fbpx
skip to Main Content
Vovinam Schools
Le Sang Library
Vovinam Home
Vovinam University International

Hồi 105

Xót Hào Kiệt Dốc Lòng Giải Cứu

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Gã này dùng lá mộc hộ thân, phòng thủ rất nghiêm mật. Nhưng lúc gã phóng đao đánh ra thì thân mình lại sơ hở có thể bị đối phương chém đứt tay ngay.

Nên biết kiếm pháp “Độc cô cửu kiếm” rất lợi hại ở chỗ vừa ngó qua đã nhận thấy chỗ sơ hở về chiêu số của đối phương rồi có thể chỉ đánh ra một chiêu là khiến cho đối phương hết đường né tránh để thủ thắng.

Lệnh Hồ Xung thấy Hướng Vấn Thiên chỉ cần hạ thấp dây lòi tói xuống một chút để tấn công qua phía dưới lá mộc của đối phương là thắng được ngay mà lão đã mất cơ hội rất tốt, chàng lấy làm hối tiếc cho lão.

Bỗng nghe phía sau có tiếng người quát:

– Ngươi có muốn toàn mạng không?

Thanh âm tuy không vang dội cho lắm, nhưng người đứng gần cách bên tai chàng không đầy ba thước.

Chàng giật mình quay lại liền thấy một người đứng sững trước mặt sát vào mình, cơ hồ hai mũi sắp đụng nhau.

Chàng vội né tránh thì song chưởng người kia đã nắm lấy trước ngực chàng, lạnh lùng nói:

– Ta mà nhả chưởng lực ra thì bao nhiêu rẻ xương sườn ngươi sẽ bị gãy hết! Lệnh Hồ Xung biết hắn nói thật, chàng không dám nhúc nhích nữa, trái tim tưởng chừng ngừng đập.

Người kia giương hai mắt lên ngó Lệnh Hồ Xung. Vì đối phương đứng gần quá, chàng không tài nào nhìn rõ mặt hắn được. Có điều chàng cảm thấy cặp mắt hắn chiếu những tia thần quang lấp loáng ra chiều uy mãnh thì nghĩ bụng:

– Té ra ta chết về tay người này.

Chàng nghĩ rằng sinh tử là chuyện trọng đại chung qui cũng đến chỗ kết thúc, thành ra trong lòng thư thái.

Người kia ban đầu thấy trong khóe mắt Lệnh Hồ Xung ra chiều khiếp sợ, nhưng sau giây lát chàng lại trở lại vẻ thản nhiên, như chẳng có chuyện gì. Đến lúc lâm tử mà không sợ sệt thì dù bậc tiền bối cao nhân trong võ

lâm cũng không có mấy. Bất giác hắn bật tiếng cười ha hả nói:

– Ta vì đánh lén mà đắc thủ, kiềm chế được yếu huyệt ngươi… Nếu ta giết ngươi ngay chắc ngươi có chết cũng không chịu phục.

Hắn liền buông hai tay ra lùi lại ba bước.

Bây giờ Lệnh Hồ Xung mới nhìn rõ hình dáng người này là một lão già béo chùn béo chụt mà thấp lủm thủm. Mặt lão vàng như nghệ, trạc tuổi ngoài 50. Hai bàn tay lão bé nhỏ nhưng rất dầy vì những ngón tay mập thù lù. Một bàn tay cao, một bàn tay thấp đưa ra theo chiêu thức Đại tung dương thủ.

Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười hỏi:

– Tiền bối phái Tung Sơn mà tại hạ chưa biết tôn tính đại danh. Vừa rồi sao tiền bối lại còn khoan dung chưa phóng chưởng hạ sát tại hạ?

Người kia đáp:

– Tại hạ là Hiếu Cảm Lâm Hậu.

Lão ngừng lại một chú rồi tiếp:

– Kiếm pháp công tử rất cao minh. Có điều chưa đủ kinh nghiệm trong lúc lâm địch.

Lệnh Hồ Xung lễ phép đáp:

– Chính thế! Thân thủ Lâm sư bá thật mau lẹ phi thường!

Lâm Hậu nói:

– Tại hạ không dám nhận hai chữ “sư bá”. Công tử hãy tiếp chiêu đây.

Lão giơ tay lên, tay mặt phóng chưởng đánh ra.

Người lão hình thù quê kệch xấu xạ Nhưng khi phóng chưởng thì toàn thân oai phong lẫm liệt, khí độ hiên ngang. Tướng kiêu hùng không bút nào tả xiết.

Lệnh Hồ Xung thấy toàn thân lão không một chỗ nào sơ hở. Bất giác nổi tiếng hoan hô:

– Hảo chưởng pháp! Hảo chưởng pháp!

Chàng hươi trường kiếm phóng chênh chếch ra. Vì thấy chưởng pháp Lâm Hậu rất kín đáo, chàng ra chiêu kiếm này vừa thủ vừa công. Chín phần là hư chỉ có một phần thực. Nói cho đúng đây là một chiêu thử thách.

Phép “Độc cô cửu kiếm” há phải tầm thường. Lệnh Hồ Xung từ đêm hôm ra một chiêu đâm mù cặp mắt của 15 người trong Dược vương miếu cho đến nay, khi chàng đã phóng kiếm ra, không bao giờ sử đến chiêu thứ hai, mà cũng chưa từng ra chiêu thế thủ. Hiện giờ Lâm Hậu bức bách chàng phải phóng kiếm tự thủ thì đủ biết chưởng pháp của lão tinh thuần đến thế nào!

Nhưng Lệnh Hồ Xung phóng kiếm chênh chếch ra rồi, song chưởng của Lâm Hậu bất cứ muốn đánh vào phương vị nào, lòng bàn tay cũng đụng phải mũi kiếm của chàng. Song chưởng mới phóng ra hơn một thước lập tức lão thu chưởng về nhảy sang một bên la lớn:

– Hảo kiếm pháp! Hảo kiếm pháp!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tại hạ không bõ làm trò cười cho tiền bối.

Lâm Hậu trầm ngâm một lúc rồi hô:

– Coi chừng!

Song chưởng vung lên không đẩy ra. Một luồng chưởng phong mãnh liệt xô tới.

Lệnh Hồ Xung la thầm:

– Nguy rồi!

Nội lực chàng mất hết. Chàng chỉ trông vào kiếm pháp tinh diệu để chống chọi. Nhưng Lâm Hậu đứng ngoài xa phóng chưởng lực, thanh trường kiếm của chàng không đỡ gạt được. Chàng toan né tránh thì cảm thấy một luồng hàn khí ập vào người. Chàng không nhịn được run người lên bần bật.

Nguyên Lâm Hậu ngoại hiệu là “Đại âm dương thủ”. Lão rất sở trường về chưởng lực âm dương. Lệnh Hồ Xung vừa ngẩn người ra một chút thì một luồng chưởng phong nóng nhiệt xô tới khiến chàng cơ hồ nghẹt thở.

Người chàng lảo đảo ấy cái.

Kể ra chưởng lực “âm dương song chưởng” đã đụng vào người thì khó mà thoát được. Nhưng Lệnh Hồ Xung tuy mất hết nội lực mà luồng chân khí trong người lại đầy rẫy, chẳng những nó bao gồm chân khí của Đào cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng, mà khi ở chùa Thiếu Lâm dưỡng thương, trong người chàng lại thêm luồng chân khí của Phương Sinh đại sư cũng cực kỳ hùng hậu.

Hai luồng chưởng lực một âm một dương đánh tới, luồng chân khí súc tích trong mình chàng tự nhiên phát uy lực lượng phản ứng để hộ vệ cho tâm tạng nên chàng không bị tổn thương. Có điều luồng chân khí gồm những nội lực bất đồng chỉ có thể hộ thân, chứ không như luồng nội lực tu luyện mà thành để tự mình vận dụng đả thương đối phương. Vì thế toàn thân chàng chấn động, khó chịu khôn tả.

Lệnh Hồ Xung sợ chưởng lực của Lâm Hậu lại đánh tới, chàng cầm kiếm ra khỏi lương đình, phóng lẹ một kiếm.

Lâm Hậu phóng chưởng đắc thủ rồi cho là Lệnh Hồ Xung đã bị chưởng lực của mình đánh trúng thì dù chẳng chết ngay đương trường cũng bị trọng thương mà ngã lăn ra.

Ngờ đâu chàng vẫn bình yên vô sự, lão lại thấy kiếm quang lấp loáng đâm tới lòng bàn tay mình thì kinh dị vô cùng. Song chưởng lão giao nhau, một đánh vào trước ngực Lệnh Hồ Xung, một đánh vào bụng dưới chàng. Chưởng lực vừa nhả ra, đột nhiên lão cảm thấy đau thấu tâm can. Hai bàn tay lão dính vào làm một xuyên vào mũi trường kiếm của đối phương.

Lão không hiểu chàng đã dùng kiếm đâm thủng song chưởng của mình hay là mình đập song chưởng trúng vào mũi kiếm của chàng. Lão nhìn lại thì thấy chưởng bên trái nằm dưới, chưởng bên hữu nằm trên.

Mũi kiếm đâm xuyên qua chưởng bên trái đưa lên trên, sâu vào hai tấc.

Lâm Hậu rú lên một tiếng giựt mạnh tay ra nhảy lùi lại rồi chạy đi như bay.

Lệnh Hồ Xung trong lòng áy náy lớn tiếng la gọi:

– Tại hạ cam bề đắc tội!

Chiêu kiếm này là một trong những tuyệt chiêu về “Phá chưởng thức” của “Độc cô cửu kiếm”. Từ khi Độc cô cầu bại qua đời đến nay đã hơn trăm năm, chưa thấy nó xuất hiện trên chốn giang hồ lần nào nữa.

Bỗng nghe những tiếng ầm ầm cùng những tiếng lát chát vang lên. Lệnh Hồ Xung quay đầu nhìn lại thấy bảy tám hán tử đang vây đánh Hướng Vấn Thiên. Trong bọn này có hai người chưởng lực rất ghê gớm, đánh cả xà lẫn cột quán lương đình. Ngói trên nóc rớt xuống lả tả.

Mọi người đang chiến đấu hăng say bị ngói rớt trúng đầu cũng chẳng để ý gì đến.

Giữa lúc ấy ba lão già chống binh khí chia ba mặt vây đánh Lệnh Hồ Xung. Một lão sử cặp “phán quang bút” lấp loáng có ánh sáng. Một lão sử thanh “Tử đại kim đao” sống dầy mà lưỡi mỏng. Còn một lão tay không, nhưng bàn tay có đeo bao.

Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm:

– Sư phụ đã bảo phàm người xuất chiến mà đeo bao tay thường là những người sử dụng ám khí kịch độc.

Khi gặp những nhân vật này phải cẩn thận lắm mới được.

Chàng chưa kịp nghĩ nhiều thì đôi “phán quang bút” đã chia ra nhằm điểm vào những huyệt đạo hai vai.

Thanh “Tử kim đại đao” chém tới ngay lưng chàng.

Lệnh Hồ Xung tức giận lẩm bẩm:

– Ta với bọn này không quen biết mà vừa ra chiêu họ đã hạ sát thủ định chém ta làm hai đoạn!

Chàng rung động thanh trường kiếm, thuận thế đao quét xuống phía dưới một cái khiến cho bốn ngón tay của lão sử đao đều bị chặt đứt. Cặp phán quan bút cũng bị hất lên không. Chàng úy kỵ lão đeo bao tay phóng ám khí độc mà môn “Phá khí thức” chàng chưa luyện được thành thục. Nếu để lão này phóng ám khí thiên kỳ bách quái thì không chống nổi. Chàng lia lưỡi kiếm đâm vào lòng bàn tay lão. & Thanh trường kiếm phóng ra đã mau lẹ lại chuẩn đích phi thường, trúng vào lòng bàn tay đối phương. Nhưng mũi kiếm ngừng lại không đâm vào nữa.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi. Người kia xoay tay lại nắm lấy thanh trường kiếm mà không sợ mũi kiếm sắc bén.

Lệnh Hồ Xung đột nhiên tỉnh ngộ. Hắn đeo bao tay bằng “Kim ty”.

Chàng hết sức cựa mạnh nhưng không tài nào giựt ra thoát.

Người kia đột nhiên phóng chưởng đánh ra. Binh một tiếng! Lão đánh trúng trước ngực Lệnh Hồ Xung hất người chàng bay đi. Chàng chưa chấm đất đã có bảy tám người đuổi tới giơ binh khí lên muốn băm nát người chàng ra như tương.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tuyệt diệu! Thế là xong đời ta!

Tiếng cười chưa dứt bỗng thấy sau lưng rít lại. Một dây xích cuốn lấy người chàng. Rồi chàng tưởng mình đằng vân giá vũ hay có người cắp chàng bay trên không.

Người cứu mạng chàng chính là tay cao thủ Ma giáo Hướng Vấn Thiên. Lão bị cả hai phe Ma giáo và Chính giáo vây đánh đến sức cùng lực kiệt thì đột nhiên có chàng thiếu niên chẳng biết sợ trời đất là gì thấy chuyện bất bằng đứng ra can thiệp khiến lão cảm kích vì lòng tri kỷ.

Hướng Vấn Thiên kiến thức sâu rộng thấy thủ đoạn thoái địch của Lệnh Hồ Xung liền biết ngay kiếm pháp chàng tuy cao thâm song nội lực không đủ. Chàng lại thiếu kinh nghiệm lâm trận. Nếu cùng bao nhiêu tay cao thủ hai phe chính tà chiến đấu tất bị người hạ sát. & Lão liền một mặt lo đối phó với địch nhân, đồng thời lưu tâm đến tình trạng chiến đấu của Lệnh Hồ Xung. Lão vừa thấy thanh trường kiếm của chàng bị đoạt mất, chàng lại bị trúng chưởng vào trước ngực, liền vung thiết luyện ra cuốn lấy chàng chạy đi như bay.

Khinh công lão thi triển đây thần tốc phi thường, chỉ trong nháy mắt lão đã chạy xa ngoài mấy chục trượng.

Phía sau mấy chục người chạy như bay rượt theo. Mấy chục cái miệng la lối:

– Thiên vương lão tử trốn rồi! Thiên vương lão tử trốn rồi!

Hướng Vấn Thiên nổi giận đột nhiên quay phắt lại xông về phía trước mấy bước.

Bọn người rượt theo giật mình kinh hãi đều dừng bước lại. Một người công phu hạ bàn hời hợt. Khinh công gã tuy rất cao thâm nhưng chạy lẹ quá không dừng lại được vẫn lao về phía Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên vung chân trái lên đá trúng vào gã hất vào giữa bọn người rượt theo. Đồng thời lão cúi xuống nhìn thấy miệng Lệnh Hồ Xung đang ộc máu tươi. Bất giác lão hắng dặng một tiếng rồi trở gót cắm đầu lại chạy.

Mọi người tiếp tục rượt theo nhưng không dám đuổi hết sức và quãng cách mỗi lúc một xa.

Nguyên Hướng Vấn Thiên ngoại hiệu là Thiên vương lão tử tính khí cực kỳ kiêu ngạo. Trước nay lão đã động thủ chiến đấu với ai là đánh đến phân thắng bại, cũng có khi lão bị thua, nhưng lão chưa từng chịu chạy trốn bao giờ. Đúng tư cách con người thà chết chứ không chịu khuất tất.

Khinh công lão tinh thâm hơn người. Nếu lão muốn tránh khỏi bị hai phe chính giáo và ma giáo đuổi theo thì chẳng khó gì. Nhưng lão không muốn thấy tình thế khó khăn mà lẩn tránh để địch chê cười, nên lão mới bị vây ở quán lương đình. Bữa nay vì quan tâm đến tánh mạng Lệnh Hồ Xung lão mới phá lệ lần đầu tiên xoay mình chạy trốn. Lòng lão đã phẫn hận đến cực điểm.

Hướng Vấn Thiên vừa chạy vừa tính toán: &- Giả tỷ chỉ mình ta thì quyết liều mạng với lũ mặt dơi tai chuột này. Dù sao ta cũng giết được mấy chục đứa cho hả giận còn ta sống hay chết cũng chẳng quan tâm làm cóc gì. Nhưng chàng thiếu niên này chưa từng quen biết mà đã liều mạng vì tạ Ta đành vì bạn mà phá lệ chạy trốn một phen. Cái đó kêu bằng coi trọng nghĩa khí. Dù ta phải nén lòng tức tối cũng đành. Nhưng âm hồn lũ tai dơi mặt chuột quấy rầy không chịu tiêu tan. Ta phải làm cách nào thoát ly bọn chúng mới được.

Lão chạy một lúc nữa chợt nhớ tới một nơi. Trong bụng mừng thầm, lão lẩm bẩm:

– Nơi đó hay lắm!

Rồi lão lại tự hỏi:

– Nhưng cách đây rất xạ Không hiểu mình chạy một mạch có tới nơi được không? Song cũng chẳng hề chi, ta mà mỏi mệt thì bọn mặt dơi tai chuột kia cũng kiệt lực.

Lão ngửng đầu lên trông mặt trời để phân biệt phương hướng rồi chạy xéo tắt qua khu đồng lúa mạch nhằm góc đông bắc lao đi.

Lão chạy được hơn mười dậm lại lên đường lớn.

Bỗng có ba con tuấn mã lướt qua bên mình. Lão tức quá cất tiếng thóa mạ:

– Mẹ cha nó!

Lão đề khí chạy thật lẹ rượt tới phía sau liền nhảy vọt lên cao đá người cưỡi ngựa xuống đất rồi hạ mình vào lưng ngựa.

Lão đặt Lệnh Hồ Xung nằm ngang trên yên rồi vung xích sắt tạt ngang đánh luôn cả hai người kỵ mã kia cho rớt xuống.

Hai người này bị gãy xương cốt, khó lòng sống được. Cả ba người kỵ mã đều là hạng dân thường,

không phải khách võ lâm, nhưng họ vận xui gặp phải sát tinh thành ra uổng mạng.

Hai người cưỡi rớt xuống rồi. Hai con ngựa vẫn tiếp tục chạy theo.

Hướng Vấn Thiên lại vung dây xích ra cuốn lấy dây cương. Sợi dây xích ở trong tay lão có thể huy động theo ý muốn chẳng khác gì một cánh tay rất dài.

Lệnh Hồ Xung thấy Hướng Vấn Thiên giết hại người vô tội thì không khỏi ngấm ngầm thở dài.

Hướng Vấn Thiên cướp được ba con ngựa rồi tinh thần phấn khởi. Lão cao hứng ngửa mặt lên trời cười ha hả nói:

– Tiểu huynh đệ! Bọn mặt dơi tai chuột không đuổi kịp chúng ta được nữa rồi.

Lệnh Hồ Xung cười ruồi nói:

– Bữa nay chúng không đuổi kịp thì ngày mai chúng lại đuổi nữa.

Hướng Vấn Thiên phát cáu lại văng tục:

– Mẹ kiếp! Đuổi con mẹ nó! Ta sẽ giết sạch cả lũ.

Lão ruổi ngựa chạy trên đường lớn chừng mười mấy dậm rồi rẽ vào đường núi để tiếp tục đi về phía Đông Bắc.

Con đường này thông lên đỉnh núi mỗi lúc một lên cao. Sau đường dốc quá ngựa không trèo được.

Hướng Vấn Thiên bỗng cất tiếng hỏi:

– Tiểu huynh đệ có đói không?

Lệnh Hồ Xung gật đầu hỏi lại:

– Tiền bối có mang theo lương khô ư?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Không có lương khộ Uống máu ngựa cũng được.

Lão liền nhảy xuống ngựa đưa năm ngón tay cấu vào cổ con vật cho thủng một lỗ. Máu chảy ra như suối.

Con ngựa đau quá hí lên rất thảm, nó muốn đứng thẳng lên, nhưng tay trái Hướng Vấn Thiên ấn nó xuống chẳng khác sức nặng ngàn cân đè lên lưng thì nó còn nhúc nhích làm sao được?

Hướng Vấn Thiên thò miệng vào uống máu ngựa ừng ực mấy hơi rồi nói:

– Tiểu huynh đệ uống đi!

Lệnh Hồ Xung thấy tình trạng này trong lòng rất kinh hãi.

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Không uống máu ngựa thì lấy sức đâu còn tái chiến?

Lệnh Hồ Xung hỏi lại:

– Còn đánh nữa ư?

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Ngươi sợ rồi chăng?

Lệnh Hồ Xung bỗng nổi hào khí cười ha hả nói:

– Lão bảo tại hạ sợ ư?

Rồi cũng thò miệng vào cổ ngựa cho máu chảy vào cổ họng rồi nuốt xuống.

Lúc huyết ngựa bắt đầu chảy vào miệng thì mùi tanh sặc sụa xông lên mũi, nhưng sau khi uống mấy ngụm rồi chàng cũng không thấy khó ngửi lắm như trước nữa.

Lệnh Hồ Xung uống luôn một hồi mười mấy ngụm cho đến lúc phình bụng mới nhả ra.

Hướng Vấn Thiên lại tiếp tục chõ miệng vào uống nữa, nhưng chẳng được mấy hơi, con ngựa không chống nổi, hí lên một tiếng rồi ngã lăn ra.

Hướng Vấn Thiên vung chân đá nó xuống khe suối.

Lệnh Hồ Xung thấy vậy không khỏi kinh hãi vì con ngựa này nặng ít ra sáu bảy trăm cân mà thân hình lại to lớn, thế mà Hướng Vấn Thiên đá văng đi coi nhẹ như không, chẳng mất một chút hơi sức. Kình lực ở chân lão dĩ nhiên là ghê gớm, mà công phu cất nhắc vật nặng cũng như đồ nhẹ càng ít người bì kịp.

Tiếp theo Hướng Vấn Thiên lại đá con ngựa thứ hai đi. Đoạn lão quay lại vung một chưởng chém đứt một chân sau con ngựa rồi chém luôn giò sau nữa của nó. Có điều hai tay lão bị xích sắt cột, nên lúc tay phải phóng ra, tay trái cũng chuyển động. Chưởng lực của lão tuy lợi hại, song tư thế không được nhẹ nhàng.

Con ngựa này thét lên những tiếng thê thảm rầm trời. Nó bị Hướng Vấn Thiên đá lăn xuống khe núi vẫn còn hí vang không ngớt.

Hướng Vấn Thiên bảo Lệnh Hồ Xung :

– Tiểu huynh đệ giữ lấy một đùi này mà ăn dần, có thể làm bữa đủ trong mười ngày.

Bây giờ Lệnh Hồ Xung mới biết lão chặt đùi ngựa để làm lương thực chứ không phải chỉ vì tính tàn nhẫn hiếu sát mà thôi. Chàng theo lời đón lấy một đùi ngựa.

Hướng Vấn Thiên cũng cầm một đùi trèo lên đỉnh núi. Chàng đi theo sau lão.

Hướng Vấn Thiên đi rất chậm, song Lệnh Hồ Xung mất hết nội lực. Chàng mới đi chưa đầy nửa dặm đã thụt lại sau một quãng khá xạ Chàng thở lên hồng hộc sắc mặt xanh lè.

Hướng Vấn Thiên đành dừng bước để đợi chàng.

Lệnh Hồ Xung tiếp tục đi chừng hơn một dậm, rồi không sao lê bước được nữa. Chàng đành ngồi xuống bên đường nghỉ chân.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Tiểu huynh đệ! Ngươi thật là con người kỳ lạ. Nội lực kém cỏi như vậy mà trúng phải chưởng lực “Đại âm dương thủ” của thằng cha Lâm Hậu vẫn không sao thì còn trời nào hiểu được?

Lệnh Hồ Xung nhăn nhó cười đáp:

– Ai bảo không việc gì? Lục phủ ngũ tạng tưởng chừng lộn nháo lộn nhào. Tại hạ không biết bị nội thương đến bao nhiêu thứ? Có điều tại hạ cũng rất lấy làm kỳ ở chỗ sao mình còn chịu đựng được đến nay mà vẫn chưa chết? E rằng bất cừ lúc nào tại hạ cũng có thể đi đến chỗ nằm liệt, muốn bò dậy cũng không được.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Đã vậy chúng ta nghỉ thêm lúc nữa.

Lệnh Hồ Xung muốn nói cho lão hay mạng sống chàng chẳng còn được bao lâu, bất tất phải chờ đợi chàng làm chi để địch đuổi tới nơi làm phiền cho lão. Nhưng chàng lại nghĩ rằng lão này là con người hào hiệp, quyết chẳng chịu bỏ rơi mình để trốn thoát lấy thân. Nếu chàng nói ra như vậy không khỏi

khiến lão coi thường mình.

Hướng Vấn Thiên ngồi xuống bên đường hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Tại sao tiểu huynh đệ lại mất hết nội lực?

Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười đáp:

– Vụ này nói ra thực đáng tức cười!

Đoạn chàng đem những vụ mình bị thương ra sao, Đào cốc lục tiên trút chân khí vào điều trị thế nào, sau gặp Bất Giới hòa thượng lại dùng nội lực chữa thương ra sao, lược thuật lại một lượt cho lão nghe.

Hướng Vấn Thiên nổi lên tràng cười ha hả. Tiếng cười vang động cả một vùng sơn cốc. Lão nói:

– Những câu chuyện quái dị này lão Hướng nay mới nghe là lần đầu.

Lão đang cười nói, bỗng nghe thấy những tiếng quát từ đằng xa vọng lại:

– Hướng hữu sứ! Hữu sứ không trốn thoát được đâu. Hay hơn hết là ngoan ngoãn nghe lời bọn ta quay về yết kiến giáo chủ.

Hướng Vấn Thiên vẫn cười khanh khách nói:

– Tức cười! Thật là tức cười! Cả Đào cốc lục tiên lẫn Bất Giới hòa thượng đều là hạng ngu ngốc hồ đồ thứ nhất thiên hạ.

Lão cười ba tiếng nữa rồi đột nhiên sa sầm nét mặt, cất tiếng thóa mạ:

– Mẹ kiếp! Những quân chó đẻ lại rượt tới nơi.

Lão quơ hai tay ra ôm lấy Lệnh Hồ Xung vào lòng. Cái đùi ngựa không còn tay cầm, lão đành bỏ lại bên đường. Lão ôm Lệnh Hồ Xung lên rồi đề khí chạy thật nhanh.

Lúc này lão gia tăng cước lực chạy như tên bắn. Lệnh Hồ Xung lại tưởng chừng mình đằng vân giá võ.

Chỉ trong khoảnh khắc trước mặt chàng hiện ra một vùng mây trắng mịt mờ. Đường đã đi vào trong lớp sương mù dầy đặc. Chàng lẩm bẩm:

– Hay lắm! Hay lắm!

Đường lên núi hiểm trở thế này thì mấy trăm người kia chẳng thể nào ùa tới được, mà phải trèo từng người. Nếu xẩy ra cuộc động thủ sẽ thành thế lấy một chọi một. Như vậy Hướng tiên sinh và ta nhất định

đối phó được.

Những tiếng hô hoán ở phía sau mỗi lúc một gần. Hiển nhiên những người rượt trèo đây toàn là những tay cao thủ về khinh công. Tuy so với Hướng Vấn Thiên họ không bì kịp. Nhưng trong tay lão lại bồng một người thì việc dong ruổi trên đường dốc dĩ nhiên phải chậm lại khá nhiều.

Hướng Vấn Thiên chạy tới khúc quanh, lão đặt Lệnh Hồ Xung xuống, khẽ bảo chàng:

– Đừng có lên tiếng!

Hai người cùng đứng dán mình vào vách đá.

Chỉ trong khoảnh khắc, tiếng bước chân mỗi lúc một vang lên, bọn người đuổi theo đã gần tới nơi.

Hồi 106

Tiếng Rú Thê Thảm Chìm Sâu Đáy Vực

Hướng Vấn Thiên dán chặt lưng vào vách đá khiến cho phía sau không có chỗ nào sơ hở.

Hai người rượt theo chạy lẹ quá lại giữa đám sương mù nên không nhìn thấy Hướng Vấn Thiên cùng Lệnh Hồ Xung. Khi chạy gần tới nơi chúng mới phát giác, toan dừng bước trở gót thì Hướng Vấn Thiên đã phóng chưởng.

Song chưởng của lão vừa mãnh liệt vừa chuẩn đích. Hai người kia chưa kịp rú lên đã bị hất nhào xuống khe núi.

Sau giây lát mới vang lên hai tiếng “uỳnh uỳnh”. Người họ rớt xuống đất rồi.

Lệnh Hồ Xung lẩm bẩm:

– Hai người này sao lúc rớt xuống lại không kêu một tiếng lả à phải rồi! Lúc vừa bị trúng chưởng của Hướng tiên sinh, chúng chết ngay lập tức trước khi rớt xuống vực thẳm.

Hướng Vấn Thiên cười khành khạch nói:

– Hai tên khốn kiếp này trước nay vẫn diu võ dương oai khoe khoang những gì “Điểm thương song kiếm, kiếm khí ngất trời”. Mẹ quân chó chết! bây giờ các ngươi rớt xuống khe suối chỉ còn xú khí ngất trời mới là chuyện thực.

Lệnh Hồ Xung đã từng nghe tiếng “Điểm thương song kiếm”, chàng biết kiếm pháp hai người này thành một đường lối riêng biệt. Họ đã giết rất nhiều nhân vật lợi hại trong phe hắc đạo. Không ngờ nay lại bị chết nơi đây một cách không kèn không trống. Cả tướng mạo họ chàng cũng chưa kịp nhìn rõ.

Hướng Vấn Thiên ôm Lệnh Hồ Xung lên nói:

– Từ đây tới Tiên sầu giáp còn hơn mười dặm đường. Khi mình tới đó rồi thì chẳng sợ gì bọn chó chết kia nữa.

Miệng lão nói, chân chạy bon bon cực kỳ mau lẹ.

Lại nghe những tiếng bước chân lên. Mấy người nữa đuổi tới nơi.

Lúc này đèo núi đi về hướng đông, bên cạnh không còn có khe suối, nên Hướng Vấn Thiên không thể ẩn mình vào vách đá đánh lén như trước nữa. Lão đành đề khí ráng chạy nhanh hơn.

Bỗng nghe đánh “véo” một tiếng. Một trái ám khí bay tới xé bầu không khí rít lên thành những tiếng rùng rợn. Hiển nhiên là một thứ ám khí rất nặng.

Hướng Vấn Thiên đặt Lệnh Hồ Xung xuống, vươn tay ra bắt lấy cất tiếng thóa mạ:

– Gã họ Hà kia! Ngươi cũng để mình lôi cuốn vào dòng nước đục này làm chi?

Trong đám sương mù dầy đặc có tiếng người đáp vọng lại:

– Lão gây tai vạ cho võ lâm thì bất cứ ai cũng có quyền tru lục. Hãy tiếp một chùy nữa của ta đây.

Những tiếng vù vù vang lên không ngớt. Miệng gã nói “một chùy” mà liệng ra ít nhất là bảy tám ngọn phi chùy.

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng ám khí rít lên ghê gớm thì trong lòng ngấm ngầm buồn rầu nghĩ bụng:

– Phong thái sư thúc tổ đã truyền thụ kiếm pháp chi ta có thể gạt được bất cứ là thứ ám khí gì.

Nhưng những ngọn phi chùy này kình lực lợi hại như vậy thì trường kiếm của ta dù có gạt trúng song nội lực mất hết, tất trường kiếm bị ám khí đập gãy mất.

Chàng thấy Hướng Vấn Thiên đứng dè chân chèo, nửa mình trên cúi xuống nét mặt lộ vẻ khẩn trương chứ không ung dung bình thản như lúc còn ở quán lương đình.

Những ngọn phi chùy vun vút bay tới trước mặt lão rồi đột nhiên im bặt. Lệnh Hồ Xung tưởng lão đã thu được cả rồi.

Đột nhiên có tiếng “vi vút” vang dội, không biết đến bao nhiêu ngọn phi chùy đồng thời liệng ra.

Lệnh Hồ Xung biết đây là thủ pháp phóng ám khí tên gọi “Mãn thiên hoa vũ”. Nhưng thủ pháp phát xa chỉ để phóng những thứ ám khí nhỏ bé như “Kim tiên tiêu”, “Thiết lin tử”. Những phi chùy nghe tiếng rít trên không thì mỗi ngọn chẳng nặng tới cân rưỡi cũng phải một cân, khi nào lại phóng ra liền một lúc

đến gần chục ngọn được?

Chàng nghe tiếng rít kinh người bất giác nằm phục xuống đất. Bỗng Hướng Vấn Thiên rú lên một tiếng kinh khủng:

– Úi chao!

Dường như lão bị trọng thương rồi.

Lệnh Hồ Xung bở vía nhảy vọt lại chắn trước mặt lão, vội hỏi:

– Hướng tiên sinh! Tiên sinh bị thương rồi ư?

Hướng Vấn Thiên cất giọng nhát gừng đáp:

– Ta… ta nguy mất rồi.. ngươi… ngươi chạy mau đi!…

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng đáp:

– Hai ta sống chết có nhau. Lệnh Hồ Xung này quyết chẳng bỏ tiên sinh để trốn thoát lấy một mình.

Bọn địch rượt theo lớn tiếng hoan hô:

– Hướng Vấn Thiên bị trúng phi chùy rồi! Hướng Vấn Thiên bị trúng phi chùy rồi!

Trong làn mù trắng mịt mờ, bóng đen thấp thoáng. Mười mấy người dần dần rượt tới nơi.

Giữa lúc ấy một luồng kình phong ghê gớm lướt qua bên mình Lệnh Hồ Xung.

Hướng Vấn Thiên bỗng bật lên tràng cười ha hả. Mười mấy người trước mặt tới tấp ngã lăn ra.

Nguyên lão đã bắt được mấy chục mũi phi chùy cầm trong tay rồi giả vờ trúng chùy bị thương khiến cho địch nhân phóng tâm không đề phòng. Lão liền dùng thủ pháp “Mãn thiên hoa vũ” phát xạ trở lại.

Bọn địch rượt theo toàn là những tay cao thủ đánh quen trăm trận vốn không thể mắc lừa một cách dễ dàng. Nhưng một là vì sương mù dầy đặc, thị tuyến không nhìn rõ. Hai là thanh âm Lệnh Hồ Xung hoảng hốt cấp bách hiển nhiên đúng sự thật khiến đối phương lại càng tin tưởng không nghi ngờ gì nữa.

Ba là thủ pháp phát xạ “Mãn thiên hoa vũ” của Hướng Vấn Thiên liệng một lúc bao nhiêu ám khí trầm trọng như vậy đã ra ngoài sự tiên liệu của bên địch.

Thế là mười mấy tên đi đầu hoặc chết hoặc bị thương không một ai tránh thoát.

Hướng Vấn Thiên lại cắp Lệnh Hồ Xung lên xoay mình chạy đi. Lão hả hê nói:

– Hay lắm! Tiểu huynh đệ! Ngươi quả là một người rất trọng nghĩa khí.

Đối với ai lão không bao giờ tán dương một cách dễ dàng. Mấy câu này tỏ ra lão thực tình coi Lệnh Hồ Xung như người bạn tri kỷ.

Nên biết vừa rồi lão giả vờ trọng thương một cách rất khéo léo mà Lệnh Hồ Xung không chịu bỏ lão để tự trốn lấy lấy mình thì đúng là hành vi một trang hảo hán.

Hướng Vấn Thiên chạy được hai dậm nữa thì địch nhân lại dần dần đuổi tới gần.

Những tiếng veo véo vang lên không ngớt. ám khí liên tục bay đến.

Hướng Vấn Thiên lúc vọt lên cao lúc thụt xuống thấp để né tránh nên bước chân càng chậm lại.

Lão chạy thêm được mấy chục trượng rồi đặt Lệnh Hồ Xung xuống nói:

– Ta lại giả chết lần nữa.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Chuyến trước đã đau, lần sau phải ngán. E rằng phen này họ không mắc lừa nữa.

Bụng chàng nghĩ vậy mà miệng không nói ra.

Không ngờ Hướng Vấn Thiên đột nhiên quát lên một tiếng thật to nhảy xổ vào giữa đám đông.

Những tiếng “binh binh” vang lên! Lúc lão chạy về trên lưng lại cõng một người.

Hướng Vấn Thiên dùng xích sắt ở hai tay quấn lấy người kia buộc lên lưng rồi mới ôm lưng Lệnh Hồ Xung lên mà chạy. Lão cười nói:

– Chúng ta thêm được một tấm “lá chắn sống”.

Người kia lớn tiếng la:

– Đừng phóng ám khí! Đừng phóng ám khí!

Nhưng bọn người rượt theo chẳng để vào tai, tiếp tục liệng ám khí tới không ngớt.

Người kia đột nhiên rú lên một tiếng:

– Trời ơi!

Lưng gã bị trúng một mũi ám khí.

Hướng Vấn Thiên trên lưng cõng “lá mộc sống”, tay ôm Lệnh Hồ Xung mà chạy nhảy vẫn mau lẹ dị thường.

Người đeo trên lưng lớn tiếng thóa mạ:

– Mẹ quân chó đẻ! Ngươi nói cái gì nghĩa khí?.. Đã biết ta… úi chao!.. là tụ tiến… con mẹ nó.

Dong Phù Dung gặp phải hồ ly… Ngươi… mượn đao giết người…

Tiếp theo là những tiếng “chát chát”.

Thanh âm người kia kêu la chửi mắng mỗi lúc một nhỏ đi rồi im bặt.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– “Lá mộc sống” biến thành “lá mộc chết” rồi.

Lão không còn úy kỵ ám khí cứ việc đề khí mà lao đi thật nhanh.

Lão chuyển hết hai khu thung lũng bỗng dừng lại nói:

– Tới nơi rồi!

Hướng Vấn Thiên thở phào một cái nhe nhõm đoạn nổi lên tràng cười ha hả. Tiếng cười tỏ ra sung sướng vô cùng.

Nên biết vừa rồi lão phải chạy mười mấy dậm đèo núi nguy hiểm muôn phần. Lòng lão chẳng chắc gì có thể thoát được quân địch rượt theo hay không. Giả tỷ chỉ có mình lão thì sống hay chết lão cũng chẳng quan tâm. Nhưng trong tay lão còm ôm Lệnh Hồ Xung mà chàng lại là một thiếu niên đối

với lão hào khí ngất trời, nên bất luận gặp trường hợp nào lão cũng phải ráng mình cứu tính mạng chàng cho bằng được mới đành dạ. Vì ôm mối lo âu, nên vẻ mặt lão đăm chiêu không thản nhiên như ngày thường được.

Lệnh Hồ Xung đưa mắt nhìn ra, trong lòng không khỏi có lòng kinh hãi.

Trước mắt chàng là một cây cầu đá nhỏ hẹp, phía dưới vực sâu muôn trượng.

Cây cầu đá này chỉ ngó thấy một quãng chừng tám chín thước, bên ngoài vân vũ mịt mờ, trông không rõ đầu kia.

Hướng Vấn Thiên khẽ bảo chàng:

– Tiểu huynh đệ! Trong đám mù trắng này có một sợi xích sắt, đừng có tự ý đặt chân vào.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ! Nhưng lòng chàng không khỏi chột dạ nghĩ thầm:

– Cây cầu đá này rộng không đầy một thước phía dưới là vựa thẳm đã nguy hiểm vô cùng. Nếu còn một sợi xích sắt mà mình mất hết công lực thì làm sao vượt qua được?

Hướng Vấn Thiên rút thanh trường kiếm trên lưng “lá mộc chết” đưa cho Lệnh Hồ Xung rồi dựng “lá mộc” phía trước. Lão cởi xích sắt quấn trên mình gã, lẳng lặng chờ bọn địch duổi tới.

Trong khoảng thời gian uống cạn tuần trà, bọn địch thứ nhất đã gần tới nơi. Trong bọn này có cả nhân vật hai phái chính tà.

Bọn người rượt theo thấy địa hình hiểm trở mà Hướng Vấn Thiên ở vào thế trận quay lưng về phía vực thẳm hễ thoái là chết, nên bọn họ úy kỵ không dám lại gần.

Bên địch lao tới mỗi lúc một đông và đều tụ tập ngoài xa năm sáu trượng. Họ lớn tiếng quát tháo chửi mắng. Sau có người phát xạ ám khí. Nào phi hoành thạch, nào tụ tiến tới tấp liệng ra.

Hướng Vấn Thiên cùng Lệnh Hồ Xung co người lại nấp sau “lá mộc” thành ra ám khí gì cũng không bắn trúng hai người được.

Bất thình lình một tiếng gầm rùng rợn vang động cả vùng sơn cốc.

