fbpx
skip to Main Content
Vovinam Schools
Le Sang Library
Vovinam Home
Vovinam University International

Mục Lục

Chương 1 : Lời Giới Thiệu

Chương 2 : Tinh thần Võ Đạo trong cộng đồng Nhân Loại

Chương 3 : Gía trị nhân bản của Việt Võ Đạo

Chương 4 : Hành trình VOVINAM đi từ Việt Võ Đạo tới Nhân Võ Đạo

Chương 5 : Lý tưởng và niềm tin tiến tới Nhân Võ Đạo

Chương 6 : Tinh thần, tư tưởng, khuynh hướng của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo

Chương 7 : Võ đạo với con người

Chương 8 : Đổi đời, đổi người, đổi tính

Chương 9 : Đưa võ đạo vào học đường

Chương 10: Võ đạo với đời sống xã hội xưa

Chương 11: Tiêu hướng giáo dục của Việt Võ Đạo

Chương 12: Lòng nhiệt thành của tuổi trẻ

Chương 13: Bàn qua về lẽ đạo và tuổi thọ

Chương 14: Đức dũng và lòng nhân

Chương 15: Sức mạnh dân tộc Việt

Chương 16: Thái độ sống của Việt Võ Đạo sinh

Chương 17: Luận về sự mừng giận

Chương 18: Đức xả kỷ

Chương 19: Nhận định về đức độ người chỉ huy

Chương 20: Sứ vụ và bản lãnh của người Huấn Luyện Viên

Chương 21: Ý nghĩa cuộc sống

Chương 22: Tài sản tinh thần

Chương 23: Kiện toàn tâm thân

Chương 24: Lẽ sống với Việt Võ Đạo sinh

Chương 25: Sống khoẻ

Chương 26: Hạnh phúc và sự nghiệp

Chương 27: Quan niệm về niềm tin Việt Võ Đạo

Chương 28: Vovinam phải tiến theo thời đại

Chương 29: Hệ thống võ sư đồng hóa

Chương 30: Vài dòng giới thiệu về Vovinam

****

Chương 1 – Giới thiệu Tư Tưởng Việt Võ Đạo

Nhận từ tay Võ Sư Chưởng môn Lê Sáng tập bản thảo TƯ TƯỞNG VIỆT VÕ ĐẠO, với một yêu cằu của ông là viết cho lời giới thiệu. Tôi tự nghĩ, là một nhà văn có biết võ nghệ gì đâu mà bàn về võ? Nhưng trong mối giao tình đồng cảm lâu ngày, hiểu ý đẹp của ông, một người suy tư chín chắn, không làm việc dư thừa. Đúng với tư thế của một vị tôn sư siêu đẳng võ học, đã ra tay là phải chính xác, nên tôi vui vẻ nhận lời.

Đọc những đề mục, tôi hiểu rằng đây là cuốn sách viết về tư tưởng chủ đạo của võ học, nhầm hướng dẫn môn sinh thực tập và ứng dụng vào cuộc Cách Mạng Tâm Thân, tạo cho mỗi người có được “bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái”, giúp mỗi người vững tâm, bền chí, đủ nội lực, tự do chủ động, triển khai Văn Hóa Tính Dân Tộc qua Việt Võ Đạo, để chuyển hiện vào thời đại thành Nhân Võ Đạo, chứ không phải là sách viết chuyên về võ thuật. càng đi sâu vào chi tiết, càng thấy rõđây là một tác phẩm đã tiến vào trung tâm cốt lõi của võ học, đó là đạo học.

Đúng, mỗi một đại môn phái võ học chân chính, phải được xây dựng trên nền tảng đạo học chân chính, nhằm phụng sự Con Người, bảo vệ sự sống mỗi người, cuộc sống an vui của tất cả, bảo vệ những giá trị văn hoá là sự biểu hiện tất nhiên của mọi sinh hoạt do nền đạo học ấy vun bồi. đấy là mục đích tối thượng của đạo học, và nhất định cũng chính là lý tưởng của người học võ.

Việt Võ Đạo cũng trong chiều hướng đó. Nhưng không do một nền đạo học cá biệt nào chủ đạo, như phái Thiếu Lâm do Đạo Phật, hay phái Võ Đang do Đạo Lão của Trung Quốc, mà Việt Võ Đạo lại thể hiện trọn vẹn Văn Hóa Tính Dân Tộc. Văn Hóa Tính Việt khởi đi từ ý niệm lấy Con Người làm cứu cánh. Hiển hiện cụ thể nhất là qua việc tôn thờ vật tổ của Việt Tộc. Ngay từ buổi khai nguyên, người Việt đã không chọn một vị thần linh vô hình, Nam hay Nữ làm Thần Tổ, như các dân tộc cùng thời, mà đã thần hóa chính Cha Mẹ mình tôn làm Thần Tổ, và cũng rất bình đẳng không trọng Nam khinh Nữ hay ngược lại. Đó là truyền thuyết về linh thoại Rồng Tiên. Cha thuộc giống Rồng là Lạc Long Quân và Mẹ thuộc nòi Tiên là Âu Cơ. Đây là Bản Chất của Nhân Chủ Đạo, một dấu ấn tư tưởng đầu đời của Dân Tộc Việt.

Cũng bởi lấy Con Người làm cứu cánh, nên Việt Tộc đã có những lựa chọn hết sức táo bạo, ngay từ thời thượng cổ. Tức là “bỏ Đất giữ Người”. Quyết bảo tồn nòi giống, nên đã thực hiện đợt di cư vĩ đại. “Còn Con Người là còn tất cả”. “Còn tiếng nói là còn huyền thoại”. “Còn huyền thoại là còn Dân Tộc”. Nên khi đã chọn được đất sống, một môi trường tốt để phát triển Dân Tộc, chính thức thành lập một Quốc Giacó lãnh thổ, có chính quyền, có dân chúng yên vui xây dựng, bước hẳn vào thời đại chính sử, thì đương nhiên đã trở thành một Quốc Gia có Truyền Thống Dân Tộc, có Văn Hóa Tính Độc Lập. Không còn bị đồng hóa về mặt nhân chủng lẫn văn minh, bởi bất cứ sức mạnh ngoại lai nào nữa.

Nhờ có bản chất Nhân Chủ, có bản tính Tự Chủ, có khí độ Bao Dung, nên đã thành truyền thống Dung Hóa, sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón nhận, mà biết đãi lọc lấy những tinh hoa tư tưởng từ ngoài vào, để chủ động sáng hóa thêm mới, nên Việt Tộc mới tránh nổi một Ngàn Năm bị Hán Tộc đồng hóa toàn diện và quyết liệt, từ việc đem người sang thống trị, đô hộ, đến việc dùng văn hóa mạnh để tẩy xóa đi truyền thống Dân Tộc, trộn lối sống, cách sống, lẽ sống cực vi hiếu chiến của Người Phương Bắc vào, thay lối nghĩ, nếp sống anh nhiên tự tại của NgườiPhương Nam.

Cũng phải nhìn nhận một sự thực lịch sử, là ngay thuở khởi đầu bị Trung Hoa đô hộ, thì rất may là Người Việt đã nhận được một luồng Đạo Học thâm trầm từ Văn Minh Ấn Độ nhập vào, đó là Đạo Phật. Nhờ Biện Chứng Nhân Chủ Phật, kết hợp trọn vẹn nhất thể với Bản Chất Nhân Chủ Việt, nên Tư Tưởng Việt nghiễm nhiên trở thành có hệ thống, củng cố cho niềm tin và đức tự chủ, đã nuôi dưỡng nổi tinh thần kiên trì đấu tranh cho Độc Lập Dân Tộc, kéo dài cả ngàn năm, đồng thời có được một thứ vũ khí thần kỳ, đủ sức hóa giải cuộc đồng hóa khắc nghiệt của Văn Minh Trung Hoa, đó là khả năng Dung Hóa.

Do khả năng Dung Hóa, Dân Tộc Việt vừa tránh nổi một cuộc Đồng Hóa, vừa thực hiện được một công trình Tổng Hợp Toàn Diện các nguồn Đạo Học của Văn Minh Thảo Mộc Đông Phương. Tức viên dung nổi ba Tôn Giáo: Phật -–Lão – Khổng, mà hầu như có bản chất và phương hướng của hai đạo Lão và Khổng, đã là hai đối lực không thể dung nổi nhau. Nên Đạo Lão đã bị đánh rớt xuống thế bị trị, để Đạo Khổng chiếm ghế chủ đạo độc tôn thống trị trong triều chính, trong văn học, trong giáo dục, và ngay tronglối sống, cách sống, và lẽ sống của Người Trung Hoa.

Vì thế, khi Đạo Lão bị đánh dạt xuống Giao Châu, đã được Người Việt đón nhận chân tình như với Đạo Phật, từ đó ngôn ngữ giữa hai đạo giải thoát và vô vi bổ sung cho nhau. Ngôn từ, chữ nghĩa do Đạo Lão đem tới đãđược dùng làm phương tiện phiên dịch Kinh Phật để truyền đạt. Cho nên sau này Đạo Phật Giải Thoát đã bị giới Nho Sĩ nhìn theo lăng kính vô vi của Đạo Lão, khiến có ngộ nhận như là một học thuyết vô vi xuất thế, xa lìa thực tế. Làm nhẹ hẳn phần tích cực Từ BiCứu Độ đi. Nhưng vì bản chất chủ động của truyền thống Việt, trong sự thôi thúc của nhu cầu chống ngoại xâm, giành Độc Lập cho Dân Tộc, tinh thần Tự Chủ Cứu Độ của Đạo Phật đã trở thành tư tưởng chủ đạo cho các cuộc khởi nghĩa. Nên sau khi Đất Nước mở mùa Ngàn Năm Tự Chủ, Đạo Phật đã trở thành một Tôn Gíao Chính của Quốc Gia. Nhưng với giới Thức Gỉa Việt thì trong Phật đã có Lão. Và Đạo Phật đã trở thành Đạo Phật Việt, không còn là Đạo Phật thuở mới truyền vào nữa.

Thế nên, dù Thái Tổ Nhà Lý vốn xuất thân từ cửa Chùa, và Thiền sư Vạn Hạnh là kiến trúc sư cho Triều Đại và Văn Minh thời Lý, đã không đưa Đạo Phật vào ngôi vị Độc Tôn Toàn Thống, mà đã thể hiện truyền thống Dung Hóa của Việt Tộc, trong việc xây dựng Quốc Gia theo quan niệmViên Dung Tam Giáo: Phật – Lão -–Khổng. Tạo cho Giới Thức Gỉa và Người Dân Việt có đời sống thực tại và tâm linh toàn diện: Sống trong thực tế xã hội thì theo quan niệm Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín và kinh bang tế thế của Đạo Khổng. Khi lui về riêng tư với chính mình thì sống An Nhiên, Tự Do, Tự Tại theo Đạo Lão. Vươn tới cõi bao la, tìm về trước sau kiếp sống của mình và vạn hữu, thì phải mở Trí Tuệ Từ Tâm của mình ra theo Đạo Phật. Như vậy là nhờ Nhận Thức Tổng Hợp Viên Dung, Người Việt đã dung hóa được Ba nền Đạo Học vĩ đại của Nhân Loại, để có một cuộc sống, lối sống, lẽ sống toàn diện, từ Con Người, Xã Hội tới Vạn Hữu ở thời Lý, Trần.

Xuất phát từ Nhận Thức Tổng Hợp, Nhà Lý đã mở ra cho nước Đại Việt một nền Văn Hiến Dung Hóa: đa nguyên, phân nhiệm, điều hợp. Một nền Đạo Học Viên Dung Tam Giáo. Cũng từ nền Đạo Học đó Nhà Lý đã tạo ra một nền Võ Học đặc thù Việt Nam, khiến cho Người Việt có đủ sức mạnh tinh thần thể lực, hun đúc thành những bậc danh tướng lẫy lừng như Lý Thường Kiệt văn võ song toàn. Phạt Tống, Bình Chiêm, bảo toàn bờ cõi, khiến cho ngoại địch khiếp sợ không dám xâm lăng Đại Việt nữa. Nền Đạo Học Viên Dung thời Trần đã đánh thắng Ba đợt xâm lăng của Mông Cổ. Qua chiến lược: Toàn Dân Vi Binh. Toàn Tài Vi Dụng. Toàn Địa Bố Phòng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Nhưng sau khi Nhà Trần tiêu diệt nổi ý chí xâm lăng của Nhà Nguyên Trung Hoa, đất nước được thái bình dài lâu, Đạo Khổng dần dần vượt lên chiếm lĩnh ưu thế cai trị. Triều đình rơi vào sai lầm “trọng văn, kinh võ “. Sĩ tử sùng thượng Tống Nho. Chế độ Nhà Trần đi vào vết mòn Phong Kiến Trung Hoa, mất hẳn khả năng viên dung, sáng tạo của truyền thống Văn Hóa Việt. Làm cho nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên Phân Nhiệm Điều Hợp của Lý Trần bị nghiêng đổ, dẫn tới cuộc cách mạng triệt để, táo bạo vượt trước thời đại nhân loại của Hồ Qúy Ly. Mượn cớ phục hồi Nhà Trần, Nhà Minh Trung Hoa đem quân sang xâm lăng, huỷ diệt Văn Hiến, Đặt ách đô hộ lên Đại Việt. Dù sau này anh hùng Lê Lợi đã khôi phục được Độc Lập Dân Tộc, nhưng Nguyễn Trãi, người thiết kế chế độ Nhà Lê, đã cố gắng hết mình, vẫn không thể phục hồi được nền Văn Hiến Dung Hóa nữa.

Từ đó Việt Nam bị khống chế bởi một nền Đạo Học độc tôn toàn thống: Tôn QuânDuy Lý Cố Chấp Khổng Giáo, vốn đã bị biến thái bởi tư tưởng phong kiến của đế chế Trung Hoa. Nước Việt bị rơi vào thảm cảnh tranh chấp ngôi vị thống trị, dẫn tới chiến tranh kéo dài trên nửa Thiên Niên Kỷ, mà đến nay vẫn còn luẩn quẩn trong vũng lầy “của hệ tư tưởng toàn thống này, tranh quyền thống trị Quốc Dân với tư tưởng toàn thống độc tôn kia”. Chỉ khi nào Việt Nam phục hoạt nổi truyền thống Văn Hóa Nhân Chủ Việt, viên dung được các Tôn Giáo, và mọi nguồn tư tưởng của các nền Đạo Học Nhân Lọai đang hiện diện trên đất Việt, thiết kế thành công tốt đẹp được nền Văn Hiến Dung Hóa: Đa Nguyên Phân Nhiệm Điều Hợp thì nước Việt mới thực sự có hòa bình phát triển bền lâu trong tiến trình Toàn Cầu hóa khắp nơi.

Tư tưởng Việt Võ Đạo đúng là đang nuôi ý chí nối lại nguồn Đạo Lớn của Dân Tộc, mà Đạo Lớn ấy cũng chính là đạo chung của toàn thể Loài Người. Vì Việt Nam xưa đã thực hiện xong công cuộc dung hóa trọn vẹn các nền Đạo Học Đông Phương, hiện nay đang đích thân gánh chịu mọi khổ đau khắc nghiệt của Thế Giới, để chứng nghiệm và thể nghiệm cuộc dung hóa Đạo Học Toàn Nhân Loại, mhầm cống hiến cho thời đại một nền Văn Hiến Dung Hóa, đã được Dân Tộc Việt tự thân nghiệm chứng, nhằm đáp ứng đúng với nhu cầu Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn của lịch sử. Vậy từ Việt Võ Đạo mở lớn chuyển hiện thành Nhân Võ Đạo cũng là khuynh hướng tất yếu của lịch sử, mà không hề làm mất đi tính cách chủ động đương niên của Văn Hóa Tính Việt trong đó, trái lại còn làm sáng thêm cho Dân Tộc Việt trên trường Quốc Tế nữa.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách TƯ TƯỞNG VIỆT VÕ ĐẠO do tác giả Lê Sáng biên soạn đến với bạn đọc.

Lý Đại Nguyên

Chương 2: Tinh Thần Võ Đạo Trong Cộng Đồng Nhân Loại

I – Sự khác biệt giữa tinh thần võ đạo và tinh thần võ sĩ đạo: Trước khi tìm hiểu Tinh Thần Võ Đạo Trong Cộng Đồng Nhân Loại, chúng ta hãy thẫm định một định nghĩa về tinh thần võ đạo và tinh thần võ sĩ đạo. Đây là hai từ ngữ có nhiều đặc điểm, dễ gây cho chúng ta sự ngộ nhận là chúng giống nhau, mặc dù chúng vẫn có nhiều đồng điểm cũng như dị điểm.

Thông thường chúng ta có thói quen coi võ đạo như một cách gọi tắt của từ ngữ võ sĩ đạo, trong lúc Võ Đạo là chuyển ngữ của Bushido, và võ sĩ đạo là chuyển ngữ của Samourai. Khi trình bày về Võ Đạo và Võ Sĩ Đạo, chúng ta phải lấy những danh xưng của nước Nhật ra làm tiêu chuẩn đối chiếu, không phải vì dân tộc Nhật có một nền võ đạo lâu đời và thâm viễn nhất, mà chính là vì dân tộc Nhật có nhiều công lao trong việc hệ thống hóa võ đạo và hội nhập võ đạo vào Cộng Đồng Nhân Loại, nên những từ ngữ võ đạo của người Nhật rất phong phú.

Trở lại tinh thần võ đạo và tinh thần võ sĩ đạo, qua từ ngữ tương xứng khá chính xác là Bushido và Samourai, chúng ta đã thấy rõ sự phân biệt khá rõ rệt tinh thần võ đạo bao gồm võ học Đông Phương hàm chứa trong các môn võ học như Atewaza (võ cổ truyền của người Nhật), tới Kiếm thuật, Nhu thuật (Jiujitsu). Nhu đạo (Judo), Không thủ đạo (Karatedo), Hiệp Khí Đạo (Aikido), v.v..Trong lúc tinh thần võ sĩ đạo là sự thể hiện tinh thần võ đạo trong thực tế đời sống ở thời phong kiến Nhật của các kiếm sĩ trọng nghĩa khinh tài, vị chúa, tuẫn quốc.

Nếu so sánh lớn nhỏ, lâu mau, chúng ta thấy ngay là tinh thần võ sĩ đạo nằm trong tinh thần võ đạo, còn tinh thần võ đạo là nền tảng tinh thần của toàn thể lịch sử Nhật Bản. Tinh thần võ sĩ đạo (Nhật Bản) chỉ đánh dấu một thời kỳ phong kiến của dân tộc Nhật, chịu ảnh hưởng của tập quán xã hội, chế độ, chính trị, v.v.. Nhưng tinh thần võ đạo thì không. Tỉ dụ: Xã hội, chế độ, chính trị,… của Nhật sau tháng 8 năm 1945 tan vỡ, đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, nhưng Võ Đạo Nhật Bản vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong Cộng Đồng Nhân Loại hơn bao giờ hết chính là một thí dụ điển hình.

II- Sự phát triển võ học trong cộng đồng nhân loại: Qua thẩm định về tinh thần võ sĩ đạo với tinh thần võ đạo của Nhật Bản, chúng ta thường nghe nói “võ học không biên giới”, “tinh thần thượng võ không phân biệt quốc tịch”, v.v.. Như vậy, phải chăng võ học là bộ môn sinh hoạt đứng ngoài vòng pháp luật quốc gia, và tinh thần thượng võ không mang quốc tịch riêng biệt của một quốc gia nào?

Thực ra, võ học hay bất cứ một nghành học nào cũng đều có xuất phát điểm từ một quốc gia, nhưng sự phát triển không phải chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia ấy, mà quảng phát vào cộng đồng nhân loại. Do đó, võ học không những tôn trọng luật pháp quốc gia, mà còn tôn trọng cả luật pháp quốc tế nữa.

Chân gía trị của võ học chính là tính chất nhân bản: “Do con người, vì con người và phát triển con người”. Khởi thủy, võ học chỉ là ý niệm của con người muốn tự tồn trước ngoại cảnh và thiên nhiên: Mưa bão, ác thú, quyền sống và sự thù nghịch,… Ý niệm tự tồn được kinh nghiệm , sáng kiến, và kỹ thuật phối hợp đã biến thành một quan niệm đấu tranh: Con người biết nhảy múa theo lửa, cũng biết tự vệ và tấn công theo cách uốn éo của lửa. Con người yếu đuối biết tự khắc phục bằng cách rèn luyện thân thể cho cường tráng, con người tay không biết sử dụng võ khí hỗ trợ cho mình, từ đồ đá mài, đồ đồng sang tới đồ sắt.

Do óc tổ chức và khả năng học tập đã giúp con người tổ chức thành bộ lạc, bộ tộc rồi dân tộc, và truyền thụ hay học hỏi lẫn nhau những gì là thiết thân. Tất cả những diễn biến ấy theo tiến trình nhân hòa cứ thế gia tăng mà hình thành võ học cũng như võ đạo, thành một cơ cấu tổ chức rõ rệt trong đời sống cộng đồng nhân loại có thể biểu hiện như dưới đây:

 

Qua diễn đồ chúng ta thấy:

1 – Dân tộc được đặt trong môi trường Quốc Gia, Quốc Gia được đặt trong môi trường Nhân Loại.

2 – Chính trị xuất phát từ trung tâm môi trường Dân Tộc, quảng phát và xoáy vào môi trường Quốc Gia, rồi dừng lại trong giới hạn (vỏ cứng) của môi trường Quốc Gia.

3 -–Võ học phát xuất từ hạ tầng cơ cấu của Dân Tộc, quảng phát từ Dân Tộc sang Quốc Gia, rồi tỏa rộng khắp Nhân Loại.

Đặc điểm ở đây là: Chính trị bị giới hạn trong khuôn khổ Quốc Gia, trong lúc Võ Đạo có thể quảng phát khắp cả môi trường Nhân Loại. Sự giới hạn được quy định bởi các cơ cấu tổ chức quốc gia đều có nhiều dị biệt, và bắt buộc các Quốc Gia phải tôn trọng lãnh thổ và chủ quyền của nhau theo công pháp quốc tế, trong lúc võ học , võ đạo đi từ Dân Tộc -–Quốc Gia tới Nhân Loại mà vẫn không bị giới hạn trong một khuôn khổ nào.

Chúng ta có thể lấy ví dụ điển hình ở Nhật trong và sau Đệ Nhị Thế Chiến: Nhật Bản muốn tìm đủ mọi cách – kể cả chiến tranh – để phát triển ảnh hưởng chính trị, kinh tế tại Á Châu mà không được. Trong lúc Võ Học Nhật ngược lại, đã phát triển mạnh sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chỉ trong vài năm đã thâu nạp được 50 triệu môn sinh Nhu Đạo trên khắp thế giới.

III -–Tinh thần Võ Đạo trong Cộng Đồng Nhân Loại

Chúng ta thấy võ học đi từ cá nhân, phát xuất từ ý niệm sinh tồn của cá nhân, trước khi đi vào những môi trường sinh hoạt xã hội. Tinh thần võ đạo chính là tính chất của võ học, nên cũng phát xuất từ cá nhân trước khi quảng phát vào các môi trường sinh hoạt xã hội.

Do đó, tinh thần võ đạo không lấy dân tộc hay quốc gia làm đơn vị hoạt động như chính trị, kinh tế mà sẵn sàng hoạt động trong bất cứ môi trường sinh hoạt nào, từ dân tộc -–quốc gia tới nhân loại.

Chính trị, kinh tế có thể liên kết thành khối các quốc gia lại, như khối Bắc Đại Tây Dương (NATO), khối Đông Nam Á (SEATO), khối Varsovie, khối Thị Trường Chung (Marché Commun), nhưng không bao giờ có sự liên kết võ học hay võ đạo giữa nước này với nước khác, vì võ học cũng như võ đạo đều không chú trọng tới việc lấy dân tộc hay quốc gia làm đơn vị đấu tranh hay liên kết.

Trong Cộng Đồng Nhân Loại, tinh thần võ đạo mang lại những lợi ích thiết thực dưới đây:

  • Giúp con người có ý thức và khả năng tự tồn hữu hiệu trong guồng máy sinh hoạt xã hội.
  • Giúp những phần tử dị chủng và dị tộc hiểu biết nhau nhiều hơn trong sinh hoạt chung.
  • Tạo động cơ tinh thần trong mọi dịch vụ hoạt động và điều hành xã hội, với những đức tính tự tin, can trường, thượng võ và kỷ luật.
  • Tạo điều kiện hợp tác quốc tế trong sự hiểu biết và tương nhượng giữa các quốc gia.

IV – Phẩm tính sâu rộn của võ đạo

Qua phần phân tích trên, hẳn chúng ta thấy: Võ Đạo tuy là “Võ” nhưng còn là “Đạo”, và tuy là “Đạo” vẫn không bỏ thực chất “Võ”. Đó thật là một vấn đề vừa giản dị vừa phức tạp, khó hiểu mà dễ hiểu. Vì võ đạo tuy là võ nhưng không còn là thứ “Võ” bị kỳ thị, coi thường là “Võ Biền”, “Võ Phu”, mà nó đã hội đủ một số phẩm tính của tôn giáo và giáo dục tâm thể để phát triển không những phần xác mà còn cả phần tâm của con người. Mặt khác, dù mang những phẩm tính tôn giáo và giáo dục như: tinh thần xả kỷ, sát thân thành nhân, trọng nghĩa khinh tài, nhưng chỉ trên tinh thần dung hợp và thái dụng chứ không đóng khung trong những giáo điều cố định.

Ví dụ: Yoga gốc Bà La Môn giáo (Brahmatisme), trở thành môn tu dưỡng của Phật Giáo và Ấn Độ giáo, sang Trung Quốc hội nhập vào phương pháp thiền tu của Thiếu Lâm, rồi hội nhập vào võ cổ truyền của Nhật với những thành phần môn sinh Phật Giáo và Thần Đạo để hình thành Nhu Đạo, nhưng du nhập vào xã hội Tây Phương lại mang cả phẩm tính Công Giáo và Tin Lành,v.v.. Đó chính là trạng thái chuyển hóa (transformation) và thăng hoa (sublimation) thành siêu tôn giáo.

Một đặc điểm khác là: Võ Đạo tuy xuất phát từ dân tộc, nhưng lại mang thực chất Nhân Loại và có chiều hướng phát triển dàn tỏa ra khỏi dân tộc, vào Nhân Loại. Không ai cấm một người Mỹ học Nhu Đạo đối phó với người Nhật, cũng như không ai cấm một người Nhật học Thiếu Lâm chống lại người Tàu, hoặc một người Pháp học Vovinam Việt Võ Đạo để tranh hùng với người Việt.

V – Không có sự kỳ thị và độc quyền phát triển trong các môn phái võ đạo

Vấn đề cuối cùng mà chúng ta đề cập tới là, liệu có cự kỳ thị và tranh giành ảnh hưởng để độc quyền phát triển giữa các môn phái Võ Đạo trong cộng đồng nhân loại không?

Chúng ta có thể khẳng định là không, mặc dầu chấp nhận một thực trạng không mấy tốt đẹp của thời hiện đại: Sự kỳ thị đôi khi trở thành chủ điểm của một số quan niệm thiếu chiều sâu, trên rất nhiều lãnh vực: Quốc Gia, Chính Trị, Tôn Giáo, Kinh Tế, Văn Hóa, Xã Hội, Nhân Chủng, … Nhưng bên cạnh niềm lo âu lớn, chúng ta còn có sự tin tưởng lớn hơn: Khi chúng ta nhắc tới sự kỳ thị, đương nhiên chúng ta coi sự kỳ thị đó là sai, là xấu, cần chống lại để xã hội được ổn định trong công bình minh chính. Với võ đạo, chống lại sự kỳ thị, đó chính là Tinh Thần Thượng Võ.

Muốn thấu đáo hơn, chúng ta có thể đặt câu hỏi ngược lại: Nếu qủa vậy, tại sao có nhà cầm quyền Nhật (thời Hàn Quốc bị Nhật chiếm đóng) bắt người Hàn Quốc phải học võ Nhật, cấm không được học võ Hàn Quốc? Hoặc như tình trạng những (pha) tương tàn trong võ sử Trung Quốc?

Thực ra, đó không phải là sự tranh hùng giữa các môn phái võ đạo, mà chỉ là sự tranh chiếm quyền hành giữa các chủ trương và sách lược chính trị của kẻ đi xâm lăng và người bị trị. Về tình trạng tương tàn trong võ sữ Trung Quốc cũng vậy, chỉ là sự tranh chấp quyền hành giữa các phe nhóm đối nghịch đã được tiểu thuyết hóa và bi thảm hóa. Trên thực tế, chưa bao giờ có sự thù nghịch giữa các môn phái võ đạo nước này, ngoại trừ quan niệm thượng võ “hành hiệp giang hồ”, “trừ gian diệt bạo”, “cứu khốn phò nguy” truyền thống của người Trung Quốc.

Đó chính là Tinh Thần Võ Đạo của quan niệm hành võ hào hiệp nhằm chống lại sự tà ngụy, sự gian ác phi võ đạo, chứ không phải sự tương tàn giữa các môn phái võ đạo. Sự áp dụng vào chiến tranh thời xưa cũng vậy, thuộc về lãnh vực chính trị của người cầm quyền, hoàn toàn vượt ra khỏi quan niệm hành võ của các môn phái võ đạo. Do đó người ta không thể võ đoán rằng: Hai người lính thù nghịch cùng sử dụng chung một môn võ chiến đấu với nhau là môn phái võ đạo đó chia rẽ và phân hóa. Hoặc khi nói: Một điệp viên Mỹ giỏi Nhu Đạo và Túc Quyền Đạo là các môn phái này phục vụ cho nghề tình báo phản gián ngoại quốc.

VI – Triển vọng

Cùng với võ học, tinh thần võ học đã phát triển mạnh trong Cộng Đồng Nhân Loại. Tại bất cứ quốc gia nào, chúng ta cũng nghe nói đến các nghành võ thuật, võ đạo như: Nhu Đạo (Judo), Không Thủ Đạo (Karatedo), Hiệp Khí Đạo (Aikido), Túc Quyền Đạo hay Thái Cực Đạo (Taekwondo), quyền Anh, .v.v.

Trở về với xã hội Việt Nam: Sự phát triển võ đạo ra sao? Chúng ta thường tự hào nền văn minh tinh thần từ ngàn xưa của dân tộc Việt, cũng như người Tây Phương luôn kiêu hãnh về sự giàu mạnh kỹ thuật và nền văn minh vật chất của họ, tại sao chúng ta không phát triển những ưu thế sẵn có của chúng ta vào Cộng Đồng Nhân Loại.

Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đã có một nền võ đạo của họ. Và họ đã khai triển tối đa tinh thần võ đạo của họ trong Cộng Đồng Nhân Loại. Nhân loại biết đến dân tộc Nhật vì một số đặc tính, nhưng đặc tính nổi bật chính là tinh thần Nhật Võ Đạo, cũng thế với Trung Quốc và Hàn Quốc, đặc tính nổi bật được thể hiện ở các môn võ đạo của họ.

Việt Nam chúng ta cũng có một nền võ đạo như họ. Tinh thần võ đạo chúng ta rất cao cả, chân chính, kiên cường được chứng nghiệm trong những chiến công hiển hách tưởng không sao đánh nổi của thời Trần Hưng Đạo. Lê Lợi, Nguyễn Huệ.

Như vậy, tinh thần võ đạo tự nó đã có một hấp lực đặc biệt làm chúng ta mến mộ. Song song với sự mến mộ đó, chúng ta phải nổ lực vận dụng khả năng và nghị lực trong đại công tác phát huy tinh thần võ đạo Việt Nam vào Cộng Đồng Nhân Loại. Đó là triển vọng của Vovinam Việt Võ Đạo, và là kỳ vọng của tất cả môn sinh Việt Võ Đạo chúng ta, khi sửa soạn bước vào thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chương 3 – Giá trị nhân bản của Việt Võ Đạo

I – Tính chất nhân bản của võ thuật, võ đạo

Thời xưa, tại Đông Phương, vì đất rộng người nhiều và vì hệ thống giao thông kém, kinh đô xa, con người chỉ cách tăng cường khả năng tự tồn, chơ không thể chờ pháp luật can thiệp giải quyết hộ những bất công.

Vì vậy, nảy sinh ra một công thức:

– Hạng người thứ nhất, học võ để tự vệ (đề phòng giặc cướp).

– Hạng người thứ hai, học võ để tranh chiếm (muốn áp bức người, giành lợi phải giỏi hơn).

– Và theo luật thừa trừ, cũng nẩy sinh hạng người thứ ba, trọng tài, can gián dùng võ lực can thiệp để:

1- Cứu người áp bức, hoặc

2- Đôi khi lợi dụng tìnhthế để tranh quyền lợi về mình.

Tất nhiên, người có thể nắm vai tuồng thứ ba kia phải là một người xuất sắc và có những khả năng đặc biệt như: Võ công cao hơn, có nhiều uy tín, hoặc nhiều nưu lược, giỏi tâm lý, biết can gián.

Do đó, tự bản thân võ thuật chúng đã có những giá trị đặc biệt, về cả xấu lẫn tốt. Gạt bỏ những gía trị xấu giữ lại và phát triển những giá trị tốt, là đã nâng đỡ võ thuật lên hàng võ đạo.

Tiếng “Đạo” của người Đông Phương – nơi nhu cầu và tài nghệ của con người được nghệ thuật hóa và triết hóa tới cao độ – quả thật chưa có một từ ngữ tương đương nào của Tây Phương có thể dịch thoát, vì “Đạo” ngoài ý nghĩa là “con đường”, là “thông lộ”, còn bao hàm cả ý nghĩa về tôn giáo, luân lý và nghệ thuật.

Ví dụ: Uống trà là một nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và những ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, giúp ích xã hội, là trà đạo. Uống rượu là một thú vui, nhưng biết cách uống rượu với những nghi tắc đặc biệt, và một quan niệm cao khiết về nhân tâm thế đạo, hiến ích nhân quần, là tửu đạo. Thưởng hoa là một thú vui thông thường trong đời sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn là nghệ thuật thưởng hoa, và nâng cao hơn nữa về đạo sống giúp tiến hiến ích là hoa đạo.

