trong lòng rất đỗi thiết tha.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười đáp:

– Đệ tử đã khỏi nhiều rồi. Chuyến này nếu số mạng không lớn thì e rằng chẳng còn được trở về bái kiến sư nương nữa.

Nhạc phu nhân trợn mắt lên nhìn gã nói:

– Có thế ngươi mới hiểu ngoài vòm trời này còn có vòm trời khác, ngoài cõi người này còn có cõi người khác. Ngươi đã biết ẩn nhẫn chưa?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đao pháp của Điền Bá Quang thiệt là lợi hại. Đệ tử chống không nổi, đang định xin sư nương chỉ giáo.

Tên ác ôn Vạn lý độc hành Điền Bá Quang dã khét tiếng trên chốn giang hồ từ lâu. Ai cũng biết hắn là một tên dâm tặc chuyên đi bẻ hoa. Nhạc phu nhân nghe Lệnh Hồ Xung nói gã bị thương về tay Điền Bá Quang sắc mặt dịu lại, gật đầu nó Vạn

– Nếu ngươi đánh nhau với tên ác ôn Điền Bá Quang thì không có gì đáng trách. Ta tưởng ngươi gây chuyện thị phi với ai để rước lấy tai vạ. Môn khoái đao của hắn thế nào? Chúng ta đem ra nghiên cứu để lần sau đối phó với hắn.

Nhạc phu nhân tuy vẻ người văn nhã, nhưng nghe đến chuyện đấu võ thì hào khí ngày trước lại nổi lên.

Nhạc Bất Quần chỉ tủm tỉm cười chứ không nói gì.

Lúc trở về Hoa Sơn dọc đường Lệnh Hồ Xung đã hỏi lão mấy lần về cách phá giải khoái đao của Điền Bá Quang nhưng lão nhất định không nói, để gã về Hoa Sơn xin phu nhân truyền dạy. Quả nhiên Nhạc phu nhân vừa nghe gã nói, trong lòng đã hứng khởi bừng bừng. Đoàn người tiến vào Thoái tư hiên là chỗ ở của Nhạc Bất Quần rồi kể lại những chuyện xảy ra sau khi tương biệt.

Sáu cô nữ đệ tử nghe Nhạc Linh San thuật lại những chuyện ở Phúc Châu và Hành Châu đều lấy làm thích thú.

Lục Đại Hữu thì khoa trương với các sư đệ về cuộc tỷ đấu giữa đại sư ca với Điền Bá Quang. Hắn kể lại Lệnh Hồ Xung đâm La Nhân Kiệt thế nào, dường như Điền Bá Quang bị đại sư ca đánh bại chứ không phải đại sư ca mình bị thua liạng xiạng.

Nhạc phu nhân ngồi ở trên ghế trong góc hiên ngưng thần coi Lệnh Hồ Xung vạch những đường đao pháp của Điền Bá Quang. Vẻ mặt phu nhân rất là trịnh trọng.

Nhạc phu nhân vừa coi Lệnh Hồ Xung vẽ mấy chiêu trong lòng đã cực kỳ kinh dị tự hỏi:

– Thế gian quả có đao pháp kỳ bí đến thế ư? Thiệt là mình chưa từng thấy qua.

Tay phải Lệnh Hồ Xung nào chém nào vạch phóng luôn 13 đao rồi nghiêng mình đi thu chưởng về.

Nhạc phu nhân khẽ thở dài lắc đầu nói:

– Thiệt là lợi hại.

Nhạc phu nhân ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi:

– Môn khoái đao của Điền Bá Quang tựa hồ “Liên hoàn thập tam đao” trong phép “Loạn phi ma thức”. Ngươi chiết giải bằng cách nào?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Đao pháp của hắn thần diệu vô song. Khi đó đệ tử hai mắt hoa lên, tâm thần rối loạn, còn nói chi đến chuyện chiết giải.

Nhạc phu nhân nói:

– Phải rồi! Dù là tay hảo thủ bậc nhất võ lâm tưởng cũng ít người thoát được 13 chiêu loạn đao này. Ta e rằng người khó chống nổi lấy một đường, tất ngươi đã dùng ngụy kế để chuồn đi chứ gì?

Nhạc phu nhân nuôi Lệnh Hồ Xung từ thuở nhỏ, phu nhân lạ gì tính nết cùng bản lãnh gã.

Lệnh Hồ Xung đỏ mặt lên mỉm cười đáp:

– Đệ tử vừa thấy hắn sử hai chiêu loạn pháp này đã ngấm ngầm kêu trời, đinh ninh phen này mất mạng. Đệ tử liền nổi lên tràng cười ha hả. Gã thu đao về nói: “Có chi mà cười? Liệu ngươi có chống nổi đao pháp thập tam thức của ta không?”

Gã ngừng lại một chút rồi kể tiếp:

– Đệ tử liền cười đáp: “Té ra Điền Bá Quang tiếng tăm lừng lẫy này chỉ là đồ bỏ của phái Hoa Sơn tạ Thật là không ngờ! Ngươi mà ở bản phái tất bị đuổi ra khỏi môn trường”. Điền Bá Quang hỏi lại: “Cái gì mà đồ bỏ của phái Hoa Sơn?” Ngươi chỉ nói nhăng! Đây là võ công của riêng một mình nhà Điền mỗ, có liên quan gì đến phái Hoa Sơn?”. Đệ tử cười hỏi lại: “Đường đao pháp này của ngươi có 13 thức phải không? Ta thấy sư phụ cùng sư nương ta chiết giải rồi. Sư nương ta nhân lúc thêu hoa nghĩ ra những chiêu “Xuyên châm dẫn tuyến”, “Thiên y vô phùng”, “Chức phi nữ độ”. Lại còn có một chiêu là “Thường nga dạ tứ”. Đệ tử vừa nói vừa bấm đốt ngón tay rồi nói tiếp :”Phải rồi! Chiêu thứ năm là “Chiêu quân tái xuất”, chiêu thứ sáu là “Điêu Thuyền bái nguyệt”, chiêu thứ bảy là “Tây Thi hoán sa”. Những chiêu đó đều do một thức biến ra. Ngươi đường đường là một tay hảo hán, oai phong lẫm liệt mà cũng chém bên Đông một đao, đâm bên Tây một nhát, thân hình uốn éo như sư nương ta mà cũng giống như con người quốc sắc vô song là Tây Thi đang giặt sa ở dưới suối, há chẳng buồn cười rủ”

Gã nói luôn một hồi, Nhạc Linh San cùng bọn nữ đệ tử không nhịn được nữa, bật lên tiếng cười khanh khách.

Nhạc Bất Quần cũng vuốt râu cười nói:

– Nhộn thật! Nhộn thật!

Nhạc phu nhân hừ một tiắng rồi hỏi:

– Ngươi nói trăng nói cuội gì thì nói, sao lại kéo cả sư nương vào đó? Thật đáng đánh đòn.

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Sư nương không rõ: Điền Bá Quang là con người rất tự phụ. Hắn nghe đệ tử đem gã ví với đàn bà lại bảo đao pháp thần kỳ của gã là do sư nương sáng chế ra cốt để hắn còn phải giải thích cho rành mạch không thì hắn giết phứt đệ tử ngay.

Quả nhiên hắn sử đao pháp từng chiêu một rất thong thả.

Mỗi chiêu gã lại hỏi: “Chiêu này có phải sư nương ngươi sáng chế ra không?

Đệ tử làm ra vẻ thần bí, trầm ngâm không trả lời, ngấm ngầm ghi nhớ những chiêu thức, chờ hắn sử xong 13 thức, rồi mới nói “Xin lỗi Điền huynh! Tiểu đệ lầm rồi. Đao pháp của Điền huynh đây tuy có nhiều chỗ giống với đao pháp của sư nương tiểu đệ sáng chế nhưng cũng có mấy chỗ khác nhau chút đỉnh. Xem ra không phải là Điền huynh học lỏm của phái Hoa Sơn”.

Điền Bá Quang nói: “Ngươi không chống nổi đao pháp của ta rồi nói hoang đường để kéo dài thời giờ, khi nào ta không hiểu? Lệnh Hồ Xung! ngươi bảo quí phái có môn đao pháp này. Vậy ngươi hãy sử đi để Điền mỗ mở rộng tầm mắt”. Khi hắn nói tới câu này mắt lộ vẻ hung quang ra chiều phẫn hận vô cùng.

Đệ tử liền đáp: “Tệ phái sử kiếm chứ không sử đao. Môn “Phi Tú thần châm kiếm” của sư nương tiểu đệ chỉ truyền cho nữ đệ tử chứ không truyền cho nam đệ tử. Bọn tiểu đệ đường đường là nam tử trượng phu mà đi uốn éo sử môn “Phi tú thần châm” này há chẳng đệ bạn hữu võ lâm cười cho thúi óc?”.

Điền Bá Quang tức giận nói: “Họ cười cũng thế mà không cười cũng vậy. Bữa nay Điền mỗ chỉ cần ngươi thừa nhận phái Hoa Sơn không có môn võ công này mà thôi. Lệnh Hồ Xung! Điền mỗ khâm phục ngươi là con người gan dạ. Nhưng ngươi… ngươi… chẳng nên bạ đâu nói đấy mà trêu cợt ta.

Hồi 46

Vô Song Vô Đối Song Thị Nhất Kiếm

Nhạc Linh San nói xen vào:

– Quân ác tặc vô sỉ đó thì ai cần hắn bội phục làm chỉ Chẳng qua là đùa giỡn hắn một lúc mà chơi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nhưng tiểu huynh coi tình trạng lúc đó nếu không bịa ra môn “Phi tú thần châm” để biểu diển thì

nguy đến tính mạng ngay tức khắc. Tiểu huynh đành theo đao pháp của hắn ưỡn ẹo múa may một lúc

để biểu diển.

Nhạc Linh San cười hỏi:

– Lệnh Hồ đại ca uốn éo múa may những chiêu thức đó có giống hắn không?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Ngày thường tiểu huynh coi sư muội sử kiếm biết bao nhiêu lần rồi thì sao lại không giống?

Nhạc Linh San không chịu, nói:

– Trời ơi! Đại ca cười “người ta” sử kiếm ưỡn ẹo thì tiểu muội ba ngày không nhìn mặt đại sư ca

nữa.

Nhạc phu nhân từ nãy tới giờ trầm ngâm không nói gì, bây giờ bà mới lên tiếng:

– San nhi! Ngươi đưa kiếm cho đại sư ca đi!

Nhạc Linh San rút thanh trường kiếm ra xoay chuôi lại đưa cho Lệnh Hồ Xung vừa cười vừa nói:

– Má má muốn coi đại sư ca uốn éo sử kiếm pháp con khỉ đó.

Nhạc phu nhân nói:

– Xung nhi! Đừng nói nhảm nhí với nó nữa! Lúc ấy ngươi sử kiếm thế nào bây giờ thử diển lại coi.

Lệnh Hồ Xung biết sư nương muốn xem kỹ đao pháp của Điền Bá Quang gã liền đón lấy thanh

trường kiếm, quay về phía sư phụ, sư nương khom lưng thi lễ nói:

– Bẩm sư phụ cùng sư nương! Đệ tử xin biểu diển những đường khoái đao của Điền Bá Quang.

Nên biết đây là lề luật phái Hoa Sơn. Hàng tiểu bối trước khi sử quyền động kiếm trước mặt bậc tôn trưởng phải xin phép đã.

Nhạc Bất Quần gật đầu.

Lệnh Hồ Xung dựng thanh kiếm lên rồi đột nhiên, chẳng có triệu chứng gì sắp ra chiêu, gã chém

luôn ba kiếm nhanh như điện chớp. Kiếm phong rít lên veo véo.

Bọn sư đệ giật mình kinh hãi. Mấy cô nữ đệ tử bất giác đồng thanh la lên:

– Úi chà!

Lệnh Hồ Xung sử những chiêu kiếm tự hồ loạn xạ chẳng vào chương pháp nào hết, nhưng con mắt Nhạc Bất Quần cùng Nhạc phu nhân lại nhìn thấy rất rõ. Mỗi nhát đâm nhát chém đều lợi hại và chuẩn đích.

Lệnh Hồ Xung thu kiếm về một cách đột ngột, nhìn sư phụ, sư nương thi lễ.

Nhạc Linh San hơi ra chiều thất vọng hỏi:

– Nhanh đến thế ư?

Nhạc phu nhân gật đầu đáp:

– Phải nhanh thế mới được. Trong phép khoái đao một chiêu 13 thức này, mỗi thức gồm ba bốn lần

biến hóa. Chỉ trong khoảnh khắc đã sử đến bốn mươi mấy chiêu thì thật là một đao pháp ít có trên thế

gian.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thằng cha Điền Bá Quang sử đao còn lẹ gấp mấy đệ tử.

Nhạc phu nhân cùng Nhạc Bất Quần đưa mắt nhìn nhau ra chiều bội phục.

Nhạc Linh San hỏi:

– Đại sư ca! Sao không thấy đại sư ca uốn éo ngượng nghịu chút nào?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Mấy bữa nay tiểu huynh lúc nào cũng nghĩ tới phép khoái đao này nên bây giờ đã sử được khá mau lẹ. Hôm ở tửu lâu, tiểu huynh biểu diển trước mặt Điền Bá Quang thì chậm chạp hơn nhiều và còn thêm vào điệu bộ uốn éo của đàn bà để làm trò cười chọc hắn.

Nhạc Linh San cười nói:

– Đại sư ca hôm ấy làm bộ như thế nào? Bây giờ hãy diển lại cho tiểu muội coi!

Nhạc phu nhân xoay lại rút thanh trường kiếm ở sau lưng một tên nữ đệ tử rồi nhìn Lệnh Hồ Xung kêu:

– Ngươi hãy sử khoái đao đi!

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ.

Rồi véo một tiếng. Hắn dùng kiếm làm đao nhằm Nhạc phu nhân chém tới. Chiêu kiếm này phóng ra phương vị rất kỳ tuyệt, nó xoay về phía sau người Nhạc phu nhân rồi mũi kiếm móc ngược trở lại.

Nhạc Linh San kinh hãi la lên:

– Má má! Phải cẩn thận đấy!

Nhạc phu nhân nhảy vọt ra, không để ý gì tới nhát kiếm của Lệnh Hồ Xung từ phía sau lưng đâm lại. Thanh kiếm trong tay bà đâm thẳng tới trước ngực gã một cách mau lẹ phi thường.

Nhạc Linh San lại la hoảng:

– Đại sư ca! Phải cẩn thận.

Lệnh Hồ Xung không đỡ gạt, đâm luôn một đao nữa, miệng nói:

– Sư nương! Hắn đâm còn mau lẹ hơn nhiều.

Nhạc phu nhân đâm vèo vèo luôn ba kiếm.

Lệnh Hồ Xung cũng phản kích luôn ba đao.

Cả hai người cùng đánh rất mau lẹ và đều tấn công chứ không có chiêu nào đỡ gạt để giữ mình.

Chỉ trong chớp mắt hai thầy trò đã thi triển hơn hai chục chiêu.

Lâm Bình Chi đứng bên trố mắt ra mà nhìn, miệng há hốc, bụng bảo dạ:

– Đại sư ca hành động như người điên mà võ công càng ghê gớm. Từ nay mình phải chăm chú luyện công không lúc nào chểnh mảng mới khỏi để người ta coi thường mình được.

Giữa lúc ấy, Nhạc phu nhân phóng kiếm đánh vèo một tiếng, mũi kiếm đã chí vào cổ họng Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung không sao tránh được, gã nói:

– Giả tỷ là Điền Bá Quang thì hắn ngăn chặn được rồi.

Nhạc phu nhân nói:

– Vậy thì giỏi lắm.

Thanh trường kiếm trong tay bà như rồng bay phượng múa. Sau mấy chiêu, mũi kiếm của bà lại chí vào trước ngực Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung vẫn nói:

– Hắn cũng gạt được.

Câu nói của gã tỏ ra đao thuật của Điền Bá Quang còn mau hơn nhiều nên có thể ngăn chặn được cả hai chiêu đó.

Hai người càng đấu càng lẹ. Sau Lệnh Hồ Xung không còn lúc nào rảnh để mà nhắc lại câu: “Hắn vẫn đỡ được”. Mỗi khi gã bị Nhạc phu nhân kiếm chế, chỉ lắc đầu để tỏ ý cho bà ta biết chiêu kiếm đó không giết được Điền Bá Quang.

Nhạc phu nhân sử kiếm mỗi lúc một cao hứng. Đột nhiên bà la lên một tiếng trong trẻo. Mũi kiếm lấp loáng không nhất định phương hướng nào bao vây lấy Lệnh Hồ Xung mà đâm lia lịa.

Luồng ngân quang hạ xuống thấp.

Mọi người trông hoa cả mắt.

Đột nhiên thấy mũi kiếm của bà phóng thẳng ra đâm tới trước ngực Lệnh Hồ Xung nhanh hơn điện chớp.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi la lên:

– Sư nương!

Mũi kiếm đã đâm thủng vạt áo gã.

Lại thấy tay phải Nhạc phu nhân đâm thẳng về phía trước. Thanh trường kiếm trong tay bà tựa hồ đâm xuyên vào ngực đối phương ngập đến tận chuôi.

Nhạc Linh San thét lên:

– Má má ơi!

Bỗng nghe mấy tiếng loảng xoảng vang lên không ngớt. Từng mảnh kiếm gãy dài chừng hơn tấc lả tả rớt xuống chân Lệnh Hồ Xung.

Nhạc phu nhân cười ha hả rụt tay về. Trong tay bà chỉ còn chuôi kiếm.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Sư muội! Nội lực của sư muội tinh tiến đến thế ư? Cả mắt ta cũng không trông lầm nữa.

Nguyên vợ chồng Nhạc Bất Quần trước là bạn đồng môn. Ngày còn nhỏ tuổi ông kêu bà bằng sư muội quen rồi. Sau khi thành hôn hai người vẫn xưng hô nhau bằng sư huynh, sư muội.

Nhạc phu nhân cười đáp:

– Đại sư huynh quá khen! Tiểu kỹ nhỏ mọn này phỏng có chi đáng kể?

Lệnh Hồ Xung nhìn những mảnh kiếm gãy dưới đất, trong lòng rất kinh hãi. Bây giờ gã mới hiểu lúc sư nương phóng kiếm đâm đã vận dụng toàn lực, không thì chẳng tài nào phóng nhanh thế được.

Nhưng mũi kiếm vừa chạm vào da gã, bà lập tức chuyển luồng nội lực hùng hậu đương đâm thẳng biến thành phá ngang mà sức chấn động làm cho thanh trường kiếm gãy thành từng khúc ngắn.

Cách vận dụng nội kình tuyệt diệu như vậy thật đã đến mức xuất quỷ nhập thần.

Gã khâm phục vô cùng nói:

– Đao pháp của Điền Bá Quang dù có mau lẹ tới đâu cũng không thể tránh thoát nhát kiếm này của sư nương được.

Lâm Bình Chi thấy áo Lệnh Hồ Xung cả trước lẫn sau, hai bên đều thủng nhiều chỗ vì thanh trường

kiếm của Nhạc phu nhân đâm trúng thì nghĩ bụng:

– Trên thế gian đã có kiếm thuật cao minh như vậy, mình phải học lấy mấy thành mới mong có thể báo thù cho song thân được.

Rồi chàng lẩm bẩm:

– Phái Thanh Thành và Mộc Cao Phong đều thèm khát “Tịch tà kiếm phổ” của nhà mình, nhưng thực ra “Tịch tà kiếm phổ” đem so với kiếm pháp của sư nương thì hãy còn kém xa lắm.

Nhạc phu nhân ra chiều đắc ý nói:

– Xung nhi! Ngươi đã bảo nhát kiếm đó có thể đưa Điền Bá Quang đến chỗ chết thì ngươi dụng công mà học lấy, ta sẽ truyền thụ cho ngươi.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đa tạ sư nương!

Nhạc Linh San nói:

– Má má! Hài nhi cũng muốn học.

Nhạc phu nhân lắc đầu đáp:

– Nội công ngươi chưa tới đúng mức nên không học được chiêu kiếm này.

Nhạc Linh San cho là mẫu thân không muốn dạy mình liền bĩu môi nói:

– Nội công của đại sư ca so với hài nhi cũng chẳng hơn được bao nhiêu, sao y học được mà hài nhi lại không học được?

Nhạc phu nhân mỉm cười không nói gì.

Nhạc Linh San kéo tay áo phụ thân nói:

– Gia gia! Gia gia truyền phép hóa giải chiêu kiếm đó cho hài nhi để đại sư ca học được rồi cũng không dám khinh nhờn hài nhi.

Nhạc Bất Quần lắc đầu cười đáp:

– Chiêu kiếm của má má hài nhi đó kêu bằng “Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm”. Thật là một chiêu thiên hạ vô địch thì ta còn cách nào phá giải được nữa?

Nhạc phu nhân cười đáp:

– Sư huynh nói diu làm chi vậy? Đại sư huynh phỉnh phờ tiểu muội thì chẳng hề chi, nhưng câu chuyện đồn đại ra ngoài thì các bạn võ lâm sẽ cười đến trẹo quai hàm.

Nên biết chiêu kiếm này của Nhạc phu nhân bao hàm nội công phái Hoa Sơn và tuyệt kỹ về kiếm pháp, thêm vào đó tâm tư thông tuệ của bà. Thật là chiêu kiếm lợi hại vô cùng, nhưng chưa đặt tên cho nó là gì cả.

Nhạc Bất Quần trước muốn kêu bằng “Vô địch Nhạc phu nhân kiếm”. Nhưng ông biết bà là người tâm cao khí ngạo, sau khi kết hôn rồi vẫn thích võ lâm kêu mình là Ninh nữ hiệp, chứ không ưa ai gọi là Nhạc phu nhân.

Ta nên biết ba chữ Ninh nữ hiệp là trỏ vào bản lãnh cùng hành vi của bản thân bà. Còn ba chữ Nhạc phu nhân là có ý tựa vào thanh danh của chồng.

Tuy miệng bà ra điều trách móc trượng phu mà thực ra bà rất thích tám chữ “Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm”. Bà ngấm ngầm khen trượng phu là người đọc sách đặt cho chiêu kiếm của mình một cái tên nghe rất lọt tai.

Nhạc Linh San nói:

– Gia gia! Bao giờ gia gia mới đặt ra mấy chiêu “Vô tỷ vô địch Nhạc gia thập kiếm” truyền cho hài nhi, cùng để hài nhi đại sư ca đánh nhau chí mạng.

Nhạc Bất Quần lắc đầu cười đáp:

– Không được đâu! Gia gia không thông minh bằng má má thì sáng lập những chiêu thức mới thế nào được?

Nhạc Linh San ghé miệng vào bên tai phụ thân khẽ nói:

– Chẳng phải gia gia không sáng lập được mà vì gia gia sợ vợ mới không dám làm.

Nhạc Bất Quần cười ha hả giơ tay lên khẽ bẹo má cô nói:

– Con nhỏ này lại nói nhăng rồi!

Nhạc phu nhân nghiêm nghị lên tiếng:

– San nhi! Không được nói nhảm với gia gia nữa. Đức Nặc! Ngươi thắp hương nến bày lên bàn thờ để Lâm sư đệ làm lễ tham bái linh vị liệt tổ bản phái.

Lao Đức Nặc vâng lời.

Lát sau sắp đặt xong xuôi, Nhạc Bất Quần dẫn mọi người đi vào tiên tổ đường ở phía sau.