Một tên đầu đà tay múa thiền trượng xông về phía cây cầu đá. Cây thiền trượng đúc bằng thép nguyên chất nặng tới tám chín chục cân phóng ra chiêu “Hoành tảo thiên quân” nhằm đập vào lưng Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên cúi rạp xuống. Cây thiền trượng lướt qua trên đầu lão chỉ còn cách đến hơn một thước. Lão vung xích sắt ra quấn lấy chân tên đầu đà.

Tên đầu đà phóng trượng dùng sức quá mạnh không tài nào thu về kịp để chống đỡ. Hắn toan tung mình nhảy lên để tránh.

Không ngờ Hướng Vấn Thiên xoay chuyển dây xích sắt rất mau quấn được cả gót chân hắn rồi thuận thế hất về phía trước. Lão sử phép tá lực đả lực.

Tên đầu đà chân đứng không vững bị hất về phía trước lập tức rớt xuống vực thẳm.

Hướng Vấn Thiên hất ra rồi lại thu về cho sợi dây sắt dời khỏi gót chân đầu đà.

Bỗng nghe đầu đà rú lên một tiếng kinh khủng từ vực thẳm vọng lên.

Mọi người nghe thấy chẳng ai không nổi da gà, bất giác đều lùi lại mấy bước tưởng chừng Hướng Vấn Thiên sắp quật mình xuống.

Hai bên giữ thế dằng co một hồi rồi đột nhiên có hai người vượt đám đông xông ra. Một người tay cầm hai ngọn kích, còn người nữa là nhà sư sử dụng cây nguyệt nha sạn.

Hai người sóng vai tiến lên. Cặp kích một trên một dưới nhằm đâm tới trước mặt và bụng dưới Hướng Vấn Thiên. Còn cây nguyệt nha sạn nhằm đâm vào nách bên trái lão.

Cả ba cây binh khí đều trầm trọng lại vận nội lực vào nên lúc phóng ra mãnh liệt phi thường.

Hai người coi đúng địa thế tấn công khiến cho Hướng Vấn Thiên không đường né tránh, chỉ còn cách vung xích sắt ra đón đỡ.

Quả nhiên Hướng Vấn Thiên tung xích sắt ra. Ba tiếng choang choảng vang lên! Cả song kích lẫn nguyệt nha sạn đều bị hất đi. Trên bốn thứ binh khí đều có tia lửa bắn ra.

Phép đánh này không còn cách nào khéo léo được nữa, chỉ cần lấy sức mạnh để thủ thắng.

Trong đám đông nổi lên những tiếng reo hò vang dội.

Binh khí trong tay hai người kia vừa bị xích sắt hất ra lại lập tức đánh tới.

“Choảng! Choảng! Choảng!” bốn món binh khí đụng nhau lần thứ hai. Hòa thượng và hán tử đều lảo đảo người đi. Còn Hướng Vấn Thiên vẫn đứng vững như núi.

Lão không để địch nhân kịp thở, quát lên một tiếng thật to đồng thời vung xích sắt đánh ra.

Hai người giơ binh khí lên đỡ gạt. Tiếng binh khí đụng nhau chát chúa.

Nhà sư rú lên một tiếng, liệng cây nguyệt nha sạn đi. Miệng hộc máu tươi.

Hán tử giơ cao song kích nhằm đâm vào Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên phưỡn ngực ra mà đứng chứ không đón đỡ. Lão nổi lên tràng cười ha hả.

Bỗng thấy cặp kích phóng tới còn cách ngực trước lão chừng nửa thước thì đột nhiên rủ xuống.

Hán tử cũng theo thế cặp kích phủ phục xuống đất rồi không nhúc nhích nữa. Gã đã bị kình lực của Hướng Vấn Thiên làm chấn động chết ngay lập tức.

Quần hào tụ tập ở kẽm núi thấy vậy cả kinh thất sắc, không ai dám xông lại nữa.

Hướng Vấn Thiên bảo Lệnh Hồ Xung:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta đã hao tổn hơi sức với chúng khá nhiều. Hãy ngồi nghĩ một lúc đã!

Lão dứt lời ngồi xuống trước hai tay ôm gối ngửa mặt lên trời, không thèm ngó tới quần hào nữa.

Bỗng nghe có tiếng người lên tiếng:

– Quân yêu tà lớn mật! Dám coi thường anh hùng thiên hạ đến thế ư?

Rồi bốn đạo nhân chống kiếm tiến lên đi tới trước mặt Hướng Vấn Thiên. Bốn người cầm ngang thanh kiếm quát:

– Đứng dậy động thủ đi!

Hướng Vấn Thiên cười khành khạch hỏi:

– Hướng mỗ có gây chuyện gì với phái Võ Đương các vị đâu?

Đạo sĩ mé tả đáp:

– Bọn tà ma ngoại đạo gây tai họa trên chốn giang hồ. Chúng ta là kẻ sĩ chân tu có bổn phận phải tuyên dương chính nghĩa diệt trừ tà ma, trách nhiệm còn đổ cho ai được?

Hướng Vấn Thiên cười hỏi:

– Hay cho bọn tuyên dương chính nghĩa diệt trừ tà ma! Sau lưng các ngươi trong bấy nhiêu người có đến phân nửa ở trong Ma giáo sao không diệt trừ đi?

Đạo nhân đáp:

– Hãy chu diệt tên ác ma đầu sỏ trước.

Hướng Vấn Thiên vẫn ngồi bó gối ngửng mặt trông đám mây nổi trên trời, hững hờ nói:

– Té ra thế! Phải lắm! phải lắm!

Đột nhiên lão quát lên một tiếng thật to nhảy vọt người lại. Dây xích sắt vung ra như con giao long từ dưới vực sâu nhảy vọt lên nhằm bốn người quét ngang một cái rất lẹ.

Lão ra đòn tập kích một cách đột ngột. Dù bốn đạo sĩ đều là những tay cao thủ phái Võ Đương cũng không kịp đề phòng.

Trong lúc thảng thốt, ba tên đạo sĩ đều dựng trường kiếm để đỡ sau lưng.

Còn đạo sĩ đứng ở mé hữu phóng trường kiếm nhằm đâm vào cổ họng Hướng Vấn Thiên.

“Choang” một tiếng vang lên. Ba thanh trường kiếm đều bị xích sắt đánh quằn lại.

Hướng Vấn Thiên nghiêng đầu đi tránh khỏi nhát kiếm của đạo sĩ mé hữu. Nhưng thế kiếm của đạo sĩ này mau lẹ như gió phóng ra ba chiêu liên hoàn bức bách Hướng Vấn Thiên không thể nào chậm tay lại được. Còn ba đạo sĩ kia lùi ra đổi kiếm rồi lại xông vào.

Bốn đạo nhân phối hợp kiếm thế tựa hồ một kiếm trận nhỏ bé.

Kiếm pháp phái Võ Đương đã từng nổi tiếng thiên hạ là dùng nhu chế cương. Gặp phải cường địch kiềm chế càng mạnh. Bốn thanh trường kiếm lượn đi lượn lại như rồng bay phượng múa, lúc tan lúc hợp lại. Chiêu nào cũng nhằm vào yếu huyệt của đối phương.

Hướng Vấn Thiên lúc huy động dây xích sắt phải cử động cả hai tay không được linh diệu như dùng một tay.

Phép đánh của bốn đạo sĩ phái Võ Đương là dùng chiêu thuật để thủ thắng. Nếu tình hình còn kéo dài thì nhất định Hướng Vấn Thiên phải thất bại.

Lệnh Hồ Xung thấy tình thế bất lợi liền lướt qua mé hữu Hướng Vấn Thiên tiến ra một bước phóng kiếm đâm vào nách một đạo sĩ.

Chiêu kiếm này rất cổ quái. Đạo sĩ không tài nào tránh khỏi. “Sột” một tiếng, hắn trúng kiếm rồi.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Phái Võ Đương ngang hàng với phái Thiếu Lâm rất nổi danh trên giang hồ. Ta chỉ giải vây cho Hướng tiên sinh, không nên giết hắn.

Mũi kiếm vừa chạm vào da đối phương, chàng rụt về ngaỵ Nhưng lúc lâm thời kiếm chiêu không tinh diệu, đạo sĩ nhịn đau kẹp cánh tay giữ lấy thanh trường kiếm của chàng.

Lệnh Hồ Xung giựt kiếm về, lưỡi kiếm cứa vào cánh tay và dưới nách đạo sĩ một vệt dài.

Biến din này khiến cho Lệnh Hồ Xung chậm tay lại một chút một đạo sĩ khác đã đứng tuổi thừa cơ phóng kiếm chém tới để lấy thanh trường kiếm của chàng.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy cánh tay tê chồn, muốn lỏng tay buông kiếm nhưng chàng lại nghĩ rằng nếu mình bỏ mất binh khí là thành phế nhân nên chàng phải ráng sức nắm chặt đốc kiếm. Luồng kình lực

của đối phương chuyển qua thanh kiếm tấn công vào đến tâm mạch làm chàng đau nhói lên từng cơn.

Đạo sĩ thứ nhất đấu với Lệnh Hồ Xung trúng kiếm chỉ bị thương nhẹ, nhưng vì hắn kẹp chặt lấy trường kiếm, lực chàng giựt kiếm về rạch thành một vệt dài sâu vào đến tận xương. Máu tươi chảy đầm đìa, không thể tái chiến được nữa.

Còn hai đạo nhân kia lúc này đang chiến đấu kịch liệt với Hướng Vấn Thiên ở phía sau Lệnh Hồ Xung.

Kiếm pháp hai người này rất tinh kỳ liên thủ với nhau giữ gìn nghiêm mật dị thường.

Hướng Vấn Thiên đón tiếp mấy chiêu rồi lùi về phía sau một bước. Lão vừa đánh vừa lùi hơn chục bước thì bóng người đi dần vào trong làn mù trắng.

Hai đạo sĩ tiếp tục tấn công tiến về phía trước. Nửa thanh trường kiếm đã đưa vào tới làn mù.

Trong đám quần hào bên này đầu cầu đột nhiên có tiếng người la:

– Coi chừng! Đi tới chút nữa là thiết kiều sách.

Tiếng “kiều” vừa ra khỏi cửa miệng, hai đạo sĩ bỗng đồng thanh rú lên một tiếng.

Người nọ đang xông lên biến vào trong đám mù trắng rồi hiển nhiên không tự chủ được, bị Hướng Vấn Thiên kéo tới.

Tiếng rú thê thảm từ trên cầu chìm xuống đáy vựa rồi không nghe thấy nữa.

Hướng Vấn Thiên nổi lên tràng cười ha hả từ trong làn mù trắng đi trở ra. Lão thấy người Lệnh Hồ Xung đột nhiên lảo đảo muốn té không khỏi giật mình kinh hãi.

Nguyên bọn đạo sĩ phái Võ Đương lúc ở quán lương đình đã mục kích những chiêu thức tinh diệu về “Độc cô cửu kiếm” của Lệnh Hồ Xung liên tục đả thương nhiều người, họ tự biết kiếm pháp của họ không địch nổi chàng. Nhưng họ lại thấy nội lực chàng rất tầm thường, liền bàn nhau tìm cách tỷ thí

nội lực.

Lúc này đạo sĩ phát huy nội lực hùng hào vô tận tấn công để áp đảo Lệnh Hồ Xung. Đừng nói hiện nay nội lực chàng mất hết ngay lúc bình thời, công phu rèn luyện của chàng hãy còn nông cạn, so bì với đạo sĩ phái Võ Đương này đã rèn luyện nội gia tâm pháp hơn ba bốn chục năm thế nào được?

May mà những luồng chân khí đầy rẫy trong người Lệnh Hồ Xung cực lực phản công. Trong lúc nhất thời nội lực của đối phương không chấn động cho chàng chết ngay được. Có điều những luồng chân khí này không để chàng tự do thu phát, chuyển vận theo nhu cầu, nó làm cho khí huyết nhộn nhạo, mắt

nảy đom đóm, đầu óc mê man.

Bỗng chàng cảm thấy trên huyệt Đại truy ở sau lưng có một luồng nhiệt khí trút vào. Lập tức áp lực trên cánh tay nhẹ bỗng.

Lệnh Hồ Xung phấn khởi tinh thần, chàng biết ngay Hướng Vấn Thiên đã đem nội lực hùng hậu của lão viện trợ mình. Nhưng chàng lại nhận xét thấy ngay luồng nội lực không phải để chống chọi với đối phương mà để hướng dẫn nội lực của đối phương tấn công vào đưa xuống dưới. Nó truyền từ cánh tay vào tủy xương sống rồi xuống đến hai chân. Sau cùng chui xuống dưới đất rồi mất tiêu không thấy đâu nữa.

Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Chàng không ngờ trong phép luyện nội công lại có môn xảo diệu ly kỳ đến thế. Môn này tương tự như thuật “Tứ lạng bát thiên cân” về đường ngoại công, tức là chỉ dùng số lượng nội lực rất nhỏ để dẫn nội lực đối phương chui xuống đất.

Chàng nghĩ tới trái đất chứa đựng muôn vật thì bất luận có bao nhiêu luồng lực đạo đưa vào cũng không làm cho nó mảy may lay chuyển được.

Đạo sĩ biết ngay là nguy rồi liền quát lên một tiếng thu kiếm nhảy lui về phía sau hô lên:

– “Hấp tinh yêu pháp”! “Hấp tinh yêu pháp”!

Quần hào nghe đến bốn chữ “Hấp tinh yêu pháp”, bỗng nhiều người cả kinh thất sắc. Còn bọn ít

tuổi thì không sợ hãi gì. Bọn này không phải lớn mật mà chưa hiểu “Hấp tinh yêu pháp” có chỗ nào đáng sợ.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả nói:

– Phải rồi! Đó chính là “Hấp tinh đại pháp”. Vị nào cao hứng hãy lên đây thử chơi.

Một vị trưởng lão trong Ma giáo hô lên:

– Hướng hữu sứ đã cấu kết với… “Hấp tinh lão quái”. Vậy chúng ta quay về bẩm bạch giáo chủ để người định đoạt.

Bọn người trong Ma giáo dạ lên một tiếng rồi trở gót đi ngaỵ Lập tức trong đám hơn trăm người có đến một nửa giải tán.

Còn bọn chính giáo ở lại bàn mảnh với nhau một lúc rồi số đông cũng lục tục bỏ về.

Sau cùng chỉ còn lại lèo tèo hơn mười người. Một người cất tiếng dõng dạc nói:

– Hướng Vấn Thiên! Lệnh Hồ Xung! Các ngươi cấu kết với Hấp tinh lão quái là trụy lạc vào cảnh ngộ muôn kiếp không trở lại làm người được. Từ nay trở đi hết thảy bạn hữu võ lâm chẳng cần phải suy nghĩ hay lựa chọn thủ đoạn chánh đảng hay không để đối phó với các ngươi. Đó là các ngươi mình làm mình chịu. Tai vạ đáo đầu cũng đừng hối hận.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả đáp:

– Hướng mỗ đã làm việc gì có bao giờ hối hận đâu? Bọn ngươi hàng mấy trăm người vây đánh hai chúng ta, chẳng lẽ cũng là một thủ đoạn đánh chánh ư? Ha ha! Thật buồn cười đến nẻ ruột!

Hồi 107

Hấp Công Nhập Địa Tiểu Pháp

Hướng Vấn Thiên lắng tai nghe biết là quân địch đi đã xa rồi, khẽ bảo Lệnh Hồ Xung:

– Bọn chúng đi rồi nhưng nhất định sẽ quay trở lại. Hướng mỗ nghĩ rằng đằng nào mình cũng mang tiếng chạy trốn rồi. Bây giờ chúng ta cứ gan dạ đi tìm một chỗ ẩn đã. Tiểu huynh đệ! Ngươi hãy nằm phục trên lưng Hướng mỗ.

Lệnh Hồ Xung thấy lão lộ vẻ nghiêm trọng không hỏi căn do, chỉ theo lời nằm phục trên lưng lão.

Hướng Vấn Thiên cúi lom khom. Chân trái đưa ra từ từ bò xuống vực thẳm.

Lệnh Hồ Xung trong lòng cũng hơi khiếp sợ. Bỗng thấy Hướng Vấn Thiên quăng xích sắt ra quấn vào một cành cây bên vách núi. Lão thử giật mấy cái thấy rất vững chắc có thể chịu đựng được sức nặng của hai người, liền nhẹ nhàng tung mình ra. Hai người đeo tòn ten.

Hướng Vấn Thiên đu qua đu lại hai cái tìm được chỗ đặt chân, liền hất tay trở lại theo phương hướng tương phản để thu dây xích.

Mấy tiếng lộc cộc vang lên. Trong khoảng thời gian chớp nhoáng này, hai tay Hướng Vấn Thiên đặt vào vách núi dựng đứng, dừng lại một chút thì dây xích sắt đã quấn vào một mõm đá lớn lồi ra ở dưới chân lão. Lão lại níu mình hạ xuống thấp được hơn một trượng.

Hướng Vấn Thiên theo cách này tiếp tục đu xuống. Gặp chỗ vách núi nào không có cây hay mỏm đá lồi ra, chẳng bấu víu vào đâu được, thì lão lại mạo hiểm dán sát mình vào vách đá cho người tụt xuống. Mỗi lần như vậy tụt xuống được đến hơn mười trượng. Chỗ vách đá càng trơn tuột xuống càng

mau. Lão chỉ cần thỉnh thoảng gặp một chỗ có thể đỡ lại được là thi triển thần công hoặc phóng chưởng, hoặc đạp chân xuống cho người trượt chậm lại một chút.

Lệnh Hồ Xung thấy lão tuột mình xuống vực thẳm theo biện pháp này cũng nguy hiểm chẳng kém gì những trận kịch đấu vừa quạ Nhưng chàng vốn là người gan dạ, nên tuy trong lòng sợ hãi mà cũng có phần thích thú là được từng trải thêm một vụ ly kỳ hiếm có ở đời. Nếu không gặp Hướng Vấn

Thiên, một kỳ nhân, thì cả trăm năm há d thấy một người như vậy?

Lúc Hướng Vấn Thiên đặt hai chân xuống đáy vực rồi chàng lại cảm thấy có điều tiếc rẻ là sao hang núi không sâu thêm mấy trăm trượng nữa?

Chàng ngửng đầu trông lên miệng vực toàn là mù trắng mịt mờ. Cây cầu đá chỉ còn nhìn thấy nhỏ xíu như một khúc dây đen sì.

Lệnh Hồ Xung cất tiếng gọi:

– Hướng tiên sinh!…

Hướng Vấn Thiên đưa tay ra bịt miệng chàng, rồi giơ ngón tay trỏ lên một cái.

Lệnh Hồ Xung liền hiểu ngay là bọn địch đi rồi quả nhiên đã quay trở lại. Chàng dán mắt trông lên nhưng nhìn không rõ bóng người nào trên cầu đá cả.

Hướng Vấn Thiên buông tay xuống mở miệng Lệnh Hồ Xung. Lão kề tai vào vách đá nghe ngóng một hồi rồi tủm tỉm cưới nói:

– Đám thây ma đó đi hết sạch rồi!

Lệnh Hồ Xung lấy làm kỳ ngơ ngác hỏi:

– Thây ma ử…

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Phải rồi! Trong vòng ba năm, 678 người này sẽ thành thây ma hết. Hừ! Thiên vương lão tử Hướng Vấn Thiên trước nay chí có rượt người chứ không để người rượt mình. Phen này vì tình thế bắt buộc lão

tử phá tiền lệ. Nếu Hướng mỗ không giết cho kỳ hết bọn chúng thì còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa?

Lão ngừng lại một chút rồi nói tiếp:

– Cả chính giáo lẫn ma giáo vây chúng ta ngoài quán lương đình tổng cộng 709 người. Chúng ta đã giết chết 31 tên, hiện còn lại 678 tên.

Lệnh Hồ Xung nghi ngờ hỏi:

– 678 người ư? Sao tiên nhớ rõ như vậy được? Trong vòng ba năm sao lại giết nhiều người đến thế?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Cái đó nào phải chuyện khó khăn gì? Ngươi hỏi đến lão đầu tử câu này thì thật non nớt. Trong số 678 người hiện ta còn nhớ được 532 tên. Còn hơn một trăm tên thế nào ta cũng dò hỏi ra được.

Lệnh Hồ Xung trong lòng kinh hãi nghĩ thầm:

– Lúc lão ở quán lương đình như không để ý gì. Té ra lão đã nhìn nhận bọn cừu địch một cách rõ ràng. Lão này chẳng những võ công hơn người, cơ trí tuyệt luân mà ký ức của lão thật hiếm có trên đời. Chàng liền hỏi:

– Hướng tiên sinh! Trong ba năm mà giết bấy nhiêu người chẳng là tàn nhẫn quá ư? Bọn chúng hơn 700 người đấu với một mình tiên sinh đã chẳng làm gì nổi lại còn bị hại mất mấy chục mạng. Như vậy đại danh của tiên sinh cũng đủ vang dội như sóng cồn trong võ lâm, oai hùng tràn khắp thiên hạ.

Danh hiệu Thiên vương lão tử không bị sứt mẻ chút nào. Vậy tại hạ tưởng chẳng cần đếm xỉa đến bọn họ làm chi nữa.

Hướng Vấn Thiên hắng dặng một tiếng rồi đáp:

– Bọn chúng 709 người không phải đấu với một mình Hướng mỗ mà là chiến đấu với hai chúng ta.

Nếu tiểu huynh đệ không ra tay viện trợ thì bây giờ Hướng mỗ đã bị chúng băm nát ra như tương rồi.

Mối thù này không trả thì còn làm người thế nào được?

Bỗng lão quay đầu lại trợn mắt lên nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu huynh đệ là đệ tử danh môn chính phái, còn Hướng mỗ là tả đạo bàng môn, hai ta đường lối trái ngược nhau. Ngươi có ơn cứu mạng cho Hướng mỗ, Hướng mỗ không quên đâu. Nhưng ngươi muốn bảo Hướng mỗ làm cái này hay đừng làm cái nọ thì nhất định không được. Bọn 678 người

kia, Hướng mỗ quyết giết cho kỳ hết.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Hướng tiên sinh! Vãn bối may gặp dịp được cùng tiên sinh liên thủ để đối phó với quần hào cả hai phe Chính giáo và Ma giáo, không đến nỗi phải uổng mạng, thế là may mắn vô cùng! Hướng tiên sinh còn nói chi đến chuyện cứu mạng hay không cứu mạng… thật là… thật là.

Hướng Vấn Thiên nói tiếp:

– Hướng mỗ nói vậy thật là rườm lời không đúng phải chăng?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Vãn bối không dám bảo Hướng tiên sinh nói trăng nói cuội. Nhưng tiên sinh bảo vãn bối có ơn cứu mạng thì thật không đúng chút nào.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Hướng mỗ đã bảo trước là nói gì rồi quyết không thay đổi nữa. Hướng mỗ bảo tiểu huynh đệ có ơn cứu mạng thì đúng là phải có.

Lệnh Hồ Xung biết lão có tính cố chấp liền cười xòa rồi không nói gì nữa.

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Tiểu huynh đệ có biết vì lẽ gì mà bọn chó đẻ đó đã đi rồi còn quay trở lại không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối đang muốn thỉnh giáo Hướng tiên sinh về vấn đề này.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Cái gì mà vãn bối, trưởng bối, tiên sinh với hậu sinh? Nghe rắc rối lắm. Hướng mỗ làm hữu sứ trong Ma giáo. Người bản giáo kêu Hướng mỗ bằng Hướng hữu sứ. Tiểu đệ không ở trong Ma giáo, không thể kêu thế được, cứ gọi thẳng ngay bằng Hướng huynh, còn Hướng mỗ kêu ngươi bằng tiểu

huynh đệ là được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Cái đó vãn bối không dám đâu.

Hướng Vấn Thiên cả giận quát lên:

– Giỏi lắm! Ngươi thấy ta ở trong Ma giáo nên coi thường chứ gì? Ngươi đã cứu mạng tạ Cái mạng già này sống hay chết là chuyện tầm thường. Ngươi coi rẻ ta là chuyện lớn. Nếu vậy chúng ta phải đi tới cuộc động thủ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bất tất phải động thủ. Hướng huynh đã cố ý như vậy thì tiểu đệ xin tuân mệnh.

Chàng nghĩ thầm trong bụng:

– Cả tên Điền Bá Quang là một gã đại đạo hái hoa mà ta còn kết giao bạn hữu thì bây giờ có đánh bạn với lão này nữa cũng chẳng hề gì. Hơn nữa người này thẳng thắn trung trực, đúng là một hán tử cương cường, thì chính là một nhân vật mà mình vốn ưa thích xưa nay.

Chàng liền thụp xuống vừa lạy vừa nói:

– Hướng huynh ở thương vị. Tiểu đệ xin thi lễ.

Hướng Vấn Thiên cười khanh khách nói:

– Khắp thiên hạ chỉ có mình tiểu huynh đệ là xưng hô anh em với ta thôi. Tiểu huynh đệ nên nhớ kỹ đấy.

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Tiểu huynh đệ được Hướng huynh thương mến thế này rất lấy làm hân hạnh.

Theo qui củ võ lâm thì hai người kết nghĩa anh em ít ra phải thắp hương tuyên thệ từ đây cùng hưởng hạnh phúc, chia xẻ hoạn nạn. Nhưng hai người này đều là nhân vật lãng mạn không cố chấp. Sau cuộc chiến vừa rồi, họ cảm thấy chí khí tương đồng, lòng dạ giống nhau nên chỉ dập đầu cúi lạy là đủ, không cần lễ tiết rườm rà. Họ đã gọi nhau bằng anh em tức là tình đồng cốt nhục.

Hướng Vấn Thiên từ thuở nhỏ đi đâu cũng đơn thương độc mã. Bây giờ lão có một người anh em nên lấy làm sung sướng vô cùng. Lão nói:

– Đáng tiếc đây không có rượu ngon để chúng mình uống mười mấy chung cho khoái chí.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng thế! Tiểu đệ đang ngứa cổ, nghe ca ca nhắc tới càng không chịu được.

Hướng Vấn Thiên trỏ lên trên hỏi:

– Bọn chó đẻ kia chưa chạy xa đâu. Chúng ta đành ở dưới đáy vực này chịu nhịn mấy ngày. Này tiểu huynh đệ! Vừa rồi lão mũi trâu phái Võ Đương dùng nội lực đánh ngươi, ta cũng đem nội lực giúp ngươi rồi đưa nội lực của hắn đi đâu, tiểu huynh đệ có biết không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Ca ca đưa nội lực của đạo nhân đó chui xuống dưới đất.

Hướng Vấn Thiên vổ đùi ra vẻ vui mừng nói:

– Đúng thế! Đúng thế! Trí thông minh của tiểu huynh đệ thật là tuyệt! Đó là tiểu huynh vô tình nghĩ ra đấy. Trong võ lâm không một ai biết cả. Tiểu huynh liền đặt cho nó cái tên là: “Hấp tinh nhập địa tiểu pháp”.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Cái tên nghe cũng ly kỳ.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Công phu này so với “Hấp tinh đại pháp” trong võ lâm cũng tựa hồ thầy cúng với thầy mo nên mới kêu bằng tiểu pháp. Công phu này tựa hồ cách “di hoa tiếp mộc”, chỉ là một tiểu xảo trong phép tá lực đả lực để đưa nội lực của đối phương xuống dưới đất. Làm thế thì không tổn hại đến mình, mà cũng chẳng lợi gì cả. Vả lại công phu này chỉ nên sử dụng lúc đánh nhau với đối phương, chứ không nên phát huy nó để đả thương người. Đối phương đang lúc nội lực còn cuồn cuộn tiết ra không khỏi cả kinh, thất sắc, nhưng sau một lúc họ cũng hồi phục được ngaỵ Vì thế mà tiểu huynh tiên đoán chúng bỏ đi nhất định còn quay trở lại. Công lực lão mũi trâu mà phục hồi là hắn biết ngay phép “Hấp tinh nhập địa tiểu pháp” của tiểu huynh chỉ là trò ngáo ộp dọa con nít, chẳng có chi đáng sợ. Trước nay tiểu huynh không

ưa gạt người bằng kỹ thuật này nên chưa dùng qua bao giờ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thiên vương lão tử Hướng Vấn Thiên, trước nay không chạy trốn ai, không lừa gạt người mà bữa nay vì tiểu đệ, cả hai môn đều phá lệ mất rồi.

Hướng Vấn Thiên cười khành khạch nói:

– Nói là chưa lừa gạt người bao giờ thì vị tất đã đúng. Có điều bọn đạo nhân phái Võ Đương là hạng non nớt nên tiểu huynh không muốn lừa gạt mà thôi.

Lão ngừng lại một chút rồi cười nói:

– Tiểu huynh đệ phải cẩn thận đấy! Có ngày tiểu huynh lừa gạt ngươi cũng chưa biết chừng.

Hai người trông nhau cả cười. Tuy sợ bên trên nghe thấy không dám cười vang nhưng cũng khoan khoái lắm rồi.

Hai người phải chiến đấu hàng nửa ngày trời tuy đã đói meo. Nhưng ở dưới đáy vực này ngoài cỏ xanh rêu biếc chẳng có gì mà ăn, đành phải ngồi dựa vào khối đá nhắm mắt dưỡng thần.

Lệnh Hồ Xung vì mỏi mệt quá đỗi, chàng ngủ đi lúc nào không biết. Trong lúc mơ mộng chàng chợt thấy Doanh Doanh tay cầm ba con ếch nướng đưa vào tay chàng hỏi:

– Ngươi quên ta rồi ư?

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng đáp:

– Không quên đâu! Không quên đâu! Cô nương… đi đâu vậy?

Chàng vừa nói câu này thì lại thấy bóng Doanh Doanh đột nhiên lẫn mất. Chàng vội kêu lên:

– Cô nương đừng đi tại hạ có nhiều điều muốn nói với cô.

Trước mắt chàng hiện ra toàn đao, thương, kiếm, kích ầm ầm kéo tới.

Chàng bỗng giật mình la một tiếng thật to rồi tỉnh dậy.

Bỗng thấy Hướng Vấn Thiên cười hì hì hỏi:

– Mơ thấy tình nhân phải không? Làm gì mà có lắm điều muốn nói thế?

Lệnh Hồ Xung thẹn đỏ mặt lên. Chàng ngơ ngác không biết trả lời thế nào.

Hướng Vấn Thiên lại nói:

– Tiểu huynh đệ! Nếu ngươi muốn gặp tình nhân thì hãy chữa thương cho khỏi đã mới đi tìm y được.

Lệnh Hồ Xung ngập ngừng:

– Tiểu đệ không khỏi được đâu.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Ta thiếu ngươi một mạng người. Tuy ngươi là anh em với ta mà trong lòng không khoan khoái, thế nào cũng phải trả nợ ngươi. Ta đưa ngươi đến một nơi nhất định chữa khỏi được.

Lệnh Hồ Xung tuy không để ý gì đến sống chết, nhưng không sao được cũng gật đầu không nói gì.

Tự cổ chí kim trừ trường hợp tự sát, không thì nếu còn một chút sinh cơ cũng cố cựa cạy để mong sống. Chàng nghe Hướng Vấn Thiên nói đến thương thế của mình có thể chữa khỏi tuy không tin hẳn, nhưng thấy lão tài trí hơn người võ công cao cường, nên cũng có chút hy vọng.

Ngoài Phong thái sư thúc tổ, bình sinh chàng chưa thấy ai nói phớt qua mấy câu khiến chàng phấn khởi. Lòng chàng không khỏi tràn ngập nỗi vui mừng. Chàng ấp úng:

– Tiểu đê… tiểu đệ.

Chàng lặp đi lặp lại hai chữ tiểu đệ rồi không biết nói sao nữa.

Mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng trên không chiếu ánh sáng xuống miệng vực tỏa khắp nơi. Dưới đáy vực tuy mờ mịt ảm đạm, nhưng Lệnh Hồ Xung nhìn lên tựa hồ ánh dương quang lóe mắt.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Chúng ta phải đến ra mắt một người. Người này tính rất cổ quái. Mình đừng cho y biết trước công việc. Tiểu huynh đệ! Nếu tiểu huynh đệ tin được ta thì nhất thiết để ta sắp đặt.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Có việc chi mà không tin? Ca ca đã tìm cách chữa bệnh cho tiểu đệ tức là cải tử hoàn sinh thì chỉ mong được sai khiến. Tiểu đệ mà khỏi bệnh thì cả ơn ca ca không biết đến đâu mà kể.

Hướng Vấn Thiên thè lưỡi liếm môi nói:

– Cái đùi ngựa không biết bỏ đâu rồi. Mẹ kiếp! Dưới đáy vực không thấy một tên chó đẻ nào để mình giết chơi.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói vậy biết là lão muốn ăn cả thịt xác chết không khỏi bở vía, chẳng dám nói gì.

Sáng sớm hôm sau thức dậy, Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ chúng ta ở đây mãi không tìm thấy xác chết mà ăn không xong. Nhưng mấy người hôm qua hất xuống đây vừa già vừa gầy, thì còn mùi vị gì nữa. Tiểu huynh đoán là huynh đệ ăn không biết ngon.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Tiểu đệ chẳng muốn ăn gì hết.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Chúng ta phải tìm đường ra khỏi nơi này. Bây giờ ta thay đổi dung mạo cho ngươi đã Lão bốc nắm bùn dưới đáy vực sát lên mặt chàng rồi lại xoa vào mặt mình. Sức lão mạnh quá, xoa đến đâu râu rụng hết đến đó. Lão lại đưa tay lên vò đầu. Đầu lão bạc phơ biến thành cái đầu trọc nhẵn bóng.

Lệnh Hồ Xung thấy trong khoảnh khắc, tướng mạo lão hoàn toàn khác trước thì vừa buồn cười vừa khâm phục.

Hướng Vấn Thiên lại lấy bùn đắp cho mũi to lên, trát cả vào hai bên má, khiến chàng nhìn kỹ cũng không nhận ra được nữa.

Hồi 108

Muốn vào trang trổ tài miệng lưỡi

Hướng Vấn Thiên đi trước tìm đường dẫn lối. Lão kéo tay áo xuống trùm kín xích sắt đi. Nếu lão không động thủ thì chẳng ai nhận ra con người béo y trọc đầu này lại là Thiên vương lão tử Hướng Vấn Thiên, một nhân vật oai phong, quắc thước.

Hai người quanh quẩn đi lại trong hang núi cho đến trưa, bỗng thấy một cây đào ở dưới thung lũng.

Trái hãy còn xanh bỏ vào miệng thấy vừa đắng vừa chát, song hai người bụng đã đói meo có đồ lót dạ là may, liền hái lấy ăn một bữa no.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung ăn xong rồi nghỉ chừng một giờ rồi lại lên đường đi cho tới lúc hoàng hôn.

Hướng Vấn Thiên đã tìm được phương hướng ra khỏi hang núi nhưng còn phải vượt qua một vách núi bích lập cao tới mấy trăm thước. Lão lại cõng Lệnh Hồ Xung lên lưng trèo một mạch.

Vượt qua vách núi rồi đến một lối đi nhỏ vòng vèo phải vạch cỏ mà đi. Nơi đây tuy cảnh vật hoang lương, nhưng không đến nỗi quá tĩnh mịch quạnh quẽ như ở dưới hang núi, thậm chí không thấy dấu vết một loài điểu thú nào, chẳng khác chi một nơi tuyệt địa.

Sáng sớm hôm sau hai người nhằm hướng đông mà đi cho tới một thị trấn. Hướng Vấn Thiên lấy trong bọc ra một tấm vàng lá bảo Lệnh Hồ Xung tìm đến một tiệm đổi thành bạc vụn.

Vào quán trọ, Hướng Vấn Thiên kêu nhà hàng sắp một mâm rượu và sai tiểu nhị lấy ra một hủ rượu lớn. Lão cùng Lệnh Hồ Xung uống hết nửa hủ đã say mèm không ăn cơm nữa. Một người gục xuống bàn mà ngủ, còn một người mê man lăn kềnh trên giường.

Hôm sau mặt trời chiếu vào khe cửa sổ, hai người mới tỉnh dậy, nhìn nhau mà cười. Hồi tưởng lại cuộc tranh đấu bửa trước ở quán lương đình và trên cầu đá tưởng chừng đã qua một đời.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ! Ngươi hãy ở đây chờ ta một lúc.

Đoạn lão ra đi lấy đến hơn một giờ.

Lệnh Hồ Xung ở quán trông đợi, trong lòng hồi hộp, chỉ lo lão lại gặp địch nhân. Chàng đang nóng lòng thì thấy lão trở về hai tay cầm vô số bao lớn nhỏ. Xích sắt trên tay không biết đi đâu mất rồi, chắc lão đã kêu thợ rèn tháo ra rồi.

Hướng Vấn Thiên mở các gói ra thì gói nào cũng toàn đồ ăn mặc rất sang trọng. Lão nói:

– Hai chúng ta đều hóa trang làm những tay đại phú thương, ăn mặc hoa lệ chừng nào tốt chừng nấy.

Đoạn lão cùng Lệnh Hồ Xung thay đổi hết quần trong áo ngoài, mặc toàn đồ mới. Lúc ra khỏi quán đã thấy tiểu nhị dắt hai con ngựa lớn cao ngất ngưởng, yên cương mới toanh đưa lại. Đây cũng là ngựa và Hướng Vấn Thiên vừa tậu về.

Hai người lên ngựa lỏng buông tay khấu ung dung đi về phía đông. Đi được mấy ngày thì Lệnh Hồ Xung mỏi mệt cơ hồ không chịu đựng được nữa, Hướng Vấn Thiên liền mướn cho chàng một cổ xe lớn để chàng ngồi cho tới bờ sông Vận Hà.

Hai người xuống thuyền đi về phía Nam.

Dọc đường, Hướng Vấn Thiên vung vải tiền tài. Vàng lá trong mình lão tưởng chừng vĩnh vin không bao giờ hết.

Hai người đi vào địa giới tỉnh Giang Tô, qua sông Trường Giang vào sông Vận Hà. Hai bên bờ sông này chợ búa đông đúc thật là phồn thịnh.

Hướng Vấn Thiên lại mua thêm rất nhiều đồ phục sức quí giá. Lệnh Hồ Xung thấy vậy cũng không hỏi han gì, nhất thiết để mặt lão xếp đặt.

Đi thuyền lâu ngày, Hướng Vấn Thiên ngồi nhàn kể lại những câu chuyện thú vị trên chống giang hồ. Lão đã biết nhiều hiểu rộng lại trí nhớ cường kiện. Chẳng những lão biết hết những nhân vật thành danh trong võ lâm mà còn hiểu cả đến hàng đệ tử bình thường như Lao Đức Nặc, Thi Đới Tử… lão

cũng kể rành mạch lai lịch và cá tính từng người, võ côngcường nhược ra sao.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói phải kinh ngạc đến trợn mắt há miệng, khâm phục không bút nào tả xiết.

Một hôm thuyền đến Hàng Châu, Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung lên đường đi bộ. Lão mua hai con tuấn mã để hai người cưỡi tiến vào thành Hàng Châu xưa gọi là Lâm An. Đời Nam Tống dựng

làm đế độ Thành này nổi tiếng là danh thắng. Đường xá trong thành rất đông đúc, người đi chen vai, thích cánh ca nhạc khắp chốn vang lừng.

Lệnh Hồ Xung theo Hướng Vấn Thiên đến bờ tây hồ. Nước hồ trong biếc như gương, liu rủ phất phơ, phong cảnh tuyệt mỹ, chẳng kém gì cõi thần tiên.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Người ta thường bảo “trên trời có thiên đường, hạ giới có Tô-Hàng”. Tô Châu tiểu đệ chưa tới bao giờ nên không biết rõ. Bữa nay nhìn thấy Tây Hồ, thì cảnh thiên đường này tiếng đồn thật đã không ngoa.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười cho ngựa chạy đến một nơi cách bờ hồ một con đê dài, phong cảnh rất thanh tình.

Hai người xuống ngựa, buộc ngựa vào gốc cây liu rồi trèo bậc đá lên núi.

Hướng Vấn Thiên dường như đã qua chơi đất này, đường lối rất thông thuộc. Lão đi hết mấy khúc quanh đến một nơi trồng toàn mai. Những cây già vươn dài, cành lá rậm rạp. Nếu vào buổi sơ xuân

hoa mai đua nở, hương thơm ngào ngạt, màu trắng bát ngàn như biển tuyết thì người đến thưởng ngoạn khoan khoái biết chừng nào!

Hai người xuyên qua khu rừng mai tới một con đường lớn lát đá xanh rộng đến năm thước. Đường lát đá này thông vào một tòa đại trang viện tường vây trắng xóa, cổng sơn đỏ chót.