Võ thuật cũng vậy. Học võđể trau dồi kỷ thuật tự vệ hay chiến đấu hoặc dùng làm nghề mưu sinh là võthuật, võ nghệ. Nhưng học võ với ý thức cao, hướng thiện và cải thiện con người toàn diện, có quan niệm hành võ tốt, phục vụ con người là võ đạo. Do đó, học võ cốt để khoe khoang hi tài, hiếu thắng và tranh thắng hoặc để sử dụng, thực hiện những ý đồ riêng tư, không phải là võ đạo. Võ đạo đi từ những ý hướng tốt, sang khuynh hướng tốt, để đạt tới một lý tưởng cao đẹp. Lý tưởng cao đẹp đó chính là con người, vì người và phát triển con người, để con người luôn luôn thăng tiến về mọi mặt, hầu có thể đóng góp khả năng giúpích và hiến ích cho xã hội nhiều hơn. Ý hướng phục vụ con người, hướng thiện con người để làm cho xã hội tốt đẹp hơn, là ý hướng nhân bản. Khoa học phục vụ con người, là khoa học mang tính cách nhân bản. Võ thuật phục vụ con người là võ thuật mang tính nhân bản, thăng tiến thành võ đạo.

II – Võ thuật phải được hệ thống hóa và hiện đại

Ta trở lại với lối học võ xưa của tiền nhân, lối học võ thích dụng cho một trình độ tiến hóa đã qua, hệ thống giao thông kém, phương tiện chuyễn vận tồi, đi khoảng trăm cây số, nếu đi ngựa, phải mất một ngày. Hoặc đi bộ, mất ba, bốn ngày. Đi thuyền cũng chỉ tương tự như đi bộ hoặc đi ngựa, tùy theo vận tốc.

Điều này có quan hệ gì tới võ học đương thời? Xin đáp: Rất quan hệ. Vì hệ thống giao thông còn yếu kém, việc di chuyễn khó khăn, nên sự truyền thông kiến thức – kể cả những kiến thức về kỹ thuật và nghệ thuật rất giới hạn. Võ thuật cũng vậy, mỗi vùng có những cách thức luyện tập khác nhau, đòn thế khác nhau, kỹ thuật sử dụng khí giới khác nhau. Do vậy, kỹ thuật chiến đấu bằng quyền cước chung của dân tộc thật vô cùng phong phú, nhưng mỗi môn phái chỉ nắm giữ được ít nhiều bí thuật. Bởi đó, tinh thần tự tồn chia thành môn phái càng ngày càng lên cao, nghiêt ngã, môn đồ nào sử dụng đòn thế không phải của sư môn sẽ bị khai trừ, liệt vào hạng phản đồ.

Sựtrao đổi kiến thức về võ thuật có chăng, là chỉ nhằm vào những ngày hội làng với những môn giải trí đô vật hay giao đấu cá nhân, là những ngày long trọng trong năm quy tụ cả những khán giả trong làng và những khán gỉa làng bên. Đời Trần có Giảng Võ Đường và chính sách cưỡng bách học tập võ nghệ, nhưng chú trọng nhiều vào giai cấp quý tộc và thiện dụng vũ khí hơn là căn bản quyền cước, để đáp ứng kịp thời với nhu cầu chống xâm lăng Mông Cổ. Đời Lê có chương trình cưỡng bách học tập võ nghệ với kiến thức văn hóa qua các khoa thi Minh Kinh. Khoa áp dụng cho hàng quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống, nhưng chưa phát động sâu rộng được trong quảng đại quần chúng, mặc dầu vẫn khích lệ gián tiếp bằng các khóa thi Minh Kinh khoa cả văn lẫn võ được mở khắp nơi.

Trong khi đó, võ thuật căn bản là quyền cước vẫn được âm thầm trui rèn mỗi ngày thêm sắc bén bởi những vị võ sư ẩn danh. Song kỹ thuật càng tinh tiến, tâm hồn càng đóng khung vào cảnh trầm lắng, tỉnh mịch, vô vi, thoát tục, xa lìa cuộc sống.

Vì giao thông hạn chế, nên việc truyền thông, hội nhập và thái dụng các tinh hoa võ thuật cũng bị hạn chế theo. Ta thấy rõ: Võ Bình Định khác với võ TâySơn, võ Quảng Nam khác với võ Thanh Nghệ, võ Gia Định khác với võ Hà Đông, võ 18 Thôn Vườn khác với võ Tân Khánh, tuy có chung một xuất xứ là võ Việt Nam.

Đã thế, kiến thức võ học chẳng những không trau giồi thêm, mà còn có thể bị mai một đi vì lối dạy “kén học trò”. Ngày xưa, mỗi lò võ hay võ đường chỉ gồm dăm bảy môn sinh. Phương pháp huấn luyện lại nghiêng về gia truyền, tâm truyền, bí truyền và môn truyền: Võ của họ này không truyền cho họ khác, hoặc chỉ truyền cho vài môn đệ thật xứng đáng, rồi còn lo xa, giữ lại vài miếng bí hiểm, cốt để phòng xa khi học trò phản bội “dùng võ thầy đánh lại thầy”. Môn phái này không bao giờ học hay dạy môn đồ khác phái khác. Làm trái lại là khi sư phản môn.

Bây giờ khác hơn, nhờ những phương tiện giao thông tân tiến, chúng ta có thể thâu nạp và thái dụng mọi tinh hoa võ học trong nước, đồng thời chế biến, để hóa giải và khắc chế các tinh hoa võ học nước ngoài.Xưa chống lại giáo dài, nay chống lại lưỡi lê. Xưa tay không chống với đoản đao, nay chống với dao găm (nhỏ hơn đoản đao) và các súng Colt. Xưa chú trọng tới đấu sức, nay chú trọng tới cả đấu mưu, đấu trí. Xưa trọng nhiều về nội công, nay nghiêng về kỹ thuật, với cả những phương pháp té không đau, quăng quật và sự đối phó thông thường khiđối phương bất ngờ sử dụng võ khí hay xe cộ đâm phải. Xưa, có thể nặng tay đánh chết một kẻ gian ác, nhưng nay chỉ cần khóa tayhay đánh gục, để phần còn lại cho pháp luật liệu lý, v.v.

Rõ rệt mỗi thời đại, có một nhu cầu riêng về võ học. Nên võ thuật cần được hệ thống hóa và hiện đại hóa, mới có gía trị thực dụng trong đời sống.

III -–Võ học truyền thống phải được tổng hợp và thái dụng

Nhìn lại quá trình tranhđấu của người Việt, người bàng quang thường ngạc nhiên về sự tồn tại đặc biệt của quốc gia Việt trước mọi áp lực lịch sử. So với Do Thái, người Việt tưởng như không kiên nhẫn và đoàn kết bằng người Do Thái, tuy cũng bị áp lực thôn tính còn đẩm máu hơn Do Thái, nhưnghậu qủa lại khác hẳn: Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, trong lúc Do Thái đã bị diệt quốc và bị xua đuổi tàn nhẫn. So với Trung Hoa người Việt tưởng như thiếu sáng kiến, kỷ luật, đoàn kết và óc tổ chức không bằng người Hán, nhưng rốt cuộc vẫn tự giải thoát được mọi đô hộ, xâm lăng hiểm họa diệt chủng, bằng những trận đánh thắng cuối cùng. So với người Mông Cổ, người Việt có vẻ như không thiện chiến bằng họ, nhưng rốt cuộc đã đánh bại người Mông Cổ ba lần xâm lăng đại quy mô, trong lúc các đế quốc lớn đương thời như Trung Hoa (Tống, Kim), Nga La Tư, Ba Tư, v.v. đều bị đánh gục dễ dàng. So với các dân tộc lân bang, người Việt tưởng như không có trình độ văn hóa được biểu dương bằng các công trình kiến trúc lớn như Chiêm Thành, Bồn Man và Thủy Chân Lạp và suýt đồng hóa được Ai Lao về đời Quang Trung Ðại Ðế (chiếm gần hết Bắc Lào (Trấn Ninh) – sau người Pháp đô hộ định lại địa giới, trả lại cho Lào).

Như vậy võ học Việt Nam phải có những đặc thù truyền thống để tồn tại, tiềm ẩn dưới hình thức ôn hòa bình thường và sự nhu nhược giả tạo. Những đặc thù ấy được xuất phát từ tính tình, nếp sống, tập quán lâu đời, đã trở thành truyền thống của người Việt trước mọi cảnh huống và tình huống lịch sử.

Triệu Quang Phục, Mai Hắc Ðế, Bố Cái Ðại Vương, Triệu Trinh Nương, Trưng Nữ Vương, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v.. đều hiểu rõ nguyên lý “Dĩ nhu chế Cương” và “Cương nhu phối triển” và nhất là Ðà (Élan) của võ học: Muốn đánh trúng, đánh mạnh, đánh gục, phải lùi lại để lấy “ĐÀ”. Thế nước yếu, muốn đánh ngã đối thủ, trước hết phải lùi lại đã, mới có đà tấn công.

Phải đánh chỗ địch yếu, tránh chỗ địch mạnh: Lê Lợi 5 năm đầu tiên không nắm vững được nguyên lý đó, cứ ngày đêm rèn quân để đánh vào chổ địch mạnh nên thất bại. Năm năm sau, nhờ chiến dịch Nguyễn Trãi, đánh vào chỗ địch yếu, nên đã thành công. Quang Trung muốn đánh tan địch bằng một trận tổng phản công quyết định phải cho địch đánh thắng vài trận nhỏ, rời mới ra quân đánh trận quyết định tối hậu năm Kỷ Dậu 1789.

Chiến pháp của Trần Hưng Ðạo: Dĩ nhu chế cương, dĩ đoản chế trường. Mông Cổ giỏi đánh ngựa và bắn tên: Ðánh trên rừng và trên sông, hai ưu điểm trở nên vô vụn.

Chiến pháp của Lý Thường Kiệt: đánh thốc vào nội địa địch, nhưng phải dùng tâm lý chiến để yểm trợ (bài xích tân pháp Vương An Thạch làm dân Tàu khổ). Tới khi Tôn Ðản vào Khâm Châu giết hết quân dân địch trong thành, là phải rút ngay vì chính nghĩa mất. Ðịch đem quân trả thù, ông chỉ dàn quân đánh những trận nhỏ, vì biết rồi địch bị kẹt về tiếp vận, thủy thổ không hợp nên ốm đau nhiều, phải rút. Rút không đuổi, vì thắng thế là đủ rồi, không thể làm mất mặt địch hoàn toàn để chiến tranh liên miên cho dân khổ, với lý do chiến lược đau xót: Nước nhỏ dân ít, không thể đánh gục hẳn Trung Hoa.

Lê lợi gạt nước mắt mà làm lại, làm lại mãi: Vợ con bị giết, bao lần ra quân bị tiêu diệt để lại phải tổ chức lại. Và cuối cùng ông đã lật ngược được tình thế, chuyển bại thành thắng, nhờ đức tính nhẫn nhục, kinh nghiệm chiến trường và sự thay đổi chiến pháp.

Quang Trung khác hơn, Ông biết dân chúng Bắc Hà còn hướng về nhà Lê, không phục ông, nên phải thua nhỏ để thắng lớn bằng phương pháp tốc chiến tốc quyết.

Truyền thống võ học Việt Nam là vậy. Chúng ta nên tách rời cương nhu, công thủ ra thành nhiều môn phái hay kết hợp lại? Dĩ nhiên phải kết hợp lại theo tinh thần truyền thống Việt Nam. Hồ Quý Ly, nhà Hậu Trần thất bại, nhưng Lê Lợi phải thành công, vì dùng Cương dùng Công không thắng được thì phải dùng Nhu, dùng Thủ Tiên Công.

Ðó chình là những kinh nghiệm lịch sử quý báu để chúng ta áp dụng định luật cương Nhu phối triển cho võ đạo Việt Nam, bằng sự tổng hợp và thái dụng tinh hoa võ học truyền thống dân tộc: Không thể thuần nhu hay thuần cương.

IV – QUAN NIỆM HÀNH VÕ PHẢI THÍCH DỤNG:

Thời xưa, dưới chế độ nhân trị, việc cai trị hoàn toàn trông cậy vào đức độ và tài năng của giới chức cầm quyền, chớ không có hiến pháp và luật pháp như chúng ta ngày nay. Nhà cầm quyền thương dân, liêm khiết, dân được hưởng phúc lợi. Bằng ngược lại, người dân Thấp cổ bé miệng đành cắn răng chịu đựng bất công, nếu không muốn nổi lên chống lại.

Do đó, càng bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công, người dân càng mơ ước được giải thoát do những phép mầu mang lại. Phép mầu của thần thánh đã đành, nhưng còn những pháp mầu khác, thực tế hơn. Ðó là những vị hiệp sĩ có bản lãnh võ thuật cao, đột nhiên xuất hiện như những vị thiên thần để giúp đở họ chống bất công. Tại Việt Nam những huyền thoại về Ðoàn Thượng, chàng Lia,..đả trở thành truyện tích. Nguyễn Hữu Cầu, xuất thân cũng là những vị hiệp sĩ chống bất công được dân chúng hâm mộ và tin theo. Rồi ông mưu loạn lớn để chống triều đình, nên đã đi vào con đường pahn tặc. Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, cũng xuất thân là những hiệp sĩ, diệt trừ tham quan ô lại, tay chân của quyền thần Trương Phúc Loan, nên được dân tin theo mà dựng nên đế nghiệp một thời. Cặp Uyên ương, song kiếm Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân cùng xuất thân từ một sư môn, hành hiệp nổi tiếng một thời rồi trở thành lương tướng của nhà Tây Sơn.

Ngày xưa thì được: Anh hùng cá nhân, giang hồ hành hiệp, giúp đỡ người nghèo, thanh trừng những bất công – vì đó là xã hội nông nghiệp chơn chất của một thời phong kiến đã qua, xã hội không có pahp luật rõ rệt, nên rất cần những người hùng đơn độc xuất hiện như những vị phúc thần, giúp dân trừ bạo.

Nhưng ngày nay thì không: Xã hội đã có tổ chức, thể chế, pháp luật rõ rệt. Không thể ban ngày nại cớ Vì Dân Trừ Bạo mà phi thân lên nóc nhà, rõ ngói ra đột nhập gia cư bất hợp pháp. Ðâu đó đã có luật pháp. Có thể tranh chấp, chống đối một người, một nhóm người, một tổ chức, nhưng phải trong vòng hiến định và luật định.

Bởi lẽ đó, người hiệp sĩ thời nay không thể sống và làm việc đơn độc theo lối sống Người Hùng cô độc hoặc ở ẩn nơi non cao rừng thẩm vài năm mới vân du hành hiệp một lần. Anh ta phải tôn trọng pháp luật và sống trong vòng pháp luật, chớ không thể tự tách rời ra khỏi cộng đồng dù với bất cứ danh nghĩa nào. Muốn chống bất công, giúp ích và hiến ích mọi người chung quanh, anh ta phải hội nhập vào một đoàn thể hay một thế lực có chủ thuyết đường lối, quy chế, cơ cấu, tổ chức quy mô, và phải khép mình vào trong kỷ luật đoàn thể, hay thế lực ấy để trù liệu chương trình làm việc chung. Mục đích vẫn thế, nhưng phương pháp và phương tiện hành hiệp phải đổi thay.

V – VÀ PHẢI VƯỢT LÊN MỌI ÐỊNH KIẾN, THÀNH KIẾN VỀ ÐỊA PHƯƠNG, MÔN PHÁI, QUỐC GIA, TÔN GIÁO:

Và trước khi giúp tiến, hiến ích cho mọi người, người hiệp sĩ thời đại chúng ta phải tự tiến trước đã.
Phải làm gì để tự tiến ? Trước hết anh phải tự kiểm. Tự kiểm để làm gì ? Tự kiểm để thêm tốt bỏ xấu, nói chung là Cách Mạng Tâm Thân theo chiều hướng tốt.

Anh hiệp sĩ thời nay kia chính là hình bóng của người môn sinh Việt Võ Ðạo chúng ta. Trở lại với những nhu cầu tự tiến, trước hết chúng ta phảiỉ thay đổi ngay chính mình – từ tâm hồn tới thân chất.

Tại sao phải thay đổi chân chất ? Vì nhu cầu thân chất của người võ đạo là phải mạnh.

Tại sao phải thay đổi tâm hồn ? Vì mỗi chúng ta đều bị ràng buộc, bị che mờ vì một số định kiến địa phương, môn phái, quốc gia, tôn giáo. Với những định kiến này đã làm mê hoặc chúng ta, ngăn cách chúng ta với lẽ phải, với chân lý. Nếu được khích lệ, chúng ta sẽ phát triển thành những định kiến về địa phương, môn phái, tôn giáo. Chúng ta sẽ làm chúng ta giác ngộ nhận rằng người địa phương này tốt hơn người địa phương khác, người của môn phái này giỏi hơn người của môn phái khác, người nước này tốt hơn người nước khác, người của tôn giáo này tốt hơn người của tôn giáo khác. Ngộ nhận sẽ đưa đến kỳ thị, là đầu mối của mọi sự bất công. Trong lúc sự thật khác hẳn: Ðịa phương nào, môn phái nào, quốc gia nào, tôn giáo nào cũng có người giỏi người dở, người tốt người xấu, và sự lượng giá chính xác nhất phải là sự lượng giá chính những sự kiện, dữ kiện, chớ không phải trên những định lệ, ước đoán vô căn cứ.

Là người Việt Võ Ðạo, chúng ta luôn luôn phải đối diện với lương tâm và sự thật, đó là sứ vụ của người hiệp sĩ hiện đại. Ðược như vậy, chúng ta sẽ vượt lên được những định kiến, thành kiến để thâu góp mọi di sản tinh hoa võ thuật của ông cha, hội tụ các phương pháp luyện tập của các vùng lại, sắp xếp, san định thành từng hệ thống: Quyền cước riêng, vật và quăng quật riêng, khí giới riêng, cùng những công phu luyện nội, ngoại công, thần công, khí công, nhuyễn công và ngạnh công v.v. hầu mở rộng Việt Võ Ðạo thành Nhân Võ Ðạo, khi biết cách hóa giải những sai khác bằng tinh thần võ đạo.

VI -GIÁ TRỊ HÀNH VÕ THẬT SỰ CỦA CÁC MÔN PHÁI NỔI DANH:

A-VÕ ÐẠO TRUNG QUỐC:

Võ đạo Trung Quốc thường lấy phái Thiếu Lâm làm Võ Lâm Bắc Ðẩu và là ngã ba định mạng của những chuyện bất ngờ.

Chuyện bất ngờ thứ nhất là: Ðạt Ma Sư Tổ không phải là người Trung Quốc. Ngài gốc từ Ấn độ,môn đệ của sư tổ Bát Nhã Ba La, vị sư tổ Thiền Tông đời thứ 27. Ngài sang Trung Quốc, chỉ với mục đích truyền bá Thiền Tông, bằng cách tìm một địa điểm biệt tịch để thâu nhận và giáo hóa môn đệ.

Chuyện bất ngờ thứ hai là: Trên đường hành đạo, Ngài gặp một tục gia đệ tử có khí lượng khá cao là Triệu Khuông Dẫn. Biết Triệu Quân có khí độ quân vương, ngài truyền cho bài Hồng Quyền gồm 32 thế chính, khai triển tứ trụ thành 128 thế biến. Nhờ đó họ Triệu dương danh thiên hạ, và sau khi lên ngôi Tống Tổ Quyền. Tống Thái Tổ cũng tri ân tình sư đệ, đích thân đi thăm sư phụ sau khi thành công, và xuất tiền ra xây lại ngôi chùa theo họa đồ của tổ sư vẽ sẵn.

Ðiều bất ngờ thứ ba là: Tục gia đệ tử của Ðạt Ma Sư Tổ đông hơn xuất gia đệ tử, nên môn phái Thiếu Lâm thành hình và hành võ theo các nghiệp vụ của tục gia đương thời: Dạy Võ, bảo tiêu, bán thuốc dạo, đóng tuồng, binh nghiệp v.v.. yểm trợ cho việc quảng bá Thiền Tông khắp Trung Quốc và các nước lân bang, kể cả Việt Nam.

Ðiều bất ngờ thứ tư là: Hồng Quyền và Mai Hoa Quyền nổi tiếng hơn hẳn phương pháp thiền tọa Kiết Già Phu Tọa (kama Yoga) của Yoga, được gọi là Ḍich Cân Pháp hay Dịch Cân Kinh giúp ích rất nhiều cho việc thiền định, tĩnh tọa và diện bích tư tưởng.

Rõ rệt là võ học Thiếu Lâm là một phương tiện hoằng dương Thiền Ðạo, vì đó mới là chủ điểm của Ðạt Ma Sư Tổ, vị sư tổ Thiền Ðạo tại Trung Quốc. Các thành tích hành võ khác của tục gia đệ tử – kể cả Triệu Khuông Dẫn chỉ là thứ yếu.

Kế đó, là môn phái Võ Ðang của đạo sĩ Trương Quốc Bảo, cũng gọi là Trương Tam Phong (Tam Phong: Ba ngọn núi), một vị xuất đồ của Lâm Phái. Cũng nặng về tu hành (theo Lão Giáo), vị sáng tổ Võ Ðang cũng tổ chức môn phái tương tự như Ðạt Ma Sư Tổ. Thái Cực Quyền được phổ biến rộng, nhờ sự phổ biến rộng rãi Ðạo Giáo, loạn Hồng Tú Toàn – Thái Bình Thiên Quốc – và giặc Cờ Ðen v.v… Ðều xiển dương thành tích này. Hiện nay, Thái Cực quyền của môn phái Võ Ðang cũng vẫn được dạy trong chương trình giáo dục của Ðài Loan.

Võ đạo Trung Quốc do đó, thiếu hẳn giá trị võ đạo thuần túy mà chỉ còn là một ngành sinh hoạt yểm trợ, lệ thuộc vào sự phát huy tôn giáo, hoặc hội nhập vào chính trị, để trở thành một công cụ đấu tranh chính trị.

B- VÕ ÐẠO NHẬT BẢN:

Võ đạo Nhật Bản, gốc từ Nhật Võ Ðạo (Bushido), chịu ảnh hưởng mạnh của Thần Giáo và sau đó được bồi dưỡng thêm bằng tư tưởng Phậït Giáo.

Khác với võ đạo Trung quốc nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ đạo Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào sinh hoạt chính trị, để trở thành một giai cấp xã hội: Giai cấp võ sĩ đạo (Samourai). Ðây là một giai cấp đặc biệt, chỉ có Nhật Bản mới có. Người võ sĩ đạo Nhật Bản được huấn luyện ngay từ nhỏ những kỹ thuật chiến đấu tay không, và võ khí rất lành nghề, và tinh thần Nhật Võ Ðạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng trong bộ luật Nhật Võ Ðạo, trong đó có 5 đức tinh chính và 3 đức tính phụ. Năm đức tính chính là: sự ngay thẳng tức đức công bằng, đức can đảm, đức nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm. Ba đức tính phụ là: Vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc.

Rõ rệt là người võ sĩ Nhật Bản được huấn luyện để trung thành với chủ: Một vị lãnh chúa, một vị tướng quân, hay một vị chủ nhân trọng nghĩa. Bushi tiếng Nhật có nghĩa là nghĩa hiệp không giống với nghĩa thông thường, mà chỉ có nghĩa là quên mình để nghĩ tới tha nhân tức chủ nhân. Truyền thống này đã tạo cho người võ sĩ đạo Nhật Bản có nếp sống thật đặc biệt: Vâng lời tuyệt đối minh chủ của mình, suốt đời không đổi chí. Ðặc biệt hơn nữa là nước Nhật có những tự sát viện (Seppuku, Pappuku, hay Hara -Kiri) dành cho những người có tội đền tội bằng cách mổ bụng ngã sấp xuống.

Ta thấy tinh thần Nhật Võ Ðạo gần như lệ thuộc hẳn vào chính trị bằng động cơ tôn giáo. Người võ sĩ đạo Nhật do đó, ít sáng kiến và ý chí tự cường, nhưng ngược lại giàu can đảm và kỷ luật, rất cần cho sự điều hành tập thể.

C- VÕ ÐẠO TRIỀU TIÊN

Võ đạo triều Tiên quen thuộc với chúng ta từ 1964, với sự hiện diện của các sư đoàn đồng minh Triều Tiên Mãnh Hổ, Thanh Long, Bach Mã v.v…

Võ đạo Triều Tiên nằm giữa thông lộ Trung Hoa – Nhật Bản, nên ảnh hưởng rất nhiều ở cả hai nền võ đạo đặc biệt này. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người Triều Tiên bỏ quên dân tộc tính. Họ quen sống trên sa mạc tuyết ít nguồn lợi, luôn luôn phải đối địch với đối nhân và đối vật để dành nhu cầu sống, nên rất thực tế. Ðánh trên tuyết cần ra đòn nhanh và mạnh, khai triển tất cả những ưu điểm của thân mình: Túc Quyền đạo (Tae Kwon do). Túc Quyền Ðạo, đúng như tên của nó, không cần nói nhiều, mà chỉ cần Ðá nhanh, đấm lẹ, để sống còn trên đất tuyết.

Do đó, chúng ta không lạ khi thấy người Triều Tiên thiện dụng cặp chân dài tối đa trên mặt tuyết. Chúng ta không lạ khi thấy người Triều Tiên thường lầm lì ít nói, cũng như Túc quyền đạo rất nhẹ về lý thuyết. Và chúng ta không lạ khi thấy người Triều Tiên nhìn bên ngoài như có vẽ ngây ngô, cũng như khi xử thế có phần kém tế nhị và hay dùng bạo lực. Ðó là truyền thống võ đạo đặc biệt của Triều Tiên.

D- TINH THẦN HIỆP MÃ THƯỢNG PHƯƠNG TÂY

Ngoài các môn phái võ thuật, võ đạo Ðông Phương, chúng ta còn có thể đề cập đến tinh thần hiệp mã thượng (chevalerie) Phương Tây, một tinh thần võ đạo đặc biệt phản ảnh nếp sống phong kiến, trưởng giả của giai cấp quý tộc phương Tây thời Trung Cổ.

Tinh thần hiệp mã thường biểu dương tinh thần Chính Nhân chú trọng tới các nghi thức xử thế quý tộc hơn là thực trạng xã hội. Người chính nhân ăn mặc sang trọng, kiểu cách, nói năng mực thước, nhưng không cần thiết lắm tới đức tính tháo vát và lòng nhân đạo. Do đó, ta thấy người quân tử Tàu có thể chết vì binh yếu chống mạnh, nhưng ta không thể thấy người chính nhân phương Tây làm những công việc tương tự.

Người hiệp mã thượng phương Tây chịu ảnh hưởng sâu đậm ở quan niệm này, nên sự hành võ của họ nặng phần trình diễn hơn là phận thực dụng: Lưỡi gươm to bản sáng ngời, bộ áo giáp bóng loáng nặng nề, con ngựa thật đẹp, đóng yên cương quá chắc, cây giáo thật to và thật dài nhọn, cồng kềnh. Tất cả, chỉ để sử dụng trong những trường hợp song đấu, trình diễn ở đấu trường hơn là ở chiến trường. Ngoài ra, người hiệp mã thượng còn được ưu đãi quá đặc biệt: Nhà cao, cửa rộng, xe ngựa, gia nhân v.v… nên không biết tới thực trạng của một xả hội nhiều bất công, khổ cực. Cuối cùng, chính trị xen vào nội bộ của họ. để họ giết chết lẫn nhau và cùng bị tiêu diệt.

VII. GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CỦA VIỆT VÕ ÐẠO

Khác với những môn phái võ đạo nhận chịu nhiều ảnh hưởng của tôn giáo và chính trị, hoặc đôi khi, trở thanh ngay chính công cụ hoặc phương tiện hành giáo hoặc hành chính, Việt Võ Ðạo vẫn giữ vững truyền thống độc lập đặc biệt của mình, với truyền thống tổng hợp võ học Việt Nam và truyền thống này được tiếp diễn trong các thời đại Tiền Việt Võ Ðạo liên tục qua các thời đại lịch sử. Ðôi khi, tôn giáo cũng đem lại nhiều ảnh hưởng với võ đạo, nhưng không vì thế mà tôn giáo võ học. Ðôi khi chính trị cũng xen lẫn, nhưng thường hòa hợp với võ đạo để trở thanh một sức mạnh chung đối phó với cường xâm ngoại nhập. Do đó, các bậc danh tướng, lương thần thường lui về ở ẩn lúc công thành danh toại, với một cuộc sống vừa tiêu diêu, vừa nhiệm thế bằng cách vẫn can dự vào làng xã, khi được hỏi ý kiến.

Trở lại với hiện cảnh của Việt Võ Ðạo chúng ta: Rõ rệt là nền võ đạo của chúng ta hoàn toàn độc lập với các ảnh hưởng tôn giáo và chính trị, tuy độc lập không có nghĩa là cô lập và không biết liên kết khi hữu sự. Quá trình này được ghi nhận trong những biến cố lịch sử đặc biệt vào những năm 1945 – 1946, 1954 – 1963, 1973 tới nay, mặc dù hợp tác với những thế lực đương thời trong các nhiệm vụ chống xâm lăng, bảo vệ dân tộc và cứu trợ xã hội, nhưng môn phái vẫn giữ vững tư thế độc lập của mình trong mọi cảnh huống và tình huống lịch sử.

Do đó, chúng ta có thể khẳng định rõ rệt: Trong các môn phái võ đạo hiện nay, riêng chỉ có Việt Võ Ðạo mới đích thực là võ đạo của võ đạo tức võ đạo thuần túy, không bị chi phối bởi bất cứ ảnh hưởng tôn giáo, hoặc ảnh hưởng chính triï nào. Chính thực Việt Võ Ðạo mới đích thực là võ đạo của nhân loại, vượt thoát mọi giai cấp và tôn giáo, để bao dung, kết hợp, hóa giải mọi chênh lệch của xã hội loài người.

VIII. SỨ VỤ VÕ ÐẠO TRONG HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

Dạy cho người biết võ rồi hướng dẫn họ phải làm gì lợi ích cho mình và cho người là võ đạo. Còn có đạo sẵn rồi mới học võ để bảo vệ và phát huy đạo, thì chỉ dùng võ để làm phương tiện, làm công cụ, chứ không phải Làm Võ Ðạo.

Việt Võ Ðạo đi theo con đường võ đạo độc lập và thuần túy, nhất thiết từ chối mọi chi phối, đồng hóa của tôn giáo và chính trị. Do đó, Việt Võ Ðạo đang phát triển để trở thành võ đạo của võ đạo, tức võ đạo thuần nhất của con người.

Các VS, HLV Việt Võ Ðạo cần ý hội sứ vụ này, trong tương lai quảng phát võ đạo vào cộng đồng nhân loại, bằng cách phát huy song song tinh thần võ đạo và kỹ thuật võ học.

Tinh thần võ đạo đó phải được thể hiện bằng nếp sống, tình cảm, cách ăn ở, đối đãi với tha nhân sao cho mọi người hiểu và yêu kính mình trước khi thụ giáo. Chúng ta phải truyền thông ấn tượng tốt vào cảm quan đối tượng về một tinh thần võ đạo thật sự không biên giới Quốc gia, giai cấp, tôn giáo. Trường hợp đãi ngộ ưu tiên cho những người bằng cấp lớn vào địa vị cao hơn trong Việt Võ Ðạo chỉ là sự đáp ứng những tiêu chuẩn tiếp thụ tinh thần võ đạo, chớ không phải vì tiêu chuẩn bằng cấp độc tôn hay tiên quyết.

Mỹ thuật cần tinh tiến, đổi mới, võ đạo càng lâu đời càng có truyền thống, càng được tôn quý. Việt Võ Ðạo là kết tinh của tinh thần và kỹ thuật chiến đấu để giữ nước, dựng nước và mở nước của dân tộc Việt có từ thời lập quốc. Võ sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc là người đầu tiên có công thâu nhập kho tàng võ học phong phú của dân tộc ẩn náu ở nhiều vùng với nhiều phương pháp huấn luyện độc đáo, đặc dị, san định, và bổ túc phần phân thế thất truyền, rồi hệ thống hóa và hiện đại hóa thành VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO. Hiện nay, Việt Võ Ðạo đã có một Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan độc lập, thuần tuý võ đạo và hội nhập vào cuộc sống bằng chủ thuyết cách mạng tâm thân, luôn luôn gần gũi với con người, trọng tha nhân, hiến ích xã hội, bằng biểu tượng bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái.

Giá trị nhân bản ưu việt của Việt Võ Ðạo là ở chổ: Từ ái, hóa giải, kết hợp, bao dung và bình đẳng với mọi người, không phân biệt hoặc kỳ thị địa phương, quốc gia, giai cấp, tôn giáo hay chính kiến.

(Bài giảng thuyết dành cho phái đoàn Việt Võ Ðạo Âu châu hành hương Việt Nam và chiêm bái Tổ Ðường Việt Võ Ðạo ngày 15/08/1974).

Chương 4 – Hành Trình Vovinam Đi Từ Việt Võ Đạo tới Nhân Võ Đạo

Vovinam là một môn phái võ đạo, mà võ đạo phải được hiểu là một trong những bộ môn văn hoá hàng đầu, vì nó uốn nắn con người cả thể chất lẫn tâm hồn, cả tu tâm và luyện thân, để con người xứng đáng là một biểu trưng văn hoá có lý tưởng cao đẹp, hướng thiện và cải thiện con người để con người thăng tiến về mọi mặt, có quan niệm hành xử tốt, có khả năng giúp tiến, hiến ích cho xã hội nhiều hơn. Hơn nữa, Vovinam cũng không đóng khung trong những giáo điều cố định mà mở rộng khắp không gian và thời gian, linh động thâu nạp, thái dụng, trau chuốt mọi vẻ, mọi màu sắc sinh động trong đời sống hiện thực của con người. Bởi vậy, bản thân của mỗi cao độ Vovinam phải trong sáng trong tự do và tự chủ để làm gương và dẫn đạo mọi người.