Lâm Bình Chi thấy trong nhà thờ bày trí rất nghiêm trang. Hai bên vách đều treo một thanh trường kiếm, vỏ kiếm đen sì, dây thao đã cũ. Chàng biết đây là những thanh bội kiếm của các vị tôn sư mấy đời trước, chàng lẩm bẩm:

– Ngày nay phái Hoa Sơn đã nổi tiếng lớn trong võ lâm. Chẳng hiểu bao nhiêu gian tà ác tặc đã mất mạng dưới trường kiếm của các vị tiên sư phái này?

Nhạc Bất Quần quỳ trước hương án lạy bốn lạy rồi khấn rằng:

– Đệ tử là Nhạc Bất Quần bữa nay có thu nạp tên Lâm Bình Chi ở Phúc Châu làm đồ đệ, cầu nguyện liệt đại tổ tôn phù hộ cho Lâm Bình Chi dụng công học nghệ, giữ lòng trong sạch, tuân theo môn quy và không làm mất thanh danh của phái Hoa Sơn.

Lâm Bình Chi nghe sư phụ nói vậy vội kính cẩn quỳ xuống.

Nhạc Bất Quần đứng dậy nghiêm trang nói:

– Lâm Bình Chi! Bữa nay ngươi vào làm môn hạ phái ta, phải nghiêm giữ môn quỵ Nếu ngươi vi phạm ta sẽ theo tình trạng mà xử trị. Nhẹ ra là phải phạt đòn, mà phạm tội đại ác sẽ bị chém đầu quyết không dung thứ. Bản phái đã góp mặt võ lâm mấy trăm năm nay, có khi cùng các phái khác tranh đua võ công hơn kém, nhưng thắng bại cường nhược đều là sự thường. Điều cần nhất là hết thảy đệ tử bản phái ai cũng phải giữ lấy thanh danh cho sư môn. Ngươi nhớ kỹ điều đó.

Lâm Bình Chi nói:

– Dạ! Đệ tử xin kính cẩn vâng lời giáo huấn của sư phụ.

Nhạc Bất Quần bảo Lệnh Hồ Xung:

– Lệnh Hồ Xung! Ngươi đọc môn quy bản môn cho Lâm Bình Chi nghe đi!

Lệnh Hồ Xung vâng lệnh sư phụ liền nói:

– Lâm sư đệ hãy nghe đây! Nhất giới của bản phái là lừa thầy diệt tổ, bất kính tôn trưởng. Nhị giới là ỷ mạnh hiếp yếu, gia hại kẻ vô tội. Tam giới là gian dâm hiếu sắc, trêu cợt phụ nữ. Tứ giới là trong đồng môn ghen ghét tàn sát lẫn nhau. Ngũ giới là thấy lợi quên nghĩa, trộm cắp tài vật. Lục giới là ngông cuồng tự đại, khinh khi đồng loại. Thất giới là giao thông với địch, cấu kết với bọn yêu tà. Hoa Sơn thất giới là thế đó. Đã là đệ tử bản môn, nhất luật phải tuân hành.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ! Tiểu đệ xin kính cẩn ghi nhớ Hoa Sơn thất giới mà đại sư ca đã chỉ thị. Tiểu đệ gắng sức tuân theo không dám phản bội.

Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:

– Đúng thế! Bản phái chỉ có bấy nhiêu điều răn dạy, không như các phái khác đưa ra nhiều giới luật thanh quỵ Các ngươi phải tuân theo thất giới này hàng ngày tâm niệm lấy nhân nghĩa làm gốc để thành người chính nhân quân tử. Được như vậy là sư phụ cùng sư nương đã lấy làm vui mừng lắm rồi.

Lâm Bình Chi đáp:

– Đệ tử xin tuân mệnh!

Đoạn chàng khấu đầu trước sư phụ và sư nương. Chàng lại chắp tay hành lễ cùng các vị sư huynh, sư tỷ.

Nhạc Bất Quần nói:

– Bình nhi! Bây giờ chúng ta hãy an táng song thân ngươi để hết đạo làm người con rồi sẽ bắt đầu truyền thụ những công phu cơ bản của bản môn.

Lâm Bình Chi hai mắt đẫm lệ lạy phục xuống đất nói:

– Đa tạ sư phụ cùng sư nương.

Nhạc Bất Quần đỡ chàng dậy, cất giọng ôn hòa nói:

– Mọi người trong bản phái coi nhau thân thiết như người một nhà. Bất luận ai gặp việc gì, hết thảy đồng môn đều cùng vui cùng lọ Từ đây ngươi bất tất phải giữ lễ cho lắm.

Lão quay lại ngó Lệnh Hồ Xung từ đầu xuống đến gót chân hồi lâu rồi hỏi:

– Xung nhi! Lần này hạ sơn đã phạm mấy điều trong Hoa Sơn thất giới?

Lệnh Hồ Xung trong lòng kinh hãi. Gã biết sư phụ bình thời đối với các đệ tử rất thân hòa từ ái.

Nhưng kẻ nào vi phạm môn quy tất bị nghiêm phạt, quyết chẳng dung tha.

Gã liền quỳ xuống trước hương án đáp:

– Đệ tử biết tội rồi. Đệ tử không nghe lời sư phụ, sư nương răn dạy, phạm vào giới điều thứ sáu là ngông cuồng tự đại để đắc tội với đồng đạo. Trên lầu Túy Tiên, đệ tử đã hạ sát La Nhân Kiệt phái Thanh Thành.

Nhạc Bất Quần hắng giọng một tiếng, lộ vẻ rất nghiêm khắc.

Nhạc Linh San nói xen vào:

– Gia gia ơi! Đây là tại La Nhân Kiệt chạy tới khinh nhờn đại sư cạ Lúc đó đại sư ca cùng Điền Bá Quang chiến đấu ác liệt rồi bị trọng thương. La Nhân Kiệt lại nhân lúc người ta trong cơn nguy hiểm toan bề gia hại, chẳng lẽ đại sư ca khoanh tay chờ chết?

Nhạc Bất Quần nói:

– Ngươi không được can thiệp vào đây. Vụ này do Lệnh Hồ Xung đá hai tên đệ tử Thanh Thành xuống lầu ma gây ra. Nếu không có hiềm khích từ trước thì khi nào La Nhân Kiệt lại nhân lúc Xung nhi lâm nguy mà hạ thủ?

Nhạc Linh San không nhịn được liền phân trần:

– Đại sư ca đá hai tên đệ tử phái Thanh Thành y đã bị gia gia trách phạt rồi. Vụ đó kể như thanh toán xong xuôi, không nên nhắc lại. Đại sư ca hiện bị trọng thương, không thể chịu đòn được nữa.

Nhạc Bất Quần trợn mắt lên nhìn con gái lớn tiếng:

– Bây giờ là lúc cứu xét về giới luật của bản môn. Ngươi cũng là một đệ tử phái Hoa Sơn vậy không được chõ miệng vào.

Nhạc Linh San rất khi thấy phụ thân tỏ vẻ nghiêm khắc với mình như lúc này, cô cảm thấy trong lòng oan ức, tủi thân. Cặp mắt đỏ hoe, cô muốn bật lên tiếng khóc.

Giả tỷ vào lúc bình thường, Nhạc Bất Quần mà không hỏi đến thì Nhạc phu nhân cũng dùng lời nói dịu dàng để vỗ về cộ Nhưng hiện giờ Nhạc Bất Quần dùng địa vị chưởng môn cứu xét giới luật môn hộ, bà cũng không nói gì.

Nhạc Bất Quần quay lại bảo Lệnh Hồ Xung:

– La Nhân Kiệt nhân lúc ngươi gặp nguy cấp mà động thủ để làm nhục thì ngươi thà chết chứ không chịu khuất phục là một hành vi của nam tử hán, đại trượng phu, chẳng kể làm chị Nhưng sao ngươi lại buông lời vô lễ cả với phái Hằng Sơn. Ngươi nói những gì hễ gặp ni cô là xúi quẩy đánh bạc thuả Ngươi còn nói cả ta gặp ni cô cũng ngán là nghĩa làm sao?

Nhạc Linh San không nhịn được đang nước mắt đầm đìa bỗng bật lên tiếng cười hích hích, cất tiếng gọi:

– Gia gia!

Nhạc Bất Quần nhìn cô lắc đầu nhưng không lộ vẻ nghiêm khắc như trước nữa.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Khi đó đệ tử chỉ cầu sao cho vị sư muội phái Hằng Sơn kia bỏ đi về đệ tử lượng không đủ sức địch lại Điền Bá Quang. Đệ tử không có cách nào cứu được y, lại rất lo lắng cho tình đồng đạo.

Thấy y không chịu rút lui, đệ tử đành phải đặt điều nói nhăng như vậy. Đệ tử biết rằng những câu nói đó mà lọt vào tai các vị sư bá, sư thúc phái Hằng Sơn thì thật là vô lễ.

Nhạc Bất Quần nói:

– Ngươi muốn cho sư điệt Nghi Lâm bỏ đi là phải nhưng sao không lựa lời lại thốt ra những điều ngạo mạn khinh bạc? Vụ này mọi người trong Ngũ nhạc kiếm phái đều biết hết, nhất định họ ngấm ngầm bảo nhau ngươi không phải là hạng chính nhân quân tử và trách ta không biết răn dạy ngươi.

Lệnh Hồ Xung khom lưng đáp:

– Dạ! Đệ tử biết tội rồi!

Nhạc Bất Quần lại nói:

– Lúc ngươi ở trong viện Quần Ngọc dưỡng thương cũng là chuyện bất đắc dĩ. Nhưng ngươi đem Nghi Lâm sư điệt cùng con tiểu ma nữ Ma giáo dấu vào trong chăn, lại nói với Dư quán chủ phái Thanh Thành đó là yêu hoa nữ tử phái Hành Sơn thì vụ này sẽ phát sinh nguy hiểm rất lớn ngươi có biết không? Giả tỷ câu chuyện bị tiết lộ thì phái Hoa Sơn ta mất hết thanh danh còn là việc nhỏ mà liên lụy đến tiếng thơm của phái Hằng Sơn mấy trăm năm nay là việc lớn hơn. Bây giờ chúng ta biết đối xử với họ thế nào đây?

Lệnh Hồ Xung ớn lạnh xương sống. Cất giọng run run đáp:

– Sau đệ tử nghĩ lại việc này đã sợ toát mồ hôi. Té ra sư phụ cũng biết rồi.

Nhạc Bất Quần đáp:

– Lúc Khúc Dương ma giáo đem ngươi đến dưỡng thương ở viện Quần Ngọc sau ta mới biết.

Nhưng lúc ngươi để hai con nhỏ chui vào trong chăn thì ta đứng bên ngoài cửa sổ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Còn may ở chỗ sư phụ biết cho đệ tử không có hành vi của kẻ lãng mạn.

Nhạc Bất Quần nghiêm nghị nói:

– Nếu ngươi vào kỹ viện để giỡn gái thật thì đã cắt cái đầu trên cổ ngươi rồi, khi nào còn để ngươi sống đến ngày nay.

Lệnh Hồ Xung chỉ dạ một tiếng chứ không dám nói nhiều.

Vẻ mặt Nhạc Bất Quần mỗi lúc một nghiêm khắc. Lát sau lão hỏi:

– Ngươi đã biết rõ thiếu nữ kia là người trong Ma giáo sao không chém chết thị đỉ Tuy bề ngoài tổ phụ thị có ơn cứu mạng ngươi, nhưng đó chỉ là chuyện mua ơn chuốc nghĩa của bọn Ma giáo và để gây mâu thuẫn giữa Ngũ nhạc kiếm phái tạ Ngươi không phải là thằng ngốc sao còn chưa hiểu?

Chuyện họ cứu mạng cho ngươi thực ra bên trong ẩn giấu một vụ âm mưu rất lớn. Đến Lưu Chính Phong, một người tinh minh mẫn cán như vậy mà còn mắc bẫy để đến nỗi thân danh hủy diệt mà, nhà tan, người chết. Những thủ đoạn nham hiểm thâm độc của Ma giáo chính mắt ngươi đã nhìn thấy. Thế mà chúng ta đi từ Hồ Nam về tới Hoa Sơn, dọc đường ta không nghe thấy ngươi chê trách bọn Ma giáo một câu nào. Xung nhi! Ta nhận thấy sau khi họ cứu mạng cho ngươi, ngươi trở nên hồ đồ không phân biệt chính tà, không hiểu ngay gian là gì nữa. Vụ này có liên quan rất lớn đến chỗ yên thân lập mệnh cho ngươi về sau, ngươi chẳng thể hồ đồ được.

Lệnh Hồ Xung hồi tưởng lại bữa trước, lúc đêm khuya ở chốn hoang sơn, Khúc Dương cùng Lưu Chính Phong hòa đàn hợp sáo, gã cho lời đồn Khúc Dương tâm địa thâm hiểm cố ý hãm hại Lưu Chính Phong là vô lý.

Nhạc Bất Quần thấy gã ra chiều do dự, hiển nhiên chưa tin chắc lời nói của mình, liền tiếp:

– Xung nhi! Vụ này quan hệ rất lớn đến sự hưng suy vinh nhục của phái Hoa Sơn mà cũng quan hệ cả đến sự yên nguy thành bại trong đời người nữa. Ta chỉ hỏi ngươi một câu: Ngươi thấy trong Ma giáo có ghét như kẻ thù và quyết tru diệt chẳng dung tha không?

Lệnh Hồ Xung không biết trả lời thế nào. Gã trân trân nhìn sư phụ đứng ngẩn người ra.

Hồi 47

Ngọc Nữ Phong Hồ Xung Xám Hối

Lệnh Hồ Xung vẫn hoài nghi trong dạ tự hỏi:

– Sau này nếu ta gặp người trong Ma giáo, ta có nên hỏi cho biết rõ phải quấy, hay là hạ thủ giết ngay?

Gã không thể tự quyết được, nên sư phụ hỏi vấn đề này gã chẳng biết trả lời thế nào cho phải.

Nhạc Bất Quần chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung hồi lâu, thấy gã thủy chung không phúcđáp, lão không nhịn được nữa liền thở dài nói:

– Bây giờ ngươi có trả lời một cách gượng gạo cũng bằng vô dụng. Chuyến này ngươi xuống núi đã làm thương tổn đến thanh danh phái Hoa Sơn rất nhiều. Ta phạt ngươi quay mặt vào tường một năm để suy nghĩ cho chín về việc này.

Lệnh Hồ Xung khom lưng thi lễ đáp:

– Dạ! Đệ tử xin kính cẩn thọ lãnh trách phạt.

Nhạc Linh San hỏi xen vào:

– Hình phạt quay mặt vào tường một năm thì mỗi ngày phải ngồi chịu phạt mấy giờ?

Nhạc Bất Quần đáp:

– Sao lại hỏi đến chuyện mấy giờ? Hàng ngày từ sáng đến tối, trừ lúc ăn uống không kể, phải quay mặt vào tường để sám hối.

Nhạc Linh San vội hỏi:

– Như vậy không được. Bắt y phải làm thế, há chẳng khiến cho y buồn đến chết ư? Chẳng lẽ lại cấm cả y đi đại, tiểu tiện nữa hay sao?

Nhạc phu nhân quát lên:

– Con gái mà sao ăn nói tục tĩu thế?

Nhạc Bất Quần lại nói:

– Phạt quay mặt vào tường một năm đã lấy chi làm nặng? Trước kia sư tổ ngươi phạm tội đã chịu quay mặt vào tường trên ngọn Ngọc Nữ phong những ba năm sáu tháng, không rời khỏi nửa bước.

Nhạc Linh San thè lưỡi ra nói:

– Thế mà phạt một năm hãy còn là nhẹ ư? Thực ra đại sư ca bảo: “Hễ gặp ni cô là đánh bạc thua” chỉ vì y có lòng tốt, muốn cứu người mà thôi, chứ có phải y cố ý mắng nhiếc ai đâu?…

Nhạc Bất Quần ngắt lời:

– Cũng vì gã có lòng tốt mà nói vậy nên mới phạt nhẹ quay mặt vào tường một năm, chứ nếu gã có hành vi đen tối, thì ta đã tát gã rơi răng và xẻo lưỡi gã đi rồi.

Nhạc phu nhân lại lên tiếng:

– San nhi! Ngươi không được đối điều với gia gia nữa. Đại sư ca ngươi lên ngọn Ngọc Nữ phong ăn năn tội lỗi, ngươi không được theo đi mà lém lảu. Nếu không thì cái công của gia gia thành toàn cho gã sẽ bị người làm hỏng hết.

Nhạc Linh San hậm hực hỏi lại:

– Bắt đại sư ca cầm tù trên Ngọc Nữ phong mà còn bảo là thành toàn ư? Má má không cho hài nhi lên trò chuyện với y thì y lấy ai bầu bạn để giải cơn phiền muộn? Trong suốt một năm này ai sẽ luyện kiếm cho hài nhi?

Nhạc phu nhân nói:

– Nếu ngươi lên đánh bạn với gã thì gã còn quay mặt vào tường ăn năn tội lỗi thế nào được? Ở đây thiếu gì sư huynh, sư muội ai luyện kiếm với ngươi mà chả được?

Nhạc Linh San nghẹo đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi:

– Đại sư ca ở trên đó ăn gì để sống? Cả năm trời không được xuống núi thì để y chết đói hay sao?

Nhạc phu nhân đáp:

– Ngươi bất tất phải quan tâm? Có người đưa cơm nước lên cho gã.

Chiều hôm ấy Lệnh Hồ Xung bái biệt sư phụ cùng sư nương. Gã giắt trường kiếm đi lên đỉnh ngọn Ngọc Nữ phong cao ngất.

Trên đỉnh núi có một tòa sơn động mà phái Hoa Sơn dùng làm nơi giam cầm các đệ tử phạm tội. Ngọn núi này trọc lốc không một gốc cây ngọn cỏ, không chim muông mới dùng làm chỗ phạt đệ tử. Ngoài sự quay mặt vào tường để ăn năn tội lỗi, trong lòng không còn ngoại cảnh nào khác cho bận rộn.

Lệnh Hồ Xung vào sơn động rồi, nhìn thấy dưới đất có một tảng đá lớn nhẵn thín thì nghĩ bụng:

– Mấy trăm năm nay, phái Hoa Sơn ta không hiểu đã có bao nhiêu người vào ngồi trên tảng đá này mà nó nhẵn đến thế? Lệnh Hồ Xung là tên đệ tử quỷ quái nhất hiện nay mà không vào ngồi thì còn ai đến ngồi nữa?

Gã giơ tay lên vừa vỗ tảng đá vừa nói:

– Tảng đá ơi là tảng đá! Ngươi phải chịu hiu quạnh lâu năm, nay lại có Lệnh Hồ Xung đến làm bạn với ngươi đây.

Nguyên Nhạc Bất Quần là người hiền hòa ít khi phạt nặng đệ tử. Thường thường lão chỉ trách mắng những tên phạm lỗi. Tội nặng thì hoặc tát bằng tay hoặc đánh bằng trượng , nay Lệnh Hồ Xung bị phạt quay mặt vào tường một năm là một vụ chưa có bao giờ.

Lệnh Hồ Xung ngồi trên tảng đá lớn, cặp mắt gã chỉ cách vách chừng hơn một thước. Gã giương mắt lên nhìn, tưởng chừng như cả tòa núi lớn sắp đổ ụp xuống lấp người gã đi. Gã liền nhắm mắt lại nghĩ thầm:

– Sau này ta gặp người trong Ma giáo có nên hỏi rõ phải trái dã hay cứ phóng kiếm hạ sát liền? Có

thật trong Ma giáo chẳng một ai tử tế? Phải rồi! Nếu đã là hảo nhân sao còn gia nhập Ma giáo? Nếu ho.

lầm đường, thì cũng lập tức rút lui mới phải. Họ không chịu rút lui tức là cam tâm về phe với tà ma để gây tai họa cho người thế gian rồi.

Chỉ trong khoảnh khắc trong đầu óc Lệnh Hồ Xung hiển hiện ra rất nhiều hiện trạng mà bình thời gã đã từng được nghe sư phụ, sư nương cùng những bậc tiền bối giang hồ thuật lại về những hành vi hung ác hại người của Ma giáo.

Nào Vu lão thiền sư ở Giang Tây một nhà 20 người bị bọn Ma giáo bắt rồi để sống đem đóng đinh vào những cây cột lớn. Cả đứa nhỏ lên 3 cũng không thoát khỏi thảm cảnh này. Hai người con của Vu lão quyền sư rên rỉ suốt 2 ngày 3 đêm mới chết được.

Nào chưởng môn phái Long Phụng Đao ở phủ Tế Đường là Triệu Đăng Khai cưới con dâu giữa lúc tân khách đông đầy nhà, bọn người Ma giáo sấn vào cắt đầu hai vợ chồng tân nhân đặt giữa tiệc bảo là lễ mừng.

Nào Hắc lão anh hùng ở Hán Dương mừng đại ca thọ 70 tuổi, các hảo hán khắp nơi đều đến chúc thọ. Không ngờ bọn Ma giáo đã chôn rất nhiều thuốc nổ dưới nhà đại sảnh. Chúng châm lửa vào ngòi từ đằng xa dẫn tới. Chất nổ đột nhiên nổ bùng. Anh hùng hảo hán bị chết và bị thương không biết bao nhiêu mà kể. Cả Kỹ sư thúc phái Hoa Sơn cũng bị cụt tay về vụ này. Chính miệng Kỹ sư thúc đã thuật lại cho gã nghe thì dĩ nhiên không phải là giả trá.

Lệnh Hồ Xung nghĩ tới đây, gã nhớ đến hai năm trước Tôn sư thúc phái Tung Sơn trên đường đi Trung Châu bị chặt đứt hai tay hai chân và bị móc cả hai mắt. Miệng lão vẫn còn la: “Ma giáo hại ta nhất định phải báo thù! Khi ấy phái Tung Sơn có người đến tiếp ứng nhưng Tôn sư thúc bị thương nặng đến thế thì còn sống làm sao được?

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến thảm trạng mặt đầy máu tươi hai lỗ mắt sâu hoắm lớn bằng hai cái chung uống rượu máu chảy không ngớt mà phát ớn. Gã nghĩ bụng:

– Người Ma giáo đã độc ác đến cùng cực như vậy thì ông cháu Khúc Dương có ra tay cứu mình nhất định không phải vì lòng tốt. Sư phụ hỏi mình ngày sau gặp người Ma giáo có hạ sát ngay không hay còn do dự? Như vậy còn điều chi, mà phải do dự? Như vậy còn điều chi mà phải do dự? Đương nhiên mình phải rút kiếm giết liền.

Lệnh Hồ Xung nghĩ tới đây gã cảm thấy trong lòng khoan khoái nhẹ nhõm miệng gã huýt lên một tiếng còi rồi nhắm mắt nhảy lộn ngược ra ngoài. Lúc người đang lơ lửng trên không gã nhẹ nhàng xoay mình cho hạ xuống đất.

Gã mở bừng mắt thì thấy chân mình đặt xuống mép sười núi chỉ còn cách bờ vực không đầy hai thước. Giả tỷ vừa rồi gã nhảy mạnh hơn chút nữa cho người ra xa hơn hai thước là ngã xuống vực sâu vạn trượng nát như tương rồi.