Khi gần tới nơi, đã trông rõ ngoài cổng treo biển đề hai chữ “Mai trang” rất lớn.

Mé bên chứa bốn chữ nhỏ “Ngu Doãn Văn đề”.

Lệnh Hồ Xung ít đọc sách nên không hiểu Ngu Doãn Văn là một đại thần công đời Nam Tống có công đánh phá nước Kim, nhưng chàng cũng nhận ra mấy chữ này ngoài vẻ nho nhã còn đượm hùng khí ngất trời.

Hướng Vấn Thiên tiến lại gần thò tay ra nắm lấy chiếc vòng đồng lớn sáng nhoáng.

Lão toan giật vòng, chợt nghĩ ra điều gì liền quay lại khẽ dặn Lệnh Hồ Xung:

– Tiểu huynh đệ phải ghi nhớ nhất thiết để ta sắp đặt.

Lệnh Hồ Xung gật đầu nghĩ bụng:

– Tòa Mai trang này hiển nhiên là một biệt thự của nhà đại phú thành Hàng Châu. Chẳng lẽ chủ nhân còn là một vị danh y đương thời nữa?

Bỗng thấy Hướng Vấn Thiên giật vòng đồng bốn cái rồi dừng lại. Lão giật hai cái xong lại dừng lại một chút. Lần thứ ba lão giật năm cái, rồi cuối cùng giật ba cái nữa. Đoạn lão buông vòng đồng lùi lại đứng sang một bên.

Sau một lúc khá lâu cánh cổng lớn từ từ mở ra. Hai lão già ăn mặc gọn gàng sóng vai đi ra.

Lệnh Hồ Xung vừa thấy không khỏi giật mình kinh hãi vì hai lão này mắt sánh như điện, huyệt thái dương nhô cao, bộ pháp vững vàng. Hiển nhiên nội công rất uyên thâm, dáng điệu bệ vệ như những nhà võ học danh gia, mà sao lại chịu làm công việc ty tiện của hàng nô bộc?

Lão già mé tả khom lưng hỏi:

– Hai vị giá lâm tệ trang có điều chi dạy bảo?

Hướng Vấn Thiên kính cẩn đáp:

– Môn hạ phái Tung Sơn và đệ tử phái Hoa Sơn có việc đến xin ra mắt Giang Nam tứ hữu tiền bối.

Người kia nói:

– Gia chủ trước nay không chịu tiếp khách.

Đoạn lão toan đóng cổng lại.

Hướng Vấn Thiên móc trong bọc lấy một vật mở ra.

Lệnh Hồ Xung lại một phen kinh hãi vì chàng thấy trong tay Hướng Vấn Thiên cầm lá cờ ngũ sắc có đính hạt châu chiếu sáng bốn mặt.

Ngày trước Lệnh Hồ Xung đến nhà Lưu Chính Phong phái Hành sơn đã thấy lá cờ này. Nó chính là Ngũ nhạc lệnh kỳ của Tả minh chủ phái Tung Sơn.

Ngày ấy Lưu Chính Phong toan rửa tay gác kiếm thì tên đệ tử phái Tung Sơn là Thiên trượng tùng Sử Đăng Đạt cầm cờ này đến ngăn trở. Lệnh kỳ đưa tới đâu cũng như Tả minh chủ thân hành tới đó. Môn hạ Ngũ nhạc kiếm phái từ sư trưởng đến đệ tử chẳng ai là không tuân lệnh của người cầm

cờ này.

Lệnh Hồ Xung trong lòng xao xuyến, nghĩ bụng:

– Hướng Vấn Thiên mà lấy được cờ này thì nhất định là chuyện bất chính, không chừng lão đã giết nhân vật trọng yếu phái Tung Sơn để cướp cờ. Lão còn tự xưng là đệ tử phái Tung Sơn không hiểu mưu đồ chuyện gì?

Nhưng chàng đã hứa lời nhất thiết để mặc lão xếp đặt, đành chịu ngậm miệng, lẳng lặng chờ xem diễn biến.

Hai gia nhân vừa nhìn thấy Ngũ Nhạc lệnh kỳ cũng hơi biến sắc, đồng thanh hỏi:

– Phải chăng đây là cờ lệnh của Tả minh chủ phái Tung Sơn?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Chính thị!

Gia nhân mé hữu nói:

– Giang Nam tứ hữu cùng Ngũ nhạc kiếm phái trước nay không có chuyện vãng lai. Dù là Tả minh chủ thân hành tới đây gia chủ vị tất… vị tất… hà hà…

Rồi hắn dừng lại không nói nữa, nhưng ai cũng hiểu là hắn định nói: “Dù Tả minh chủ thân hành đến đây, vị tất gia chủ đã chịu tiếp kiến”.

Có điều hắn nghĩ tới Tả minh chủ phái Tung Sơn là một nhân vật vị cao vọng trọng, hắn không tiện buông lời khinh mạn. Song hiển nhiên hắn cho địa vị của Giang Nam tứ hữu còn tôn cao hơn Tả minh chủ nhiều lắm.

Lệnh Hồ Xung tự hỏi:

– Giang Nam tứ hữu là những nhân vật thế nào? Nếu quả nhiên bọn họ là nhân vật sừng sỏ trong võ lâm thì sao mình không nghe thấy sư phụ cùng sư nương đề cập đến tên tuổi bốn người nầy bao giờ?

Mình từng qua lại giang hồ đã nghe bạn hữu nhắc tới bao nhiêu cao nhân tiền bối võ lâm mà sao không thấy ai đề cập đến bốn chữ “Giang Nam tứ hữu”?

Hướng Vấn Thiên tủm tỉm cười cuốn lá Ngũ nhạc lệnh kỳ cất vào bọc rồi nói:

– Tả sư điệt của tại hạ không phải đem lá cờ này ra để hăm dọa người. Bốn vị tiền bối ở Giang Nam là những nhân vật thế nào thì còn coi lá cờ lệnh này vào đâu?…

Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:

– Lão này kêu Tả minh chủ bằng sư điệt, hiển nhiên lão đã mạo xưng là sư thúc ỵ Thế thì câu chuyện càng đi đến chỗ rắc rối khó hiểu.

Bỗng nghe Hướng Vấn Thiên nói tiếp:

– Vì tại hạ không có duyên cớ gì để bái kiến bốn vị tiền bối Giang Nam, nên bất đắc dĩ phải đưa lá cờ này ra chẳng qua để làm tín vật mà thôi.

Hai gia nhân “ồ” lên một tiếng. Xem chừng họ nghe Hướng Vấn Thiên đề cao địa vị của Giang Nam tứ hữu, đã tỏ ra thái độ hòa hoãn.

Một lão hỏi:

– Các hạ là sư thúc Tả minh chủ ư?

Hướng Vấn Thiên lại nở một nụ cười cầu tài đáp:

– Đúng thế! Tại hạ chẳng qua là một tên vô danh tiểu tốt trong võ lâm thì hai vị biết đến thế nào được? Tại hạ nghĩ tới ngày trước Đinh huynh đơn chưởng đập Tứ Bá ở chân núi Kỳ Liên, lại một kiếm hàng phục được song hùng.. Thi huynh triệt giang ở Tương Bắc cứu kẻ cô đơn, một thanh “tứ kim bát

quái đao” giết chết 13 tên đầu sỏ bang Thanh Long, máu đỏ sông Hán Thủy. Những cảnh tượng oai phong lẫm liệt đó trong ký ức tại hạ vẫn còn nhớ như việc mới xảy ra.

Hai người ăn mặc kiểu gia nhân thì một người họ Đinh, một người họ Thi đều về ở ẩn ở Mai trang.

Trước kia họ là hai nhân vật nửa theo chính đạo, nửa theo tà phái hành động rất hiểm độc. Cả hai tính khí giống nhau, sau khi hành động việc gì không chịu lưu danh. Vì thế mà võ công hai lão tuy rất cao cường, song tên họ ít người biết tới.

Hướng Vấn Thiên đề cập tới hai cuộc hành động nói trên chính là những kiệt tác đắc ý nhất của hai lão. Một là bởi thế lực đối phương rất hùng hậu, hai lão số ít địch lại nhiều người mà thủ thắng một cách mau lẹ Oai hùng. Haững vụ đó đối phương sai quấy, còn hai lão thì hành động nghĩa hiệp. Những

vụ nghĩa cử này của hai lão rất ít người biết.

Đại phàm người làm nên hảo sự tuy không cố ý tuyên dương cho mọi người hay, nhưng có kẻ vô tình biết tới thì trong lòng lại ngấm ngầm khoan khoái như mở cờ trong bụng. Đó là thường tính của con người.

Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai nghe Hướng Vấn Thiên đề cập tới những hành động mà họ rất đắc ý từ 20 năm trước, nỗi hân hoan không khỏi lộ ra ngoài mặt.

Đinh Kiên tủm tỉm cười nói:

– Những chuyện nhỏ nhặt đó phỏng có chi đáng kể? Thế mà các hạ cũng biết, đủ tỏ là tay kiến văn quảng bác.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Trong võ lâm bọn tranh danh đoạt lợi rất nhiều. Còn kẻ sĩ thanh cao có chân tài thực học làm nên công chuyện to tát mới là đáng quý nhưng chẳng được mấy người. Nhất tự điện kiếm Đinh đại ca và Bát phương phong vũ Thi tam ca là những tên tuổi tại hạ từng ngưỡng mộ đã lâu. Tại hạ thường nghe Tả sư điệt nói là nếu có việc thì đến Giang Nam tứ hữu ở Hàng Châu mà thỉnh giáo. Tại hạ tuy qui ẩn đã lâu, vì lòng ngưỡng vọng những muốn đến bái yết Giang Nam tứ hữu, song tự biết khó lòng được bốn vị lão gia tiếp kiến. Có điều tại hạ hy vọng được gặp hai vị Nhất tự điện kiếm và Bát phương phong vũ thì dù có phải lặn lội đường xa cũng không đến nỗi vô ích. Vì thế tại hạ nhận lời với tiểu sư điệt tìm đến Hàng Châu. Tả sư điệt bảo: Nếu y thân hành ra đi e rằng bốn vị tiền bối không chịu tiếp kiến vì gần đây

y nổi tiếng giang hồ chỉ tổ làm cho bốn vị lão gia ghét mặt. Còn tại hạ ít khi chạy chọt võ lâm may ra còn được các vị chiếu cố.

Lão nói đến đây rồi cười hề hề.

Hai lão Đinh, Thi nghe Hướng Vấn Thiên đã hết sức phụng thừa Giang Nam tứ hữu lại đề cao giá trị của mình, trong lòng cao hứng không bút nào tả xiết, cũng đáp lại bằng mấy tiếng cười khanh khách.

Hai lão coi cái đầu trọc tếu và cái mặt béo ỵ của Hướng Vấn Thiên thật là khả ố, nhưng lời nói cùng cử chỉ của lão Hướng tỏ ra một nhân vật phong độ không phải tầm thường, nên trong lòng hai lão liền có mấy phần kính trọng.

Thi Lệnh Oai đã quyết tâm thông báo cho Hướng Vấn Thiên. Hắn quay lại nhìn Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Còn vị này là môn hạ phái Hoa sơn?

Hướng Vấn Thiên cướp lời:

– Ông bạn đây là sư thúc Nhạc bất Quần chưởng môn phái Hoa sơn.

Lệnh Hồ Xung nghe lão Hướng nói ẩu, chàng đoán ngay lão muốn bịa tên họ cùng địa vị mình. Có điều chàng không ngờ lão lại bảo chàng mạo xưng là sư thúc của ân sư.

Tuy Lệnh Hồ Xung vẫn coi thường mọi sự, nhưng đến việc mạo nhận trưởng bối của sư phụ là một điều khiến cho chàng rất áy náy trong lòng. Chàng không nhịn được, bất giác chấn động tâm thần. May mặt chàng đắp một lớp phấn dày nên mối khích động không lộ ra ngoài.

Đinh Kiên và Thi lệnh Oai đưa mắt nhìn nhau, trong lòng có ý hoài nghi, bụng bảo dạ:

– Tuổi tác người này tuy không biết rõ bao nhiêu, nhưng nhiều lắm chưa ngoài bốn chục thì làm sao y lại là sư thúc của Nhạc Bất Quần được?

Nên biết Hướng Vấn Thiên tuy đã thi hành thủ thuật thay đổi sắc mặt cho Lệnh Hồ Xung khiến chàng già đi rất nhiều, nhưng lão không dám min cưỡng hóa trang chàng thành một ông già quá cỡ vì e rằng làm như vậy rất d bị lộ tẩy.

Lão liền đỡ lời Lệnh Hồ Xung đáp:

– Phong huynh đệ đây còn ít hơn Nhạc Bất Quần mấy tuổi, nhưng y lại là truyền nhân duy nhất về môn “Độc cô cửu kiếm của sư thúc tổ y là Phong Thanh Dương.

Đinh Kiên bất giác ồ lên một tiếng. Lão là tay kiếm thuật danh gia nghe nói Lệnh Hồ Xung tinh thông kiếm pháp không khỏi ngứa nghề. Song lão hơi ngạc nhiên vì thấy mặt chàng vàng ửng, tướng mạo bần tiện chẳng giống một nhân vật tinh thông kiếm pháp chút nào. Lão không biết những nhân vật

tiền bối phái Hoa Sơn có ai là Phong Thanh Dương hay không, thì dĩ nhiên lão còn hiểu kiếm pháp của Phong Thanh Dương thế nào được?

Đinh Kiên đưa mắt nhìn Thi Lệnh Oai thấy lão Thi gật đầu, liền hỏi:

– Không hiểu cách xưng hô đại danh hai vị thế nào?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Tại hạ họ Đồng, tên gọi Đồng Hóa Kim, còn Phong huynh đệ đây đại danh là Phong Nhị Trung.

Hai lão Đinh, Thi chắp tay nói:

– Bọn tại hạ ngưỡng mộ hai vị từ lâu.

Hướng Vấn Thiên không khỏi cười thầm trong bụng, vì lão bịa tên mình là Đồng Hóa Kim, ý nói đồng hóa thành vàng, tức là của giả. Còn tên Nhị Trung là do chữ Xung tách rời ra.

Nguyên trong võ lâm không có hai nhân vật này thế mà hai lão kia cũng đem lòng ngưỡng mộ thì không hiểu ngưỡng mộ cái gì? Nên Hướng Vấn Thiên không khỏi cười thầm.

Đinh Kiên lại nói:

– Mời hai vị hãy vào sảnh đường dùng trà tại hạ đi bẩm chủ nhân. Còn các vị lão gia có chịu tiếp kiến hay không chưa thể biết được.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Hai vị cùng Giang Nam tứ hữu tuy tiếng là bộc chủ mà tình chẳng khác anh em. Chắc bốn vị tiền bối không nỡ từ chối lời thỉnh cầu của Đinh huynh và Thi huynh đâu.

Đinh Kiên mỉm cười đứng sang bên để nhường lối.

Hướng Vấn Thiên liền rảo bước đi vào. Lệnh Hồ Xung theo sau lão.

Hai người đi qua một cái sân lớn, hai bên tả hữu có trồng hai cây mai đã già, cành cứng như sắt.

Đúng là lão mai.

Thi Lệnh Oai mời hai người vào ngồi. Lão ở lại bồi tiếp còn Đinh Kiên thì vào trong nhà bẩm báo.

Hướng Vấn Thiên thấy Thi Lệnh Oai đứng chầu chực mà mình lại ngồi thì không khỏi có ý bất kính. Nhưng lão Thi lại là bộc dịnh trong Mai trang, không thể mời lão cùng ngồi được, liền nói:

– Phong lão đệ! Lão đệ hãy coi bứa họa này chỉ loáng thoáng mấy nét bút mà cứng cáp phi thường, đủ tỏ nội lực ghê gớm.

Lão vừa nói vừa đứng dậy tiến về phía bức họa treo ở mặt trước giữa nhà.

Lệnh Hồ Xung đi với Hướng Vấn Thiên ít ngày, chàng biết lão tuy là tay thông minh cơ trí hơn đời, nhưng về chữ nghĩa cùng họa phẩm lão không sở trường. Bây giờ chàng thấy lão đột nhiên ngợi khen

bức họa thì biết lão có thâm ý gì, chàng chỉ dạ một tiếng rồi cũng đứng lên đi tới trước bức họa.

Bức họa này vẽ một ông tiên quay lưng ra, nét mực lâm ly, bút lực hùng mạnh. Lệnh Hồ Xung tuy không hiểu về thủ họa nhưng cũng nhận thấy là một bức tranh dùng dùng luồng kình phác họa. Chàng lại thấy trên bức vẽ có chua dòng chữ: “Nét bút Đan Thanh sau cơn đại túy”. Bút pháp kín đáo, nét

nào cũng như thanh trường kiếm đâm ra. Chàng liền nói:

– Đồng huynh! Tiểu đệ coi chữ “túy” trên bức họa này thấy nó to ra rất vui mừng. Trong tám chữ dường như còn bao hàm một kiếm thuật rất cao minh.

Nguyên chàng coi bút pháp viết tám chữ và thủ thế của tiên ông trong bức họa, bất giác liên tưởng đến một thứ kiếm pháp mà chàng đã nhìn thấy trên vách đá ở hậu động phía sau núi sám hối. Chàng nhìn kỹ càng rõ nét bút bao hàm kiếm ý có nhiều chỗ rất giống.

Ngày ấy Lệnh Hồ Xung vì tỷ đấu với Điền Bá Quang mà đã học thuộc kỹ mọi thứ võ công trên vách đá. Bây giờ coi họa đồ, chàng liền có cảm giác rất quen thuộc.

Hướng Vấn Thiên chưa trả lời thì Thi Lệnh Oai đứng đường sau đã lên tiếng:

– Phong huynh đây quả là một kiếm thuật danh gia. Tệ chủ nhân là Đan Thanh tiên sinh có nói hôm ấy lão gia sau lúc say rượu túy lúy vẽ ra bức này. Trong khi vô tình lão gia đã đem kiếm pháp phát huy

vào nét bút. Đây là một kiệt tác rất đắc ý trong đời lão gia. Sau khi tỉnh rượu lão gia muốn vẽ thêm mấy bức khác cũng không được nữa. Phong huynh coi bứa họa mà biết kiếm ý thì nhất định Đan Thanh tiên sinh coi là tri kỷ. Vậy tại hạ vào báo cho tiên sinh hay.

Lão nói xong hối hả đi vào.

Hướng Vấn Thiên đằng hắng một tiếng rồi hỏi:

– Phong huynh đệ! Té ra lão đệ hiểu cả thư họa.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu đệ có hiểu gì đâu, nói bừa mấy câu không ngờ lại trúng. Nếu Đan Thanh tiên sinh đem chuyện thư họa ra mà nghị luận thì tiểu đệ tất phải lòi đuôi.

Chàng vừa nói tới đây, bỗng nghe một người lớn tiếng:

– Y coi bức họa mà thấy kiếm pháp ư? Người ấy đâu rồi? Nhãn quang y… thiên hạ ít người bì kịp.

Người này vừa la vừa tiến ra. Lão râu chùng tới bụng, tay trái cầm một cái chén uống rượu, vẻ mặt ra chiều say sưa ngây ngất.

Thi Lệnh Oai đi sau lão đáp:

– Hai vị đây là Đồng gia ở phái Tung Sơn và Phong gia ở phái Hoa Sơn.

Đoạn lão quay sang nhìn Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung giới thiệu:

– Vị này là Đan Thanh tiên sinh, tứ trang chúa ở Mai trang.

Lão Thi ngừng lại một chút rồi tiếp:

– Phong gia vừa thấy bút họa của Đan Thanh trang chúa đã nói ngay nét vẽ có ngụ ý kiếm thuật rất cao minh.

Tứ trang chúa Đan Thanh đưa cặp mắt lờ đờ ngó Lệnh Hồ Xung một hồi rồi hỏi:

– Ngươi cũng hiểu bức họa và biết sử kiếm nữa ư?

Lão nói câu này tỏ ra rất vô lễ.

Lệnh Hồ Xung thấy chiếc chén lão cầm ở tay trái mầu xanh biếc đúng là chén Phí Thúy. Đột nhiên chàng nhớ tới lời Tổ Thiên Thu ở trên sông Hoàng Hà liền nói:

– Nhắp rượu Lê hoa chung Phí Thúy, nghề chơi kể cũng lắm công phu! Uống rượu Lê hoa bằng chén Phí Thúy, tứ trang chúa quả nhiên là tay sành sỏi.

Nên biết Lệnh Hồ Xung ít đọc sách. Chàng có hiểu thi từ ca phú là gì đâu. Nhưng chàng có khiếu thông minh ai nói gì chỉ một lần là chàng nhớ ngaỵ Bây giờ chàng nhớ lại câu của Tổ Thiên Thu liền đọc ra mà thôi.

Ngờ đâu Đan Thanh tiên sinh vừa nghe câu thơ, lão trố hai mắt ra nhìn rồi đột nhiên ôm choàng lấy chàng lớn tiếng reo:

– A ha! A ha! Bạn tri kỷ của ta đã tới rồi! Lại đây, lại đây! Chúng ta uống 300 chung. Phong huynh đệ! Lão phu hiếu tửu, hiếu lụa, hiếu kiếm, nên người ta kêu bằng tam tuyệt. Trong tam tuyệt lấy tửu làm đầu, nét đan thanh thứ hai, sau cùng là kiếm đạo.

Lệnh Hồ Xung cả mừng nghĩ bụng:

– Nét đan thanh mình chẳng biết chi hết. Mình đến đây để cầu trị thương tất việc động thủ tỷ kiếm không thành vấn đề. Chỉ còn uống rượu là điều mình mong muốn mà lo không được.

Chàng liền theo Đan Thanh tiên sinh đi vào.

Xuyên qua dãy hành lang tới căn phòng ở phía tây. Rèm cửa vừa mở lên, mùi rượu xông ra ngào ngạt.

Lệnh Hồ Xung thích rượu từ thuở nhỏ nên thưởng thức rất tinh vị Vừa ngửi thấy mùi rượu chàng đã reo lên:

– Hay quá! ở đây có mùi rượu Phần. úi chà! Thứ bách thảo tửu này e rằng cất đã 75 năm nay.

Chà! Lại hầu nhi tửu kia mới thật là khó kiếm.

Chàng vừa ngửi thấy mùi thơm của Hầu nhi tửu lập tức nhớ tới Lục sư đệ là Lục Đại Hữu mà đồng môn thường kêu bằng Lục Hầu nhi, chàng không nhẫn nại được nữa, lòng như se lại.

Đan Thanh vỗ tay cả cười lớn tiếng reo:

– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Phong huynh đệ vừa vào tửu thất của ta đã hô lê ba thứ rượu quí mà ta vẫn cất kỹ. Phong huynh đệ quả là một tay đại danh gia về rượu. Xin lỗi nhé! Xin lỗi nhé!

Hồi 109

Huyền Thiên Chỉ biến nước thành băng

Lệnh Hồ Xung thấy trong nhà la liệt những vò rượu, bình rượu, bầu rượu, chung rượu bầy ra trước mắt, liền nói:

– Những loại rượu tiền bối tàng trữ nào phải chỉ có ba thứ mà thôi. Đây là Thiện hưng nữ nhi hồng, trân quí cực phẩm! Kìa rượu Bồ đào ở Thổ lồ phồn bên Tây Vực phải cất bốn lần mới được. Trên đời hiện nay tìm đâu cho thấy.

Đan Thanh tiên sinh vừa kinh hãi vừa mừng thầm hỏi ngay:

– Rượu Bồ đào ở Thổ lồ phồn ta đóng kín vào trong thùng gỗ mà sao lão đệ vừa ngửi đã biết ngay?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Thứ hảo tửu này đừng nói là đóng vào thùng, dù chôn sâu xuống đất mấy trượng cũng chẳng thể lấp được mùi hương của nó.

Đan Thanh tiên sinh lại la lên:

– Giỏi lắm, giỏi lắm! Thế thì bây giờ chúng ta hãy uống thứ rượu Bồ đào phải ướp, phải cất bốn lần này mới xong.

Lão liền lấy một thùng gỗ ở trong góc nhà ra. Thùng gỗ để lâu màu gỗ đã đen lại. Trên mặt thùng viết đầy những chữ Tây Vực ngoằn ngoèo. Nắp gỗ gắn bằng keo sơn đóng ấn tỏ ra rất trịnh trọng.

Đan Thanh tiên sinh thò tay vào nắp gỗ khẽ nậy lên. Lập tức hương rượu tỏa ra ngào ngạt khắp cả gian nhà.

Thi Lệnh Oai trước nay không nhắp môi một giọt rượu, hắn vừa ngửi thấy mùi hương sực nức bất giác ra chiều ngây ngất.

Đan Thanh tiên sinh vẫy tay cười nói:

– Ngươi ra đi! Ngươi ra đi! Nếu còn đứng đó thì say đến ngã lăn ra bây giờ.

Lão bày ba cái chén lên mặt bàn rồi bưng thùng rượu rót ra.

Thứ rượu này đỏ như máu, rót cao hơn miệng chén mà vẫn không tràn ra giọt nào.

Hướng Vấn Thiên reo thầm trong bụng:

– Hay quá! Võ công lão này ghê gớm thật! Lão ôm cái thùng gỗ nặng hơn đến trăm cân để rót rượu vào chén nhỏ xíu đầy thế kia không để tràn ra ngoài thì thật là tuyệt!

Đan Thanh tiên sinh cắp thùng rượu vào nách. Tay trái nâng chén lên nói:

– Nào mời!

Cặp mắt lão đăm đăm nhìn vào mặt Lệnh Hồ Xung để coi vẻ mặt chàng nếm rượu.

Lệnh Hồ Xung nâng chén rượu lên uống một nửa, thưởng thức mùi vị. Mặt chàng đổ lớp phấn rất dày nên vẫn trơ ra tựa hồ chẳng thích thú cho lắm.

Đan Thanh tiên sinh nghĩ thầm trong bụng:

– Chẳng lẽ tay sành rượu này cho là thứ rượu của ta hãy còn tầm thường chẳng có chi kỳ lạ.

Lệnh Hồ Xung nhắm mắt lại hồi lâu mở ra nói:

– Lạ thiệt! Lạ thiệt!

Đan Thanh tiên sinh hỏi ngay:

– Điều chi quái lạ?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vụ này thật là khó hiểu. Vãn bối không sao đoán ra được…

Đan Thanh tiên sinh cặp mắt chiếu ra những tia sáng vui mừng, ngập ngừng nói:

– Lão đệ muốn hỏi…

Lệnh Hồ Xung ngắt lời:

– Trong đời vãn bối mới được uống thứ rượu này một lần ở thành Trường An, tuy nó cực kỳ thuần mỹ song trong rượu hơi có mùi chuạ Theo lời lão sư ở tửu trang thì đó là vì lúc chuyển vận làm rượu sóng lên. Thứ rượu Bồ đào ở Thổ lồ phồn này bốn lần ướp, bốn lần cất mới thành, h một lần làm rung động là một lần kém đi. Từ Thổ lồ phồn đến Hàng Châu đường xa kể mấy vạn dặm, vậy mà sao rượu của tiền bối đây tuyệt không thấy mùi chua chút nào? Cái đó… cái đó…

Đan Thanh tiên sinh nổi lên tràng cười khanh khách ra vẻ cực kỳ đắc ý nói ngay:

– Đây là một bí quyết không tiết lộ ra ngoài. Ta phải dùng ba chiêu kiếm pháp để đánh đổi với một tay kiếm khách bên Tây Vực là Mạc Hoa Nhĩ. Lão đệ có muốn biết không?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Vãn bối được nếm thứ rượu này trong lòng rất lấy làm mãn nguyện lắm rồi. Nó là bí quyết của tiền bối thì vãn bối không dám hỏi tới nữa.

Đan Thanh tiên sinh giục:

– Uống đi! Uống nữa đi!

Lão lại rót ra thêm ba chén, nhưng thấy Lệnh Hồ Xung không hỏi đến bí quyết thì ngứa ngáy khó chịu nói:

– Thực tình bí quyết này nói ra không đáng một đồng chẳng có chi ly kỳ.

Lệnh Hồ Xung biết mình càng không muốn nghe thì lão lại càng muốn nói. Chàng liền xua tay đáp:

– Xin tiền bối đừng nói ra. Tiền bối đã phải đánh đổi bằng ba kiếm chiêu thì nhất định không phải chuyện tầm thường. Tiền bối đã trả nó bằng một giá rất đắt mà vãn bối học được một cách d dàng thì trong lòng cực kỳ áy náy. Người ta thường nói: Không có công trạng thì đừng hưởng lộc…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Lão đệ bầu bạn với ta uống rượu lại nói rõ được lai lịch của thứ rượu này thế là công lao lớn lắm. Lão đệ phải nghe bí quyết mới được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối được tiền bối tiếp kiến đã là may mắn. Huống chi tiền bối còn ban cho mỹ tửu đến cực phẩm thì lòng cảm kích nói sao cho xiết? Thì nào còn…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Ta nguyện ý nói cho lão đệ nghe, hà tất lão đệ phải bận tâm.

Hướng Vấn Thiên cất tiếng khuyên chàng:

– Đây là mỹ ý của tứ trang chúa. Phong huynh đệ không nên khước từ.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phải lắm! Phải lắm!

Lão cười híp mắt nói tiếp:

– Ta còn muốn khảo nghiệm lão đệ một phen nữa. Lão đệ có biết rượu này đã cất bao lâu?

Lệnh Hồ Xung nâng chén rượu lên uống cạn, phân biệt mùi vị hồi lâu rồi thủng thẳng đáp:

– Thứ rượu này còn một chp64 lạ nữa tựa hồ đã cất đến 120 năm mà lại giống như mới cất 12, 13 năm mới kỳ. Mùi vị mới mẻ mà có chỗ thấm thía rất lâu, tức là trong cái cũ có cái mới trong cái mới có cái cũ. Đem nó so với thứ rượu ngon thông thường cất đã trên trăm năm, nó còn có một phong

vị khác.

Hướng Vấn Thiên khẽ nhún vai nghĩ bụng:

– Chú này lòi đuôi rồi! Một đằng 120 năm với một đằng 12, 13 năm, quãng cách thời gian có dư trăm năm thì sao lại so sánh với nhau được?

Lão băn khoăn chỉ lo Đan Thanh tiên sinh sẽ bất mãn về câu của chàng. Ngờ đâu tiên sinh cười ha hả rất lớn thổi hất tung chòm râu dài cho chổng ngược lên, cất giọng oang oang:

– Hảo huynh đệ! Hảo huynh đệ! Tay này quả nhiên gớm thiệt! Bí quyết của ta là ở chỗ đó! Ta nói cho lão nghe: tay kiếm hào bên Tây Vực kia là Mạc Hoa Nhĩ tặng cho ta mười vò rượu Đồ đào ở nước Thổ lồ phồn mới ba lần ướp, ba lần cất và đã để lâu 120 năm. Chục vò rượu này được tải đến Hàng

Châu bằng 20 con ngựa Đại Uyển. Về tới Hàng Châu ta mới đem ướp và cất lại một lần nữa. Mười vò rượu ngon cất lấy một thùng. Bấm đốt tay tính lại từ ngày đó đến nay đã được 12 năm rưỡi. Thứ rượu ngon này vận tải quan san muôn dậm mà vẫn không chuạ Mùi rượu trong cái cũ có cái mới, trong cái mới có cái cũ là ở chỗ đó.

Hướng Vấn Thiên cùng Lệnh Hồ Xung vỗ tay reo:

– Té ra thế! Té ra thế!

Lệnh Hồ Xung nói tiếp:

– Cần được thứ rượu này thì có phải đem 10 chiêu kiếm pháp ra mà đổi cũng còn là rẻ. Vậy mà tiền bối mất có ba chiêu đã đổi được thì thật là món hời hiếm có ở đời.

Đan Thanh tiên sinh rất đỗi hả hê nói:

– Lão đệ đúng là tri kỷ của ta! Ngày đó đại ca cùng nhị ca ta đem lòng oán hận vì đã đổi kiếm chiêu lấy rượu, khiến cho tuyệt chiêu của Trung Nguyên truyền ra đến đất Tây Tạng. Còn tam ca khi đó chỉ cười ruồi chứ không nói gì, song ta e rằng trong lòng y cũng bất phục. Chỉ có mình lão đệ là biết ta

được giả hời. Hay lắm! Chúng ta lại uống chén nữa.

Lệnh Hồ Xung uống cạn chung nữa rồi nói:

– Tứ trang chúa! thứ rượu này còn có một cách uống đáng tiếc hiện giờ không thể làm được.

Đan Thanh tiên sinh vội hỏi:

– Cách uống đó thế nào? Tại sao lại không làm được?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Nước Thổ lồ phồn là đất nóng nhất trong thiên hạ. Nghe nói ngày trước Đường Huyền Trang sang Tây Trúc lấy kinh phải đi qua Hỏa Diệm Sơn tức là nước Thổ lồ phồn…

Đan Thanh tiên sinh nói xen vào:

– Phải rồi! Nơi này nóng quá thiệt. Về mùa hạ suốt ngày người ta phải dầm mình vào trong thùng

nước lạnh mà hãy còn thấy nóng. Đến mùa đông thì lại rét quá, lạnh buốt thấu xương. Vì khí hậu đặc biệt nên trái bồ đào khác hẳn mọi nơi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Khi vãn bối uống thứ rượu này tại thành Trường An đã gặp mùa đông mà vị lão sư trong tửu trang còn sai gia nhân lấy một khối băng lớn để đặt chung rượu lên. Rượu ngon có hơi lạnh thấm vào thành ra một mùi vị khác. Hiện giờ đang buổi sơ hạ lấy đâu ra được băng để hấp rượu?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Khi ta ở Tây Vực cũng gặp mùa hạ, Mạc Hoa Nhĩ cũng đã nói đến chuyện dùng băng hấp rượu mới là tuyệt diệu. Lão đệ! Cái này cũng d thôi. Lão đệ Ở đây với ta quá nửa năm là đến mùa đông chúng ta sẽ thưởng thức lần nữa.

Lão ngừng lại một chút rồi tiếp:

– Có điều phải chờ lại lâu ngày kể cũng nóng ruột.

Hướng Vấn Thiên xen vào:

– Đáng tiếc là một giải Giang Nam không có nhân vật nào luyện “âm hàn chưởng”, “âm phong trảo” là những công phu thuần âm. Nếu không thì…

Lão chưa dứt lời Đan Thanh tiên sinh đã la lên:

– Có chứ! Có chứ!

Lão nói xong đặt thùng rượu xuống hối hả chạy ra.

Lệnh Hồ Xung đưa mắt nhìn Hướng Vấn Thiên, đầy lòng ngờ vực, nhưng Hướng Vấn Thiên vẫn mỉm cười chứ không nói gì.

Chỉ trong khoảnh khắc Đan Thanh tiên sinh dắt một lão già cao nghểu cao nghều mà gầy khẳng gầy kheo đưa vào phòng rồi nói:

– Nhị ca! Bất luận thế nào nhị ca cũng giúp cho tiểu đệ một phen.

Lệnh Hồ Xung thấy người này mày thanh mắt sáng, có điều mặt trắng bợt mà hơi xanh lướt, trông chẳng khác cái mặt thây ma, khiến người nhìn vào không khỏi ớn da gà.

Người mà Đan Thanh đưa vào đây là Nhị trang chúa ở Mai trang mang danh hiệu Hắc Bạch tử.

Đầu tóc lão đen nhánh mà da mặt lại trắng bệch, quả nhiên hắc bạch phân minh.

Hắc Bạch Tử lạnh lùng hỏi:

– Ngươi muốn giúp chuyện gì?

Đan Thanh tiên sinh đáp:

– Xin nhị ca phát huy công phu hóa nước thành băng để cho hai vị hảo hữu của tiểu đệ coi.

Hắc Bạch Tử đảo cặp mắt quái nhỡn lạnh lùng đáp:

– Cái tài vặt đó phỏng có chi đáng kể, chẳng bõ làm cho người ta phải cười đến trẹo quai hàm.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Nhị ca ơi! Chẳng giấu gì nhị cạ Phong huynh đệ đây nói là thứ rượu Bồ đào ở Thổ lồ phồn này phải có băng để hãm mà uống mới là tuyệt thú! Trời nóng thế này thì đi đâu kiếm được băng giá bây giờ?

Hắc Bạch Tử hỏi lại:

– Rượu này mùi hương cực kỳ thuần túy hà tất phải dùng băng để hãm?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Thổ lồ phồn là nơi cực nhiệt…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Phải rồi! Khí hậu tại đó nóng nhiệt vô cùng!

Lệnh Hồ Xung nói tiếp:

– Thứ nho mọc ở đất này không khỏi bị khí nhiệt thấm vào.

Đan Thanh tiên sinh nói xen vào:

– Đúng lắm! Cái đó nhất định không tránh khỏi được.

Lệnh Hồ Xung nói tiếp:

– Khí nóng thấm vào rượu để lâu trăm năm nay đã giảm đi nhiều, nhưng người sành rượu vẫn cảm thấy mùi cay.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phải lắm! Phải lắm! Lão đệ không nói thì ta cứ tưởng là lúc cất họ để lửa mạnh quá, thành ra mắng oan tên ngự trù kia.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Làm sao lại có ngự trù?

Đan Thanh tiên sinh cười đáp:

– Ta sợ nấu không để lửa đúng độ làm hư 10 vò rượu ngon nên phải lẻn vào hoàng cung ở Bắc Kinh mắt một tên ngự trù đem về cho y cất rượu.

Hắc Bạch Tử lắc đầu nói:

– Thật là chuyện nhỏ nhặt mà làm cho thành quan trọng.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Té ra là thế! Nếu là những anh hùng hiệp sĩ tầm thường mà uống thứ rượu quí này có mùi cay một chút cũng không đáng kể. Nhưng nhị trang chúa và tứ trang chúa ở ẩn nơi phong cảnh tuyệt mỹ trên bờ Tây Hồ là những bậc thanh cao khác đời không thể tự hạ mình như những nhân vật quê mùa trong võ lâm. Rượu này cần có băng hãm cho hết mùi cay gắt mới xứng với thân thế cao cả của nhị vị.

Hướng Vấn Thiên xen vào:

– Tỉ như đánh cờ chỉ chen lấn bắt quân thì là hạng tầm thường. Còn những bậc cao thượng chơi cờ lúc nào cũng có những nước tuyệt diệu mà đi.

Hắc Bạch Tử lại đảo cặp mắt quái nhỡn nắm lấy vai Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Lão huynh cũng biết đánh cờ ư?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Tại hạ bình sinh rất thích chơi cờ, đáng tiếc mình không maỵ Tại hạ liền đi khắp miền Trung Nguyên để kiếm kỳ phổ. Hơn ba chục năm trời nghiên cứu những cục thế nổi danh đã nhớ rất nhiều…

Hắc Bạch Tử ngắt lời:

– Lão huynh nhớ được nhiều danh cục ư? Những danh cục nào thử nói nghe!

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Tỉ như cuộc cờ mà Vương Chất đã gặp tiên trên núi Lạn Kha, hay cuộc Lưu Trọng Phủ đấu với tiên mỗ ở núi Ly Sơn, hoặc cuộc Vương Tích Tân gặp Hồ tiên…

Lão chưa dứt lời, Hắc Bạch Tử đã lắc đầu quầy quậy nói:

– Những chuyện thần thoại đó khó mà tin được. Làm gì có những kỳ phổ này?

Lão nói rồi buông tay ra.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Ban đầu tại hạ cũng cho là bọn hiếu sự bịa ra những thiên cố sự đó. Song 25 năm trước đây, tại hạ được coi kỳ phổ Lưu Trọng Phủ đấu cờ với bà tiên trên núi Ly Sơn, đi nước nào cũng tuyệt diệu, người thường không thể bì kịp. Rồi từ đó, tại hạ mới quyết tâm tin là sự thực không phải nói ngoa. Tiền bối cũng ưa món này lắm phải không?

Đan Thanh tiên sinh cười ha hả, bộ râu cằm lão vuốt cho dài thưỡn ra.

Hướng Vấn Thiên giả vờ không hiểu hỏi:

– Sao tiền bối lại bật cười?

Đan Thanh tiên sinh đáp:

– Lão huynh hỏi nhị ca có thích cờ không? Ha ha! Nhị ca ta đạo hiệu là Hắc Bạch Tử thì lão huynh bảo y có thích hay không thích? Ta thích rượu thế nào thì nhị ca ta thích cờ cũng vậy.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Chết chưa! Tại hạ nói nhăng rồi! Thật là múa rìu qua mắt thợ. Xin nhị trang chúa min trách cho.