Vovinam sẽ tiến từ Việt Võ Ðạo tới Nhân Võ Ðạo. Ðây là một lý tưởng hoàn toàn mang tinh thần phục vụ, cống hiến cho nhân loại một nhân tố hòa hợp, gắn bó, bằng tâm thức yêu thương, hào hiệp, chớ không phải là sự chinh phục, áp đặt, đồng hóa. Chân giá trị của võ đạo chính là tính chất nhân bản: Do con người, vì con người, phát triển và phục vụ con người. Vậy để tiến tới Nhân Võ Ðạo các môn đồ Vovinam phải tâm lãnh và thấu triệt các nguyên lý:

  • Tinh thần võ đạo phải hướng thượng, viên dung.
  • Tư tưởng võ đạo phải quán thông vô cùng, vô biên.
  • Nhận thức võ học phải sinh động, biến hóa.

Và như vậy, chúng ta phải coi Vovinam như một biển lớn thu nạp được tất cả mọi mạch nguồn từ các nơi đổ về, bất kể phẩm chất và số lượng của các mạch nguồn đó ra sao. Sau đó, chuyển hóa và trong sạch hóa thành nước biển.

Từ các nguyên lý này, chúng ta có thể thâu nạp và thái dụng, trau chuốt rồi phổ cập được mọi tư tưởng, mọi khác biệt về cá tính, về giòng giống, về võ học… Nói một cách rõ hơn, Vovinam không phân biệt Tôn Giáo, sắc dân, chế độ chính trị và nhất là không có sự kỳ thị về địa phương, giai cấp hay chính kiến.Vovinam là một nhân tố hoà ái, kết hợp, bao dung, hóa giải để mọi người được sống với nhau bình đẳng, chu toàn trách vụ của mình.

Vovinam không thoát thân từ một chế độ nào nên không lệ thuộc vào đâu cả. Với tinh thần hướng thượng, Vovinam chủ trương hoà hợp, cống hiến nên không bao giờ đặt vấn đề trở thành quốc võ, chiếm lĩnh, bao trùm tất cả, trong mục tiêu hoạt động và phát triển môn phái. Vovinam cũng không giành giật, chiếm hữu bất cứ phần vụ nào của xã hội, ngoài chuyên môn võ thuật, võ đạo của mình. Trên đường tiến tới mục đích phục vụ nhân loại, Vovinam chỉ có một tâm nguyện làm vinh danh dân tộc mình bằng điểm xuất phát của một nền võ đạo đã góp công vào việc giúp tiến, hiến ích cho mọi người chung sống hoà bình.

Vovinam là một trong những bộ môn văn hóa, mà văn hóa là của muôn đời, phát huy căn gốc con người, phát huy căn gốc con người, đồng thời thái dụng những tiến bộ hiện đại để hòa nhập sinh động vào đời sống. Do đó, sức sống của văn hóa tỏa rộng ra cùng khắp, vượt suốt mọi thời đại, khác với sự khắc nghiệt, gò bó đóng khuôn của chính trị. Vovinam tuyệt đối tôn trọng tôn chỉ và mục đích của mình, giữ đúng bản chất đặc thù võ thuật và võ đạo, nên quy lệ của môn phái đã ghi rõ:

” Mọi hoạt động của Vovinam đều không có tính cách chính trị và tôn giáo “.

Tuy vậy, môn đồ Vovinam ngoài tư cách võ đạo sinh, còn có tư cách công dân. Mà một công dân thì phải có đủ bổn phận và quyền lợi đối với quốc gia, xã hội. Do đó, Vovinam chỉ cấp môn đồ hoạt động chính trị với danh nghĩa môn phái, lợi dụng môn phái để mưu cầu tư danh, tư lợi nhất thời thiển cận, chớ không bao giờ đụng chạm đến quyền công dân của họ. Vovinam cũng luôn luôn khuyên các môn đồ thường xuyên học tập, thông suốt mọi khía cạnh của đời sống, liên quan tới chính trị hay bất cứ một ngành nghề nào khác mà mình thích thú theo đuổi, để thăng tiến nghề nghiệp, và đó cũng là một trong những phần vụ phải đóng góp với đời.

Dù muốn dù không, tình hình đất nước cũng tác động mạnh tới môn phái. Hoang mang, ngộ nhận là điều không thể tránh được. Song thời gian là liều thuốc làm lắng dịu tất cả. Chúng ta phải bình tâm và xét toàn bộ vấn đề, để có một hướng đi đứng đắn, một thái độ xứng hợp, làm tròn trách vụ đối với môn phái trong giai đoạn phát triển toàn cầu. Giai đoạn này đòi hỏi mỗi người môn đồ chúng ta phải có một niềm tin sắt đá, một kiến thức quán thông, một tài năng chân chính và nhất là phải có một sự hy sinh cao độ, dẹp bỏ mọi tị hiềm riêng tư mà sống cho tập thể, vì trong tập thể vốn đã có mình. Ðồng thời, mỗi môn đồ chúng ta phải làm tròn bổn phận đối với gia đình, với dân tộc và tôn giáo, để trở thành người con hiếu, cha hiền, vợ chồng thuận thảo, bạn bè tín nghĩa, tín đồ giữ đạo và người công dân thượng tôn pháp luật.

Ðấy, mỗi người chúng ta có rất nhiều tư cách và có nhiều vị trí khác nhau trong cuộc sống. Ðừng bao giờ để tư cách này lẫn lộn với tư cách kia và đừng đứng sai vị trí đã chọn. Vị trí của người môn sinh Vovinam là Cách Mạng Tâm Thân trong tinh thần phục vụ con người.

Người ta thường nói “con người là tiểu vũ trụ” , “con người đứng đầu muôn loài” để nói lên cái giá trị vô biên và tài năng đa dạng của con người. Dù vậy, mỗi con người đều có sở trường và sở đoản. Tài năng, đức độ dù cao mấy cũng chỉ ở một khía cạnh nào đó thôi. Một nhà bác học được cả nhân loại tôn vinh cũng chỉ ở một lĩnh vực, và ngay cả mỗi lĩnh vực cũng chỉ vượt trội một vấn đề, mà mỗi vấn đề cũng không chỉ độc nhất có một bác học, một thiên tài độc chiếm. Do đó, mới có câu “nhân vô thập toàn”. Với nhận định trên, người môn sinh Vovinam chúng ta phải sáng suốt để tự đặt mình vào một chỗ đứng trong môn phái (hoặc trong xã hội) hầu có thể hoạt động hữu hiệu và thành công.

Chúng ta cũng cần nhận định rõ việc xây dựng bất cứ một công trình nào đều cần đến nhiều bàn tay và nhiều khóc óc, và mỗi người được cắt cử ở một vị trí khác nhau mới làm nên việc. Vì vậy, chúng ta không thể quan niệm bộ phận này nhỏ, bộ phận kia lớn để đánh giá, phân biệt. Ðiều quan trọng và đứng đắn là dù ở vị trí nào chúng ta cũng đêm hết tâm lực và tài năng ra gánh vác. Có thế chúng ta mới làm tròn nghĩa vụ đối với môn phái để phục vụ hữu hiệu cho dân tộc và nhân loại.

Một khi có nhiều môn đồ ở tất cả các ngành trong mọi quốc gia trên thế giới, mỗi người mỗi việc đều giỏi nghề chuyên môn được tinh thần Nhân Võ Ðạo chỉ hướng thì sự sống sẽ được nâng cao, đời sống sẽ hạnh phúc, thế giới sẽ an lạc hòa bình.

Hành trình của Vovinam đi từ Việt Võ Ðạo tới Nhân Võ Ðạo là đó !

Chương 5 – Lý Tưởng và niềm tin tiến tới Nhân Võ Đạo

Lý tưởng là cao điểm của ước vọng, nhưng không được xa rời thực tế, phải gắn liền với ý chí, nghị lực để hiện thực và thực hiện; nếu không chỉ là ước mơ hoang tưởng. Lý tưởng có đúng đắn, cao đẹp, thực tế mới tạo được niềm vui. Và niềm tin lại là khởi điểm của nguồn năng lượng, là ngọn hải đăng hướng dẫn thực hiện lý tưởng.

Lý tưởng càng cao đẹp, thực tế, niềm tin càng vững chắc. “Ðầu thần chưa rụng, xin bệ hạ đừng lo”, Trần Thủ Ðộ đã khải tấu với vua Trần Nhân Tông như vậy. Trần Hưng Ðạo cũng tâu: “Muốn hàng giặc, xin hãy chém đầu thần trước đã”, và trỏ kiếm xuống sông Bạch Ðằng nói với ba quân: “Nếu không thắng được giặc, ta thề không trở lại khúc sông này nữa”, đã nói lên quyết tâm phụng sự lý tưởng. Ðó là lý tưởng của người công dân có trách nhiệm với đất nước, thật cao đẹp và thực tế nên đã khẳng định được niềm vui tất thắng.

Lý tưởng của người môn sinh Vovinam-Việt Võ Ðạo là qua đời sống vật chất thể hiện những giá trị tinh thần, không trừu tượng xa rời cuộc sống. Nó ở ngay trong cuộc sống, trước mắt chúng ta và là sự kết hợp giữa tinh thần và vật chất theo nguyên lý “Cương Nhu phối triển”; nó được biểu tượng bằng “bàn tay thép đặt trên trái tim từ ái”: yêu đời sống con người, nên uốn nắn con người, giải phóng con người ra khỏi những yếu đuối nội tâm để con người trở thành chủ thể, là tâm điểm của mọi sinh hoạt trong cuộc sống.

Làm phong phú cuộc sống, hưng thịnh giống nòi, vinh quang tổ quốc, môn phái; đó là mục tiêu hàng đầu của người môn sinh phải thực hiện bằng tim óc, bằng công sức và tài năng đích thực, chân chính của mình. Do đó, họ phải nỗ lực tự thắng và vượt thắng mọi gian lao, trở ngại. Họ cần được những bậc thầy, những đàn anh dẫn dắt thực hiểu họ, đồng cảm, định hướng và đồng hành với họ trên đường thực hiện lý tưởng.

Thế giới còn nhiều mâu thuẫn, bất công, nghèo đói và mầm mống chiến tranh cũng còn đó. Chúng ta ước mong, tin tưởng rằng cái thiện, cái tốt được phát huy sẽ làm cho những mâu thuẫn, bất công, nghèo đói được giảm bớt và con người biết chung sống hòa bình với nhau, từ cao điểm ước vọng trở thành lý tưởng đã ươm cây niềm tin và phải được thể hiện bằng hành động ở ngay chính môi trường mỗi người đang sống, đang phục vụ.

Ðể thực hiện lý tưởng cao đẹp thiết thực này, người môn sinh Vovinam-Việt Võ Ðạo xây dựng niềm tin vững chắc, bằng đề ra ba tiêu điểm sau đây để tham khảo:

  1. Cách mạng tâm thân
    2. Ðóng góp vào việc canh tân quốc gia
    3. Hiến ích để ổn cố nhân loại1. Cách Mạng Tâm Thân.
    Ðây là giai đoạn đầu khai môn lập phái. Chủ đích của cuộc cách mạng tâm thân là: Bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái.a/. Muốn có bàn tay thép, phải rèn luyện thân thể qua chương trình võ thuật, phải biết và áp dụng phương pháp tiết độ trong đời sống của bản môn, phải giữ gìn vệ sinh, làm việc và nghỉ ngơi đúng mức.

b/. Muốn có trái tim từ ái, phải tu dưỡng, trau chuốt tâm hồn trong sáng, thanh cao, biết yêu thương và được yêu thương, biết phân biệt thực giả, yêu cái đáng yêu mà không mù quáng hoặc bị lợi dụng. Môn phái còn truyền thụ cho người môn sinh phương pháp Ðịnh Tâm để soi sáng tâm linh, mở rộng kiến thức, thâu nạp điều hay lẽ phải ở đời.

2. Ðóng Góp Vào Việc Canh Tân Quốc Gia.
Ðây là giai đoạn thực hiện mục tiêu Việt Võ Ðạo, là nhiệm vụ của người công dân đối với đất nước. Chủ đích của phần vụ này là mở rộng vòng tay với tinh thần thái dụng mọi tinh hoa văn hóa nhân loại.

Trước nhất và hơn hết phải sưu tập, thu hồi, tinh lọc và quảng dương truyền thống văn hóa đích thực của dân tộc bằng cách phân loại và gạt bỏ các loại văn hóa thống trị, lỗi thời. Tiếp thu cái hay của nhân loại qua sự phán đoán của óc não, sàng lọc qua thực tế để hài hòa và làm sáng lên những nét đặc trưng của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều trở về tìm hiểu và khơi mở cái vốn quý cu/a quốc gia, dân tộc mình rồi tiên phong nhận lãnh trách vụ thích hợp với khả năng hoàn toàn với tâm nguyện giúp tiến, hiến ích. Khuôn mẫu tiêu biểu cấp thời là toàn thể môn đồ Vovinam-Việt Võ Ðạo hãy phát huy và quảng dương hệ thống kỹ thuật và tinh thần của môn phái, vì Vovinam-Việt Võ Ðạo là nét đặc thù vừa tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, vừa mang nét nhân bản.

3. Hiến Ích Ðể Ổn Cố Nhân Loại.
Ðây là giai đoạn tiến tới phát huy Nhân Võ Ðạo. Chủ đích của phần vụ này là triển khai và phát huy tinh thần “Cương Nhu Phối Triển” vào trong đời sống. Chúng ta nhận định rằng: Nhân loại muốn được ổn cố, trước hết mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải tự cường. Vovinam-Việt Võ Ðạo nêu gương thúc đẩy mọi dân tộc cùng vươn mình lên tự cường. Chúng ta bảo dưỡng và phát huy những mặt mạnh, chối từ và san lấp những mặt yếu, vì tự nguyện chứ không bắt buộc phải tự hủy. Bởi tất cả mọi hình thức vông bản diệt thân đều đáng bị khinh bỉ, và đó cũng là tiền đề cho mọi sự bất ổn.

Chúng ta có thể triển khai và phát huy “ba phần vụ sống” của người môn sinh Vovinam-Việt Võ Ðạo vào công cuộc hiến ích để ổn cố nhân loại.

–  Trước hết, dân tộc phải tự cường bằng kiện toàn mọi mặt để được bình đẳng và xứng đáng cùng nhân loại tiến bộ, sánh vai phục vụ công ích.

–  Khi quốc gia, dân tộc tiến bộ, tự cường rồi phải có nhiệm vụ giúp các quốc gia, dân tộc khác tự vươn lên để tạo thế quân bình cho nhân loại ổn cố. Ổn cố nhân loại không có nghĩa: đồng hóa, tiêu diệt các nét đặc thù của họ mà chính là tôn trọng, tương liên trên tinh thần thượng võ hiếu học, giao thoa quốc tế.

–  Trong tình hình đấu tranh để tồn tại và phát triển, nhân loại phải trải qua nhiều thử thách gay gắt mất còn, nên nói ổn cố nhân loại chỉ là nói theo nghĩa tương đối. Vì thế, người môn sinh Vovinam-Việt Võ Ðạo phải nêu gương hy sinh trên bước đường hành đạo, thực hiện lý tưởng Nhân Võ Ðạo bằng chính bản thân cầu tiến và hiến dâng, với tâm nguyện chuyên chở và giao thoa những nét đặc trưng của mọi nền văn hóa truyền thống của loài người. Trong tinh thần này, hàng ngũ môn đồ Vovinam-Việt Võ Ðạo phải thật khiêm cung, độ lượng để tránh ngộ nhận và tạo được nghĩa tình đồng môn đồng đạo, thuận lợi cho bước khai phát Nhân Võ Ðạo.

Do đó, để định hướng và vững niềm tin, chúng ta:

– Ước vọng được học tập, rèn luyện và tu dưỡng trong mọi môi trường ổn định, đoàn kết và tiến bộ.
– Ước vọng nắm bắt được tri thức về khoa học hiện đại và tiên tiến.
– Ðược phát huy tài năng thiên phú hay cá biệt với những điều kiện thuận lợi nhất.
– Có đời sống riêng tư thoải mái, gia đình an vinh hạnh phúc.
– Ðược tôn trọng, tin cậy và quý mến trong giao lưu tư tưởng và tình cảm với mọi người.

Ðó là những ước vọng chính đáng có thể thực hiện được. Chúng ta luôn nhìn vào nội tâm, trở về với con người thực của mình, hòa chung nhịp thở với mọi người, sánh bước cùng nhau nỗ lực tự thắng và vượt thắng. Trên đường tiến tới Nhân Võ Ðạo đòi hỏi chúng ta phải có một tấm lòng, một nhãn quan thông suốt, nhận lấy trách vụ và củng cố niềm tin vững chắc.

Dấn thân, cống hiến là sứ vụ thiêng liêng nâng cao giá trị làm người của chúng ta. Hướng đi đã vạch, lý tưởng sáng tỏ, sự nghiệp tất thành. Chúng ta hàng hàng lớp lớp nối gót nhau tiến lên với tâm nguyện phục vụ dân tộc và nhân loại.

Chương 6 – Tinh thần, tư tưởng khuynh hướng của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo

Là môn sinh VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO chúng ta đều có chung một mục đích sống, một tinh thần xây dựng như nhau. Trên tiến trình cách mạng tâm thân chúng ta cùng chung một chí hướng, nhưng đồng thời chúng ta vẫn có những tư tưởng và cách thể hiện khác nhau.

Hãy lấy thí dụ: Hai chí sĩ Sào Nam Phan Bội Châu và Tây Hồ Phan Chu Trinh cùng có tinh thần yêu nước, cùng có chí hướng chống thực dân giành độc lập như nhau, nhưng cụ Sào Nam muốn hướng về Nhật trong lúc cụ Tây Hồ muốn hướng về Pháp. Cụ Tây Hồ muốn học tập những bài học dân chủ và cải cách của cuộc cách mạng nhân quyền 1789 của Pháp nên có đường lối ôn hòa, trong lúc cụ Sào Nam muốn học hỏi đường lối duy tân của Nhật và cầu viện Nhật giúp đỡ thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Ðó là chung tinh thần và chí hướng, nhưng có tư tưởng và khuynh hướng hành động khác nhau.

Trở về với vấn đề môn phái, mỗi người môn sinh chúng ta đều có chung một lý tưởng, một niềm tin với tinh thần và chí hướng quyết tâm thực hiện hoài bảo giúp ích, hiến ích cho đời, nhưng tùy theo khuynh hướng, mỗi người có thể có cách thể hiện khác nhau. Người thì muốn bước từng bước xây dựng nền móng vững chắc. Người lại muốn bước tiến mau tiến mạnh để chóng đạt được mục đích. Người muốn sống tiết dục để nêu cao gương thanh bạch, người lại muốn sống hào hoa phong nhã để tạo thế cao sang lịch lãm, người có tâm hồn nghệ sĩ, người có đầu óc kinh doanh.

Tất cả những tư tưởng, khuynh hướng đó có gì đối lập nhau ? Trái lại chúng bao quát mọi mặt để bổ túc cho nhau. Ðiều quan trọng là phải biết tôn trọng lẫn nhau, biết thỏa thuận phân vùng, mỗi người một lảnh vực giúp đỡ nhau phát triển đồng đều, chứ đừng tham vọng chi phối sang lảnh vực mà mình không thấu đáo tận tường để gây thành mâu thuẫn tranh giành.

Ðó là tinh thần VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO. Tinh thần đó phải được thể hiện bằng nếp sống và cách hành xử khiêm cung, hào hiệp, luôn nêu cao tinh thần trọng nghĩa khinh tài qua bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái.

Chương 7 – Võ đạo với con người

Cuộc sống của con người từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già là một quá trình đấu tranh để sinh tồn. Cuộc đấu tranh được biểu hiện với nhiều tính cách khác nhau: Mãnh liệt, ôn hòa, bao dung, cải hóa….. Ðấu tranh cũng có nhiều dạng: Hoà bình, chiến tranh, đấu lý, đấu lực, đấu trí v.v… Mục tiêu và đối thủ cũng đa dạng, từ cụ thể đến trừu tượng, với một người, một nhóm, một tập thể, một chủng tộc – với cái ác, cái xấu, cái tàn bạo, cái hiểm độc – và những cái yếu kém thô thiểu của chính bản thân mình nữa.

Cũng không phải con người mới biết đấu tranh. Thành ngữ “Ðừng dồn con thú đến chân tường” , ” con dun xéo mãi cũng quằn”v.v… đả nói lên bản năng đấu tranh của mọi sinh vật. Nhưng so với vạn vật, chỉ có con người mới đạt tới cao điểm của đấu tranh. Rất nhiều con vật hùng mạnh hơn con người, nhưng đã bị tiêu diệt như các sinh vật trong các nguyên đại trước (khủng long, thực vật sơ khai…) và ngay cả trong thời đại hiện nay: nếu không có chính sách bảo vệ thỏa đáng, rất nhiều sinh vật quý hiếm có hiểm họa bị tiêu diệt: cá voi, cá mập, cá heo, sư tử, hổ, báo, tê giác, voi, trăn, rắn v.v…

Nhưng để tồn tại, không phải lúc nào con người cũng là “thợ săn” của mọi sinh vật, Trên thực tế, mỗi năm “con người” chúng ta bị hy sinh hằng triệu người, vì đã trở thành “mồi săn” của những sinh vật nhỏ bé hơn nhiều là vi trùng và siêu vi. So sánh như vậy, chúng ta mới thấy nổi bật lên giá trị cao quý của đấu tranh sinh tồn của con người mà các sinh vật khác không có.

Tiến hóa sử nhân loại đã ghi nhận: không phải chỉ có hùng mạnh mới tồn tại. Các loại khủng long và đương thời là các sinh vật to lớn như cá voi, cá nhà táng, hổ, báo, rắn rết v.v… luôn đứng trước hiểm họa tuyệt chủng. Ngược lại, nếu chúng ta cũng chỉ có khả năng đấu tranh như muôn loài, mọi việc chắc khác hẳn. Bài học “cậy mạnh hiếp yếu” của các động vật hung dữ và các đế quốc hùng mạnh bạo tàn một thời như Mông Cổ, Ba Tư, La mã v.v… đã chứng tỏ.

Từ đấu tranh nặng về cơ năng (đô vật) đã chuyển dần sang né tránh tài tình, phản công hữu hiệu (quyền cước), người võ sĩ đã bước sang lĩnh vực võ thuật. Rồi từ võ thuật, con người đã vận dụng thêm về trí lực vào cuộc đấu tranh : Võ đạo xuất hiện. Có thể nói : Võ đạo chính là cao điểm của võ học. Khả năng đấu tranh của con người được biểu hiện bằng võ thuật dưới sự điền động của Trí Lực và Ðức lực là Võ Ðạo.

Từ quan niệm trực đấu (song đấu, đa đấu) của khuynh hướng “anh hùng cá nhân” được ham mộ một thời, chiến tranh đã nâng võ thuật lên hàng võ học và thâm nhập và binh pháp học với phương pháp tổ chức quy mô. Nhưng khi vận dụng binh pháp học vào chiến tranh, chúng ta lại thấy những hiện tượng nghịch đảo xảy ra : Ðại quân Hoằng Thao thời Nam Hán, đại quân nhà Tống của Quách Quỳ, đại quân Mông Cổ của Thái Hoan ; đại quân nhà Minh của Vương Thông, Liễu Thăng ; đại quân nhà Thanh của Tôn Sĩ Nghị – lại bị thảm bại trước mộ đạo quân yếu và ít hơn nhiều vế cả quân số và hỏa lực, khí tài ; có khi chỉ cần một phần ba, như đạo quân nhà Trần luôn luôn chỉ ở mức 150.000 – 200.000 quân đối phó với 600.000 Mông Cổ ; Lê Lợi, Nguyễn Trãi chỉ có 1000.000 – 2000.000 quân đối phó với 300.000 – 400.000 quân của Vương Thông, Liễu Thăng; Nguyễn Huệ chỉ dùng 100.000 quân tiêu diệt 280.000 quân của Tôn Sĩ Nghị.

Chiến tranh đã đem tới những tiêu chuẩn mới cho võ học. Ở đây, chúng ta thấy nổi lên một cao điểm : vận dụng tối đa trí lực, đức lực và tinh thần Dân Tộc vào chiến tranh, vào binh pháp, vào võ học. Như vậy, những yếu tố cơ bản của võ đạo dân tộc đã hình thành : Ðạo đức kết hợp với trí tuệ, với cội nguồn dân tộc. Và như vậy, cội nguồn dân tộc trở thành những căn bản sinh tồn trong cuộc đấu tranh trường kỳ của dân tộc Việt Nam.

Từ những suy luật trên, chúng ta ai mở rộng tầm nhìn ra thế giới : Không phải chỉ có dân tộc Việt nam mới đánh lui ngoại xâm trong các cuộc đấu tranh sinh tồn mà nhiều quốc gia khác – và hầu hết mọi quốc gia, dân tộc – đều có khả năng ấy. Nhật Bản đã hai lần đánh lui được quân Mông Cổ.

Tranh đấu sử và võ học của các dân tộc thường có những dị biệt nhưng cũng có những đồng điểm và những điểm trùng lắp lý thú. Ví dụ : cùng một dòng sông Bạch Ðằng, thuyền của Hoàng Thao tiến sang bị Ngô Quyền dùng cọc sắt và mực nước thủy triều lên xuống phá vỡ hải đội quân của Tọa Ðô, Ô Mã Nhi cũng bị quân của Trần Quang Khải phá vỡ trong những điều kiện tương tự.

Bài học đấu tranh và khả năng đấu tranh của con người trong cộng đồng nhân loại đều có những điểm tương đồng. Không phải chỉ có dân tộc Việt Nam là biết đấu tranh kiên cường để bảo vệ dân tộc và chủ quyền, mà rất nhiều dân tộc khác cũng làm được như vậy. Không phải chỉ có người phương đông là yêu cái thiện, cái đẹp, cái đúng mà người phương tây cũng vậy. Không phải chỉ có dân Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc biết truyền bá các môn võ của họ ra thế giới mà Việt nam, Thái Lan cũng có khả năng đó. Cũng là con người như nhau, nên ta và người cùng có những khả năng, tập tính và quán tính tương đồng như nhau.

Nhìn nhật con người có những dị biệt và đồng điểm là chúng ta thừa nhận có khả năng học hỏi, truyền thụ và giao lưu văn hóa với nhau về nhiều phương diện. Trên những đồng điểm ấy, chúng ta có thể có nhiều điểm chung hòa hợp với nhau, trong đó có võ học, đồng điểm đặc sắc nhất của thế giới hiện nay là cùng hướng chung về Võ Ðạo. Võ đạo dân tộc có thể xuất phát, khởi động từ một nước ra nhiều nước và ngược lại. Trong giao lưu, tất cả các đối tác có thể tìm hiểu học hỏi lẫn nhau và thái dụng tinh hoa của nhau. Và như vậy, cùng có sự phối triển, mỗi môn võ vẫn có bản sắc riêng của dân tộc mình, nhưng không phải chia, khép kín mà mở cửa đón tiếp nhau để trở thành Nhân Võ Ðạo.

Chương 8 – Đổi đời – đổi người – đổi tính

THAY ĐỔI BẢN CHẤT HAY ĐỘNG THỂ CỦA SỰ SỐNG:

Người mới sống đó mà đã chết. Nước mới thịnh đó rồi đã suy. Các siêu cường mới kình chống nhau đó mà đã thân hữu. Hòa bình mới tái lập mà đã có triệu chứng tái phát chiến tranh. Chúng ta gọi đó là những thay đổi. Nếu có sự chuẩn bị đón nhận thay đổi, chúng ta coi đó là thay đổi bình thường. Nếu không hay thiếu chuẩn bị đón nhận thay đổi, chúng ta coi đó là thay đổi bất bình thường. Thay đổi của người này là nhu cầu tất yếu, nhưng đối với người kia là một khổ nạn, tùy theo diễn trình thuận hay nghịch.

Cũng không phải chờ tới thế hệ chúng ta, vấn đề thay đổi mới được coi là quan trọng. Kinh Dịch, cách đây hai ngàn năm, đã coi thay đổi là quan trọng: Trời Đất thay đổi mà thành bốn mùa, vua Thang vua Vũ thay đổi mà thuận ý trời hợp lòng người “Thiên Địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân…”.

Như vậy, thay đổi là bản chất của sự sống hay là động thể của sự sống?

Thực ra, bản chất hay động thể chỉ là những ý niệm, dù là ý niệm cụ thể phản ãnh thực tại. Do đó, bản chất tự nó không thuần tĩnh, cũng như động thể của nó cũng không thuần động. Trong động có tĩnh, trong tĩnh có động, là phản ảnh nguyên lý này. Vài tỉ dụ: Mặt Trời (nhật cầu) được coi là một định tinh, nhưng thật ra đó là một động thể, vì sự cháy sáng cung cấp nhiệt lượng tự làm hao mòn 1/1000 khối lượng trong mỗi 15 tỷ năm. Địa cầu, tuy là một hành tinh, nhưng đã bao lần bị ngộ nhận là một định tinh, từ những quan niệm văn hóa và tôn giáo tối cổ, qua quan niệm của thiên văn học Ptolemee (140), tới Hội của những người chủ trương trái đất vuông và không quay (tại Anh quốc) ngày nay.

Ngọn cây tưởng như là động thể vì tính chất trưởng triển, sinh hóa và gió lay. Gốc tưởng như tĩnh thể, vì im lìm, gần như bất biến. Nhưng thật ra, tất cả đều đang thay đổi. Có thể thay đổi theo chiều hướng thuận hay chiều hướng nghịch.

Nguyên tử trong vật chất cũng tưởng như tĩnh, vì được cấu tạo cố định cho từng loại. Nhưng thực ra, nó vẫn chuyển động tự thân, vì các điện tử, trung hòa tử, và có thể bị xúc tác mạnh vì những năng lực bên ngoài chi phối. Thay đổi do đó có cả trong các tĩnh thể và động thể, là tính chất và động lực của sự sống, rất cần thiết cho chúng ta.

ĐỔI ĐỜI : CHU KỲ CHUYỂN HÓA CỦA ĐẠI THỂ

Nhất thiết, thay đổi có trong mọi nơi, mọi vật. Cái bàn đó, mới đó, tức đang sắp thành cũ. Xuân còn non, nghĩa là xuân chưa già hay Cái bay không đợi cái trôi, từ tôi phút trước sang tôi phút này. Tuổi trẻ, chuộng mới, muốn thay đổi thật nhiều; trong lúc tuổi già ngại thay đổi, vì sợ xáo trộn. Nhưng rồi tuổi trẻ – nói chung – sang trạng thái già, lại ngại thay đổi vì sợ xáo trộn v.v… Một chu kỳ diễn hóa cứ thế xuất hiện trước mắt chúng ta: lớp người hôm qua cấp tiến, nay đã thành bảo thủ, trong lúc thực ra cấp tiến hay bảo thủ là hai ý niệm có giá trị tương đối.

Những thay đổi đó của sự vật không phải chỉ biểu lộ tùy hứng bất nhất, mà được biểu diễn bằng từng chu kỳ diễn hóa. Chu kỳ Saros (nhật nguyệt thực) cho ta thời gian 18 năm 11 ngày trở lại tình trạng cũ y hệt, sau 28 lần nguyệt thực, 43 nhật thực sai khác chút đỉnh. Chu kỳ Méton cho ta 19 năm về xuân phân y hệt 19 năm về trước. Chu kỳ chiến tranh thế giới cho ta 20 năm chiến và 20 năm hòa. Chu kỳ chiến tranh và hòa bình Việt Nam cho ta 9 năm đánh rồi hòa : 1945 – 1954 ; 1954 – 1963; 1963 – 1973 (vì cách biệt 1 tháng) v.v…

Khi ta nói: đời người sống lâu trăm tuổi – là chấp nhận chu kỳ đời người 100 năm tuổi thọ. Khi ta chúc “bách niên giai lão”, là chúc trăm tuổi đời bên nhau, tới già, tới chết.

Thăng và trầm, chỉ là hai mặt âm, dương tố của Vòng Đạo chu kỳ. Chu kỳ đó, bao bọc che chở, cuốn hút. Nước thịnh rồi suy, hoặc suy rồi thịnh : một chu kỳ diễn hóa của đại thể.

ĐỔI NGƯỜI: CHU KỲ CHUYỂN HÓA CỦA TIỂU THỂ

Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Con người muốn làm gì? và phải làm gì? Đó là chu kỳ diễn hóa của tiểu thể. Con người muốn sống lâu …Vừa phải thôi! Vì …chu kỳ tuổi người chỉ tới trăm năm (nói chung) là hết. Trong vòng chu kỳ đó, phải tuân hành mọi sự chế ngự của Nhiên Luật : ốm, đau, già, yếu, sống, chết.

Quang Trung đại đế là một vị anh hùng, từ độ lượng, đởm lược, tới ý chí, và mưu trí. Người tung 100.000 quân đánh thắng 300.000 địch (200.000 quân Thanh và 100.000 quân Lê Chiêu Thống) trong một thời gian kỷ lục. Người lặng lẽ thanh toán 50.000 quân Xiêm nội trong một trận Rạch Gầm. Người cầu hiền đãi sĩ, thật khiêm nhượng trước một La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp chán ngán việc đời. Người dùng tướng đúng chỗ, trù liệu kế hoạch không sai lầm. Nhưng người về đâu? Lao tâm, lao lực làm Người chết sớm. Quang Trung, Gia Cát Lượng đều mãi say công việc, chỉ nhớ đại thể mà quên tiểu thể “thân phận làm người”, nên đã bỏ lại một sự nghiệp dở dang, vì không nắm vững (hay cố quên) chu kỳ diễn hóa của tiểu thể.

Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc của chúng ta cũng mắc nhược điểm trên: lo nghĩ, buồn phiền và làm việc quá nhiều, nên tuổi thọ suy giảm.

Chúng ta cần “đổi người” là thế. Cách Mạng Tâm Thân đòi hỏi “đổi người”. Phải vững mạnh, kiện toàn cả Tâm và Thân, luôn luôn ở mức “thăng tiến nhưng vừa phải”. Cố Võ Sư Sáng Tổ đã tự hy sinh để cho chúng ta thấy điều ấy. Người đã nghĩ ra, tìm ra, để Người – Khác sống, còn Người, Người không cần. Đổi người là quan trọng và hợp lý, vì con người phải tự hiểu và nắm vững chu kỳ diễn hóa tiểu thể của mình. Chúng ta hãy lãnh hội tâm ý Người để đừng làm theo Người : vì tha nhân, nhưng phải tự bảo trọng để có thể có thời gian (tuổi thọ) giúp ích và hiến ích nhiều hơn.