Nguyên lúc Lệnh Hồ Xung nhắm mắt xong đã tính đúng. Ta nên biết Lệnh Hồ Xung tính hãy còn trẻ, rất ưa tinh nghịch. Gã đã quyết định chủ ý hễ gặp người Ma giáo là ra tay hạ sát ngaỵ Trong lòng không còn điều chi phiền muộn, liền thử một trò chơi mạo hiểm.

Lệnh Hồ Xung lại nghĩ:

– Như thế này thì mình cũng chưa lấy gì làm lớn mật. ít ra là mình phải tiến về phía trước một thước rưỡi mới là vừa khéo.

Bất thình lình gã nghe sau lưng có tiếng người vỗ tay vừa cười vừa nói:

– Đại sư ca! Khá lắm rồi!

Chính là thanh âm Nhạc Linh San.

Lệnh Hồ Xung cả mừng ngoảnh đầu lại coi thì thấy Nhạc Linh San tay xách thùng cơm. Cô cười hề hề nói:

– Đại sư ca! Tiểu muội đem cơm đến cho đại sư ca đây.

Cô đặt thùng xuống, tiến vào thạch động. Xoay mình ngồi trên tảng đá lớn nói:

– Vừa rồi đại sư ca nhắm mắt xoay mình coi tuyệt quá. Tiểu muội cũng thử làm coi.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Trò chơi này nguy hiểm muôn phần. Chính mình cũng còn lo mất mạng, huống chi bản lãnh Nhạc Linh San lại kém xa mình, nếu tính trật lực lượng một chút là lập tức rớt xuống vực thẳm.

Gã toan ngăn cản nhưng thấy cô bé cao hứng nên không nói gì nữa, đứng yên bên sườn núi.

Nhạc Linh San bản tính hiếu thắng. Cô quyết tâm so bì với đại sư ca, trong lòng ngầm tính luồng lực đạo cùng bộ vị rồi chỉ hai chân xuống vọt người lên.

Lúc đang lơ lửng trên không cô vừa xoay mình nhẹ nhàng vừa vọt về phía trước. Cô muốn mình nhảy ra gần bờ vực hơn Lệnh Hồ Xung nên vận nội lực mạnh hơn một chút.

Lúc người cô đang hạ xuống đột nhiên cô sợ hãi quá chừng vì trước mặt cô là vực thẳm nhìn không thấy đáy. Cô bở vía la ầm lên.

Lệnh Hồ Xung vươn tay ra nắm lấy chân trái Nhạc Linh San. Lúc cô hạ mình xuống đất thấy hai chân cách bờ vực thẳm chỉ chừng một thước, đúng là xa hơn Lệnh Hồ Xung.

Nhạc Linh San vừa định thần đã cười nói:

– Đại sư ca! Tiểu muội hạ mình xuống còn xa hơn đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung thấy nét mặt cô chưa hết sợ hãi còn tai xanh không chút huyết sắc, liền khẽ vỗ lưng cô cười nói:

– Chúng ta đừng chơi trò này nữa. Nếu sư phụ sư nương mà biết ra tất người sẽ nặng lời trách mắng, có khi sư muội còn bị phạt như tiểu huynh, quay mặt vào tường một năm thì hỏng bét.

Nhạc Linh San định thần lùi lại hai bước. Cô cười nói:

– Nếu bị phạt như vậy thì cả hai chúng ta cùng ở đây quay mặt vào tường há chẳng thú lắm ư?

Chúng ta sẽ nhảy thi xem ai xa hơn.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Sư muội muốn ngày nào chúng ta cũng ở đây quay mặt vào tường hay sao?

Lúc Lệnh Hồ Xung nói câu này, gã đưa mắt nhìn vào căn thạch động bé nhỏ, trong lòng không khỏi bâng khuâng tự nghĩ:

– Mình được cùng tiểu sư muội ở trên đỉnh núi chót vót ngày đêm gần gũi nhau suốt một năm thì chẳng kém chi bậc thần tiên. Nhưng hỡi ôi làm gì có chuyện đó được?

Rồi gã nói:

– Tiểu huynh chỉ ngại sư phụ sẽ bắt tiểu muội quay mặt vào vách ở trong “Thoái tứ hiên”, không cho rời khỏi nửa bước. Như vậy thì chúng ta chẳng thể gặp mặt nhau được nữa.

Nhạc Linh San nói:

– Nếu thế thì thật bất công. Tại sao đại sư ca lại được ở đây chơi đùa mà lại đem giam tiểu muội vào “Thoái tứ hiên”?

Nhưng cô nghĩ tới phụ thân cùng mẫu thân quyết chẳng để cho mình ngày đêm ở đây bầu bạn với đại sư ca, liền nói lảng sang chuyện khác.

– Đại sư ca! Má má phái Lục hầu nhi hàng ngày đưa cơm đến cho đại sư cạ Tiểu muội liền bảo y:

“Lục sư ca ơi! Mỗi ngày sư ca phải trèo lên, trèo xuống ngọn núi cao ngất thì dù sư ca có là hầu nhi cũng

vất vả lắm. Tiểu muội muốn làm thay cho, sư ca có gì đội ơn tiểu muội”.

Lục hầu nhi liền đáp: “Sư nương phái tiểu huynh làm việc này, khi nào tiểu huynh dám trốn trách nhiệm. Vả lại đại sư ca rất yêu tiểu huynh, dù có phải đưa cơm cả năm thì mỗi ngày lại được gặp một lần, tiểu huynh rất lấy làm hoan hỉ thì còn ngại vất vả gì nữa?”.

Đại sư ca! Lục hầu nhi nói vậy có tệ không?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Y nói thực đó!

Nhạc Linh San lại nói:

– Lục hầu nhi còn bảo: “Bình thời tiểu huynh vẫn muốn nhờ đại sư ca dạy cho mấy đường võ công.

Nếu sư muội cũng đến tất tiểu huynh bị đuổi đi không được nói chuyện nhiều với đại sư ca”.

Đại sư ca khi nào lại thế được? Lục hầu nhi thật lắm chuyện lằng nhằng.

Y còn bảo: “Trong vòng một năm bắt đầu từ ngày hôm nay chỉ có mình tiểu huynh là được lên ngọn núi sám hối để gặp đại sư cạ Còn sư muội thì không được gặp y nữa”.

Tiểu muội tức quá phát cáu mà y vẫn bỏ mặc không nói gì. Về sau…

Lệnh Hồ Xung mỉm cười ngắt lời:

– Có phải sư muội rút kiếm ra hăm dọa y không?

Nhạc Linh San lắc đầu đáp:

– Không phải. Sau tiểu muội tức quá khóc òa lên. Lục hầu nhi mới lại năn nỉ nhường việc đưa cơm cho tiểu muội.

Lệnh Hồ Xung đưa mắt ngó Nhạc Linh San thì thấy cặp mắt cô hơi sưng lên, quả nhiên cô khóc thật. Gã không khỏi cảm động nghĩ thầm:

– Nàng đối đãi với mình như vậy thì dù mình có phải vì nàng mà chết đến trăm ngàn lần cũng thỏa dạ.

Nhạc Linh San mở thùng lấy hai đĩa rau và hai cái bát, hai đôi đũa đặt lên phiến đá lớn.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Sao lại những hai bát và hai đôi đũa?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Tiểu muội cũng ăn một chút để tiếp đại sư cạ Đại sư ca hãy coi xem cái gì đây?

Cô lấy một hồ rượu nhỏ ở dưới đáy thùng ra.

Lệnh Hồ Xung quý rượu như tính mạng. Gã vừa thấy rượu đã đứng lên nhìn Nhạc Linh San xá dài nói:

– Đa tạ tiểu sư muội. Tiểu huynh đang buồn cười chỉ sợ suốt năm trời không được hớp rượu nào.

Nhạc Linh San mở nút hồ rượu cầm đưa vào tay Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đại sư ca đành uống ít vậy. Mỗi ngày tiểu muội chỉ đánh cắp được một hồ này thôi, lấy nhiều sợ má má biết.

Lệnh Hồ Xung từ từ uống cạn hồ rượu rồi mới ăn cơm.

Theo lề luật phái Hoa Sơn thì tên đệ tử sám hối quay mặt vào tường là phải ăn chay cữ rượu, thịt.

Vì thế mà nhà bếp chỉ nấu cho Lệnh Hồ Xung một đĩa rau xanh, một đĩa đậu hủ. Nhưng Nhạc Linh San

nghĩ đến mình cùng đại sư ca đã qua cơn hoạn nạn, nên ăn uống rất ngon lành.

Hai người ăn cơm xong, Nhạc Linh San còn ngồi lại nói chuyện với Lệnh Hồ Xung đến nửa giờ.

Cô thấy trời đã gần tối mới thu thập bát đũa xuống núi.

Từ đó hàng ngày vào lúc hoàng hôn, Nhạc Linh San lại đưa cơm lên ngọn núi.

Lệnh Hồ Xung tuy một mình ở trên ngọn núi cao ngất nhưng không đến nỗi tịch mịch. Sáng dậy gã ngồi luyện công, rồi luyện kiếm pháp của sư phụ truyền thụ chọ Ngoài ra gã lặng lẽ suy nghĩ về phép khoái đao của Điền Bá Quang và chiêu kiếm “Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm” của sư nương.

“Ninh thị nhất kiếm tuy chỉ có một chiêu, nhưng nó bao hàm cả nội công lẫn kiếm pháp kỳ tuyệt của phái Hoa Sơn.

Lệnh Hồ Xung tự biết nội công cùng kiếm thuật của mình chưa đến được trình độ cao siêu mà cứ miễn cưỡng luyện tập thì chỉ có hại nhiều hơn có lợi, nên hàng ngày gã gia tâm luyện nội công. Như vậy gã tuy bị phạt quay mặt vào tường để sám hối mà thực ra gã chẳng quay mặt vào tường cũng không sám hối chi hết. Ngoại trừ lúc hoàng hôn gã không bận tâm việc gì cả, chỉ chuyên chú luyện công.

Tình trạng này lặng lẽ tiếp diễn được hơn hai tháng. Trên đỉnh núi Hoa Sơn mỗi ngày một rét hơn.

Một hôm lúc sáng dậy gió may vi vút thổi cho đến giờ ngọ thì trời đổ mưa tuyết xuống.

Hồi 48

Sư Huynh Sư Muội Chan Chứa Thâm Tình

Lệnh Hồ Xung ngẩng đầu trông trời chiều xám ngắt và nặng tuyết thì biết rằng trận mưa tuyết này kéo dài, bụng bảo dạ:

– Đường lên núi hiểm trở, nếu từ giờ đến chiều không ngớt mưa, đường đất trơn như mỡ đổ thì tiểu sư muội không nên đưa cơm cho ta nữa.

Nhưng gã ở vào tình trạng lên đỉnh núi sám hối, chẳng có cách nào đưa tin xuống được, trong lòng bứt rứt vô cùng. Bây giờ gã lại mong sư phụ sư nương mình đã biết rõ chuyện này, ra lời cấm đoán Linh San.

Gã lẩm bẩm:

– Tiểu sư muội hàng ngày thay Lục sư đệ đem cơm cho ta, lẽ nào sư phụ cùng sư nương lại không biết? Có điều hai vị muốn làm ngơ mà thôi. Bữa nay nếu nàng lên núi, khinh công tầm thường như vậy mà sẩy chân lỡ bước thì có thể nguy đến tính mạng. Chắc sư nương chẳng khi nào để cho nàng đi.

Từ lúc hoàng hôn, chốc chốc gã lại ngó xuống. Trời đã gần tối, quả nhiên gã vẫn không thấy Nhạc Linh San trèo lên, mới thở phào một cái nhẹ nhõm như trút được mối lo âu rồi tự nhủ:

– Đến sáng mai nhất định Lục sư đệ sẽ đưa cơm lên cho mình chỉ cầu sư muội đừng có mạo hiểm.

Gã toan vào thạch động nằm ngủ thì đột nhiên trên con đường lên núi có tiếng bước chân lép bép rồi tiếng Nhạc Linh San la gọi:

– Đại sư ca! Đại sư ca!

Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa hoan hỉ, gã hối hả chạy ra sườn núi. Trời vẫn xuống tuyết tới tấp như từng đám lông ngỗng phất phợ Nhạc Linh San đang dò từng bước một, vừa đi vừa xoại trên đường trơn tuột lên đỉnh núi.

Lệnh Hồ Xung vì có sứ mạng ngăn trở không dám rời khỏi đỉnh núi bước xuống nửa bước. Gã đành vươn tay đón lấy Nhạc Linh San.

Khi tay trái Nhạc Linh San chạm được tới tay phải Lệnh Hồ Xung, gã liền nắm lấy nhấc bổng nàng lên đỉnh núi.

Dưới ánh lờ mờ, gã thấy nàng toàn thân đầy tuyết bao phủ, cả đầu tóc cũng trắng xóa. Trên trán nàng và mé tả sưng lên bằng quả trứng gà, máu tươi vẫn còn rươm rướm chảy ra.

Gã kinh hãi hỏi:

– Tiểu sư muội… tiểu sư muội…

Nhạc Linh San miệng méo xệch đi như người sắp khóc. Nàng nói:

– Tiểu muội bị trượt chân té nhào, đánh rớt thùng cơm của đại sư ca xuống núi rồi. Bữa nay… đại sư ca phải nhịn đói.

Lệnh Hồ Xung vừa xúc động vừa thương cảm. Gã giơ tay áo lên khẽ chấm vào vết thương nàng mấy cái rồi nói:

– Đường lên núi trơn như vậy, tưởng sư muội chẳng nên trèo lên.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội lo đại sư ca không có cơm ăn… hơn nữa tiểu sư muội muốn thấy mặt đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Giả tỷ sư muội trượt chân té nhào xuống vực thẳm thì tiểu huynh còn mặt mũi nào trông thấy sư phụ cùng sư nương nữa?

Nhạc Linh San cười nói:

– Tiểu muội coi mặt biết là đại sư ca hoang mang lắm. Nhưng tiểu muội vẫn bình yên đây chứ có sao đâu? Chỉ đáng tiếc là chẳng được việc gì. Lúc lên gần tới bờ vực lại đánh rớt cả thùng cơm và hồ rượu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu huynh chỉ cầu trời khấn phật cho sư muội bình yên. Dù tiểu huynh có phải nhịn ăn nhịu uống đến 10 ngày cũng chẳng hề gì.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội đi chừng nửa giờ thì đường đất trơn quá phải đề khí nhảy vọt lên mấy lần rồi chuyền qua 5, 6 cành tùng. Lúc ấy tiểu muội thật cũng sợ rớt xuống khe núi.

Lệnh Hồ Xung năn nỉ:

– Tiểu sư muội! Tiểu sư muội nghe lời tiểu huynh: từ này trở đi tiểu sư muội chớ có mạo hiểm như thế nữa. Nếu tiểu sư muội té nhào thì tiểu huynh cũng phải nhảy xuống theo.

Cặp mắt Nhạc Linh San lộ ra những tia sáng vui mừng vô hạn. Nàng nói:

– Đại sư ca! Đại sư ca bất tất phải quá quan tâm như vậy? Tiểu muội đưa cơm mà lỡ chân té xuống là tự mình không cẩn thận, đại sư ca hà tất phải băn khoăn trong dạ?

Lệnh Hồ Xung từ từ lắc đầu nói:

– Không phải là chuyện băn khoăn. Nguyên việc đưa cơm là của Lục sư đệ. Giả tỷ gã có sơ ý té xuống vực sâu mất mạng thì tiểu huynh không đến nỗi phải nhảy xuống để chết theo gã.

Gã thủng thẳng nói tiếp:

– Tiểu huynh chỉ cần hết sức phụng dưỡng song thân y và chiếu cố cho người nhà y, chứ không phải nhân chuyện này chết theo bạn.

Nhạc Linh San khẽ hỏi:

– Thế ra tiểu muội mà chết thì đại sư ca cũng không muốn sống nữa hay sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng thế! Tiểu sư muội! Đó không phải là vì sư muội đưa cơm cho tiểu huynh. Giả tỷ sư muội có đưa cơm cho người khác mà gặp nạn, tiểu huynh cũng không thể sống được.

Nhạc Linh San nắm chặt tay Lệnh Hồ Xung, tình thắm thiết kể sao cho xiết!

Nàng khẽ gọi:

– Đại sư ca!

Lệnh Hồ Xung toan dang hai tay ra ôm nàng vào lòng nhưng lại không dám. Hai người bốn mắt nhìn nhau không nhúc nhích.

Trời vẫn tuyết dữ, tưởng chừng như muốn biến hai người thành đống tuyết.

Hồi lâu, lâu lắm, Lệnh Hồ Xung mới nói:

– Tối nay tiểu sư muội không thể xuống núi một mình được. Sư phụ cùng sư nương có biết sư muội lên đây không? Nếu hai vị phái người lên đón sư muội xuống thì hay quá.

Nhạc Linh San đáp:

– Sáng nay đột nhiên gia gia tiếp được thư của Tả minh chủ phái Tung Sơn gửi đến nói là có việc cần thương nghị, nên gia gia cùng má má hạ sơn rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vậy còn ai biết tiểu sư muội lên núi không?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Không ai biết cả. Nhị sư ca, Tam sư ca, Tứ sư ca và Lục Hầu Nhi bốn người đi theo gia gia cùng má má qua bên Tung Sơn, chẳng một ai hay tiểu muội lên đây với đại sư ca cả. Ồ ! phải rồi! Có thằng lỏi Lâm Bình Chi trông thấy tiểu muội lên núi. Nhưng tiểu muội đã cảnh cáo gã không được mỏng môi hớt lẻo. Nếu bép xép thì sáng mai tiểu muội sẽ đập vào xác.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Bà sư tỷ oai quá xá!

Nhạc Linh San cười nói:

– Hẳn thế chứ! Mấy khi được người kêu mình bằng sư tỷ, mình chẳng làm oai, làm phước cũng uổng. Tiểu muội có được như đại sư ca đâu, ai ai cũng kêu đại sư ca bằng đại sư ca thì cái đó thường quá rồi.

Hai người nổi lên một tràng cười khoái trá.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thế thì đêm nay tiểu sư muội không thể về được rồi, đành ở lại trong động tránh mưa một đêm, sáng mai hãy xuống núi vậy.

Gã nắm tay Nhạc Linh San dắt vào thạch động.

Thạch động này nhỏ hẹp vừa đủ chỗ cho hai người dung thân, muốn quay trở cũng không còn đất.

Hai người đành ngồi đối diện nói chuyện đường dài cho đến đêm khuya.

Nhạc Linh San giọng nói mỗi lúc một thêm lờ mờ rồi ngủ thiếp đi.

Lệnh Hồ Xung sợ nàng rét, cởi áo ngoài đắp lên người nàng.

ánh tuyết lung mung ngoài cửa động chiếu vào, Lệnh Hồ Xung nhìn hơi rõ nét mặt Nhạc Linh San lòng lại nhủ lòng:

– Tiểu sư muội đã tình nồng nghĩa mặn với mình như vậy sau này mình có phải vì nàng mà tan xương nát thịt cũng cam tâm.

Gã ngồi lặng lẽ trầm tư, nhớ lại từ thuở nhỏ không cha không mẹ, hoàn toàn trông cậy vào sư phụ, sư nương nuôi dưỡng cho khôn lớn. Hai vị lại thương yêu gã như con ruột. Gã là đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn, chẳng những nhập môn sớm nhất mà võ công lại cao cường hơn bọn sư đệ rất nhiều. Sau này chắc chắn gã sẽ là người thừa hưởng địa vị của sư phụ lên cầm quyền phái Hoa Sơn.

Gã nghĩ vậy rồi lẩm bẩm:

– Tiểu sư muội tha thiết với mình mà ơn đức của sư phụ thật khôn bề báo đáp. Đáng ân hận là tính mình lãng mạn, thỉnh thoảng lại khiến sư phụ cùng sư nương phải tức giận và làm phụ lòng kỳ vọng của hai vị. Từ nay trở đi mình phải sửa đổi lỗi lầm. Nếu không thế thì chẳng những bạc bẽo với sư phụ, sư mẫu mà còn là vô hạnh với tiểu sư muội nữa.

Lệnh Hồ Xung nhìn mớ tóc mây của Nhạc Linh San phất phơ, ngơ ngẩn xuất thần. Bỗng nghe nàng khẽ cất tiếng gọi:

– Thằng lỏi họ Lâm kia! Mi không nghe lời tạ Lại đây! Ta phải đập vào xác mi mới xong.

Lệnh Hồ Xung sửng sốt, nhưng thấy ngay mắt nàng vẫn nhắm, gã nghiêng người lắng tai nghe: hơi thở nàng vẫn đều đặn. Gã biết là nàng đang nói mê rồi không khỏi bật cười nghĩ bụng:

– Nàng được lên làm sư tỷ một chuyến ra vẻ oai vệ lắm. Chà! Mấy bữa nay Lâm sư đệ bị nàng kêu tới kêu lui chắc cũng bực mình. Bây giờ nàng đang trong giấc mơ, vẫn không quên mắng gã.

Lệnh Hồ Xung ngồi hộ vệ bên mình nàng cho đến trời sáng không nhắm mắt chút nào.

Nhạc Linh San vì hôm trước trèo núi vất vả, ngủ cho đến giờ thìn mới thức giấc. Nàng vừa tỉnh dậy thấy Lệnh Hồ Xung đang mỉm cười nhìn mình, liền vươn vai ngáp dài rồi cười nói:

– Đại sư ca dậy sớm nhỉ.

Lệnh Hồ Xung không cho nàng biết là mình thức suốt đêm. Gã cười hỏi:

– Tiểu sư muội nằm mơ thấy gì? Có phải Lâm sư đệ bị sư muội đánh đòn không?

Nhạc Linh San nghẹo đầu ngẫm nghĩ một chút rồi cười hỏi lại:

– Đại sư ca nghe tiểu muội nói mơ phải không? Thằng lỏi Lâm Bình Chi bướng bỉnh lắm. Gã không nghe lời tiểu muội. Hà hà! Ban ngày tiểu muội mắng gã, ngủ đi cũng mắng gã nữa.

Lệnh Hồ Xung vừa cười vừa hỏi:

– Gã đắc tội với sư muội ở chỗ nào?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Tiểu muội nằm mơ thấy mình kêu gã đi theo ra ngoài thác nước luyện kiếm mà gã cứ tìm lời chối mãi không chịu đi theo. Tiểu muội liền gạt gã ra đến bờ thác nước rồi đẩy gã xuống.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Trời ơi! Như thế không được! Làm vậy lỡ xẩy án mạng thì sao?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Đó là nằm mơ chứ có phải chuyện thật đâu? Can chi đại sư ca phải quan tâm? Đại sư ca sợ tiểu muội giết chết gã tiểu tử họ Lâm thật ư?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ngày nghĩ sao thì đêm mơ làm vậy. Ban ngày tiểu sư muội chắc là đã có ý định giết Lâm sư đệ, nghĩ quanh, nghĩ quẩn hoài nên ban đêm mới nằm mơ như vậy.

Nhạc Linh San bĩu môi nói:

– Thằng lỏi đó thật vô dụng. Một bài kiếm pháp nhập môn gã luyện tới ba tháng rồi mà chẳng ăn thua gì. Gã dụng công ghê gớm quá, luyện đêm luyện ngày, khiến ai ngó thấy cũng phải tức mình. Tiểu muội mà muốn giết gã thì cần gì phải suy nghĩ, chỉ cần giơ kiếm lên hớt một nhát là xong rồi.

Nàng vừa nói vừa giơ tay phải lên quét ngang một cái như người sử một chiêu Hoa Sơn kiếm pháp.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Chiêu “Bạch Vân xuất trục” đó mà đưa ra tất gã họ Lâm phải rơi đầu xuống đất.