Hắc Bạch Tử hỏi:

– Lão huynh lấy được bản đồ phổ về cuộc cờ Lưu Trọng Phủ đấu với Linh San tiên mỗ thật ư? Ta xem bút ký của tiền nhân để lại có nói Lưu Trọng Phủ là một tay quốc thủ đương thời bị đại bại về tay một mụ già thôn quê, y tức quá thổ huyết mấy thăng, nên cuộc cờ đó kêu bằng “ấu huyết phổ”. Chẳng lẽ trên đời quả có cuộc ẩu huyết phổ thiệt ư?

Lúc lão mới đến ra chiều lạnh nhạt, nhưng bây giờ lại tỏ ra rất nồng hậu.

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Hơn hai chục năm trước tại hạ Ở thành đô tỉnh Tứ Xuyên vào một nhà thế gia tìm được kỳ phổ này có những nước kinh tâm động phách. Vì vậy mà sự việc cách đây 25 năm vẫn còn nhớ cả toàn bộ 125 nước.

Hắc Bạch Tử hỏi ngay:

– Cả thảy 125 nước ư? Lão huynh thử bày ra cho ta coi. Nào! vào trong kỳ thất của lão phu để bày cờ.

Đan Thanh tiên sinh liền đưa tay ra cản lại nói:

– Khoan đã! Nhị ca mà không chế băng cho tiểu đệ hâm rượu thì tiểu đệ nhất định không để nhị ca đi.

Lão vừa nói vừa cầm cái chậu sứ trắng đưa lại. Trong chậu đựng đầy nước trong.

Hắc Bạch Tử thở dài nói:

– Tứ đệ cũng có cái say mê, thôi ta đành chịu vậy.

Lão đưa ngón tay trỏ dúng vào trong chậu nước.

Bỗng thấy mặt nước sủi lên những chấm trắng li tị Chẳng bao lâu mặt chậu nổi lên một làn sương trắng, rồi mặt nước kết lại thành từng miếng băng mỏng. Những miếng băng này mỗi lúc một dầy thêm.

Trong khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà, chậu nước trong biến thành băng hết.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung lớn tiếng hoan hô.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nghe nói công phu “Hắc phong chỉ” này thất truyền đã lâu. Té ra nhị trang chúa…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Đây không phải là “Hắc phong chỉ”, mà là “Huyền thiên chỉ”. Hai môn này tương tự như nhau, nhưng “Hắc phong chỉ” thuộc về bá đạo và trình độ cũng còn kém Huyền thiên chỉ.

Lão vừa nói vừa đặt bốn chén lên trên mặt chậu băng, rót rượu vào.

Bỗng trên mặt rượu sủi tăm sắc trắng.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Được rồi!

Đan Thanh tiên sinh nâng chén lên uống một hơi cạn sạch, quả thấy hương rượu vừa đậm vừa ngon, mất hết mùi chua chát, mà thêm vị thanh lương thấm vào tâm phế. Bất giác lão lớn tiếng reo:

– Tuyệt diệu! Rượu của ta đã ngon mà nhân phẩm của Phong lão đệ lại cao hơn. Cách chế băng của nhị ca mới là tuyệt diệu.

Lão nhìn Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Lão huynh ngồi bên, lúc tung lúc hứng lại càng tuyệt nữa.

Hắc Bạch Tử cũng cầm chén rượu lên uống nhưng không lý gì đến mùi rượu có ngon hay không.

Lão kéo tay Hướng Vấn Thiên giục:

– Đi! Đi! Đi bày cuộc “ẩu huyết phổ” của Lưu Trọng Phủ cho ta coi.

Hướng Vấn Thiên kéo tay Lệnh áo Hồ Xung. Chàng hiểu ý liền nói:

– Tại hạ cũng đi coi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Coi cờ có chi là thú? Sao bằng ở đây uống rượu với ta?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Chúng ta vừa uống rượu vừa coi cờ.

Dứt lời chàng đi theo Hắc Bạch Tử cùng Hướng Vấn Thiên.

Đan Thanh tiên sinh không sao được đành cắp thùng rượu đi theo vào kỳ thất.

Đây là một gian phòng, ngoại trừ chiếc kỷ đá và hai chiếc ghế êm, trống rỗng không còn vật gì nữa.

Trên kỷ đá khắc 19 đường bàn cờ. Bên cạnh đặt một hộp cờ đen và một hộp cờ trắng. Trong kỳ thất, ngoài ghế ngồi và bàn cờ không bày đặt vật gì là để người đối cục khỏi phân tâm.

Hồi 110

Hướng Vân Thiên khoe tài của bạn

Hướng Vấn Thiên đến trước kỷ đá bày cờ.

Lão đặt vào vị “bình” ở điểm lục tam một con cờ đen rồi lại đặt một con cờ trắng vào điểm cửu tam. Lão tiếp tục đặt vào điểm lục ngũ một con đen, điểm cửu ngũ một con trắng.

Hướng Vấn Thiên tiếp tục đặt cho đến con thứ 64, hai bên thành thế tỷ đấu kịch liệt.

Hắc Bạch Tử ngó thấy toát mồ hôi trán.

Lệnh Hồ Xung ngấm ngầm kinh hãi, chàng thấy vừa rồi lão vận “Huyền thiên chỉ” hóa nước thành băng, thì biết công lực lão cao thâm đến thế nào! Đánh cờ là chuyện nhỏ mà lão nhìn đến toát mồ hôi đủ rõ lão chẳng quan tâm gì đến việc khác cho khỏi loạn thần trí. Lão này say mê cờ đến trình độ điên

khùng mà Hướng Vấn Thiên chắc là tìm được nhược điểm của lão để tấn công.

Hắc Bạch Tử thấy Hướng Vấn Thiên ngồi lâu không đi cờ liền hỏi:

– Bây giờ đi thế nào?

Hướng Vấn Thiên mỉm cười đáp:

– Đây là nước cờ mấu chốt. Theo cao kiến của nhị trang chúa nên đi nước gì?

Hắc Bạch Tử khổ tâm ngẫm nghĩ hồi lâu rồi hỏi:

– Quân này ư? Bỏ đi không được, xông ra không xong. Cái này… cái này…

Tay cầm một con cờ đen trên kỷ đá khẽ gõ lách cách. Hồi lâu lâu lắm mà thủy chung không biết đi nước nào.

Lúc này Đan Thanh tiên sinh và Lệnh Hồ Xung đều đã uống hết 17,18 chén rượu Bồ đào.

Đan Thanh tiên sinh thấy sắc mặt Hắc Bạch Tử mỗi lúc một xanh rờn liền nói:

– Đồng lão huynh! “Ẩu huyết phổ” này chẳng lẽ làm cho nhị ca ta đến thổ huyết chăng? Bây giờ đi thế nào thì nói ra!

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Được rồi con thứ 67 này đặt vào điểm thất tứ.

Hắc Bạch Tử vỗ đùi đánh đét một cái la lên:

– Hay quá! Con này đặt xuống đó thật là tuyệt diệu.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Lưu Trọng Phủ đi nước này dĩ nhiên là hay, nhưng y chỉ là một tay diệu thủ ở nhân gian nên so với tiên mỗ ở Ly Sơn hãy còn kém xa lắm.

Hắc Bạch Tử vội hỏi:

– Vậy nước cờ tiên của Ly Sơn Tiên mỗ ra sao?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Nhị trang chúa hãy nghĩ đi!

Hắc Bạch Tử nghĩ hàng nửa ngày thấy đại cục hiển nhiên khó lòng vãn hồi liền nói:

– Đã là nước cờ tiên thì bọn phàm phu tục tử chúng ta nghĩ ra thế nào được? Đồng huynh đừng thử thách nữa.

Hướng Vấn Thiên tủm tỉm cười nói:

– Nước cờ thần cô diệu toán này quả nhiên phải thần tiên mới nghĩ ra được.

Hắc Bạch Tử vốn là tay cơ biến lại biết đường dò xét tâm lý đối phương một cách rất tinh vị Lão thấy Hướng Vấn Thiên không chịu đem nước cờ trên nói ra một cách chóng vánh khiến cho người ta ngứa ngáy khó chịu thì đoán là y có mưu đồ chuyện gì liền hỏi:

– Lão huynh! Lão huynh cứ đem thê cờ này nói cho tại hạ nghe chẳng lẽ tại hạ lại không có điều chi đền đáp?

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Chắc Hướng đại ca biết nhị trang chúa đây có thần công Huyền thiên chỉ chữa được bệnh cho mình nên mới bầy trò này ra để cầu lão.

Hướng Vấn Thiên ngửng đầu lên cười ha hả nói:

– Tại hạ cùng Phong lão đệ tuyệt không có cầu cạnh bốn vị trang chúa điều chị Nhị trang chúa

nói vậy chẳng hóa ra coi thường bọn tại hạ lắm ư?

Hắc Bạch Tử liền xá dài đáp:

– Tại hạ lỡ miệng, xin có lời từ tạ.

Hướng Vấn Thiên cùng Lệnh Hồ Xung vội đáp l.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bọn tại hạ đến Mai trang chỉ có ý muốn đánh cuộc cùng bốn vị trang chúa.

Hắc Bạch Tử cùng Đan Thanh tiên sinh đồng thanh hỏi:

– Đánh cuộc ư? Cuộc thế nào?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Tại hạ dám đánh cuộc là trong Mai trang không có nhân vật nào thắng được kiếm pháp của Phong lão đệ đây.

Hắc Bạch Tử cùng Đan Thanh tiên sinh quay lại nhìn Lệnh Hồ Xung. Hắc Bạch Tử re vẻ thờ ơ không phê bình câu nào. Nhưng Đan Thanh tiên sinh cười ha hả hỏi lại:

– Đặt cuộc thế nào?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Nếu bọn tại hạ thua cuộc thì xin dâng bức lụa đồ này cho Tứ Trang Chúa.

Lão nói rồi cởi chiếc bọc đeo ở trên lưng xuống mở ra. Trong bọc có hai cuốn trục. Một cuốn là bức họa đồ rất cũ kỹ. Góc trên bức họa đồ có đề một dòng chữ: “Bắc Tống Phạm Trung Lập khê sơn

hành lữ đồ”.

Bức họa đồ vẽ một tòa núi cao ngất trời, nét mực đen láy, thanh thế rất hùng vĩ hiểm tuấn.

Lệnh Hồ Xung tuy không hiểu về hội họa song cũng biết đây là một bức tranh sơn thủy tuyệt tác.

Ngọn núi chót vót rậm rạp tuy vẽ ở trên giấy cũng khiến cho người ta không tự chủ được mà sinh lòng ngưỡng mộ.

Đan Thanh tiên sinh bỗng la lên:

– Úi chà!

Hai mắt lão nhìn chằm chặp vào bức họa đồ không rời ra nữa. Hồi lâu lão mới hỏi:

– Đây là chân tích của Phạm Khoan đời Bắc Tống. Lão huynh lấy được ở đâu vậy?…

Hướng Vấn Thiên chỉ tủm tỉm cười chứ không trả lời. Lão đưa tay ra từ từ cuộn lại.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Khoan đã!

Lão kéo tay Hướng Vấn Thiên muốn ngăn trở không chông cho cuốn lại. Ngờ đâu tay lão vừa đụng vào cánh tay đối phương bỗng thấy một luồng nội lực nhu hòa mà hùng hậu xô tới đẩy bàn tay lão ra một cách nhẹ nhàng.

Hướng Vấn Thiên vờ như không thấy gì, tiếp tục cuốn họa đồ lại.

Đan Thanh tiên sinh trong lòng nghi hoặc. Vừa rồi lão kéo tay Hướng Vấn Thiên chỉ sợ làm rách họa đồ, nên không vận nội lực. Nhưng lão thấy luồng nội kình hất tay mình ra, cũng đủ biết nội công của đối phương vào bậc thượng thừa thì trong lòng ngấm ngầm bội phục nói:

– Lão huynh! Té ra võ công của Lão huynh cực kỳ lợi hại! Có lẽ chẳng kém gì bọn ta.

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Tứ trang chúa nói rỡn rồi. Chà! Bốn vị trang chúa ở Mai trang ngoại trừ kiếm pháp không kể còn thì bất luận môn công phu nào cũng là những tay vô địch hiện naỵ Tại hạ là một tên vô danh tiểu tốt khi nào dám so bì với bốn vị trang chúa.

Đan Thanh tiên sinh biến sắc hỏi:

– Sao lão huynh lại bảo ngoại trừ kiếm pháp? Chẳng lẽ kiếm pháp của ta chưa bằng y thật hay sao?

Hướng Vấn Thiên tủm tỉm cười đáp:

– Nhị vị trang chúa! Xin hai vị hãy coi bức này xem.

Rồi lão mở cuốn trục thứ hai thì đây là bức chi thảo mà nét bút linh động như rồng bay phượng múa.

Đan Thanh tiên sinh rất lấy làm kỳ, khẽ bật tiếng la:

– Úi chà! úi chà! úi chà!

Lão la luôn ba tiếng “úi chà” rồi đột nhiên lớn tiếng kêu:

– Tam ca! Tam ca! Cái bảo bối mà tam ca coi quí như tính mạng đã có rồi đó.

Tiếng lão gọi rất vang dội. Làm rung động cả tường vách những bụi cát trên mái nhà rớt xuống tới tấp. Hơn nữa lão la lên một cách đột ngột khiến cho Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đều giật mình kinh hãi.

Bỗng nghe có tiếng người từ đằng xa cất lên hỏi:

– Chuyện chi mà hốt hoảng như vậy?

Đan Thanh tiên sinh la lên:

– Tam ca không đến mau mà coi thì người ta cuốn lại sẽ phải hối hận suốt đời.

Người bên ngoài hỏi vọng vào:

– Tứ đệ lại thấy một bức vẽ giả mạo nào rồi phải không?

Rèm cửa vén lên, một người tiến vào. Người này thấp lùn và béo mập, đầu lão hói mà bóng loáng, không mọc một sợi tóc nào. Tay mặt lão cầm một cây bút lớn. Vạt áo đầy vết mực. Lão tiến vào gần coi. Đột nhiên cặp mắt trợn ngược lên. Lão nín thở nói:

– Bức này thật rồi! Đúng là… bút thiếp của… Trương Húc đời Đường… không ai làm giả được.

Chữ thảo trên tấm thiếp coi chẳng khác khinh công một tay cao thủ võ lâm lên cao rồi xuống thấp.

Tuy hành động mau lẹ nhưng không mất vẻ phong lưu tao nhã.

Trong 10 chữ thảo Lệnh Hồ Xung chưa chắc đã đọc được một. Nhưng chàng thấy phía dưới tấm thiếp có tên nhiều người để tặng. Trong đám này lại lắm người quan hàm rất cao cũng đoán được đây không phải là tấm thiếp tầm thường.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Vị này là tam ca của tại hạ tên gọi Ngốc Bút ông. Y dùng ngoại hiệu này vì tính thích bút pháp, viết cùn đến hàng trăm ngàn cây bút, chứ không phải vì y đầu hói. Về điểm này các vị chớ có lầm lẫn.

Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười đáp:

– Xin vâng!

Chàng thấy Ngốc Bút ông đưa ngón tay chỏ bên phải nhìn theo nét bút trong cánh thiếp mà đưa lên đưa xuống hay vòng vèo ở gian. Vẻ mặt say sưa ngây ngất không dòm ngó gì đến Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung. Cả câu nói của Đan Thanh tiên sinh lão cũng bỏ ngoài tai.

Lệnh Hồ Xung đột nhiên chấn động tâm thần nghĩ bụng:

– Cử động này của Hướng đại ca chắc là có chuyện mưu đồ từ trước. Ta nhớ lại lúc gặp y ở quán lương đình, trên lưng y đã đeo một cái bọc.

Rồi chàng xoay chuyển ý nghĩ:

– Trong bọc lúc ấy vị tất đã có hai cuốn trục này. Không chừng khi y đến Mai trang cầu bốn vị trang chúa trị bệnh cho ta rồi ở dọc đường, y nhân lúc ta nghĩ trong nhà khách sạn liền ra ngoài mua hoặc là lấy cắp đem về. Chà! Chắc y lấy cắp thì phải hơn. Những của bán vô giá này mua ở đâu được?

Tai chàng nghe tiếng Ngốc Bút ông vạch chữ trên không mà chỉ phong cũng rít lên veo véo, đủ biết nội lực lão cường mạnh chẳng kém gì Hắc Bạch Tử.

Chàng lại nghĩ:

– Nội thương của ta phát ra gì những luồng chân khí của Đào cốc lục tiên và Bất giới hòa thượng.

Nay coi nội lực của ba vị trang chúa dường như đã cao thâm hơn Đào cốc lục tiên và Bất giới hòa thượng. Đại trang chúa chắc còn ghê gớm hơn. Thêm vào nội lực của Hướng đại ca, năm người hợp lực hoặc giả trị thương cho ta được. Nhưng ta chỉ mong họ không đến nỗi hao phí công lực càng hay.

Hướng Vấn Thiên không chờ Ngốc Bút ông viết xong đã cuộn bức thiếp lại gói vào trong bọc.

Ngốc Bút ông nhìn lão bằng vẻ ngạc nhiên, hồi lâu mới hỏi:

– Lão huynh muốn hỏi đổi lấy cái gì?

Hướng Vấn Thiên lắc đầu đáp:

– Cái gì cũng không đổi được.

Ngốc Bút ông nói:

– 28 chiêu “Thạch cổ đả huyệt bút pháp” nhé?

Hắc Bạch Tử và Đan Thanh tiên sinh vội la lên:

– Không được!

Ngốc Bút ông nói:

– Được chứ! Sao lại không được? Nếu lấy được chân tích về bức đại thảo của Trương Húc thì 28 chiêu “Thạch cổ đả huyệt bút pháp” không có gì đáng tiếc nữa.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu đáp:

– Không được.

Ngốc Bút ông liền hỏi:

– Thế thì lão huynh lấy cho ta coi làm chi?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Cái đó dù là lỗi của tại hạ, nhưng tam trang chúa đừng coi nữa có được không?

Ngốc Bút ông hỏi:

– Đánh cuộc thế nào?

Đan Thanh tiên sinh xen vào:

– Tam ca! Cha này có vẻ điên khùng. Y bảo đánh cuộc trong Mai trang chúng ta không ai thắng được kiếm pháp của Phong bằng hữu.

Ngốc Bút ông hỏi:

– Nếu trong Mai trang có người thắng được y thì sao?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Trong Mai trang bất luận là ai mà thắng được thanh trường kiếm trong tay Phong huynh đệ thì tại hạ xin để bức chân tích của Trương Húc kính tặng tam trang chúa. Bức “Khê sơn hành lữ đồ” của Phạm Khoan xin đưa tặng tứ trang chúa. Tại hạ còn đem 80 danh cục về cờ vây của thần tiên qui?

quái nhất nhất sao ra tặng nhị trang chúa.

Ngốc Bút ông hỏi:

– Còn đại ca chúng ta thì sao? Lão huynh tặng y vật gì?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Phong lão đệ đây trong mình có một bản cầm phổ tuyệt thế vô song cổ kim hiếm có và kêu bằng “Tiếu ngạo giang hồ khúc” xin để kính tặng đại trang chúa.

Bọn Ngốc Bút ông ba người nghe Hướng Vấn Thiên nói vậy không lộ vẻ gì, nhưng Lệnh Hồ Xung lại giật mình kinh hãi, tự hỏi:

– Làm sao y biết trong mình ta có cuốn cầm phổ “Tiếu ngạo giang hồ”?

Bỗng Hắc Bạch Tử cất tiếng đáp:

– Bọn tại hạ tuy không biết “Tiếu ngạo giang hồ” tuyệt diệu ở chỗ nào, nhưng cứ coi ba món kỳ, thư, họa đã đem đặt cuộc mà suy thì cầm phổ đó hẳn cũng là một vật trân quí phi thường. Song gặp trường hợp mà trong Mai trang quả không ai địch nổi Phong huynh đệ thì tại hạ biết lấy chi để trả lại?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Phong huynh đệ đây đã tinh thông tửu lý thì kiếm pháp tất cũng cao minh, nhưng tuổi y còn nhỏ chẳng lẽ trong Mai trang… Ha ha!… lại không…

Rồi lão nổi lên một tràng cười rộ.

Đan Thanh tiên sinh nói mấy câu này một cách tuy hàm hồ nhưng ý nghĩa rất rõ là Lệnh Hồ Xung không thể nào thắng được cao thủ ở Mai trang. Chỉ vì chàng là tay sành rượu trúng tới sở hiếu của lão nên lão có mối hảo cảm mà không buông lời khinh miệt.

Lệnh Hồ Xung tuy đã có lời ước hẹn trước với Hướng Vấn Thiên nhất thiết mọi việc đều do lão sắp đặt, nhưng sự việc din biến đến thế này, chàng cảm thấy lão có điều quá đáng. Huống chi nội lực chàng đã mất hết thì còn địch lại cao nhân ở Mai trang thế nào được?

Chàng nghĩ vậy liền đáp:

– Đồng đại ca đây tính ưa nói giỡn. Tại hạ bất quá như ánh đom đóm khi nào dám tranh thủ với các vị trang chúa ở Mai trang rực rỡ như ánh sáng mặt trời, mặt trăng?

Hướng Vấn Thiên cả cười nói:

– Lão đệ dĩ nhiên cần phải có mấy câu theo phép lịch sự, nếu không người ta sẽ bảo cho là hạng ngông cuồng tự đại, dưới mắt không biết đến bậc tôn trưởng.

Ngốc Bút ông dường như chẳng để vào tai những câu nói của hai người. Lão đủng đỉnh ngâm:

“Trương Húc tam bôi thảo thánh truyền”

“Thoát mạo lộ đính vương công tiên”

“Huy hào lạc chỉ như vân yến”

Rồi nói tiếp:

– Tứ đệ! Trương Húc tuy xưng là thảo thánh , một bậc thánh thần về lối chữ thảo, nhưng bao câu thơ này là của Đỗ Phủ ở trong bài “Ẩm trung bát tiên ca”. Y còn là một người trong “Ẩm trung bát tiên”, tứ đệ coi thứ bút thiếp này có thể tưởng tượng ra tình cảnh lúc y say rượu hạ bút. Trời ơi! thật là Thiên mã hành không chẳng có cương giảm chi hết không lúc nào dừng lại. Ôi! Chữ tốt đến thế này là tuyệt bút.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng rồi! Y đã thích rượu dĩ nhiên là một đại hảo nhân. Chữ y viết còn chê vào đâu được?

Ngốc Bút ông nói:

– Hàn Dũ đã phẩm bình bút pháp của Trương Húc bằng đoạn văn “Mừng giận bần cùng, lo buồn khoan khoái, oán hận nhờ thương, say sưa túy lúy. Trong lòng động mối bất bình đem phổ cả vào trong hàng chữ thảo”. Ông này cùng người trong ngô mối. H động mối bất bình là phát ra hàng chữ thảo

phỏng có khác gì vung gươm múa kiếm. Há chẳng khoái ư?

Lão lại đưa ngón tay lên không viết một hồi rồi bảo Hướng Vấn Thiên:

– Hỡi ơi! Đồng huynh mở cho ta coi một chút!

Hướng Vấn Thiên lắc đầu cười đáp:

– Sau khi tam trang chúa thủ thắng thì trương bút thiếp này là của Tam trang chúa. Hà tất phải nóng nảy ngay từ bây giờ?

Hắc Bạch Tử tính thích đánh cờ trầm ngâm suy tính mãi, chưa nghĩ đến chuyện được đã lo thua, liền hỏi:

– Giả tỷ trong Mai trang quả không có người thắng được kiếm pháp của Phong huynh thì bọn tại hạ chịu thua cuộc bằng cách nào?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Tại hạ đã nói trước là đến Mai trang không cầu một điều, chẳng xin một vật. Phong huynh đệ bất quá tìm đến chỗ võ học tuyệt đỉnh này là đê lấy bằng chứng về kiếm pháp của những tay cao thủ đương thời. Nếu may mà y thủ thắng thì bọn tại hạ lập tức trở gót lên đường, không xin các vị đặt cuộc

chi hết.

Hắc Bạch Tử nói:

– Ồ! Phong huynh đây muốn được dương danh. Một kiếm đả bại “Giang Nam tứ hữu” thì oai danh chấn động khắp võ lâm.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu đáp:

– Nhị trang chúa đoán sai rồi! Bữa nay bọn tại hạ đến Mai trang tìm bằng chứng về kiếm pháp, bất luận ai thắng ai bại mà để tiết lộ ra ngoài thì bọn tại hạ nguyện có thiên tru, địa lục và tư cách đê tiện không bằng giống chó.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Các vị thật là những nhân vật hào sảng. Gian phòng này rất rộng Phong huynh đệ tỷ thí mấy chiêu. Kiếm của Phong huynh đệ đâu?

Hướng Vấn Thiên cười đáp:

– Đã đến Mai trang ai còn dám đem binh khí?

Đan Thanh tiên sinh lớn tiếng gọi:

– Lấy hai thanh kiếm ra đây!

Bên ngoài có tiếng đáp lại rồi Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai đều cầm kiếm vào đến trước mặt Đan Thanh tiên sinh đưa lên.

Đan Thanh tiên sinh đón lấy một thanh kiếm rồi nói:

– Còn thanh kiếm kia trao cho Phong huynh đệ!

Thi Lệnh Oai dạ một tiếng rồi hay tay nâng kiếm đi tới trước mặt Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy chuyện này rất khó khăn, chàng quay lại nhìn Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tứ trang chúa ở Mai trang là bậc kiếm pháp thông thần. Phong huynh đệ! Lão đệ chỉ cần học lấy một chiêu nửa thức là dùng một đời không hết.

Lệnh Hồ Xung đứng trước tình trạng này biết rằng chẳng thể nào tránh khỏi được cuộc tỷ kiếm.

Chàng đành đưa hai tay ra đón lấy trường kiếm.

Hắc Bạch Tử vội nói:

– Tứ đệ hãy khoan! Theo lời tuyên bố của Đồng huynh thì cuộc đấu kiếm bất luận là ai trong Mai trang chúng ta cũng không thắng nổi Phong huynh. Đinh Kiên cũng biết sử kiếm và cũng là người trong Mai trang. Tưởng tứ đệ bất tất phải động thủ.

Nguyên Hắc Bạch Tử nghe Hướng Vấn Thiên nói chắc chắn là được chứ không sợ thua, thì cảm thấy vụ này khó ổn. Lão muốn Đinh Kiên ra tay trước để tỷ thí với Lệnh Hồ Xung. Lão nghĩ rằng Đinh Kiên biệt hiệu là “Nhất tự điện kiếm” nhất định kiếm pháp y không phải là tầm thường. Vả lại y

đóng vai một tên gia đinh trong trang thì dù có thất bại cũng không tổn thương đến oai danh của Mai trang. Đồng thời kiếm pháp của Phong Nhị Trung (tức Lệnh Hồ Xung) hư thực thế nào lão sẽ biết ngay.

Hồi 111

Lệnh Hồ Xung đả bại Đinh Kiên , Tứ Trang chúa

Hướng Vấn Thiên nghe Hắc Bạch Tử nói vậy liền đáp:

– Dạ dạ! Đúng thế! Bất luận là nhân vật nào trong Mai Trang cứ thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ là bọn tại hạ chịu thua ngay, không dám cãi nửa lời. Vậy không nhất định phải chính bốn vị trang chúa thân hành động thủ. Đinh huynh đây đã được bạn hữu giang hồ tặng cho ngoại hiệu “Nhất tự điện kiếm” vì chiêu kiếm của y nhanh như điện chớp, trên đời ít kẻ bì kịp.

Rồi lão quay lại bảo Lệnh Hồ Xung:

– Phong lão đệ! Lão đệ hãy lĩnh giáo Nhất tự điện kiếm Đinh huynh đi!

Đan Thanh tiên sinh vừa quẳng trường kiếm cho Đinh Kiên vừa cười nói:

– Ngươi mà thua Phong huynh đệ thì ta phạt ngươi phải uống ba bát rượu lớn đó nghe!

Đinh Kiên khom lưng đón lấy trường kiếm rồi quay về phía Lệnh Hồ Xung nói:

– Đinh mỗ xin lãnh giáo kiếm pháp của Phong gia.

Hắn rút kiếm ra khỏi vỏ đánh “soạt” một cái.

Lệnh Hồ Xung cũng rút kiếm ra, để vỏ kiếm xuống kỷ đá.

Hướng Vấn Thiên lại nói:

– Thưa ba vị trang chúa cùng Đinh huynh! Đây chỉ là một vụ chứng nghiệm kiếm pháp chứ không phải là cuộc tỷ thí nội lực…

Hắc Bạch Tử ngắt lời:

– Dĩ nhiên h ai điểm tới một cái là phải dừng lại ngay.

Hướng Vấn Thiên quay lại bảo Lệnh Hồ Xung:

– Phong lão đệ! Lão đệ không được phát huy một chút nội lực nào hết. Đây là cuộc so đọ kiếm pháp. Bên nào chiêu số tinh vi là thắng, sơ hở là bại. Môn khí công của phái Hoa Sơn đã nổi danh trong võ lâm, nếu lão đệ phải dùng đến nội lực để thủ thắng cũng kể là chúng ta bại trận đó.

Lệnh Hồ Xung cười thầm trong bụmg tự nhủ:

– Hướng đại ca đã biết mình chẳng còn mảy may nội lực, y khéo làm phách để chơi trò ú tim đối phương.

Chàng liền đáp một cách nửa ra khiêm nhượng nửa ra ỡm ờ:

– Tiểu đệ mà sử nội lực thì ba vị trang chúa đây tất phải nổi lên một tràng cười ngất đến trẹo quai hàm. Dĩ nhiên tiểu đệ không dám đâu.

Hướng Vấn Thiên lại rào đón:

– Chúng ta lặn lội đến Mai trang với tấc dạ chí thành mà lão đệ chỉ một niềm nhún nhường thái quá là thiếu l thành kính với bốn vị tiền bối đó. Tử hà thần công của phái Hoa Sơn tinh thâm hơn nội lực phái Tung Sơn ta rất nhiều, đó là một điểm ai ai cũng biết. Này Phong lão đệ! Lão dệ hãy đứng vào hai vết bàn chân ta đây, đừng có di động cặp giò để tỷ thí chiêu thức về kiếm pháp với Đinh huynh được chăng.

Dứt lời, Hướng Vấn Thiên cất bước đứng tránh sang một bên.

Trên bốn viên gạch xanh hiện ra hai vết bàn chân sâu đến hai tấc.

Nguyên lúc Hướng Vấn Thiên nói mấy câu vừa rồi, hắn đã ngấm ngầm vận nội lực ấn mạnh bàn chân xuống cho thành vết.

Bọn Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh ba người lớn tiếng hoan hô:

– Hảo công phu! Hảo công phu!

Nên biết Hướng Vấn Thiên mồm miệng nói năng hoạt bát, vẻ mặt bình thản, chỉ vận nội lực vào hai bàn chân dận xuống gạch thành vết phẳng lỳ, đã không làm sứt mẻ viên gạch, vết chân khắc xuống lại rất đều đặn, chẳng có chỗ nào nông sâu hơn kém, tựa như người dụng tâm điêu khắc tỷ mỷ.

Bọn Đan Thanh tiên sinh chỉ cho là Hướng Vấn Thiên muốn phô din nội công. Cách khoa trương tuy có vẻ nông cạn, không xứng đáng là hành vi của bậc cao nhân, nhưng thần công ghê gớm này cũng khiến cho người ta phải bội phục. Họ không hiểu hắn còn có thâm ý khác nữa.

Nguyên Hướng Vấn Thiên đã tuyên dương nội công của Lệnh Hồ Xung còn cao thâm hơn hắn.

Nội lực hắn đã đến trình độ này, mà thần công của chàng còn ghê gớm hơn, hắn gián tiếp cảnh giác đối phương lúc ra chiêu đừng có sử dụng nội lực để rước lấy cái bại nhục vào thân.

Mặt khác Lệnh Hồ Xung ngoài kiếm pháp, không còn môn sở trường nào khác. Cả về khinh công chạy nhảy, chàng cũng tầm thường. Vậy hắn bảo chàng đứng yên vào vết chân hắn để tỷ kiếm pháp cũng là cách che dấu chỗ sở đoản cho chàng.

Đinh Kiên nghe Hướng Vấn Thiên bảo Lệnh Hồ Xung đứng vào vết chân hắn để tỷ kiếm liền cho là hắn có ý khinh thị mình, nên trong lòng không khỏi phẫn nộ, nhưng y thấy công lực dậm gạch thành vết cũng ngấm ngầm khiếp sợ vì y tự biết công lực kém cỏi không bì với hắn được. Rồi y tự nhủ:

– Bọn này dám đến khiêu chiến với bốn vị trang chúa thì dĩ nhiên không phải hạng tầm thường. Ta chỉ mong giữ được thế quân bình để khỏi tổn thương oai danh Cô Sơn Mai trang là đủ.

Nguyên trước Đinh Kiên cũng là tay ngông cuồng kiêu ngạo, sau y gặp phải cường địch đẩy vào tình trạng sống không sống được, chết chẳng chết chọ Giữa lúc y bị đau khổ không bút nào tả xiết thì may gặp Giang Nam tứ hữu ra tay giải cứu thoát khỏi lao lung. Y liền quy đầu Mai trang, cam phận tôi đòi. Bao nhiêu tính kiêu ngạo hống hách ngày trước đều bỏ đi hết.

Lệnh Hồ Xung đứng vào hai vết chân rồi tủm tỉm cười nói:

– Xin mời Đinh huynh!

Đinh Kiên đáp:

– Tại hạ xin thất l.

Y vung trường kiếm ra đánh véo một tiếng.

Mọi người bỗng thấy một tia sáng như điện chớp thấp thoáng lướt qua trước mặt.

Đinh Kiên tuy quy ẩn ở Mai trang hơn mười năm, nhưng vẫn không chểnh mảng việc rèn luyện công phu ngày trước.

Còn kiếp pháp mà Lệnh Hồ Xung đã học được là “Độc cô cửu kiếm”, một thứ kiếm pháp tối cao vô thượng từ cổ chí kim. Độc cô cầu bại nhờ kiếm pháp này vùng vẫy giang hồ, xưng hùng thiên hạ.

Suốt đời lão chưa từng thua ai một trận bao giờ. Chẳng những lão không thua ai mà đến khi tuổi già, lão

chỉ mong có người chống nổi lão mười chiêu cũng không được.

Độc cô cầu bại lâm vào tình trạng anh hùng tịch mịch, phát phiền mà chết. Lão chết nhưng kiếm pháp của lão được Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung.

“Nhất tự điện kiếm” vừa phóng tới là kiếm quang vọt ra như chớp xẹt ngang trời, khiến người coi thấy phải kinh tâm động phách, trong lòng hồi hộp.

Ngày trước Đinh Kiên bị thất bại vì một tay một tên độc hành đại đạo đui mù. Đối thủ mắt chẳng nhìn thấy gì, chỉ nghe tiếng động để phân biệt phương hướng mà đánh tới. Thanh thế “Nhất tự điện kiếm” khiến cho đối phương bở vía không trổ tài được.

Bây giờ Đinh Kiên thi triển kiếm pháp này, chỉ trong giây lát làn điện quang lóe ra khắp cả sảnh đường làm chói mắt mọi người.

Đinh Kiên mới phóng một chiêu, Lệnh Hồ Xung đã nhìn thấy ba chỗ sơ hở rất lớn.

Hắn không tấn công một cách hấp tấp, chỉ vạch trường kiếm trên không luôn mấy nhát tựa hồ để tỏ lòng kính khách. Thực ra hắn cố ý khiến cho Lệnh Hồ Xung phải lóa mắt đẫn đờ, khó lòng chống chọi được những chiêu sau của hắn sắp phóng ra.

Ngờ đâu Đinh Kiên sử đến chiêu thứ năm Lệnh Hồ Xung đã nhận thấy 18 chỗ sơ hở, liền lên tiếng:

– Tại hạ đành đắc tội.

Rồi chàng đưa thanh trường kiếm phóng xéo ra.

Lúc này tay kiếm của Đinh Kiên đang lướt nhanh từ mé tả qua mé hữu. Mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung phóng ra còn cách cổ tay hắn chừng hai thước sáu tấc.

Thế kiếm của Đinh Kiên lướt như vậy là tự đưa cổ tay hắn về phía mũi kiếm đối phương. Đà kiếm đi gấp quá không tài nào đổi hướng được.

Năm người bàng quan đều là những tay cao thủ, nhìn thấy cơ nguy bất giác đồng thanh bật tiếng la:

– Coi chừng!

Hắc Bạch Tử đang cầm hai con cờ trong tay toan liệng ra đỡ thanh trường kiếm của Lệnh Hồ Xung để Đinh Kiên khỏi bị đứt taỵ Nhưng lão lại tự nghĩ:

– Nếu mình ra tay viện trợ thì thành thế hai người đánh một tức là Mai trang đã bại trận, không tiện tỷ đấu lần nữa.

Lão đang còn ngần ngừ thì cổ tay Đinh Kiên đã lướt hết quãng cách hai thước sáu tấc để tự đưa vào lưỡi kiếm của Lệnh Hồ Xung.

Thi Lệnh Oai đứng ngoài thất thanh la:

– Trời ơi!

Dè đâu trong khoảng thời gian chớp nhoáng này Lệnh Hồ Xung đã nhẹ nhàng xoay cổ tay cho lưỡi kiếm nghiêng đi. Bình diện thanh kiếm đập vào cổ tay Đinh Kiên đánh bộp một tiếng, hắn không bị tổn thương chi hết.

Đinh Kiên đứng ngẩn người ra một chút rồi mới biết là đối phương đã lưu tình trong khi hạ thủ.

Trong khoảnh khắc này, hắn nghĩ tới nếu bị chặt đứt một tay thì thành phế nhân rồi, bầt giác mồ hôi toát ra như tắm.

Hắn liền khom lưng nói:

– Đa tạ Phong đại hiệp đã nương tay.

Lệnh Hồ Xung cũng khom lưng hoàn l đáp:

– Không dám! không dám! Đây chẳng qua là Đinh huynh có ý nhân nhượng.

Bọn Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh thấy Lệnh Hồ Xung nghiêng thanh trường kiếm để Đinh Kiên khỏi bị máu chảy đương trường thì trong lòng xiết bao cảm phục.

Đan Thanh tiên sinh tự tay rót đầy chung rượu nói:

– Phong huynh đệ! Tại hạ xin kính mừng lão đệ một chung về kiếm pháp tinh kỳ.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tại hạ không dám.

Chàng đón lấy chung rượu uống.

Đan Thanh tiên sinh lại rót chung rượu thứ hai nói:

– Phong huynh đệ tâm địa nhân từ đã bảo toàn bàn tay cho Đinh Kiên, vậy tại hạ xin kính tặng lão đệ chung rượu này.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đây chẳng qua là một sự may mắn, có chi đáng kể?

Hai tay chàng bưng chung rượu lên uống.

Đan Thanh tiên sinh lại rót chung nữa rồi nói:

– Còn chung thứ ba này cả hai ta không ai được uống trước. Lão đệ cùng ta đấu chơi một cuộc, h ai thua là người ấy uống.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Nếu vậy, chung rượu này dĩ nhiên về phần tại hạ. Thôi để tại hạ uống trước đi cho rồi!

Đan Thanh tiên sinh xua tay nói:

– Không được! Lão đệ hãy khoan!

Lão đặt chung rượu xuống kỷ đá, đón lấy thanh trường kiếm của Đinh Kiên nói:

– Phong huynh đệ ra chiêu trước đi!

Lúc Lệnh Hồ Xung vừa uống rượu, chàng đã trù tính trong bụng:

– Lão này đã tự xưng: thị hiếu thứ nhất của lão là rượu, thứ nhì là tranh vẽ, thứ ba là kiếm thì nhất định kiếm pháp lão không phải tầm thường. Ta coi bức họa “Tiên nhân đồ” của lão treo trong nhà đại sảnh thấy bút pháp cũng tương tự như một đường kiếm pháp khắc trên vách đá trong hậu động ở trên núi sám hối. Kể ra kiếm pháp này rất tinh diệu, nhưng ta đã nhận biết đường lối thì cách đối phó tưởng cũng không khó lắm.

Chàng liền khom lưng thi l nói:

– Tứ trang chúa. Xin trang chúa nhẹ đòn cho, tại hạ mới dám…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Lão đệ bất tất phải khách sáo. Tiến chiêu đi!

Lệnh Hồ Xung khoan thai đáp:

– Tại hạ xin tuân mệnh!