ĐỔI TÍNH : THAY ĐỔI TỪ BẢN CHẤT SỰ SỐNG

Thay đổi tâm năng, thể chất chưa đủ, chúng ta còn phải thay đổi ngay từ tâm hồn, vì tâm hồn mới là chủ tễ của ý chí và nghị lực. Thay đổi không có nghĩa là bỏ hết những gì về sinh hoạt tinh thần vẫn có, mà chỉ có nghĩa là thay đổi những nhược điểm, khuyết điểm với tiêu điểm hướng thiện và hướng tiến. Muốn thế, chúng ta phải khởi đầu ngay từ phần vụ “Tính” (Le spirituel), phần vụ chủ yếu của tâm hồn mỗi chúng ta.

Điều cần phân biệt ngay là, “Tính” ở đây không phải cá nhân tính (individualité) hay cá tính (caractère particulier), mà có nguồn gốc từ Nho học cổ truyền: “Mệnh Trời phú gọi là Tính, noi theo Tính gọi là Đạo, tu theo Đạo gọi là Giáo”.

Thay đổi Tính chính là thay đổi tâm thức, để trí óc luôn luôn được mẫn tuệ, thông suốt trước mọi hoàn cảnh, mọi sự việc. Muốn thế, phải trau dồi ngay từ Đức Hạnh, Trí Tuệ tới Ý Lực. Trần Hưng Đạo chỉ nghĩ tới nợ nước quên thù nhà, chính vì Ông đã biết thay đổi Tính (không ham ngôi báu) khi nước biến. Quang Trung Nguyễn Huệ nhìn trước được sự thảm bại của quân Thanh, chính vì Ông đã biết thay đổi Tính (biết nhìn xa thấy trước) để thích ứng với hoàn cảnh đặc biệt đương thời. Lê Lợi bị thảm bại suốt 5 năm, vẫn kiên gan trì chí cầu hiền và chấn chỉnh lại quân đội, binh pháp để phản công trong 5 năm sau, chính vì Ông đã biết thay đổi Tính (kiên trì chịu đựng) để không ngã lòng trước nghịch cảnh.

Hiện trạng của đất nước ta thời hậu chiến cũng có những nhu cầu tương tự. Chúng ta sống trong chiến tranh, chịu đựng những bất công của chiến tranh, quen tự vệ và tấn công hơn là tái thiết, xây dựng. Nếp sống thích ứng với thời chiến nay không còn thích ứng với nhu cầu thời bình, và càng không thích ứng với tình trạng phi hòa phi chiến hiện nay.

Tất cả phải thay đổi lại ngay từ khởi điểm là Con Người, để Con Người có thể thích ứng ngay với hoàn cảnh mới và đáp ứng được với nhu cầu mới. Do đó, Con Người phải thay đổi ngay từ Tính để trau dồi thêm Đức Hạnh, Trí Tuệ và Ý Lực thích ứng với yêu cầu mới của thời hậu chiến. Đó là điều mà Chủ Thuyết Cách Mạng Tâm Thân đã đem lại cho chúng ta, từ Lý Tưởng, Ước Vọng tới Chủ Điểm và Thành Điểm Giáo Dục.

Đổi tính, để vào đời với tinh thần Việt Võ Đạo, thích ứng với hoàn cảnh Đổi Đời và Đổi Người hiện tại – đó là nguyện vọng chung của toàn thể môn phái và những người Việt Võ Đạo chúng ta.

Chương 9 – Đưa võ đạo vào học đường

Vấn đề đưa võ đạo vào học đường được coi như một vấn đề mới lạ, đối với sinh hoạt học đường.

Sự cảm nhận tiên khởi này, chính là do thói quen thành kiến lâu đời của chúng ta: Văn, Võ phãi biệt lập, và được coi như là hai ngành sinh hoạt khác nhau. Tỉ dụ như thời Nguyễn, những khoa thi Võ Tiến Sĩ không có điều kiện ràng buộc nào cho các thí sinh về điểm có biết chữ hay không; cũng như những khoa thi trường (thi Hương, thi Hội, thi Ðình) đều không có ràng buộc nào cho các thí sinh về điểm có biết võ hay không. Ngoại trừ thời Trần và thời Lê. Thời Trần, sự cưỡng bách võ học được áp dụng chung cho cả công chúa, phi tần và văn quan, và thời Lê áp dụng chung cho các chức quan cai trị cả văn lẫn võ từ tứ phẩm trở xuống phải học thi Minh Kinh Khoa gồm cả kinh sử và võ thuật.

Như vậy, vấn đề đưa võ đạo vào học đường, nếu có mới lạ, chỉ là do thói quen và thành kiến từ thời hậu Nguyễn đến nay, chớ không phải là thói quen lâu đời suốt trong mọi thời của Việt Sử.

VIỆT VÕ ÐẠO VÀ TIỀN VIỆT VÕ ÐẠO

Từ ngữ Võ Sĩ Ðạo đến với ta trong thập niên 30, khi Nhu Ðạo (Judo) và Nhu Thuật (Jiu-Jitsu) bắt đầu du nhập Việt Nam. Chiết luận từ ngữ này, chúng ta thấy có hai phần Võ Học và Ðạo Học đã được hội nhập và kết hợp. Nếu tầm nguyên, chúng ta thấy rõ trong từ Bushido (Võ Ðạo) có hai đoạn: Bushi có nghĩa là Nghĩa Hiệp và do là đạo. Suy luận cho cùng chúng ta lại thấy từ ngữ nghĩa hiệp cũng như là những từ ngữ đạo hay giáo không phải là những từ ngữ xa lạ với xã hội Trung Quốc và Việt Nam. Nếu hiểu theo định nghĩa kết hợp võ học với đạo học là võ đạo, chúng ta thấy ngay sự kết hợp này được hình thành rất nhiều trong Việt Sử: Thời Lý, võ được kết hợp với Phật học, thời Trần võ học được kết hợp với tinh thần Tam Giáo (Nho – Phật – Ðạo). Cũng như nếu đối chiếu với võ học Trung Quốc, chúng ta thấy rõ có rất nhiều môn phái võ học đều hội đủ những yếu tố về võ đạo như các môn phái Thiếu Lâm, Võ Ðang v.v…

Do đó, chúng ta không thể khẳng định được rằng: Không phải chờ tới năm 1938 – năm xuất hiện công khai của môn phái VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO – chúng ta mới có một nền võ đạo, mà những yếu tố võ đạo đã được hội đủ ngay từ thời Lý – Trần, tuy vẫn chưa dùng danh xưng võ đạo. Tuy nhiên, để phân định giới hạn thời gian, chúng ta tạm dùng danh xưng Việt Võ Ðạo để chì sinh hoạt Việt Võ Ðạo từ năm 1938 tới nay và tiền Việt Võ Ðạo trước 1938 vì Việt võ Ðạo đương thời chỉ là sự kế tục những hoạt động võ học của dân tộc Việt Nam từ trước.

NẾP SỐNG TIỀN VIỆT VÕ ÐẠO
TRONG TRUYỀN THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM

Nếp sống tiền Việt Võ Ðạo trong truyền thống giáo dục Việt Nam, được đánh dấu bằng sự xuất hiện của Lý Công UâÛn (1010 – 1028), vị khai sáng Triều Lý, với những huyền thoại đặc biệt về ông, được tô điểm thêm bởi xuất kỳ bí, do bản tính trầm lặng hoặïc do công phu tu tập. Tuy nhiên, những dự kiện chính xác nhất về ông chính là sự lãnh hội và thái dụng đặc biệt võ học và đạo học trước khi nhiệm thế, vì ông còn là môn đệ của vị danh tăng Sư Vạn Hạnh. Sự phối hợp đặc biệt của võ học và đạo học đã đem lại sự ổn định khá lâu dài cho đất nước trong suốt 9 triều vua dài 115 năm (1010 – 1225). có thể nói: Chính trường hợp của Lý Công Uẩn là sự điển hình cho sự thành công đầu tiên về sự phối hợp võ học và đạo học trong truyền thống giáo dục Việt Nam.

Chuyển sang thời triều Trần (1225 – 1400), vấn đề phối hợp võ học, và đạo học được phát huy quy mô hơn và mặc nhiên được đưa lên hàng quốc sách, nếu nói theo ngôn ngữ chính trị hiện nay. Ðó là sự thể hiện sách lược chính trị vào giáo dục, qua kế sách Trần Hưng Ðạo: Khuyến võ song hành với khuyến văn bằng Quốc Học Viện với những khoa thi Tam Giáo (Nho – Ðạo – Phật) và Thái Học Sinh(tức sinh viên Quốc Học Viện) song hành với hệ thống Giảng Võ Ðường. Giảng võ đường là một cơ cấu được thành lập như một Viện Ðại Học về võ học, cưỡng bách học trò trong khắp các đẳng cấp xã hội, từ quan lại, phi tần, công chúa, hoàng tử v.v… tới thứ dân đều phải tùy từng hoàn cảnh, học tập múa gươm, cưỡi ngựa và binh pháp, để thực thi mọi kế hoạch chiêu dân lập ấp trong thời bình, và chống giặc giữ làng trong thời loạn. Rõ rệt là nền giáo dục trong thời Trần không phải chỉ chú trọng tới việc đào tạo nhân tài văn học như thời Hậu Nguyễn (chỉ có Quốc Tử Giám không có Giảng Võ Ðường hay một cơ cấu tương tự), mà chú trọng tới việc đào tạo những nhân tài (văn võ song toàn) để có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh đất nước bằng sự đóng góp đa năng đa hiệu của mình. Những tướng lãnh nổi tiếng của thời Trần, đều biểu dương sự thanh công hiển nhiên của chính sách giáo dục này: Trần Quang Khải quý tộc, nhưng có nếp sống bình dân, Phạm Ngũ Lão xuất thân từ gia đình bần nông, Yết Kiêu ngư dân, Trần Quốc Toản chú bé quý tộc tinh quái, can đảm mưu lược v.v…Khả năng của các vị này, như chúng ta đều biết, bên cạnh những võ công hiển hách còn có những danh văn biểu dương hào khí một thời.

Sang đến nhà hậu Lê, võ học được phát triển khắp cả tầng lớp quý tộc, lẫn bình dân. Ngay từ lúc Lê Thái Tổ lên ngôi, việc đầu tiên mà ông thi hành ngay là ấn định lại quy chế giáo dục, bắt đầu từ các quan văn võ tứ phẩm xuống. Khởi đầu là chương trình huấn luyện và tu nghiệp: Lập các khóa học và thi mệnh danh là (Minh Kinh Khoa) bắt buộc các chức quan phải học lại, thi lại về cả văn (kinh sử) và võ. Chế độ (Minh Kinh Khoa) còn mở rộng tới các lộ, để tuyển dụng nhân tài trong dân dã, và áp dụng luôn cho cả giới tu sĩ, không phân biệt Phật giáo hay đạo giáo. Sự cưỡng bách giáo dục còn đi tới chỗ khắc nghiệt là buộc các tu sĩ nếu bị loại ra khỏi các cuộc khảo hạch phải hoàn tục. Rõ rệt dụng ý của Lê Thái Tổ là muốn tái lập và đi xa hơn, chính sách giáo dục đào tạo nhân tài, Văn Võ Song Toàn để phục vụ đất nước hữu hiệu hơn. Ðiều đáng tiếc ở đây là thiện chí này chỉ kéo dài một thời gian, tới lúc gặp đảo chánh của Mặc Ðăng Dung (một nhân tài võ học xuất thân từ khoa thi Ðô Lực Sĩ), các triều đại kế tiếp thay vì rút tỉa những kinh nghiệm sai lầm về lãnh đạo và chính sách, đã mặc nhiên quy lỗi cho các võ tướng xuất thân từ giới bình dân, được trọng đãi nhờ chính sách giáo dục Văn Võ Song Toàn. Do đó, quan niệm Trọng Văn Khinh Võ khai sinh, quan niệm Tuyển Dụng Nhân Tài thay đổi lại, dần dà chỉ còn Quốc Học Viện và những khoa thi Kinh Sử để tuyển dụng nhân tài. Kết qũa là bộ tham mưu của vua Tự Ðức trong triều đình là một nhóm văn nhu nhược chống ngoại xâm và 80 năm Pháp thuộc, trong lúc một số nước Á Ðông khác không gặp tình trạng này, như Nhật Bản, Thái Lan…

VÕ ÐẠO: YẾU TỐ SINH TỒN VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DÂN TỘC NHƯỢC TIỂU ÐÔNG PHƯƠNG

Nói đến giá trị võ đạo, chúng ta không thể không đề cập tới Nhật bản, một quốc gia có nhiều nghị lực nhất và cũng có nhiều tham vọng nhất Á Châu.

Trong thế chiến thứ hai, cả thế giới cảm phục sự hy sinh của những quân đội Thần Phong (Lamikazé) Nhật đã lao phi cơ vào ống khói tàu chiến ÐồngMinh. Sau hai trái bom nguyên tử nổ trên đất Nhật và sự đầu hàng vô điều kiện, nông dân Nhật vẫn xoay lưng lại trước đoàn quân chiến thắng tới chiếm đóng, và ngày nào cũng có tới hàng trăm vụ “Hara-Kiri” trong nhiều tháng, hướng về hoàng cung để sụp lạy để tạ lỗi nhà vua đã không giữ nồi nước Nhật. Nhật Hoàng và Nhật Hậu mất hết quyền hành, đi du ngoạn nông thôn qua vũng lầy, được một em nhỏ 10 tuổi xin cõng vua và hoàng hậu qua. Nhà vua từ chối:

–  Ta không xứng đáng để cháu cõng, ta không giữ được nước.

Chú bé khóc mà trả lời:

–  Xin cho cháu cõng. Thiên Hoàng không có lỗi. Chỉ vì nước ta chưa đủ mạnh…

20 năm sau trên toàn thế giới, có 50 triệu môn sinh Nhu Ðạo ngoạïi t ịch. Hai mươi năm sau, Nhật bản trở thành một Siêu Cường kinh tế trên thế giới.

Quả thật, mọi việc đã đến với dân tộc Nhật như một phép lạ và phép lạ đó, chính là tinh thần Nhật được biểu hiện bằng tinh thần Nhật Võ Ðạo (Bushido). Nhưng Nhật Võ Ðạo tức võ sĩ đạo Nhật Bản là gì mà có thể hồi sinh được một dân tộc chiến bại và tủi hận như nước Nhật ?

Theo sự định nghĩa của giáo sư Nitobé trong cuốn Bushido (Nhật Võ Ðạo), ông giải nghĩa:

Nhật Võ Ðạo là một bộ luật có ghi chép rõ ràng những phương châm sinh tồn và phát hóa của những hạng người cao quý có tinh thần thượng võ ở Phù Tang. Là đạo sinh, người theo đạo không thể không thực hành đúng những phương châm căn bản do đạo dạy. Song bộ luật không có hình thức nhất định. Phương châm của đạo là những câu cách ngôn thông thường được truyền tụng từ một thế hệ này qua thế hệ khác, hoặc do những nhà thông thái, kiếm khách, hiệp sĩ, tên tuổi trong nước ghi lại. Tên chính của đạo là do chữ Buke hay Bushi tức nghĩa hiệp mà ra. Năm đức tính chính của đạo là: 

  • Sự ngay thẳng tức đức công bằng, 
  • Tính can đảm
  • Ðức nhân từ
  • Ðức lễ độ 
  • Ðức tự kiểm.

Một điểm đặc biệt đáng ghi ở đây là, Nhật Võ Ðạo chính thức áp dụng trong các chương trình giáo dục tại Nhật Bản, từ trường tiểu học trở lên. Ðặc biệt trong các chương trình giáo dục, Nhật Võ Ðạo còn dạy thêm ba đức tính nữa để bổ túc và phát triển thêm 5 đức tính trên, gồm có:

  • Ðức vâng lời,
  • Ðức trung tín
  • Ðức yêu việc.

Như vậy, vấn đề tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa về những chú bé Nhật Bản như chú bé nói trên, những thanh niên Nhật Bản sẵn sàng hy sinh như những thanh niên Thần Phong đã có giải đáp thỏa đáng. Cũng như chúng ta không ngạc nhiên khi thấy lòng yêu nước nồng nhiệt của chú bé Trần Quốc Toản bóp nát quả cam để đòi được đánh giặc, những thanh niên như Phạm Ngũ Lão thời Trần ngồi giữa chợ suy nghĩ binh thư mê mãi tới lúc lính dẹp đường đâm thủng đùi, máu chảy đầm đìa, vẫn không biết.

Những chú bé đó, những thanh niên đã được hấp thụ nền giáo dục võ đạo, có tinh thần võ đạo, có tinh thần yêu nước mãnh liệt.
Ðại Hàn cũng ở một trường hợp tương tự. Trong cuốn Triều Tiên Vong Quốc Sử chúng ta đã biết người Nhật, trong thời kỳ chiếm đóng Hàn Quốc từ 1904 tới 1945, đã áp dụng một chính sách vô cùng hà khắc với Hàn Tộc: Cấm chỉ không cho một gia đình Hàn Quốc nào có một tấc sắt. Mỗi đường phố, mỗi thôn xóm, chỉ được dùng chung một con dao phay treo lủng lẳng tại công quán, có lính Nhật bồng súng gác. Văn hóa Nhật được thay thế cho văn hóa Hàn toàn diện. Người Hàn phải nói tiếng Nhật, địa danh Hàn được đổi thành Keijo, Bình Nhưỡng đổi thành Heijo, v.v..Lịch sử nước này lại còn ghi lại phản ứng đầu tiên của dân tộc Hàn trong một trường hợp bi thảm như vậy. Ðó là viên Tổng Giám Ðốc (toàn quyền) của Nhật là Y Ðằng Bác Văn bị ám sát ngay trong một lễ chủ tọa phát phần thưởng cho học sinh bằng một viên đạn súng lục. Thủ Phạm là một cậu học sinh 17 tuổi, bị đưa lên đoạn đầu đài: Liệt sĩ An Trọng Căn.

Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Miên đều có một ngành võ học riêng của họ, tuy mức độ thâm nhập vào chương trình giáo dục bản quốc có khác nhau. Tại Trung quốc môn thể dục áp dụng vào trong các chương trình học là môn thể dục của phái Võ Ðang với bài Thái Cực Quyền từ sau cách mạng Tân Hợi (1911). Tại Thái Lan, Miên, Lào chế độ cưỡng bách khất tăng cho những công dân thanh niên đã mặc nhiên áp dụng phương pháp thiền định của Yoga v.v…

Như vậy, chúng ta thấy giữa các quốc gia Á Ðông hầu như có một sợi dây liên lạc sinh tồn vô hình là võ học. Tùy từng trình độ và nhu cầu tiến hóa, võ học nếu được thăng hóa thành võ đạo, sẽ vừa là yếu tố sinh tồn, vừa là yếu tố phát triển chung trong cộng đồng nhân loại, như tại các quốc gia Nhật, Trung Quốc, Ðại Hàn.

NHU CẦU ÐƯA VÕ ÐẠO VÀO HỌC ÐƯỜNG
TRONG THỜI CHIẾN

Trong thực tại chúng ta đều biết rõ rằng: Chính học đường là nơi đào tạo những nguồn tài nguyên – binh sĩ – trong thời chiến, và chính các kỳ thi cử mới có trách nhiệm phân loại các nguồn tài nguyên này để cung ứng cho quân đội.

Không một ai có thể chối cãi tầm mức quan trọng của học đường trong nhiệm vụ đào tạo nhân lực cho tương lai đất nước, tức là coi võ học như là môn học bắt buộc trong chương trình như môn học chính. Ðược như vậy học đường sẽ không chỉ là nơi đào tạo trí năng mà còn là nơi các thế hệ tương lai được rèn luyện cả về thân lẫn tâm. Ðưa Võ Ðạo vào học đường tức là đưa võ đạo vào chương trình giáo dục thực thụ như các môn phái, với mục đích phát huy tinh thần thượng võ, và đồng thời tạo điều kiện cho các nguồn tài nguyên đất nước, có dịp trau dồi Tâm Thân để xây dựng quốc gia hùng mạnh. Nhờ vậy nhân lực của đất nước sẽ có nhiều khả năng tự phòng, tự quản, tự bảo vệ trước mọi biến cố, sẽ có nhiều đức tính tự tin hơn, và có nhiều khả năng võ bị cao hơn, khi thi hành nghĩa vụ quân sự.

NHU CẦU ÐƯA VÕ ÐẠO VÀO HỌC ÐƯỜNG
TRONG THỜI BÌNH

Trong thời bình, nhu cầu quốc gia sẽ được chuyển sang những ḍich vụ tái thiết, và khai thác những tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. Chắc chắn trong lúc đó những chương trình tái thiết đinh điền, thiết lập công kỹ nghệ sẽ đưa dân tộc vào một chương trình hoạt động đại quy mô mới, đòi hỏi sự đóng góp tích cực của mọi công dân trong các nghĩa vụ tái thiết, và phục hồi nếp sống bình thường của xứ sở. Lúc đó con người sẽ có nhiều cơ hội để chế phục thiên nhiên, chế phục những tàn tích chiến tranh, trong đó có cả nạn trộm cướp, tham nhũng. Kẻ thù vô hình sẽ nhiều hơn kẻ thù hữu hình, và trong cả hai trường hợp, đều đòi hỏi con người những khả năng đề kháng thích đáng trong mọi hoàn cảnh ứng phó.

Nhật bản sau đệ nhị thế chiến, chỉ còn đổ võ và tủi nhục. quân đội không còn, tự ái dân tộc cũng suy giảm, lãnh đạo cũng tự hủy diệt. Nhưng người Nhật với hai bàn tay không, đã làm lại tất cả và đã thành công, nhờ tinh thần võ đạo nuôi sống nghị lực của dân tộc họ.

Thời Trần, mới đầu chương trình cưỡng bách học tập võ nghệ của Hưng Ðạo Vương chỉ nhắm mục đích chiêu dân khẩn hoang lập ấp, nhưng chính nhờ nghị lực chiêu dân khẩn hoang lập ấp này, tinh thần thượng võ đã chuyển sang giữ ấp, giữ làng, giữ nước khi có ngoại xâm, và đã thành công.

Thời Lê, Lê Thái Tổ nhờ việc cưỡng bách học võ cho các quan cai trị và khuyến võ cho cho toàn thể dân chúng, đã hồi viên cho 150. 000 quân và chỉ giữ lại 100.000 người theo phương pháp luân phiên, và đã thành công. Ðó chính là nhờ tinh thần thượng võ được phát huy đúng chổ. Nhân tố của tinh thần thượng võ chính là những yếu tính võ đạo hay tiền võ đạo.

Nói đến nước Nhật, người ta thường chú ý tới đặc 3 đặc tính: Nghệ Giả (Geisha), võ sĩ đạo, hàng hoá đẹp rẻ. Riêng về tinh thần võ sĩ đạo (tức võ đạo), thế giới biết nhiều hơn sau đệ nhị thế chiến. Nhờ sự quảng bá võ học rộng rãi trên toàn thế giới, chỉ 2 năm sau, Nhu Ðạo đã kết hợp được 50 triệu môn sinh ngoại tịch. Tất nhiên uy tín và tinh thần Nhật cũng nhờ số môn sinh ngoại tịch này một phần lớn mà gây ảnh hưởng khắp thế giới.

Trong thời bình, chắc chắn là vai trò của học sinh, sinh viên, những phần tử ưu tú của đất nước sẽ rất quan trọng trong nghĩa vụ xây dựng xứ sở. Tinh thần võ đạo sẽ là nhân tố hình thành tinh thần dấn thân trong công cuộc rộng lớn này, để vừa cho hiện tại, vừa chuẩn bị vững vàng cho tương lai.

BƯỚC KHỞI ÐẦU CỦA CHƯƠNG TRÌNH ÐƯA VÕ ÐẠO
VÀO HỌC ÐƯỜNG

Bước khởi đầu của chương trình đưa võ đạo vào học đường chính là việc hội nhập chương trình huấn luyện võ đạo vào chương trình giáo dục hiện nay.

Người Nhật đã hội nhập tinh thần võ đạo của họ vào các chương trình tiểu học từ thế kỷ 18, và hội nhập chương trình huấn luyện Nhu đạo vào chương trình Trung Học và Ðại Học từ 1910. Ðại Hàn đã hội nhập chương trình huấn luyện Taekwondo của họ vào học đường từ sau chiến tranh Nam Bắc (1950 – 1953). Việt Nam chúng ta có trễ hơn: Cho tới nay, chúng ta mới bắt đầu đặt vấn đề đưa võ đạo vào học đường.

Nhưng thà muộn còn hơn không. Chúng ta sẽ làm lại tất cả để phục hưng tinh thần dân tộc, phục hưng đất nước. Cũng như nước Nhật đã làm lại tất cả, tuy nền võ đạo của họ phát triển sau Trung Quốc, nền kinh tế của họ phát triển sau Âu Châu và Mỹ Quốc.
Cũng với niềm tự tin và nghị lực như vậy, chúng ta sẽ phát triển chương trình đưa võ đạo vào học đường trước mọi thử thách và khó khăn. Bởi vì thử thách và khó khăn nào cũng có thể vượt qua, nếu chúng ta quyết tâm nhất trí, trước nghĩa vụ với tiền đồ dân tộc và các thế hệ hậu lai.

Chương 10 – Võ Đạo với đời sống xã hội xưa

Một nhóm người kết tụ thành Xã Hội, Xã Hội đã có thể phồn thịnh, phát triển hay suy sụp, tan rã do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố Bảo Quản (bảo vệ và quản trị) và yếu tố Khai Phát được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu.

Trong các xã hội xưa, thời nào võ đạo được chú trọng ngang bằng với văn học thì yếu tố bảo quản, khai phát được khai thác đúng mức. Nhờ đó xã hội được ổn định, đất nước phát triển vững mạnh.

Sơ khởi, con người tiền sử khi đã có ý thức là biết tranh đấu, và đã biết tranh đấu là biết bảo quản và khai phát. Huyền thoại về Lạc Long quân kể lại, mỗi lần dân chúng gặp biến, bao giờ cũng lên tiếng gọi Bố ơi sao không đến dạy võ cho chúng con? hoặc Bố ơi ở đâu? Sao để chúa phương Bắc đến xâm nhiễu dân chúng? Chính là nguyện vọng khai phá và bảo quản của tiền nhân Lạc Việt thời Tiền Sử.

Nếu xã hội chưa được coi là môi trường của võ đạo, võ đạo tất được coi là lợi khí ưu việt để bảo quản và khai phát (khai phá và phát triển) xã hội. Tiềm năng của võ học được khai dụng nhiều nhất là vào thời Trần Hưng Ðạo, võ đạo vừa được điều dụng trong mọi ngành sinh hoạt xã hội: Từ bảo quản (công chúa, phi tần, các quan văn võ đều phải học võ để bảo quản cung điện , lãnh thổ, đất nước) đến khẩn hoang (các đoàn Chiêu Ấp, Lập Ấp). Rồi Nam tiến để mở rộng lãnh thổ. Do đó, võ đạo đã vượt thoát ra khỏi môi trường cá nhân, qua các biểu dương thể thao và giải trí (đô vật trong các ngày hội thôn xã) để hoạt động tại môi trường xã hội, với trách nhiệm góp phần xây dựng nguồn nhân lực cho đất nước.

Trường hợp Nhật Bản là thí dụ điển hình. Nhật Bản đã đưa vào chương trình giáo dục và quân đội; do đó đã tạo cho dân tộc họ nếp sống đặc biệt điển hình mà chúng thường gọi là Tinh Thần Nhật Võ Ðạo hay tinh Thần Võ Sĩ Ðạo (Nhật Bản). Trong mọi bộ môn sinh hoạt xã hội, dân tộc Nhật đã vận dụng tinh thần võ đạo của họ vào mọi lảnh vực, từ chiến tranh, thể dục, thể thao, giáo dục đến phục hồi uy thế và phát triển quốc gia sau khi thất trận, để trở thành một siêu cường kinh tế như ngày nay.

Ðặt lại vai trò võ đạo trong đời sống xã hội hôm nay, đó không phải là vấn đề mới với chúng ta, vì đó là vấn đề mà tiền nhân chúng ta đã làm rồi, và thực hiện rất tốt đẹp từ thời Lý, Trần. Ðồng thời cũng là vấn đề được nhiều quốc gia thực hiện như Nhật Bản, Trung Quốc, Ðại Hàn v.v., tuy nhiên, ý hướng đó đòi hỏi chúng ta những chương trình làm việc thực tiễn với những mục tiêu rõ rệt, mới có thể định hướng cho hoạt động võ học của môn phái trong đời sống xã hội.

TƯƠNG QUAN GIỮA VÕ ÐẠO VÀ XÃ HỘI

Qua lịch sử, giữa võ đạo và xã hội có nhiều mối tương quan khác nhau, có khi nghịch, có khi thuận. Dưới đây là những trường hợp điển hình:

A.Tương Quan Thuận:

Tương quan thuận giữa võ đạo với xã hội là tương quan của sự phối hợp phát triển hài hòa giữa võ đạo với kinh tế, giữa võ đạo với văn hóa, giữa võ đạo với những chương trình bao quát hay khai phát.

Thời Trần Hưng đạo, võ đạo được điều dụng vào mọi ngành sinh hoạt xã hội như giáo dục, chiêu dân lập ấp (khẩn hoang), chống ngoại xâm v.v.. rất hài hòa nên đã đem lại nhiều hiệu quả trên nhiều lảnh vực là tương quan thuận.
Nhật Bản, Ðại Hàn đã khai dụng võ song song với lảnh vực phát triển kinh tế, nên đã đem lại thành công cho xứ sở họ, cũng là tương quan thuận.

  1. Tương Quan Nghịch:

Ngược lại, nếu sự phối hợp hoạt động không đều, sẽ đem tới một thành quả khác hẳn. Thời Nguyễn, triều đình đặt nặng về Văn Học và nhẹ về Võ Học, đã tác thành quan niệm “Trọng Văn Khinh Võ” tạo nên một guồng máy thư lại và một dân tộc suy nhược, thiếu khả năng bảo quản và khai phát trên mọi lĩnh vực, để rồi cuối cùng phải trả giá bằng 80 năm Pháp thuộc, là tương quan nghịch.

Carthage bị thất bại trước La Mã dù nền kinh tế phát triển khá cao. Ai Cập, Hy Lạp có một nền văn minh cổ rực rỡ, nhưng vì thiếu khả năng bảo quản nên đã chậm tiến như ngày hôm nay, cũng là trường hợp có tương quan nghịch giữa võ đạo và nền văn minh của họ.

Tất nhiên, chúng ta đều loại bỏ mọi trường hợp tác thành tương quan nghịch, và đều tán thành mọi trường hợp tác thành tương quan thuận giữa võ đạo với xã hội, để bắt kịp sự tiến hóa chung của cộng đồng nhân loại.

VÕ ÐẠO VỚI ÐỜI SỐNG XÃ HỘI

Với đặc tính rèn luyện khả năng cá nhân tự vệ và un đúc tinh thần thượng võ, võ đạo có trách nhiệm góp phần kiện toàn nhân lực để đáp ứng nhu cầu bảo quản, khai phát xã hội, đất nước.

Các trách nhiệm chính yếu do võ đạo cung ứng cho xã hội gồm có: hai trách nhiệm tiêu cực và hai trách nhiệm tích cực.

A-Hai trách nhiệm tiêu cực:

Trách nhiệm tiêu cực mang tính cách bình tĩnh, thụ động; nhưng không phải vì thế mà kém hiệu năng khi có nội dung giáo dục cả về Tâm và Thân.

Hai trách nhiệm tiêu cực của võ đạo với đời sống xã hội gồm có:

  1. Ðào tạo lớp người mới có thân chất mạnh mẽ dẻo dai, giàu nghị lực và tinh thần thượng võ khi phục vụ xã hội.

Trách nhiệm này là trách nhiệm giáo dục tự thân, mà bất cứ một tổ chức , một đoàn thể nào cũng phải thực hiện tiên quyết.
Trước hết, muốn làm gì cũng phải có Người đầy đủ khả năng dụng võ, còn phải chú trọng tới việc trau dồi thân chất dẻo dai, nghị lực và tinh thần thượng võ, để có thể thích ứng trong mọi thuận cảnh và nghịch cảnh, duy trìø được phẩm tính của mình.

Ðặc tính Có tinh thần thượng võ, giàu nghị lực của lớp người mới sẽ hình thành một thế hệ có quyết tâm vững và một khả năng chịu đựng cao, để có thể bền bỉ theo đuổi và hoàn tất những mục tiêu hoạt động chung. Ðó cũng là vốn liếng đặc biệt mà đoàn thể và xã hội phải đầu tư vào con người nếu muốn phát triển vững mạnh cộng đồng nhân loại.

  1. Ðem tinh thần thượng võ làm gương mẫu cho mọi người.

Có tâm lực và tinh thần thượng võ rồi, chúng ta mới chuyển từ giáo dục sang luân lý ứng dụng bằng những hành động thực tiễn với trách nhiệm cảm hóa tha nhân bằng sự ngay thẳng gương mẫu của mình.

Từ sự cảm mến, tha nhân sẽ dành cho người võ đạo những cảm tình nồng hậu và tiếp tay với người võ đạo trong mọi công tác xã hội.

B. Hai trách nhiệm tích cực:

  1. Ổn định xã hội:

Xã hội nào cũng có những lủng trệ, mà nhiệm vụ tự thân của xã hội là phải tự ổn định.

  • Thanh toán mọi bất công xã hội: Du đãng, trộm cắp, hà hiếp dân chúng, cướp bóc, hối mại quyền thế, v.v…
  • Duy trì trật tự xã hội: Chống lại những âm mưu làm xáo trộn xã hội để làm lợi, nhất là tệ đoan Luật Rừng, Luật Giang Hồ v.v…
  • Chống lại tệ đoan tứ đổ tường: Bằng cả những biện pháp tích cực để hóa giải từ gốc gác của các mầm mống tội lỗi.
  1. Nhiệt thành tham gia mọi công tác xã hội:

Hiện nay, đất nước đã thanh bình. Công cuộc xã hội không chỉ dựa vào các cơ quan chức năng của chính quyền. Phải có sự tiếp tay của người dân. Có tinh thần thượng võ với tấm lòng vị tha, giúp ích và hiến ích, người dân sẽ tích cực tiếp tay với chính phủ trong mọi công tác xã hội chung.