Nhạc Linh San cười khanh khách nói:

– Nếu tiểu muội sử chiêu “Bạch Vân xuất trục” thì nhất định là gã mất đầu thật.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sư muội đã làm sư tỷ, vậy khi thấy kiếm pháp sư đệ kém cỏi thì chỉ điểm cho y mới phải, sao động một tý đã toan vung kiếm giết người? Rồi đây sư phụ còn thu đệ tử nữa và chúng đều là sư đệ của sư muội. Sư phụ có thu được trăm tên đệ tử để trong vòng mấy ngày sư muội giết đi 99 tên thì làm thế nào?

Nhạc Linh San vịn vào vách đá, cười ngặt nghẽo đáp:

– Đại sư ca nói đúng lắm. Tiểu muội chỉ giết 99 tên thế nào cũng phải để lại một. Nếu giết hết sạch thì còn ai kêu mình bằng sư tỷ nữa?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu sư muội mà giết 99 tên sư đệ thì tên thứ 100 tất phải chuồn đi, còn đâu để cho sư muội làm chức sư tỷ nữa?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Nếu không còn ai thì tiểu muội bắt ép đại sư ca kêu bằng sư tỷ vậy.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu huynh kêu sư muội bằng sư tỷ cũng không sao. Nhưng sư muội có giết tiểu huynh không?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Đại sư ca nghe lời thì tiểu muội không giết, bằng chẳng nghe lời cũng giết đi.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Thưa tiểu sư tỷ! Xin tiểu sư tỷ tha mạng cho.

Lệnh Hồ Xung thấy trời hết mưa tuyết, gã sợ bọn sư đệ, sư muội không thấy Nhạc Linh San đâu sẽ lần mò lên tìm kiếm rồi nói bóng nói gió khiến cho nàng phải khó chịu. Gã nói đùa một lúc rồi hối thúc nàng xuống núi.

Nhạc Linh San vẫn quyết luyến không nỡ rời tay, nàng nói:

– Tiểu muội muốn ở lại đây ngắm phong cảnh lúc nữa. Gia gia cùng má má đều đi vắng, một mình tiểu muội ở nhà buồn chết được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sư muội cưng ơi! Mấy bữa nay tiểu huynh lại nghĩ ra mấy chiêu “Xung Linh kiếm pháp” chờ khi tiểu huynh xuống núi sẽ cùng sư muội xuống thác nước rèn luyện.

Gã dỗ dành như vậy Nhạc Linh San mới chịu xuống núi.

Hôm ấy vào lúc hoàng hôn, Cao Căn Minh đưa cơm lên nói là Nhạc Linh San bị cảm mạo phong hàn, người sốt li bì nằm trên giường bệnh. Y vẫn nhớ tới đại sư ca, căn dặn tiểu đệ lúc đem cơm cần nhất là phải đừng quên hồ rượu của đại ca.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, trong lòng lo lắng vô cùng. Gã biết Nhạc Linh San chiều hôm trước bị té đau lại vừa sợ hãi mà thành bệnh. gã giận mình chẳng thể bay xuống thăm nàng. Tuy gã đã nhịn đói suốt một ngày đêm, nhưng cầm lấy chén cơm mà tựa hồ nghẹn họng không nuốt xuống được.

Cao Căn Minh biết rõ mối tình ái tha thiết giữa đại sư ca và tiểu sư muội, nên Lệnh Hồ Xung vừa nghe nàng mắc bệnh đã nóng lòng sốt ruột, liền kiếm lời khuyên giải:

– Đại sư ca chẳng nên quá âu cho mệt. Hôm qua trời xuống tuyết dữ, chắc tiểu sư muội vì ham ngắm cảnh mà bị cảm hàn. Bọn ta đã là những người tu tập võ công thì chuyện nóng lạnh chút xíu phỏng có chi đáng ngại? Y chỉ uống một toa thuốc là khỏi liền.

Ngờ đâu chuyện này Nhạc Linh San bị bệnh đến đến mười mấy ngày.

Vợ chồng Nhạc Bất Quần trở về dùng nội lực khu phong trừ hàn cho, nàng mới được bớt dần.

Hôm nàng lên núi được là đã trải qua hơn 20 ngày ngọa bệnh. Hai người cách mặt khá lâu nay được tái hội, nỗi hoan hỉ kể sao cho xiết.

Nhạc Linh San ngưng thần nhìn vào mặt Lệnh Hồ Xung kinh hãi hỏi:

– Đại sư ca! Đại sư ca cũng mắc bệnh hay sao mà gầy quá thế?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Tiểu huynh có mắc bệnh gì đâu?… Tiểu huynh…

Nhạc Linh San tỉnh ngộ ngay, bỗng khóc oà lên nói:

– Đại sư ca!… Đại sư ca vì thương nhớ tiểu muội mà ốm nhóc đến thế này ư? Đại sư ca ơi! Tiểu muội hoàn toàn bình phục rồi.

Lệnh Hồ Xung nắm lấy tay nàng khẽ nói:

– Mấy bữa nay tiểu huynh cả ngày lẫn đêm cứ ngó xuống con đường kia. Tạ Ơn trời đất. Nay tiểu sư muội lại đến được.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội lúc nào cũng thấy hình ảnh đại sư ca trước mắt.

Lệnh Hồ Xung lấy làm kỳ hỏi:

– Tiểu sư muội nhìn thấy ta ư?

Nhạc Linh San đáp:

– Phải rồi tiểu muội bị bệnh h nhắm mắt đi là thấy đại sư cạ Một hôm lên cơn sốt dữ, má má bảo tiểu muội nói mê nhiều quá mà toàn nói với đại sư cạ Đại sư ca ơi! Má má biết vụ tối hôm trước tiểu muội ở đây bần bạn với đại sư ca rồi.

Lệnh Hồ Xung đỏ mặt lên, trong lòng hoảng hốt hỏi:

– Sư nương có nổi giận không?

Nhạc Linh San ngập ngừng đáp:

– Má má không giận đâu. Nhưng… nhưng…

Nàng nói tới đây đột nhiên hai má ửng hồng rồi không nói nữa.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Nhưng làm sao?

Nhạc Linh San đáp:

– Tiểu muội không nói nữa.

Lệnh Hồ Xung thấy nàng bẽn lẽn thì trong lòng cũng ngẩn ngợ Gã vội trấn tĩnh tâm thần nói:

– Tiểu sư muội! Tiểu sư muội bệnh nặng mới khỏi, không lên núi vội. Tiểu sư muội bệnh tình thuyên giảm. Ngũ sư đệ và Lục sư đệ đưa cơm lên đều nói cho tiểu huynh biết tin tức.

Nhạc Linh San hỏi:

– Vậy mà sao đại sư ca lại gầy đi đến thế?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Tiểu sư muội mà khỏi bệnh là tiểu huynh lại mập ngay.

Nhạc Linh San lại hỏi:

– Đại sư ca nói thật cho tiểu muội hay, mấy hôm ấy mỗi bữa đại sư ca ăn mấy chén cơm? Lục hầu nhi bảo đại sư ca chỉ uống rượu chứ không ăn cơm. Y đã khuyên giải mà đại sư ca vẫn không nghe. Đại sư ca ơi! Tại sao đại sư ca lại không giữ gìn thân thể?

Nàng nói tới đây hai mắt đỏ hoe.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Lục hầu nhi nói dóc đó, tiểu sư muội đừng nghe. Gã có tính hay thổi phồng câu chuyện. Chẳng bao giờ tiểu huynh chỉ uống rượu mà không ăn cơm cả.

Bỗng một cơn gió lạnh thổi vào. Nhạc Linh San rét run cầm cập. Hiện thời đang vào buổi trọng đông, trên đỉnh núi trọc bốn mặt trống trải, không có cây cối ngăn cản. Núi Hoa Sơn đã cực kỳ lạnh lẽo, trên đỉnh núi trọc này càng lạnh ghê người.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Tiểu sư muội! Trong người tiểu sư muội còn chưa hoàn toàn hồi phục, tiểu sư muội chớ để khí lạnh thấm vào người, mau mau xuống núi đi! Chờ hôm nào có mặt trời nắng to, tiểu sư muội hoàn toàn tráng kiện hãy lên thăm tiểu huynh.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội không thấy lạnh. Mấy bữa nay nếu chẳng gió gào thì cũng tuyết dữ, biết chờ đến bao giờ mới được ngày trời nắng.

Lệnh Hồ Xung trong dạ bồn chồn hỏi:

– Nếu tiểu sư muội lại bệnh thì làm thế nào? Tiểu huynh… tiểu huynh…

Nhạc Linh San thấy hình dong gã tiều tụy, bụng bảo dạ:

– Nếu mình mắc bệnh thực thì tất nhiên y cũng ốm mất. Y ở trên đỉnh núi chót vót này không ai phục thị, có khi nguy đến tính mạng.

Nghĩ vậy nàng liền đáp:

– Thôi được! Vậy tiểu muội xuống núi đây. Đại sư ca hãy nhớ giữ mình, ít uống rượu và mỗi bữa ăn ba chén cơm đầy nhé. Tiểu muội về nói cho gia gia hay là đại sư ca người không được mạnh, cần phải tẩm bổ, chẳng thể ăn chay mãi được.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Tiểu huynh không dám phạm giới ăn mặn. H tiểu huynh thấy tiểu sư muội khỏi bệnh là chỉ trong ba bữa, tiểu huynh sẽ mập ngaỵ Hảo muội tử ơi xuống đi thôi.

Nhạc Linh San nghe Lệnh Hồ Xung kêu mình bằng hảo muội tử thì trong lòng sung sướng đám

đuối nhìn gã, hai má ửng hồng khẽ hỏi:

– Đại sư ca kêu tiểu muội bằng gì?

Lệnh Hồ Xung thấy mình vô ý liền đáp:

– Đó là tiểu huynh buột miệng gọi thế. Tiểu sư muội min trách cho.

Nhạc Linh San nói:

– Làm sao mà trách? Tiểu muội muốn đại sư ca cứ thế mà gọi.

Lệnh Hồ Xung nóng cả mặt mày. Lòng gã rạo rực muốn dang hai tay ôm chầm lấy nàng vào lòng, nhưng lại nghĩ thầm:

– Tiểu sư muội là một vị cô nương cao cả như bậc thiên thần, có lý đâu mình lại tiết mạn với nàng?

Gã vội ngoảnh đầu nhìn ra chỗ khác, rủ rỉ nói:

– Lúc tiểu sư muội xuống núi nên đi thong thả từng bước một, hễ thấy mệt thì ngủ một lúc, chớ có chạy thẳng một lèo như lúc bình thời.

Nhạc Linh San dạ một tiếng rồi từ từ trở gót thất thểu đi ra sười núi.

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng bước chân nàng xa dần, đột nhiên gã quay đầu nhìn lại thì thấy Nhạc Linh San đã xuống sườn núi được chừng vài trượng. Nàng đang trân trố nhìn gã.

Bốn mắt nhìn nhau hồi lâu, Lệnh Hồ Xung thúc giục:

– Tiểu sư muội cứ thủng thẳng cất bước và nên xuống núi đi thôi.

Nhạc Linh San lại dạ một tiếng rồi quay mình xuống núi.

Hôm ấy Lệnh Hồ Xung cảm thấy trong người chan chứa nỗi hân hoan, trong đời gã chưa được ngày nào sung sướng như bữa naỵ Gã ngồi trên tảng đá, không nhịn được bật tiếng cười. Đột nhiên gã lại huýt lên một hồi còi khoái trá. Tiếng còi vang dội trong sơn cốc tựa hồ như tiếng reo:

– Ta sung sướng quá! Ta sung sướng quá!

Hôm sau trời lại mưa tuyết. Quả nhiên Nhạc Linh San không lên núi nữa. Lệnh Hồ Xung được Lục Đại Hữu nói cho gã hay là nàng bình phục rất mau lẹ, mỗi ngày dường như tráng kiện hơn một bậc, trong lòng gã mừng rỡ khôn xiết.

Sau hơn hai chục ngày, Nhạc Linh San xách một thùng bánh nếp lên núi. Nàng chú ý nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc lâu rồi mỉm cười nói:

– Đại sư ca quả nhiên không gạt tiểu muội, bữa nay mập ra nhiều thiệt.

Lệnh Hồ Xung cũng thấy mặt nàng đã tươi thắm liền cười nói:

– Tiểu sư muội hoàn toàn bình phục rồi. Cứ thế là tiểu huynh hả dạ.

Nhạc Linh San nói:

– Đã lâu tiểu muội không lên thăm, đại sư ca có giận không?

Lệnh Hồ Xung vừa cười vừa lắc đầu.

Nhạc Linh San lại nói:

– Ngày nào tiểu muội cũng nằng nặc đòi đem cơm cho đại sư ca, nhưng má má nhất định không chịu. Người nói nào trời lạnh nào thấp khí nặng nề, làm như h lên núi là chết bỏ mạng ngay không bằng. Tiểu muội bảo đại sư ca cả ngày lẫn đêm ở trên đỉnh núi mà có bệnh tật gì đâu. Má má liền bảo: “Đại sư ca nội công cao cường, tiểu muội bì thế nào được?”. Má má khen sau lưng đại sư ca có thích không?

Lệnh Hồ Xung gật đầu cười nói:

– Tiểu huynh lúc nào cũng tưởng niệm sư phụ, sư nương chỉ mong sớm được thấy mặt hai vị một lần.

Nhạc Linh San nói:

– Hôm qua tiểu muội giúp má má làm bánh suốt ngày và trong lòng chỉ mong lấy được mấy chiếc đem lên cho đại sư ca ăn. Ngờ đâu bữa nay tiểu sư muội chưa mở miệng má má đã nói ngay: “Hài nhi cầm thùng bánh này đêm lên cho Xung nhi ăn”. Thật là một chuyện không ngờ.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Sư nương đối với mình thật tốt quá.

Nhạc Linh San lại nói:

– Bánh nếp nấu xong hãy còn nóng hổi. Tiểu muội bóc hai tấm cho đại sư ca xơi nhé.

Đoạn nàng cầm thùng bánh đi vào thạch động rồi cởi dây bóc lá ra.

 

Hồi 49

Hất Bảo Kiếm Hồ Xung Hối Hận

Lệnh Hồ Xung vừa ngửi thấy mùi thơm mang mác, Nhạc Linh San đã cầm bánh đã cầm tấm bánh bóc rồi cười hì hì đưa cho gã. Gã đón lấy cắn ngay một miếng ăn. Tuy đó chỉ là tấm bánh chay, nhưng có nấm hương, rau khúc, đậu xanh và hạt sen nên rất thơm ngon.

Nhạc Linh San nói:

– Nấm hương này mới do tiểu Lâm tử cùng tiểu muội mới hái về hôm kia…

Lệnh Hồ Xung hỏi xen vào:

– Tiểu Lâm tử là ai?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Chính là Lâm sư đệ. Gần đây tiểu muội cứ kêu gã bằng tiểu Lâm tử. Hôm kia gã bảo tiểu muội dưới gốc cây tùng ở mé Đông ngoài cổng có mọc nấm, rồi gã cùng tiểu muội đi kiếm hàng nửa ngày trời mới có lưng giỏ. Tuy ít nấm, nhưng hương vị cũng khá thơm ngon, phải không đại sư ca?

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Thơm lắm! Suýt nữa tiểu huynh nuốt cả lưỡi vào! Tiểu sư muội! Sư muội không mắng mỏ Lâm sư đệ nữa chứ?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Sao lại không? Gã mà bướng bỉnh chẳng chịu nghe lời là tiểu muội lại mắng liền. Có điều gần đây gã dễ bảo hơn một chút nên tiểu muội cũng mắng ít đi một phần. Gã gắng công luyện kiếm, khi nào thấy gã tiến bộ tiểu muội lại khen gã vài câu: “Này tiểu Lâm tử! Chiêu đó ngươi sử đúng đấy, khá hơn hôm qua nhiều rồi. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Ráng mà luyện đi nghẹ”

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu sư muội có dạy gã luyện kiếm bao giờ không?

Nhạc Linh San đáp:

– Ồ! Gã nói giọng Phúc Kiến. Các vị sư huynh, sư tỷ nghe không rành. Tiểu muội đã đi Phúc Châu, nên mới hiểu được. Gia gia liền bảo tiểu muội có lúc nào rảnh thì chỉ điểm cho gã. Đại sư ca ơi! Tiểu muội không được lên đây thăm đại sư ca, buồn quá chẳng có việc gì làm, liền dậy gã mấy chiêu kiếm pháp. Tiểu Lâm tử không đến nỗi dốt nát đâu. Gã học nhanh đáo để.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Thế ra tiểu muội vừa làm sư tỷ vừa làm sư phụ gã. Dĩ nhiên gã chẳng khi nào dám bướng bỉnh với sư muội nữa.

Nhạc Linh San nói:

– Vậy mà không hẳn thế đâu nhé. Hôm qua tiểu muội bảo gã theo mình đi săn gà rừng, gã không chịu nói là hai chiêu “Bạch hồng quán nhật” và “Thiên thân đảo huyền” gã chưa thuộc, cần phải luyện ngay kẻo quên mất.

Lệnh Hồ Xung lấy làm kỳ hỏi:

– Gã mới lên núi Hoa Sơn có mấy tháng mà đã luyện tới hai chiêu “Bạch Hồng quán nhật” và “Thiên thân đảo huyền” rồi kia à? Tiểu sư muội ơi! Luyện kiếm pháp cần phải theo thứ tự không nên cấp tiến.

Nhạc Linh San đáp:

– Đại sư ca bất tất phải quan tâm. Tiểu muội không muốn dạy ẩu, nhưng gã tiểu Lâm tử rất cương cường hiếu thắng. Gã luyện kiếm cả ngày cả đêm. Lúc nào tiểu muội muốn nói chuyện gẫu với gã cũng chỉ được vài ba câu là gã đã quay sang hỏi đến kiếm pháp. Người ta phải học đến ba năm, thì gã chỉ mất nửa năm đã thuộc rồi. Tiểu muội kéo gã đi chơi cũng chẳng bao giờ gã chịu theo mình một cách mau lẹ.

Lệnh Hồ Xung lẳng lặng không nói gì nữa. Đột nhiên trong lòng nổi cơn phiền muộn khôn hở ra lời. Tấm bánh nếp mới ăn hai miếng, còn một nửa hắn cứ cầm yên, lộ vẻ bần thần.

Nhạc Linh San kéo tay hắn, cười nói giỡn:

– Đại sư ca! Đại sư ca nuốt lưỡi vào bụng rồi chăng? Sao lại thừ người ra, không nói gì vậy?

Lệnh Hồ Xung giật mình, đút cả nửa tấm bánh vào miệng. Tấm bánh thơm ngon là thế mà hiện giờ đối với hắn chẳng có mùi vị gì hết, hắn không sao nuốt được, cứ dính vào miệng.

Nhạc Linh San nắm lấy tay hắn, cười khanh khách nói:

– Đại sư ca ăn vội, để bánh dính vào răng rồi.

Lệnh Hồ Xung gượng cười, cố gắng nuốt tấm bánh xuống cổ họng bụng bảo dạ:

– Mình ngốc thật! Tiểu sư muội thích vui vẻ, mình lại không xuống núi được, vậy nàng bầu bạn với Lâm sư đệ là chuyện tầm thường. Thế mà mình bụng dạ nhỏ nhen, để ý cả những cái vặt.

Hắn nghĩ vậy liền cảm thấy trong lòng thư thái, rồi cười nói:

– Tấm bánh này nhất định có tiểu muội ở trong, nên nó mới dính đến thế, gắn liền cả răng với lưỡi vào làm một.

Nhạc Linh San cười ha hả một hồi rồi nói:

– Đáng thương cho đại sư ca! Đại sư ca ở trên núi trọc, mới thành háu ăn đến thế này.

Nhạc Linh San xuống núi sau mấy ngày mới lại lên. Lần này đem theo một giỏ trái tùng khô.

Lệnh Hồ Xung mong nàng đã mòn con mắt.

Trong mười mấy ngày trời, hắn hỏi thăm tin tức tiểu sư muội ở Lục Đại Hữu khi gã đưa cơm lên, nhưng gã lộ vẻ khác lạ, nói năng không được tự nhiên.

Lệnh Hồ Xung sinh lòng ngờ vực nói, kiếm lời gạn hỏi, vẫn chẳng biết hơn được điều gì.

Lục Đại Hữu chỉ nói là tiểu sư muội vẫn khỏe mạnh, chắc sư phụ không muốn cho nàng lên thăm luôn e làm trở ngại đến cuộc tu luyện của đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung ngày đêm mong nhớ, đột nhiên Nhạc Linh San lên núi, dĩ nhiên hắn mừng rỡ biết là chừng nào. Hắn thấy nàng đẹp phây phây, vui tươi óng ả hơn cả trước ngày mắc bệnh thì trong lòng không khỏi nghi ngờ tự hỏi:

– Người nàng hiển nhiên mạnh lắm rồi mà sao lâu ngày mới lại lên đây? Chẳng lẽ sư phụ, sư nương không cho phép thật ư?

Nhạc Linh San gặp Lệnh Hồ Xung đột nhiên nàng đỏ mặt lên hỏi:

– Đại sư ca! Lâu ngày tiểu muội không lên thăm đại sư ca, đại sư ca có oán giận tiểu muội không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Khi nào tiểu huynh lại oán giận tiểu sư muội? Chắc sư phụ cùng sư nương không cho lên chứ gì?

Nhạc Linh San đáp:

– Đúng thế! Gia gia bắt tiểu muội luyện kiếm pháp mới. Người nói là kiếm pháp này biến hóa rất phức tạp. Nếu tiểu muội lên chơi với đại sư ca tất phải phân tâm.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Kiếm pháp gì?

Nhạc Linh San đáp:

– Đại sư ca thử đoán coi!

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Có phải “Nhật tự tuệ kiếm” không?

Nhạc Linh San lắc đầu đáp:

– Không phải!

Lệnh Hồ Xung lại hỏi:

– Phải chăng là “Minh Minh kiếm”?

Nhạc Linh San vẫn lắc đầu:

– Đại sư ca hay đoán nữa đi!

Lệnh Hồ Xung lại hỏi:

– Hay là “Thục nữ kiếm”?

Nhạc Linh San thè lưỡi đáp:

– Đó là bản lãnh cao thâm của má má. Tiểu muội không đủ tu cách học “Thục nữ kiếm”. Tiểu muội nói cho đại sư ca hay: kiếm pháp này tên gọi “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức”.

Nàng vừa nói vừa ra chiều đắc ý.

Lệnh Hồ Xung hơi kinh ngạc hỏi:

– Tiểu sư muội bắt đầu luyện “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” rồi ư? Kiếm pháp này quả phức tạp vô cùng.

Bây giờ hắn mới hết băn khoăn trong dạ.

“Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” tuy chỉ có mười chín thức, nhưng trong mỗi chiêu bao gồm mấy chiêu, mỗi thức chuyển thành nhiều thức, biến hóa khôn lường. Nếu không nhớ rõ thì sử một thức cũng không xong. Kể về công lực của Nhạc Linh San hiện nay thì dường như nàng chưa nên luyện kiếm pháp này mới phải.

Ngày trước Lệnh Hồ Xung và mấy vị sư đệ, sư muội đã được coi sư phụ cùng sư nương chiết giải kiếm pháp đó.