Chàng vung kiếm lên nhằm đâm vào vai Đan Thanh tiên sinh.

Chiêu kiếm này phóng ra, thế đi xiêu vẹo, dường như không có lấy một chút nội lực, nó lại chẳng có chương pháp nào hết vì trong kiếm pháp khắp thiên hạ, chưa ai sử dụng chiêu kiểu này bao giờ.

Đan Thanh tiên sinh ngạc nhiên hỏi:

– Thế này nghĩa là làm sao?

Nên biết Đan Thanh tiên sinh là nhân vật biết nhiều hiểu rộng. Những chỗ tinh diệu về kiếm chiêu của các nhà, các phái, mười phần lão đã thông tỏ đến bảy tám. Hơn nữa Lệnh Hồ Xung là đệ tử phái Hoa Sơn, thì trong đầu óc lão đã hiện lên những đường kiếm của phái này. Ngờ đâu chàng vừa mới phóng một chiêu đã ra ngoài sự tưởng tượng của lão, trách nào lão chẳng ngạc nhiên.

Lệnh Hồ Xung được Phong Thanh Dương truyền thụ kiếm pháp ngoài môn “Độc cô cửu kiếm” độc đáo, chàng còn lĩnh hội thêm tinh nghĩa về cách dùng “vô chiêu thắng hữu chiêu”. Yếu quyết này đi đôi với “Độc cô cửu kiếm” bổ xung cho nhau. Về môn “Độc cô cửu kiếm” dù đạt đến chỗ vi diệu cực điểm nhưng vẫn còn có chiêu thức để tìm ra dấu vết. Khi Lệnh Hồ Xung học đến kiếm lý dùng “Vô chiêu thắng hữu chiêu” đem ra vận dụng liền khiến cho đối phương không biết đường nào mà mò.

Nên biết bất luận kiếm pháp nhà nào hay môn phái nào trong thiên hạ đều có chiêu số. Đã có chiêu số là có chỗ sơ hở. Còn căn bản đã không chiêu thức thì đối phương phá vào đâu được? Vì thế mà Lệnh Hồ Xung vừa phóng chiêu kiếm ra, Đan Thanh tiên sinh không khỏi ngơ ngác. Lão biết rằng nếu mình cũng phóng kiếm đỡ gạt thì đỡ gạt không trúng, nên đành lùi lại hai bước.

Lệnh Hồ Xung ra một chiêu đã bắt buộc Đinh Kiên buông kiếm chịu thuạ Hắc Bạch Tử và Ngốc Bút ông tuy miệng tán tụng kiếm pháp của chàng tinh diệu, nhưng trong lòng hai lão đều nghĩ rằng chàng đã dám đến Mai trang khiêu chiến mà không địch nổi một tên bộc dịch, tất khiến người ta cười cho thúi óc. Bây giờ hai lão thấy Đan Thanh tiên sinh bị chàng đâm một kiếm đã phải lùi lại hai bước thì trong lòng không khỏi thực tình kinh hãi.

Đan Thanh tiên sinh lùi lại hai bước rồi lại lập tức tiến lên hai bước. Lệnh Hồ Xung lại phóng kiếm ra. Lần này chàng nhằm đâm vào cạnh sườn bên tả đối phương và vẫn tiện tay phóng kiếm chẳng vào chương pháp nào hết.

Đan Thanh tiên sinh quét ngang trường kiếm để toan đỡ gạt. Nhưng lúc hai thanh trường kiếm chưa đụng nhau lão liền cảm thấy môn hộ phía dưới nách bên phải mình có chỗ sơ hở rất lớn. Nếu đối phương thừa cơ tấn công vào thì không thể cứu vãn được, nên không dám đỡ gạt.

Trong lúc nguy cấp lão lập tức biến chiêu, đẩy mạnh hai chân cho người tung lên lùi lại hơn một trượng. Miệng lớn tiếng reo:

– Hảo kiếm pháp!

Rồi lão không dừng lại chút nào, nhảy bổ tới. Cả người lẫn kiếm nhằm xô vào Lệnh Hồ Xung.

Thanh thế cực kỳ uy mãnh.

Lệnh Hồ Xung thấy khuỷu tay phải của lão lộ ra một chỗ sơ hở rất lớn liền hươi trường kiếm hớt vào khuỷu tay đối phương.

Đan Thanh tiên sinh nếu không biến chiêu cứ phóng kiếm thẳng ra tất bị lưỡi kiếm của Lệnh Hồ Xung chặt đứt khuỷu tay mặt. Khuỷu tay mặt mà bị chặt đứt thì dĩ nhiên trường kiếm của mình phải rớt xuống đất.

May ở chổ võ công lão cực kỳ tinh thục. Gặp lúc hoang mang, lão hạ thấp cổ taỵ Thanh trường kiếm đâm xuống đất. Lão liền mượn đà lăn mình đi ra xa ngoài hai trượng một cách yên ổn. Lưng lão chỉ còn cách tường vách chừng vài tấc. Nếu lão vận nội lực mạnh hơn một chút thì đà lăn này sẽ khiến cho lưng lão đập mạnh vào tường và như vậy không khỏi tổn hại đến oai phong một bậc cao nhân. Dù sao lão cũng không khỏi hoang mang và nét mặt thoáng hiện lên một màu hồng tía.

Đan Thanh tiên sinh vốn là nhân vật khoáng đạt hào sảng chứ không đến nỗi thẹn quá hóa giận như người thường. Trái lại lão bật tràng cười khanh khách, giơ ngón tay cái lên hoan hô:

– Hảo kiếm pháp!

Đoạn lão múa tít trường kiếm ra chiêu “Bạch hồng quán nhật”, tiếp theo là chiêu “Xuân phong dương liu”, rồi biến sang “Đằng giao khởi phụng”. Ba chiêu này dính liền vào như một, tưởng chừng lão chưa di động bàn chân.

Lão vừa sử xong ba chiêu thì mũi kiếm đã tới trước mặt Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung liền nghiêng kiếm đè lên sống kiếm của lão. Chàng ra chiêu này vừa đúng như in không trệch chút nào.

Lúc Đan Thanh tiên sinh phóng kiếm tới, bao nhiêu tinh thần cùng khí lực tập trung vào cả mũi kiếm, còn trên sống kiếm hững hờ chẳng có lấy một chút nội lực.

Bỗng nghe một tiếng keng nhè nhẹ. Thanh trường kiếm trong tay Đan Thanh tiên sinh phải hạ thấp xuống.

Lệnh Hồ Xung liền hất kiếm lên đâm vào trước ngực đối phương.

Đan Thanh tiên sinh bật tiếng la:

– U¨i chà!

Rồi nhảy tung sang mé tả né tránh.

Tay trái lão nắm kiếm quyết, tay phải phóng trường kiếm tấn công.

Lần này lão trực tiếp chống đối. Thanh trường kiếm vừa chém tới, miệng lão vừa la:

– Hãy coi chừng!

Lão không muốn đả thương Lệnh Hồ Xung, nhưng chiêu “Ngọc long đáo huyền” kiếm thế rất lợi hại. Nếu đối phương không tránh được thì tay kiếm lão thu về không kịp sẽ chém chàng đến bị thương thật sự.

Lệnh Hồ Xung dạ một tiếng.

Thanh trường kiếm của chàng từ dưới hất lên trên đánh chát một cái. Lưỡi kiếm của chàng đã chênh chếch dính vào lưỡi kiếm của đối phương.

Giả tỷ Đan Thanh tiên sinh vẫn thừa thế chém xuống thì lưỡi kiếm của lão chưa tới đỉnh đầu Lệnh Hồ Xung, mà thanh trường kiếm của chàng đã hớt đứt năm ngón tay cầm kiếm của lão.

Võ công của Đan Thanh tiên sinh so với Đinh Kiên còn cao thâm hơn nhiều. Lão thấy trường kiếm của đối phương trượt vào lưỡi kiếm của mình rồi hất ngược lên thì biết là chiêu này không phá giải được, lão liền phóng tay trái đánh xuống một cái thất mạnh. Luồng chưởng lực đập vào mặt đất đến ầm một tiếng. Người lão bật lùi ngược về phía sau và xa ra ngoài một trượng.

Đan Thanh tiên sinh chân chưa đứng vững đã khoanh thanh trường kiếm về phía trước vạch thành ba vòng tròn tựa hồ như ba vòng ánh sáng trắng xóa.

Ba vòng trắng này tựa hồ vật hữu hình ngưng lại trên không gian một giây rồi từ từ chuyển về phía trước Lệnh Hồ Xung.

Mấy luồng kiếm khí xoay thành vòng tròn coi tựa hồ không mãnh liệt bằng “Nhất tự điện kiếm” song kiếm khí dàn dụa đầy nhà, hàn phong ào ạt. Ai cũng cảm thấy đường kiếm pháp này thật không phải tầm thường.

Lệnh Hồ Xung hươi trường kiếm ra cho xuyên vào trong hai luồng bạch quang.

Đây là lúc lực đạo chiêu thứ nhất của Đan Thanh tiên sinh đã ra rồi mà kình lực chiêu thứ hai chưa phát ra nên mới có chỗ hở này.

Đan Thanh tiên sinh bật lên tiếng “úi chà!” lùi ra xa ba bước. Luồng kiếm khí cũng theo lão mà lùi lại. Nhưng vòng bạch quang đột nhiên co vào rồi lại rộng ra. Lúc luồng bạch quang lại rộng liền xô về phía Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung rung tay một cái phóng kiếm đâm tới.

Đan Thanh tiên sinh lại “ái” lên một tiếng rồi lùi lại.

Đan Thanh tiên sinh chợt tiến chợt lùi như vậy mỗi lúc một mau. Chỉ trong khoảnh khắc lão đã tấn công 11 chiêu và lùi lại 11 lần.

Bỗng thấy râu tóc lão dựng đứng cả lên. Luồng kiếm quang rất mạnh chiếu vào mặt lão thấy rõ bao phủ một làn thanh khí.

Lão quát lên một tiếng. Mấy chục làn bạch quang vừa lớn vừa nhỏ đồng thời xô lại đánh Lệnh Hồ Xung.

Đây là tuyệt tác về kiếm pháp của Đan Thanh tiên sinh. Mấy chục chiêu kiếm pháp lợi hại làm một. Trong mấy chục chiêu này chiêu nào cũng có chỗ tuyệt diệu và biến hóa của nó. Thế mà bao nhiêu chiêu hợp nhất thì dĩ nhiên trở nên phức tạp vô cùng! Trong đời lão khi đối địch mới dùng tới ba lần và đã thắng cả ba.

Lệnh Hồ Xung dùng cách đơn giản để chống lại chiêu số phiền phức. Thanh kiếm để trước ngực chàng phóng ra nhằm đâm thẳng vào Đan Thanh tiên sinh.

Đan Thanh tiên sinh lại một phen reo hò rồi hết sức nhảy lùi về phía sau.

“Binh” một cái! Lão đã ngồi phệt xuống kỷ đá.

Tiếp theo mấy tiếng loảng choảng vang lên. Những chung rượu đặt trên kỷ bị hất xuống đất vỡ tan tành.

Đan Thanh tiên sinh nổi lên tràng cười khanh khách nói:

– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Phong huynh đệ! Kiếm pháp của lão đệ còn cao minh hơn ta nhiều lắm! Lại đây! Ta kính mừng cho lão đệ ba chung rượu.

Hắc Bạch Tử và Ngốc Bút ông đã biết kiếm pháp của tứ đệ tuyệt cao thâm mà thấy y công kích 16 chiêu vẫn không thắng được đối phương. Mặt khác, Lệnh Hồ Xung vẫn đứng yên không dời khỏi vết chân Hướng Vấn Thiên và đã bức bách một vị trong Giang nam tứ hữu, kiếm thuật danh gia, phải lùi lại đến 17 lần. Vậy kiếm pháp chàng thật khiến cho người ta phải khiếp sợ.

Đan Thanh tiên sinh rót rượu cùng Lệnh Hồ Xung đối ẩm ba chung rồi nói:

– Trong Giang nam tứ hữu thì ta là người võ công kém nhất. Ta chịu thua lão đệ. Nhưng nhị ca, tam ca thì không chịu khuất phục. Chắc các vị đó đều muốn tỉ thí với lão đệ.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Hai ta chiết chiêu mười mấy lần mà tứ trang chúa chưa thua một chiêu nào thì sao đã gọi là thắng bại được?

Đan Thanh tiên sinh lắc đầu nói:

– Ta thua lão đệ ngay chiêu đầu. Còn 16 chiêu sau đều kể là thừa. Đại ca bảo ta chưa đủ phong độ thật không sai chút nào.

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Mặc cho đại trang chúa nói những gì phong độ với không phong độ. Tại hạ nghĩ rằng cứ tửu lượng ai cao là hay.

Đan Thanh tiên sinh phá lên cười nói:

– Phải lắm! Phải lắm! Chúng ta lại uống nữa đi!

Trước nay lão vẫn tự phụ về kiếm thuật. Thế mà bữa nay bị thua về một tay hậu bối chưa nổi tiếng cũng không tức giận chút nào. Con người khí độ khoát đạt như vậy khiến cho Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung lại càng tâm phục.

Ngốc Bút ông quay lại bảo Thi Lệnh Oai:

– Thi quản gia! Phiền quản gia lấy cây bút cùn ra đây cho ta.

Thi Lệnh Oai vâng lời đi lấy một món binh khí đem đến, hai tay dâng lên.

Lệnh Hồ Xung nhìn lại thì đây là một cây phán quan bút dài một thước sáu tấc đúc bằng thép nguyên chất. Lạ Ở chỗ đầu cây phán quan bút này lại buộc một túm lông cừu dính mực tựa hồ một cây bút dùng để viết chữ đại tự.

Những cây phán quan bút thông thường thì đầu nó dùng để điểm huyệt. Nhưng đầu cây phán quan bút của Ngốc Bút ông lại buộc túm lông cừu mềm mại mà điểm vào huyệt đạo đối phương thì làm sao khắc địch chế thắng được?

Lệnh Hồ Xung nghĩ ngay đến võ công của lão là một gia số có chỗ đặc biệt. Nội lực lão tất nhiên cực kỳ hùng hậu dù phát huy vào túm lông cừu cũng có thể đả thương người được.

Ngốc Bút ông cầm phán quan bút trong tay rồi mỉm cười hỏi:

– Phong huynh đệ! Lão đệ vẫn để hai chân vào trong vết chân kia tỷ đấu với ta chứ?

Lệnh Hồ Xung vội lùi lại hai bước khom lưng đáp:

– Vãn bối không dám. Bây giờ cùng tiền bối thỉnh giáo có đâu dám khoe khoang hợm hĩnh?

Đan Thanh tiên sinh gật đầu nói:

– Phải lắm! Lão đệ tỷ kiếm với ta thì còn đứng nguyên một chỗ được. Bây giờ tỷ thí với tam ca thì không được đâu.

Ngốc Bút ông giơ phán quan bút lên mỉm cười nói:

– Mấy đường bút pháp của ta là theo trong tấm bi thiếp của danh gia biến hóa luyện thành. Phong huynh đệ văn võ toàn tài chắc là trông thấy ngay đường bút pháp của tạ Phong huynh đệ đã là bạn tốt vậy ta không tẩm mực vào đầu bút nữa.

Lệnh Hồ Xung ngơ ngẩn một chút. Chàng nghĩ thầm trong bụng:

– Nếu ta không phải là bạn hữu thì lão thấm mực vào bút để làm gì?

Chàng không hiểu Ngốc Bút ông lúc lâm địch tẩm vào đầu bút thứ mực chế bằng mười mấy chất dược liệu đặc biệt, đã quệt vào người là vĩnh vin rửa không sạch mài không đi vì vết mực ăn sâu vào da.

Ngày trước những tay cao thủ võ lâm đối địch với Giang Nam tứ hữu đã ngán nhất là đấu với Ngốc Bút ông. Nếu không cẩn thận liền bị lão lấy mực khoanh vạch tròn hoặc vạch chéo vào mặt có khi còn viết một bài thơ vào nữa. Thế là suốt đời không dám ngó ai nữa. Chẳng thà bị chém một đao hay chặt đứt một cánh tay còn đỡ khổ hơn là bị Ngốc Bút ông bôi mực vào mặt.

Ngốc Bút ông thấy lúc Lệnh Hồ Xung động thủ cùng Đinh Kiên và Đan Thanh tiên sinh, chàng đã ra kiếm chiêu rất trung hậu nên không nỡ tẩm mực vào bút.

Lệnh Hồ Xung tuy không hiểu rõ ý kiến của lão nhưng cũng biết lão đối với mình như thế là lịch sự, liền khom lưng nói:

– Đa tạ tấm thịnh tình của tam trang chúa. vãn bối chuũ nghĩa kém cỏi, nên bút pháp của tam trang chúa vãn bối nhất định không thể hiểu được.

Hồi 112

Ngốc Bút Ông và Hắc Bạch Tử cũng thua luôn

Ngốc Bút ông ra chiều thất vọng hỏi:

– Phong huynh đệ không hiểu thư pháp ư? Được rồi! Vậy để ta giải thích cho mà nghe. Thứ bút pháp này kêu bằng “Bùi tướng quân thi”. Nguyên nó là thi thiếp của Nhan Chân Khánh biến hóa ra, cả thảy có 23 chữ. Mỗi chữ từ ba đến mười chiêu không chừng. Lão đệ lắng tai mà nghe cho rõ:

 

Bùi tướng quân!

Đại quân chế lục hợp

Mảnh tướng thanh cửu cai

Chiến mã như long hô?

Đằng lăng hà tráng tai!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Dạ! Vãn bối xin vâng lời chỉ giáo.

Song miệng chàng lẩm bẩm:

– Bất luận thi từ, thư pháp gì của lão mình cũng chẳng hiểu.

Ngốc Bút ông giơ phán quan bút lên nhằm má bên trái Lệnh Hồ Xung điểm ba chấm. Đó là ba nét chấm đầu của chữ “Bùi”.

Ba chấm này mới là hư chiêu. Ngốc Bút ông lại giơ bút lên muốn vạch từ trên xuống dưới.

Lệnh Hồ Xung liền phóng kiếm ra kiềm hãm tiên cơ đâm lẹ vào vai bên phải lão.

Ngốc Bút ông bất đắc dĩ phải xoay ngang cây bút để đỡ thì thanh trường kiếm của Lệnh Hồ Xung đã rụt về rồi.

Binh khí của hai bên chưa đụng nhau vì đó toàn là hư chiêu. Nhưng đây cũng là thức thứ nhất về bút pháp “Bùi tướng quân thi” của Ngốc Bút ông.

Ngốc Bút ông lại phóng ra thức thứ hai, Lệnh Hồ Xung thấy cây phán quan bút của lão vừa cử động, chàng không chờ cho ngọn bút phóng tới đã vung trường kiếm tấn công.

Ngốc Bút ông lại xoay bút qua thế thủ thì đồng thời Lệnh Hồ Xung cũng giật kiếm về. Thế là đệ nhị thức của Ngốc Bút ông cũng mới xử được nửa chiêu.

Ngốc Bút ông bị chàng phong tỏa mất hai thức khiến cho bút pháp đắc ý nhất của lão không tài nào sử được hoàn toàn. Lão rất lấy làm khó chịu chẳng khác gì một người viết chữ rất tốt, song vừa cất bút lên viết, thì bị một đức con nít đứng bên giữ bút kéo tay thủy chung không sao viết được một chữ toàn vẹn.

Lão nghĩ thầm:

– Mình đem đoạn đầu bài thơ Bùi tướng quân đọc cho gã nghe để gã biết đường lối bút pháp của mình mà kiềm chế mất tiên cợ Từ giờ ta không theo thứ tự bài thơ mà ra chiêu nữa.

Lão nghĩ vậy liền đưa bút lên không chấm một cái từ góc trên bên tay mặt kéo xuống đến chỗ quanh ở góc dưới mé tả. Kình lực của lão đẩy rẫy mà ngọn bút lão vạch đây là lối thảo thư về chữ “như”.

(Trong câu: “Chiến mã như long hổ”).

Lệnh Hồ Xung lại phóng trường kiếm đâm vào nách bên phải lão. Lão giật mình kinh hãi phải xoay phán quan bút đi để ngăn chặn thanh trường kiếm của đối phương.

Lệnh Hồ Xung phóng chiêu kiếm này không phải đâm lão thật sự mà chỉ là một thủ thế về tư thức.

Ngốc Bút ông mới sử được nửa chiêu. Bao nhiêu tinh thần khí lực lão tập trung vào cả trong lối thảo thư nhát bút này mà đột nhiên bút mới đưa đến giữa đường lại phải chuyển hướng. Din biến này chẳng những làm cho nét bút phải ngừng lại mà đồng thời vì luồng nội lực đổi đường khiến cho khí huyết nhộn nhạo trong huyệt Đan điền, khó chịu vô kể.

Lão thở mạnh một cái rồi múa tít cây phán quán bút muốn viết chữ “đằng”.

Nhưng cũng chỉ nửa chiêu lão đã bị Lệnh Hồ Xung tấn công phải lái bút đi để chiết giải.

Lão tức quá quát lên:

– Thằng lỏi này chỉ quấy rối!

Rồi lão sử cây phán quan bút mau lẹ hơn. Song bất luận lão biến hóa cách nào thì mỗi chữ nhiều lắm là mới viết được hai nét liền bị Lệnh Hồ Xung kiềm chế không viết tiếp được.

Ngốc Bút ông lại quát lên một tiếng thật to rồi biến hóa bút pháp. Lão không đưa nhanh như trước mà ngưng trọng cây bút thành thế tuốt kiếm giương cung.

Lệnh Hồ Xung tuy không biết đường bút pháp này của đối phương là theo thế của Trương Phi, đại tướng nhà Thục Hán, viết chữ “Bát mông sơn minh”. Nhưng chàng cũng nhận thấy đường bút này khác trước rất nhiều, chàng chẳng cần hiểu đối phương sử chiêu thức gì, cứ thấy phán quan bút của lão cử động là lại đánh vào chỗ sơ hở.

Ngốc Bút ông tức quá thét lên be bẹ Bất luận lão biến chiêu cách nào cũng chỉ sử được nửa chiêu là bị cản trở không tài nào sử hết một chiêu trọn vẹn.

Ngốc Bút ông lại biến đổi bút pháp. Lão sử lối chữ trong bài Tự Sự Thiếp của Hoài Tố. Đường bút cực kỳ phức tạp.

Lão nghĩ bụng:

– Lối thảo của Hoài Tố đã khó nhận ra. Ta còn thâu thêm vào lối chữ thảo này thì chắc thằng lỏi không tài nào nhận ra lối đại thảo trên thanh kiếm mà biết đường đón đỡ.

Lão không hiểu Lệnh Hồ Xung chẳng những mù tịt chữ thảo mà ngay lối chân phương chàng cũng chẳng biết mấy. Lão cho là lúc trước sở dĩ kiềm chế được mình vì chàng tài đoán mò đường bút của lão. Thực ra Lệnh Hồ Xung chỉ trông thấy chỗ nào sơ hở về đường kiếm là công kíck để phá lão mà thôi.

Cả lối đại thảo này của Ngốc Bút ông mỗi chiêu lão cũng chỉ sử được nửa chừng. Mối uất hận trong lòng lão chứa chất mỗi lúc một nhiều.

Đột nhiên lão la lớn:

– Thèm vào không đánh nữa!

Rồi lão nhảy vọt ra lùi lại phía sau. Đoạn lão hăm hở xách thùng rượu của Đan Thanh tiên sinh lên đổ xuống đất thành một vũng lớn.

Ngốc Bút ông dầm ngọn bút vào trong vũng rượu viết lên tường bài “Bùi tướng quân thi”. Cả 23 chữ bút pháp đều rất tinh thâm. Nhất là chữ “như” tưởng chừng muốn phá bức vách bay đi.

Ngốc Bút ông viết xong thở phào một cái nhẹ nhõm rồi nổi lên tràng cười khoái trá.

Lão nghẹo đầu nghẹo cổ thưởng ngoạn những chữ đại tự đỏ như máu vừa viết lên vách. Miệng trầm trồ khen ngợi:

– Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Thư pháp của ta bình sinh chưa có bức nào tuyệt như bức này.

Ngốc Bút ông càng ngắm nghía càng lấy làm đắc ý. Lão nói:

– Nhị ca! Căn kỳ thất này nhị ca để lại cho tiểu đệ Ở vì tiểu đệ không thể nào rời được bức chữ này. Tiểu đệ còn e rằng từ đây trở đi không bao giờ lại có dịp viết tốt được như bữa nay.

Hắc Bạch Tử nói:

– Được lắm! Gian phòng này của tiểu huynh ngoài cái bàn thờ chẳng có thứ gì mới được. Dù tam đệ không ở thì ta cũng bỏ đi vì hiện giờ ngươi đã viết bức đại tự rồng bay phượng múa vào vách thì ta còn tĩnh tâm để nghĩ cờ thế nào được?

Ngốc Bút ông tiếp tục nghẹo đầu nghẹo cổ tự ca ngợi:

– Dù là Nhan Lỗ Công phục sinh vị tất đã viết được hay như bức này.

Lão quay lại nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Phong huynh đệ! Nhờ lão đệ nung nấu lòng ta đầy bút ý không nơi phát tiết mà đột nhiên đầu ngón tay bật nội lực xô ra viết nên một kiệt tác chưa từng có từ hồi khai thiên lập địa. Kiếm pháp của lão đệ tinh diệu thì thư pháp của ta cũng tuyệt hảo. Như thế kêu bằng mỗi người có một sở trường riêng chẳng ai thua ai. Cuộc tỷ đấu này bất phân thắng bại.

Hướng Vấn Thiên lặp lại:

– Dạ chính thế! Mỗi người có một sở trường riêng, bất phân thắng bại.

Đan Thanh tiên sinh xen vào:

– Còn điểm nữa mà tam ca chưa nói đến là nhờ thứ rượu tuyệt hảo của tiểu đệ.

Hắc Bạch Tử nói:

– Tam đệ ta tính tình chất phác mà say mê thư pháp như kẻ điên khùng. Say mê đến độ tỷ thí thua rồi cũng không chịu nhận.

Hướng Vấn Thiên giải thích:

– Tại hạ đã hiểu lầm! Bọn tại hạ đánh cuộc chỉ nói là trong Mai trang không có người nào thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ. Dù hai bên bất phân thắng bại thì vụ đánh cuộc này bọn tại hạ cũng không thua.

Hắc Bạch Tử gật đầu nói:

– Đúng thế!

Lão thò tay vào gầm kỷ đá kéo ra một tấm thiết bản hình vuông. tấm thiết bản này nhỏ hơn bàn cờ một chút. Trên mặt thiết bản có vạch 19 đường bàn cờ. Nguyên nó là một tấm bàn cờ đúc bằng sắt.

Hắc Bạch Tử cầm góc bàn cờ sắt giơ lên nói:

– Phong huynh đệ! Ta dùng cái bàn cờ này làm khí giới để lãnh giáo mấy cao chiêu của lão đệ.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ nghe nói tấm bàn cờ này là một báu vật của nhị trang chúa, nó thu hút được mọi loại khí giới và ám khí.

Hắc Bạch Tử giương mắt lên nhìn Hướng Vấn Thiên một hồi rồi nói:

– Đồng huynh quả là một tay hiểu rộng nhớ dai. Ta mến phục vô cùng! Thực ra thứ binh khí này có phải là báu vật gì đâu? Nó có pha chất đá nam châm dùng để hút những thứ chế bằng sắt. Ngày trước ở trên thuyền cũng như ở trên lưng ngựa ta cùng người đánh cờ, dù bị lúc lắc, đường bàn cờ vẫn không rối loạn.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Té ra là thế!

Lệnh Hồ Xung nghe nói nghĩ bụng:

– May mà Hướng đại ca biết đường chỉ giáo không thì thanh trường kiếm của ta rất d bị bàn cờ của lão thu hút. Như vậy lão chẳng cần đánh mình cũng phải thuạ Lúc ta đối địch với lão phải rất thận trọng không để bàn cờ đụng vào trường kiếm.

Chàng liền vung kiếm lên nói:

– Xin nhị trang chúa chỉ điểm cho.

Hắc Bạch Tử đáp:

– Không dám! Kiếm pháp Phong huynh đệ rất cao thâm. Bình sinh ta chưa thấy ai bằng. Mời lão đệ tiến chiêu đi.

Lệnh Hồ Xung tiện tay quét một hư chiêu. Thanh trường kiếm của chàng vòng vèo ở trên không lao về phía trước.

Hắc Bạch Tử ngơ ngác tự hỏi:

– Đây là chiêu số gì?

Lão thấy mũi kiếm đâm về phía cổ họng mình liền vung bàn cờ lên đón.

Lệnh Hồ Xung liền xoay mũi kiếm đâm qua vai bên tả lão.

Hắc Bạch Tử lại đưa bàn cờ lên gạt. Lệnh Hồ Xung không chờ cho mũi kiếm đâm tới đã rụt về rồi đâm vào bụng dưới lão.

Hắc Bạch Tử lại đưa bàn cờ xuống gạt, lão nghĩ bụng:

– Nếu mình không phản kích thì tranh tiên thế nào được?

Đánh cờ cần nhất nước tranh tiên. Tỷ võ cũng cần ra tay trước. Hắc Bạch Tử đã tinh thâm kỳ lý dĩ nhiên thâm hiểu đạo tranh tiên. Lão giơ bàn cờ lên đập vào vai bên tả Lệnh Hồ Xung.

Chiếc bàn cờ này vuông hai thước dầy một tấc, là một thứ khí giới rất trầm trọng.

Bàn cờ đúc bằng thứ sắt đen, nặng hơn sắt thường nhiều. Nếu để nó đụng vào trường kiếm thì dù chẳng có chất nam châm hút sắt, trường kiếm cũng bị nó đập gãy.

Lệnh Hồ Xung hơi nghiêng mình đi, phóng kiếm đâm vào nách đối phương.

Nguyên Hắc Bạch Tử tấn công theo bình diện, lão thấy đồi phương phóng kiếm đâm xéo tới, dù là chiêu kiếm chẳng vào lề lối nào, song chỗ bị tấn công cần phải đối phó. Lão liền đưa bàn cờ chênh chếch đi để gạt trường kiếm. Đồng thời lão phóng về phía trước ra chiêu “Đại phi”.

Chiêu này vừa thủ vừa công. Dù Lệnh Hồ Xung có đối phó được thì những chiêu sau lại ồ ạt xô tới.

Ngờ đâu chàng bỏ mặc chẳng lý gì tới. Thanh trường kiếm vẫn phóng chênh chếch tiếp tục tấn công. Chiêu “Đại phi” của Hắc Bạch Tử có tác dụng vừa thủ vừa công nên hiệu lực của nó chỉ có một nửa. Bàn cờ mà quét ngang thì chỉ còn lại thế thủ.

Lệnh Hồ Xung liên tiếp phóng ra dư 40 chiêu khiến cho Hắc Bạch Tử phải ngăn tả đón hữu, chống đỡ trước sau. Lão thủ thế rất kín đáo tưởng chừng nước cũng không chảy vào được. Hai người đã chiết giải ngoài 40 chiêu mà Hắc Bạch Tử toàn giữ thế thủ, không phản kích được lần nào.

Bọn Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh, Đinh Kiên, Thi Lệnh Oai thấy vậy không khỏi trợn mắt há miệng. Kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung đã không mau lẹ lại chẳng có chi là mãnh liệt lợi hại. Lúc biến chiêu cũng chẳng có chỗ nào biến ảo ly kỳ, nhưng mỗi nhát đâm ra đều khiến cho Hắc Bạch Tử phải đỡ tả chống hữu, không thể bỏ được chỗ sơ hở.

Nên biết bất luận tay cao thủ nào đã động thủ tỷ võ với người, lúc ra chiêu số tất có chỗ sơ hở, nhưng đã tranh tiên được một bước để đánh vào chỗ yếu hại đối phương thì chỗ sơ hở của mình không còn là sơ hở nữa. Dù cho đến hàng trăm hàng ngàn chỗ sơ hở cũng chẳng đáng ngại.

Hắc Bạch Tử động thủ cùng Lệnh Hồ Xung, mỗi lần lão cử động bàn cờ là mũi kiếm của đối phương lại trỏ ngay vào chỗ sơ hở của lão. Lão cũng là một bậc đại sư về võ học, vừa thấy mũi kiếm của đối phương trỏ vào đâu liền tiên liệu được hậu quả do mũi kiếm đâm tới.

Trong bốn mươi mấy chiêu này, Lệnh Hồ Xung tấn công rất rát khiến cho lão không rảnh tay để phản kích được lấy nửa chiêu, chẳng khác cuộc đấu cờ với một tay cao thủ. Đấu cờ mà sút một chút là như người bị trói chân cột tay, bốn mươi mấy chiêu tỷ như bốn mươi mấy nước cờ mà nước nào cũng bị đối phương chiếm mất ưu thế, tức là thế bí.

Hắc Bạch Tử thấy đại cục đã rõ liền tự nhủ:

– Nếu còn kéo dài tình trạng này thì dù có đấu đến 200 chiêu nữa mình cũng lâm vào cục diện bị đánh mà không phản kích được.

Miệng lão lẩm bẩm:

– Nếu không mạo hiểm để thắng một đòn thì oai danh Hắc Bạch Tử này sẽ trôi theo dòng nước.

Lão liền quét ngang bàn cờ rồi vung lẹ đánh ra nhằm đập xuống vai bên tả Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung vẫn không tránh né. Thanh trường kiếm của chàng trước định đâm vào bụng dưới đối phương, nhưng Hắc Bạch Tử lại không thu bàn cờ về để che đỡ, vẫn tiếp tục phóng tới tựa hồ quyết ý liều mạng gây cuộc lưỡng bại câu thương.

Lúc thanh trường kiếm của Lệnh Hồ Xung đâm tới, lão đưa ngón tay trỏ và ngón tay giữa bên trái ra định cắp lấy sóng kiếm.

Nguyên Hắc Bạch Tử đã luyện thần công “Huyền thiên chỉ”. Hai ngón tay lão vận nội lực vào lợi hại chẳng kém chi một thứ khí giới.

Năm người bàng quang thấy Hắc Bạch Tử mạo hiểm như vậy đều bật tiếng la:

– U¨i chà!

Ai nấy đều hiểu cách đánh này không còn là tỷ thí để biết tài cao thấp mà là cuộc đấu sinh tử.

Nếu lão không cặp trúng sóng kiếm tất bị mũi kiếm đâm vào bụng.

Trong khoảng thời gian chớp nhoáng này cả năm người cùng hồi hộp trong lòng, tay ướt đầm mồ hôi.

Mọi người thấy hai ngón tay của Hắc Bạch Tử sắp chạm vào sóng kiếm. Trúng hay không chưa kể, thế nào cũng có một người bị trọng thương hay bị mất mạng. Nếu cặp trúng thanh trường kiếm của Lệnh Hồ Xung không phóng tới được nữa mà chàng sẽ bị bàn cờ đập trúng lưng không còn cách nào tránh được. Bằng cặp không trúng hay cặp trúng mà lực lượng hai ngón tay không đủ giữ yên được thế kiếm, thanh trường kiếm tiếp tục đâm về phía trước thì khi đó Hắc Bạch Tử có muốn lùi lại cũng không kịp nữa.

Nhưng hai ngón tay của Hắc Bạch Tử chưa đụng đến sóng kiếm thì thanh trường kiếm lại đưa lên nhằm đâm vào cổ họng Hắc Bạch Tử.

Cách biến chiêu này ra ngoài sự tiên liệu của mọi người, vì từ cổ chí kim trong võ học, chưa bao giờ có chiêu thức như vậy.

Trong trường hợp này din ra thì chiêu kiếm đâm vào bụng dưới lúc trước chỉ là hư chiêu. Những tay cao thủ tỷ đấu mà dùng hư chiêu này thì chẳng khác chi trò trẻ nít.

Chiêu thức tuy không có ở trong kiếm lý mà Lệnh Hồ Xung sử ra mới kỳ.

Thanh kiếm đưa lẹ lên trên nhằm đâm cổ họng đối phương.

Nếu bàn cờ của Hắc Bạch Tử tiếp tục đập xuống thì nhất định mũi kiếm sẽ đâm thủng cổ họng lão.

Hắc Bạch Tử giật mình khinh hãi. Lão vận động hết sức bình sinh vào tay phải giữ bàn cờ đứng yên lại. Lão là người hiểu lẽ đấu cờ, chấn động tâm linh, hiểu được tâm ý đối phương, tự nhủ:

– Nếu ta dừng bàn cờ lại không đập xuống thì tất nhiên gã cũng không phóng trường kiếm tới nữa.

Quả nhiên Lệnh Hồ Xung không thấy bàn cờ của đối phương tiếp tục tấn công, chàng cũng dừng kiếm lại. Mũi kiếm chỉ còn cách cổ họng đối phương chừng một tấc mà bàn cờ còn cách lưng chàng không đầy hai tấc.

Hai người nhìn nhau giữ thế cương trì, da thịt toàn thân không mảy may rung động.

Lúc này hai người không nhúc nhích mà bọn bàng quang nhìn rõ tình trạng còn nguy hiểm hơn là lúc kịch đấu. Cục diện tuy vào thế giằng co mà thực ra Lệnh Hồ Xung đã chiếm được thượng phong toàn diện.

Nên biết bàn cờ là một vật rất nặng. Nó ở trên cao cách hai thước mà hết sức đập xuống thì mới đả thương được đối phương. Bây giờ chỉ còn cách lưng Lệnh Hồ Xung có hai tấc thì sức mạnh đến đâu đập xuống cũng không đả thương chàng được. Còn Lệnh Hồ Xung chỉ khẽ đưa thanh trường kiếm là giết chết được đối phương ngaỵ Tình thế ưu liệt của hai bên thật là rõ rệt.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Bên này không dám tranh tiên bên kia cũng không dám tranh tiên. Theo kỳ lý là thế “Song hoạt”.

Nhị trang chúa là bậc đại trí đại dũng đấu với Phong huynh đệ bất phân thắng bại.

Lệnh Hồ Xung thu kiếm về, lùi lại hai bước khom lưng nói:

– Tại hạ cam bề đắc tội.

Hắc Bạch Tử tủm tỉm cười bảo Hướng Vấn Thiên:

– Đồng huynh khéo nói giỡn. Sao lại không phân thắng bại? Kiếm thuật của Phong huynh đệ tuyệt đối tinh thâm. Tại hạ thua liểng xiểng rồi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Nhị ca! Tài dùng con cờ làm ám khí của nhị ca là một tuyệt kỹ trong võ lâm, 361 con cờ vừa đen vừa trắng h liệng ra là không ai tránh được. Sao nhị ca không thử xem công phu phá ám khí của Phong huynh đệ thế nào?

Hắc Bạch Tử động tâm, nhưng lão thấy Hướng Vấn Thiên lẩm nhẩm gật đầu quay sang ngó Lệnh Hồ Xung mà chàng cứ thản nhiên không tỏ vẻ xúc động thì nghĩ thầm:

– Kiếm pháp gã này cao thâm đến trình độ suốt đời mình cũng chưa thấy ai bì kịp. Trên đời hiện nay e rằng chỉ có người đó là thắng được gã. Mình coi vẻ mặt bọn chúng vẫn bình tĩnh chẳng có ý lo ngại chút nào. Nếu còn phóng ám khí ra chỉ tổ lòi thêm cái dở của mình.

Lão liền lắc đầu đáp:

– Tại hạ đã nhận thua rồi thì còn tỷ ám khí làm chi nữa?

Ngốc Bút ông lại nhớ đến bức bút thiếp của Trương Húc liền hỏi:

– Đồng huynh! Đồng huynh lại mở bức bút thiếp cho tại hạ coi nữa đi.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười đáp:

– Hãy chờ đại trang chúa thắng được Phong lão đệ rồi, bức thiếp đó sẽ thuộc quyền sở hữu của tam trang chúa. Khi đó dù tam trang chúa có coi suốt ba ngày ba đêm cũng là quyền của mình.

Ngốc Bút ông nói:

– Tại hạ phải coi đến bảy ngày nảy đêm liền mới vừa.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Được rồi! Tam trang chúa sẽ coi bảy ngày bảy đêm chứ sao.

Ngốc Bút ông nóng ruột nói:

– Nhị ca! Tiểu đệ đi mời đại ca động thủ, nên chăng?

Hắc Bạch Tử đáp:

– Hai ngươi ở lại đây tiếp khách để ta đi mời đại ca cho.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phải đấy! Phải đấy! Phong huynh đệ! Chúng ta lại uống rượu nữa. Hỡi ôi! Thùng rượu ngon này bị tam ca đổ ra mất nhiều rồi.