Sự hội nhập của võ đạo vào đời sống xã hội không phải là một việc làm tùy hứng, mà chính là một nghĩa vụ tất nhiên. Trong thời Chiến cũng như thời Bình, điều mà xã hội kỳ vọng ở võ đạo là sự chứng tỏ bảo quản và khả năng khai phát trong mọi ngành sinh hoạt xã hội.

Trách nhiệm với xã hội cũng không có nghĩa như trách nhiệm của cá nhân với tha nhân, mà là trách nhiệm của phần tử với đại thể, trách nhiệm của bộ phận với guồng máy chung.

Với bàn tay thép và trái tim từ ái, với tinh thần võ đạo và ý hướng phục vụ cộng đồng, chúng ta sẽï có nhiều cơ hội đầu tư khả năng, tình cảm và ý chí vào mọi ngành sinh động trong  đời sống xã hội, để tồn tại phát triển và hưng thịnh.

Chương 11 – Tiêu hướng giáo dục của Vovinam Việt Võ Đạo

I – MỤC TIÊU:

  1. Phát triển con người toàn diện bằng Cách Mạng Tâm Thân.
  2. Phối triển và un đúc con người về 3 đức tính:
    • Nhân: Từ ái với tha nhân, hòa hợp với mọi người.
    • Trí: Bồi dưỡng kiến thức, ứng dụng vào hành xử
    • Dũng: Can Trường, dám lãnh trách nhiệm, có nghị lực quyết tâm.
  3. Hướng dẫn con người hòa nhập vào cộng đồng xã hội.

II – PHƯƠNG HƯỚNG:

  1. Dùng võ thuật cải tạo cơ năng, tăng tiến thể lực, nuôi tính tự tin, tự lập, tự cường.
  2. Lấy tinh thần võ đạo tạo quy cách ứng xử trong mọi trường hợp hành xử ở đời.
  3. Xây dựng những thế hệ thanh, thiếu niên tiến bộ, yêu thích hoạt động, có phẩm chất cao.
  4. Ðại chúng hóa võ học: Phổ cập vào mọi từng lớp xã hội, để mọi người tăng cường sức khoẻ và biết ứng dụng sức khoẻ hữu ích vào cộng đồng.
  5. Quảng phát rộng khắp thế giới: Ðể tạo không khí hòa hợp giữa loài người với nhau, để thế giới biết thêm về con người và văn hóa Việt Nam, ngõ hầu gây ảnh hưởng và làm phong phú kiến thức võ học cùng tinh thần võ đạo nhân loại, bằng thái dụng tinh hoa lẫn nhau để cùng tiến bộ.

III – PHƯƠNG THỨC:

Thực thi chủ thuyết Cách Mạng Tâm Thân và thực tế huấn võ với 2 phần vụ: Thân Năng và Tâm Ðức.

  1. Về giáo luyện Thân Năng:

Vừa rèn luyện cho con người nẫy nở toàn diện, bắp thịt rắn chắc, sức lực bền bỉ, dẻo dai vừa chú trọng cân bằng sinh lý, tương xứng, chính xác với tài khéo léo uyển chuyển và phản ứng mau lẹ, qua tiêu chuẩn:

  1. Phát triển khả năng điều hợp những vận động cơ thể linh động, uyển chuyển: Ði đứng ngồi, chạy nhảy, nhào lộn, luồn tránh, té ngã, nhịp nhàng, gọn nhẹ, không nguy hiểm.
  2. Làm tăng sức tiềm ẩn (nội lực) nơi con người, có sức chịu đựng bền bỉ và dũng mãnh để vượt qua mọi thử thách gian lao.
  3. Luyện tập các kỹ thuật tự vệ, dưỡng sinh, nhu khí công cho tâm hồn yên tịnh,hóa giải các trường hợp nguy hiểm, do tai nạn bất ngờ xẫy tới.
  1. Về giáo dục Tâm Ðức:

Rèn luyện tính kỷ luật tự giác, tự nguyện và trọng danh dự để đạt tới sự kiện toàn tâm đức hướng thượng, vị tha. Do đó, cần hội đủ các tiêu chuẩn:

  1. Phát huy các đức tính căn bản của con người bằng tinh thần võ đạo như: Ðức tự tin, lòng dũng cảm, ý chí kiên cường, tinh thần thượng võ, đức công bằng, yêu việc và khiêm nhường…
  2. Hội nhập vào mọi sinh hoạt tậïp thể và cộng đồng với tinh thần hòa ái,vô tư dấn thân phục vụ công ích.
  3. Rèn luyện giữa con người có đầy đủ nghị lực và sáng kiến ứng phó với ngoại cảnh khó khăn bằng nếp sống giản dị, trung thực, cao thượng, và hành động tháo vát, linh hoạt.

Tóm lại, tiêu hướng giáo dục của VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO được xây dựng trên chủ thuyết Cách Mạng Tâm Thân. Nắm vững hệ thống này, chính là thấu đáo nguyện vọng của VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO với các mục tiêu hoạt động làm tăng trưởng những thành quả dự trù trong triển vọng kiến tạo, và phát huy nền võ đạo vinh danh dân tộc Việt Nam trong cộng đồng nhân loại.

Chương 12: Lòng nhiệt thành của tuổi trẻ

TUỔI TRẺ VIỆT VÕ ÐẠO:  Nhiệt thành tự tin nhập cuộc,
Trầm tĩnh sáng suốt dấn thân.

Tuổi trẻ, được coi là tinh hoa đất nước.

Tuổi trẻ dám nói dám làm, dám hy sinh vì một cái gì mình cho là phải. Từ xưa các phong trào cải cách, cách mạng đều có xuất xứ từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ Phạm Ngũ Lão phải đan rổ rá ngoài chợ, vừa làm vừa bán để nuôi mẹ già. Say binh thư võ nghiệp đến nổi lính đi dẹp đường, hét vào tai vẫn không nhúc nhích, vì bị chìm đắm trong tư tưởng võ học. Tuổi trẻ của Trần Quốc Toản đã tạo được một thế hệ thanh thiếu nhi chống Mông Cổ cứu nước, khởi từ vụ bóp nát trái cam vì uất ức không được dự bàn quốc sự, và biểu dương bằng những trận truy cản Mông Cổ trên đường rút lui về Tàu, với cùng một số bạn cùng lứa tuổi tự ý dấn thân. Tất nhiên, về phương diện lãnh đạo, Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản không thể thay thế vai trò lãnh đạo của Trần Hưng Ðạo trong sứ vụ đối địch chiến lược với Hốt Tất Liệt – Thoát Hoan. Ngược lại ta nêu một trường hợp giả định là nếu Trần Hưng Ðạo không có và không tạo được một thế hệ tuổi trẻ dấn thân, chiến lược đúng, có đem lại thắng lợi cho dân tộc hay không? Tất nhiên là không!

Ưu điểm cũng là nhược điểm muôn đời của tuổi trẻ là chưa sống nhiều, ít kinh nghiệm, thiếu từng trải nhưng giàu lòng nhiệt thành, và chấp nhận những hành động dấn thân. Tuổi trẻ là vậy, không thể như là tuổi già. Và mối quan hệ của tuổi già và tuổi trẻ được đặt ra nghiêm chỉnh ở đây: Tuổi trẻ phải sống động theo tinh thần: Sống, Giúp người khác sống và Sống cho người khác một cách cao thượng, thông minh, sáng suốt và đầy nghị lực. Phần hướng dẫn đó là Vũ Trụ Quan Việt Võ Ðạo. Có thể coi Vũ Trụ Quan Việt Võ Ðạo như tuổi già và Nhân Sinh Quan Việt Võ Ðạo như tuổi trẻ. Cả hai phải kết hợp với nhau, mới có thể thành công.

Tuổi trẻ phải tự phát huy những ưu điểm của mình,và để lại những nhược điểm cho tuổi già bồi đắp. Ưu điểm đó là lửa, là lòng nhiệt thành, thiếu Lửa, là tuổi trẻ thiếu tất cả, cuộc sống mặc nhiên trở thành vô nghĩa, không còn giúp ích và hiến ích cho ai nữa.

Lòng nhiệt Thành – Lửa – sẽ là hấp lực cuốn hút mọi người đến với mình, và do đó, vấn đề lãnh đạo và chỉ huy mới có thể đặt ra một cách nghiêm chỉnh. Ðó là một toa thuốc không phải chỉ dành cho tuổi trẻ, mà dành cho mọi lứa tuổi – kể cả tuổi già.

Lòng nhiệt thành của tuổi trẻ không chấp nhận tính do dự và đa nghi của tuổi già, nên hoàn toàn độc lập do ý hướng và những sự kiện, dữ kiện nắm giữ trong tay. Lòng nhiệt thành cho ta tự tin, yêu đời, thích thú và hăng say làm việc. Hai người cùng có khả năng như nhau, nhưng người có lòng nhiệt thành bao giờ cũng thắng lướt những người quá đa nghi và quá dè dặt. Do đó lòng nhiệt thành chính là chìa khóa của sự thành công, là trăng soi giữa màn đêm u tối, là lửa ấm sưởi trong rừng đêm, là linh hồn của công việc. Khả năng của nó thật vô cùng: Nó có thể thay đổi tất cả, làm chuyển biến được vận số, đem cao vọng đến với những người an phận thủ thường, lòng nhiệt thành của người Việt Võ Ðạo được xây dựng trên 6 căn điểm:

  1. Hiểu rõ tầm mức quan trọng của công việc mình đang làm: Ví dụ: Hai người thợ nề cùng làm việc xây cất để có tiền sinh nhai.
    Một người nói:
    –  Tôi làm việc xây cất để có tiền sinh nhai .
    Người kia đáp:
    –  Tôi xây cất một cơ sở kỹ nghệ lớn, để giúp phần vào việc phát triển nước nhà.
    Ta thấy rõ: Một người làm việc cốt có tiền để sống còn người kia mới ý thức được sự ích lợi của việc mình đang làm. Chẳng cần sử dụng đến những bộ óc điện tử, ta đều thấy ngay là, trong hai người thợ trên, một người có lòng nhiệt thành và hiểu rõ tầm mức quan trọng của việc mình đang làm, còn người kia thì không.
  2. Phải có mục tiêu rõ rệt và kế hoạch thực tiển để nhắm tới.
  3. Nghĩ đến lòng thán phục của tha nhân đối với mình để tự khích lệ và rút tỉa những kinh nghiệm (loại bỏ hoàn toàn những khen nịnh).
  4. Nghĩ tới công ích và những giá trị việc làm của mình đem đến cho người.
  5. Kết giao với những người đồng điệu, hăng say làm công ích như mình.
  6. Tự thôi thúc khi làm việc, để sự hăng say thành thói quen.

Ðược như vậy, lòng nhiệt thành của tuổi trẻ sẽ trở thành sự thành công của tuổi trẻ.

Thành công của tuổi trẻ chỉ có thể có được, nếu có kinh nghiệm và óc tổ chức.

Kinh nghiệm và óc tổ chức chỉ có được khi mình lớn tuổi và có thiên khiếu đặc biệt. Nhưng kinh nghiệm và thiên khiếu đặc biệt đều trở thành vô dụng nếu thiếu lòng nhiệt thành khi làm việc.

Lòng nhiệt thành không phải là một động cơ quyết định để tạo thành công, nhưng chính là động cơ căn bản (nguồn gốc) để tạo thành công.

Lòng nhiệt thành – lửa – đả ươm từ thời sáng tổ Nguyễn Lộc, vẫn luôn cháy sáng trong tâm hồn mỗi Việt Võ Ðạo Sinh chúng ta. Bão tạnh mưa tan, chúng ta hãy đoàn kết cùng nhau lấy lại Niềm Tin, Nghị Lực, Tình Cảm, Ý Chí, Kiến Thức và Bản Lãnh.

Chương 13: Bàn qua lẽ đạo và tuổi trẻ

Ðạo nhìn không thấy vì vô hình; nghe không ra thì vô thanh; sờ không được thì vô thể. Nhưng tâm thức, cảm nhận, hòa nhập được. Ðạo là bản nguyên của trời đất vạn vật. Ðạo vốn tự hữu, tự nhiên, nhi nhiên, thiên biến vạn hóa. Thuận đạo thì tâm vui, thanh thản; Trái đạo thì tâm loạn đảo điên.

Hiểu đạo, sống theo đạo phải biết thích nghi với hoàn cảnh, với thời đại. Không ai có thể bơi ngược dòng, sớm muộn sẽ bị kiệt sức, bị sóng nước cuốn trôi, nhận chìm.

Ðạo người lấy chữ nhân làm đầu, mà gia đình là nơi hàm dưỡng lòng nhân, tu dưỡng tính tình. Gia đạo yên vui, thuận hòa thì sẽ thăng tiến, hưng vượng, mọi người trong gia đình đều phấn chấn, trí sáng, lòng ngay, ý thành tâm chính.

Sống theo đạo thì điều tiết được mọi cảm xúc, không thái quá hay bất cập, biết lượng sức mà làm việc, không tham vọng quá đáng, không mưu cầu riêng tư, không vì danh lợi nhất thời, không bon chen, tranh giành thì tâm hồn thư thái, vượt qua được mọi hơn thua, thành bại. Cuộc sống bình vị mà thanh cao, khoan hòa mà thành đạt.

Sống theo Ðạo, mọi việc “Tuần Tự Nhi Tiến” mà thành, không vướng mắc, âu lo. Biết Tri Túc, vui với những gì mình đang có, chi tiêu vừa với mức tiền kiếm được thì sống ung dung, đầy đủ, không thiếu thốn gì. Một người giàu có bạc tỷ, có thể vẫn nghèo khổ, nếu không biết tri túc, chạy theo tham vọng, sống bon chen, vật lộn, cốt mong sao có được trăm ngàn tỷ, thì càng giàu vật chất, anh ta càng nghèo phẩm giá và tự biến thành sâu mọt của xã hội.

Tuổi thọ của đời người một phần là do thừa hưởng cái “gien” di truyền của cha mẹ, một phần do cách sống và tính tình của mẹ. Sống chừng mực, vui tươi, có lý tưởng với tấm lòng vị tha, biết đặt nghĩa chung trên tình riêng, thì sẽ sống lâu trường thọ. Trường hợp phải gắn liền với sống khỏe, sống hữu ích, giúp ích mọi người, và hiến ích cho xã hội.

Do vậy để mừng thọ bậc trưởng thượng đã có công xây dựng môn phái, các võ sinh VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO cả trong và ngoài nước, hãy cùng nhau ngồi lại thực hiện toàn diện cách mạng tâm thân.

Trước hết hãy gìn giữ sức khoẻ, hàng ngày luyện tập tu dưỡng, đều đặn, vừa sức, gia đình an vui, thuận thảo, nuôi dạy con cái nên người.

Thứ đến ngồi lại với nhau, tìm giải pháp hóa giải bất đồng. Do thời thế đổi thay, bất ổn xẩy ra là lẽ thường tình. Thời gian trôi qua, những chênh lệch tự chúng ta hóa giải. Ðã làm việc tất không tránh khỏi sai sót, sai sót đã sửa đâu có gì ân hận, buồn phiền.

Người võ sư VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO thiết tha với lý tưởng Môn Phái, hướng tới mục đích cao cả, nhưng không dè bỉu, chê bai, khinh ghét những cái sai lệch, chưa tốt. Trái lại, cần bao dung để cảm hóa, rút ra đó những kinh nghiệm để sống trọn tình, vẹn nghĩa hơn.
Làm việc theo đạo, khi cảnh hợp thời thuận thì tích cực dấn thân, nghịch cảnh trái thời rút lui nhường bước, bảo tồn chí khí. Thời đến thì đứng mũi chịu sào làm việc, thời đi thì ẩn mình vào chiều sâu nghiên cứu, tu luyện, gầy dựng đàn em, tạo người thừa kế. Ðó là thức thời, biết nhìn xa trông rộng để môn phái tồn tại, phát triển cả bề rộng cho đến chiều sâu, đáp ứng nhu cầu phục vụ đời sống làm người.

Hiểu đạo, sống theo đạo là sống vượt thoát. Có vượt thoát tâm ý vị kỷ mới có thể cùng sống với nhau. sống vì nhau, và sống cho nhau. Ngồi lại cùng nhau phân công trao trách nhiệm, mỗi người một vị trí, tôn trọng và bổ túc cho nhau. Mọi sự ở đời, khởi sự hay thành sự đều tự tâm mà ra. Tâm chính ý thành thì cảm thông được trời đất, bao dung được muôn loài. Sống theo đạo thì ung dung, tự tại, không tốn sức mà hưởng thụ nhiều vì biết nhường nhịn, bù đấp, san sẽ cho nhau.

Ðừng chỉ riêng nghĩ đến sống lâu trường thọ. Sống lâu là quý nhưng phải hợp nhất với sống đẹp, sống khoẻ, sống hữu ích, sống công bằng, và nhân nghĩa. Lòng yêu thương gia đình, quê hương, tình nghĩa sư môn phải bảo trọng thật chan hòa, thắm thiết, thâm sâu thì sự sống lâu, trường thọ mới đáng trân trọng và chúc mừng, đúng với tinh thần Việt Võ Ðạo.

Chương 14: Đức Dũng và Lòng Nhân

( Bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái)

Trên phù hiệu Vovinam Việt Võ Đạo, chúng ta thấy có hai hình biểu tượng, hình dáng giống nhau nhưng khác nhau về màu sắc (xanh, đỏ) được trình bày với vị thế trái ngược, tượng trưng cho hai nguyên lý Âm, Dương. Hai hình biểu tượng này được bao quanh bởi một vòng tròn (trắng), tượng trưng cho Đạo thể chỉ sự khắc chế, điều hòa, bao dung, nên đã kết hợp với nhau thành một tổng thể hài hòa.

  • DƯƠNG TỐ: biểu tượng cho sự cứng mạnh, đức dũng cảm, bàn tay thép.
  • ÂM TỐ: biểu tượng cho sự mềm dịu, lòng nhân, trái tim từ ái.
  • VÒNG ĐẠO THỂ: biểu tượng cho sự khắc chế, điều hòa, bao dung, trí tuệ linh mẫn, điều hợp hai nguyên lý âm dương.

Trong nhiều giai thoại, đức dũng và lòng nhân được diễn tả là hai khả năng đối nghịch trong một tổng thể hài hòa có tác dụng tích cực để giải quyết những vấn đề phát sinh từ cuộc sống.

Người học võ muốn đạt mức tinh diệu, phối hợp được Cương Nhu (Âm Dương), phải rèn luyện và hàm dưỡng cả Tâm và Thân, cả võ thuật lẫn võ đạo. Nếu chỉ có Dũng mà thiếu Nhân sẽ tàn bạo độc ác. Nếu chỉ có Nhân mà thiếu Dũng sẽ yếu hèn nhu nhược. Do vậy, đức Dũng phải có lòng Nhân đi cùng. Dũng và Nhân phải có Trí phối triển, điều hòa mới sinh tạo và trưởng triển; mọi mâu thuẫn trong tương giao sẽ được giải quyết theo hướng xây dựng để Ta-Người cùng tồn tại.
Dũng cảm khác với can đảm. Người can đảm không sợ hiểm nguy, khi nộ khí bốc lên có thể liều mạng sống, nhưng người dũng cảm khác hơn, phải có ý thức để sự nóng giận đạt tới một mục đích nào đó có một tầm vóc nhất định. Dũng cảm được phân thành hai cấp:

THƯỜNG DŨNG VÀ ĐẠI DŨNG

Trong đời sống chúng ta thường gặp những hành động biểu lộ về đức dũng: Người chiến sĩ vượt qua những trở ngại, thử thách cam go để hoàn thành nhiệm vụ; người con cố gắng khắc phục mọi khó khăn để phụng dưỡng cha mẹ già yếu, bệnh hoạn; người cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, vượt qua mọi cạm bẫy mua chuộc để chu toàn trách vụ. Tất cả đều biểu hiện lòng can đảm, sức chịu đựng, tận tụy với nghĩa vụ, được gọi là đức Dũng. Nhưng dũng có hai mức cao thấp khác nhau là Thường Dũng và Đại Dũng.

Thường dũng là cái dũng nhất thời được biểu hiện trong cử chỉ, thái độ và hành động chống đối, không chịu khuất phục của con người khi gặp những điều sai trái. Ở những việc đơn giản, đức dũng dễ nhận thấy, thường gặp trong đời sống, nên ta gọi là Thường Dũng- cái Dũng bình thường, thông thường, dễ thấy, dễ nhận. Thường dũng là cái dũng do hoàn cảnh tạo nên, do đởm lược coi nhẹ tử sinh, do trách nhiệm phải quên mình để chu toàn trước mọi khó khăn, nguy hiểm, nhằm giải quyết những sự việc trước mắt và hữu hạn.

Đại dũng là cái dũng có tính cách lâu dài, xuyên suốt cả cuộc đời, biểu lộ qua sự chịu đựng, nhẫn nhịn để vượt lên mọi hoàn cảnh khó khăn với thái độ trầm lặng, với khả năng tự chế, tự thắng cao, nên lúc nào cũng bình thản, ung dung, thông suốt, kiên nghị trong suốt đời người. Có những việc làm lâu dài mà không ai thấy, có khi suốt cả cuộc đời mới chứng tỏ được là đại dũng. Ra quân chống quân Mông Cổ lần thứ hai với quyết tâm phản công tiêu diệt quân thù, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trỏ gươm xuống sông Hóa mà thề: “Không dẹp xong giặc quyết không trở về khúc sông này nữa”, là biểu lộ thường dũng do tình thế bắt buộc. Nhưng lúc nghe tin Thoát Hoan lại sắp đưa 300.000 quân Mông Cổ sang đánh lần thứ ba, trong khi đất nước đã cạn kiệt vì bị giặc tàn phá, lực lượng quân bị quá yếu kém, chưa kịp hồi phục. Ngài vẫn bình tĩnh, sáng suốt nhận định, thảo hịch khích động toàn dân, thôi thúc tinh thần chiến đấu của ba quân, họp hội nghị Diên Hồng với các bô lão, chỉnh đốn hàng ngũ với chủ trương “Quân quí về tinh nhuệ, không quí ở nhiều” và tâu với vua Trần Nhân Tôn khi bàn việc ngăn giặc “Năm nay đánh giặc dễ” đã chứng tỏ đức đại dũng của ngài.

Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải có hận riêng với nhau, nhưng trước họa xâm lăng Mông Cổ, Trần Quốc Tuấn tới thăm gặp lúc Trần Quang Khải đang tắm, đã kỳ lưng cho Trần Quang Khải và nói “Bây giờ được hân hạnh kỳ lưng cho thừa tướng”. Trần Quang Khải vui đáp: “Được nguyên soái kỳ lưng cho thật là vạn hạnh”. Cả hai ông cùng cười ha hả. Thế là thù riêng đã tiêu tan. Hai ông được hậu thế khen là những người đại dũng.

Đức đại dũng có khi cả đời người mới biểu lộ được. Lê Lợi kháng Minh năm năm đầu thất bại chạy dài, vợ con đều chết thảm, vẫn kiên trì dũng cảm chiến đấu mãi. Sau đó, đổi chiến pháp tránh chỗ địch mạnh, đánh nơi địch yếu; cũng phải năm năm sau mới chiến thắng hoàn toàn và mới chứng tỏ được là bậc đại dũng.

ĐỨC DŨNG QUA CÁC QUAN NIỆM TRIẾT HỌC

Đức dũng, từ hình thái dễ thấy, dễ nhận, đã triển khai tới mức tinh vi hơn, sâu rộng hơn. Khởi từ thường dũng, đức dũng vượt lên trở thành một thứ đức dũng siêu khoáng. Từ hành động, dũng đã bén rễ vào tư tưởng thông qua các quan niệm triết học, trở thành: cái dũng của thánh nhân, cái dũng của người quân tử, cái dũng của người đại trượng phu.

  • Cái dũng của thánh nhân: Đấng Christ đem tính mạng mình chuộc tội thế gian trên cây thánh giá, đức Phật từ nhiều tiền kiếp hiến cả tay, chân, tính mạng mình để cứu độ chúng sinh.
  • Cái dũng của người quân tử: Ăn không cầu no, ở không cầu yên, không cầu sống làm hại người, sẵn sàng tự giết để thành người nhân.
  • Cái dũng của bậc đại trượng phu: Ở thì ở chỗ rộng lớn trong thiên hạ, làm thì làm cái đạo lớn trong thiên hạ, không khuất phục trước uy quyền, không đổi chí khi nghèo hèn, không phóng túng sa đọa khi giàu sang.

ĐỨC DŨNG THEO QUAN NIỆM VIỆT VÕ ĐẠO

Văn hóa Việt Nam ảnh hưởng khá sâu đậm tinh thần tam giáo đồng lưu ấy, cùng các tôn giáo lớn. Các tinh thần ấy thấm sâu vào nếp sống văn hóa dân tộc, nhưng cũng đã được dân tộc hóa bằng những chọn lọc kỹ lưỡng. Do vậy, đẳng cấp sĩ phu Việt Nam có học vị cao, vừa sùng đạo vừa giỏi võ. Các dũng tướng Việt Nam vừa trị nước giỏi vừa sùng kính thần thánh. Sự ngăn cách giữa nhà tu với các văn quan, võ tướng bàng bạc mơ hồ. Lý Thường Kiệt, Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Nguyễn Trãi, Hồ Quí Ly, Nguyễn Công Trứ v.v… là những ví dụ điển hình về văn võ song toàn,

Vậy trong đời sống hiện nay, môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo chúng ta nên ứng dụng loại dũng nào? Thường Dũng hay Đại Dũng?

Tùy trường hợp mà ứng dụng. Thường dũng giúp chúng ta đương đầu với hoàn cảnh để biểu lộ cái hùng khí của con nhà võ và giải quyết cấp thời những khó khăn trở ngại. Hơn nữa, khi bực dọc mà không dám tỏ thái độ, bị áp chế mà không có tinh thần đối kháng thì làm sao tâm hồn có thể thảnh thơi? Điều quan trọng là phải tỏ thái độ chống đối cheo chiều hướng trầm tĩnh, ôn hòa, dẫn dụ, thuyết phục, để người phải thay đổi quan điểm và cách đối xử.

Chúng ta cũng cần đại dũng, vì đại dũng giúp chúng ta rèn luyện nghị lực, tinh thần và đức độ đến mức dật lạc, siêu khoáng để có thể an vui trước mọi hoàn cảnh, thản nhiên trước mọi thành bại, vượt trên mọi ưu tư hay thỏa mãn tự ái giai đoạn, ngõ hầu biết mình phải sống ra sao, phải làm gì cho tương lai, cho đại nghĩa?

Tuy nhiên, cần phân biệt những kẻ thoạt đầu tỏ vẻ ta đây có hoài bão lớn, theo đuổi sự nghiệp phi thường, không quan tâm giải quyết những việc nhỏ nhặt thường ngày, thiếu chuyên chất trong hành xử, khôn khéo né tránh mọi đụng chạm, dù lớn hay nhỏ với bất cứ ai thì chỉ là kẻ thời cơ, cầu an, vụ lợi.

Xuất phát điểm của đại dũng từ thường dũng. Do vậy, dù đại dũng hay thường dũng cũng đều nẫy sinh từ sự thực hiện những việc bình thường tích lũy hàng ngày (như quyết tâm dậy sớm, từ bỏ nghiện ngập, chuyên cần, nhẫn nhịn…) Không có quan niệm sống đúng đắn, rõ rệt, thiếu chuyên nhất, làm việc chóng chán hay thay đổi thì chỉ là kẻ đơn hèn, nhu nhược, nói chi đến chuyện thường dũng hay đại dũng.

Bốn phẩm tính chủ chốt của tinh thần dũng cảm, người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo phải trau dồi, tu tập, đó là: Tự Chủ, tự thắng, cương trực, tận tụy với nghĩa vụ.

1-Tự chủ: Con người là phần tử của gia đình, gắn bó với cộng đồng dân tộc và nhân loại. Trong sự hòa nhập chung sống nếu không có đức tính tự chủ sẽ dễ bị đồng hóa. Muốn có đức tính tự chủ, chúng ta phải luôn bình tĩnh trước mọi biến động của ngoại cảnh; luôn triển khai nội tâm, luyện ngũ quan cho thật bén nhậy và làm chủ được sự bén nhậy đó. Sau hết, luyện thần khí cho được ung dung, thanh thản, không cầu cạnh, ước ao gì cả.

2-Tự thắng: Mỗi người đều có một số ưu điểm, nhược điểm. Trong lịch sử, chúng ta thấy có biết bao vua chúa, danh tướng lẫy lừng một thời đã bị danh vọng, tiền tài, gái đẹp làm băng hoại, tha hóa đi đến sụp đổ. Cụ thể trong hiện tại, có nhiều chiến sĩ yêu nước đã chiến thắng vẻ vang quân thù lại trở thành những tiêu cực tham ô, nên đã thân bại danh liệt, chỉ vì họ không tự chế, tự thắng được những nhược điểm trong con người của mình.

Muốn có đức tính tự thắng, chúng ta phải luôn kiên nhẫn nghe, từ những điều chưa biết đến những điều đã biết, nghe cả những điều phải lẫn những điều trái, để hiểu rõ nguyện vọng của người, để tập thói quen tôn trọng và nghĩ tới người. Kiên nhân học hỏi mọi người, trong mọi trường hợp, liên tục trong đời sống. Kiên nhẫn trong việc xử thế, là gặp trường hợp bị đối xử bất công, thô vụng, lầm lẫn chúng ta vẫn kiềm chế được tính nóng nẩy, hiếu thắng, vẫn ung dung nhu nhã với tinh thần thông cảm hòa giải, không tức khí nổi quạu ăn miếng trả miếng tùy hứng. Kiên nhẫn hành động sẽ giúp chúng ta vượt qua được mọi khó khăn trở ngại, thắng phục được những thất bại trên đường đời, nhất là khi mới vào đời để đạt thành công cuối cùng.

3-Cương trực: Đây là đức tính đặc biệt của con nhà võ. Nhưng chúng ta cần phải hiểu: Cương là cương quyết trong tinh thần, hòa nhã ngoài thái độ. Trực là ngay thẳng một cách tế nhị, chứ không là tính cứng cỏi, thô lỗ của kẻ thất phu và sự ngay thẳng của người điên khùng. Tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam có Lý Thường Kiệt, Chu Văn An, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi v.v., là những người cương trực dám nói, dám làm, dám lãnh trách nhiệm về những lời nói của mình. Không có sự cương trực nào vững chắc bằng sự cương quyết trong tinh thần. Khi tinh thần đã nhất quyết rồi thì thái độ phải tỏ ra ôn hòa, nhu nhã. Chính thái độ ôn hòa, nhu nhã đã nói lên sự quyết tâm đến cùng cực. Người cương quyết phải là người có ý thức vững chắc rằng, mình nên nghĩ gì, phải làm gì? Và đã quyết đoán là quyết tâm theo đuổi đến cùng.

Ngay thẳng là một đức tính được mọi người cảm mến, nhưng không đồng nghĩa với chất phác thẳng ruột ngựa. Ngay thẳng cứng nhắc sẽ làm cho mọi người phiền lòng, phật ý và khiến mình luôn bị thua thiệt, thất bại. Phải ngay thẳng một cách linh động, khéo léo, không bao giờ được dối trá, nhưng cũng không nên thật thà lố bịch, nói hết những điều không đáng nói, gây xáo trộn, thất vọng cho người. Đó là ngay thẳng một cách tế nhị.

4-Tận tụy với nghĩa vụ: với lý tưởng tập thể, với sứ vụ sư môn, Tổ quốc và nhân loại, chúng ta phải hết lòng, tận dụng mọi khả năng thực hiện nghĩa vụ bằng được, dù có hy sinh tính mạng, nhưng phải hy sinh cho đúng chỗ, đúng lúc trong phạm vi trách nhiệm của mình. Nếu ngoài phạm vi trách nhiệm mà cứ nhắm mắt hy sinh thì chỉ là người bất trí, thiếu sáng suốt, không thông tình đạt lý, không quán triệt công nghĩa khác với tư ân tư lợi. Thí dụ: Khi được người hiểu rõ khả năng của ta, tin cẩn trọng dụng ta, và đó cũng là lợi ích chung cho mọi người thì ta nên đem hết tâm lực ra làm việc, còn nếu đấy chỉ là âm mưu mua chuộc, trí trá bất minh để giành thắng lợi riêng tư thì ta không thể tận tụy hy sinh mù quáng được.

Tận tụy với nghĩa vụ giúp ta nâng cao phẩm cách, và trở thành con người năng động, yêu người yêu việc, biết học tập để kiện toàn, có tinh thần trách nhiệm cao.

Trau dồi, tu tập được bốn đức tính trên, chắc chằn chúng ta sẽ tạo được phong cách sống đặc thù cho mình, để trở thành người hiệp sĩ thời đại, thể hiện được tinh thần Bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái

LÒNG NHÂN QUA CÁC ĐẠO GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG

Nhân theo đạo giáo Đông phương nói chung là lòng yêu thương người, quan tâm nghĩ tới người, giúp đỡ người khi gặp khó khăn, an ủi, cưu mang người khi hoạn nạn. Các từ ngữ: bác ái, từ bi, vị tha, từ ái v.v., thường được sử dụng để biểu thị lòng nhân. Nhân theo cổ thư trước hết là:

  • Biết sống với người, vì người, cho người, luôn luôn nghĩ tới người, hòa thuận với người, làm lợi ích cho người, quên mình vì công nghĩa. Sống như vậy sẽ sáng suốt trong phán đoán và nhận định, cảm phục, lôi cuốn được người cộng tác và tin tưởng nơi mình.
  • Biết thích nghi với hoàn cảnh, thời thế; linh động uyển chuyển trong xử sự; tháo vát lanh lợi trong công việc; tùy người, tùy việc mà kinh quyền biến hóa.
  • Biết sống và làm việc theo cái lý đương nhiên, theo lẽ phải mà xử sự, không chủ quan đặt ý riêng của mình vào.
  • Không nhất quyết là sự việc phải diễn biến như mình suy luận, tức không độc đoán, bảo thủ, hay nôn nóng, để sự việc được diễn tiến tự nhiên, không định mức kết quả.