Sư phụ đã sử bao nhiêu kiếm pháp các môn phái khác nhau để tấn công, còn sư nương thủy chung chỉ thi triển “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” để chống đối. Rút cục mười chín thức “Ngọc nữ kiếm” đấu với hàng mấy trăm kiếm chiêu rất cao minh mà vẫn giữ thế quân bình. Bọn đệ tử phái Hoa Sơn đứng theo dõi cuộc đấu đều lấy làm kinh dị và khâm phục vô cùng.

Khi ấy Nhạc Linh San năn nỉ mẫu thân truyền thụ “Ngọc nữ kiếm” thì Nhạc phu nhân bảo:

– Một là hài nhi còn nhỏ tuổi hai là luyện kiếm pháp này hao tổn tinh thần quá độ, phải chờ tới năm hai chục tuổi mới học được. Mặt khác “Ngọc nữ kiếm” mà luyện đi luyện lại sẽ biến thành một thứ võ công chuyên để phá kiếm pháp Hoa Sơn.

Đoạn bà khuyên nhủ nàng:

– Xung nhi hiểu rất nhiều ngoại gia kiếm pháp, những lúc rảnh việc gã sẽ chỉ điểm cho hài nhi tập luyện.

Vụ này cách đây đã hai năm rồi từ đó không ai nhắc tới “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” nữa.

Không ngờ nay Nhạc Linh San tự nhiên lại bắt đầu luyện môn này.

Lệnh Hồ Xung trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp:

– Hồi này chắc sư phụ cao hứng lắm nên hàng ngày mới đem “Ngọc nữ kiếm” ra dạy tiểu muội.

Nguyên trong phái Hoa Sơn chỉ có Nhạc Bất Quần và Lệnh Hồ Xung là hiểu rộng nhiều kiếm pháp bên ngoài. Nhạc Linh San mà luyện Ngọc nữ kiếm dĩ nhiên phải Nhạc Bất Quần đích thân đứng ra truyền thụ, mỗi ngày dạy nàng mấy chiêu.

Nhạc Linh San hai má ửng hồng nói:

– Gia gia không dậy đâu, chỉ có tiểu Lâm tử mỗi ngày cùng tiểu muội phân tách vài chiêu tự luyện với nhau mà thôi.

Lệnh Hồ Xung lấy làm kỳ hỏi:

– Lâm sư đệ cũng hiểu nhiều ngoại gia kiếm pháp ư?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Gã chỉ biết có một môn “Tịch tà kiếm pháp” gia truyền mà thôi. Gia gia bảo: Tuy về uy lực “Tịch tà kiếm pháp” không lợi hại lắm nhưng biến chiêu thần kỳ có thể mượn phương thức biến hóa ở đó được.

Tiểu muội bắt đầu luyện “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” bằng cách chống đối “Tịch tà kiếm pháp” cũng tạm được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Té ra là thế.

Nhạc Linh San hỏi:

– Dường như đại sư ca không thích thế thì phải?

Hoa Sơn đáp:

– Không có đâu. Khi nào tiểu huynh lại không thích? Tiểu sư muội mà còn luyện được môn kiếm pháp thượng thặng của bản phái tiểu huynh mừng còn chưa đủ, lẽ nào lại không tán thành được?

Nhạc Linh San nói:

– Nhưng tiểu sư muội con thần sắc đại sư ca rõ ràng có vẻ buồn thiu.

Lệnh Hồ Xung gượng cười hỏi:

– Tiểu sư muội luyện đến chiêu thứ mấy rồi?

Nhạc Linh San không đáp. Hồi lâu nàng mới nói:

– Phải rồi! Má má đã bảo để đại sư ca phân tích chiêu thức cho, mà bây giờ tiểu muội lại kêu gã tiểu Lâm tử chiết chiêu, nên đại sư ca không vui có đúng thế không? Nhưng đại sư ca ơi! Đại sư ca phải ở lại đây còn lâu không xuống được mà tiểu muội thì nóng luyện ngay nên chẳng thể chờ đại sư ca được.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Tiểu sư muội lại nói chuyện con nít rồi. Đã là sư huynh, sư muội đồng môn thì ai chiết chiêu cho tiểu sư muội chả thế.

Hắn ngừng lại một chút rồi cười nói:

– Tiểu huynh biết sư muội muốn cùng Lâm sư đệ chiết chiêu chứ không thích đánh đôi với tiểu huynh.

Nhạc Linh San đỏ mặt lên nói:

– Đại sư ca nói nhăng rồi. Bản lãnh tiểu Lâm tử sơ với đại sư ca cách xa nhau hàng vạn dặm.

Bảo gã chiết chiêu thì còn thú gì?

Lệnh Hồ Xung cười nghĩ bụng:

– Lâm sư đệ mới nhập môn được mấy tháng, dù gã thông minh đến mấy cũng chưa ăn thua gì.

Hắn nghĩ vậy, bao nhiêu nỗi buồn phiền lại tiêu tan lập tức. Hắn cười nói:

– Thế thì tiểu huynh phân tích mấy chiêu về “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” để xem sư muội luyện được đến đâu.

Nhạc Linh San cả mừng cười nói:

– Hay lắm. Bữa nay… tiểu muội lên đây là để…

Nàng e lệ rút trường kiếm ra.

Lệnh Hồ Xung nói theo:

– Bữa nay tiểu sư muội lên đây là để đem kiếm pháp mới học được thi triển cho tiểu huynh coi thử. Nào tiểu sư muội thử ra tay đi.

Nhạc Linh San cười nói:

– Đại sư ca! Kiếm pháp của đại sư ca trước nay cao minh hơn tiểu muội. Nhưng tiểu muội luyện xong được “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” rồi là không sợ đại sư ca bắt nạt nữa.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu huynh có bắt nạt sư muội bao giờ đâu? Sư muội nói thế thật oan uổng cho người tốt.

Nhạc Linh San cầm thanh kiếm đứng dựng lên hỏi:

– Sao đại sư ca không rút kiếm ra đi?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Cái đó chưa cần vội.

Hắn nói rồi tay trái thủ thế theo kiếm quyết. Đồng thời đưa tay phải phóng tới. Hắn vừa ra chiêu vừa nói:

– Đây là thế “Tùng phong kiếm” của phái Thanh Thành. Chiêu này mệnh danh là “Tùng đào như lôi”.

Lệnh Hồ Xung dùng chưởng làm kiếm đâm xuống bả vai Nhạc Linh San.

Nhạc Linh San né người đi lùi lại, đoạn vung kiếm gạt bàn tay Lệnh Hồ Xung. Đồng thời nàng la lên:

– Đại sư ca phải cẩn thận đấy!

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu muội bất tất phải dè dặt, tiểu huynh mà không đón đỡ được sẽ rút kiếm ra.

Nhạc Linh San hỏi:

– Đại sư ca dám để tay không chống với “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” của tiểu muội ư?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Bây giờ tiểu sư muội chưa luyện xong thì hãy thử coi. Sau này sư muội luyện thành tựu rồi, dĩ nhiên tiểu huynh không thể đấu võ tay được.

Nhạc Linh San trước nay bản tính cực kỳ hiếu thắng quật cường. Mấy bữa nay nàng cố công rèn luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức. Nàng tự biết kiếm thuật mình tiến bộ rất mau lẹ, giả tỷ có đấu với những tay cao thủ hạng nhất trên chốn giang hồ cũng chẳng chịu thua ai. Nàng không ngờ đại sư ca dám khinh thị mình đến mức độ đưa hai bàn tay không ra đấu với Ngọc nữ kiếm thập cửu thức.

Nàng nghiêm nét mặt nói:

– Nếu kiếm của tiểu muội mà đả thương đại sư ca thì đại sư ca cũng đừng oán hận tiểu muội và đừng tiết lộ cho gia gia cùng má má hay nhé.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Cái đó đã hẳn. Sư muội cứ việc thi triển kiếm pháp đừng nể nang gì. Nếu còn dè dặt tất nhiên chẳng thể phát huy chân lực đến tột độ.

Hắn nói xong đột nhiên vung tay phải phóng ra đá véo một tiếng đồng thời quát to:

– Tiểu sư muội phải cẩn thận…

Nhạc Linh San giật mình kinh hãi la lên:

– Sao?… Đại sư ca dùng tay trái làm kiếm ư?

Giả tỷ Lệnh Hồ Xung phóng phát chưởng vừa qua mà đánh xuống thật sự thì Nhạc Linh San tất đã bị thương. Hắn thu nội lực về không phát huy ra rồi cười nói:

– Trong “Tùng Phong kiếm pháp” có chiêu Hoán thủ kiếm. Trường kiếm phóng ra hoặc bằng tay phải

hoặc bằng tay trái khiến cho địch nhân không biết đường mà đề phòng.

Nhạc Linh San kinh hãi nói:

– “Tùng phong kiếm pháp” kỳ cục đến thế ư? Đại sư ca hãy tiếp chiêu đây!

Rồi nàng phóng kiếm chém trả.

Lệnh Hồ Xung thấy thế kiếm của nàng tương tự chiêu số thượng thặng của “Ngọc nữ kiếm” liền cất tiếng khen:

– Chiêu kiếm này khá đấy! Nhưng vẫn chưa được nhanh lắm.

Nhạc Linh San làm mặt giận hỏi:

– Chưa đủ mau lẹ ư? Nếu tiểu muội mà phóng lẹ hơn nữa thì chặt đứt cánh tay đại sư ca mất.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sư muội cứ thủ chặt coi.

Hắn phóng kiếm bằng tay phải hớt vào cánh tay trái Nhạc Linh San.

Nhạc Linh San trong lòng vẫn còn tức bực, nàng vận kiếm nhanh như gió. Mấy bữa nay nàng học được bao nhiêu chiêu thức về Ngọc nữ kiếm trổ ra hết. Trong 19 thức nàng nhớ được 9 và thực sự nàng mới sử dụng được sáu thức. Nhưng chỉ 6 thức kiếm pháp này uy lực cũng đã mãnh liệt phi thường.

Mũi kiếm trở tới đâu khiến cho Lệnh Hồ Xung không thể tới gần phía đó được.

Lệnh Hồ Xung chạy vòng quanh người nàng để tỷ đấu.

Mỗi lần hắn gặp thế công đều bị những chiêu số rất lợi hại. Có lần hắn nhảy lùi về phía sau vội quá, lưng đụng mạnh vào mỏm đá lồi ra.

Nhạc Linh San rất lấy làm đắc ý cười hỏi:

– Đại sư ca sao còn chưa rút kiếm ra?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Hãy đấu thêm lúc nữa đã.

Nhạc Linh San thuộc được chiêu nào trổ ra hết rồi lại bắt đầu trở lại.

Lệnh Hồ Xung nhận thấy nàng chỉ sử được 6 thức, đột nhiên hắn xông lại phóng ra một chiêu quát lớn:

– Đây là chiêu sát thủ thứ ba của “Tùng phong kiếm”. Sư muội phải cẩn thận.

Chiêu thức của hắn cực kỳ trầm trọng.

Nhạc Linh San thấy Lệnh Hồ Xung phóng chưởng chém xuống đầu mình vội vung kiếm lên gạt.

Chiêu này trúng vào ý nghĩ của Lệnh Hồ Xung.

Hắn phóng tay trái ra, ngón giữa bật trúng vào lưỡi kiếm của Nhạc Linh San đánh keng một tiếng.

Nhạc Linh San bị toạc hổ khẩu, tay nàng đau quá không nắm vững được, để thanh kiếm bay vọt lên không rồi rớt xuống khe núi.

Nhạc Linh San sắc mặt lợt lạt, chăm trố ngó Lệnh Hồ Xung không nói gì. Hàm răng trên nàng cắn chặt vào môi dưới.

Lệnh Hồ Xung trống ngực đánh thình thình, bụng bảo dạ:

– Sao ta lại làm thế này? Sao ra lại làm thế này? Ta cùng sư muội tỷ kiếm đã đến mười năm, chưa bao giờ hạ thủ tận tình như vậy. Hành động của ta ngày càng trở nên hồ đồ mất rồi.

Nhạc Linh San quay lại nhìn vực thẳm la lên:

– Thanh kiếm này… thanh kiếm này…

Lệnh Hồ Xung lại càng kinh hãi. Hắn biết thanh trường kiếm của tiểu sư muội là “Bích thủy kiếm” chặt sắt như chặt bùn. Ba năm trước sư phụ hắn đến Triết Giang lấy được đem về.

Tiểu sư muội vừa trông thấy đã mê ngay muốn giữ chặt không bỏ ra nữa. Nàng xin sư phụ mấy lần mà thủy chung không được. Đến năm nàng 18 tuổi, sư phụ mới cho nàng để làm l mừng ngày sinh nhật nàng.

Bây giờ thanh kiếm đó rơi xuống hang sâu muôn trượng, không lấy lên được nữa thì thật là đáng tiếc.

Nhạc Linh San thấy Lệnh Hồ Xung ra chiều tiếc nhẩn tiếc ngơ, nàng chí đầu ngón chân trái xuống, trở gót đi luôn.

Lệnh Hồ Xung gọi giật lại:

– Tiểu sư muội.

Nhạc Linh San bỏ mặc hắn, tiếp tục đi xuống.

Lệnh Hồ Xung đuổi tới sườn núi, vươn tay ra toan nắm lấy tay nàng. Nhưng ngón tay đụng tới áo đối phương lại rụt về ngaỵ Hắn đứng nhìn nàng tiếp tục bước đi không ngoảnh cổ lại. Hắn buồn rầu vô cùng bụng bảo dạ:

– Trước kia ta đối với nàng vẫn hết sức nhường nhịn mà sao bữa nay lại lấy ngón tay bật thanh bảo kiếm của nàng đỉ Chẳng lẽ… chẳng lẽ vì sư nương truyền “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” cho nàng mà ta đem lòng ghen tỵ? Không phải! Quyết không có chuyện đó. “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” là một kiếm thuật dành cho nữ đệ tử phái Hoa Sơn. Hơn nữa bản lãnh tiểu sư muội càng cao bao nhiêu ta càng sung sướng bấy nhiêu mới phải. Hỡi ôi chẳng qua ta ở một mình trên ngọn núi trọc này đâm ra tính tình thật thường nóng nảy… Ta chỉ mong nàng mai lại lên đây để xin lỗi nàng mới được.

Nhưng ba bốn ngày liền, Nhạc Linh San không lên núi. Lệnh Hồ Xung thao thức suốt mấy đêm không nhắm mắt.

Trong lòng hắn nổi lên bao nỗi ưu phiền cùng ý nghĩ vẩn vợ Hắn sắp đặt những câu xin lỗi, song Nhạc Linh San thủy chung vẫn không trở lại.

Mãi đến ngày thứ 18 nàng mới cùng Lục Đại Hữu lên núi.

Lệnh Hồ Xung trông ngóng 18 ngày đêm, bây giờ hắn thấy nàng, trong lòng chứa biết bao nhiêu điều muốn nói mà vướng có Lục Đại Hữu đứng bên nên khôn bề mở miệng.

Lệnh Hồ Xung ăn cơm xong, Lục Đại Hữu hiểu thâm ý của hắn liền nói:

– Đại sư ca cùng tiểu sư muội! Hai vị lâu ngày không gặp nhau, hãy ở đây trò chuyện một lúc. Lục mỗ đem giỏ cơm xuống trước.

Nhạc Linh San cười hỏi:

– Lục hầu nhi! Lục sư huynh muốn trốn đó chăng? Hai người đến sao lại một người đi?

Nàng nói xong đứng dậy.

Lệnh Hồ Xung nói ngay:

– Tiểu sư muội ơi! Tiểu huynh có điều muốn nói với sư muội.

Nhạc Linh San cười đáp:

– Được rồi! Đại sư ca còn có chuyện. Lục Hầu Nhi hãy đứng lại để nghe sư ca giáo huấn.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Tiểu huynh không có gì giáo huấn đâu. Thanh “Bích Thủy kiếm” của sư muội…

Nhạc Linh San ngắt lời:

– Tiểu muội đã nói với má má là lúc luyện “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” vô ý tuột tay đánh rớt bảo kiếm xuống vực thẳm rồi không tìm thấy nữa. Tiểu muội khóc nức nở, má má không mắng mỏ gì hết lại an ủi tiểu muội. Người nói là sẽ kiếm cho tiểu muội một thanh bảo kiếm khác. Việc đã qua rồi, đại sư ca còn nhắc lại làm chi?

Nàng nói xong dang hai tay ra mà cười.

Lệnh Hồ Xung thấy nàng tuy không muốn nhắc tới việc đó mà trong lòng vẫn áy náy không yên hắn nói:

– Sau khi tiểu huynh chịu phạt nhất định sẽ len lỏi vào chốn giang hồ tìm kiếm cho tiểu sư muội một thanh kiếm tốt thật tốt.

Nhạc Linh San cười nói:

– Đã là sư huynh, sư muội đại ca còn bận tâm chi đến chuyện một thanh kiếm làm chỉ Vả lại thanh kiếm đó chính là tự tiểu muội đánh rớt xuống núi, chỉ giận mình học nghệ chưa tinh chứ còn trách ai được? Mình làm mình chịu.

Nàng nói mấy câu líu lo rồi cười khanh khách, Lệnh Hồ Xung không hiểu hỏi:

– Tiểu sư muội nói gì?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Đó là tiểu muội bắt chước câu tiểu Lâm tử thường nói “Ai nấy chỉ hết sức mình còn thì trông vào mệnh trời”. Miệng lưỡi gã líu lo, tiểu muội cũng bắt trước để làm trò cười.

Lệnh Hồ Xung lại cảm thấy trong lòng chua xót. Đột nhiên gã nghĩ bụng:

– Bữa trước tiểu sư muội sử dụng “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” sao mình lại đem “Tùng phong kiếm pháp” của phái Thanh Thành ra đối phó? Làm thế chẳng hóa ra mình cố tâm đối đáp với “Tịch tà kiếm pháp” của Lâm sư đệ ư? Cả nhà họ Lâm ở Phước Oai tiêu cục đã bị nhà tan người chết về tay phái Thanh Thành mà mình còn dụng ý mỉa mai gã há chẳng là nhỏ nhen khinh bạc lắm ư.

Hồi 50

Những Bộ Xương Khô Trong Mật Động

Lệnh Hồ Xung chuyển ý nghĩ rồi bụng bảo dạ:

– Hôm ở trong viện Quần Ngọc núi Hành Sơn, suýt nữa mất mạng về chưởng lực của Dư Thương Hải may nhờ Lâm sư đệ giàu lòng trượng nghĩa, chẳng kể gì đến sự yên nguy của bản thân mạnh dạn đứng ra nói mấy câu hùng dũng. Thực ra gã có ơn cứu mạng cho tạ Thế mà ta đem “Tùng Phong kiếm pháp” của phái Thanh Thành để đối phó với “Ngọc nữ kiếm thập cửu thức” của tiểu sư muội thì trong thâm tâm không khỏi có điều hiềm khích Lâm sư đệ và tỏ ra Tịch tà kiếm phổ nhà họ Lâm không đủ chống lại một đòn.

Hắn nghĩ thế không khỏi ngấm ngầm hổ thẹn, liền thở phào một cái nói:

– Lâm sư đệ tư chất thông minh, lại gắng công rèn luyện, nhất là mấy bữa nay gã được tiểu sư muội chỉ điểm kiếm pháp, chắc võ công gã tiến bộ dị thường. Đáng tiếc là trong một năm tiểu huynh không hạ sơn được. Gã có ơn với tiểu huynh, tiểu huynh phải ráng giúp gã luyện kiếm mới phải.

Nhạc Linh San giương cặp lông mày xinh đẹp lên hỏi:

– Tiểu Lâm tử có ơn với đại sư ca ở chỗ nào? Tiểu muội chưa từng thấy gã nói tới.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dĩ nhiên chẳng khi nào gã lại kể ra.

Đoạn hắn đem việc bữa trước thuật lại.

Nhạc Linh San chú ý nghe rồi nói:

– Thảo nào gia gia thường khen gã là người có khí độ hào hiệp. Té ra gã cứu đại sư ca khỏi chết về tay Tái Bắc minh đà. Tiểu muội thấy gã ngơ ngẩn như mán rừng, ai ngờ gã dám vì đại sư ca mà tuốt gươm viện trợ.

Nàng nói tới đất bất giác bật lên tiếng cười hích hích, nói tiếp:

– Tiểu Lâm tử không một chút bản lãnh đã giải cứu đại sư huynh phái Hoa Sơn lại ra tay giết đứa con cưng của chưởng môn phái Thanh Thành để giải cứu con gái chưởng môn phái Hoa Sơn nữa.

Nguyên hai vụ này cũng đủ nổi tiếng oanh liệt trong võ lâm một thời. Có điều chẳng ai ngờ là chàng đại hiệp giữa đường thấy chuyện bất bình quyết ra tay can thiệp đó võ công lại quá tầm thường, thế mới nực cười.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Võ công có thể luyện mà thành, còn chí khí hào hiệp là do ở trời sinh. Người ta phân loại nhân phẩm cao thấp là ở chỗ đó.

Nhạc Linh San mỉm cười nói:

– Tiểu muội lúc nghe gia gia cùng má má đề cập đến tiểu Lâm tử cũng nói thế đó. Đại sư ca ơi!

Lại còn một điểm khí phách nữa tiểu Lâm tử cũng chẳng kém gì đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Còn khí phách gì nữa? Hay là tính ươn gàn?

Nhạc Linh San cười đáp:

– Đó là khí ngạo. Cả hai người đều kiêu ngạo lắm.

Lục Đại Hữu đột nhiên nói xen vào:

– Đại sư ca làm thủ lãnh các sư huynh, sư muội có ngạo khí là phải. Còn gã họ Lâm là cái thá gì mà cũng lên mặt kiêu ngạo được với phái Hoa Sơn?

Giọng nói của gã đầy vẻ hằn học đối với Lâm Bình Chi.

Lệnh Hồ Xung không khỏi ngạc nhiên hỏi:

– Lục Hầu Nhi! Lâm sư đệ đắc tội với ngươi ở chỗ nào?

Lục Đại Hữu hậm hực đáp:

– Gã chưa có chỗ nào đắc tội với tiểu đệ, nhưng hết thảy sư huynh, sư đệ không muốn nhìn đức tính của gã như vậy.

Nhạc Linh San hỏi:

– Lục sư ca làm sao thế? Vì lẽ gì sư ca hằn học với tiểu Lâm tử? Gã là sư đệ, mình làm sư ca phải bao bọc cho gã mới phải chứ?

Lục Đại Hữu lắp bắp:

– Gã… gã… gã…

Hắn nói luôn ba tiếng gã rồi không nói được nữa.

Nhạc Linh San lại hỏi:

– Lục sư ca có chuyện gì mà ấp úng mãi không nói ra?

Lục Đại Hữu đáp:

– Chỉ mong Lục Hầu nhi này mắt quáng coi lầm sự việc.

Nhạc Linh San đỏ mặt lên rồi không hỏi nữa. Nàng quay sang nói chuyện gẫu với Lệnh Hồ Xung.

Lục Đại Hữu lại đòi về.

Nhạc Linh San liền cùng gã xuống núi.

Lệnh Hồ Xung đứng trên sườn núi bần thần nhìn bóng sau lưng hai người cho đến lúc họ rẽ vào khúc quanh. Đột nhiên sau góc núi có tiếng ca hát của Nhạc Linh San vang lên.