Lão nói xong rót rượu ra chung.

Hắc Bạch Tử trở gót ra ngoài rồi. Ngốc Bút ông tức mình hỏi:

– Cái gì mà rượu ngon của ngươi bị ta đổ đi mất nhiều? Rượu uống vào bụng rồi thành nước tiểu đái ra. Còn rượu thấm bút viết lên vách ngàn đời không hủ. Nhờ có thư pháp của ta mà rượu đê tiếng thơm muôn thưở. Vì có người coi thư pháp của ta mới biết trên đời có thứ rượu đỏ Thổ lồ phồn của ngươi.

Đan Thanh tiên sinh nâng chung rượu lên nhìn vào bức vách nói:

– Bức vách ơi là bức vách! Đời ngươi thật là may mắn được nếm thứ rượu ngon của tứ thái gia này. Dù không có tam ca ta viết chữ vào mặt ngươi. Ngươi, ngươi… ngươi cũng muôn đời không hủ nát.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– So với bức vách vô tri vô giác, vãn bối còn may hơn nhiều.

Chàng nói xong cất chung rượu lên uống một hơi cạn hết.

Hướng Vấn Thiên ngồi bên chỉ bồi tiếp hai chén rồi dừng lại không uống nữa.

Đan Thanh tiên sinh và Lệnh Hồ Xung tiếp tục uống hoài, càng uống càng cao hứng.

Hai người uống đến 17, 18 chung rồi mới thấy Hắc Bạch Tử trở ra nói:

– Phong huynh đệ! Đại ca ta mời lão đệ hãy lưu bộ. Đồng huynh ngồi đây uống thêm mấy chén nữa được chăng?

Câu này hiển nhiên đại trang chúa chỉ tiếp một mình Lệnh Hồ Xung.

Hướng Vấn Thiên kinh ngạc nghĩ thầm:

– Lệnh Hồ huynh đệ nhỏ tuổi chưa đủ kiến thức. Để một mình y vào tỷ võ e rằng sẽ lỡ việc.

Nhưng nhị trang chúa đã nói vậy, chẳng lẽ mình cũng đòi đi.

Lão liền buông một tiếng thở dài đáp:

– Tại hạ vô duyên không được bái kiến đại trang chúa. Thật là một điều hối tiếc suốt đời.

Hắc Bạch Tử nói:

– Xin Đồng huynh min trách. Đại ca ta ẩn cư đã lâu không tiếp kiến ai cả. Vì nghe nói kiếm thuật của Phong huynh đệ tuyệt thế vô song, người đem lòng ngưỡng mộ nên mới mời vào ra mắt. Tuyệt nhiên

không phải có ý bất kính Đồng huynh.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ không dám.

Lệnh Hồ Xung đặt kiếm xuống kỷ đá đi theo Hắc Bạch Tử ra khỏi kỳ thất, xuyên qua dãy hành lang đến trước một cái cổng tò vò.

Hồi 113

Đại Trang chúa cũng chịu thất bại

Trên tường cổng có hai chữ đại tự “Cầm tâm” bằng đá thủy tinh mầu lam. Nét bút rất già dặn cứng cáp. Đúng là thủ bút của Ngốc Bút ông.

Vào qua cổng là một con đường hoa thanh u tịch mịch, hai bên trúc rậm xanh om. Đường hoa trải đá trứng ngỗng đã phủ đầy rêu xanh. Hiển nhiên ngày thường rất ít người qua lại.

Đi hết con đường này thì đến trước ba gian thạch thất. Trước sau thạch thất đều trồng một rặng tùng bảy tám cây cao ngất. Bóng cây tỏa ra bốn mặt âm u.

Hắc Bạch Tử đẩy cửa nhẹ nhàng, khẽ bảo Lệnh Hồ Xung:

– Mời Phong huynh đệ vào đi!

Lệnh Hồ Xung vừa bước chân qua cửa đã ngửi mùi đàn hương ngào ngạt.

Hắc Bạch Tử lên tiếng:

– Thưa đại ca! Phong huynh đệ Ở phái Hoa Sơn đã tới.

Một lão già từ trong nội thất đi ra chắp tay nói:

– Phong huynh đệ giá lâm tệ trang, lão phu không ra xa đón tiếp được. Xin Phong huynh đệ tha thứ cho.

Lệnh Hồ Xung thấy lão này vào trạc sáu, bảy chục tuổi, gầy như que củi. Da mặt đều lõm cả vào, trông chẳng khác chiếc đầu lâu. Song cặp mắt loang loáng tỏ ra tinh thần quắc thước. Chàng khom lưng thi lễ đáp:

– Vãn bối đường đột đến đây thật là mạo muội. Mong tiền bối tha tội cho.

Lão già nói:

– Phong huynh dậy quá lời!

Hắc Bạch Tử nói:

– Đại ca tại hạ đạo hiệu là Hoàng Chung Công, chắc Phong huynh cũng nghe tiếng rồi.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối ngưỡng mộ đại danh bốn vị trang chúa từ lâu. Bữa nay được bái kiến tôn nhan thật là vạn hạnh.

Lòng chàng rất đỗi băn khoăn, tự nghĩ:

– Hướng đại ca thật là lắm chuyện ỡm ờ. Y không dặn ta trước và chỉ bảo nhất thiết nghe y xếp đặt. Bây giờ y không có ở bên mình ta, nếu đại trang chúa đây đưa ra vấn đề nan giải thì biết ứng đối cách nào cho đặng?

Hoàng Chung Công hỏi:

– Lão phu nghe nói Phong huynh là truyền nhân của Phong lão tiên sinh, một vị tiền bối phái Hoa Sơn kiếm thuật thông thần. Lão phu rất đem lòng ngưỡng mộ Phong lão tiên sinh về nhân phẩm cũng như về võ công, đáng tiếc chưa được hội diện lần nào. Trước đây ít lâu trên chốn giang hồ có tiếng đồn Phong lão tiên sinh đã xa chơi tiên cảnh, lão phu rất đỗi đau thương. Bữa nay được gặp truyền nhân chính thống của Phong lão tiên sinh cũng được an ủi phần lớn chí nguyện bình sinh. Không hiểu Phong huynh có phải là con cháu Phong lão tiên sinh không?

Lệnh Hồ Xung lấy làm khó nghĩ bụng bảo dạ:

– Phong thái sư thúc tổ đã ân cần dặn ta không được tiết lộ hành tung của lão nhân gia. Lão nhân gia truyền thụ kiếm pháp cho ta, không hiểu tại sao Hướng đại ca biết được? Y vào đây để diệu võ dương oai bảo ta họ Phong, khó lòng tránh khỏi ý định lừa bịp. Nếu bây giờ ta nói thực ra thiệt cũng khó ổn.

Chàng đành hàm hồ đáp cho xong chuyện.

– Vãn bối là đệ tử thuộc hàng hậu bối của lão nhân gia. Vì tư chất ngu muội, vãn bối thụ giáo được có ít ngày thành ra kiếm pháp của lão nhân gia mười phần chưa hiểu được một hai.

Hoàng Chung Công thở dài nói:

– Nếu Phong huynh đệ thực tình mới học được hai phần mười kiếm pháp của lão nhân gia mà đã đánh bại được cả ba vị huynh đệ của lão phu thì kiếm thuật của Phong lão tiên sinh thật cao thâm không biết đến đâu mà lường!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ba vị trang chúa cùng vãn bối mới chỉ qua lại hời hợt mấy chiêu chưa phân thắng bại đã dừng tay rồi.

Hoàng Chung Công gật đầu. Bộ mặt túm da bọc xương lộ ra một tia cười, cất tiếng khen ngợi:

– Con người tuổi trẻ đã không kiêu ngạo lại không nóng nảy thật là khó kiếm.

Lão thấy Lệnh Hồ Xung cứ đứng hoài liền mời:

– Phong huynh hãy ngồi xuống ghế nói chuyện.

Lệnh Hồ Xung cùng Hắc Bạch Tử vừa an vị thì một tên đồng tử để tóc trái đào bưng lên ba chén trà xanh.

Hoàng Chung Công nói:

– Lão phu nghe nói Phong huynh có bộ cầm phổ kêu bằng “Tiếu ngạo giang hồ khúc” tinh vi ảo diệu hiếm có trên đời. Chuyện đó có thật chăng? Lão phu tính thích âm nhạc. Trong những cổ phổ chưa thấy có khúc đàn này bao giờ.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Bộ cầm phổ này do người mới đây đặt ra.

Chàng nghĩ thầm:

– Hướng đại ca bịa chuyện huyên thuyên lừa bịp được bọn họ. Ta xem bốn vị trang chúa ở Cô Sơn Mai Trang này đều không phải người tầm thường. Nếu y đưa mình đến cầu họ trị bệnh thì việc gì phải bày ra lắm chuyện rắc rối như vậy? Ngày trước hai vị tiền bối Lưu Chính Phong và Khúc Dương giao cầm phổ này vào tay ta là vì hai vị đó sợ công trình hao phí bao nhiêu tâm huyết sẽ bị mai một ở nhân gian. Nay đại trang chúa đây đã ham mê âm nhạc, vậy mình cứ lấy cho lão coi.

Chàng liền thò tay vào bọc móc lấy cầm phổ, rời khỏi chỗ ngồi hai tay đưa lên nói:

– Mời đại trang chúa coi đi!

Hoàng Chung Công nghiêng mình đón lấy rồi hỏi:

– Đây là tác phẩm của một nhân vật cận đại ư? Lão phu ẩn cư đã lâu hủ lậu hẹp hòi, nên không biết trên đời vừa trổ ra một vị âm nhạc đại sư.

Lão nói câu này tỏ ra có ý không tin.

Hoàng Chung Công lật trang thứ nhất ra vừa coi vừa nói:

– Ô! Đây là khúc nhạc cầm tiêu hợp tấu. Chà! Khúc này tài quá nhỉ!

Lão coi một lúc rồi sắc mặt biến đổi.

Hoàng Chung Công vừa lật cầm phổ coi, vừa bật năm ngón tay trái xuống bàn như kiểu gảy đàn.

Lão coi được hai trang rồi ngẩng đầu lên ngơ ngẩn xuất thần, miệng lẩm bẩm tự nói một mình:

– Khúc đàn này biến sang điệu “giốc”, điệu “chủy”, một cách gấp rút thế này mà tấu được ư?

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói vậy liền đáp:

– Quả thiệt có người tấu được đó.

Hoàng Chung Công cặp mắt trợn ngược lên hỏi lại:

– Sao Phong huynh biết có người tấu được? Phong huynh cũng biết dạo đàn chăng?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Dĩ nhiên vãn bối không biết gảy đàn, mà đã được nghe hai người tấu rồi. Người thứ nhất hợp tấu với một vị thổi tiêu. Hai vị đó đã soạn ra khúc “Tiếu ngạo giang hồ” này.

Hoàng Chung Công hỏi:

– Còn một vị nữa gảy được là ai?

Lệnh Hồ Xung thấy lão hỏi đến Doanh Doanh ngực chàng lại nóng bừng, chàng đáp:

– Vị thứ hai này là một người đàn bà.

Hoàng Chung Công ngơ ngác hỏi:

– Đàn bà ư? Người đó… đã bao nhiêu tuổi?

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Doanh Doanh rất căm phẫn kẻ nào nói vắng mặt là nàng có quen biết với mình. Vậy mình không thể để cho Hoàng Chung Công biết rõ.

Nghĩ vậy chàng liền đáp:

– Vị đó thực tình đã bao nhiêu tuổi, vãn bối không được hiểu rõ. Ban đầu vãn bối gặp y kêu bằng “bà bà”.

Hoàng Chung Công “ủa” lên một tiếng rồi hỏi:

– Phong huynh đệ kêu y bằng bà bà ư? Vậy y là một bà già hay sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Khi ấy vãn bối nghe y gảy đàn phía sau bức rèm, không được nhìn rõ mặt. Chắc y là một bà lão già.

Lệnh Hồ Xung nhớ tới Doanh Doanh đã giả làm một bà già và dọc đường chàng cứ kêu y bằng bà bà hoài, bây giờ không biết y ở đâu.

Chàng vừa cười thầm trong bụng và tâm thần nảy ra mối bâng khuâng khôn tả.

Hoàng Chung Công nhìn ra ngoài cửa sổ ngơ ngẩn xuất thần hồi lâu rồi vẻ mặt đăm chiêu hỏi:

– Vị bà bà gảy đàn có hay lắm không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Y tấu rất haỵ Sau y còn dạy vãn bối gảy đàn, đáng tiếc là vãn bối chẳng học được khúc nào hết.

Hoàng Chung Công vội hỏi:

– Bà dạy Phong huynh đệ đờn khúc gì?

Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:

– Nếu mình nói là khúc “Thanh tâm phổ thiện trú” thì không khéo lão đoán được là Doanh Doanh mất.

Chàng liền đáp:

– Vãn bối bản tính lơ đnh về âm nhạc, chẳng những quên khúc điệu mà cũng chẳng nhớ tên là khúc gì nữa.

Hoàng Chung Công lẩm bẩm một mình:

– Chắc không phải y rồi. Có lý đâu còn sống ở nhân gian được.

Lão lại hỏi:

– Hiện vị bà bà ấy ở đâu?

Lệnh Hồ Xung thở dài đáp:

– Nến vãn bối mà biết thì còn nói gì nữa? Một hôm trời tối rồi, vãn bối mê man bất tỉnh rồi y bỏ đi.

Từ đó không hiểu y đi về phương nào?

Hoàng Chung Công đứng phắt dậy hỏi:

– Phong huynh đệ bảo một buổi tối y đột nhiên ly khai Phong huynh đệ rồi sau đi đâu không biết nữa ư?

Lệnh Hồ Xung vẻ mặt buồn thảm gật đầu.

Hắc Bạch Tử từ nãy đến giờ không lên tiếng. Lão thấy Hoàng Chung Công ra vẻ bâng khuâng, sợ lão mắc phải bệnh cũ liền nói ngay:

– Phong huynh đệ đây cùng một vị Đồng huynh phái Tung Sơn tới đây nói là trong Mai trang có người thắng được kiếm pháp của Phong huynh đê…

Hoàng Chung Công ngắt lời:

– Hừ! Chắc phải có người thắng được kiếm pháp của y, y mới chịu đưa bộ cầm phổ “Tiếu ngạo giang hồ” khúc cho ta sao lục, có đúng thế không?

Hắc Bạch Tử đáp:

– Đúng thế. Nếu đại ca không xuất mã thì Cô Sơn Mai trang chúng ta…

Hoàng Chung Công nở một nụ cười thê lương nói tiếp:

– Ba vị lão đệ đã không thắng được thì ta cũng chẳng ăn thua.

Hắc Bạch Tử nói:

– Bọn tiểu đệ so với đại ca thế nào được?

Hoàng Chung Công nói:

– Ta đã già rồi thì còn làm gì được nữa?

Lệnh Hồ Xung đứng dậy hai tay nâng bộ cầm phổ kính cẩn đưa lên nói:

– Bảo kiếm để tặng người hiệp sĩ. Người soạn ra cầm phổ này lúc trao cho vãn bối có ân cần dặn lại là tìm đến một bậc cao sĩ chuyên về âm nhạc để kính tặng, khiến giai phẩm của hai vị đó đã lao tâm soạn ra khỏi bị thất truyền. Đại trang chúa đạo hiệu là Hoàng Chung Công dĩ nhiên là một bậc cao thủ về môn âm nhạc. Vậy từ nay trở đi, thiên cầm phổ này thuộc quyền sở hữu của đại trang chúa.

Hoàng Chung Công và Hắc Bạch Tử đều rất đỗi ngạc nhiên.

Hắc Bạch Tử lúc trước ở trong kỳ thất Hướng Vấn Thiên ra chiều khó khăn khiến người ta phải nóng lòng. Bây giờ lão không ngờ anh chàng Phong Nhị Trung này lại khẳng khái tặng ngaỵ Nhưng lão là tay chuyên đấu kỳ liền nghĩ ngay tới Lệnh Hồ Xung có cử động này hẳn là bố trí thế hiểm gì đây để dẫn dụ Hoàng Chung Công mắc bẫy. Nhưng trong lúc nhất thời lão chưa khám phá ra được chàng có chỗ nào trá ngụy.

Hoàng Chung Công không tiện đón lấy, lão nói:

– Không có công trạng đâu lại hưởng lộc? Giữa Phong huynh đệ và ta vốn không quen biết khi nào dám nhận hậu l của Phong huynh đệ? Hai vị tới tệ trang có điều chi tư giáo, xin thành thực nói cho nghe.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Hướng đại ca tới Mai trang có dụng ý gì mà trước khi đến đây y chẳng hở môi nửa lời. Theo chỗ ta phỏng đoán thì có lẽ mục đích đến Mai trang là để cầu bốn vị trang chúa trị thương cho tạ Nhưng cách sắp đặt của y chỗ nào cũng cực kỳ thần mật. Phải chăng bốn vị trang chúa này đều là những nhân vật hành động khác lạ, đứng riêng một đường lối, nên y không thể nói rõ được? Mặt khác Hướng đại ca có mưu cầu sự gì ở đây ta cũng không haỵ Vậy ta nói thẳng cũng không phải là có ý khinh mạn người.

Nghĩ vậy chàng liền đáp:

– Vãn bối theo Đồng đại ca đến bảo trang, thực tình mà nói thì trước khi vào đây vãn bối chưa được nghe đại danh bốn vị trang chúa và cũng không biết ở đời lại có các vị Ở Cô Sơn Mai trang…

Chàng ngừng lại môt chút rồi tiếp:

– Đó chẳng qua vì vãn bối là kẻ hủ lậu hẹp hòi nên không được biết tới các vị cao nhân tiền bối trong võ lâm. Xin hai vị min trách cho.

Chàng nói gỡ câu này tỏ ra danh hiệu Mai trang chẳng phải không lừng lẫy khắp nơi mà chỉ vì chàng thực tình hiểu biết nông cạn.

Hoàng Chung Công liếc mắt ngó Hắc Bạch Tử, trên môi lộ ra một nụ cười, lão nói:

– Lời Phong huynh đệ đây rất chân thành, lão phu xin đa tạ. Chính lão phu cũng lấy làm kỳ là bốn anh em mình ẩn cư tại Lâm An, trên chốn giang hồ ít người biết tới. Giữa Ngũ nhạc kiếm phái và anh em lão phu lại chẳng có liên quan gì mà sao các vị lại tìm tới đây? Như vậy là Phong huynh đệ quả tình không biết gì đến lai lịch của bốn anh em lão phu!

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối vô cùng hổ thẹn, mong rằng hai vị trang chúa thông cảm và chỉ giáo chọ Vừa rồi vãn bối thốt lời ngưỡng mộ đại danh bốn vị trang chúa từ lâu… Thực ra… Thực ra…

Chàng ngập ngừng không biết nói gì nữa, thì Hoàng Chung Công đã gật đầu hỏi ngay:

– Bộ cầm phổ này Phong huynh đệ thành tâm cho lão phu ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng thế!

Hoàng Chung Công lại hỏi:

– Lão phu muốn hỏi Phong huynh đệ một câu nữa là lão đệ thực tình chịu lời ủy thác của ai đem tặng cầm phổ này cho lão phu?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Cầm phổ này chính người soạn ra nó đã trao cho vãn bối và chỉ căn dặn tìm người xứng đáng mà kính tặng, chứ không chỉ định rõ nhân vật nào. Đại trang chúa đã là người tri âm, vãn bối mừng bộ cầm phổ này đã tìm được chủ nhân xứng đáng.

Hoàng Chung Công ồ lên một tiếng, nét mặt khô đét thoáng lộ vẻ mừng vui.

Hắc Bạch Tử nói:

– Phong lão đệ trao tặng cầm phổ này cho đại ca liệu Đồng huynh có chịu không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Hai bức thư họa kia là của Đồng đại ca, vãn bối không biết đến. Còn bộ cầm phổ này là của riêng vãn bối, chắc y chẳng phản đối làm chi.

Hắc Bạch Tử nói:

– Té ra là thế.

Hoàng Chung Công nói:

– Phong huynh đệ đã có lòng tốt, lão phu rất đỗi cảm ơn nhưng Phong lão đệ đã có lời nói trước là muốn cho trong bản trang có người thắng được kiếm pháp của lão đệ. Vậy lão phu không thể chiếm lấy phần tiện nghi này mà chẳng thỏa mãn tâm nguyện của lão đệ. Bây giờ chúng ta hãy tỷ đấu mấy chiêu nên chăng?

Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:

– Mình vừa nghe nhị trang chúa đã nói “Bọn tiểu đệ so bì với đại ca thế nào được?”. Thế thì võ công đại trang chúa tất nhiên còn cao thâm hơn ba vị kia nhiều. Võ công ba vị trang chúa kia đã vào hạng trác tuyệt, ta hoàn toàn trông vào kiếm pháp của Phong thái sư thúc tổ truyền cho mới chiếm được chút thượng phong. Nếu mình lại giao thủ với đại trang chúa chưa chắc nắm được phần thắng thì tội gì mà tự rước lấy cái nhục vào mình? Dù có thắng được lão nữa cũng chẳng lợi gì.

Chàng nghĩ vậy liền đáp:

– Đó chẳng qua là Đồng đại ca trong lúc nhất thời hiếu sự mà thôi. Y nói vậy thật khiến cho vãn bối hổ thẹn vô cùng! Bốn vị trang chúa không phiền trách về tội ngông cuồng của vãn bối đã cảm kích muôn phần! Khi nào còn dám giao thủ với đại trang chúa nữa?

Hoàng Chung Công nói:

– Lão đệ quả là người rất tốt. Nhưng chúng ta cứ tỷ thí mấy chiêu, h điểm tới là thôi, cũng chẳng can hệ gì?

Lão quay lại lấy ống ngọc tiêu trên vách đá đồng thời cầm lấy cây dao cầm đặt ở trên ghế. Lão đưa ngọc tiêu cho Lệnh Hồ Xung nói:

– Lão đệ dùng ngọc tiêu làm kiếm, còn lão phu lấy cây dao cầm để làm binh khí.

Lão tủm tỉm cười nói tiếp:

– Hai thứ nhạc khí này của lão phu chẳng dám nói là có giá trị liên thành, song thực ra nó là những vật khó kiếm trên đời, không nên để nó bị phá vỡ. Chúng ta chỉ dùng nó để ra chiêu thức tương tự mà thôi.

Lệnh Hồ Xung đành đón lấy ngọc tiêu. Ống tiêu này toàn thân màu xanh biếc mà là một thứ ngọc thượng hảo. Gần chỗ đặt miệng thổi có mấy chấm vân đỏ tươi như máu, khiến màu biếc ngọc tiêu càng rực rỡ.

Hoàng Chung Công cầm cây dao cầm rất cũ kỹ. Nó là một cổ vật đến mấy trăm năm hoặc ngàn năm không chừng. Hai thứ nhạc khí này chỉ khẽ đụng nhau cũng đủ vỡ tan, dĩ nhiên không thể dùng để chiến đấu thực sự.

Lệnh Hồ Xung thấy không còn cách nào từ khước được, đành đưa hai tay cầm ngang cây ngọc tiêu nói:

– Xin đại trang chúa chỉ điểm cho.

Hoàng Chung Công nói:

– Phong lão tiên sinh là bậc kiếm hào nổi tiếng một đời. Kiếm pháp của lão tiên sinh truyền thụ không phải tầm thường. Mời Phong lão đệ ra chiêu đi.

Lệnh Hồ Xung vung ống tiêu lên một cách nhẹ nhàng. Gió thổi qua lỗ tiêu phát ra thành một điệu âm nhạc nhu hòa.

Hoàng Chung Công tay phải bật vào dây đàn mấy cái. Tiếng đàn vang lên. Lão vung cán cây đàn lên nhằm đẩy về phía vai bên hữu Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung vừa nghe tiếng đàn đã thấy tâm thần hơi bị chấn động. Chàng cầm ngọc tiêu từ từ điểm tới nhằm vào huyệt tiểu hải ở sau khuỷu tay Hoàng Chung Công.

Nếu cây dao cầm không đánh tới nữa thì chẳng nói làm chi, bằng lão tiếp tục đập tới vai Lệnh Hồ Xung thì huyệt đạo ở cổ tay tất nhiên cũng bị điểm trúng.

Hoàng Chung Công vội xoay cây dao cầm rồi lại nhằm Lệnh Hồ Xung đánh tới. Lúc cây đàn phóng ra, dây đàn cũng phát thanh âm.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Nếu mình dùng ngọc tiêu để gạt thì cả hai cây nhạc khí đều hư hại. Lão vì tiếc nhạc khí nhất định phải rụt cây đàn về. Nhưng cách đánh như vậy tỏ ra mình là kẻ vô lại.

Chàng liền chuyển cây ngọc tiêu theo đường cánh cung điểm vào huyệt Thiên toàn dưới nách đối phương.

Hoàng Chung Công giơ đàn lên gạt, Lệnh Hồ Xung liền rút ngay tiêu về.

Hoàng Chung Công lại nẩy mấy tiếng đàn nhịp điệu cấp bách.

Hắc Bạch Tử đã hơi thay đổi sắc mặt, lão phải xoay mình lùi khỏi nhà, xoay tay khép cửa lại.

Nguyên cây dao cầm phát thanh không phải là khúc nhạc nhàn hạ, trong tiếng đàn đã vận nội lực thượng thừa vào để làm rối loạn tâm thần đối phương. Nội lực đối phương vì tiếng đàn phát động mà bị kiềm chế một cách bất ngờ. Tiếng đàn khoan thai thì đối phương ra chiêu thong thả. Tiếng đàn dồn dập thì đối phương lại ra chiêu cấp bách. Còn chính Hoàng Chung Công lại ra chiêu số trái ngược hẳn với tiếng đàn. Tay lão ra tay mau lẹ bao nhiêu thì tiếng đàn khoan thai bấy nhiêu. Như vậy đối phương lâm vào tình thế không thể chống đỡ được.

Phương pháp dùng cầm âm hòa lẫn được với võ công là đã đi đến một trình độ võ học tối cao.

Nếu nó cao đến độ chót thì không cần phải ra chiêu, chỉ một tiếng đàn cũng đủ làm cho địch nhân tán loạn tâm thần, lộn ngược kinh mạch biến thành kẻ điên khùng rồi hôn mê đi mà chết.

Tuyệt kỷ của Hoàng Chung Công tuy chưa đến được tới trình độ này, nhưng lão vừa dùng tiếng đàn vừa phóng cầm chiêu thì võ thuật đối phương có thắng lão gấp mười cũng chỉ trong vòng mấy chiêu là chẳng khỏi bị lão kiềm chế. Đến lúc tối hậu cũng bị thất bại mà thôi.

Hắc Bạch Tử hiểu rõ môn công phu ghê gớm này của Hoàng Chung Công. Lão sợ nội lực mình bị tổn thương nên phải lùi ra ngoài cửa.

Hắc Bạch Tử đứng bên ngoài cách lần ván cửa vẫn còn nghe văng vẳng tiếng đàn. Tiếng đàn lúc thong thả lúc dồn dập, lúc im bặt.

Bỗng nghe đánh “keng” một tiếng vang lên, lão nghĩ bụng:

– Phong lão đệ là người nhân hậu. Y ra chiêu với ba anh em ta, thủy chung chưa làm cho ai phải khó chịu chút nào. Bây giờ đại ca dùng phép “Thất huyền vô hình kiếm” để tỷ đấu với y thì nhất định làm cho y bị trọng thương. Đó là một điều đáng tiếc nhưng nếu không đưa môn công phu này ra thì trong Mai trang chắc chẳng còn ai thắng được y nữa. Khi đó Giang Nam tứ hữu bị hạ về một tên thiếu niên hậu bối thủ hạ phái Hoa Sơn, cũng chẳng thể chịu được. Ta chỉ hy vọng đại ca đừng đánh chết y là xong.

Bỗng nghe tiếng đàn mỗi lúc một cấp bách. Tiếng đàn lọt qua ván cửa ra ngoài. Hắc Bạch Tử cảm thấy khí huyết nhộn nhạo khó chịu khôn tả. Lão đứng ngoài mà không chống chọi được nữa phải lùi ra tới cửa lớn rồi đóng sập lại. Đã cách hai tầng cửa, tiếng đàn hầu như không nghe thấy nữa, nhưng thỉnh thoảng mấy tiếng lên bổng lọt ra ngoài vẫn làm cho trái tim lão đập thình thình.

Hắc Bạch Tử đứng ở ngoài cửa hồi lâu thủy chung vẫn vẳng nghe tiếng đàn chưa dứt thì trong lòng không khỏi kinh dị, nghĩ thầm:

– Phong huynh đệ kiếm pháp cực cao, nội lực mới ghê gớm đến thế! “Thất huyền vô hình kiếm” của đại ca tấn công đã bấy lâu mà y vẫn còn chống chọi được ư? Ta e rằng y càng gắng gượng thì thân thể bị tổn thương càng tệ hại. Nếu nhân đó mà y phải chết thì chúng ta không khỏi ân hận suốt đời.

Giữa lúc Hắc Bạch Tử đang lo lắng bỗng nghe sau lưng có tiếng chân người bước đi tới. Lão ngoảnh đầu lại coi thì chính là Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh hai người sóng vai đi tới.

Đan Thanh tiên sinh khẽ cất tiếng hỏi:

– Hiện tình thế nào?

Hắc Bạch Tử đáp:

– Hai bên tỷ đấu đã khá lâu mà chàng thiếu niên vẫn còn gượng chống đỡ. Tiểu huynh đang lo đại ca làm tổn thương đến mạng y.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Tiểu đệ vào thỉnh cầu đại ca không nên sát hại người tốt đó.

Hắc Bạch Tử lắc đầu nói:

– Không vào được đâu…

Giữa lúc ấy tiếng đàn bật lên hai tiếng choang choang.

Những tiếng đàn mãnh liệt khiến cho ba người phải lùi ra một bước.

Tiếng đàn vang lên năm lần. Ba người không tự chủ được lùi thêm năm bước.

Ngốc Bút ông sắc mặt lợt lạt một lúc rồi định thần lại nói:

– Đại ca đã luyện thành kiếm pháp vô hình “Lục đỉnh khai sơn” rồi. Sáu tiếng đàn mãnh liệt liên tục nổi lên thì tấm thân huyết nhục của gã họ Phong chống lại làm sao được?

Lão chưa dứt lời lại nghe một tiếng choang rất lớn vang lên.

Sau tiếng choang là một tiếng “bực” tỏ ra dây đàn đứt rồi. Tiếng “bực” lại rất mạnh dường như mấy dây đều đứt hết.

Bọn Hắc Bạch Tử giật mình kinh hãi đẩy cửa lớn chạy tới rồi lại đẩy cửa nội thất ngó vào thì thấy Hoàng Chung Công đứng thộn mặt ra chẳng nói năng gì. Cây dao cầm trong tay lão, cả bảy đều bị đứt hết rủ xuống bên bàn.

Lệnh Hồ Xung tay cầm ngọc tiêu đứng bên khom lưng nói:

– Vãn bối cam bề đắc tội.

Hiển nhiên phần thất bại cuộc tỷ đấu này đã về phần Hoàng Chung Công.

Hồi 114

Giang Nam Tứ Hữu cử người tái đấu

Bọn Hắc Bạch Tử ba người kinh hãi vô cùng vì họ biết nội lực Hoàng Chung Công đứng vào số nhất số nhị trong võ lâm. Trước khi lão qui ẩn đã ít gặp tay địch thủ. Trải qua mười mấy năm lão khổ công tu luyện nội lực càng tiến bộ phi thường. Thế thì ai còn ngờ được lão lại thất bại về tay một chàng thiếu niên hậu bối phái Hoa Sơn? Nếu không phải chuyện mục kích mà chỉ nghe nói thì thật khó có thể tin được.

Hoàng Chung Công nhăn nhó cười nói:

– Kiếm pháp của Phong huynh đệ đây tinh diệu đến trình độ suốt đời lão phu hiếm thấy. Nhất là nội lực thâm hậu phi thường càng khiến cho lão phu kính phục vô cùng! Lão phu cứ tưởng chiêu “Lục đỉnh khai sơn” trong “Thất huyền vô hình kiếm” của mình hiện nay đã thành vô địch, ngờ đâu nó chỉ là một trò con nít dưới bàn tay Phong huynh đệ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối phải gắng gượng chống đỡ, may được tiền bối nương tay cho rất nhiều.

Hoàng Chung Công buông tiếng thở dài ngồi thừ người ra, vẻ mặt lão xiết đỗi thê lương, vì lão cảm giác bao năm khổ luyện mà thành vô dụng. Lòng lão chán nản đến cực điểm.

Lệnh Hồ Xung thấy Hoàng Chung Công thiểu não như vậy, lòng chàng xiết nỗi băn khoăn, nghĩ thầm:

– Tuy Hướng đại ca dường như có ý không muốn đem việc ta đã mất hết nội lực nói cho bọn này hiểu để họ khỏi trông thấy chỗ ta bị thương trầm trọng phải đến cầu họ cứu trị và có thể sinh điều trở ngại. Nhưng bậc đại trượng phu phải hành động quang minh lỗi lạc, ta không nên chiếm phần tiện nghi của người.

Chàng nghĩ vậy liền nói:

– Đại trang chúa! Có điều vãn bối cần nói rõ là sở dĩ vãn bối không sợ tiếng đàn của đại trang chúa phát ra kiếm khí chẳng phải vì nội lực vãn bối cao cường mà trái lại vì lẽ trong người vãn bối không còn một chút nội lực nào.

Hoàng Chung Công sửng sốt đứng dậy hỏi ngay:

– Sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối bị thương nhiều lần, nội lực mất hết nên tiếng đàn của đại trang chúa không đưa cảm ứng vào được.

Hoàng Chung Công ngơ ngác hỏi:

– Thật thế ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Nếu đại trang chúa không tin lời vãn bối thì cứ cầm mạch coi sẽ rõ.

Chàng vừa nói vừa đưa tay phải ra. Hoàng Chung Công cùng Hắc Bạch Tử rất lấy làm kỳ, nghĩ bụng:

– Gã này tới Mai trang tuy không rõ ràng là thù nghịch nhưng chung qui vẫn không phải vì lòng tử tế mà sao gã dám thản nhiên đưa tay rả Như vậy phỏng có khác gì đem tính mạng trao vào tay người?

Giả tỷ mình mượn cơ hội cầm mạch mà nắm lấy huyệt đạo trên cổ tay gã thì dù gã có bản lãnh nghiêng trời cũng đành thúc thủ mặc mình muốn giết muốn mổ thế nào cũng được.

Vừa rồi Hoàng Chung Công đã phát huy thần kỷ “Lục đỉnh khai sơn” chẳng những không làm gì được Lệnh Hồ Xung mà lúc tối hậu, cả bảy dây đàn cùng bật tiếng vang, lão đã vận động nội lực đến đọ chót khiến bảy dây đàn đều đứt hết. Lão bị cuộc thất bại sâu cay này dù sao vẫn chẳng cam lòng, bụng bảo dạ:

– Dù người có dẫn dụ cho ta thò tay ra để rồi phản phúc nắm lấy huyệt đạo thì cũng đưa đến cuộc tỷ đấu nội lực là cùng.

Lão liền thò tay mặt ra từ từ nắm lấy uyển mạch tay phải Lệnh Hồ Xung.

Lúc lão đưa tay đã ngấm ngầm bố trí “hổ trảo cầm nã thủ”, “long trảo công”, “tiểu thập bát nã” là ba thứ cầm nã thủ pháp thượng thặng. Bất luận đối phương biến chiêu thế nào cũng không nắm trúng được cổ tay lão để hòng kiềm chế.

Không ngờ Hoàng Chung Công đặt năm ngón tay lên cổ tay Lệnh Hồ Xung, chàng vẫn để yên không cử động, tuyệt không có ý gì thừa cơ phản kích.

Hoàng Chung Công rất đỗi kinh dị vì thấy mạch lạc Lệnh Hồ Xung suy nhược vô cùng. Mạch đi chậm chạp thưa thớt, đúng là người mất hết nội lực.

Lão ngẩn người ra một chút rồi bất giác nổi lên tràng cười khanh khách nói:

– Té ra là thế! Té ra là thế! Lão phu mắc bẫy lão đệ rồi! Lão phu mắc bẫy lão đệ rồi!

Miệng lão nói là mình mắc bẫy mà tinh thần lão tỏ ra rất sung sướng.

Nên biết “Thất huyền vô hình kiếm” là một loại võ công cực kỳ cao thâm. Đã đem nó ra sử dụng được dĩ nhiên đối thủ phải là kẻ sĩ rất cao minh về võ học. Còn phần nội cường mạnh không cần phải nói cũng biết là ghê gớm đến thế nào! Nội lực đối phương càng cường mạnh thì sự phản ứng của tiếng đàn càng ghê gớm!

Ai ngờ đâu Lệnh Hồ Xung không còn mảy may nội lực, thậm chí “Thất huyền vô hình kiếm” đối với chàng thành ra vô dụng.

Hoàng Chung Công sau cuộc đại bại đã chán nản hết chỗ nói. Bây giờ lão hiểu lý do thất bại của mình chẳng phải vì tuyệt kỹ không hiệu nghiệm, dĩ nhiên lão mừng như phát điên không sao nhẫn nại được. Lão nắm lấy cổ tay Lệnh Hồ Xung mà giật, mà lắc vừa cười vừa nói:

– Hảo bằng hữu! Sao lão đệ lại đem điều bí mật này nói cho lão phu hay?

Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Nội lực vãn bối đã mất hết mà vừa rồi tỷ kiếm phải dấu diếm là trong lòng còn có ý bất lương, nhưng chẳng lẽ lại dối trá đến cùng?

Hoàng Chung Công vuốt râu cả cười nói:

– Lão đệ nói vậy thì môn “Thất huyền vô hình kiếm” của lão phu không phải là phế vật. Lão phu chỉ sợ “Thất huyền vô hình kiếm” biến thành “Đoạn huyền vô dụng” mà thôi.

Hắc Bạch Tử bỗng xen vào:

– Phong huynh đệ! Lão đệ thành thực nói ra, anh em ta đều cảm kích, nhưng lão đệ không nghĩ đến tiết lộ nhược điểm mà anh em ta muốn hạ sát lão đệ thật d như trở bàn tay ư? Kiếm pháp của lão đệ tuy cao cường nhưng không nội lực thì chẳng thể nào chống chọi được với chúng ta.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Lời nhị trang chúa rất đúng! Có điều vãn bối đã biết bốn vị trang chúa đây đều là bậc anh hùng hào kiệt nên mới nói rõ chân tình.

Y¨ chàng nói đã là anh hùng hào kiệt thì khi nào lại nhân lúc người ta gặp nguy hiểm mà hạ thủ?

Hoàng Chung Công gật đầu nói:

– Phải lắm! Phải lắm! Phong lão đệ! Lão đệ đến tệ trang có mục đích gì cứ nói thẳng còn ngần ngại chi nữa? Bốn anh em ta với lão đệ tuy mới gặp nhau một lần mà tình đồng cố cựu. Chúng ta làm được tới đâu nhất định giúp lão đệ tới đó.

Hắc Bạch Tử nói:

– Lão đệ đã bị mất hết nội lực tất là mình bị trọng thương. Tại hạ có người bạn thâm giao, y thuật thông thần. Nhưng tính y rất quái dị không chịu chữa bệnh cho người một cách d dàng. Có điều y nể mặt tại hạ, nhất định sẽ vui lòng chữa cho lão đệ.

Ngốc Bút ông nói theo:

– Lão sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ đó đối với nhị ca ta…

Lão chưa dứt lời Lệnh Hồ Xung đã la lên:

– Bình Nhất Chỉ đại phu ư?

Hắc Bạch Tử đáp:

– Chính thị! lão đệ cũng nghe danh y rồi phải không?

Lệnh Hồ Xung buồn rầu đáp:

– Bình đại phu đã qua đời trên đỉnh Ngũ Bá Cương tỉnh Sơn Đông mấy tháng trước rồi.

Hắc Bạch Tử la lên:

– Trời ơi! Y… y chết rồi ư?

Đan Thanh tiên sinh hỏi:

– Bệnh gì y cũng chữa khỏi, sao y lại không chữa khỏi cho mình được? Hay y bị kẻ thù sát hại chăng?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu. Cái chết của Bình Nhất Chỉ khiến chàng áy náy vô cùng. Chàng đáp:

– Bình đại phu lúc lâm tử đã cầm mạch cho vãn bối và nói là nội thương của vãn bối rất đỗi kỳ dị.

Thực tình y không chữa được.