Như vậy, nhân là: cái tính có sẵn trong mỗi người như cái hạt, cái mẩm, cái cốt lõi để nuôi dưỡng cái lẽ phải chung cho con người, khiến cho con người đối xử với đồng loại như đối đãi với chính bản thân mình. Để minh họa cho lập luận đó, người xưa nói vậy,
Để thực hiện lòng nhân, hàng ngày phải cung kính, chân thành, đối xử phải khoan hòa bao dung; làm việc phải thận trọng giữ chữ tín; giao thiệp phải trung thực, mau mắn; trải rộng lòng ra với tất cả mọi người. Đó là: Cung, khoan, tín, mẫn, huệ

– Cung: Kính cẩn, nghiêm trang thì người không lờn.
– Khoan: khoan hòa, bao dung thì được người thân cận.
– Tín: Giữ lời hứa sẽ được người tin cậy
– Mẫn: Nhặm lẹ, tháo vát thì việc mau thành.
– Huệ: trải rộng lòng thì người cảm phục và đủ để sử dụng, điều khiển người.

LÒNG NHÂN THEO QUAN NIỆM VIỆT VÕ ĐẠO

Tổng hợp các quan niệm nhân của các đạo giáo Đông phương, người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo ý thức trách nhiệm của mình đối với bản thân, gia đình, dân tộc và nhân loại, tích cực thực hiện ba phần vụ: Sống, Giúp người khác sống, sống cho người khác.

  • Sống: Ở đây là Hướng Kỷ chứ không ích kỷ hay vị kỷ. Hướng kỷ là phải bắt đầu từ mình, tự kiện toàn bản thân, trên ba phương diện tâm – trí – thể, để trở thành người hữu ích.
  • Giúp người khác sống: tức Hướng tha, nghĩ tới người khác, giúp họ kiện toàn tâm thân để đạt nguyện vọng trở thành người hữu ích như mình.
  • Sống cho người khác: tức Hướng thượng, quan tâm tới đại nghĩa, biết quên mình hy sinh cho đích sống cao đẹp, cho lý tưởng, phục vụ công ích.

Như vậy, lòng nhân của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo không vị kỷ cũng chẳng vị tha, mà đồng thời cùng một lúc phải nghĩ tới cả ta lẫn người. Chúng ta không tách bạch phân chia Ta- Người bởi biết rằng: không thể đơn độc làm việc công ích, phải hiệp lực cùng nhau việc lớn mới thành và phải thực hiện từng bước một.

Trước hết, phải kiện toàn bản thân để có năng lực thực sự mới hướng dẫn, giúp người cùng tiến bộ và cùng nhau hướng theo đại nghĩa, thực hiện lý tưởng phục vụ công ích.

Bước 1: Kiện toàn bản thân là Hướng Kỷ
Bước 2: Giúp người tiến bộ là Hướng Tha
Bước 3: Đồng tâm hiệp lực thực hiện công ích là Hướng Thượng.

Hơn nữa, lòng nhân của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo phải thể hiện tuần tự, từ mình đến người, từ gia đình đến xã hội, từ người tốt đồng chí hướng đến người sơ giao chưa biết gì về họ, nhưng đối đãi với tất cả đều bình đẳng ngang hàng như chính bản thân mình chứ không phân chia giai cấp, tôn giáo, dân tộc, dòng dõi. Nói cách khác là tùy người mà thể hiện lòng nhân: Gần gũi, thâm giao với người tốt, chân thành nêu gương cảm hóa người chưa tốt thành người tốt chứ không kỳ thị xa lánh. Đôi khi cần phải có thái độ cứng rắn răn đe, cảnh cáo để người thức tỉnh trở lại đường ngay chứ không thù hằn, cưỡng chế.

Lòng nhân của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo còn được thể hiện ở lòng yêu hòa bình, làm tốt trách vụ kiến thiết đời sống, để ánh hào quang rực rỡ chan hòa Chân-Thiện-Mỹ tỏa sáng khắp nơi.

Để thể hiện được nhiều điều trên, chúng ta cần áp dụng bốn nguyên tắc dưới đây:

1-YÊU NGƯỜI, NGHĨ TỚI NGƯỜI: muốn được người yêu và nghĩ tới mình, mình phải yêu người nghĩ tới người trước. Phải tìm hiểu nguyện vọng của người về cả tinh thần lẫn vật chất. Tất nhiên, chúng ta không phải là những bậc thánh có phép màu đáp ứng được mọi khát vọng của người, song chúng ta có thể mang đến cho người nguồn an ủi chân thành, sự giúp đỡ thiết thực. Sự quan tâm an ủi, giúp đỡ sẽ khích lệ người yêu đời, hăng say làm việc. Nhờ đó chúng ta cũng hưởng vui lây.

2-NHẬN BIẾT ƯU ĐIỂM CỦA NGƯỜI: là người ai cũng có những ưu điểm và khuyết điểm. Nếu chỉ xoi mói đến cái sai, cái xấu của người, thì cái sai, cái xấu sẽ xâm nhập vào chúng ta. Trái lại, nếu nhận biết những ưu điểm của người thì ưu điểm trong chúng ta nổi bật, và những ưu điểm đó sẽ sửa đổi những khuyết điểm nơi chúng ta.

3-HÃY ĐỐI XỬ VỚI NGƯỜI NHƯ MÌNH ƯỚC MONG ĐƯỢC NGƯỜI ĐỐI XỬ LẠI NHƯ THẾ: Một nguyên tắc sống rất công bằng hợp lý, chúng ta phải luôn tâm niệm và áp dụng trong đời sống, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp nhận được niềm thông cảm chân thành và lòng yêu thương vô cùng tốt đẹp. Việc đời có đi có lại: Gieo nhân thì hái trái. Chúng ta độ lượng, tận tâm với người thì sẽ được người độ lượng, tận tâm lại. Chính hành vi khả ái đó làm cho tâm hồn chúng ta cởi mở, vui tươi và có tác dụng cảm hóa được người.

4-LÒNG NHÂN LÀ NGUỒN VUI VÔ TẬN THỂ HIỆN GIÁ TRỊ LÀM NGƯỜI: Người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo ăn ở thủy chung có lòng nhân với người, vì đó là nguồn vui, là nghĩa sống làm người chứ không vì lời khen hay sự đền đáp nhớ ơn. Chúng ta hành xử tốt bởi chính điều đó làm đời sống có ý vị, mọi người sống gần gũi, thương yêu nhau hơn. chúng ta sống với sự yên tĩnh thoải mái của tâm hồn, với nguồn tin tưởng vô biên của lẽ sống, tràn ngập ánh hào quang Chân-Thiện-Mỹ.

Tuy nhiên, tất cả những hành vi thể hiện lòng nhân của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo phải đặt dưới sự hướng dẫn của trí tuệ để được đúng chỗ hợp thời, có lúc nên khoan, lúc nên mau, có lúc cần tích cực chia sớt đau thương, tận tình giúp đỡ; có lúc phải bộc trực can ngăn, cảnh cáo để cảm hóa. Đó mới đúng là lòng nhân của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo có tác dụng tích cực kết hợp và hướng dẫn lẫn nhau, cùng sống vui, yêu đời, xây dựng nền hòa bình vĩnh cửu trong tâm hồn, người người nhìn chung một hướng.

Chương 15: Sức mạnh dân tộc Việt

Cho đến nay, sức mạnh của dân tộc Việt vẫn được coi là một điều huyền bí với nhiều người Ngoại quốc, thuộc đủ mọi ngành sinh hoạt xã hội. Họ ngạc nhiên khi thấy Việt Nam, nhỏ bé bên cạnh Trung Hoa khổng lồ luôn tìm cách xâm lăng đồng hóa mà vẫn hiên ngang tồn tại. Họ sửng sốt khi thấy người Việt với vóc dáng gầy nhỏ, có thể có một sức chịu đựng dẻo dai lạ lùng, trước mọi thiếu thốn và khổ cực. Đã có nhiều người lượng giá và thú nhận là đã lượng giá sai lầm. Như vậy, sức mạnh của dân tộc Việt ở đâu?

VÀI DỮ KIỆN LỊCH SỬ VỀ KHẢ NĂNG TỰ TỒN CỦA DÂN TỘC VIỆT.

Trên một ngàn năm Bắc thuộc, người Tàu đã tìm đủ mọi cách đồng hóa dân tộc Việt: đổi thành quận, huyện, bắt nói tiếng Tàu, học chữ Tàu, bận y phục Tàu, theo phong tục, tập quán Tàu. Kết cuộc: mọi chương trình đồng hóa đều thất bại, mặc dầu Việt Nam ở ngay kế cận Trung Quốc, khác hẳn với nhiều dân tộc khác trên thế giới dù ở xa chính quốc cũng dễ dàng bị đồng hóa, dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi.

Thời Lý, Lý Thưỡng Kiệt án binh lập phòng tuyến chống cự với quân nhà Tống ở sông Như Thủy Bắc Ninh ra quân rất ít. Kết cuộc: Quân Tống phải rút về vì lính Tàu không chịu nổi thủy thổ nên ngã bệnh; nếu còn tiếp tục cầm cự nữa sẽ thảm bại.

Thời Trần, quân Mông Cổ, 3 lần tiến đánh Việt Nam sau khi đã thắng từ Á sang Âu, chọc thủng phòng tuyến, chiếm Thủ Đô Thăng Long. Rút cuộc, Mông Cổ đã thảm bại trước tinh thần toàn dân kháng chiến và chiến lược Trần Hưng Đạo Dĩ đoản thắng tràng (không dùng tràng trận chỉ dùng đoản trận đánh chớp nhoáng rồi rút) cùng triệt để khai thác thủy chiến và lối đánh rừng núi, là những chiến thuật mà quân Mông Cổ sinh trưởng ở sa mạc không thiện dụng.

Thời Lê, kế hoạch phục quốc của Lê Lợi đã thành công sau 10 năm khởi nghĩa, mặc dầu đã 3 lần Ông bị truy diệt tới tận nghĩa khu Chí Linh, thậm chí vợ con bị tàn sát, thân mình phải đổi áo nhờ Lê Lai thế mạng mới thoát chết.

Thời Quang Trung đại đế, trước sự tiến quân ồ ạt của 200.000 quân Tôn Sĩ Nghị, Quang Trung Đại đế chỉ cần nhận định Đàn Ngô Cẩu kia sang đây chỉ là mua lấy cái chết đó thôi! Và Ông xuất quân với lực lượng 100.000 tướng sĩ, phá tan 200.000 quân Thanh không đầy một tuần lễ.

Như vậy, những dự kiện lịch sử điển hình đã cho chúng ta một ý niệm tiên khởi về sức mạnh của dân tộc Việt: lấy ít thắng nhiều, lấy tinh mật chống hỗn tạp, lấy kiên trì chống khẩn tốc, lấy khẩn tốc chống trì hoãn.

UYÊN NGUYÊN CỦA SỨC MẠNH VIỆT: KHẢ NĂNG ĐA HIỆU

Không phải chỉ riêng một mình dân tộc Việt là phải đương cự với 4 vấn đề sinh tồn cùng lúc: Bắc xâm, Nam tiến, nội loạn và thiên nhiên. Chúng ta đã thấy nhiều dân tộc cũng ở trường hợp tương tự: Do Thái (cũ) tại Trung Đông, Chiêm Thành, Bồn Man, Chân Lạp tại Bán đảo Đông Dương. Nhưng các dân tộc này đã không vượt nổi các khó khăn của họ, nên đã bị thôn tính!

Việt Nam ở kế cận ngay khối khổng lồ Trung Quốc, đã thường xuyên phải đối phó với nạn Bắc xâm, vì Trung Quốc luôn luôn nuôi ý đồ mở rộng lãnh thổ về phía xích đạo, đã đặc biệt chiếu cố tới Việt Nam hơn các nước lân cận, vì Việt Nam vừa giàu tài nguyên, vừa thuận tiện cho cả ba mặt tiến quân bằng Thủy vận, Hải vận và Lục vận. Đôi khi Trung Quốc còn nham hiểm tới mức cấu kết với các dân tộc phía Nam (Chiêm Thành) và phía Tây (Lão Qua) cùng tiến đánh để Việt Nam phải dàn mỏng sức mạnh ở cả bốn phía (kể cả mặt biển) thủ địch.

Cùng với nạn Bắc xâm, Việt Nam cũng đồng thời phải quyết định tự lựa chọn lấy một trong hai giải pháp: một là chấp nhận Nam xâm, hai là phải Nam tiến để vừa mở rộng lãnh thổ, vừa dẹp bỏ được lưỡi dao nhọn dí sát sau lưng. Dân tộc Việt không đặt nặng vấn đề Tây tiến (sang Lào Quốc) vì Lào Quốc tuy đôi khi có động binh với Việt Nam, nhưng vì địa thế trường sơn hiểm trở, nên không gây nổi cho dân tộc Việt những mối nguy hiểm lớn lao làm ảnh hưởng tới đại cuộc.

Đã thế, trong suốt lịch sử Việt Nam, các triều đại gần như thường xuyên phải đối phó với vấn đề nội loạn do tình trạng phong hầu kiến địa tạo nên trong lúc trình độ giao thông vận chuyển còn ấu trĩ (không thể mỗi lúc một động binh chinh phạt được).

Cùng với cả 3 nạn trên, Việt Nam còn phải thường xuyên đối phó với giặc thiên nhiên: gió bão, lụt lội, nắng hạn, khẩn hoang v.v… trực tiếp đe dọa những vấn đề dâng với cả 3
Bắt buộc phải đồng thời đối phó với 4 vấn đề sinh tử, dân tộc Việt chỉ còn một trong hai lối thoát: một là thất bại để bị tiêu diệt. Hai là thành công để tồn tại và trưởng thành. Tất cả các triều đại Việt Nam đều phải thử sức với 4 vấn đề ấy. Triều đại nào thành công, sẽ tồn tại lâu dài và ngược lại, sẽ bị thay thế bằng một triều đại khác.

Thói quen phải đối phó với 4 vấn đề sinh tử, dân t ộc Việt phải tự trau dồi cho mình một khả năng đa hiệu: Hưng Đạo Vương vừa là tướng giỏi, vừa là nhà cai trị lỗi lạc: cùng với việc luyện quân, còn thành lập Quốc học viện và Giảng võ đường, động viên cả hoàng thân quốc thích vào việc học tập múa gươm cưỡi ngựa và chỉ huy những đạo dân binh vào việc khẩn hoang. Nguyễn Công Trứ vừa là một nhà thơ, một học giả, một nhà cai trị lỗi lạc (Tổng đốc), vừa là một tướng giỏi thường xuyên điều quân đi dẹp loạn, vừa là một nhà khai khẩn tài ba (khai khẩn đất hoang vùng biển, thiết lập 2 huyện Tiền Hải tại Thái Bình và Kim Sơn tại Ninh Bình). Người binh sĩ Việt Nam cũng vậy, sẵn sàng thay đổi nhiệm vụ từ đánh giặc sang phá rừng, làm rẫy, cày ruộng, đánh cá v.v… một cách rất tự nhiên.

Uyên nguyên của sức mạnh Việt chính bắt nguồn từ khả năng đa hiệu này để vận dụng vào cuộc đấu tranh sinh tồn của cộng đồng.

SỨC MẠNH TINH THẦN TIÊN KHỞI: TINH THẦN CÂY TRE” TRONG NẾP SỐNG VIỆT

“Cây tre” là một biểu tượng quen thuộc nhất với nếp sống Việt. Nó gần gụi với người Việt đến nỗi từ đồng quê tới thành thị, từ thành thị về rừng núi; ở miệng cụ già cũng như ở môi trẻ thơ; cây tre là hình ảnh quen thuộc với mọi người, mọi nơi, mọi thời đại.

Hình ảnh này được ông M. Pujarniscle diễn tả và nhận định rất chính xác bằng một đoạn văn dưới đây:

Người Việt Nam, mà một vài quan sát viên nông nổi gán cho là mềm yếu và thụ động, trái lại đã không phải không có cá tính, lòng bền bỉ, sự cương quyết. Danh từ cương quyết có thể làm nhiều người ngạc nhiên, vì theo quan niệm Tây phương, chúng ta biểu hiện sự cương quyết dưới một hình thức cốt yếu hoạt động và dường như bộc lộ. Đối với chúng ta, đó là một sức mạnh bẻ vỡ bất cứ vật gì bắt gặp, dù chính mình có bị bẻ vỡ.
T
ính cương quyết ca người Vit Nam có nhiu đim khác, trước hết, đây là sự mềm dịu, tính kiên nhẫn, tính ám ngôn. Con đường được chọn để đưa đến kết quả, không phải luôn luôn là con đường thẳng; tuy nhiên vẫn đạt tới đích trong thời gian cần thiết. Đây không phải là sự cương quyết của cây sến đứng đầu bão táp, mà là của cây sậy, hay đúng hơn, của cây tre rất mềm mại nhưng rất cứng rắn, mà người Việt Nam gọi là Quân tử, chắc chắn là do cây tre ngã xuống mà không gẫy, điều này đã tạo lập trước mắt họ một đạo lý quân tử siêu phàm (Suprême sajesse)“…

Như vậy, tinh thần “cây tre”, sức mạnh tinh thần tiên khởi của dân tộc Việt, thực ra là tinh thần gì?

“Cứng mà mềm mại, đổ mà không gẫy” – Đó là hai đặc tính của sức mạnh tinh thần Việt do ông PUJARNISCIE đã tìm thấy.

Nhưng thật ra, ý nghĩa của “tinh thần cây tre” còn đi xa hơn. Nó vừa tượng trưng cho “hư tâm” (lòng rỗng không) theo Lão Trang, vừa biểu hiện cho tinh thần quân tử của Khổng Tử và tinh thần đại trượng phu của Mạnh Tử.

Nó phối hợp được cả hai nguyên lý: cứng mềm, phải quấy, tốt xấu của Lẽ Đạo. Nó biểu hiện tinh thần cương nhu phối triển của người Việt: trong cứng có mềm, trong phải có quấy, trong tốt có xấu, và ngược lại, như trong dương có âm, trong âm có dương.

Sức mạnh tinh thần này đối chiếu với sự tồn tại của dân tộc Việt, càng sáng rõ: tiền nhân chúng ta thường xuyên thực hiện chủ trương Bắc hòa Nam tiến để tồn tại. Bởi vậy, trong chiến có hòa, trong hòa có chiến: mỗi lần thắng xong một nạn Bắc xâm, tiền nhân ta lại xin thần phục, phong vương là triều cống để rãnh tay đối phó với mặt Nam. Mặt khác, trong cuộc Nam tiến, dân tộc Việt cũng đi thật chậm theo kế hoạch tằm ăn dâu: thắng xong, đòi cắt thêm đất chuộc tội, rồi lại nghỉ ngơi dưỡng quân và nuôi dân một thời gian trước khi tiếp tục thực hiện kế hoạch Nam tiến từng chút một, đến thành công.

SỨC MẠNH TINH THẦN 2: DÂN TỘC VIỆT CỐ GẮNG HÒA DIỆU SINH HOẠT TINH THẦN VÀ SINH HOẠT VẬT CHẤT

Chúng ta cảm phục tính thực tế của người Tàu hơn chúng ta, và đồng thời cảm phục tính thực tế của người Mỹ hơn người Tàu. Nhưng chúng ta không thể bắt chước hoàn toàn tính thực tế này được, vì thực tế quá sẽ trở thành máy móc, thiển cận, không tạo được sự hòa diệu cần thiết giữa sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt vật chất.

Sự hòa dịu truyền thống này đã được chứng minh ngay trong nếp sống Việt truyền thống: người được quý trọng nhất không phải là những doanh thương, phú hộ mà là các thân hào, nhân sĩ trong vùng: Cụ cử, ông tú, thầy đồ, anh khóa, thầy lang (vị danh y trong vùng giúp đỡ nhiều người nhất). Các vị doanh thương, phú hộ cũng không phàn nàn gì khi xếp vào hạng ngồi chiếu dưới ở giữa chốn đình trung: người có tiếng, kẻ có miếng. Vậy là công bằng.

Các vị thượng quan đang quyền cao chức trọng một thời, lúc lui về vui thú điền viên với con trâu thửa ruộng mảnh vườn và sự quý trọng của mọi người, cũng không thắc mắc gì về gia tư điền sản của mình thua kém nhiều người khác.

Chính vì thế mà các triều đại chính thống của Việt Nam đều cố gắng hòa dịu mọi cơ cấu sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt vật chất của dân tộc, để tạo một thế quân bình đặc biệt cho sự sinh tồn của dân tộc. Các triều đại Lý-Trần-Lê-Nguyễn đều cố gắng phát triển văn học song song với võ học, củng cố guồng máy hành chánh song song với những hoạt động về kinh tế để cải thiện đời sống cho nhân dân. Câu Văn võ toàn tài thường được dùng để chỉ một mẫu người trai Việt lý tưởng, luôn luôn có đủ khả năng để ứng dụng vào mọi hoạt động đánh giặc và kiến quốc.

SỨC MẠNH TINH THẦN 3: THÁI DỤNG TINH HOA NGOẠI NHẬP NHƯNG KHÔNG HỖN THUỘC

Một đặc tính nữa đã tạo ra sức mạnh tinh thần đặc biệt của người Việt, là: dân tộc Việt luôn luôn cầu tiến, sẵn sàng thái dụng tinh hoa ngoại nhập nhưng không chịu hỗn thuộc, đồng hóa.

Đặc tính này có thể so sánh ngay các nước bạn kế cận với chúng ta: Việt Nam tuy cũng nhận chịu ảnh hưởng tam giáo (Nho-Đạo-Phật) của Trung Quốc và Aán Độ du nhập nhưng đã đồng hóa với truyền thống văn hóa Việt Nam và vẫn còn tiếp tục thừa nhận các tư trào văn hóa, tôn giáo khác như: Công giáo, Tin Lành, Đạo Bahái v.v… Sự thái dụng tinh hoa ngoại nhập được biểu hiện dưới nhiều hình thức, nhưng hình thức nào cũng được hòa diệu vào truyền thống văn hóa Việt Nam: hoặc giữ nguyên tinh lý nhưng thái dụng tổ chức, hoặc thái dụng các tinh hoa ngoại nhập với văn hóa truyền thống để trở thành một tôn giáo mới như: Phật giáo Hòa Hảo, Đại Đạo Tam kỳ phổ độ (Cao Đài) v.v… Về bộ môn ngôn ngữ, văn tự, chúng ta chấp nhận du nhập Hán văn nhưng đã thái dụng vào ngôn ngữ Việt; chấp nhận du nhập La tinh ngữ, nhưng đã sớm biến chế thành quốc ngữ để thay thế Hán tự và chữ Nôm. Về võ học, chúng ta chấp nhận mọi tinh hoa võ học ngoại nhập, nhưng đồng thời cố gắng xiển dương võ học dân tộc với tinh hoa võ học ngoại nhập thành một ngành võ riêng biệt (Vovinam Việt Võ Đạo). Trong l úc nhìn sang các nước láng giềng, ta thấy: Chiêm Thành, Kamphuchia, Lào quốc nhận chịu ảnh hưởng nặng nề nền văn hóa Aán Độ, từ tôn giáo (lấy Phật giáo làm quốc giáo), ngôn ngữ văn tự (chữ Phạn, chữ Bali), kiến trúc v.v…. Xa hơn một chút, ta thấy dân tộc bạn Phi Luật Tân hoàn toàn thất bại trong việc thống nhất ngôn ngữ, văn tự (vì có trên 50 tiếng nói bộ tộc), nên cuối cùng đã dùng Anh ngữ làm Quốc Ngữ.

Mặc dầu ở một vị thế đặc biệt luôn luôn nhận chịu rất nhiều ảnh hưởng và thế lực ngoại nhập (cửa ngõ, hành lang Đông Nam Á), chúng ta không những đã tránh hẳn được sự lệ thuộc vào bất cứ một ảnh hưởng nào, mà còn tránh hẳn được sự hỗn thuộc vào đủ mọi tư trào và ảnh hưởng văn hóa để trở thành một quốc gia có một nền văn hóa lộn xộn đầu Ngô mình Sở. Rõ ràng là dân tộc Việt Nam có một sức mạnh tinh thần đặc biệt nên mới có thể bảo tồn được truyền thống văn hóa của mình, trong lúc vẫn liên tục thái dụng mọi tinh hoa ngoại nhập để làm giàu thêm cho vốn liếng tinh thần sẵn có.

SỨC MẠNH TINH THẦN 4: ÓC SÁNG TẠO VÀ TÁI TẠO

Mặc dầu là nước nghèo và thường xuyên phải đứng trước sự tàn phá của chiến tranh nên vẫn chưa có cơ hội khai triển được hết khả năng của mình, dân tộc Việt vẫn tỏ ra có óc sáng tạo và óc tái tạo (bắt chước, học hỏi) đáng phục.

Về óc sáng tạo: binh pháp Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đã làm Trung Quốc phải khâm phục. Thời Tống, nhà Tống đã cho tổ chức và huấn luyện lại quân đội theo binh pháp Lý Thường Kiệt.

Mãi đến thế kỷ thứ hai mươi trên thế giới mới hình thành chiến tranh du kích. Hàng ngàn năm về trước, Triệu Quang Phục đã phát kiến ra loại chiến tranh này, đương cự với quân Tàu thời Bắc thuộc hàng năm trời đằng đẵng.

Thuốc súng được thiện dụng tại Tây phương, thực ra là phát minh của Hồ Quý Ly – Hồ Nguyên Trừng khi bị bắt sang Trung Quốc sau cuộc chiến tranh với nhà Minh, và được người Tàu khai thác trong nghề làm pháo.

Điều thú vị hơn nữa, là chiếc tàu ngầm đầu tiên được hạ thủy trên thế giới là chiếc tàu ngầm của Việt Nam do cụ VÕ DUY THANH thời Tự Đức chế tạo. Tất nhiên là nó bằng gỗ, vì tư nhân đâu có đủ phương tiện chế tạo những vật dụng khổng lồ. Và cũng tất nhiên là sáng kiến này bị bác bỏ cũng như bản (Bài Điều Trần) của Nguyễn Trường Tộ, vì triều đình Tự Đức là một triều đình bảo thủ nên không ưa tất cả những gì là sáng kiến, tiến bộ vì cho rằng không cần thiết.

Trong phạm vi nghề nghiệp, từ việc trộm ngô (bắp), trộm đậu của các sứ giả sang Tàu, việc cử người sang Tàu ở trà trộn hàng chục năm để học nghề in đem về nước truyền lại, việc thái dụng ngôn ngữ, văn tự, võ học, binh pháp ngoại quốc gần như là những nỗ lực thường xuyên của dân tộc Việt. Chính những nỗ lực này đã trở thành một sức mạnh tinh thần đặc biệt của dân tộc Việt, một thứ tư bản trí thức mà dân tộc nào, thời đại nào cũng luôn luôn cần đến.

VÀ CUỐI CÙNG: NGÀY NAY SỨC MẠNH ĐÓ Ở ĐÂU ?

Đó chính là vấn đề thực tế trước mắt của tất cả chúng ta. Nhưng sức mạnh tinh thần đó, liệu có bị thực tế làm băng hoại không?

Sức mạnh ấy vẫn thường hữu ở xã hội, nếp sống Việt, trong tâm hồn người Việt để tiếp tục dòng sống liên tục của lịch sử với truyền thống đặc biệt cố hữu.

Cố gắng khơi dậy nguồn sống mạnh đó và vận dụng nguồn sức mạnh đó vào mọi ngành sinh hoạt xã hội, chính là sứ vụ chung của tất cả Việt Võ Đạo sinh chúng ta, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chương 16: Thái Độ Sống của Việt Võ Đạo Sinh

Đặt chân đến võ đường, Anh sống trong một không khí tập thể, bộc trực, chân thành. Trở về gia đình, Anh sống trong sự chia sẻ những nỗi lo âu chung, về cuộc sống. Tới trường học, Anh lắng nghe, ghi chép, bồi dưỡng học vấn để chuẩn bị cho một tương lai tự tồn. Vào đời, Anh nghe và thấy biết bao chuyện tranh sống, mưu sinh. Mở tờ báo ra đọc, bên cái tốt, tích cực, Anh thấy biết bao chuyện tiêu cực đụng chạm trong cuộc sống để gây ra những bất công giữa con người với con người.

Tất cả những cảnh sống đó đã đòi hỏi ở mỗi chúng ta một thái độ sống. Thái độ sống của mỗi người có thể bắt nguồn từ hoàn cảnh sống, nhưng đồng thời, thái độ sống cũng có thể tạo ra hoàn cảnh sống. Bởi vì, con người có thể là một sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng hoàn cảnh cũng có thể là một sản phảm do con người tạo tác. Thời thế tạo anh hùng và Anh hùng tạo thời thế cũng nằm trong định luật đó. Hai Bà Trưng là anh hùng thời thế tạo ra, qua sự tham tàn của Tô Định với dân chúng và sự bạo sát chồng bà Trưng Trắc là ông Thi Sách. Quang Trung Nguyễn Huệ là một trường hợp đặc biệt: Ông chỉ là người nông dân áo vải, không ruộng đất, không thế lực, không gia nhân, nhưng đã tạo lập được sự nghiệp hiển hách trong lịch sử. Ông là vị anh hùng đã tạo ra thời thế độc đáo nhất trong lịch sử, khác với đại đa số anh hùng dân tộc đã nhận chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh trước khi có một thái độ sống quyết định trước hoàn cảnh.

Trước những gương sống như vậy, thái độ sống xứng đáng của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo ra sao? Đó là những vấn đề lớn quyết định tương lai của mỗi người, khi bước chân vào cuộc sống. Chúng ta lần lượt giải tỏa từng khía cạnh, trong thái độ sống của Việt Võ Đạo sinh.

VẤN ĐỀ SỐ I : CON NGƯỜI VÀ HOÀN CẢNH.

Trước hết, chúng ta khởi hành từ uyên nguyên của thái độ sống.

Sống (Vivie), trước hết là gia nhập cuộc sống (Lavie). Cuộc sống đó là gì, đối với tất cả chúng ta. Ra đời, chúng ta bắt đầu sống. Cuộc sống mở ra trước nhãn quan chúng ta. Chúng ta vẫy vùng, đua ganh, vươn tới.

Hoàn cảnh sống tượng hình trước mắt chúng ta từ mơ hồ đến rõ rệt, thấm dần theo thời gian. Mỗi người chúng ta đương nhiên trở thành một hạt giống, gieo trên miếng đất hoàn cảnh. Hoàn cảnh có thể nuôi sống hay giết chết tương lai con người là vậy đó: chúng ta lần lượt được nuôi dưỡng, trưởng thành trong một hoàn cảnh nào đó. Nếu hoàn cảnh tốt: hạt giống đâm chồi, nảy hột, tăng trưởng. Nếu hoàn cảnh xấu: hạt giống thui chột lần. Vậy Hoàn Cảnh, thực ra, ngươi là gì, mà có quyền quyết định tương lai con người.

GIA ĐÌNH XÃ HỘI: NHÀ TÙ HAY ĐỊA ĐÀNG CỦA CON NGƯỜI

Hoàn cảnh sống đó chính là gia đình và xã hội. Chúng ta thường nói: Tình nhà nợ nước, tình gia đình, tình quê hương, tình đất nước, chính là để xác nhận những mối tương quan giữa con người với hoàn cảnh. Mối tình tự ấy chính là tinh thần trách nhiệm trước cuộc sống, là vị sống, là nền tảng cho thái độ sống của mỗi chúng ta.

Ra đời, lớn lên, học thành tài, làm việc mưu sinh, lấy vợ sanh con, già ốm, chết: đó là cuộc sống tầm thường của phường giá áo túi cơm.

Ra đời được gia đình và xã hội vun đắp, xây dựng rồi rũ trách nhiệm bỏ tất cả: đó là thái độ sống của những kẻ vong tình bồi nghĩa.

Ra đời, được gia đình và xã hội dưỡng trưởng, rồi quay lại chống gia đình xã hội của mình: đó là những kẻ phản phúc.

Ngược lại, chúng ta được gia đình và xã hội dưỡng trưởng thừa nhận tương quan đó, tự nhận là một phần tử của gia đình và xã hội có trách nhiệm hết lòng vun đắp, xây dựng, cải tiến, bồi bổ: đó là thái độ sống xứng đáng nhất của những người có tinh thần trách nhiệm, của Việt Võ Đạo sinh.

Từ gia đình, xã hội mà ra, chúng ta chấp nhận nó, với tất cả những ưu điểm và nhược điểm. Nếu nó tốt sẵn, chúng ta sẽ làm nó tốt thêm. Nếu nó xấu, chúng ta sẽ đổi xấu thành tốt, bằng chính công trình và nghị lực của tất cả chúng ta.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chấp nhận hoàn cảnh sống hiện hữu của mình: gia đình chia rẽ, nước yếu. Ông thành tâm khắc phục chia rẽ với Trần Nhân Tôn, và cải tiến xã hội. Chia rẽ hóa đoàn kết, nước yếu thành mạnh: dân tộc ta thời đó đã đại phá Mông Cổ ba lần khiến cả thế giới khâm phục. Đó là trường hợp hoàn cảnh tạo Anh Hùng, và Anh Hùng sau khi đã trưởng thành, tạo lại một hoàn cảnh mới cho đất nước.

Quang Trung Nguyễn Huệ, xuất thân là nông dân áo vải, được nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh xấu đầy rẫy chia rẽ, bất công, tham nhũng, thối nát. Ông đã vượt lên, khắc phục nó, chế ngự nó, cải biến nó: Ông là Anh hùng đã tạo nên hoàn cảnh.

Chúng ta có làm được thế không? Chắc chắn là trong muôn người mới có một người làm được. Nhưng chúng ta có thể dễ dàng đồng hóa với thái độ sống của các vị anh hùng: chấp nhận hoàn cảnh. Nhập thế cuộc với thái độ nhập thế: không tự ti, không tự tôn, phục vụ gia đình và xã hội với tinh thần quả cảm của người dũng sĩ có lý tưởng. Tinh thần nhập thế này được chúng ta đúc kết lại thành một thái độ sống vững chắc như sau:

Không coi gia đình và xã hội là nhà tù hay địa đàng, sẵn sàng chấp nhận nó với tinh thần trách nhiệm cao độ của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo. Luôn luôn tích cực tranh đấu, hăng say làm việc với tinh thần chủ động bằng cách xung phong nhận lãnh trách nhiệm, tích cực đóng góp công sức vào việc xây dựng xã hội, đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người, bằng mọi nỗ lực cải biến hoàn cảnh xấu thành tốt, nguy thành an, yếu thành mạnh để làm vinh danh gia đình và tổ quốc.