Lệnh Hồ Xung kề cận với nàng từ thuở nhỏ cho đến khi khôn lớn, đã nhiều lần nghe nàng hát, nhưng khúc này thì hắn chưa nghe qua bao giờ.

Nhạc Linh San trước kia thường hát những tiểu khúc Thiểm Tây. Tiếng cuối cùng câu hát kéo thật dài, ở trong khe núi càng dài lê thệ Khúc hát bữa nay lại tựa hồ như châu rơi nước bắn chữ nào cũng tròn trĩnh dứt khoát.

Lệnh Hồ Xung chú ý lắng tai nghe thì phảng phất mấy câu “Chị em lên núi hái trà… “. Nhiều tiếng nàng phát âm rất cổ quái. Mười phần có đến tám chín chỉ nghe thấy âm mà không rõ nghĩa.

Hắn lẩm bẩm:

– Không hiểu tiểu sư muội học khúc tân ca này từ bao giờ mà nghe hay gớm. Lần sau nàng lên núi, mình phải bảo nàng hát cho nghe từ đầu mới được.

Bỗng hắn cảm thấy đau nhói tựa hồ như trước ngực bị đánh một trùy nặng. Đột nhiên hắn tỉnh ngộ tự nói một mình:

– Đây là giọng sơn ca ở tỉnh Phúc Kiến. Chắc là Lâm sư đệ dạy nàng rồi.

Đêm hôm ấy trong lòng Lệnh Hồ Xung lại nhộn nhạo như sóng cồn, hắn không tài nào ngủ được.

Bên tai hắn giọng hát nhẹ nhàng mau lẹ của Nhạc Linh San vẫn còn văng vẳng. Tiếng hát sơn ca khó bề hiểu rõ.

Mấy lần hắn tự than trách:

– Lệnh Hồ Xung hỡi Lệnh Hồ Xung! Trước kia ngươi tiêu dao tự tại không biết chừng nào mà bây giờ ngươi để cho một khúc hát làm bận lòng không sao thoát ra được ư? Ngươi là nam tử hán, là đại trượng phu cũng uổng mà thôi.

Dù hắn tự biết mình chẳng nên thế mà tiếng hát của Nhạc Linh San tựa hồ quanh quẩn bên tai không ngớt.

Lệnh Hồ Xung trong lòng đau khổ, hắn cầm trường kiếm chém bừa đâm ẩu vào vách đá. Hắn cảm thấy luồng nội lực từ huyệt đan điều bùng lên. Hắn vung kiếm phóng về phía trước. Tư thế này giống hệt Nhạc phu nhân ra chiêu “Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm”.

Bỗng một tiếng “kịch” vang lên! Thanh kiếm ngập vào vách đá.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi. Gã tự lượng dù trong mấy tháng nay công lực có tăng tiến nhanh đến mấy đi nữa cũng quyết không thể đâm một nhát kiếm ngập sâu vào vách đá đến tận chuôi được. Nội lực tinh thần thâm hậu đến bực nào mà vận ra mũi kiếm để đâm vào đá như vào cây khô bao giờ? Đến ngay nội lực của sư phụ cùng sư nương vị tất đã đến thế được.

Hắn ngơ ngẩn một chút giựt mạnh thanh kiếm ra. Lập tức hắn cảm giác được vánh đá này chỉ có một lần rất mỏng chừng ba tấc là đến quãng không. Nguyên mặt bên kia vách đá trống rỗng.

Lệnh Hồ Xung nổi tính hiếu kỳ lại cầm kiếm đâm nhát nữa.

“Chát” một tiếng, thanh kiếm bị gãy liền. Nguyên lần này hắn vận kình không đủ, vách đá dày ba tấc cũng không xuyên qua được.

Hắn cất tiếng chửi bâng quơ vài câu rồi ra ngoài thạch động bê một khối đá lớn bằng cái đấu đoạn vận toàn lực gieo vào vách đá. Những mảnh đá vụn rớt xuống ào ào.

Đồng thời hắn nghe khối đá gieo vào vách bật lên tiếng “uỳnh” và bên kia vách đá văng vẳng có tiếng vang. Hiển nhiên phía sau là một khoảng không khá rộng.

Lệnh Hồ Xung lại vận nội lực liệng mạnh lần nữa.

Một tiếng “sầm” vang lên. Khối đá xuyên qua vách thạch động xuống bên kia. Tiếng lọc cọc vẫn vang lên không ngớt do khối đá rớt xuống phát ra còn vang lên một lúc. Nguyên mặt sau vách đá này thoai thoải dốc xuống.

Lệnh Hồ Xung trong lòng thắc mắc không yên. Hắn phát hiện sau vách đá còn có thạch động.

Mới trong chớp mắt, bao nhiều phiền não trong lòng đều mất hết. Hắn lại lượm đá liệng thêm mấy

lần. Rồi đầu hắn có thể chui qua lỗ vách để nhìn vào.

Lệnh Hồ Xung tiếp tục phá cho lỗ hổng rộng thêm. Hắn bật lửa đốt đuốc chui vào thì thấy bên trong là một cửa hầm chật hẹp. Hắn cúi đầu nhìn xuống rồi toàn thân toát mồ hôi lạnh ngắt vì thấy bên mình có bộ xương khô nằm phục tại đó.

Lệnh Hồ Xung chẳng khi nào ngờ tới bên kia vách đá lại có bộ xương khô này. Hắn rán định thần tự hỏi:

– Phải chăng đây là ngôi mộ của tiền nhân? Nhưng sao bộ xương này lại không nằm thẳng thắn mà phủ phục thế này? Như vậy cửa hầm nhỏ hẹp này quyết không phải là mồ mả.

Hắn cúi xuống nhìn bộ xương thấy y phục đã nát hết. Bên bộ xương còn bỏ hai chiếc búa lớn.

Dưới ánh đuốc sáng rực, hắn cầm một chiếc búa nhấc lên, cảm thấy rất trầm trọng, có tới ngoài bốn chục cân. Tiện tay hắn cầm búa chém vào vách đá bên mình.

“Sầm” một tiếng! Một khối đá lớn lập tức rớt xuống.

Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra ngẫm nghĩ:

– Cái búa này sắc bén như vậy tất không phải vật tầm thường. Nhất định nó là binh khí của một vị tiền bối võ lâm.

Lệnh Hồ Xung lại nhìn vào chỗ vách đá vừa chặt thì thấy nhẵn thín tựa hồ dao cắt đậu hũ. Hắn ngó kỹ hai bên vách đá thấy có nhiều nhát búa chém vào hãy còn dấu vết, bất giác hắn ngẩn người ra ngẫm nghĩ rồi giơ đuốc lên đi xuống. Quả nhiên vách đá chỗ nào cũng còn vết tích búa đẽo.

Hắn ngấm ngầm kinh hãi bụng bảo dạ:

– Té ra đường hầm đây do người này dùng lưỡi búa sắc bén chém đá để mở đường. Phải rồi! Không hiểu vì lẽ gì y bị cầm tù vào trong lòng núi rồi dùng búa phá núi mở đường để tính bề tháo thân, nhưng không đủ sức. Y rời khỏi động mới được mấy tất đã kiệt lực mà chết. Than ôi số phận con người là thế này đây.

Lệnh Hồ Xung đi một lúc nữa vẫn chưa tới đầu đường hầm liền nghĩ bụng:

– Người này phá núi mở đường như vậy thì nghị lực kiên quyết võ công cao cường nghìn xưa hiếm có.

Bất giác hắn sinh lòng bội phục.

Lệnh Hồ Xung đi thêm mấy bước lại thấy dưới đất có hai bộ xương nữa. Một bộ ngồi dựa vào vách đá, còn một bộ như nằm khoèo.

Lệnh Hồ Xung lẩm bẩm:

– Té ra không phải chỉ có một người bị cầm tù ở đây.

Đoạn hắn tự hỏi:

– Chỗ này là trọng địa của núi Hoa Sơn ta, người ngoài d gì mà đến đây được? Chẳng lẽ những bộ xương này đều là những bậc tiền bối bản phái phạm pháp bị cầm tù rồi chết chăng?

Lệnh Hồ Xung đi thêm mấy trượng nữa. Đột nhiên hắn thấy mé tả có ánh sáng lọt vào. Hắn liền thuận chiều đường hầm đi về mé tả.

Bỗng trước mắt hiện ra một thạch động rất lớn có thể chứa được cả ngàn người. Góc trên mé hữu thạch động có một lỗ hổng rất lớn rộng đến hơn trượng.

ánh sáng ban ngày xuyên qua lỗ hổng này chiếu vào trong. Lúc này trời mới bình minh, ánh dương quang chưa có mây mà đã soi rõ mọi vật trong thạch động.

Trong thạch động còn có tới bảy bộ hài cốt hoặc ngồi hoặc nằm, bên người nào cũng có binh khí.

Cạnh năm bộ xương này có đặt trường kiếm còn hai bộ bên hai bộ kia là hai thứ binh khí rất lạ.

Một thứ giống như lưỡi tầm sét còn một thứ là thanh đao hai lưỡi có ba răng nhọn hoắt như răng chó sói.

Lệnh Hồ Xung lẩm bẩm:

– Những người sử dụng hai món binh khí kỳ lạ Ở đây và hai cây búa ngoài kia quyết nhiên không phải đệ tử bản môn. Còn năm vị sử trường kiếm này chắc là những bậc tiền bối của bản môn.

Lệnh Hồ Xung cúi xuống lượm một thanh kiếm lên, thấy nó ngắn hơn kiếm thường mà lưỡi lại lớn gấp đôi. Thanh kiếm cầm vào tay rất trầm trọng. Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:

– Phái Thái Sơn thường dùng thanh kiếm này. Vậy đây chắc là một vị tiền bối phái Thái Sơn.

Lệnh Hồ Xung lại xem đến thanh trường kiếm kia thì một thanh nhẹ và mềm. Đó là loại khí giới của phái Hằng Sơn. Một thanh lượn thành đường cong. Đó là một trong ba thứ kiếm mà phái Hành Sơn thường sử dụng. Kế đến một thanh kiếm mũi nhọn và sắc bén phi thường, Lệnh Hồ Xung nhận ra đây là thứ binh khí mà vị tiền bối nào đó ưa dùng hẳn người phái Tung Sơn. Thanh kiếm thứ tư bề dài và trọng lượng đúng là thứ kiếm thường dùng của bản phái.

Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng lấy làm kỳ tự hỏi:

– Năm vị tiền bối đây đều là Ngũ nhạc kiếm phái mà sao đều chết ở chốn này? Chẳng lẽ các vị cùng tranh đâu với năm địch nhân bên ngoài rồi cả hai bên cùng chết cả hết ư?

Lệnh Hồ Xung soi đuốc lên cả bốn bức vách động thì thấy bức vách mé tả có khắc 16 chữ:

Ngũ nhạc kiếm phái,

Toàn bọn hạ lưu

Tỷ thí không được

Liền ám hại người.

Mỗi hàng bốn chữ, cả thảy bốn hàng. Chữ nào cũng khắc sâu vào vách đá bằng lưỡi kiếm cực kỳ sắc, chiều sâu vào đến ba tấc.

Mười sáu chữ này coi rất hùng hồn, tựa hồ bạt kiếm giương cung.

Ngoài 16 chữ lớn, ở bên cạnh còn vô số chữ nhỏ như: “Ty bỉ vô lại”, “Thực là đáng hổ”, hay là “Đê hèn”, “Khiếp nhược”. Khắp cả toàn là những câu thóa mạ.

Lệnh Hồ Xung coi xong tức giận vô cùng, bụng bảo dạ:

– Té ra những người này bị Ngũ nhạc kiếm phái ta bắt vào cầm tù ở đây. Họ phẫn uất quá mà không có chỗ phát tiết liền viết chữ lên vách đá để thóa mạ. Hành động này mới đúng là hành động ty bỉ vô lại.

Lệnh Hồ Xung lại tự hỏi không hiểu bọn này là người thế nào? Họ đã cừu địch với Ngũ Nhạc kiếm phái dĩ nhiên chẳng phải hảo nhân. Nhưng tại sao năm vị tiền bối Ngũ nhạc kiếm phái ta lại cùng chết với bọn họ tại chốn này?

Hắn lại giơ đuốc lên coi thì thấy trên vách đá còn có một hàng chữ: “Phạm Tùng, Triệu Hạt phá kiếm pháp phái Hằng Sơn ở đây”.

Bên hàng chữ này lại có vô số hình người. Cứ hai người vào một tổ. Một người sử kiếm một người sử búa. Chỉ đếm sơ qua cũng rõ ít nhất đến sau bảy trăm hình người. Hiển nhiên người sử búa đang phá kiếm pháp người sử kiếm.

Lệnh Hồ Xung trống ngực đánh thình thình tự hỏi:

– Chẳng hiểu có đồ hình nào phá giải được kiếm pháp của phái Hoa Sơn ta không?

Quả nhiên hắn nhìn thấy bên những hình người kia có một hàng chữ rất rõ: “Trương Thừa Vân, Trương Thừa Phong tận phá Hoa Sơn kiếm pháp”.

Hắn vừa đọc xong đã đùng đùng nổi giận, lên tiếng thóa mạ:

– Loài chuột nhắt vô sỉ! Các ngươi thật là cuồng vọng, lớn mật. Hoa Sơn kiếm pháp tinh vi ảo diệu, khắp trong thiên hạ, người chống đỡ được còn chẳng mấy, ai mà lớn mật dám hạ đến chữ “phá” bao giờ? Đây chúng còn dám hạ đến chữ “tận phá” thì thật là hỗn xược.

Hắn xoay tay lại lượm thanh kiếm trầm trọng của phái Thái Sơn lên vận toàn lực vào để bạt hàng chữ kia đi.

Những tiếng choang choảng vang lên. Tia lửa bắn ra tung tóe, thì chỉ thấy chữ “tận” bị sạt mất một góc.

Lệnh Hồ Xung phát giác ra đá núi này cứng rắn phi thường. Muốn xóa bỏ những đồ hình cùng chữ khắc trên vách đá tuy có lợi khí trong tay, nhưng vạt đi không phải dễ dàng.

Lệnh Hồ Xung lại ngưng thần nhìn vào đồ hình bên hàng chữ thì người sử kiếm tuy chỉ phơn phớt mấy nét thô sơ, song cũng có thể nhìn ra đây chính là chiêu “Hữu phụng lại nghi” của bản môn.

Kiếm thế như nhảy múa cực kỳ linh động. Chiêu này đang chiết giải với một người tay cầm một thứ khí giới thẳng tuột, chẳng hiểu nó đại diện chi thương bổng hay cho thương mâu. Chỉ biết đầu thứ binh khí này nhằm vào mũi kiếm đối phương mà tư thế rất vụng về.

Lệnh Hồ Xung bất giác bật lên tiếng cười khành khạch tự nhủ:

– Chiêu “Hữu phụng lai nghi” của bản môn ẩn dấu ba tuyệt chiêu nữa, há để cho chiêu thức vụng về kia phá giải được ư?

Hồi 51

Lâm Bình Chi Đả Bại Lục Hầu Nhi

Lệnh Hồ Xung coi lại bức đồ hình thì người trong tay cầm một đường dây thẳng tuột tiêu biểu cho cây côn bổng đang theo thế phóng vào mũi kiếm của người ra chiêu “Hữu phụng lai nghi”.

Mới coi thân hình người đó tuy có vẻ vụng về, song trong cái vụng về lại bao hàm một một tư thế liên miên không dứt.

Chiêu “Hữu phụng lai nghi” có ba chiêu tiếp theo, song cây côn bổng của người kia dường như bao hàm đến sáu bảy chiêu kế tiếp, rất có thể đối phó được với những chiêu sau của “Hữu phụng lai nghi”.

Lệnh Hồ Xung chú ý nhìn mấy nét sơ sài về nhân hình trong lòng xiết đỗi kinh dị tự nghĩ:

– Chiêu “Hữu phụng lai nghi” của bản môn coi rất đơn giản, song về uy lực lợi hại vô cùng. Địch thủ biết thế mà đỡ gạt né tránh sẽ không sao, bằng họ phát tất bị thất bại. Xem chừng chiêu côn kia của đối phương có thể phá được chiêu “Hữu phụng lai nghi” của bản môn mất. Cái đó… cái đó..

Lệnh Hồ Xung từ chỗ kinh dị đi tới chỗ bội phục rồi trong thâm tâm hắn không khỏi có điều sợ hãi.

Hắn đứng ngẩn ra nhìn đồ hình này không biết bao nhiêu lâu.

Đột nhiên tay mặt hắn cảm thấy đau đớn kịch liệt, thì ra bó đuốc hắn cầm đã cháy đến tận taỵ Hắn vội liệng bó đuốc đi.

Lúc này trong thạch động đã sáng rõ, Lệnh Hồ Xung vẫn đứng ngắm hai nhân hình bụng bảo dạ:

– Nếu người sử côn kia mà công lực tương đương với kiếm thủ bản môn thì người kiếm thủ bản môn không khéo bị thương mất. Nếu công lực đối phương còn cao hơn một chút thì khi hai chiêu gặp nhau, kiếm thủ bản môn tất phải mất mạng tức khắc. Chiêu “Hữu phụng lai nghi” quả thật bị người ta phá rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.

Lệnh Hồ Xung coi đến đồ hình thứ hai thì người sử kiếm của bản môn ra chiêu “Thương Tùng nghênh khách”.

Hắn chấn động tâm thần vì ngày hắn tập chiêu này phải luyện mất đúng một tháng trời mới thành thục và trở nên một tuyệt chiêu trong lúc lâm địch. Mỗi khi hắn ra chiêu này là thủ thắng được ngay để chấm dứt cuộc chiến.

Hắn trong lòng phấn khởi nhưng không khỏi phập phồng khiếp sợ vì lo rằng chiêu này cũng bị phá.

Lệnh Hồ Xung coi đến đồ hình người sử côn thì thấy trong tay y có 5 ngọn côn chia ra đánh vào 5 bộ vị dưới hạ bàn người sử kiếm.

Hắn ngơ ngác tự hỏi:

– Sao y lại có những năm ngọn côn?

Khi xem kỹ tư thế đồ hình người sử côn liền hiểu ngay, miệng lẩm bẩm:

– Đây không phải là năm ngọn côn mà là trong nháy mắt y phóng liền ra năm phát liên tiếp nhằm vào năm chỗ trong hạ bàn đối phương.

Hắn tự nhủ:

– Nếu y ra chiêu mau lẹ thì bên mình cũng mau lẹ. Chưa chắc y đã rảnh tay mà phóng liền được năm côn. Vậy chiêu “Thương Tùng nghênh khách” chắc là đối phương không phá được rồi.

Hắn đang ra chiều đắc ý, bỗng lại ngơ ngẩn người tự hỏi:

– Nếu y không phóng liền năm côn mà chỉ đánh một côn vào một phương vị nào đó thì kiếm thủ bên mình né tránh cách nào?

Hắn lượm lấy thanh trường kiếm của bản môn sử chiêu “Thương Tùng nghênh khách” rồi lại ngó vào đồ hình trên vách đá để suy nghĩ xem đối phương đánh vào bộ vị nào bên mình để mình tìm cách đối phó.

Nhưng cây côn đối phương có thể đánh vào bất cứ một bộ vị nào cũng được mà khi ấy, lưỡi kiếm của mình đang phóng ra ngoài không kịp thu về mới nguy chứ. Trừ phi chiêu kiếm giết được đối phương trước, không thì hạ bàn bên mình tất bị đánh trúng.

Nhưng đối phương đã là tay cao thủ, có lý nào mình phóng một kiếm mà đâm chết ngay được họ?

Cứ coi thế địch nhân hạ thấp xuống với chân bước đi thì nhất định giữa lúc khe chừng sợi tóc y đã tránh khỏi chiêu kiếm bên mình.

Chiêu kiếm này mà bị đối phương tránh được rồi phản công thì mình lại không có đường tránh thoát. Như vậy tuyệt chiêu “Thương Tùng nghênh khách” của phái Hoa Sơn há chẳng bị người phá mất rồi ư?

Lệnh Hồ Xung hồi tưởng lại đã ba phen chàng ra chiêu “Thương Tùng nghênh khách” đều thủ thắng rồi tự nhủ:

– Giả tỷ đối phương đã nhìn thấy đồ hình trên vách đá này mà biết đường phản kích thì bất luận họ sử đao kiếm hay sử côn bổng để phản kích theo cách này thì mình đã mất mạng rồi và còn đâu là Lệnh Hồ Xung ở trên thế gian nữa.

Lệnh Hồ Xung càng nghĩ lại càng kinh hãi. Trán hắn toát mồ hôi nhỏ giọt.

Hắn tự nói để mình nghe:

– Không thể thế được! Không thể thế được! Nếu chiêu “Thương Tùng nghênh khách” mà bị tư thế này phá giải thì khi nào sư phụ mình lại không hay để cảnh cáo mình?

Tuy hắn rất thuộc yếu quyết về tuyệt chiêu “Thương Tùng nghênh khách”, song nhìn thấy đồ hình người sử côn cực kỳ lợi hại: năm đường dây ngắn ngủi trên vách đá tựa hồ đường nào cũng đánh một đòn rất trầm trọng vào đùi vào chân hắn, khiến cho toàn thân hắn dường như bị tê liệt khó lòng rời khỏi nửa bước.

Lệnh Hồ Xung lại coi xuống dưới, thấy trên vách đá khắc toàn những tuyệt chiêu về kiếm pháp của bản môn. Bên đối phương cũng đều là những chiêu cực kỳ xảo diệu hiểm ác để giết giải hoặc để đả phá.

Hắn càng coi càng kinh hãi.

Lúc Lệnh Hồ Xung coi đến chiêu “Kinh đào ngạn phách” thì côn bổng của đối phương phản lại bằng chiêu số mềm yếu bất lực chỉ thủ chứ không công. Hắn mới thở phào một cái bụng bảo dạ:

– Chiêu này họ không phá được rồi.

Hắn nhớ lại tháng chạp năm ngoái, sư phụ ngồi coi tuyết rụng phất phơ, nẩy lòng cao hứng, liền tụ tập bọn đệ tử lại giảng giải kiếm pháp. Sau cùng sư phụ thi triển chiêu “Kinh đào ngạn phách”, với những thế kiếm ngày một thần tốc và mỗi chiêu thấp thoáng trên không tựa hồ tuyết rụng hoa bay.

Đến cả sư nương cũng vỗ tay hoan hộ Bà nói:

– Sư ca! Chiêu này tiểu muội chịu phục rồi. Phái Hoa Sơn phải do sư ca làm chưởng môn mới được.

Khi ấy sư phụ cười lạt nói:

– Người cầm đầu phái Hoa Sơn trông vào đức hạnh nhiều hơn là võ lực. Sử được chiêu kiếm thuần thục vị tất đã làm nổi chưởng môn?

Sư nương cười nói:

– Đức hạnh của sư ca cao hơn tiểu muội chăng? Nói thế mà không biết thẹn.

Sư phụ lại cười rồi không nói nữa. Sư nương vốn có tính chẳng chịu ai, thường cùng sư phụ tranh thắng. Thế mà bà phải phục chiêu “Kinh đào ngạn phách” thì đủ biết nó lợi hại đến thế nào.

Lệnh Hồ Xung coi kỹ lại người sử côn thì thấy hắn đứng co ro tư thế chẳng vừa mắt chút nào.

Chiêu số cũng chẳng vào phương thức nào hết, hắn không khỏi phì cười.