Hắc Bạch Tử nghe tin Bình Nhất Chỉ chết thì thương cảm vô cùng. Lão ngồi thừ người lẳng lặng không nói gì. Bất giác đôi dòng lệ nhỏ.

Hoàng Chung Công trầm tư một lúc rồi nói:

– Phong huynh đệ! Lão phu trỏ cho lão đệ con đường này nhưng người ta có chịu lời hay không thì chưa thể biết được. Lão phu viết một phong thư cho lão đệ cầm đến ra mắt chưởng môn phái Thiếu Lâm là Phương Chứng đại sự Nếu lão chịu đem nội công tuyệt kỹ “Dịch Cân Kinh” của phái Thiếu Lâm truyền thụ cho thì lão đệ có cơ hội phục hồi nội lực. Dịch Cân Kinh là một môn huyền bí của phái Thiếu Lâm, nhưng ngày trước Phương Chứng đại sư có thiếu lão phu một món nhân tình, may ra đại sư nể mặt lão phu mà truyền Dịch Cân Kinh lại cho lão đệ cũng chưa biết chừng.

Lệnh Hồ Xung nghe hai lão một giới thiệu Bình Nhất Chỉ và một chỉ điểm đi cầu Phương Chứng đại sư, đều là những nơi rất đích đáng, đủ tỏ hai vị trang chúa chẳng những kiến thức cao siêu mà đối với chàng bằng cả một tấm lòng nhiệt thành.

Chàng cảm kích vô cùng đáp:

– Dịch Cân Kinh là môn thần kỹ Phương Chứng đại sư chỉ truyền cho đệ tử bản môn. Vả vãn bối cũng không tiện vào làm môn hạ phái Thiếu Lâm thì thật là một vấn đề khó giải quyết. Hảo ý của bốn vị trang chúa khiến vãn bối cảm kích vô cùng. Vãn bối còn sống ngày nào xin ghi nhớ ngày đó. Con người sống hay chết có số mạng. Nội thương trong mình vãn bối chẳng có chi khẩn yếu để bốn vị phải quan tâm. Vãn bối xin cáo từ.

Hoàng Chung Công nói:

– Khoan đã!

Lão trở gót đi vào nội thất lấy ra một cái bình sứ nói:

– Đây là hai viên thuốc mà ngày trước tiên sư đã ban chọ Thuốc này vừa bồi bổ gân cốt vừa trị thương rất hiệu nghiệm. Ta tặng cho lão đệ để dải lòng tri ngộ, lão đệ đừng từ chối.

Lệnh Hồ Xung thấy cái bình đậy nắp gỗ cũ kỹ thì biết là di vật của sư phụ lão trân quí vô cùng, chàng vội đáp:

– Đây là tứ vật của tôn sư tiền bối , vãn bối không dám bái lãnh.

Hoàng Chung Công thở dài nói:

– Bốn anh em ta tuyệt tích giang hồ không cùng người ngoài tranh đấu thì dù là thánh dược trị thương cũng chẳng để làm gì. Chúng ta lại không có con. Lão đệ mà từ chối thì hai viên thuốc này chỉ còn đường bỏ vào quan tài.

Lệnh Hồ Xung thấy lão nói bằng một giọng thê lương đành trịnh trọng cảm ơn đón lấy thuốc rồi cáo từ ra cửa.

Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh dẫn chàng về kỳ thất.

Hướng Vấn Thiên thấy bốn người đều lộ vẻ nghiêm trọng thì biết ngay Lệnh Hồ Xung đã tỷ kiếm với đại trang chúa và phần thắng lại đến với chàng.

Giả tỷ mà đại trang chúa đắc thắng thì Hắc Bạch Tử còn có thể giữ vẻ thản nhiên, nhưng Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh nhất định hớn hở tươi cười ra mặt và gặp Hướng Vấn Thiên lập tức đòi lấy tấm bút thiếp của Trương Húc cùng bức tranh sơn thủy của Phạm Khoan.

Hướng Vấn Thiên là tay xét đoán lòng người rất giỏi, tuy hắn biết rõ Lệnh Hồ Xung đắc thắng, vẫn giả vờ hỏi:

– Phong huynh đệ! Lão đệ đã được đại trang chúa chỉ điểm kiếm pháp chưa?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Công lực đại trang chúa cao thâm khôn lường, nhưng gặp phải tiểu đệ nội lực mất hết thành ra công lực của tiền bối phát huy vào cây dao cầm không cảm ứng đến tiểu đệ. Chuyện bất ngờ trong thiên hạ đến thế là cùng!

Đan Thanh tiên sinh trợn mắt lên nhìn Hướng Vấn Thiên nói:

– Phong huynh đệ đây là con người thành thực, chẳng dấu diếm điều chi hết. Đồng huynh lại bảo nội lực y cao thâm hơn Đồng huynh nhiều, nên đại ca ta mắc hỡm.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Khi Phong huynh đệ chưa mất hết nội lực thì thực tình y cao thâm hơn tại hạ nhiều. Tại hạ nói đó là ngày trước chứ không phải hiện nay.

Ngốc Bút ông hừ một tiếng rồi nói:

– Đồng huynh là con người khó chơi lắm!

Hướng Vấn Thiên chắp tay nhìn Hắc Bạch Tử nói:

– Trong Mai trang đã không ai thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ, vậy bọn tại hạ xin cáo từ.

Đoạn hắn quay lại bảo Lệnh Hồ Xung:

– Chúng ta đi thôi!

Lệnh Hồ Xung chắp tay khom lưng nói:

– Tình cao nghĩa cả của bốn vị trang chúa khiến cho vãn bối cảm kích vô cùng. Sau này nếu có cơ hội sẽ xin đến bái kiến.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong lão đệ! Bất luận lúc nào lão đệ muốn uống rượu thì cứ việc đến đây. Còn Đồng huynh kia ha ha!…

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Tửu lượng tại hạ kém lắm, dĩ nhiên không dám đến làm phiền tứ trang chúa.

Hắn dứt lời chắp tay bái biệt lần nữa rồi dắt Lệnh Hồ Xung ra đi.

Bọn Hắc Bạch Tử đưa chân hai người.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Xin ba vị trang chúa lưu bộ, bất tất phải tin chân.

Ngốc Bút ông nói:

– Ha ha! Đồng huynh tưởng bọn ta đưa chân mình đấy ư? Bọn ta có tin là tin Phong huynh đệ, chứ Đồng huynh mà tới đây một mình thì bọn ta không đưa chân nửa bước đâu.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Té ra là thế!

Bọn Hắc Bạch Tử tin chân ra tận cổng ngoài mời cùng Lệnh Hồ Xung trân trọng từ biệt. Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh mắt lừ lừ nhìn Hướng Vấn Thiên, dường như bực mình chưa lôi được cái bọc trên lưng hắn lại.

Hướng Vấn Thiên dắt tay Lệnh Hồ Xung đi vào rặng liu âm u, rời xa Mai trang rồi cười hỏi:

– Đại trang chúa pháp huy “Vô hình kiếm khí” vào cây đờn rất là lợi hại. Lão đệ làm thế nào mà thủ thắng được y vậy?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Té ra đại ca đã biết cả rồi. May ở chỗ nội lực của tiểu đệ đã mất hết. Nếu không thì lúc nãy e rằng tính mạng tiểu đệ cũng không còn nữa. Đại ca! Đại ca có thù hằn gì với bốn vị trang chúa vậy?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Có thù gì đâu? Tiểu huynh cũng chưa từng gặp họ bao giờ, làm gì mà nên thù?

Bỗng có tiếng người la:

– Đồng huynh! Phong huynh! Hai vị hãy quay trở lại đã!

Lệnh Hồ Xung quay lại thấy bóng người lướt rất nhanh đi tới trước mặt. Chính là Đan Thanh tiên sinh. Trong tay y cầm một bát rượu gần đầy. Y chạy nhanh như vậy mà rượu không rớt ra ngoài đủ tỏ khinh công y trên đời hiếm có. Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Tứ trang chúa lật đật rượt theo có điều chi dạy bảo?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong lão đệ! Ta có nửa bình Trúc Diệp Thanh cất đã hơn trăm năm. Lão đệ mà không nếm thử thì thật là đáng tiếc.

Y nói xong cầm bát rượu đưa tới. Lệnh Hồ Xung đón lấy bát rượu thấy màu xanh biếc như ngọc Phí thúy nhìn không thấy đáy. Rượu bốc mùi thơm cực kỳ thuần hậu thì khen rằng:

– Quả là thứ rượu rất quí!

Chàng uống một hớp lại ca tụng một tiếng.

– Ngon quá!

Chàng uống liền bốn hớp hết trơn bát rượu rồi nói:

– Rượu này mới uống nhẹ nhàng và sau lại rất đậm đà. Chắc là do một nhà nổi tiếng ở Trấn Giang đất Dương Châu đã cất thành.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng đó! Đây là của một vị đại hòa thượng chùa Kim Sơn ở Trấn Giang đã tặng cho tạ Trong chùa có cả thảy sáu bảy bình kêu bằng vật báu trấn tự của chùa Kim Sơn. Phong lão đệ! Ta còn mấy thứ rượu ngon, mời lão đệ phẩm bình được không?

Lệnh Hồ Xung một là có rất nhiều hảo cảm với Giang Nam tứ hữu, chỉ muốn thân cận, hai là được uống rượu ngon, dĩ nhiên chàng thích lắm, liền đưa mắt hỏi ý Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Lão đệ! Tứ trang chúa mời lão đệ uống rượu, vậy lão đệ hãy trở lại đi! Còn tiểu huynh đây Tam trang chúa và Tứ trang chúa nhìn mặt chỉ thêm bực mình. Vậy tiểu huynh… ha ha… ha ha…

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Ta bực mình với Đồng huynh bao giờ? Vào cả đi! Vào cả đi! Đồng huynh đã là hảo hữu với Phong lão đệ thì cũng là hảo hữu của chúng ta chứ sao?

Hướng Vấn Thiên toan từ chối, nhưng Đan Thanh tiên sinh một tay dắt Lệnh Hồ Xung còn một tay kéo lão cười, nói:

– Đi đi! Hãy vào uống mấy chung đã!

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Lúc bọn mình cáo từ. Tứ trang chúa ra chiều lạnh nhạt với Hướng đại ca mà sao bây giờ đột nhiên lão tỏ vẻ đằm thắm? Hay lão không quên được cái bọc trên lưng y, lại bày ra kế gì để lấy cho bằng được tấm bút thiếp.

Ba người về đến Mai trang. Ngốc Bút ông đứng chờ ở cửa reo lên:

– Phong lão đệ quay lại rồi! Hay quá! Hay quá!

Bốn người lại vào kỳ thất. Đan Thanh tiên sinh rót mấy thứ rượu ngon chén chú chén anh với Lệnh Hồ Xung ra chiều rất tương đắc, còn Hắc Bạch Tử thủy chung vẫn không lộ diện.

Trời đã xế chiều, Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh không ngớt lấm lét ngó ra cửa dường như có ý chờ đợi ai. Hướng Vấn Thiên mấy lần cáo biệt mà hai lão cố lưu hắn lại.

Lệnh Hồ Xung không nói gì, cứ ngồi uống rượu tà tà.

Hướng Vấn Thiên ngửng trông trời chiều nói:

– Hai vị trang chúa mà không cho ăn cơm thì đói đến lả người mất.

Ngốc Bút ông nói:

– Được, được!

Rồi lão lớn tiếng gọi:

– Đinh quản gia! Mau bày tiệc đi!

Đinh Kiên đứng ngoài cửa dạ một tiếng rồi đi luôn.

Giữa lúc ấy cánh cửa kẹt mở, Hắc Bạch Tử bước vào nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Phong huynh đệ! Tệ trang còn có một vị muốn lãnh giáo kiếm pháp của lão đệ.

Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh nghe Hắc Bạch Tử nói vậy thì mừng quýnh, nhảy lên hỏi:

– Đại ca ưng thuận rồi ư?

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Người nào đó tỷ kiếm với ta mà lại cần phải được đại trang chúa ưng thuận? Bọn này giữ ta lại đây, dường như nhị trang chúa đến thương lượng với đại trang chúa mà phải bấy lâu mới được đại trang chúa chấp thuận. Thế thì người đó nếu không phải con cháu vào hàng hậu bối đại trang chúa, tất cũng là kẻ thuộc hạ. Chẳng lẽ kiếm pháp y còn cao thâm hơn đại trang chúa hay sao?

Chàng xoay chuyển ý nghĩ rồi la thầm:

– Thôi hỏng hết rồi! Bây giờ họ biết mình không còn chút nội lực, họ muốn giữ thể diện không tiện động thủ với mình nữa. Nếu họ cho một tên hậu bối hoặc kẻ thuộc hạ đứng ra động thủ với mình, chuyên môn tỷ thí nội lực thì còn chi là tính mạng?

Nhưng rồi chàng thay đổi ý nghĩ tự nhủ:

– Bốn vị trang chúa đều là anh hùng hiệp sĩ quang minh lỗi lạc khi nào lại có những hành vi đê hèn, nhưng Tam trang chúa và Tứ trang chúa lại mê tấm bút thiếp và bức họa như điên. Còn Nhị trang chúa tuy mặt lạnh như tiền song chưa lấy được bản thế cờ cũng chưa yên tâm. Vậy họ vì những món sở thích kia mà phải thi hành hạ sách cũng không phải là chuyện phi lý. Nếu có người muốn dùng nội lực hại ta thì ta phải dùng kiếm pháp đả thương vào chỗ yếu hại của họ trước.

Trong giờ khắc này, đầu óc chàng nảy ra không biết bao nhiêu ý nghĩ.

Hắc Bạch Tử lại nói:

– Phong huynh! Phiền lão đệ lại đi mấy đường kiếm nữa.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Nếu dùng thực lực thì ngay Tam Tứ trang chúa vãn bối cũng không địch nổi, chứ đừng nói đến Nhị trang chúa và đại trang chúa nữa. Võ công bốn vị tiền bối ở Cô Sơn Mai trang thật là trác tuyệt.

Có điều vãn bối đồng tính thích rượu mà nhân nhượng mọi điều. Kiếm thuật của vãn bối còn kém cỏi lắm,

thiệt không dám phô trương cái dở của mình nữa.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong lão đệ! Dĩ nhiên võ công vị kia còn thâm hậu hơn lão đệ bất tất phải lo ngại y…

Đan Thanh tiên sinh chưa dứt lời, Hắc Bạch Tử đã chẹn họng:

– Trong tệ trang còn có một bậc tiền bối danh gia nghiên cứu kiếm thuật. Người nghe nói kiếm pháp của lão đệ cực kỳ tinh thâm, nhất định đòi tỷ thí mấy chiêu. Vậy lão đệ cứ tỷ đấu với y một keo.

Lệnh Hồ Xung rất đỗi phân vân, nghĩ bụng:

– Nếu mình lại tỷ đấu keo nữa không khéo sẽ lâm vào tình thế bắt buộc phải hại người và gây thành cừu hận với Giang Nam tứ hữu.

Nghĩ vậy chàng liền đáp:

– Bốn vị trang chúa đối với vãn bối tử tế hết chỗ nói. Bây giờ lại đấu một cuộc nữa, không hiểu vị tiền bối kia tính nết ra sao? Nếu xảy chuyện bất ngờ tất không khỏi ân hận khi chia taỵ Hoặc giả vãn bối bị thương dưới tay kiếm của tiền bối đó, há chẳng tổn thương mối hòa khí ư?

Đan Thanh tiên sinh cười đáp:

– Không sao đâu. Chẳng… chẳng…

Hắc Bạch Tử lại cướp lời:

– Bất luận thế nào, bốn anh em ta cũng không phiền trách lão đệ đâu.

Hướng Vấn Thiên xen vào:

– Được rồi. Bây giờ lại tỷ đấu một cuộc nữa thì đã sao? Tiểu huynh có chút việc cần phải đi ngay.

Lão đệ đến Quảng Châu sẽ gặp ta.

Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh đồng thanh:

– Đồng huynh đi trước thế nào được?

Ngốc Bút ông lại tiếp:

– Trừ phi Đồng huynh chịu để tấm bút thiếp của Trương Húc lại.

Đan Thanh tiên sinh cũng hỏi:

– Phong lão đệ mà thua thì bọn ta biết đi đâu kiếm Đồng huynh để lấy bút họa cùng kỳ phổ? Không được! Đồng huynh phải nén lại một lúc nữa. Đinh quản gia! Mau chuẩn bị yến tiệc đi!

Hồi 115

Xuống đường hầm hào kiệt nghi ngờ

Hắc Bạch Tử nói:

– Phong huynh đệ! Ta đi với lão đệ. Đồng huynh! Đồng huynh dùng cơm trước đi! Chúng ta qua bên một lát rồi trở về ngay.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu quầy quậy đáp:

– Cuộc tỷ đấu này các vị quyết chí thủ thắng. Phong huynh đệ của tại hạ tuy kiếm pháp tinh thâm nhưng thiếu kinh nghiệm lâm địch. Nếu tại hạ không đứng ngoài lược trận thì Phong huynh đệ có bị thua, tại hạ cũng chẳng can tâm bội phục.

Hắc Bạch Tử nói:

– Đồng huynh nói vậy là có dụng ý gì? Chẳng lẽ chúng ta còn có chuyện man trá được chăng?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Bốn vị trang chúa ở Cô Sơn Mai trang đều là bậc hào kiệt, tại hạ ngưỡng mộ danh vọng từ lâu, mười phần đã tin tưởng rồi, nhưng Phong huynh đệ lại đi tỷ kiếm với một người nào khác thì thực tình mà nói, tại hạ không biết một ai ngoài bốn vị trang chúa lại còn cao nhân nào nữa? Xin hỏi nhị trang chúa, người ấy là ai? Nếu họ cũng là anh hùng hiệp sĩ quang minh lỗi lạc như bốn vị trang chúa thì tại hạ mới yên lòng được.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Võ công cùng danh vọng người này cũng tương tự như bốn anh em ta không kém.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Các đồng đạo võ lâm có danh vọng tương đương với bốn vị trang chúa chỉ đếm ở đầu ngón tay là hết, chắc tại hạ phải biết y.

Ngốc Bút ông nói:

– Tên họ người này không tiện nói với Đồng huynh.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nếu vậy tại hạ nhất định phải đứng ngoài theo dõi cuộc chiến, bằng không thì bãi bỏ cuộc tỷ thí này đi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Sao Đồng huynh lại cố chấp thế? Ta thấy việc Đồng huynh lâm trường chỉ có hại chứ không có lợi cho Đồng huynh. Người này ẩn cư đã lâu không thích để người ngoài thấy mặt.

Hướng Vấn Thiên hỏi vặn:

– Thế thì Phong huynh đệ sao lại tỷ kiếm với y được?

Hắc Bạch Tử nói:

– Cả hai bên đều bịt mặt chỉ để hở đôi mắt, không ai nhìn rõ mặt ai.

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Ba vị trang chúa cũng bịt mặt hay sao?

Hắc Bạch Tử đáp:

– Phải rồi! Người này tính khí rất cổ quái! Nếu không thì y không chịu động thủ.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nếu vậy tại hạ cũng che mặt là xong.

Hắc Bạch Tử ngần ngừ một chút rồi nói:

– Đồng huynh đã quyết ý đòi tới trường quan chiến thì đành thế này vậy. Xin Đồng huynh ưng chịu một điều là thủy chung không được lên tiếng.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Giả câm giả điếc thì có khó gì?

Hắc Bạch Tử đi trước dẫn đường. Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung theo sau. Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh đi sau rốt.

Lệnh Hồ Xung nhận thấy họ đưa mình theo lối cũ đi về phía nhà đại trang chúa.

Khi tới trước cửa, Hắc Bạch Tử khẽ gõ ba tiếng rồi đẩy cửa bước vào. Một người đầu trùm khăn đen ngồi đó. Cứ trông quần áo cũng đủ biết là Hoàng Chung Công.

Hắc Bạch Tử tiến lại trước lão ghé tai vào nói nhỏ mấy câu.

Hoàng Chung Công lắc đầu tỏ ra không muốn để Hướng Vấn Thiên tham dự cuộc đấu.

Hắc Bạch Tử lại nói nhỏ mấy câu nữa, Hoàng Chung Công vẫn lắc đầu quầy quậy.

Hắc Bạch Tử liền quay ra nói:

– Theo ý đại ca ta thì tỷ kiếm là chuyện nhỏ mà gây hận với vị bằng hữu kia là chuyện lớn. Vậy đành bãi bỏ cuộc đấu kiếm này.

Năm người khom lưng hướng về phía Hoàng Chung Công, thi l cáo từ ra khỏi phòng.

Đan Thanh tiên sinh hậm hực nói:

– Đồng huynh! Đồng huynh thiệt kỳ quá! Chẳng lẽ cả bọn ta kéo ùa vào để uy hiếp một mình Phong lão đệ hay sao? Vì Đồng huynh đòi đến quan chiến mà cuộc tỷ đấu tuyệt thú phải bãi bỏ khiến cho mọi người đều cụt hứng.

Ngốc Bút ông nói:

– Nhị ca phải tốn bao nhiêu hơi sức mới được đại ca chấp thuận thế mà Đồng huynh lại phá tan mất.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Được rồi! được rồi! Vậy tại hạ xin nhượng bộ không theo dõi cuộc tỷ đấu. Có điều các hạ phải giữ cho thật công bằng, không nên lừa gạt Phong huynh đệ của tại hạ.

Bọn Hắc Bạch Tử ba người cả mừng đồng thanh hỏi:

– Đồng huynh coi anh em ta là hạng người nào? Có lý đâu chúng ra lại lừa gạt Phong huynh đệ?

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Phong lão đệ! Tiểu huynh ra ngoài kỳ thất chờ lão đệ. Bọn họ úp úp mở mở không hiểu định giở trò gì. Lão đệ cần phải đề cao cảnh giác gia tâm đề phòng mới được.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Trong Mai trang toàn là những bậc cao sĩ đâu có phải hạng người trá ngụy mà lo?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Đúng thế! Phong lão đệ nào phải như Đồng huynh lấy tâm địa kẻ tiểu nhân đo bụng dạ người quân tử.

Hướng Vấn Thiên đi ra ngoài cửa mấy bước rồi quay lại vẫy tay nói:

– Phong lão đệ! Lão đệ ra đây cho tiểu huynh dặn mấy câu để khỏi mắc lừa người ta.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Hướng đại ca thật quá cẩn thận. Mình đây nào phải đứa con nít lên ba mà để kẻ khác lừa gạt một cách d dàng?

Chàng ngó bọn Đan Thanh tiên sinh vừa cười vừa đi về phía Hướng Vấn Thiên thì khi khi chàng gần tới nơi Hướng Vấn Thiên nắm lấy tay chàng.

Lệnh Hồ Xung thấy trong tay mình có một gói giấy vo tròn. Chàng nắn xem thì bên trong là một vật rất cứng.

Hướng Vấn Thiên cười hề hề kéo chàng lại gần ghé tai nói nhỏ:

– Lão đệ gặp người kia rồi thì làm ra vẻ thân mật, ngấm ngầm nhét vào tay y gói giấy này. Cái đó rất quan hệ, lão đệ chớ có sơ suất nghe!

Hắn nói mấy câu này bằng một giọng rất trịnh trọng, song ngoài mặt vẫn tươi cười. Sau cùng hắn nổi lên một tràng cười khanh khách.

Sự thực câu nói của Hướng Vấn Thiên không có liên quan gì đến bọn Hắc Bạch Tử, song bọn này lại cho là hắn có ý nói gì mình.

Đan Thanh tiên sinh hỏi:

– Có gì đáng cười đâu? Kiếm pháp Phong lão đệ dĩ nhiên là rất cao minh. Còn kiếm pháp Đồng huynh thế nào bọn ta chưa được thỉnh giáo.

Hướng Vấn Thiên cười đáp:

– Kiếm pháp của tại hạ tầm thường lắm, chẳng có chi đáng thỉnh giáo cả.

Hắn nói xong khệnh khạng đi luôn.

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Hay lắm! Bây giờ chúng ta lại vào ra mắt đại ca.

Bốn người tiến vào cầm đường của Hoàng Chung Công.

Hoàng Chung Công không ngờ bọn này ra đi còn quay trở lại nên đã bỏ khăn trùm đầu ra rồi.

Hắc Bạch Tử nói:

– Thưa đại ca! Bọn tiểu đệ đã thuyết phục Đồng huynh kia rồi, y ưng chịu không vào quan chiến nữa.

Hoàng Chung Công nói:

– Vậy là hay lắm.

Lão lại lấy khăn đem trùm lên đầu.

Đan Thanh tiên sinh mở rương gỗ lấy ra ba tấm khăn đen đưa cho Lệnh Hồ Xung một tấm và bảo chàng:

– Cái này của các hạ, Phong lão đệ trùm đầu đi.

Lão quay vào nói với Hoàng Chung Công:

– Đại ca! Đại ca cho tiểu đệ mượn cái áo gối.

Lão nói rồi tiến vào nội thất. Một lát lão trở ra, trên đầu đã bịt bằng tấm áo gối vải xanh. áo gối có khoét hai lỗ thủng tròn để lộ cặp mắt đen láy.

Hoàng Chung Công gật đầu nhìn Hắc Bạch Tử nói:

– Nhị đệ! Nhị đệ cầm hai thanh kiếm gỗ xuống đi!

Hắc Bạch Tử liền mở rương lấy ra hai thanh kiếm gỗ.

Lệnh Hồ Xung tự hỏi:

– Sao lão lại bảo cầm kiếm gỗ xuống đỉ Chẳng lẽ người kia ở dưới hầm nào chăng?

Hoàng Chung Công quay ra bảo Lệnh Hồ Xung:

– Phong lão đệ! Chúng ta đi gặp một ông bạn để lão đệ tỷ thí kiếm pháp với ỵ Cuộc tỷ đấu này bất luận ai thắng ai bại cũng xin lão đệ đừng tiết lộ với người ngoài một câu nào.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dĩ nhiên là thế. Vãn bối đã nói trước đến Mai trang không phải để cầu danh, có lý đâu còn khoe trương ra ngoài? Huống chi vãn bối phần thua nhiều hơn là phần thắng thì còn chi mà nói nữa?

Hoàng Chung Công nói:

– Cái đó vị tất. Có điều ta tin lão đệ là người thủ tín, chắc không tiết lộ ra ngoài. Lão đệ có thấy chuyện gì xin đừng hở ra một lời. Cả đối với Đồng huynh, lão đệ cũng đừng cho biết, được không?

Lệnh Hồ Xung ngần ngừ đáp:

– Cả Đồng huynh cũng không cho biết ư? Vãn bối e rằng sau cuộc tỷ kiếm y sẽ hỏi căn hỏi vặn, mà mình lại dấu diếm thì không khỏi lỗi đạo bạn bè.

Hoàng Chung Công nói:

– Đồng huynh cũng là tay lão luyện giang hồ. Y biết lão đệ đã giao ước với lão phu thì một lời hứa của bậc đại trượng phu trọng hơn ngàn vàng. Chắc y không đến nỗi ép uổng lão đệ, trong tình trạng khó ăn khó nói.

Lệnh Hồ Xung gật đầu đáp:

– Tiền bối nói cũng có lý. Vãn bối xin ưng chịu.

Hoàng Chung Công chắp tay nói:

– Đa tạ hậu tình của Phong lão đệ. Nào mời lão đệ đi!

Lệnh Hồ Xung trở gót toan đi ra. Nhưng Đan Thanh tiên sinh trở vào nội thất bảo chàng đi vào trong kia.

Lệnh Hồ Xung ngơ ngác tự hỏi:

– Sao lại ở trong nội thất?

Nhưng rồi chàng tỉnh ngộ ngay tự trả lời:

– à phải rồi! Người tỷ thí kiếm với ta đây là một phụ nữ. Có khi là phu nhân hoặc cơ thiếp của đại trang chúa không chừng. Vì vậy mà bọn họ kiên quyết không để Hướng đại ca tới nơi quan chiến. Họ không để người đàn bà thấy mặt ta cũng không cho ta nhìn mặt đối phương là vì lẽ nam nữ hữu biệt.

Chàng nghĩ tới đây bao nhiêu mối nghi ngờ tự nhiên được giải thích. Nhưng chàng sờ đến vật cứng rắn trong lòng bày tay liền nghĩ thầm:

– Xem chừng Hướng đại ca đã biết trước là ta tỷ kiếm với người đàn bà này. Y nóng lòng muốn gặp mặt người đó không được mới bảo ta đưa thơ cùng tín vật vào. Vậy trong vụ này tất có chuyện tư tình mờ ám. Hướng đại ca tuy đã cùng ta thành nghĩa kim lan, nhưng bốn vị trang chúa cũng đãi ta rất hậu. Nếu ta trao vật này cho bà nào đó há chẳng lỗi đạo với bốn vị trang chúa ư? Bây giờ biết làm thế nào?

Rồi chàng lại nghĩ:

– Hướng đại ca cùng bốn vị trang chúa đều là những bậc già cả năm sáu chục tuổi rồi. Dĩ nhiên người đàn bà kia cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa. Dù có tình duyên vướng víu thì cũng là chuyện trước xưa. Vậy có đưa tín vật vào cũng chẳng thương tổn gì đến danh tiết người đàn bà.

Lệnh Hồ Xung vừa đi vừa ngẫm nghĩ bất giác đã theo chân bốn người tiến vào nội thất.

Trong nội thất kê một cái giường và một cái ghế. Cách trần thiết rất đơn giản. Trên giường có buông tấm rèm sa rất cũ kỹ đã biến thành màu vàng. Trên ghế đặt một cây đàn ngắn, đen láy dường như chế bằng sắt.

Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:

– Nhất thiết mọi việc biến din này dường như Hướng đại ca đã sắp đặt từ trước. Hỡi ôi! Mối thâm tình của y là thế! Lẽ nào ta không giúp y để thỏa mãn chút tâm nguyện?

Nên biết Lệnh Hồ Xung tính tình phóng đãng, trước này chàng chẳng quan tâm đến những chuyện phòng ngừa danh tiết l giáo. Trong lòng chàng vẫn ẩn hiện hình ảnh cô tiểu sư muội Nhạc Linh San. Cô đi lấy Lâm Bình Chi rồi thì sau đây mấy chục năm nữa chàng cũng như Hướng Vấn Thiên sẽ tìm trăm phương nghìn kế để được thấy mặt tiểu sư muội một phen. Nếu không được hội diện thì cũng tìm cách đưa tín vật năm xưa để tỏ mối tình nồng nhiệt và an ủi nỗi đau khổ tương tư mấy chục năm trời.

Rồi chàng lại tự nhủ:

– Sở dĩ Hướng đại ca thoát ly ma giáo chẳng cần đếm xỉa đến giáo chủ cùng anh em, trở mặt chắc cũng vì mối tình cũ kỹ này.

Lệnh Hồ Xung còn đang ngẫm nghĩ thì thấy Hoàng Chung Công mở những tấm ván ghép làm giường lên. Phía dưới là một tấm sắt bản có vòng đồng.

Hoàng Chung Công nắm lấy vòng đồng kéo mạnh một cái. Tấm thiết bản rộng tới ba thước dài năm thước mà lão nhấc bổng lên được ngaỵ Phía dưới lộ ra một cửa động vuông vắn dài rộng.

Hoàng Chung Công đặt tấm thiết bản dầy đến nửa thước, cực kỳ trầm trọng xuống mặt đất rồi nói:

– Chỗ ở người này rất cổ quái! Mời Phong lão đệ theo lão phu vào đây!

Dứt lời lão nhảy xuống, Lệnh Hồ Xung liền nhảy theo thì thấy dưới hầm có một ngọn đèn dầu đặt trên mặt tường chiếu ra ánh sáng vàng lợt. Chỗ chàng đứng là một đường hầm. Chàng theo Hoàng Chung Công tiến về phía trước.

Bọn Hắc Bạch Tử ba người lần lượt nhảy xuống. Đi chừng được hai trượng thì hết đường. Hoàng Chung Công lấy trong bọc ra một chùm chìa khóa cắm vào lỗ khóa xoay đi mấy vòng. Một tràng lách cách nổi lên. Cánh cửa đá từ từ mở ra.

Lệnh Hồ Xung thấy cánh cửa này tương tự như một phiến đá núi lớn, ít ra dầy tới hơn hai thước thì trong lòng rất lấy làm kinh dị. Chàng liền có ý đồng tình với Hướng Vấn Thiên, bụng bảo dạ:

– Bọn họ giam người đàn bà xuống dưới hầm thì dĩ nhiên là họ cưỡng bách cầm tù trái với tâm nguyện của người tạ Bốn vị trang chúa tựa hồ đều là hào kiệt nghĩa sĩ mà sao lại có hành động đê hèn này?

Chàng theo Hoàng Chung Công đi vào phía trong cửa đá. Từ chỗ này đường đi dốc xuống chừng mấy chục trượng lại tới trước một khuôn cửa nữa.

Hoàng Chung Công lại lấy chìa khóa ra mở. Lần này là một tấm cửa sắt rất dày. Địa thế phía trong cửa sắt vẫn đi xuống thấp, e rằng đã vào sâu lòng đất đến dư trăm trượng.

Đường địa đạo vòng qua mấy khúc quanh rồi trước mặt lại hiện ra một tầng cửa thứ ba.

Lệnh Hồ Xung cười thầm nghĩ bụng:

– Mình cứ tưởng bốn vị trang chúa là những cao nhân dị sĩ về cầm, kỳ, thi, họa ngờ đâu họ lại bố trí địa lao để giam người ta vào chỗ âm u không có bóng mặt trời.

Ban đầu chàng không để ý đề phòng nhưng từ lúc này lòng chàng không khỏi hồi hộp, tự hỏi:

– Bọn họ tỷ kiếm với ta không thắng được, hay là họ dẫn ta vào đây để cầm tù? Trong địa lao đã bố trí cơ quan môn hộ trùng điệp thì có mọc cánh cũng không đường bay thoát.

Tuy chàng ngấm ngầm kinh hãi đề phòng, nhưng Hoàng Chung Công đi trước, phía sau bọn Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút ông, Đan Thanh tiên sinh mà trong tay chàng lại không có binh khí thì dù biết rõ đối phương có lòng bất thiện cũng chẳng làm thế nào được?

Tầng cửa thứ ba có bốn lần ghép lại. Sau lần cửa sắt là lần cửa gỗ dồi bông có đóng đinh rất dày. Sau lần cửa gỗ lại đến lần cửa sắt và cuối cùng lại là ván ghép nhồi bông đóng đinh rất kỹ.

Lệnh Hồ Xung tự hỏi:

– Tại sao trong hai lần cửa gỗ lại còn đóng thêm ván gỗ nhồi bông làm chi?

Rồi chàng tự trả lời:

– Phải rồi! Chắc người bị cầm tù nội công ghê gớm lắm, nên họ đệm những lớp ván ghép mềm mại để cho chưởng lực bị hút vào đó phòng khi bà ta phá cửa sắt.

Sau lần cửa này lại đi mấy chục trượng nữa, nhưng không thấy cửa ngõ chi hết. Quãng đường này xa xa mới đặt một ngọn đèn dầu. Chỗ nào đèn tắt đường hầm lại tối đen như mực, phải lần mò mà đi chừng hơn mười trượng mới lại thấy ánh đèn.

Lệnh Hồ Xung đi trong đường hầm cảm thấy hô hấp nặng nề khó khăn. Trên vách cũng như dưới chân, chỗ nào cũng ẩm ướt.

Đột nhiên chàng nhớ ra điều gì, bỗng la thầm:

– Trời ơi! Mai trang ở cạnh tây hồ mà ta đi đã xa như vậy e rằng vào tới trung tâm đáy hồ rồi. Một người bị cầm tù ở đáy hồ thì dĩ nhiên chẳng còn cách nào thoát ra được. Người ngoài có muốn vào giải cứu cũng chẳng thể thành công, vì hễ đục tường vách là nước hồ ùa vào.

Hồi 116

Lệnh Hồ Xung đề nghị thả tù nhân

Lại đi mấy trượng nữa, đường hầm thu hẹp lại , phải cúi lom khom mới tiến về phía trước được.

Càng đi sâu vào càng phải cúi thấp xuống.

Lệnh Hồ Xung nghe Đan Thanh tiên sinh đi sau cầu nhàu chửi bới, chàng chắc người lão vừa cao vừa lớn mà phải cúi rạp xuống nên lão rất khó chịu.

Đi trong khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà Hoàng Chung Công bỗng dừng lại. Tiếp theo là tiếng loảng xoảng nổi lên dường như lão dùng vật gì đập vào cửa sắt.

Sau một lúc lại nghe tiếng chìa khóa chuyển động rồi tiếng kẹt vang lên, cánh cửa sắt mở ra.

Hoàng Chung Công bật lửa thắp vào ngọn đèn trên vách ánh sáng lờ mờ chiếu ra trông rõ trên cửa có lỗ vuông.

Nguyên tiếng kẹt cửa vừa rồi là cái cửa sắt vuông nhỏ xíu này mở ra. Lệnh Hồ Xung chắc cái lỗ vuông đó, dùng làm chỗ để đưa đồ ăn uống cho người bị giam.

Hoàng Chung Công nhìn vào lỗ vuông lớn tiếng gọi:

– Nhậm huynh! Bốn anh em Hoàng Chung Công này đến thăm Nhậm huynh đây!

Lệnh Hồ Xung sửng sốt, tự hỏi:

– Sao đại trang chúa lại kêu y bằng Nhậm huynh? Chẳng lẽ người bị cầm tù trong kia không phải là đàn bà?

Bên trong không có tiếng người đáp lại.

Hoàng Chung Công nói:

– Nhậm huynh! Bọn tiểu đệ lâu nay không đến bái yết trong lòng rất áy náy. Bữa nay tới đây để báo cáo với Nhậm huynh một việc lớn.

Trong nhà có người cất tiếng thóa mạ:

– Việc lớn việc nhỏ con mẹ nó cái gì? Có chuyện thối tha thì nói đi, không thì cút cho xa.

Lệnh Hồ Xung rất đỗi kinh ngạc. Bao nhiêu ý nghĩ trước bây giờ bị lật ngược lại hết. Khẩu âm này chẳng những là tiếng người đàn ông tuổi già, mà còn thốt ra những lời thô tục. Đúng là một người quê mùa.

Bỗng nghe Hoàng Chung Công nói:

– Trước kia bọn tiểu đệ tưởng bọn mình kiếm pháp cao thâm Nhậm huynh là đệ nhất, ngờ đâu mình đã lầm tọ Bữa nay có một người tới Mai trang, dĩ nhiên bốn anh em tiểu đệ không địch nổi.

Ngay kiếm pháp của Nhậm huynh so với y cũng còn kém xa.

Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:

– Té ra lão này dùng lời kích để cầu người kia tỷ kiếm với ta.

Người kia cười ha hả nói:

– Hoàng Chung Công! Bọn các ngươi là phường trẻ nít không địch nổi người ta mới khích họ đến tỷ đấu với ta để mong ta thu xếp cường địch chọ Có đúng thế không? Ha ha! Các người tưởng là đắc sách nhưng hỏng rồi! Mấy chục năm ta không đụng đến binh khí bây giờ quên hết kiếm pháp rồi.

Lệnh Hồ Xung trong lòng kinh hãi nghĩ thầm:

– Người này có trí hơn đời, liệu việc như thần. Y vừa nghe lời Hoàng Chung Công đã đoán trúng ngaỵ Thật là một nhân tài hiếm có trên giang hồ.

Hắc Bạch Tử nói:

– Đại ca! Nhậm tiên sinh không phải là địch thủ của người này đâu. Y đã nói trong Mai trang không một ai thắng được y quả đúng sự thật. Chúng ta nhiều lời với Nhậm tiên sinh làm chi cho mất thì giờ?

Lão họ Nhậm quát lên:

– Ngươi khích ta làm chi vô ích? Chẳng lẽ Nhậm mỗ này lại đi làm việc cho bọn trẻ nít các ngươi chăng?

Hắc Bạch Tử nói:

– Kiếm pháp của người này đã được Phong Thanh Dương lão tiên sinh truyền thụ chọ Đại ca!

Nghe nói ngày trước Nhậm tiên sinh vùng vẫy giang hồ không biết sợ trời, sợ đất là gì mà chỉ sợ một mình Phong lão tiên sinh. Ngoại hiệu Nhậm tiên sinh là “Vọng phong nhi đào”. Chữ “phong” này trỏ vào Phong lão tiên sinh, phải vậy chăng?

Lão họ Nhậm thét lên be be rồi cả tiếng mắng nhiếc:

– Thúi lắm! Thúi lắm! Thúi không ngửi được.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Nhị ca lầm rồi!