TỰ NHẬN DIỆN TRƯỚC CUỘC SỐNG: TRƯỚC GIAN NGUY VÀ TRONG VINH QUANG.

Muốn biết rõ phẩm cách một người nào, ta hãy cho hắn một số tiền thật lớn để xem hắn tiêu xài việc gì hoặc tước hết tiền của hắn coi hắn xử sự ra sao.

Giàu sang – nghèo khổ là hai mặt sống biểu hiện phẩm cách của con người.

Gian nguy – vinh quang cũng ở trường hợp tương tự. Đời Trần có một Trần Di Ái theo Mông Cổ, cũng có một Trần Bình Trọng khẳng khái, tuyên cáo thái độ sống “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”, bên cạnh những Anh hùng hào kiệt đương thời. Thời hậu Nguyễn có một Nguyễn Hữu Độ theo Pháp, cũng có một Nguyễn Cao mổ bụng moi ruột, đâm mù mắt, cắn lưỡi tự vận để tuyên cáo tinh thần Việt chính thống trước thống sứ Pháp Bihourd.

Như vậy, thái độ sống xứng đáng của Việt Võ Đạo sinh ra sao?

Đó chính là vấn đề khảo nghiệm thái độ sống cho tất cả chúng ta, hoặc nói cách khác, trước gian nguy và trong vinh quang, thái độ sống của chúng ta ra sao?

Trước gian nguy: Bình tĩnh, khẳng khái, quả cảm – không lùi bước trước mọi gian nan nguy hiểm. Không suy tính thiệt hơn, trước đại nghĩa rất quý trọng mạng sống và bảo vệ sự sống của tất cả, nhưng sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa.

Trong vinh quang: Khiêm nhượng với tinh thần xuất thế Công thành thân thoái thiên chi đạo (Lão Tữ) và tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh của Trang Tử (Thánh nhân vô kỷ, thần nhân vô công, chí nhân vô danh.

CÒN TRONG CUỘC SỐNG BÌNH THƯỜNG RA SAO?

Việt Võ Đạo sinh không phải là tu sĩ, nhưng có nếp sống thanh đạm, tự nguyện tích cực hơn người tu sĩ.

Việt Võ Đạo sinh không phải là chiến sĩ, nhưng có tinh thần dũng cảm đấu tranh tích cực hơn người chiến sĩ.

Nhưng, ngoài những trường hợp đặc biệt đòi hỏi những quyết định đặc biệt, thái độ sống của Việt Võ Đạo sinh trong cuộc sống bình thường, ra sao? Chúng ta sẽ nghĩ sao khi bị đặt trước mồi ngon thông thường trong đời sống như: tiền tài, danh lợi?

Tất nhiên, chúng ta không chấp nhận bất cứ một hình thức mua chuộc nào để đánh đấm chí khí của mình trong biển mắt giai nhân, đánh rớt ý hướng của mình trong bã vinh hoa hoặc mùi phú quý. Vì như thế là … thôi, người hùng sẽ trở lại thực chất: chỉ là con ốc sẵn sàng chui mình trong vỏ cứng để mong được hai chữ … bình an.

Muốn vậy, chúng ta phải trau dồi bản lãnh thật vững vàng, trước mọi biến thoái của hoàn cảnh và nghịch cảnh.

Một nếp sống thanh đạm mở đầu cho quan niệm sống của Việt Võ Đạo sinh, khởi đầu từ sự giảm thiểu tối đa mọi nhu cầu trong đời sống, tuyệt đối tránh mọi bon chen tự kỷ, máy móc trong đời sống  Kiếm được tiền bao nhiêu hưởng thụ cho kỳ hết). Con ruồi ham mật mà sa vào đĩa, con cọp ham mồi mà mắc bẫy, con cá tham ăn mà chui vào rọ, con chim ham mái mà mắc phải lồng. Từ ngàn xưa, biết bao nhiêu vua chúa, dũng sĩ, võ tướng cũng sống như ruồi, chim, cá, cọp, chỉ vì không biết trau dồi một nếp sống thanh đạm cho chính bản thân mình.

Làm lợi người và vui với việc sẽ bồi dưỡng thêm cho nếp sống thanh đạm của tất cả chúng ta, để tự tạo cho mình một nếp sống độc đáo Việt Võ Đạo: lấy sự làm việc lợi ích cho người làm nguồn sống, vui với công việc chứ không quan tâm tới thành bại hay tư lợi, vì có ai đem tư lợi hay thành bại để luận anh hùng.

VÀ CUỐI CÙNG: THẾ ĐỨNG CỦA NGƯỜI VIỆT, THÁI ĐỘ SỐNG CỦA VIỆT VÕ ĐẠO SINH

Địa thế của Việt Nam: hành lang Đông Nam Á, dựa lưng vào dãy Trường Sơn, nhìn thẳng về biển Nam Hải. Tạo vật hầu như đã dành cho dân tộc Việt một thế đứng đặc biệt giữa cứng và mềm, bên cái tụ lại và trước cái trôi đi của dòng sống miên trường điệp khởi.

Do đó, dù muốn hay không, đất nước ta cũng là bến đậu của các tư trào nhân loại. Gió bão từ biển cả thổi vào đất liền và gió bão sẽ tan đi. Nhưng gió bão vẫn để lại một vài lưu niệm: thời tiết, mây bay, gió cuốn, đá chạy, cát tung, vết tích biển cả soi mòn trên đá tảng. Chúng ta đón nhận và đôi khi chống giữ. Lấy gì làm thế đứng tự cường để phân định lúc nào nên đón nhận, lúc nào nên chống giữ, và điều đó có ảnh hưởng gì tới thái độ sống của chúng ta, của tất cả chúng ta không?

Chắc chắc là có, vì mỗi chúng ta là một phần tử của Việt tộc. Đón nhận các tư trào, nhưng thái độ đón nhận đầu tiên của chúng ta là hội nhập nhưng không đồng hóa, hòa nhập nhưng không hòa tan. Tinh hoa bốn phương đưa lại, do đó, cái gì đáng giữ thì giữ, cái gì không cần thì loại bỏ.

Hội nhập rồi, để làm gì? Nước nghèo, tất nhiên không thể dùng làm đồ trang sức phù phiếm. Ý niệm thứ hai đến ngay với chúng ta là phải dùng ngay vào những việc hữu ích một cách rộng rãi. Gọi tắt là thái dụng.

Nhưng đất lành còn đó. Đá tảng còn đó. Núi rừng còn đó. Tiếp nhận các tư trào, nếu không lấy những cái mình vẫn có, dân tộc mình vẫn có làm căn bản, thì chắc chắn sớm muộn gì thì chúng ta cũng sẽ bị đồng hóa. Nước biển cuốn vào, nước sông dâng lên, không có đê điều ngăn giữ sẽ thành thủy nạn. Gió biển cuốn vào, không có đá tảng và những rặng phi lao kiềm chế sẽ thành đại họa. Nhưng ngược lại, chúng ta có thể khai thác sức gió, sức nước vào biết bao chương trình ích quốc lợi dân như dẫn thủy nhập điền, thủy điện v.v…. Ý niệm thứ ba đến với chúng ta chính là ý niệm phối hợp và triển khai tất cả những gì đã tiếp nhận được với những gì đang có sẵn, gọi tắt là ý niệm phối triển.

Ba ý niệm hội nhập, thái dụng và triển khai đã đương nhiên trở thành ba phương châm cho thái độ sống của Việt Võ Đạo Sinh, của nếp sống Việt Võ Đạo, của tất cả chúng ta.

Chương 17: Luận Về Sự Mừng Giận

Con người ai cũng có lúc Mừng lúc Giận lúc vui lúc buồn. Đây là cảm xúc mà hầu hết tất cả những con người bằng xương bằng thịt đều phải có. Muốn cũng không được mà không muốn cũng không được. Đã mang lấy hình hài là đã mặc nhiên chấp nhận, những tình cảm, cảm xúc: Hỷ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Cụ, không thể nào tuyệt diệt được, chúng dính liền vào ta như hình với bóng. Nếu ngày nào chúng ta không còn vướng víu tới thất tình, thì chúng ta đã siêu thoát khỏi nếp sống của con người trần tục. Siêu thoát ở đây không có nghĩa là chúng ta thành Tiên, thành Phật hay thành Chúa, mà chúng ta nên hiểu siêu thoát theo tính triết lý, là: phá vỡ cái vô minh, không bị điên đảo quay cuồng theo những Mừng Giận, Vui, Buồn, Yêu, Ghét, Sợ, không bị nô lệ cho những tình cảm, cảm xúc của mình.

Có thế chúng ta mới mong chế ngự và điều khiển được chúng phát hiện cho đúng chỗ đúng lúc. Thực ra Mừng, Giận không có hại mà chỉ có sự Mừng, Giận không đúng lúc đúng chỗ mới có hại thôi. Vậy, vấn đề chúng ta cần bàn tới là tìm hiểu tính cách lợi hại của sự Mừng, Giận. Như chúng ta đã nhận định giá trị thực sự của con người không phải do nơi chức vị, tiền tài, tuổi tác mà do ở nơi tài năng, đạo đức và tinh thần làm việc công ích của con người. Với con người như thế, chỉ nhìn qua cốt cách, thần sắc của họ chúng ta cũng đã quyết đoán được chân giá trị của họ rồi. Bậc Thánh Nhân sở dĩ được mọi người kính trọng tôn sùng chẳng qua có được một khí cách siêu thoát, một thần thái điềm tĩnh vô vi, với những đức tính ưu ái và cách hành xử lúc nào cũng ung dung thư thái, hợp với lẽ trời và lòng người. Luôn luôn chế ngự và điều hòa được mọi cảm quan, không bao giờ để hệ lụy vì ngoại vật. Mỗi lời nói, mỗi hành động, mỗi cảm xúc đều biết đặt đúng chỗ và đúng lúc. Mừng những việc đáng mừng, giận nhửng khi đáng giận.

Như trên đã nói Mừng, Giận không đúng chỗ và đúng lúc mới có hại mà thôi. Cho nên khi sinh hoạt tập thể, chúng ta phải dè dặt trong sự bày tỏ cảm xúc của mình trước mọi người. Đối với một võ sư, một huấn luyện viên mang trọng trách lãnh đạo phong trào tại một địa phương, vấn đề Mừng, Giận trở nên quan thiết. Mừng, Giận đúng việc và đúng lúc sẽ gặt hái được nhiều thành công trong việc giao tế và quản trị. Vì sự Mừng, Giận đúng lúc đúng chỗ không những là một phương pháp để trau dồi phẩm hạnh mà còn là một kỹ thuật tác dụng tâm lý rất cao, có một ảnh hưởng sâu rộng và mãnh liệt trong lòng các thuộc viên. Chúng ta thử đặt câu hỏi:

1- Tại sao Mừng, Giận đúng lúc, đúng chỗ là một phương pháp để trau dồi phẩm hạnh?

– Chắc chúng ta cũng đồng ý rằng Mừng, Giận là một phản ảnh rất trung thực nếp sống, tánh tình và tư cách của chúng ta. Những kẻ tầm thường hay những hạng dủng phu khi tức giận thì lồng lộn như một ác thú, hung hăng tàn bạo, ngược lại, những bậc phi thường Đại Dũng khi tức giận, người không hay, khi mừng vui người không biết, luôn luôn giữ sự điềm tĩnh vô vi. Không vì sự thất lễ của người mà thất lễ lại với người. Lúc nào cũng giữ sự điềm đạm chí cực để cảm hóa người. Cái phẩm hạnh cao sang siêu thoát đó, Tô Đông Pha đã có lần ca tụng: “Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng nhơn tình có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xô đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại Dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường không kinh, vô cớ bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn, và chỗ lập chí của họ rất xa vậy…”.

Vì vậy, muốn có một tinh thần Đại Dũng để hướng dẫn và cảm hóa mọi người, trước hết, chúng ta phải biết chế ngự mọi cảm xúc của mình. Chế ngự đây không có nghĩa là chúng ta ép nén chúng, mà là để điều khiển chúng cho phát hiện hợp thời đúng lúc. Lời xưa có nói: Quá giận mất khôn. Cho nên sự Mừng, Giận là 2 cảm quan mà chúng ta cần huấn luyện trước tiên. Thói thường được thì Mừng, bị chê thì Giận, nếu như chúng ta không thoát được tâm lý thông thường này thì chúng ta chỉ là những kẻ lục tục thường tình, làm gì có đặng tư cách để hướng dẫn người theo võ đạo của mình. Cho nên, bậc chính nhân có thành công cũng không vội Mừng. Thất bại cũng không vội Buồn. ngay chính tinh thần võ đạo cũng vẫn thường hằng giáo luyện chúng ta Thắng không kiêu, Bại không nản là gì? Chỉ với tinh thần trên cũng đủ nói lên cái phong độ hào hùng cao thượng của một Việt Võ Đạo Sinh chân chính. Một phẩm hạnh phải có, cần có, mà muốn có chúng ta phải biết đặt sự huấn luyện Mừng, Giận lên hàng đầu trên mọi công phu Tu Dưỡng, Khổ Luyện. Phải huấn luyện sao để mỗi lần Mừng hay Giận chúng ta đều biểu lộ đặng cái khí cách hiên ngang mã thượng, thần sắc uy nghi điềm đạm và cách xử sự vẫn tinh tế, hợp với thiên ý nhân tình.

Chính vì thế mà sự Mừng, Giận đúng chỗ đúng lúc được xem như là một phương pháp để trau dồi phẩm hạnh vậy.

2- Tại sao Mừng, Giận đúng lúc đúng chỗ được xem là một kỹ thuật tác dụng tâm lý cao?

Từ xưa đến nay, các quân sự và chính trị gia đã khéo tận dụng sự Mừng Giận để tranh đoạt quyền lực tâm lý. Một vị tướng khéo bày tỏ cảm xúc của mình trước ba quân ắt là ba quân sẽ liều chết cho mình. Một ông Vua khéo bày tỏ sự Mừng Giận của mình trước triều thần ắt sẽ được triều thần hết lòng tuân phục. Một ông Thầy khéo bày tỏ sự Mừng Giận của mình trước học trò thì sẽ được sự kính mến của học trò. Một quản trị viên hay một người lãnh đạo khéo bày tỏ cảm xúc của mình trước thuộc viên thì sẽ được sự nhiệt liệt hưởng ứng của cả tập thể. Ngược lại, nếu không khéo trong việc bày tỏ cảm xúc Mừng Giận thì kết quả sẽ tạo ra: quân yếm, tướng loạn, nghịch đồ, phong trào suy sụp, đoàn viên xa lãnh tụ. Chúng ta phải ý thức rằng một nụ cười hay một nhếch môi, cau mặt cũng khiến cho mọi người nghĩ ngợi triền miên.

Lã Bố chết vì đã áp dụng Mừng Giận sai chỗ nghịch thời. Lúc bị Tào Tháo vây thành Hạ Bì, tâm thần ba quân chấn loạn thì Lã Bố lại vui vẻ cợt đùa với rượu ngon, tỳ thiếp. Nhưng khi bình tịnh, các tùy tướng của Lã Bố có việc vui đến xin Lã Bố cho phép uống rượu mừng, Lã Bố lại tức giận truyền đem đánh 100 roi khiến lòng người oán hận. Kết quả Lã Bố phải chết thảm vì bị phản. Nhưng Câu Tiễn trái lại vì biết biểu lộ cảm xúc trước ba quân nên đã khích động được tinh thần quyết tử của tướng sĩ, khi mang quân sang đánh nước Ngô. Lúc sắp sửa lên đường, Câu Tiễn ngồi trong xe thấy một con ễnh ương đang phình bụng như có vẻ tức giận lắm. Thấy thế Câu Tiễn liền cúi đầu tỏ vẻ cung kính. Các tướng ngạc nhiên hỏi:

– Đại Vương thấy gì mà kính cẩn như vậy?

Câu Tiễn trả lời:

-Ta thấy con ễnh ương tức giận, nghĩ đến tinh thần tướng sĩ tức giận để phục thù nước Ngô mà kính.

Quân sĩ nghe nói vô cùng cảm động, quyết tử chiến với quân Ngô. Kết quả Việt Vương phá tan thành Cô Tô, lấy đặng nước Ngô chiếm cứ Văn Cung Đài. Đấy là tác dụng ghê gớm của sự Mừng Giận mà Việt Vương Câu Tiễn đã khéo khai thác đúng chỗ và đúng lúc.

Đến đây có một vấn đề chúng ta phải lưu ý nữa là chẳng những đặt sự Mừng Giận hợp thời đúng lúc mà còn phải có lý do chính đáng nữa. Việc đáng mừng phải mừng, điều đáng giận phải giận, việc mừng giận phải biết tùy theo tâm lý đa số của mọi người. Tuyệt nhiên không được mừng giận theo tư dục và tư kỷ. Cũng chính vì sự mừng vui không có lý do chính đáng, muốn làm vừa lòng Bao Tự mà sự nghiệp cơ đồ U Vương sụp đổ. Không sụp đổ sao được, khi đang đêm nghe pháo lệnh ở Ly Sơn, các chư hầu từ bốn phương kiểm binh điểm tướng kéo rốc về Kiểu Kinh mong giải vây cho Vua. Nào ngờ đến nơi lại chứng kiến sự vui vầy bên đàn ca xướng hát của U Vương và Bao Tự. Không sụp đổ sao được, khi mà hành động đốt lửa diễu chư hầu kia chỉ làm thỏa mãn tình dục cá nhân lại đem bày tỏ trước muôn binh vạn tướng.

Tâm lý Mừng Giận của người lãnh đạo cũng thế, nếu biết đặt đúng chỗ thì sẽ trở thành một kỹ thuật tác dụng tâm lý rất cao, nhưng nếu đặt sai thì hậu quả tai hại không lường trước được.

Tôn Vũ nhờ biết tức giận đúng chỗ truyền chém đầu hai cung phi sủng ái nhất của nhà Vua, mà đoàn cung nữ hơn 300 người răm rắp tuân hành theo giáo lệnh.

Ngoài ra, có một điều quan trọng cần phải lưu ý nữa là, khi Mừng chớ nên tha kẻ có tội, và khi Giận chớ nên phạt bừa những người không có tội. Làm sao cho mỗi cái nhếch mép, mỗi sự cau mày của chúng ta lúc nào cũng gây được sự cảm phục của mọi người thì công việc lãnh đạo và quản trị chúng ta chắc chắn sẽ đi tới Thành công.

Chương 18: Đức xã kỷ

 

Trong nghệ thuật chỉ huy, đức tính quan trọng hàng đầu của người cán bộ là đức xả kỷ. Thông thường con người hay vấp phải một trong những lỗi lầm to tát nhất là luôn luôn chỉ biết có mình, nghĩ về mình, sống cho tham vọng và quyền lợi cá nhân hơn là sống cho người khác, cho tập thể.

Có đức xả kỷ người cán bộ VOVINAM Việt Võ Đạo mới vượt thoát lên trên được những suy tính hơn thiệt, những lợi lộc riêng tư để mà chung lo cho đời sống tập thể.

Nếu người cán bộ VOVINAM Việt Võ Đạo chỉ chăm lo tìm cách thụ hưởng, tìm cách lập uy thế riêng cho cá nhân, không nghĩ tới quyền lợi chung, uy tín chung của những người sát cánh làm việc với mình, thì chúng ta làm sao tạo được lòng tin yêu của thuộc cấp nói riêng, của mọi người nói chung. Và như vậy, chúng ta chỉ là những anh hề rẻ tiền, làm sao có thể đóng trọn vai trò dẫn đạo người khác.

Là những cán bộ VOVINAM Việt Võ Đạo đừng bao giờ chúng ta nghĩ rằng: chỉ với tài năng và uy tín cá nhân, chúng ta đơn thương độc mã làm việc cũng có thể thành công. Chúng ta thành công như thế để làm gì? Và có hứng thú gì? Hơn nữa, dẫu là đơn thương độc mã tiến hành công việc, chúng ta vẫn mặc nhiên khoác cái áo uy tín của đoàn thể đấy.

Trên kinh nghiệm thực tế, một cá nhân dù tài năng xuất chúng, quyền uy cao vời cũng không tự tạo được một tương lai rực rỡ và một đời sống lý tưởng, nếu chưa muốn nói nhiều khi chính tài năng và quyền uy đó đã tách họ ra khỏi đời sống tập thể và biến họ thành những con người biển lận, kiêu ngạo, hống hách.

Tư cách của người cán bộ VOVINAM Việt Võ Đạo cũng không hẳn chỉ đơn thuần ở nơi học vấn uyên thâm mà phải được đặt trên căn bản tinh thần, tình cảm và hành động của họ đối với tập thể.

Có nhiều trường hợp, tuy không phải là tất cả, những người học thức uyên thâm, quyền uy tột đỉnh, tiền bạc dư dả, chỉ là những kẻ biển lận, ngoan cố, nô lệ cho lòng tham vọng vô bờ của họ, vì họ chỉ biết ỷ vào quyền uy và tiền bạc của họ để sống ích kỷ, suốt đời họ chỉ lo đem vào mà không chịu xuất ra, hành động coi trọng quyền lợi cá nhân đã biến họ thành những kẻ lỗi thời, hủ lậu.

Đức xả kỷ đòi hỏi nơi người cán bộ VOVINAM Việt Võ Đạo chúng ta một tinh thần quên mình, biết sống theo thời, hướng đời sống của mình theo người, sẵn sàng sống vì người, cho người và làm những điều ước ao, mong muốn.

Thích làm vui lòng người và tự gánh lấy phần trách nhiệm an ủi, giúp đỡ người, cũng như luôn nhận phần thua thiệt về mình là đức sống của người cán bộ VOVINAM Việt Võ Đạo. Là cán bộ VOVINAM Việt Võ Đạo, chúng ta còn cần phải biết trả giá cái khôn bằng trăm, ngàn lần dại. Dĩ nhiên, cần dại đúng lúc và khôn kịp thời.

Trong công tác, là người cán bộ, chúng ta phải biết chọn cho mình một chỗ thất lợi, bấp bênh nhất để tránh sự tranh giành kèn cựa, nhưng sau đó chúng ta phải biến chỗ thất lợi, bấp bênh đó thành nơi vững vàng, màu mỡ. Có thế chúng ta mới được người trên nể vì, thuộc cấp tâm phục và sự thành công mới hoàn toàn vinh quang hiển hách.

Dưới đây là mẫu chuyện dẫn chứng:
Thời Chu mạt, Triệu Xa là một danh tướng của nước Triệu có công hãn mã từng nhiều lần làm khiếp đảm quân Tần, được vua Triệu phong làm Mã Phục Quân, ngang hàng với Liêm Pha, Lạn Tương Như.

Con của Triệu Xa là Triệu Quát, thông minh xuất chúng, những sách “lục thao tham lược gia truyền” chỉ đọc qua một lượt đã thuộc làu, thường cùng cha bàn việc binh, chỉ trời trách đất, có ý không coi ai ra gì, dẫu Triệu Xa cũng không bắt bẻ được điều nào.

Người mẹ mừng nói :
– Con như thế, có thể nói cữa tướng lại xuất tướng vậy.
Triệu Xa cau mặt không vui, bảo:
– Quát không thể làm tướng được, nước Triệu không dùng Quát là phúc cho xã tắc.
Người mẹ ngạc nhiên hỏi lại:
– Quát đọc hết sách nhà, chỉ một lần đã thông thuộc, tự cho thiên hạ không ai bằng, sao phu tướng lại bảo nó không có tài làm tướng.
Triệu Xa chậm rãi:
– Quát tự cho là thiên hạ không ai bằng, nên không dùng làm tướng được. Việc binh là việc trọng đại, cầm binh như cầm chắc cái chết trong tay, hết lòng lo lắng, rộng hỏi mọi người còn e có điều sơ sót mà Quát lại cho là dễ dàng, nếu được giữ binh quyền thì chắc cứ tự ý làm không cần nghe điều hay, kế lạ của ai nữa, như vậy, chắc sẽ mang họa mất nước. Hơn nữa, Quát là con người vị kỷ, luôn chỉ biết có mình, sống cho tham vọng và quyền lợi cá nhân, không bao giờ nghĩ tới ai, nhường nhịn ai, sao có thể làm tướng được?
Sau đó, Triệu Xa đau nặng, gọi Quát lại dặn:
– Binh hung chiến nguy, người xưa vẫn lấy làm răn. Ta làm tướng mấy chục năm, ngày nay mới mừng khỏi cái nhục thua trận, còn con không có đức làm tướng, chớ có nhận càn mà làm hại quốc gia.
Lại dặn người mẹ Quát rằng:
– Sau này vua Triệu có vời Quát làm tướng, bà nên kể lại lời tôi mà từ chối kẻo nhục quân mất nước, tội ấy to lắm, nửa đời khôn chuộc.
Nói xong thì mất. Vua Triệu nghỉ công Triệu Xa cho Quát nối chức hưởng lộc.
Ít lâu sau, quân Tần do đại tướng Vương Hạt thống lãnh vây đánh nước Triệu. Vua Triệu bèn cho đòi Quát vào hỏi:
– Nhà ngươi có đánh được quân Tần không?
Triệu Quát nhơn nhơn tự đắc:
– Nếu vua Tần sai Võ An Quân Bạch Khởi làm tướng, hạ thần còn tốn công trù hoạch, còn như Vương Hạt không đáng mặt địch thủ của hạ thần.
Vua Triệu cả mừng liền cử Triệu Quát làm thượng tướng, ban cho vàng lụa, cấp cho 20 vạn tinh binh đi kháng Tần.
Triệu Quát duyệt binh xong, chở vàng lụa vua ban về nhà chào mẹ.
Bà mẹ hỏi:
– Phụ thân con khi sắp mất có dặn con chớ nên làm tướng mà hại dân, sao con không từ chối đi?
Quát thưa:
– Không phải là con không muốn từ chối, hiềm nỗi trong triều không còn ai bằng con.
Bà mẹ Triệu Quát bèn dâng thư can vua, vua Triệu cho đòi vào hỏi lại, bà thưa rằng:
– Cha Quát là Triệu Xa làm tướng, được ban thưởng gì đem chia đều cho quân lính, ngày thụ mệnh liền ngủ ngay trong quân không nghĩ tới việc nhà, cùng chịu kham khổ với quân lính, mỗi việc đều thận trọng hỏi ý mọi người, không dám tự chuyện. Nay Quát mới được vời làm tướng đã ra oai hống hách, quân lính không dám nhìn mặt, vàng lụa vua ban đều mang hết về nhà, không chia sớt cho ai, tư cách làm tướng há đâu như thế! Nếu đại vương không nghe lời can gián của thần thiếp chọn vị tướng khác, sai này lỡ thua quân xin chớ bắt tội lây đến cả nhà thần thiếp.
Vua Triệu bằng lòng, Triệu Quát hèn dẫn quân đi.
Quả như lời Triệu Xa tiên đoán. Mới xuất quân, Triệu Quát đã đổi hết ước lệnh, không nghe lời một ai can gián. Thấy quân Tần là ào ạt thúc quân tiến đánh. Thắng thế là truy kích đánh đuổi kỳ cùng.
Qua trận thắng đầu tiên, Triệu Quát đã huênh hoang kiêu ngạo, mổ trâu ăn mừng.
Vua Tần ngầm cử thượng tướng Bạch Khởi tiếp trợ đại tướng Vương Hạt. Triệu Quát vẫn u mê thúc quân tiến sâu vào trận địa.
Quân Tần dưới sự điều động của thượng tướng Bạch Khởi, chia ra làm nhiều cánh, nào cánh đánh tập hậu để tuyệt đường lương thực của quân Triệu, nào cánh chận các nơi xung yếu, cắt quân Triệu ra thành nhiều đoạn, bao vây tiêu diệt.
Tại Trường Bình, quân Triệu bị vây hãm 46 ngày, không lương thực và nước uống phải tự giết và ăn thịt lẫn nhau. Liền đó, tại hai thành Giả Vương và Thượng Đẳng, trên 40 vạn quân Triệu bị tướng Tần Bạch Khởi ra lệnh sát hại. Từ đấy, nước Triệu đi dần vào con đường suy sụp mất nước.

Một nguời tướng thông minh và có tài như Triệu Quát mà thiếu đức xả kỷ cũng đã tự đi vào đất chết và mang theo cái họa diệt vong của cả một dân tộc. Do đó, dẫu tài trí, quyền uy và mưu lược đến đâu, song thiếu đức quên mình, nghĩ tới người, sống cho người thì cũng không sao thành công thắng lợi được. Đây là chưa nói tới sự người thiếu đức xả kỷ sẽ dùng tất cả sở trường sẵn có lấn át người khác để rồi gây ra một cuộc tranh đấu bi thảm và tự diệt.

Sự kiện đó thêm một lần minh chứng trong mẫu chuyện dưới đây:
Thời tàn Tấn, sau khi hai họ Phạm Thị và Trung Hàng Thị bị diệt, bốn quan khanh nước Tấn là Trí, Triệu, Hàn, và Ngụy, bàn nhau chuyên quyền tự chiếm đất làm phong ấp. Phần đất của Tấn vương ít hơn cả của bốn nhà quan khanh.
Trong bốn nhà còn lại, họ Trí mạnh hơn cả nên có ý chiếm cả nước Tấn.
Trí Tuyên Tử hiệu Từ Ngô muốn lập người con nối dõi thực hiện ý nguyện trên, liền bàn với Trí Quả, một người thân tín trong họ, Từ Ngô nói:
– Ta muốn lập Dao (Trí Bá), ý ngươi thế nào?
Trí Quả đáp:
– Không bằng lập Tiêu.
Từ Ngô nói:
– Mọi phương diện Dao đều hơn Tiêu, nên ta muốn lập Dao.
Trí Quả phân tích: Dao có 5 điều hơn người:

  • Tướng mạo hơn
  • Võ dũng hơn
  • Cương nghị, quả cảm hơn.
  • Mưu trí biền cấp hơn.
  • Ý lực sung mãn hơn.

Song có một sở đoản là tham tàn, bất nhân. Đem 5 điểm sở trường đè lấn người mà lại tham tàn bất nhân thì còn dung được ai và cũng không ai dung được, nếu lập Dao họ Trí tất bị diệt.

Trái lại, Tiêu có năm sở đoản, thua kém Dao mọi mặt, song có một sở trường: thương yêu người, quan tâm tìm hiểu người, tôn trọng quyền lợi và ý kiến của người. Lập Tiêu nước sẽ an bình thịnh trị.

Từ Ngô không nghe, lập Dao. Họ Trí bị tiêu diệt, từ đó nước Tấn biến thành nhà tam Tấn: Hàn, Ngụy, Triệu.

Chương 19: Nhận Định về Đức độ người Chỉ huy

Cuộc đời luôn có những diễn biến phức tạp và tế nhị, ngoài hẳn dự liệu của mọi người. Trường đời vì vậy, là một thử thách lớn, mà mỗi Việt Võ Đạo sinh chúng ta, dù muốn hay không muốn, cũng vẫn phải tham dự. Có người lạc quan coi trường đời là một vở hài kịch. Có người bi quan coi trường đời là một vở bi kịch. Có người yêu đời, mơ mộng, coi cuộc đời là một bài thơ. Có người thực tế, coi cuộc đời là một bài toán. Nho-Lão coi cuộc đời là phù du, ảo ảnh. Phật giáo coi đời là bể khổ. Công giáo coi thế gian là một vùng tội lỗi cần phải bao dung, giáo hóa và cứu rỗi.

Cuộc đời tức xã hội, thật muôn hình, muôn sắc, đầy rẫy những khó khăn, thử thách và thi vị; vừa là lò nung đúc tài năng, vừa là nơi hủy hoại những tài năng không một chút tiếc thương.

Hàn Tín, thuở còn hàn vi vẫn nuôi hoài bão sẽ một mai được phô diễn tài đại tướng của mình. Tất cả cơ nghiệp của ông chỉ có mỗi thanh kiếm. Ông thường đeo luôn bên mình, đi dạo đây đó, tuy quần áo rách mướp. Thanh kiếm là nguồn an ủi của ông, chứng tỏ rằng ông còn có một hoài bão để sống. Vậy mà một bữa đem cá ra chợ bán, nguồn an ủi cuối cùng của ông và cả danh dự của ông bị một gã hàng thịt làm hủy hoại nốt. Gã chặn đường Hàn Tín, cố tình khiêu khích:

Nầy Hàn Tín! Thân trai như mầy, kiếm không đủ miếng mà ăn, thật quá đê tiện! Vậy mà mầy không biết xấu, ngày nào cũng kè kè đeo gươm bên mình đi dạo phố, để làm cái thá gì? Có giỏi, mầy thử đâm tao một nhát coi. Nếu không dám đâm thì hãy quăng gươm luồn trôn tao cho rồi, chớ có ra vẻ ta đây hào kiệt như thế, khó coi quá!

Câu nói khiêu khích của gã hàng thịt làm Hàn Tín đỏ mặt. Nhưng ông kịp nghĩ lại ngay, không muốn gây hấn với gã, nên đành lom khom luồn qua khố gã, trước sự quan chiêm biếm diễu của mọi người trong chợ.

Sau khi đánh bại Sở Bá Vương Hạng Võ, Hàn Tín được phong chức Lỗ Vương và trở về đất Hoài Âm quê cũ. Sau khi đền ơn Phiếu mẫu ngàn vàng về chén cơm xưa, Hàn Tín cho mời gã hàng thịt làm nhục mình năm xưa tới. Buộc lòng phải tới nhưng gã hàng thịt vô cùng run sợ. Gã nghĩ tới chuyện làm nhục Hàn Tín thuở còn hàn vi. Gã không ngờ lại có bữa này, Hàn Tín trở thành ông vua (chư hầu) của gã. Gã lo tới chuyện phục thù, tâm thần luôn hoảng hốt. Nhưng gã không ngờ: Hàn Tín chẳng những không nhắc tới chuyện xưa, mà còn phong cho gã chức Trung úy (chức quan võ ngày xưa).