Đột nhiên mặt hắn cứng đơ, đang tươi cười biến thành khủng khiếp. Giả tỷ lúc này có người đứng bên thấy hắn có vẻ rối loạn tâm thần tất không khỏi kinh hãi.

Lệnh Hồ Xung ngó chầm chập vào cây côn bổng mà hình người kia cầm trong taỵ Hắn càng nhìn càng thấy đầu côn đưa ra bộ vị cự kỳ xảo diệu. Chiêu “Kinh đào ngạn phách” phóng đến chín nhát kiếm rồi 10, 11, 12 nhát… mà nhát nào cũng chỉ đâm vào côn bổng.

Té ra thế côn bổng này lúc mới chợt nhìn thấy rất vụng về mà thực ra cực kỳ xảo diệu. Bề ngoài coi như yếu ớt, kỳ thực mãnh liệt vô cùng. Đúng là một thế côn bổng về cách dùng tĩnh để chế động, đem cái vụng về để chống đối với cái tinh xảo.

Lệnh Hồ Xung coi những chiêu số của cây côn bổng kia lúc nữa rồi đâm ra mất hết lòng tin cậy vào võ công của bản phái.

Hắn cho là dù mình có luyện kiếm thuật bản môn được đến chỗ tinh diệu bằng sư phụ mà gặp phải người sử côn này cũng chẳng khác gì kẻ bị cật tay trói chân không còn đường để chống đối nữa. Như vậy thì kiếm thuật bản môn có học thêm cũng chẳng ích gì.

Hắn tự hỏi:

– Chẳng lẽ Hoa Sơn kiếm pháp không chịu nổi một đòn của đối phương thật ư? Cứ coi những bộ hài cốt kia hư nát từ lâu thì ít ra là ba bốn chục năm rồi. Vậy sao đến nay Ngũ nhạc kiếm phái vẫn còn xưng hùng được ở trên chốn giang hồ? Mình chưa từng nghe nói đến kiếm pháp bản phái bị người chiết phá bao giờ, nhưng coi đồ hình trên vách đá lại khác hẳn. Kiếm pháp phái Hoa Sơn mình đã thuộc kỹ và biết rằng lỡ gặp phải đối phương có những chiêu số cao minh ghê gớm như thế này tất phải thua liểng xiểng.

Lệnh Hồ Xung đứng ngây người như tượng gỗ, ngơ ngác không nhúc nhích. Trong đầu óc hắn bỗng lóe lên một ý niệm nhưng chỉ thoáng qua rồi vụt đi ngay.

Không hiểu hắn đứng ngẩn ra đã bao lâu, bỗng có người lớn tiếng gọi:

– Đại sư ca! Đại sư ca ở chỗ nào vậy?

Lệnh Hồ Xung giật mình hấp tấp từ trong hậu động chuồn ra. Qua cửa Đông rời sang đến sơn động của mình, Lệnh Hồ Xung nhìn rõ Lục Đại Hữu đứng ngoài sườn núi đang hô hoán om sòm.

Lệnh Hồ Xung liền nhảy vọt ra đi quanh về phía sau núi đến chỗ tảng đá lớn mới lên tiếng:

– Tiểu huynh ngồi đây mà. Lục sư đệ! Có chuyện gì vậy?

Lục Đại Hữu theo thanh âm đi tới rồi cả mừng đáp:

– Đại sư ca ở trong này ư? Tiểu đệ đưa cơm lên đây, không thấy đại sư ca, rất đỗi bồn chồn trong dạ.

Nguyên Lệnh Hồ Xung ngưng thần xem xét chiêu số trên vách đá từ lúc bình minh. Hắn để hết tâm trí theo dõi những bức đồ hình chẳng biết gì đến thời khắc trôi qua nữa.

Bây giờ trời đã hoàng hôn mà hắn cũng không haỵ Hắn ở sơn động để ăn năn tội lỗi, Lục Đại Hữu không dám thiện tiện đi vào, nhưng sơn động này rất nông, gã không thấy có Lệnh Hồ Xung ngồi đó liền ra phía trước tìm kiếm, gã không hiểu có cửa hầm đi vào hậu động.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Ta ở trên này còn đi đâu được? Chà! Mặt sư đệ làm sao thế kia?

Hắn trông thấy má bên phải Lục Đại Hữu có rịt một nắm thuốc lớn. Máu thấm qua lần thuốc rịt ứa ra ngoài. Hiển nhiên gã bị thương khá nặng.

Lục Đại Hữu đáp:

– Sáng nay tiểu đệ luyện kiếm không cẩn thận. Lúc rụt kiếm về đập mạnh vào mặt. Nói ra càng thêm hổ thẹn.

Lệnh Hồ Xung coi thần sắc Lục Đại Hữu thấy gã tức giận nhiều hơn là hổ thẹn. Hắn đoán ngay có chuyện gì liền gặng hỏi:

– Lục sư đệ! Thực tình tại sao sư đệ bị thương? Chẳng lẽ sư đệ lừa dối cả tiểu huynh nữa ư?

Lục Đại Hữu hậm hực đáp:

– Đại sư ca! Không phải tiểu đệ lừa dối mà là sợ đại sư ca nổi đóa nên không dám nói đó thôi.

Lệnh Hồ Xung lại hỏi:

– Mặc Lục sư đệ bị ai đả thương?

Miệng hắn hỏi vậy, trong lòng rất lấy làm kỳ vì sư huynh, sư đệ bản môn trước nay ăn ở với nhau rất hòa mực chưa từng có sự tranh chấp về chuyện tỷ đấu bao giờ. Nếu bảo là có ngoại địch lên núi lại càng vô lý.

Lục Đại Hữu đáp:

– Sáng sớm hôm nay tiểu đệ cùng Lâm sư đệ luyện kiếm, gã đã học được chiêu “Hữu Phụng lai nghi”, tiểu đệ sơ tâm bị mũi kiếm quẹt vào mặt thành thương.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Giữa sư huynh sư đệ tập dượt kiếm pháp lỡ tay bị thương là chuyện tầm thường không nên để dạ. Lâm sư đệ mới học kiếm pháp không thể thu phát theo ý muốn, thì trách gã sao được? Đó chẳng qua là tại Lục sư đệ bất cẩn mà thôi. Chiêu “Hữu Phụng lại nghi” uy lực không phải tầm thường, Lục sư đệ cần cẩn thận đối phó mới được.

Lục Đại Hữu nói:

– Đại sư ca dạy chí phải. Nhưng tiểu đệ có ngờ đâu… Gã họ Lâm mới nhập môn được mấy tháng mà sao đã luyện được chiêu “Hữu Phụng lai nghi”? Còn tiểu đệ sau khi bái sư hơn 5 năm sư phụ mới bảo đại sư ca truyền chiêu đó cho tiểu đệ.

Lệnh Hồ Xung không khỏi sững sờ, bụng bảo dạ:

– Lâm sư đệ nhập môn mà đã học được chiêu “Hữu Phụng lai nghi” thì quả là hấp tấp thật. Nếu trời không phú cho óc thông minh khác người, căn bản hãy còn nông cạn đã mong mau thành kết quả thì rất tai hại cho việc luyện công sau này. Chẳng hiểu tại sao sư phụ lại vội vã truyền cho gã những chiêu khó khăn như vậy?

Lệnh Hồ Xung còn đang ngẫm nghĩ thì Lục Đại Hữu lại nói tiếp:

– Khi ấy tiểu đệ giật mình kinh hãi nên ra chiêu không được trấn tĩnh thành bị kiếm gã đả thương.

Kỳ hơn nữa là tiểu muội đứng bên lại vỗ tay reo: “Lục Hầu nhi! Sư huynh không địch nổi cả đồ đệ của tiểu muội thì từ đây còn dám diệu võ dương oai trước mặt tiểu muội nữa không?”. Thằng lỏi họ Lâm tự biết mình có lỗi chạy lại toan buộc vết thương cho tiểu đệ, nhưng gã bị tiểu đệ đá lộn đi mấy vòng.

Tiểu sư muội thấy vậy tức giận lên tiếng: “Lục hầu nhi! Người ra đã có hảo tâm lại băng bó cho sư huynh sao sư huynh còn đánh người tả Phải chăng là sư huynh thẹn quá hóa giận?”. Đại sư ca! Té ra chiêu “Hữu Phụng lai nghi” này do tiểu sư muội đã lén lút truyền cho thằng lỏi họ Lâm.

Lệnh Hồ Xung trong lòng đau khổ vô cùng! Hắn biết chiêu “Hữu Phụng lai nghi” cực kỳ khó luyện vì nó đã biến hóa phức tạp lại có nhiều yếu quyết khó nhớ. Tiểu sư muội dạy cho gã luyện được chiêu kiếm pháp này nhất định nàng hao tổn tâm cơ và tốn công rất nhiều.

Mấy bữa nay nàng không lên đây thì ra suốt ngày ở gần bên Lâm sư đệ.

Lệnh Hồ Xung đã biết Nhạc Linh San bản tính hiếu động, không thể nhẫn nại làm công chuyện tỷ mỷ. Vì nàng có tính cương cường hiếu thắng mà phải nhẫn nại luyện kiếm cho mình thì được, còn bảo nàng dạy ai thì khó mà hy vọng được nàng hết lòng chỉ điểm.

Thế mà nay nàng tự ý đem chiêu “Hữu Phụng lai nghi” biến hóa phức tạp dạy cho Lâm Bình Chi thì đủ biết nàng tha thiết quan tâm đến gã là chừng nào.

Hồi lâu Lệnh Hồ Xung đã tĩnh râm lại được đôi chút, liền cất giọng thản nhiên hỏi:

– Lục sư đệ tạo sao lại đi kiếm chuyện với Lâm sư đệ?

Lục Đại Hữu đáp:

– Hôm qua tiểu đệ nói với đại sư ca mấy câu đó khiến cho tiểu sư muội rất lấy làm khó chịu. Lúc xuống núi suốt dọc đường y càu nhàu với tiểu đệ. Sáng nay y đến kéo tiểu đệ đi luyện kiếm. Tiểu đệ tuyệt không phòng bị, tưởng luyện kiếm là luyện kiếm như mọi khị Ngờ đâu tiểu sư muội đã ngấm ngầm dạy cho thằng lỏi họ Lâm mấy tuyệt chiêu. Tiểu đệ vô ý bị gã ám toán.

Lệnh Hồ Xung càng nghe càng hiểu rõ câu chuyện. Hắn nhất định mấy bữa nay Nhạc Linh San thân thiết với Lâm Bình Chi lắm.

Hắn còn cho là Lục Đại Hữu giao hảo với mình, coi không thuận mắt thốt ra những lời châm chích xa xôi, có khi gã còn nhục mạ Lâm Bình Chi để gây chuyện cũng chưa biết chừng.

Hắn liền hỏi:

– Có phải Lục sư đệ đã thóa mạ Lâm Bình Chi mấy lần rồi không?

Lục Đại Hữu hằn học đáp:

– Hạng người vô liêm sỉ đê hèn như thằng lỏi mặt trắng đó mà chẳng thóa mạ thì còn thóa mạ ai?

Gã sợ tiểu đệ lắm. Tiểu đệ chửi mắng thế nào gã cũng không dám đối nửa lời. Hễ gã trông thấy tiểu đệ là quay đi chỗ khác. Không ngờ… thằng lỏi thế mà thâm độc. Hừ gã phỏng được mấy hơi? Nếu không có tiểu sư muội hậu thuẩn thì gã đả thương tiểu đệ thế nào nổi?

Lệnh Hồ Xung lúc này trong lòng tức giận đến cực điểm.

Hắn nhớ tới những chiêu thức khắc trên vách đá trong hậu động chuyên để đả phá “Hữu Phụng lai nghi”, liền lượm một cành cây ở dưới đất tiện tay đưa ra một tư thế và muốn truyền lại chiêu đó cho Lục Đại Hữu.

Nhưng hắn lại nghĩ rằng:

– Lục sư đệ đang căm hận thằng tiểu tử họ Lâm đến cùng cực. Nếu Lục sư đệ phóng ra chiêu này nhất định làm cho gã họ Lâm bị trọng thương. Sư phụ cùng sư nương hỏi ra thì mình cùng Lục sư đệ tất bị trọng phạt. Mình không thể dại dột thế được.

Hắn nghĩ vậy liền nói:

– Mỗi lần thất bại là một lần sinh khôn. Từ nay sư đệ đừng mắc bẫy gã nữa là yên. Giữa sư huynh, sư đệ chúng ta lúc trao đổi chiêu thức sao lại để tâm đến những chuyện thắng bại nhỏ nhen?

Lục Đại Hữu giương cặp mắt thao láo nhìn Lệnh Hồ Xung lớn tiếng hỏi:

– Đại sư ca! Tiểu đệ chẳng để tâm thì không sao. Đại sư ca cũng ngơ đi được chăng?

Lệnh Hồ Xung biết gã nói về câu chuyện Nhạc Linh San tha thiết với Lâm Bình Chi trong lòng lại nổi lên cơn đau đớn kịch liệt, da mặt co rúm lại.

Lục Đại Hữu vừa nói ra biết ngay mình đã làm cho đại sư ca phải thương tâm, gã lắp bắp:

– Tiểu đê… tiểu đệ nói nhăng rồi.

Lệnh Hồ Xung nắm lấy tay gã ôn tồn nói:

– Lục sư đệ có nói nhăng gì đâu? Sao ta lại làm ngơ được. Nhưng… nhưng…

Hắn dừng lại một lát rồi nói tiếp:

– Lục sư đệ! Từ nay trở đi chúng ta đừng nhắc tới chuyện đó nữa.

Lục Đại Hữu nói:

– Vâng! Đại sư ca ơi! Chiêu “Hữu Phụng lai nghi” đại sư ca đã dạy cho tiểu đệ, nhưng lúc ấy tiểu đệ không chú ý nên mới mắc bẫy thằng lỏi kia. Tiểu đệ nhất định luyện cho tinh thông, để thằng lỏi kia biết xem đại sư ca dạy giỏi hay là tiểu sư muội dạy giỏi?

Lệnh Hồ Xung nở một nụ cười thê thảm nói:

– Chiêu “Hữu Phụng lai nghi” đó. Hà hà! Thực ra chẳng đáng gì đâu.

Lục Đại Hữu thấy Lệnh Hồ Xung ra vẻ đăm chiêu thì tưởng là tiểu sư muội đã lạnh nhạt khiến cho lòng y chán nản nên gã không dám nói gì nữa, cáo từ xuống núi.

Lệnh Hồ Xung chờ cho Lục Đại Hữu đi khỏi, hắn nhắm mắt dưỡng thần một lúc rồi bật lửa đốt cành thông cầm vào hậu động để coi tiếp những chiêu kiếm trên vách đá.

Lúc đầu hắn để tâm nghĩ chuyện Nhạc Linh San truyền thụ kiếm thuật cho Lâm Bình Chi, không thể nào chú ý đến đồ hình trên vách được. Những nét bút sơ sài vạch thành hình người tựa hồ bị hình ảnh Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi xóa nhòa hết.

Hắn tưởng tượng ra một người đứng dậy và một người đang học vẻ mặt cực kỳ thân thiết. Trước mắt

hắn lấp loáng toàn là tướng mạo tuấn mỹ của Lâm Bình Chi.

Hắn nghĩ bụng:

– Tướng mạo Lâm sư đệ tuấn tú gấp mười ta, tuổi cũng nhỏ hơn ta nhiều. Gã chỉ hơn tiểu sư muội có 1, 2 tuổi, trách gì hai người chẳng dễ thương yêu nhau.

Đột nhiên gã đế ý đến một người sử kiếm trong đồ hình trên vách. Từ cách vận kình, đến lối phóng kiếm và thế kiếm đi giống hệt như chiêu “Vô song, vô đối Ninh thị nhất kiếm” của Nhạc phu nhân.

Hắn giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Rõ ràng chiêu kiếm này do sư nương mới sáng chế ra sao lại khắc vào vách đá từ trước mới thật là kỳ!

Lệnh Hồ Xung coi kỹ lại đồ hình mới phát giác ra chiêu kiếm trên vách đá so với chiêu kiếm của Nhạc phu nhân sáng chế có chỗ khác biệt.

Chiêu trên vách đá so nội lực hùng hậu hơn mà đường kiếm không văn hoa, hiển nhiên do thủ bút của người đàn ông. – đây chỉ trần một chiêu kiếm, không giống thế kiếm của Nhạc phu nhân còn tàng ẩn những phần về sau. Vì nó đơn thuần nên càng mãnh liệt.

Lệnh Hồ Xung gật đầu lẩm bẩm:

– Chiêu kiếm của sư nương sáng chế té ra cũng hợp với kiếm ý của tiền nhân. Cái đó chẳng có chi là lạ vì cả hai đều lấy Hoa Sơn kiếm pháp làm căn bản rồi phô diễn ra. Công lực cùng óc thông tuệ của hai người chẳng sai nhau là mấy, dĩ nhiên cách sáng chế có đại đồng tiểu dị.

Rồi hắn bụng bảo dạ:

– Xem thế thì biết những chiêu kiếm trên vách đá này có nhiều chỗ sư phụ và sư nương đều không haỵ Chẳng lẽ sư phụ kiếm pháp đã cao thâm mà chưa học hết ư?

Hắn xem đến tay côn của đối thủ phóng ra một vách thẳng điểm tới. Đầu côn nhằm điểm vào mũi kiếm, rồi cả kiếm lẫn côn dính liền vào thành một đường thẳng.

Lệnh Hồ Xung vừa coi đến đường thẳng này bất giác hắn la hoảng:

– Hỏng rồi!

Cây đuốc trong tay rớt xuống đất. Sơn động tối mò. Trong lòng Lệnh Hồ Xung đâm khiếp sợ, hắn bật lên câu hỏi:

– Làm thế nào đây? Làm thế nào đây?

Hắn nhìn rất rõ đầu côn mũi kiếm đụng nhau. Côn cứng mà kiếm mềm, cả hai bên lại vận toàn lực phóng ra thì tất nhiên trường kiếm phải gãy đôi.

Hậu kình cả hai bên ra chiêu này tiếp tục liên miên. Một đằng côn bổng thừa thế đâm tới nữa, một bên hậu kình của tay kiếm phản kích lại thì chẳng còn cách nào giải khai được.

Giữa lúc ấy trong đầu óc hắn lóe lên một ý nghĩ:

– Có thật chẳng còn cách nào giải khai được chăng? Cái đó mình chưa nhìn thấy. Theo mình nhận xét thì kiếm bị gãy rồi mà côn bổng của đối phương đang phóng lẹ tới chỉ còn cách liệng kiếm đi, quỳ hai gối xuống. Nếu không thế, phải đề người nằm xoài về phía trước cho đầu côn trượt đi. Nhưng sư phụ cùng sư nương là những kiếm thuật danh gia liệu có dùng tư thức đó không? Dĩ nhiên các người thà chết chứ không chịu nhục. Than ôi! Thế là bị thua liểng xiểng mất rồi.

Hồi 52

Nhớ Sư Muội Hồ Xung Lâm Bệnh

Lệnh Hồ Xung đứng trơ ra hồi lâu rồi lau quẹt lửa đốt đuốc để tiếp tục coi đồ hình trên vách đá.

Hắn thấy kiếm chiêu mỗi lúc một kỳ ảo, càng đánh càng tinh diệu. Hơn trăm chiêu cuối cùng thực đến độ kỳ ảo khôn lường, kỳ bí tuyệt luân. Nhưng bất luận kiếm chiêu lợi hại đến đâu côn bổng của đối phương vẫn ghê gớm hơn để kiềm chế.

Kiếm pháp phái Hoa Sơn cuối cùng không chống nổi khiến người sử kiếm phải vứt bỏ trường kiếm, cúi đầu uốn gối quỳ xuống trước mặt người sử côn.

Bao nhiêu phẫn nộ trong lòng Lệnh Hồ Xung đều tiêu tan hết, chỉ còn lại một nỗi buồn man mác.

Tuy hắn biết người sử côn khắc đồ hình này không khỏi có điều kiêu ngạo khinh bạc, nhưng Hoa Sơn kiếm pháp bị đả phá hết, không còn cách gì để tranh hùng thực sự cả trăm phần trăm, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.

Tối hôm ấy Lệnh Hồ Xung đi quanh trong hậu động chẳng hiểu đến mấy trăm vòng. Suốt đời chưa bao giờ hắn bị đả kích trầm trọng như lần này.

Miệng hắn lẩm bẩm:

– Bọn mình tự hào võ công phái Hoa Sơn được liệt danh vào hàng Ngũ nhạc kiếm phái tức là một danh môn đại phái nhất nhì trong võ lâm mà thực ra võ công bản phái chưa chịu nổi một đòn của người tạ Những kiếm chiêu trên vách đá ít ra là tới phân nửa cả sư phụ, sư nương cũng chưa học đến. Song giả tỷ có luyện được kiếm pháp bản môn tới trình độ tối cao và dù là sư phụ cũng còn thua xa lắm. Như vậy nó còn dùng làm gì được? Đối phương mà biết cách phá giải thì tay cao thủ tuyệt đối bản môn cũng phải quẳng kiếm đầu hàng. Bằng chẳng chịu thua thì chỉ còn đường tự sát.

Lệnh Hồ Xung càng ngẫm nghĩ càng đau khổ. Phương Đông hừng sáng, hắn cũng không biết.

Lúc trời sáng rõ, hắn nhìn hình người quỳ xuống đất đầu hàng, lòng càng se lại.

Hắn cầm kiếm lên muốn đẽo vách đá đi. Nhưng mũi kiếm sắp chạm vào vách hắn lại nghĩ:

– Bậc đại trượng phu phải cho quang minh lỗi lạc. Bại là bại, thắng là thắng. Kỹ thuật phái Hoa Sơn mình không bằng người thì còn nói gì nữa?

Đoạn hắn vứt trường kiếm xuống buông một tiếng thở dài. Hắn lại đi coi những hình khắc kiếm chiêu của bốn phái Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn và Hằng Sơn thì cũng bị đối thủ đánh thua liểng xiểng, không còn thế nào cứu vãn được rồi sau cùng cũng phải quỳ xuống đầu hàng.

Lệnh Hồ Xung có tư chất thông minh đặc biệt lại theo một phái lâu ngày nên kiến văn rộng rãi.

Tuy hắn không hiểu rõ đến chỗ tinh thâm về kiếm chiêu của các phái kia nhưng những điều cốt yếu hắn đều đã được nghe qua.

Những kiếm chiêu khắc trên vách đá, chẳng chiêu nào không cực kỳ cao minh lợi hại, song mỗi chiêu đều bị đối phương đả phá.

Ngoài sự kinh hãi trong lòng hắn còn tràn ngập mối nghi ngờ. Hắn tự hỏi:

– Phạm Tùng, Triệu Hạc, Trương Thừa Phong, Trương Thừa Vân là những người lai lịch thế nào? Tại sao họ lại nghĩ ra được cách đả phá những kiếm chiêu của Ngũ nhạc kiếm phái mình mà mình chưa từng nghe người trong võ lâm nói tới? Tại sao Ngũ nhạc kiếm phái vẫn giữ được oai danh cho tới ngày nay?

Lệnh Hồ Xung nhận thấy Ngũ Nhạc kiếm phái ngày nay vẫn đứng vào hàng cự phách ở đời thiệt không khỏi có chỗ mạo danh dối đời hay ít ra kiêu hãnh mà nổi tiếng. Mấy nghìn người từ sư trưởng đến đệ tử Ngũ Nhạc kiếm phái mà còn đứng vững được là nhờ những đồ hình khắc trên vách đá này chưa bị tiết lộ ra ngoài.