Hắc Bạch Tử hỏi:

– Lầm thế nào?

Đan Thanh tiên sinh đáp:

– Nhị ca nhầm một chữ. Ngoại hiệu Nhậm tiên sinh không phải là “Vọng Phong nhi đào” mà là “Văn phong nhi đào”. Nhị ca thử nghĩ coi, Nhậm tiên sinh mà trông thấy Phong lão tiên sinh thì hai người không còn cách xa nhau mấy, khi nào Phong lão tiên sinh còn để y chạy thoát. Y mới nghe tiếng Phong lão tiên sinh đã co giò cúp đuôi mà chạy lêu đêu như chó mất chủ.

Ngốc Bút ông nói theo:

– Hoang mang như cá lọt lưới.

Đan Thanh tiên sinh xen vào:

– Có thế mới giữ được ngôi thủ lĩnh cho tới ngày nay.

Lão họ Nhậm không tức giận, lại cười nói:

– Bốn thằng trẻ nít bị người ta đẩy vào tình thế không còn chỗ dong thân mới nghĩ tới lão phụ Lão phu mà trúng quỉ kế của các ngươi thì còn là Nhậm tiên sinh thế nào được?

Hắc Bạch Tử thở dài nói:

– Phong huynh đệ! Nhậm tiên sinh đây vừa nghe nói tới họ Phong đã hồn vía lên mây, tâm thần hoảng hốt. Không cần phải tỷ đấu nữa, bọn tại hạ thừa nhận Phong huynh đệ là đệ nhất kiếm đời nay.

Lệnh Hồ Xung tuy phát giác ra người này không phải đàn bà, bao nhiêu sự dự đoán sai trật, nhưng chàng thấy lão bị giam hãm vào chỗ lao lung đã lâu ngày, thì không khỏi nẩy mối đồng tình. Chàng lại nghe giọng nói của Hoàng Chung Công cũng đoán được võ công lão này rất cao thâm.

Chàng nghe Hắc Bạch Tử nói vậy, vội lên tiếng:

– Nhị trang chúa nói vậy là sai, lúc Phong lão tiên sinh đàm luận về kiếm pháp với vãn bối tỏ ra rất tôn sùng Nhậm lão tiền bối. Người cho là chỉ có một mình Nhậm lão tiên sinh là đáng kính phục. Người còn dặn sau này nếu vãn bối có cơ duyên bái kiến Nhậm lão tiền bối thì phải thành tâm thành ý kính cẩn nghe lời chỉ giáo.

Chàng nói câu này khiến bọn Hoàng Chung Công rất đỗi ngạc nhiên.

Lão họ Nhậm lại vô cùng đắc ý cười ha hả nói:

– Tiểu bằng hữu! Tiểu hữu nói đúng lắm! Phong Thanh Dương không phải là hạng tầm thường.

Chỉ có y mới hiểu được chỗ tinh diệu về kiếm pháp của ta.

Hoàng Chung Công nói xen vào:

– Phong lão tiên sinh có biết Nhậm lão tiên sinh ở đâu không?

Lệnh Hồ Xung hàm hồ đáp:

– Phong lão gia chỉ nói Nhậm tiền bối qui ẩn ở một nơi danh sơn thắng cảnh. Hồi lão nhân gia dạy vãn bối luyện kiếm thường nhắc tới Nhậm tiền bối. Lão gia còn nói những kiếm chiêu mà vãn bối luyện tập chỉ dùng để đối địch với truyền nhân của Nhậm lão tiền bối. Trên đời nếu không còn Nhậm lão tiền

bối thì kiếp pháp phức tạp đó bất tất phải học nữa.

Lúc này chàng rất lấy làm bất mãn với bốn vị trang chúa ở Mai trang nên nói mấy câu ra chiều mạt sát họ. Chàng nghĩ lão họ Nhậm là tay hào kiệt một đời mà bị cầm tù vào chỗ tối đen này tất nhiên vì bị họ ám toán. Như vậy thủ đoạn đê hèn của bốn vị trang chúa không cần nói cũng biết!

Lão họ Nhậm lại nói:

– Phải đó! Tiểu bằng hữu! Phong Thanh Dương quả nhiên là người kiến thức. Tiểu hữu đã đánh bại bốn tên trang chúa ở Mai trang phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Kiếm pháp của vãn bối đã do chính tay lão gia truyền thụ thì ngoài Nhậm tiền bối hay truyền nhân của ngài, người thường dĩ nhiên không địch nổi.

Chàng nói mấy câu đã công nhiên mạt sát bọn Hoàng Chung Công.

Chàng cảm thấy khí ẩm thấp chốn lao tù trong lòng đất làm cho khó chịu, nên tức giận bốn vị trang chúa. Chàng nghĩ rằng mình mới tới đây trong khoảnh khắc mà đã khó chịu thế này thì bọn trang chúa đem giam một vị đại anh hùng vào đây hàng mấy chục năm thật quá tàn nhẫn.

Chàng lẩm bẩm:

– Dù các ngươi có giết ta, ta cũng mỉa mai cho hả dạ.

Bọn Hoàng Chung Công nghe Lệnh Hồ Xung nói dĩ nhiên là rất bực mình, nhưng thực tình bốn lão tỷ kiếm bị bại thì còn nói sao được nữa.

Hắc Bạch Tử là người thâm mưu thấy lão Nhậm không chịu tỷ đấu với Lệnh Hồ Xung dù có nói khích cũng bằng vô dụng. Lão xem chừng Lệnh Hồ Xung lại có thâm ý khác dường như cố ý lấy lòng lão Nhậm, liền kéo tay áo Đan Thanh tiên sinh bảo y đừng xen vào.

Người kia lại nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Tiểu hữu hãy nói cho ta hả giận. Tiểu hữu đả bại bọn chúng thế nào?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Người đầu tiên trong Mai trang tỷ kiếm với vãn bối là ông bạn họ Đinh danh hiệu là Nhất tự điện kiếm Đinh Kiên.

Người kia nói:

– Kiếm pháp của thằng cha này chỉ có vẻ bay bướm chứ không thực lực. Hắn dùng kiếm quang để hăm người mà không có bản lãnh chân thực. Tiểu hữu chẳng cần ra chiêu hại hắn, cứ hươi lưỡi kiếm vào là tay hắn tự đưa ngón tay, cổ tay cho lưỡi kiếm của tiểu hữu chặt đứt.

Năm người nghe nói bất giác “ủa” lên một tiếng.

Người kia hỏi:

– Sao? Ta nói có đúng không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Lão tiên sinh nói đúng lắm, tựa hồ chính mắt trông thấy.

Người kia cười hỏi:

– Hay lắm! Hắn bị đứt năm ngón tay hay cả bàn tay?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối vội nghiêng lưỡi kiếm đi.

Người kia nói:

– Không được! Không được! Đối phó với kẻ địch cần gì phải lịch sự? Tiểu hữu lòng dạ nhân từ sau này tất có phen thất bại. Người thứ hai tỷ đấu với tiểu hữu là ai?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Là tứ trang chúa.

Người kia nói:

– Hừ kiếm pháp của lão tứ dĩ nhiên cao minh hơn gã Nhất tự thí kiếm gì đó, nhưng cũng không hơn mấy. Y thấy tiểu hữu thắng Đinh Kiên nhất định là vừa ra chiêu đã giở môn tuyệt kỹ đắc ý nhất. Chà chà! Cái đó kêu bằng gì nhỉ? à phải rồi! Cái kêu bằng “Bát mặc phi ma kiếm pháp” với những chiêu

“Bạch hồng quán nhật”, “Đằng giao khởi phụng” và “Xuân phong dương liu” gì gì đó.

Đan Thanh tiên sinh nghe lão Nhậm nói huỵch toẹt kiếm chiêu đắc ý nhất của mình không sai chút nào thì kinh hãi vô cùng!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Kiếm pháp tứ trang chúa thực ra rất cao minh, có điều lúc y tấn công để nhiều chỗ sơ hở.

Lão Nhậm cười khanh khách nói:

– Truyền nhân của lão Phong quả nhiên có cặp mắt tinh đời. Tiểu hữu nói trắng được nhược điểm trí mạng về môn Bát mạc phi ma kiếm pháp ra thì giỏi thiệt! Kiếm pháp này có một chiêu mà hắn cho là lợi hại nhất kêu bằng “Ngọc long đảo huyền” vung kiếm từ bên trên bổ xuống. Nếu hắn không sử đến thì thôi, bằng hắn đưa ra chém truyền nhân của lão Phong thì chỉ cần lướt trường kiếm lên trên lưỡi kiếm của hắn là năm ngón tay hắn bị đứt liền. Máu tươi trên tay ứa ra như tóe mực. Chiêu đó kêu bằng “Bắc huyết

phi chi kiếm pháp” thì phải. Ha ha!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiền bối liệu việc như thần. Vãn bối quả đã thắng y ở chiêu này nhưng vãn bối với y không thù oán, y còn cho uống rượu ngon, có lý đâu lại để y rụng năm đầu ngón taỵ Hà hà!

Đan Thanh tiên sinh tức giận sắc mặt đỏ bừng lại xám xanh, nhưng đầu y đã trùm áo gối nên không ai ngó thấy.

Lão Nhậm nói:

– Ngốc Bút lão tam chuyên sử phán quan bút. Tay hắn viết chẳng khác gì đứa trẻ nít lên ba mà lại học đòi lối phong nhã, tự xưng thư pháp của mình bao hàm nét bút danh gia. Ha ha! Tiểu hữu ơi! Nên biết lúc lâm địch ra chiêu thì chuyện sinh tử như treo đầu sợi tóc là việc lớn. Người lâm trận đem toàn

lực ra mà chiến đấu còn lo chưa thắng được làm gì có thì giờ nhàn rỗi để giảng cứu những văn bia bút thiếp cổ nhân. Trừ phi võ công đối phương kém quá xa thì mới có thể giỡn cợt người ta ở lòng bàn tay.

Bằng võ công hai bên tương đương nhau mà lại dùng phán quan bút theo lối viết chữ phỏng có khác gì hai tay bưng tính mạng để dâng cho địch nhân.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiền bối nói chẳng sai chút nào. Tam trang chúa lúc động thủ cùng người quả có vẻ làm phách thiệt.

Ngốc Bút ông nghe lão Nhậm phê bình mình như vậy, lúc đầu hắn tức giận tới cực điểm nhưng càng nghĩ càng cảm thấy lão nói đúng lý. Hắn tự nhận đem thư pháp vào phán quan bút quả nhiên uy lực giảm đi rất nhiều. Lệnh Hồ Xung không nương tay thì đến mười mạng Ngốc Bút ông cũng đi đời.

Hắn nghĩ vậy bất giác khắp mình toát mồ hôi lạnh ngắt.

Lão Nhậm cười nói:

– Muốn thắng Ngốc đầu lão Tam thực d như chơi. Hắn phóng cây bút trông đẹp mắt thật nhưng ngông cuồng thái quá! Có ai đem võ công vào thư pháp bao giờ? Lúc động thủ ra chiêu tranh nhau từng tấc từng phân còn chưa được. Thế mà hắn lại đem tính mạng ra mà đùa cợt. Hắn còn sống được đến

ngày nay quả là một chuyện lạ trong võ lâm. Ngốc đầu lão Tam! Gần 20 năm nay ngươi chui rúc trong xó nhà không dám ló mặt ra ngoài giang hồ phải không?

Ngốc Bút ông chỉ hắng dặng một tiếng chứ không trả lời. Trong lòng hồi hộp, tự nhủ:

– Lão nói quả không sai. Hai chục năm nay mà mình qua lại giang hồ thì còn sống thế nào được đến ngày nay?

Lão Nhậm lại nói:

– Còn lão nhị luyện công phu vào bàn cờ sắt quả có thực lực. Hễ động thủ tiến công là hắn ra chiêu dồn dập như gió táp mưa sạ Hạng tầm thường khó mà chống đỡ được. Tiểu hữu ơi! Tiểu hữu phá hắn cách nào nói cho lão phu nghe thử!

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối không dám nhận chứ “phá”. Có điều lúc cùng Nhị trang chúa đối trận, chiêu đầu vãn bối đưa y vào thế thủ.

Lão Nhậm hỏi:

– Hay lắm! Chiêu thứ hai thì sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Chiêu thứ hai vãn bối vẫn tranh tiên, Nhị trang chúa vẫn giữ thế thủ.

Lão Nhậm nói:

– Phải lắm! Đến chiêu thứ ba thì sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Chiêu thứ ba cũng vậy. Vãn bối tấn công. Nhị trang chúa giữ thế thủ.

Lão Nhậm nói:

– Thế là tuyệt rồi! Ngày trước Hắc Bạch Tử oai danh chấn động hai miền Nam Bắc sông Đại Giang cũng vì cách sử dụng bàn cờ sắt. H người nào đỡ được ba chiêu liên hoàn kinh thiên động địa của hắn là hắn tha chết chọ Hắn thành danh trong võ lâm chỉ ở điểm này. Tiểu hữu bức bách hắn phải giữ thế

thủ ba chiêu liền là giỏi lắm. Đến chiêu thứ tư thì sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Chiêu thứ tư cũng vậy. Vãn bối tấn công. Nhị trang chúa phòng ngự.

Lão Nhậm lại hỏi:

– Kiếm pháp lão Phong cao minh đến thế thật ư? Lão phu cứ tưởng dù chính lão Phong động thủ ra tay có thắng được Hắc Bạch Tử, song chẳng thể bức bách hắn giữ thế thủ đến bốn chiêu. Vậy chiêu thứ năm chắc là hắn tấn công chứ?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Thế công thủ trong chiêu thứ năm vẫn không cải biến.

Lão họ Nhậm “ủa” lên một tiếng, lẳng lặng hồi lâu rồi hỏi:

– Vậy tiểu hữu tấn công bao nhiêu chiêu Hắc Bạch Tử mới phản kích?

Lệnh Hồ Xung ngập ngừng đáp:

– Cái đó… cái đó… vãn bối cũng không nhớ nữa.

Hắc Bạch Tử xen vào:

– Phong lão đệ đây kiếm pháp xuất quỷ nhập thần. Thủy chung tiểu đệ không phản kích được chiêu nào. Y tấn công đã ngoài bốn chục chiêu, tiểu đệ tự lượng sức mình không địch nổi, đành hạ bàn cờ chịu thua.

Lão Nhậm la lên một tiếng “ái chà” rồi nói:

– Có lý nào thế được. Chính Phong Thanh Dương tuy là một nhân tài xuất chúng phe Kiếm tông phái Hoa Sơn, nhưng kiếm pháp phái này cũng chỉ có giới hạn. Lão phu nhất quyết không tin trong phái Hoa Sơn từ cổ chí kim lại có người liên tiếp tấn công Hắc Bạch Tử ngoài bốn chục chiêu mà vẫn dồn hắn vào thế bí không còn cách nào phản kích.

Hắc Bạch Tử nói:

– Nhậm huynh vẫn coi tiểu đệ một cách quá cao, song kiếm pháp Phong lão đệ đây cao thâm đến trình độ không thể tưởng tượng được, nó vượt hẳn ra ngoài phạm vi kiếm pháp phái Hoa Sơn rất xa.

Lão Nhậm nói:

– Hay lắm! Vậy lão phu muốn thử cho biết kiếm pháp của tiểu hữu.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Lão tiền bối đừng mắc bẫy họ. Giang Nam tứ hữu chỉ muốn đưa tiền bối đến chỗ tỷ thí kiếm với vãn bối, vì họ có chuyện mưu đồ ám muội.

Lão Nhậm hỏi:

– Chúng mưu đồ chuyện gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Bọn họ đánh cuộc với một người bạn của vãn bối. Nếu trong Mai trang có nhân vật nào thắng được kiếm pháp của vãn bối là phải mất mấy thứ với bọn họ đó.

Lão Nhậm hỏi:

– Mất những vật gì? Chà! Chắc lại cầm phổ kỳ phổ hoặc bút thiếp, danh họa hiếm có của cố nhân chứ gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiền bối đoán việc như thần, quả không sai chút nào.

Lão Nhậm nói:

– Lão phu chỉ muốn coi kiếm pháp của tiểu hữu chứ không động thủ ra chiêu thực sự. Hơn nữa lão phu chưa chắc đã thắng được tiểu hữu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiều bối mà muốn thắng vãn bối là một chuyện mười phần ăn chắc đến chín. Nhưng phải xin bốn vị trang chúa ưng cho một điều.

Lão Nhậm hỏi:

– Điều gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiền bối thắng được vãn bối thì mấy vật báu hiếm có kia dĩ nhiên sẽ về tay bốn vị trang chúa, song các vị này phải mở rộng cửa nhà lao trả lại sự tự do cho tiền bối.

Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh đồng thanh nói:

– Cái đó thì nhất định không được rồi.

Hoàng Chung Công chỉ hắng dặng một tiếng chứ không nói gì.

Lão Nhậm cười nói:

– Tiểu hữu có tư tưởng khác đời như vậy, phải chăng là Phong Thanh Dương dặn tiểu hữu nói thế?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Phong lão tiên sinh tuyệt không biết tý gì về vụ tiền bối bọ cầm tù tại đây, mà vãn bối cũng không ngờ tới.

Hắc Bạch Tử vội hỏi xen vào:

– Phong lão đệ! Lão đệ có biết rõ tên họ Nhậm tiên sinh không? Ngoại hiệu y là gì? Y đã làm chưởng môn phái nào? Vì sao lại bị cầm tù tại đây? Lão đệ đã nghe Phong lão tiên sinh nói tới bao giờ chưa?

Hắc Bạch Tử đưa ra bốn câu hỏi một cách đột ngột, Lệnh Hồ Xung không thể trả lời được một câu. Lúc trước chàng liên công Hắc Bạch Tử ngoài bốn chục chiêu, bây giờ đối phương đưa ra bốn câu hỏi khác nào tấn công tới tấp bốn chiêu mà chàng không đỡ được chiêu nào. Chàng ấp úng hồi lâu mới đáp:

– Cái đó… Phong lão tiên sinh… thực tình chưa nói với vãn bối bao giờ.

Hắc Bạch Tử nói:

– Đúng thế! Ta cũng chắc lão đệ không hiểu, vì lão đệ không biết rõ căn do, tất đã không yêu cầu bọn ta tha Nhậm tiên sinh. Y mà rời khỏi nơi đây thì võ lâm lại trải qua những trận trời long đất lở, không biết bao nhiêu anh hùng hiệp sĩ sẽ mất mạng về tay y và từ đây trên chốn giang hồ không còn có ngày nào bình yên nữa.

Lão Nhậm cười ha hả nói:

– Đúng thế! Giang Nam tứ hữu dù lớn mật đến đâu cũng chẳng dám để lão phu thoát khỏi chốn lao lung. Hơn nữa bọn họ bất quá vâng mệnh người khác ở đây coi giữ, nói trắng ra chúng chỉ là bốn tên ngục tốt bé nhỏ mà thôi, làm gì có quyền buông tha lão phủ Tiểu hữu nói vậy là đề cao chúng quá

cỡ.

Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm trong bụng:

– Trong vụ này có bao nhiêu điều can hệ mà mình chẳng biết tí gì, nếu nói năng thất thố tất bại lộ hành tung.

Hoàng Chung Công nói:

– Phong lão đệ! Lão đệ thấy nhà lao này tối tăm ẩm ướt mà nẩy mối đồng tình với Nhậm huynh và có ý bất mãn với anh em lão phụ Đó là lòng dạ nghĩa hiệp của lão đệ, chẳng có điều gì đáng trách.

Nhưng lão đệ nên biết nếu Nhậm huynh đây tái xuất giang hồ thì ngay phái Hoa Sơn nhà lão đệ ít ra cũng mất mạng quá nửa. Nhậm huynh! Tiểu đệ nói vậy có đúng không?

Lão Nhậm cười đáp:

– Đúng thế! Đúng thế! Phải chăng chưởng môn phái Hoa Sơn là Nhạc Bất Quần? Thằng cha đó có bộ mặt giả đạo đức. Đáng tiếc là hắn vừa lên làm chưởng môn ta liền lỡ tay bị ám toán. Nếu không ta đã lột da bộ mặt trá ngụy của hắn rồi.

Hồi 117

Cuộc đấu kiếm giữa Hồ Xung và lão Nhậm

Lệnh Hồ Xung chấn động tâm thần. Tuy Nhạc Bất Quần đã đuổi chàng ra khỏi sư môn và gửi thư đi khắp thiên hạ công bố chàng là công địch của nhân sĩ võ lâm chính phái, nhưng chàng vẫn nhớ ơn đức sư phụ cùng sư nương nuôi dạy mình từ thuở nhỏ đến ngày khôn lớn và đã coi chàng như con ruột sinh ra, khiến chàng không lúc nào quên được. Bây giờ chàng nghe lão Nhậm buông lời sỉ nhục sư phụ thì không ngăn nổi cơn tức giận, lớn tiếng quát:

– Im miệng! Sư…

Chữ “phụ” tới cửa miệng chàng vội dừng lại, vì chàng chợt nhớ tới Hướng Vấn Thiên dẫn chàng tới Mai trang đã bảo chàng mạo nhận làm sư thúc Nhạc Bất Quần. Nhất là chưa rõ đối phương là thiện hay ác, không nên thổ lộ chân tình với họ.

Lão Nhậm chưa rõ ý nghĩa tiếng quát của Lệnh Hồ Xung, lão liền cười nói tiếp:

– Trong phái Hoa Sơn dĩ nhiên cũng có người tử tế tỷ như Phong lão, như tiểu hữu. Lại còn một người hậu bối của tiểu hữu kêu bằng Hoa Sơn Ngọc Nữ Ninh.. Ninh gì Tắc. à phải rồi! Tên nàng là

Ninh Trung Tắc. Vị tiểu cô nương này khẳng khái hào hiệp đáng là một nhân vật khả kính. Tiếc thay nàng lại đi lấy Nhạc Bất Quần phỏng có khác gì đem đóa hoa tươi cắm vào đống phân trâu, để mình ngọc cho ngây vầy, hồng ngâm cho chuột vọc?

Lệnh Hồ Xung nghe lão Nhậm kêu sư nương mình bằng tiểu cô nương thì không khỏi cười dở khóc dở, nên không trả lời.

Lão Nhậm lại hỏi tiếp:

– Tiểu bằng hữu! Tên họ tiểu hữu là gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối họ Phong tên gọi Nhị Trung.

Lão Nhậm nói:

– Những người họ Phong ở phái Hoa Sơn đều không phải là tầm thường. Tiểu hữu lại đây để ta lãnh giáo mấy chiêu kiếm pháp của Phong lão.

Trước lão kêu Phong Thanh Dương bằng “lão Phong”, sau lão đổi làm Phong lão. Chắc Lệnh Hồ Xung khéo nói làm cho lão vui lòng. Vì thân nên nể cây đa, bây giờ đối với Phong Thanh Dương lão đã tỏ ra lịch sự hơn trước.

Lệnh Hồ Xung nổi tính hiếu kỳ. Chàng vừa nóng coi chân tướng lão vừa muốn biết bản lãnh lão cao minh đến đâu, liền đáp:

– Kiếm pháp thô thiển của vãn bối phô trương với ai thì còn tạm được,nhưng ở trước mặt tiền bối thì thật là múa rìu qua mắt thợ, không bõ làm trò cười. Nhưng Nhậm lão tiên sinh là rồng, phượng trong loài người, vãn bối đã vào đây, có lý nào lại không bái kiến?

Đan Thanh tiên sinh lại sát bên chàng ghé tai nói nhỏ:

– Lão đệ! Võ công người này rất quái dị mà thủ đoạn thâm độc vô cùng! Lão đệ tỷ kiếm với y thì được nhưng chớ có tỷ thí nội lực mà nguy đấy.

Y nói tới đây bỗng “ồ” lên một tiếng, mừng rỡ tiếp:

– à, nhưng không có chi đáng ngại. Lão đệ chẳng có chút nội lực nào. Cũng vì thế mà đại ca mới ưng thuận cho lão đệ đi tỷ kiếm với hắn.

Y nói khẽ, nhưng bằng một giọng rất thân thiết, tỏ ra con người chí thành.

Lệnh Hồ Xung động tâm tự nghĩ:

– Vị tứ trang chúa này đối với ta thật nhiều nghĩa khí. Vừa rồi ta mỉa mai y mà y chẳng giận dữ chút nào lại vẫn thật tình quan tâm tới sự yên nguy của ta.

Chàng không khỏi ngấm ngầm hổ thẹn trong lòng.

Lão Nhậm ở trong nhà lại gọi:

– Vào đây! Vào đây! Bọn chúng ở ngoài úp mở gì đó? Tiểu hữu ơi! “Giang Nam tứ xú” chẳng tử tế gì đâu. Họ nói câu gì đều là muốn cho tiểu hữu mắc bẫy đó.

Lão cố ý đổi Giang Nam tứ hữu thành Giang Nam tứ xú.

Lệnh Hồ Xung khó mà quyết đoán được. Chàng không hiểu rõ bên nào mới đúng là người tử tế và chàng phải giúp bên nào cho phải.

Hoàng Chung Công lại thò tay vào bọc móc ra chiếc chìa khóa khác, tra vào lỗ khóa xoay mấy vòng.

Lệnh Hồ Xung đã tưởng lão mở khóa rồi là đẩy cửa ra. Ngờ đâu lão lùi lại đứng một bên.

Hắc Bạch Tử tiến lên cũng lấy ra một chiếc chìa khóa tra vào lỗ một chiếc khóa khác xoay mấy vòng.

Sau Ngốc Bút ông và Đan Thanh tiên sinh cũng lần lượt tiến lại lắp chìa vào ổ khóa xoay đi.

Bây giờ Lệnh Hồ Xung mới tỉnh ngộ, nghĩ thầm:

– Té ra thân phận vị tiền bối này rất quan trọng. Cả bốn vị trang chúa đều có chìa khóa riêng nhưng phải cùng vào mở mới mở được cửa sắt. Có điều Giang Nam tứ hữu tình đồng huynh đệ, bốn người như một mà sao còn chưa tin nhau?

Chàng lại nghĩ:

– Vừa rồi vị tiền bối kia bảo Giang Nam tứ hữu bất quá vâng lệnh người khác để canh giữ lão như bọn ngục tốt chứ không có quyền buông tha lão. Thế thì bốn người chia nhau mỗi người giữ một chìa khóa không chừng cũng là qui định của người kia sai phái họ phải như vậy. Ta nghe tiếng chìa khóa xoay chuyển rất trầm trệ, hiển nhiên ổ khóa đã han rỉ. Không hiểu cái cửa sắt này đã bao lâu chưa mở tới.

Đan Thanh tiên sinh xoay chìa khóa xong lấy cánh cửa lay mấy cái rồi đẩy mạnh vào trong.

Bỗng nghe những tiếng kẽo kẹt vang lên một hồi mà cánh cửa mới đẩy vào trong hé mở được mấy tấc.

Cánh cửa sắt vừa hé mở. Đan Thanh tiên sinh vội nhảy lùi lại. Bọn Hoàng Chung Công ba người đồng thời cũng nhảy lùi ra xa hơn trượng.

Lệnh Hồ Xung thấy vậy không tự chủ được cũng lùi ra mấy bước.

Lão Nhậm cười ha hả nói:

– Tiểu bằng hữu! Bọn chúng sợ lão phu đã đành, còn tiểu hữu hà tất phải hoang mang?

Lệnh Hồ Xung “dạ” một tiếng rồi tiến lên. Chàng đưa tay ra đẩy cánh cửa sắt thấy bao cửa đã han rỉ rất dày, phải tốn nhiều khí lực mới đẩy cánh cửa sắt mở rộng ra được hai thước. Mùi hôi hám xông lên ngạt mũi.

Đan Thanh tiên sinh tiến lại cầm hai thanh kiếm gỗ đưa vào tay chàng.

Lệnh Hồ Xung đón lấy cầm trong tay trái.

Ngốc Bút ông nói:

– Phong lão đệ! Lão đệ cầm ngọn đèn dầu này vào.

Lão nói rồi với tay lên vách lấy ngọn đèn đưa cho chàng.

Lệnh Hồ Xung cầm đĩa đèn bằng tay mặt tiến vào trong nhà.

Nhà tù này vuông vắn chừng hơn một trượng. áp tường kê một chiếc giường. Trên giường có một người ngồi. Tóc dài xõa xuống trước ngực. Mặt mũi râu ria xồm xoàm nhìn không rõ tướng mạo. Đầu tóc râu mày toàn một màu đen, không có chỗ nào loang lổ màu trắng.

Lệnh Hồ Xung khom lưng nói:

– Bữa nay vãn bối có duyên may được bái kiến Nhậm lão tiền bối. Mong tiền bối rộng đường chỉ giáo.

Lão Nhậm cười nói:

– Tiểu hữu bất tất phải khách sáo. Tiểu hữu vào đây giải khai nỗi tĩnh mịch cho lão phu, lão phu cảm ơn lắm.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Không dám! Đĩa đèn này đặt xuống giường được không.

Lão Nhậm đáp:

– Được.

Nhưng lão không thò tay ra đón lấy.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng:

– Nhà tù chật hẹp thế này, chỉ hai người ở cũng đã khó bề xoay sở, muốn chuyển động không phải dễ dàng, thì tỷ thí kiếm pháp thế nào được?

Chàng liền tiến lại trước giường đặt đĩa đèn xuống. Tiện tay chàng cầm gói giấy vo tròn trong có vật cứng của Hướng Vấn Thiên giao cho, khẽ nhét vào trong tay lão.

Lão Nhậm ngơ ngác một chút, đón lấy nắm giấy, rồi dõng dạc cất tiếng hỏi:

– Ô kìa! Bốn ông bạn kia có vào quan chiến không?

Hoàng Chung Công đứng ngoài đáp vọng vào:

– Trong nhà địa thế chật hẹp không đủ chỗ đứng.

Lão Nhậm nói:

– Được rồi! Tiểu hữu đóng cửa lại.

Lệnh Hồ Xung dạ một tiếng xoay mình đóng cánh cửa sắt lại.

Lão Nhậm đứng dậy. Người lão phát ra những tiếng leng keng nhỏ nhẹ tựa hồ những sợi xích sắt nhỏ va chạm vào nhau bật lên tiếng.

Lão Nhậm đưa tay phải ra đón lấy một thanh kiếm gỗ ở trong tay Lệnh Hồ Xung thở dài nói:

– Đã 20 năm nay, lão phu không động đến binh khí, chẳng hiểu kiếm pháp học ngày trước còn nhớ nữa không?

Lệnh Hồ Xung thấy trên cổ tay lão là một chiếc vòng sắt. Vòng sắt này buộc vào dây lòi tói thông ra bức tường phía sau lão. Chàng lại coi đến tay kia và hai chân lão đều có xích sắt cột liền vào với dây lòi tói gắn trên tường vách ở phía sau người lão.

Chàng đảo mắt nhìn quanh thấy 4 bức tường đều một màu xanh bóng phát ra ánh sáng. Nguyên bốn bức tường này đều là sắt thép đúc thành. Chàng nghĩ bụng:

– Những xích sắt khóa trên chân tay lão chắc đều bằng thép nguyên chất. Không thì những sợi dây nhỏ bé kia khó mà ràng buộc được cao nhân về võ học như lão.

Lão Nhậm cầm thanh kiếm gỗ vung lên không chém xuống. Quãng không mà mà lão di động thanh kiếm chỉ chừng 2 thước thế mà kiếm phong đã rít lên veo véo.

Lệnh Hồ Xung lên tiếng ca tụng:

– Lão tiền bối! Công lực lão tiền bối thâm hậu vô song.

Lão Nhậm xoay mình đi tựa hồ để cởi bỏ những dây xích cột mình, nhưng Lệnh Hồ Xung đã thấp thoáng nhìn thấy lão mở gói giấy lòi vật cứng trắng ra và lão đang đọc những chữ viết trên tờ giấy.

Lệnh Hồ Xung lùi ra một bước để đầu lấp lỗ vuông trên cửa sắt khiến cho bốn người bên ngoài khỏi nhìn rõ cảnh tượng bên trong.

Lão Nhậm cử động khiến cho dây xích bật lên những tiếng loảng xoảng. Người lão hơi run tựa hồ những dòng chữ trên tờ giấy khiến cho lão cảm xúc. Nhưng chỉ thoáng qua một lát, lão xoay mình lại cặp mắt sáng rực, lão nói:

– Tiểu bằng hữu! Tuy hai tay lão phu cử động không tiện nhưng chưa chắc là không đả bại được tiểu hữu.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối là hậu tiến, dĩ nhiên không phải đối thủ của tiền bối.

Lão Nhậm nói:

– Trước tiểu hữu đã liên công Hắc Bạch Tử 40 chiêu khiến hắn không trả đòn được chiêu nào.

Bây giờ tiểu hữu thử tấn công lão phu đi.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối thật là lớn mật.

Rồi cầm trường kiếm đâm tới. Chàng cũng dùng chiêu thứ nhất mà lúc trước chàng đã tấn công Hắc Bạch Tử.

Lão Nhậm cất tiếng khen:

– Hay lắm!

Lão phóng kiếm chênh chếch đâm ra nhắm vào trước ngực bên tả Lệnh Hồ Xung.

Chiêu này vừa thủ vừa công. Thực là một chiêu thức rất lợi hại trong kiếm pháp. Hắc Bạch Tử dòm qua lỗ vuông thấy không nhịn được lớn tiếng reo:

– Hảo kiếm pháp!

Lão Nhậm cười nói:

– Bữa nay thế là bốn ông bạn vận hên được coi cho mở rộng tầm mắt.

Giữa lúc ấy Lệnh Hồ Xung đã phóng chiêu thứ hai đâm tới.

Lão Nhậm vung kiếm gỗ nhằm đâm vào vai bên hữu Lệnh Hồ Xung vẫn bằng chiêu thức vừa công vừa thủ cực kỳ tinh diệu như trước.

Lệnh Hồ Xung trong lòng hồi hộp vì thấy chiêu kiếm của đối phương không sơ hở chỗ nào để mình phóng kiếm vào kiềm chế những huyệt đạo trọng yếu của lão. Chàng đành đưa ngang lưỡi kiếm ra phong tỏa, có điều mũi kiếm chênh chếch tựa hồ nhằm vào bụng dưới đối phương.

Lão Nhậm cười khành khạch nói:

– Chiêu này tuyệt diệu!

Lão xoay kiếm lướt qua một bên để giải khai lưỡi kiếm Lệnh Hồ Xung.

Hai người ăn miếng trả miếng, mới trong khoảnh khắc đã qua lại ngoài 20 chiêu mà thủy chung hai thanh kiếm gỗ vẫn chưa đụng nhau lần nào.

Lệnh Hồ Xung nhận thấy kiếm pháp đối phương biến hóa phức tạp vô cùng! Từ ngày chàng học được kiếm pháp “Độc cô cửu kiếm” chưa từng gặp phải tay kình địch nào ghê gớm như lão. Kiếm pháp của đối phương thủy chung vẫn kín đáo không tìm đâu ra được chút sơ hở.

Lệnh Hồ Xung đinh ninh ghi nhớ yếu quyết của Phong Thanh Dương dùng “Vô chiêu thắng hữu chiêu”, biến ảo theo ý muốn.

Chiêu “Phá kiếm thức” trong “Độc cô cửu kiếm” tuy là một thế kiếm song nó bao hàm hết thảy những mấu chốt kiếm pháp các môn phái. Tiếng gọi là vô chiêu mà thực ra nó gồm hết căn bản những chiêu số các kiếm pháp khắp thiên hạ.

Lão Nhậm thấy kiếm chiêu của Lệnh Hồ Xung phát huy vô cùng vô tận mà những chiêu biến hóa lại rất kỳ lạ lão chưa từng thấy. May nhờ có kinh nghiệm phong phú, kiến văn quảng bác, lại có trí hơn người, lão hóa giải được hết.

Sau khi trao đổi ngoài 40 chiêu, lão phóng kiếm hơi chậm lại. Lão từ từ vận nội lực vào kiếm gỗ.

Mỗi lần kiếm phóng ra lại vẳng nghe có tiếng rít lên như sấm rền gió cuốn.

Cái kỳ diệu về “Độc cô cửu kiếm” là không phải tỷ đấu nội lực với đối phương. Bất luận nội lực địch thủ thâm hậu đến đâu mà gặp phải kiếm pháp “Độc cô cửu kiếm” tới độ tinh vi cũng thành vô dụng.

Từ ngày Lệnh Hồ Xung học được kiếm pháp này, đây là lần đầu tiên lòng chàng có ý sợ sệt. Mấy phen nguy hiểm tuy chàng nhờ được kiếm pháp tinh diệu hóa giải mà sau lưng đã toát mồ hôi lạnh ngắt.

Thực ra trong lòng lão Nhậm còn xao xuyến hơn. Mấy lần lão chắc mẩm thủ thắng được rồi vì thấy mình dồn đối phương vào tuyệt cảnh ngoài cách buông kiếm chịu thua không còn đường lối nào khác.

Thế rồi đột nhiên Lệnh Hồ Xung thi triển quái chiêu chẳng những giải thoát được tình trạng khốn đốn mà còn thừa cơ phản kích nữa. Chiêu số lợi hại như vậy thực ra ngoài sự tiên liệu của lão.

Bọn Hoàng Chung Công bốn người đứng xúm xít bên cửa sắt nhìn qua lỗ vuông để quan sát cuộc tỷ đấu. Nhưng lỗ vuông này nhỏ quá chỉ đủ hai người xem cùng một lúc, một người ngó bằng mắt bên tả và một người ngó bằng mắt bên hữu. Hai người này coi một lúc rồi lui ra nhường chỗ cho hai người khác.

Ban đầu bốn người thấy lão Nhậm tỷ đấu cùng Lệnh Hồ Xung kiếm pháp tinh kỳ khiến họ thán phục vô cùng. Về sau kiếm pháp của hai người đi tới chỗ vi diệu khiến họ không thể lĩnh hội được.

Có lúc Hoàng Chung Công coi một chiêu rồi cố nghĩ cho ra chỗ tinh diệu của nó mà phải mất một thời gian khá lâu mới hiểu được thì bên trong hai người đã qua lại thêm mười mấy chiêu nữa rồi. Mười mấy chiêu này chiết giải thế nào tuy lão ngó đấy mà thật ra như chẳng nhìn thấy gì. Lão kinh hãi vô cùng

bụng bảo dạ:

– Té ra kiếm pháp của Phong lão đệ tinh thâm đến trình độ mình không thể lường được. Hồi nãy y tỷ đấu với mình, thực ra mình mới dùng tới một thành nội lực, nhưng đừng nói y toàn thân không có chút nội lực nào, dù y có nội lực cao thâm đi nữa thì phép “Thất huyền vô hình kiếm” trên cây dao cầm

của mình cũng chẳng làm gì được ỵ Y chỉ cần thi triển ba chiêu kiếm liên hoàn, để ta buông đàn chịu thuạ Giả tỷ y quyết đấu sinh tử thì ngay chiêu đầu đã đâm mù cặp mắt của ta rồi.

Phép “Độc cô cửu kiếm” đối với địch nhân càng cường mạnh bao nhiêu nó càng lợi hại bấy nhiêu.

Bản lãnh địch nhân mà tầm thường thì chỗ tinh diệu trong “Độc cô cửu kiếm” lại không phát huy được.

Bây giờ Lệnh Hồ Xung gặp phải 1 nhân vật bản lãnh kinh thiên động địa trong võ lâm hiện nay.

Võ công lão đã đến trình độ mà kẻ thông thường không biết đâu mà lường nên những chỗ tinh vi ảo diệu trong “Độc cô cửu kiếm” càng phát huy đến chỗ lâm ly độc đáo.

Nếu Độc cô cầu bại tái sinh mà gặp được tay đối thủ thế này, chắc lão phải hoan hỉ hết chỗ nói.

Nên biết người sử dụng “Độc cô cửu kiếm” này ngoài phần kiếm quyết, kiếm thuật, còn một phần

lớn phải trông vào trí tuệ linh mẫn của người sử nó. Người nào sử được một cách tự nhiên không còn

bó buộc trong giới hạn qui củ lề luật mới là chỗ tối cao vô thượng của kiếm pháp. Vậy người sử kiếm trí

tuệ càng cao minh bao nhiêu thì kiếm pháp càng cao minh chừng ấy. Mỗi cuộc tỷ kiếm cũng như nguồn

cảm hứng đến với đại thi gia. Nguồn cảm hứng càng dồi dào thì ý thơ càng lai láng. Bài thơ nghĩ ra có giá trị tương đương với nguồn cảm hứng.