Bỗng trong lòng Lệnh Hồ Xung nẩy ra một ý niệm:

– Sao ta chẳng giơ búa lên bạt hết đồ hình trên vách đá này đi, không để lại một vết tích gì ở trên thế gian nữa? Như vậy có phải Ngũ Nhạc kiếm phái sẽ bảo toàn được oai danh, coi như ta chưa phát giác ta hậu động này.

Hắn lượm một cây búa lớn lên, nhưng khi coi tới những chiêu số kỳ diệu trên vách đá lại không nỡ hạ thủ bạt đi. Hắn trầm ngâm một lúc rồi la lên:

– Bịt tai lại để ăn cắp nhạc ngựa là tự dối mình và dối người. Lệnh Hồ Xung này khi nào lại hành động thế được?

Lệnh Hồ Xung đi ra tiền động suy nghĩ hàng nửa ngày rồi lại vào hậu động quan sát những đồ hình trên vách đá. Hắn hết đi ra rồi lại đi vào không biết bao nhiêu lần nữa.

Trời đã xế chiều, bỗng nghe có tiếng bước chân sột soạt.

Nhạc Linh San xách thùng cơm đi lên.

Lệnh Hồ Xung mừng rỡ vô cùng. Hắn chạy ra sườn núi đón tiếp lớn tiếng gọi:

– Tiểu sư muội!

Thanh âm hắn run lên tỏ ra cực kỳ xúc động.

Nhạc Linh San không trả lời, cứ cắm đầu đi lên. Nàng đạt thùng cơm xuống bàn đánh kịch một tiếng rồi không thèm liếc mắt ngó Lệnh Hồ Xung lấy một lần, trở gót đi luôn.

Lệnh Hồ Xung xiết nỗi bồn chồn. Hắn la lên:

– Tiểu sư muội! Tiểu sư muội! Tiểu sư muội làm sao thế?

Nhạc Linh San hắng dặng một tiếng, chí đầu ngón chân trái xuống đất, tung mình nhảy vọt xuống núi.

Lệnh Hồ Xung kêu hoài:

– Tiểu sư muội! Tiểu sư muội!…

Nhưng thủy chung Nhạc Linh San vẫn không thưa mà cũng chẳng ngoảnh đầu lại ngó hắn lần nào.

Lệnh Hồ Xung trong dạ hoang mang, không biết làm thế nào được. Hắn mở thùng ra coi thấy đủ cơm trắng và hai đĩa rau như mọi khị Hắn đứng ngơ ngẩn ngó thùng cơm rồi ngây người ra như phỗng đá.

Tối hôm ấy Lệnh Hồ Xung hai ba lần định ăn cơm nhưng lần cũng chỉ và vào một miếng là lại thấy đắng mồm đắng miệng không sao nuốt đi được.

Hắn đành bỏ bát đũa xuống không ăn uống nữa, ngồi lẩm bẩm:

– Nếu tiểu sư muội giận mình thì sao lại còn đưa cơm lên chỏ Bằng nàng không giận thì sao lại chẳng nói với mình lấy một câu hay ngó mình lấy một lần? Còn cho là Lục sư đệ mắc bệnh nên nàng phải mang cơm lên cũng không đúng, vì Lục sư đệ mà đau thì còn có ngũ sư đệ, bát sư đê… ai đưa cơm cho mình chẳng được? Tại sao tiểu sư muội phải tranh lấy việc này?

Những làn sóng tư tưởng nhô lên dẹp xuống dồn dập trong lòng hắn về việc suy đoán tâm tình Nhạc Linh San, khiến hắn phế bỏ cả việc xem xét võ công trên vách đá trong hậu động.

Hôm sau lúc xế chiều, Nhạc Linh San lại đưa cơm lên, nàng vẫn không thèm ngó hắn lấy một lần, hay nói lấy một câu. Lúc xuống núi còn hát vang bài “Phúc Kiến sơn ca”.

Lệnh Hồ Xung lòng đau như cắt, bụng bảo dạ:

– Té ra nàng cố ý trêu tức ta.

Đến chiều hôm thứ ba, Nhạc Linh San cũng lên, nàng đặt mạnh thùng cơm xuống bàn rồi lại trở gót đi luôn.

Lệnh Hồ Xung không nhịn được nữa la lên:

– Có chuyện gì xin cứ nói đi!

Lệnh Hồ Xung thấy mặt nàng lộ vẻ lạnh lùng tựa hồ bao phủ một làn sương dày đặc, tuyệt không một chút niềm nở vui tươi, đâm ra luống cuống, hắn ấp úng:

– Tiểu sư muội… Tiểu sư muội… Tiểu sư muội…

Nhạc Linh San hỏi:

– Tiểu muội làm sao?

Lệnh Hồ Xung ấp úng:

– Tiểu huynh… tiểu huynh…

Ngày thường hắn là người ung dung lãng mạn, miệng lưỡi mau lẹ. Nhưng lúc này hắn yêu Nhạc Linh San bằng một tấm lòng tha thiết, nên không thốt nên lời.

Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca không nói thì tiểu muội đi đây!

Đoạn xoay mình cất bước.

Lệnh Hồ Xung bồn chồn trong dạ. Hắn tự nhủ:

– Bây giờ nàng xuống núi, thì mình phải chờ đến chiều mai. Vả mình không hỏi cho biết sự tình, đêm nay biết bao nỗi đau khổ hành hạ thì mình chịu sao nổi? Hơn nữa cứ coi điệu này thì chắc mai nàng lại lên, có khi đến hàng tháng nàng chẳng lên nữa cũng chưa biết chừng.

Trước tình trạng cấp bách, hắn vội vươn tay ra níu tay áo Nhạc Linh San.

Nhạc Linh San tức giận vùng vằng:

– Buông tay ra!

Rồi nàng giật mạnh đánh “roạc” một tiếng, tay áo bị đứt trở xuống, để hở làn da trắng nõn một bên cánh tay.

Nhạc Linh San vừa thẹn vừa tức. Nàng không biết dấu cánh tay vào đâu được.

Ta nên biết đàn bà con gái đời xưa, trừ mặt mũi và hai bàn tay, không thể để hở hang bất cứ một chỗ nào trong thân thể, vì đó là một điều rất nhơ nhuốc hổ thẹn.

Nhạc Linh San tuy là người đã học võ nhưng vẫn còn câu nệ những tiểu tiết thông thường của con nhà khuê các. Nay đột nhiên hở nửa cánh tay nàng ngượng nghịu bẽn lẽn la lên:

– Ngươi… lớn mật…

Lệnh Hồ Xung hốt hoảng xin lỗi:

– Tiểu sư muội! Tiểu huynh rất ân hận… không phải tiểu huynh cố ý thế đâu.

Nhạc Linh San phải lấy ống tay bên phải phủ lên cánh tay bên trái. Nàng lớn tiếng hỏi:

– Đại sư ca muốn nói gì?

Lệnh Hồ Xung ngập ngừng nói:

– Tiểu huynh không hiểu vì lẽ gì… tiểu sư muội lại đối đãi với tiểu huynh như vậy? Nếu tiểu huynh có tội thiệt… thì tiểu sư muội cứ rút kiếm mà đâm vào người tiểu huynh mười bảy mười tám nhát… dù tiểu huynh có chết cũng không oán hận.

Nhạc Linh San cười lạt nói:

– Đại sư ca là bậc huynh trưởng, còn ai dám hạch tội nữa? Nói chi đến chuyện chém 17, 18 nhát?

Đại sư ca không đâm người ta 17, 18 nhát là phúc lắm rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu huynh đã nghĩ đến bể óc mà không sao hiểu được mình mắc tội với tiểu sư muội ở chỗ nào?

Nhạc Linh San la lên:

– Đại sư ca không hiểu ư? Đại sư ca không hiểu ư? Đại sư ca bảo Lục Hầu nhi đầu cáo với gia gia má má, chắc là đại sư ca hiểu lắm rồi.

Lệnh Hồ Xung rất lấy làm kỳ tự hỏi:

– Tiểu huynh bảo Lục sư đệ đầu cáo chuyện gì lên sư phụ cùng sư nương?… Gã đầu cáo thế nào?

Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca đã hiểu rõ gia gia cùng má má cưng tiểu muội lắm, kiện cáo cũng chẳng làm gì. Chà chà! Đã thưa kiện người ta… còn khéo giả vờ. Chẳng lẽ đại sư ca không biết thật ư?

Lệnh Hồ Xung chấn động tâm linh. Hắn vỡ lẽ ngay lập tức, trong lòng càng tăng thêm phần đau khổ.

Hắn nói:

– Lục sư đệ cùng Lâm sư đệ đấu kiếm rồi bị thương, sư phụ cùng sư nương đều biết cả, nhân thế mà trách phạt Lâm sư đệ có đúng thế không?

Hắn nghĩ thầm trong bụng:

– Chắc vì việc sư phụ cùng sư nương trách phạt Lâm sư đệ, rồi cô này giận ta chứ gì?

Nhạc Linh San nói:

– Giữa sư huynh, sư đệ tỷ kiếm với nhau, một bên lỡ tay chứ không phải cố ý đả thương, thế mà gia gia lại o bế Lục hầu nhi, chỉ trách mắng tiểu Lâm tử một trận nặng nề. Gia gia còn bảo công lực tiểu Lâm tử kém cỏi không nên học chiêu số “Hữu Phụng lại nghi” và cấm tiểu muội không được luyện kiếm cho gã. Hay lắm! Thế là đại sư ca được kiện. Nhưng… nhưng tiểu muội không lý gì đến đại sư ca nữa, và vĩnh viển không nhìn mặt đại sư ca!

Câu “vĩnh viển tiểu muội không nhìn mặt đại sư ca” lúc bình thời Nhạc Linh San vẫn thường nói với Lệnh Hồ Xung những lúc đùa giỡn nhõng nhẽo. Có điều nàng nói câu này với cặp mắt đưa đẩy, miệng cười chúm chím, chẳng có chút gì là “không nhìn mặt cả”. Nhưng lần này khác hẳn, nàng nói bằng một giọng rất cương quyết, vẻ mặt rất nghiêm khắc.

Lệnh Hồ Xung tiến lại gần một bước nói:

– Tiểu sư muội… tiểu huynh…

Hắn muốn nói “tiểu huynh thiệt tình không hề bảo Lục sư đệ cáo tố vụ này với sư phụ cùng sư nương bao giờ”.

Nhưng hắn lại nghĩ rằng:

– Mình tự vấn tâm chẳng có điều chi phải hổ thẹn, mình đã không làm việc này hà tất phải năn nỉ ai?

Nên chữ “tiểu huynh” vừa thốt ra khỏi cửa miệng, hắn liền dừng lại không nói nữa.

Nhạc Linh San hỏi:

– Đại sư ca làm sao?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

-Tiểu huynh không sao cả. Chỉ nghĩ rằng sư phụ hay sư nương có cấm tiểu sư muội không được chỉ điểm cho Lâm sư đệ luyện kiếm cũng chẳng phải là việc trọng đại, mà sao tiểu sư muội lại oán hận tiểu huynh đến thế?

Nhạc Linh San đỏ mặt lên nói:

– Tiểu muội cứ oán hận đại sư ca đấy! Tiểu muội cứ oán hận đại sư ca đấy! Đại sư ca định đả phá vụ này để hàng ngày tiểu muội không dạy Lâm sư đệ luyện kiếm sẽ lên đây bầu bạn với đại sư ca chứ gì? Hừ! Đại sư ca lầm rồi! Tiểu muội vĩnh viển không nhìn mặt đại sư ca nữa.

Dứt lời nàng dậm mạnh chân phải xuống đất, băng mình vọt đi.

Lần này Lệnh Hồ Xung không dám vươn tay ra níu kéo nàng nữa. Hắn đau lòng tê tái. Bên tai lại vang lên thanh âm trong trẻo hát khúc “Phúc Kiến sơn ca”.

Hắn chạy ra sườn núi ngó xuống thấy bóng sau lưng Nhạc Linh San tha thướt đang chuyển qua một khu thung lũng, cánh tay bên trái thấp thoáng lồng vào ống tay áo bên phải, hắn càng băn khoăn trong dạ nghĩ thầm:

– Mình kéo rách tay áo nàng nếu nàng tố cáo vụ này với sư phụ cùng sư nương thì hai vị lão gia tất bảo mình là kẻ khinh bạc vô lễ với tiểu sư muội. Vậy… biết làm thế nào bây giờ? Vụ này mà đồn đại ra thì ngay bọn sư đệ, sư muội cũng coi rẻ mình rồi.

Nhưng hắn là người khoát đạt, liền bụng bảo dạ:

– Thực tình ta có khinh bạc với nàng đâu mà ngại? Đại trượng phu làm việc không hổ thẹn với lương tâm là đủ. Còn người ta muốn nghĩ thế nào thì mặc họ, mình giữ thế nào được?

Tuy Lệnh Hồ Xung không quan tâm đến việc níu rách áo Nhạc Linh San nữa, nhưng hắn nghĩ tới chuyện nàng chỉ vì không được dạy kiếm cho Lâm Bình Chi mà đem lòng giận dỗi thì trong lòng hắn lại xót xa.

Lúc đầu hắn còn đem dạ khoan hồng, tự giải thích:

– Tiểu sư muội nhỏ tuổi hiếu động mà mình phải ở trên núi sám hối, không ai chuyện trò để nàng giải muộn, vậy nàng phải kiếm con người tuổi suýt soát ngang nhau là Lâm sư đệ để làm bầu bạn, chứ thực

ra nàng có lòng dạ nào khác đâu?

Nhưng sau hắn lại nghĩ rằng:

– Mình cùng nàng ở với nhau từ nhỏ đến lớn, tình nghĩa thâm trọng biết là chừng nào? Lâm sư đệ đến Hoa Sơn bất quá mới được mấy tháng thì mối thân sơ hậu bạc khác nhau chứ?

Hắn nghĩ tới đây rồi lại đau lòng. Hôm ấy hắn hết từ trong động chạy ra sườn núi, lại từ sườn núi chạy vào trong động, chạy lui chạy tới không biết đến mấy trăm lần.

Suốt ngày như vậy rồi đến chiều tối chỉ thấy Lục Đại Hữu đem cơm lên. Gã đặt cơm xuống bàn xới ra bát rồi nói:

– Mời đại sư ca dùng cơm đi!

Lệnh Hồ Xung ừ một tiếng cầu đũa bát lên và hai miếng mà không sao nuốt được. Hắn liếc mắt nhìn ra sườn núi rồi uể oải đặt bát cơm xuống.

Lục Đại Hữu hỏi:

– Đại sư ca! Sắc mặt đại sư ca coi thâm lắm. Phải chăng trong người không được khoan khoái?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Không sao đâu.

Lục Đại Hữu nói:

– Món nấm này do tiểu đệ hôm qua đi hái về nấu cho đại sư ca ăn. Đại sư ca nếm thử coi mùi vị thế nào.

Lệnh Hồ Xung không nỡ phật ý gã gắp nấm ăn mấy miếng rồi khen:

– Ngon lắm!

Thực ra nấm có mùi vị thơm ngon mà miệng hắn chẳng thấy ngon lành chút nào.

Lục Đại Hữu cười hì hì nói:

– Đại sư ca ơi! Tiểu đệ báo cho đại sư ca biết một tin rất haỵ Sư phụ cùng sư nương bắt đầu từ ba bữa nay đã cấm Lâm tiểu tử không được theo tiểu sư muội để học kiếm nữa.

Lệnh Hồ Xung lạnh lùng hỏi lại:

– Sư đệ đấu kiếm với Lâm sư đệ không nổi rồi đến khóc lóc kể lể với sư phụ cùng sư nương, có phải thế không?

Lục Đại Hữu nhảy bổ lên hỏi:

– Ai bảo tiểu đệ không địch nổi gã. Tiểu đê… tiểu đê…

Gã nói đến đây lập tức im bặt.

Lệnh Hồ Xung vốn đã hiểu rõ. Tuy Lâm Bình Chi nhờ chiêu “Hữu phụng lai nghi” mà xuất kỳ bất ý đả bại Lục Đại Hữu nhưng Lục Đại Hữu nhập môn đã lâu ngày thì bất luận thế nào Lâm Bình Chi cũng chưa phải là đối thủ của gã được. Sở dĩ gã có tố cáo với sư phụ, sư mẫu thực ra cũng chỉ vì hắn.

Lệnh Hồ Xung lại nghĩ:

– Té ra bọn sư đệ sư muội đều có lòng tội nghiệp cho mình và chúng đã hiểu hết ít lâu nay tiểu muội không ưa mình nữa chỉ vì chuyện Lâm Bình Chị Lục sư đệ vì giao hữu với mình mới nghĩ cách vãn hồi tình thế. Hừ! Bậc đại trượng phu khi nào chịu để cho ai thương xót?

Đột nhiên hắn nổi cơn tức giận như người điên, cầm lấy bát cơm đĩa rau liệng cả xuống vực sâu rồi thét lên:

– Ai cần ngươi đa sự? Ai cần ngươi đa sự?

Lục Đại Hữu giật mình kinh hãi. Trước nay gã vẫn kính phục đại sư ca đến cực điểm không ngờ lại làm cho hắn phẫn khích đến thế. Gã hoảng sợ vô cùng chỉ lùi hoài, miệng ấp úng:

– Đại… đại sư ca!…

Lệnh Hồ Xung liệng hết cơm rau xuống vực sâu rồi vẫn chưa nguôi giận. Tiện tay lượm từng khối đá tiếp tục liệng xuống hang sâu hoài.

Lục Đại Hữu nói:

– Đại sư ca! Đúng là tiểu đệ chẳng ra gì… đại sư ca đánh đòn đi!

Lệnh Hồ Xung tay đang cầm viên đá nghe gã nói vậy liền quay lại lớn tiếng hỏi:

– Sư đệ có điều chi không tốt?

Lục Đại Hữu sợ tái mặt, lùi thêm một bước miệng ấp úng:

– Tiểu đê… tiểu đê… cũng không biết.

Lệnh Hồ Xung buông tiếng thở dài, liệng viên đá trong tay ra ngoài xa rồi kéo tay Lục Đại Hữu nói:

– Lục sư đệ Ơi! Xin lỗi nhé! Đây là tự tiểu huynh nổi cơn phiền muộn, không can gì đến Lục sư đệ cả.

Lục Đại Hữu thở phào một cái nói:

– Để tiểu đệ xuống lấy cơm khác lên cho đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung gạt đi:

– Không! Không cần nữa! Mấy bữa nay tiểu huynh đắng miệng không muốn ăn.

Lục Đại Hữu liếc nhìn thấy thùng cơm bữa qua để trên bàn vẫn còn nguyên chưa đụng đến. Gã không khỏi lộ vẻ lo âu, liền hỏi:

– Đại sư ca! Cả hôm qua đại sư ca cũng không ăn cơm ư?

Lệnh Hồ Xung gượng cười đáp:

– Lục sư đệ bất tất phải quan tâm. Mấy bữa nay tiểu huynh đắng miệng không muốn ăn mà thôi.

Lục Đại Hữu không dám nói nữa. Hôm sau chưa đến giờ thân gã đã xách cơm lên núi bụng bảo dạ:

– Bữa nay lấy được hồ rượu lớn lại nấu được hai món canh ngọt, mình phải khuyên đại ca ăn thêm mấy bát cơm.

Lúc hắn lên đến sườn núi ngó thấy Lệnh Hồ Xung đang nằm ngủ trên phiến đá lớn trong động, vẻ mặt rất là tiều tụy thì trong lòng cũng hơi kinh hãi, cất tiếng gọi:

– Đại sư ca! Đại sư ca hãy coi cái gì đây?

Gã vừa hỏi vừa giơ hầu rượu lên lắc mấy cái, đoạn mở nút ra. Lập tức trong thạch động tràn ngập mùi rượu thơm ngát.

Lệnh Hồ Xung quí rượu như tính mạng. Hắn liền đón lấy dốc lên nuốt ừng ực một hơi đã cạn nửa

bầu, rồi cất tiếng khen:

– Rượu này ngon lắm!

Lục Đại Hữu mừng rỡ vô cùng nói:

– Tiểu đệ xới cơm cho đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung xua tay nói:

– Không! Mấy bữa nay tiểu huynh không muốn ăn cơm.

Lục Đại Hữu khẩn khoản:

– Đại sư ca ráng ăn một bát thôi mà.

Gã nói xong đơm cơm đầy vào bát.

Lệnh Hồ Xung thấy gã tận tâm liền đáp:

– Được rồi! Để tiểu huynh uống rượu xong sẽ ăn cơm.

Nhưng rồi hắn vẫn không ăn bát cơm này, cứ để nguyên đó.

Hôm sau Lục Đại Hữu đem cơm lên thấy bát cơm đầy hôm qua vẫn để trên mặt bàn mà Lệnh Hồ Xung đang ngủ mê man.

Lục Đại Hữu thấy hai má Lệnh Hồ Xung đỏ lên liền đưa tay ra sờ trán thì đầu hắn nóng chẳng khác nước sôi. Gã khẽ hỏi:

– Đại sư ca mắc bệnh ư?

Lệnh Hồ Xung miệng ú ớ:

– Rượu! Rượu! Ta muốn uống rượu.

Lục Đại Hữu tuy có đem rượu lên, nhưng không dám cho hắn uống. Gã cầm chén nước kề vào miệng.

Lệnh Hồ Xung uống cạn chén nước lớn rồi la lên:

– Rượu ngon! Rượu ngon quá.

Đoạn ngả huỵch xuống phiến đá lớn, miệng vẫn nói mê:

– Rượu ngon, rượu ngon…

Lục Đại Hữu thấy hắn bệnh thế trầm trọng thì trong lòng nóng nảy vô cùng. Hôm ấy sư phụ cùng sư nương lại có việc phải hạ sơn, Lục Đại Hữu chạy như bay xuống núi báo cho bọn Lao Đức Nặc hay.

Nhạc Bất Quần tuy đã có lời minh huấn trong mỗi ngày ngoài một lần đưa cơm, không một ai được lên gặp Lệnh Hồ Xung. Nhưng hiện giờ hắn bị bệnh mà lên thăm tưởng cũng không đến nổi phạm luật.

Nhưng bọn đồ đệ không dám kéo đi một lúc, chia phiên ra mà đi. Trước hết là Lao Đức Nặc và Lương Phát đi lên. Hôm sau đến lượt Thi Đới Tử và Cao Căn Minh.

Lục Đại Hữu hôm ấy đến báo cho Nhạc Linh San hay là đại sư ca mắc bệnh, bọn đồng môn chia lượt lên thăm. Khi ấy Nhạc Linh San vẫn chưa nguôi giận đáp:

– Đại sư ca nội công tinh thâm sao lại mắc bệnh được? Tiểu muội không mắc lừa đâu.

Nhưng Lệnh Hồ Xung chuyến này bệnh rất nguy hiểm. Bốn ngày liền mê man bất tĩnh.

Lục Đại Hữu cố sức năn nỉ Nhạc Linh San còn thiếu quì hai chân xuống để mà van vỉ.

Nhạc Linh San bây giờ mới nóng lòng cùng Lục Đại Hữu lên núi thì thấy Lệnh Hồ Xung má hóp, râu đâm tua tủa chứ không diêm dúa như ngày thường.

Nhạc Linh San chạy đến bên gọi:

– Đại sư ca! Tiểu muội lên thăm đây, đừng hờn giận nữa được không?