Tưởng Hàn Tín rỡn mình trước khi trả oán, gã sợ sệt thưa:

– Năm xưa vì dốt nát, nên không biết bậc đại quý đã trót xúc phạm tới đại vương. Nay mong ơn đại vương không giết, còn dám đâu nhận chức phong?

Hàn Tín cười mà đáp:

– Ta đâu phải là hạng người nhỏ nhen, báo thù một cách nhỏ mọn. Ngươi hãy nhận chức, chớ có nói nhiều!

Về sau, cuộc đời thăng trầm, Hàn Tín bị Hán đế nghi ngờ, giả tuần du ra xứ Vân Mộng, truyền gọi Hàn Tín tới và lập mưu bắt sống. Khi giải về qua một khu rừng cách Vân Mộng vào khoảng 30 dặm, chợt con ngựa Bạch Long hí lên nhiều tiếng kinh hoàng, liền sai Phàn Khoái đi lục soát. Quả nhiên, Phàn Khoái bắt được một thích khách ngồi ẩn dưới gốc cây vào khoảng 30 tuổi đã giương cung đặt tên sẵn, liền đem nộp cho Hán đế.
Hán đế vặn hỏi:

– Nhà người tên họ là gì? Tại sao lại ẩn nấp ở đây lúc ta đi ngang qua. Có phải ngươi muốn hành thích ta không?

Người kia trầm ngâm nói:

– Tôi là người sinh trưởng ở đất Hoài Âm, được mang ơn lớn của Lỗ Vương Hàn Tín. Nhân nghe bệ hạ vô cớ bắt ân nhân của tôi nên tôi tới đây để giải thoát cho ngài. Còn họ tên tôi, đại vương có biết cũng chỉ vô ích mà thôi. Xin cho tôi được chết.

Hán đế quát:

– Không phải nhà ngươi muốn giải thoát cho Hàn Tín đâu. Chính là nhà ngươi muốn ám hại ta!

Nói đoạn Hán đế (Cao tổ Lưu Bang) truyền lệnh đánh chết người đó. Hàn Tín ngồi trong tù xa kín mít, nên không nhìn rõ mặt người thích khách. Nhưng chắc ông ngậm ngùi nhớ đến gã hàng thịt ở chợ Hoài Âm thuở trước. Cuộc đời thật là một bài học lớn, cho ông và đối với mọi người. Mặc dầu sự nghiệp của ông không còn cứu vãn được nữa, nhưng ông chắc không thể nào quên được kỷ niệm từ buổi hàn vi tới lúc bị bắt. Tức nếu ông câu nệ, cố chấp từ buổi hàn vi, hoặc lúc thành công rồi còn câu nệ, cố chấp nghĩ đến chuyện đền ơn trả oán như Thúy Kiều khi dựa vào oai danh Từ Hải làm sao ông có thể thu phục được gã bán thịt ở chợ Hoài Âm năm xưa, và để mọi người xung quanh phù tá ông hết lòng cảm ơn mến đức?

Vì vậy, cuộc sống ở ngoài xã hội nhiều khi chỉ thoáng qua, nhưng người có đức độ, có những cử chỉ bao dung, bao giờ cũng được những người khác nhớ mãi, vì sự sinh hoạt ở những nơi công cộng bao gồm đủ mọi hạng người, trong đó có những người có trí óc thông minh bén nhậy, nhớ lâu mà ta không thể ngờ tới. Những người đó là những người có thể quan sát đức độ của ta một cách vô tư, kín đáo đánh giá trị của ta mà ta không biết. Vì vậy, chúng ta phải tuyệt đối tránh những ý nghĩ đơn bạc, cho rằng sự sinh hoạt ở ngoài xã hội cho phép ta có quyền tự tung tự tác với những người sơ giao hay xa lạ.

Trong một bữa tiệc mệnh danh là “Thái Bình yến” trên Tiệm đài, sau 6 năm chinh chiến và nội loạn, Sở Trang Vương hạ lệnh đãi tiệc tất cả các quan văn võ trong triều. Nhân cao hứng, Sở Trang Vương sai một người ái cơ là Hứa Cơ đi chuốc rượu khắp các quan triều thần. Chợt một trận gió lớn nổi lên làm tắt hết nến trong tiệc. Trong lúc nội thị chưa kịp châm lửa, trong hàng ghế đại phu có một viên quan nhân say và cảm thấy vì Hứa Cơ đẹp, liền thò tay nắm lấy vạt áo. Hứa Cơ phản ứng ngay: tay trái giằng vạt áo, tay mặc nấm lấy giải mũ của người nọ dứt đứt. Giải mũ đứt khiến người nọ phát hoảng, vội buông tay ra. Hứa Cơ dứt được giải mũ, rón rén trước mặt Sở Trang Vương mách chuyện, và yêu cầu trừng phạt. Nhưng Sở Trang Vương chỉ cười, hạ lệnh cho nội thị khoan hãy châm nến, rồi bảo các quan:

– Ngày nay ta bày tiệc, chỉ mong cùng các ngươi mua vui, các ngươi còn chờ gì không dứt bỏ giải mũ đi, rồi cùng ta uống rượu cho thật say. Người nào chưa dứt giải mũ, là chưa hết lòng vui với ta!

Các quan triều thần đều dứt đứt hết giải mũ. Nên lúc nến thắp sáng rồi ai cũng đứt giải mũ cả nên không thể phân biệt được người đã nắm vạt áo Hứa Cơ.

Rồi chính Sở Trang Vương, ông cũng quên đi bữa tiệc Thái Bình Yến. Tới lúc xảy ra chiến tranh với nước Trịnh, có viên phó tướng xin dẫn 100 quân tiền bộ đi mở đường, vùn vụt tiến sang địa giới nước Trịnh, quân Trịnh không tài nào địch nổi. Sở Trang Vương hỏi ra, mới hay viên tướng đó là Đường Giao, liền triệu đến toan thăng thưởng. Đường Giao từ chối không nhận mà thưa.

– Tôi chịu ơn lớn của đại vương, ngày nay mới có một chút báo đáp, dám đâu nghĩ tới việc lãnh thưởng.

Sở Trang Vương ngạc nhiên hỏi lại, Đường Giao mới đáp:

– Trong tiệc Thái Bình Yến, người nắm vạt áo Hứa Cơ bị dứt đứt giải mũ chính là hạ thần! Nhờ đại vương tha cho không giết, nên hạ thần phải cố sức báo đền ơn đó!

Sở Trang Vương sở dĩ có được viên tướng lỗi lạc trung thành với mình, là nhờ đức độ của ông, biết bao dung người một cách thành thật, tự nhiên, trong những dịp đối đãi ở ngoài xã hội. Vì vậy, triều đại của ông rất cường thịnh, các quan văn võ đều nức lòng phò tá.

Có nhiều trường hợp hoạt động ngoài xã hội đem lại những kết quả thần diệu như có một phép lạ. Bà Evangeline Booth, người cầm đầu đạo binh Cứu Khổ đã thắng một trận vô cùng oanh liệt trong đời bà tại một vùng đầy rẫy trộm cướp là vùng Skaway tại Alaska, ngay từ hôm bà mới tới, đã có 5 người bị giết. Vùng này gần như hoàn toàn đặt dưới quyền cai trị của một tên tướng cướp có tên là Smith “Hiền”.

Đêm truyền đạo đầu tiên đạo binh cứu Khổ của bà đã quy tụ được 25.000 người trong một đêm tuyết rơi lạnh cóng. Mọi người cùng hát những bài thánh ca quen thuộc. Giữa lúc đó Smith “Hiền” xuất hiện. Gã ân cần ngã mũ chào bà và bảo:

– Tôi đã sai người mang lại cho cô chiếc mền trắng lúc cô hát. Nếu cô muốn giữ nó, cô cứ giữ.

Bà Booth hỏi Smith “Hiền” về vấn đề an ninh địa phương. Hắn cười mà đáp:

– Tôi còn ở đây thì cô khỏi lo. Tôi sẽ che chở cho cô…

Cả hai cùng hát, cùng ngồi xuống bên nhau cầu nguyện, và cùng khóc. Smith “Hiền” hứa với bà là sẽ không giết người nữa và sẽ ra đầu thú, trong lúc bà hứa sẽ tận lực xin chánh phủ giảm tội cho hắn.

Thành công của bà Evangeline Booth trong những hoạt động xã hội, là nhờ ở đâu? Bà giống với Hàn Tín và Sở Trang Vương ở chỗ: cùng có một nghị lực quả cảm và một trái tim bao dung. Nhưng khác với Hàn Tín và Sở Trang Vương ở chỗ: bà không có thế để tự chứng tỏ tài đức của mình với mọi người. Bà Evangeline Booth khác hơn, chẳng những không có thế gì để bắt mọi người cảm phục, mà còn phải hoạt động tại một vùng xa lạ mà nạn đói, chết rét và trộm cướp luôn luôn đe dọa mọi người. Ngoài nghị lực quả cảm và trái tim bao dung trong tâm hồn, thái độ sống của bà là ôn tồn, cởi mở, niềm nở, khiêm nhượng. Bà không phải là con người võ sĩ đạo, nhưng nếp sống hiệp nghĩa của bà rất thích hợp với nếp sống Việt Võ Đạo của chúng ta.

Chúng ta cần ghi nhớ: Về tâm hồn cần phải có một nghị lực quả cảm và một trái tim bao dung. Về thái độ, cần phải ôn tồn, cởi mở, niềm nở, khiêm nhượng. Bí quyết thành công khi hoạt động ngoài xã hội, nghĩ lại cho cùng, cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.

    Ông cha nêu sáng gương Nhân Nghĩa

                                 Con cháu noi theo nếp lễ nhường

Chương 20: Sứ vụ và bản lãnh của người Huấn Luyện Viên Vovinam Việt Võ Đạo

I-SỨ VỤ CỦA NGƯỜI HUẤN LUYỆN VIÊN VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO
Một hệ thống tổ chức muốn phát triển cả về lượng và phẩm, bao giờ cũng phải phối trí hành động cả 3 cơ cấu :
(1) Cơ cấu lãnh đạo: thượng tầng kiến trúc.
(2) Cơ cấu chấp hành, tổ chức và điều hành toàn thể: trung tầng hành kiểm.
(3) Cơ cấu điều hành địa phương: hạ tầng cơ bản.
Trong ba cơ cấu trên, cơ cấu một có tính chất thâu hẹp và cô động; cơ cấu thứ hai tuy rộng, nhưng lưu động; chỉ có cơ cấu thứ ba mang tính chất địa phương và cố định hơn cả. Quần chúng, võ sinh và môn sinh thường ít tiếp xúc với hai cơ cấu 1 và 2 nên sự khen chê hâm mộ thường mang nhiều tính chủ quan và ngưỡng vọng. Nhưng với cơ cấu 3, cơ cấu điều hành địa phương, tức hạ tầng cơ bản của môn phái thì trái lại: họ được tiếp xúc thường xuyên với các huấn luyện viên cũng như tìm hiểu đời tư các vị này, nên dễ cảm nhận và bình phẩm hơn.
Huấn luyên viên tài giỏi, đức độ, họ sẽ có ấn tượng tốt là môn phái toàn những người tài giỏi, đức độ. Huấn luyện viên kém cỏi, thiếu đức độ, họ sẽ ấn tượng xấu là môn phái toàn những người kém cỏi, thiếu đức độ. Do đó, người huấn luyện viên của môn phái khi hành võ, không phải anh ta chỉ hành nghề với danh dự, tài năng và đức độ cá nhân, mà còn mang theo cả danh dự, tài năng và đức độ của môn phái. Khi thi hành công tác, huấn luyện viên, một mặt, anh ta phải ý thức được đầy đủ sứ vụ của môn phái giao phó để tránh những lầm lỗi đáng tiếc khi hành xử; mặt khác, anh ta phải hiểu rằng mình không phải là một cá nhân hành võ theo sở thích cá nhân, mà là một nhân vật của môn phái hành võ theo đường hướng hoạt động của môn phái.
Sứ vụ của môn phái giao cho người huấn luyện viên mặc nhiên có 3 phần vụ :
1- Huấn luyện võ thuật.
2- Giảng thuyết, huấn luyện tinh thần võ đạo.
3- Phát huy Việt Võ Đạo bằng sống đời sống của mình (cả đời công và đời tư).

II-BẢN LÃNH CỦA NGƯỜI HUẦN LUYỆN VIÊN VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO
Vì phải đảm trách một sứ vụ nặng nề về cả tinh thần, kỹ thuật và đạo đức (nghiệp vụ huấn luyện) trong lúc tuổi còn trẻ, nên người huấn luyện viên phải tự trau dồi cho mình một bản lãnh thích ứng với sứ vụ đã được giao phó.
Bản lãnh của người huấn luyện viên Việt Võ Đạo có thể đúc kết lại thành 3 thành điểm :
A- BỎ HẾT MẶC CẢM, THÀNH KIẾN
Vào công tác huấn luyện, người huấn luyện viên phải rũ bỏ hết mọi mặc cảm, thành kiến trong lòng mình. Có 2 mặc cảm, thành kiến chính cần phải rũ bỏ:
1- Tự tôn mặc cảm: kiêu ngạo, tự đắc là mình giỏi quá, hay quá, coi rẻ võ sinh.
2- Tự ty mặc cảm: e ngại, ngượng nghịu trước những võ sinh lớn tuổi hơn,, có kiến thức văn hóa cao hơn hay có địa vị xã hội khá hơn.
B- PHẢI TỰ TIN
Người huấn luyện viên trong một võ đường chính là người chỉ huy một đơn vị, mà các đơn vị viên chính là các võ sinh dưới quyền huấn luyện của mình. Hoặc nói cách khác, họ tới để học võ, và huấn luyện viên để dạy. Họ đặt trọn niềm tin nơi huấn luyện viên, tuy đôi khi vì tự ty mặc cảm, họ có những biểu lộ tự tôn tình cảm không đúng chỗ, với những lý do hết sức bâng quơ: vì thấy huấn luyện viên còn trẻ hơn mình mà đã dạy mình v.v… Do đó, người huấn luyện viên trong mọi trường hợp, phải tự tin ở khả năng võ thuật, võ đạo và kiến thức của mình để hướng dẫn người về cả 3 phương diện võ thuật, võ đạo và kiến thức.
1- Về võ thuật: Ngoại trừ những người chưa hề học võ (thành phần này thường là đại đa số), rất có thể trong các võ sinh, có những người đã theo học lâu năm những môn võ khác, như : Võ Tàu, Nhu Đạo, Quyền Anh v.v…Họ đến với ta, là có thiện chí theo học Việt Võ Đạo của ta, mà về Việt Võ Đạo thì hiển nhiên là ta hơn họ rất nhiều (các huấn luyện viên thường theo học Việt Võ Đạo đã 4, 5 năm, còn họ mới bắt đầu). Ta có dạy họ tiếp các môn Võ Tàu, Nhu Đạo, Quyền Anh đâu mà e ngại? Họ có tâm phục môn phái ta mới theo học. Nếu tự tin vững, ta sẽ thừa khả năng huấn luyện họ, dù trong trường hợp họ đã học các môn võ khác lâu hơn ta.
2- Về võ đạo: Ngoại trừ những võ sinh thế tục, người theo học Việt Võ Đạo có thể các vị linh mục, mục sư, đại đức v.v…Ngoài đời là những vị hiểu nhiều về giáo lý của tôn giáo họ, và có kiến thức sâu rộng về đạo đức học. Nhưng khi theo học Việt Võ Đạo, họ đâu có kiến thức gì về tinh thần võ đạo và tinh thần Việt Võ Đạo, nên làm sao có thể so sánh với kiến thức võ đạo của ta? Khi đã học kỹ các tài liệu giảng huấn của môn phái, chắc chắn các huấn luyện viên có thừa khả năng giảng cho họ về tinh thần võ đạo; cũng như họ có thừa khả năng thuyết giảng cho ta về giáo lý của tôn giáo họ. Ta đâu có giảng về giáo lý của họ đâu mà e ngại?
3- Về kiến thức : Võ sinh của ta có thể là các vị tri thức thời danh thuộc đủ mọi ngành: luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư v.v… Về kiến thức tổng quát và kiến thức chuyên môn của họ, có thể họ hơn ta, nhưng khi họ học Việt Võ Đạo, chắc chắn là họ thua kém ta về kiến thức Việt Võ Đạo, là một ngành học hoàn toàn xa lạ đối với họ. Đừng thấy bằng cấp của võ sinh quá lớn mà e ngại. Họ đến với ta là để học những cái giỏi của ta, chớ đâu phải đến để khoe kiến thức tổng quát và kiến thức chuyên môn của họ. Lý do họ đến với ta chính là nhu cầu học hỏi để tiến bộ, về võ thuật và võ đạo, những bộ môn mà họ thua kém ta xa và công nhận ta là bậc thầy của họ về phương diện này, có gì phải e ngại đâu?
C- YÊU VÀ TRỌNG NGƯỜI
Huấn luyện viên của môn phái là bật thầy đầu tiên đến với các võ sinh, có nhiệm vụ giảng dạy cho võ sinh về những căn bản võ học khi bước chân vào ngôi nhà Việt Võ Đạo. Họ là người, nhưng chưa phải là những con người toàn diện, vì họ có những yếu kém phải học để trau dồi thêm. Họ yêu môn phái ta mà đến, ta cũng vì yêu môn phái ta mà dạy họ. Học phí chỉ là sự đóng góp tượng trưng để cung ứng cho dịch vụ, chớ không phải tất cả. Ta huấn luyện họ để cải biến tâm thân họ trở thành con người đa năng đa hiệu, có khả năng giúp ích và hiến ích nhiều hơn, đó mới là quan hệ đặc biệt và lâu dài giữa ta với họ, trong đại gia đình Việt Võ Đạo. Đương nhiên, họ sẽ trở thành đồng đạo của ta, mà đã là đồng đạo thì phải yêu thương và kính trọng lẫn nhau.
Quan hệ tình cảm được trao đổi tương xứng, sẽ tạo nên một bảng cân số (balance) thăng bằng về tinh thần và tình cảm. Lòng yêu thương tự nó không là gì cả nhưng sẽ là tất cả.
Đừng kinh thường những môn sinh nhỏ tuổi. 10 năm trước, một môn sinh ấu niên còn học ở trình độ tiểu học, và trung học, nhưng 10 năm sau, đã ở trình độ trung học và đại học. 5 năm sau nữa ở trình độ cao học và tiến sĩ. 25 năm rất ngắn, với tuổi người.
Yêu người nhưng không ỷ lại vào tình cảm thái quá. Trọng người, phải tận tâm hướng dẫn người chớ không coi người là phương tiên tạo uy danh cho mình rồi để người muốn sao cũng được. Bậc thầy của Việt Võ Đạo chẳng có gì tự hào hơn một môn sinh, sau 20 năm – 25 năm tận tụy trong công việc đào luyện thế hệ kế tiếp, ngoại trừ khả năng và ý thức võ đạo được xây dựng trên căn bản đạo đức. Chu Văn An trả mũ áo lui về dạy học tại Cung Hoàng Học Hiệu, các môn sinh của ông như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát tuy làm đến thượng thư (tổng trưởng ngày nay) khi về thăm thầy vẫn cung kính mài mực, rửa nghiêng và đứng hầu cung kính ! Đó là phần thưởng của bậc thầy – thầy phải ra thầy, trò mới ra trò.

Tóm lại, huấn luyện viên là bậc thầy khai tâm cho võ sinh về võ học. Võ học không giới hạn tuổi, không giới hạn trình độ, uy tín, địa vị xã hội, nên càng đòi hỏi chúng ta phải trau dồi bản lãnh nhiều hơn ở các ngành học khác. Mỗi người, đều có sở trường và sở đoản, muốn thành công ta phải biết nhận thức và phân biệt sở trường và sở đoản của mình.

Sở trường của người này có thể là sở đoản dưới con mắt người kia. Vị bác sĩ, vị luật sư rất tài giỏi về y học, luật học, vì đó là sở trường của họ. Nhưng khi họ đến với ta, sở trường kia dưới mắt ta chỉ còn là sở đoản mà thôi. Người dạy võ lấy sở trường là võ học, còn tất cả những thứ khác chỉ là sở đoản.

Ta phải biết khai thác sở trường của ta, không kiêu ngạo, tư tôn; nhưng cũng không e ngại, tự ty mà phải tự tin vào khả năng chuyên biệt về võ thuật và võ đạo của mình, về sứ mạng mà môn phái đã giao phó cho ta, về danh dự của dân tộc, với lòng yêu và trọng người là ta đã làm tròn sứ vụ của người Huấ Luyện Viên Vovinam Việt Võ Đạo.

Chương 21: Ý nghĩa cuộc sống

Nói đến ý nghĩa cuộc sống là nói đến một nhân sinh quan, mà đã có một quan niệm sống tức là cuộc sống đã được định hướng. Cuộc sống có muôn màu ngàn vẻ, rất đa dạng, phong phú và tự nó đã là một thế giới kỳ ảo và phức tạp.

Anh có cuộc sống của anh và tôi cũng có cuộc sống riêng tư của tôi. Không ai có quyền xâm phạm và bắt tôi phải theo cuộc sống của người khác. Đó chính là tự do về tư tưởng.

Tuy nhiên, không phải vì vậy mà ta không thể hoạch định cho cuộc sống có một ý nghĩa tương đối chân chính. Một tư tưởng gia đã nói: “Con người là con vật biết tư duy”. Bởi vậy, bên cái riêng tư, con người phải biết tưduy đến cái chung đại thể mà hòa hợp, mới vượt qua được đời sống của một con vật.

Cũng vậy, màu sắc phải do bàn tay biết pha trộn của bốn màu trắng, xanh, vàng , đỏ, mới trở nên muôn màu sinh hoạt khác nhau. Mỗi nghệ nhân tùy tài trí sở thích mà lựa chọn để sử dụng. Song các nghệ nhân bậc thầy bao giờ cũng đồng cảm với nhau trước một tác phẩm(cũng có thể gọi là quy ước) trong đó màu sắc phải hài hòa, gợi cảm và mang tính thuyết phục tùy theo cách diễn tả.

Con người cũng vậy, được phân ra nhiều kiếp sống, có kiếp sống của hạng hạ đẳng thì cũng có kiếp sống của bậc thượng đẳng vĩ nhân. Chúng ta có thể phân biệt được ba loại người điển hình:

  • Loại xu mị luồn cúi để mưu lợi riêng tư, bọn vô lại gian tham bốc lột đồng loại.
  • Loại người an phận thủ thường, không làm hại ai nhưng cũngkhông giúp ích được gì cho ai, với thái độ dửng dưng đứng giữa, tránh va chạm.
  • Sau cùng là những người sống cao thượng, hào hùng. Họ luôn nhìn vào đại thể, thấy rõ đích sống là phải sống chung với mọi người, nên sẵn sàng giúp ích hy sinh vì mọi người.

Vovinam Việt Võ Đạo là một môn phái võ đạo với đường lối chủ trương đào tạo những con người hoàn chỉnh toàn diện, có một nhân sinh quan đứng đắn rõ rệt. Nhân sinh quan đó bồi đấp và vạch rõ từng nét ứng xử trong đời sống cho người môn sinh, từ tư cách đối xử giữa cha con, anh em, chồng vợ, bè bạn cho tới cách ăn ở,v.v..

Ở đây chúng ta chỉ đề cập sơ qua về ba điểm: Hưởng Thụ, Cống hiến và Hành Vi nghĩa hiệp.

I-VỀ HƯỞNG THU.: Được phân ra làm hai phần, vật chất và tinh thần.

A-Hưởng thụ vật chất là nói tới những nhu cầu thiết yếu trong đời sống hàng ngày như ăn, mặc và ở.

  • Phải ăn ra sao? Vào thời điểm nào? Trong tình huống nào cho ngon và đẹp mắt để được mọi người nể trọng. Ăn là một nhu cầu bắt buộc phải có để sống, nhưng các cụ ta xưa đã quan niệm: Ăn để sống chứ không phải sống để mà ăn. Vì bản năng sinh tồn, con người lúc đói nhiều khi ăn chẳng gì dã thú, phải xoay sở đủ cách để cho dạ dầy thỏa mãn. Nhưng hơn con vật ở chỗ con người biết tư duy tính toán nên biết tích lũy của dư thừa để điều tiết về nhu cầu ăn; do đó, con người mới chăn nuôi gia cầm, thu lượm trái hạt để dành phòng ngừa khi thời tiết bất lợi. Con người phải lao động để có ăn. Và do có khả năng, có sức lao động và khội óc tư duy, con người đã tạo cho mình của cải dư thừa để hưởng thụ. Hưởng thụ càng cao, càng khuyến khích con người phát huy năng lực. Đó là điều hợp lý. Thế nhưng, nếu biết điều tiết trong vấn đề ăn, không những có lợi cho sức khoẻ mà còn được nâng cao phẩm gía của mình. Xã hội ưu đãi với những người có tài và hăng say lao động được hưởng thụ những của cải do mình làm ra là một điều công bình. Song tự bản thân những người này nên đặt mình trước một suy tư về đạo đức và tình thương trong tinh htần liên đới của cộng đồng con người. Của cải dư thừa do mình làm ra có nên phung phí một cách thái qúa trong lúc chung quanh nhiều người đói khổ, không đủ ăn? Giữa hai thái cực: kẻ ăn không hết, người lần không ra, có gì đáng để ta quan tâm điều chỉnh không? Chia sẽ đó là điều cao đẹp cần thiết của người khôn ngoan trong việc sử dụng của dư thừa.êên
  • Phải mặc thế nào cho xứng hợp với cốt cách gia phong, đẹp ở toàn diện chứ không phải ở lụa là gắm vóc? Vấn đề mặc được con người nghĩ ra từ đầu và để làm gì? Kể từ thời tiền sử, con người còn ăn lông ở lỗ, vấn đề mặc chưa được coi là quan trọng. Dần dà do trí óc nẩy nở, con người tìm đủ mọi cách chế ngự thiên nhiên, làm cho đời sống con người đỡ cơ cực. Đến giai đoạn gấm vóc ra đời, vấn đề mặc đã trở thành một nghệ thuật làm đẹp cuộc đời. Từ diễn tiến đó, những người cóý hức mỹ thuật hiểu được rằng, mặc phải mang đầy đủ hai tiêu chuẩn: a-Che thân thể cho kín đáo để tránh cái nhìn soi mói của người khác. b-Theo nhu cầu thẩm mỹ của thời đại. Đó chính là mức cao độ của tư tưởng con người. Thế nhưng biết thế nào là mặc đẹp? Điều này đòi hỏi kiến thức thẩm mỹ. Vấn đề đặt ra hết sức phức tạp đòi hỏi trình độ kiến thức chuyên môn về nhiều nghành: Xã hội, hộ họa, mỹ học,… Thế nhưng bất kỳ một vấn đề phức tạp nào cũng có sự giới hạn gom vào một mẫu số chung để mọi người có thể lấy đó làm chuẩn tắc. Ở đây vấn đề nhu cầu thẩm mỹ có thể dựa vào hai tiêu chuẩn: Thể tạng cá nhân và bản sắc địa phương.

a- Thể tạng cá nhân: Chúng ta đều biết, có người gầy mà cao, người lùn mà mập; có người đen người trắng. Cho nên, không thể nhìn thấy một người nào mặc một bộ quần áo đẹp mà lại tự cho mình mặc bộ đồ kiểu đó cũng đẹp. Cái đẹp đầu tiên của bộ quần áo là xứng hợp vớithân hình và phong thái với địa vị xã hội, sau đó là cắt may cho vừa vặn, hài hòa, màu sắc thích hợp. Một người gìa mà mặc áo sống loè loẹt, kiểu cọ, lăng nhăng sẽ mang tiến là gìa chơi trống bỏi. Những nghệ sĩ trên sân khấu mặc quần áo sặc sỡ, lố lăng, rất đẹp với vai trò khiến khán gỉa trầm trồ tán thưởng, nhưng đâu có thể mặc những bộ đó đi ngoài đường phố được. Nếu thế chỉ là kệch cỡm điên khùng.

b-Về bản sắc địa phương, hay còn gọi là quốc phục. Tức là những kiểu quần áo mà từ lâu đời chúng ta đã mặc. Các kiểu mẫu này ngoài vấn đề quen mắt, nó còn mang một ý nghĩa tự trọng, nhất là vào những ngày lễ tết, để nói lên tinh thần yêu nước thương nòi, trân quý những gì của tổ tiên để lại. Đồng thời chứng tỏ chúng ta không mất gốc, không một sức mạnh nào có thể xóa nhòa được nền văn hóa lâu đời của giòng giống Tiên Long. Đó là tự trọng, niềm kiêu hãnh của dân tộc, chúng ta phải gìn giữ, thiên hạ mới tôn trọng chúng ta. Nói như vậy, không có nghĩa là bảo thủ, là dân tộc qúa khích. Trải qua thời gian, nhất là những năm gần đây, quốc phục Việt Nam, và của cả thế giới đã được thay đổi rất nhiều. Có thể nói các kiểu mẫu đang thay đổi liên tục hàng ngày. Trong một khía cạnh nào đó, chúng ta thích thú và ca tụng sự tân tiến của các kiểu mẫu trang phục. Thế nhưng, chúng ta phải biết duy trì “cái hồn” truyền thống dân tộc để cải cách sao cho phù hợp với vị thế, với tinh thần Việt Nam, có những nét đặc biệt không lẫn được với dân tộc khác.oê

  • Về ở: Con người cũng chỉ phát huy sau khi trí óc nẩy nở, tư tưởng chiếm hữu và ý thức thẩm mỹ hình thành. Cái nhà, nhu cầu về ở thay thế cho hang động, ngoài việc che mưa nắng, ngăn gío bão và thú dữ, nhà còn là nơi cất giữ của cải. Cao hơn, là nhu cầu thẩm mỹ. Các tác phẩm về nhà từ nhiều ngàn năm trước còn ghi lại những nét rất đặc sắc với vẻ đẹp bất hủ, độc đáo của nền văn minh nhân loại, khiến con người ngày nay trầm trồ, chiêm ngưỡng, hãnh diện. Thế nhưng, có một ai đứng trước một tòa lâu đài của các vua chúa dựng từ thời Trung Cổ lại không ngậm ngùi nghĩ tới vài câu cầu nguyện cho các oan hồn đã cống hiến cả tài lực lẫn máu xương cho các công trình kiến trúc đồ sộ kia? Nhà ở, ngoài vấn đề mỹ thuật và tiện nghi còn là một tổ ấm, trong đó có cha mẹ, con cái (đôi khi cả ông bà và cụ kị) chung sống và đùm bộc, phụng dưỡng với nhau với tên gọi là gia đình. Theo chế độ phu hệ, người chỉ huy cao nhất gia đình là cha, nếu không còn ông bà hoặcông bà quá già. Người chủ gia đình phải là một nhạc trưởng biết sắp xếp, chỉ huy cho dàn nhạc đạt đến trình độ tuyệt vời của nghệ thuật. Dĩ nhiên dàn nhạc cũng đòi hỏi phải có những nhạc công tài ba và các nhạc cụ tốt, hoàn hảo, v.v.. Quan sát một căn nhà với cách bày biện, trang trí, người ta đã hiểu và đánh gía được phần nào tinh thần, tư cách và quan niệm sống của gia chủ. Do đó, dù nhu cầu tiện nghi là cần thiết, căn nhà Việt Nam phải luôn luôn giữ được nề nếp, lễ giáo, thờ cúng tổ tiên phải duy trì, đặt vào ngôi vị quan trọng nhất của một ngôi nhà, đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
  1. Hưởng thụ tinh thần: Khác với hưởng thụ vật chất là có thể dùng ngũ quan thưởng thức trực tiếp, còn hưởng thụ tinh thần chỉ có thể cảm nhận được tôi. Vì vậy, cho và nhận về tinh thần chỉ có tính cách tự cảm thông và cũng không thể cân đo, đong đếm để biết nhiều hay ít. Hưởng thụ vật chất dù tham luyến đến đâu cũng chỉ đạt được giới hạn nào đó. Trái lại, hưởng thụ tinh thần vì không cân lượng đượcnên nó sâu đậm vô cùng vô biên. Chúng ta chia ra làm hai loại hưởng thụ cho dễ phân tích:

1- Tự cảm thụ tức là biết hãnh diện về những điều mình hơn người: Một học sinh xếp hạng nhất sẽ cảm thấy hãnh diện, khoan khoái. Khi một công tác được hoàn thành tốt đẹp ai cũng cảm thấy thích thú, vui sướng. Tự cảm thụ thông thường là những cảm khoái sau khi mình làm xong việc của mình không nhờ vả người khác. Có trường hợp mình giúp ích cho người và biết rằng người vừa lòng vì việc làm của mình là tốt, là cao thượng chứ không phải vì lời khen ngợi, cám ơn của người. Tự cảm thụ làm nẩy sinh cho con người ý nghĩ và hành động vị tha, tinh thần đạo đức và tiến bộ. Tuy nhiên, đối với một số người thiếu suy xét, sự cảm thụ tinh thần đôilúc trở thành tự mãn, tự đắc, đánh gía trị mình vượt qúa gía trị thực có. Từ đó đáng lẽ tốt lại trở thành xấu, làm giảm gía trị của mình. Cái đáng lẽ khích lệ người cầu tiến lại trở thành ngủ quên trên chiến thắng và dễ đi đến chỗ cao ngạo, nghênh ngang.

2- Hưởng thụ do người khác mang đến: Đó là những lời ban khen tán thưởng, sự kính trọng của người mang đến cho mình. Ai chẳng thích được khen ngợi khi nó chân thành xuất phát từ con tim và không hẳn đã ghét bỏ khi nó đạt đến nghệ thuật đầu môi chót lưỡi. Nhưng người từng trải, hiểu biết không vì lời chê mà khó chịu bực dọc, lời khen mà vồn vập mến yêu. Phải bình tĩnh, sáng suốt trước lời khen chê. Kiểm điểm bản thân xem lời khen chê đúng ở điểm nào? Sai ở điểm nào? Chê đúng phải quyết tâm khắc phục, khen đúng thì cố giữ vững tiếng khen và làm tốt hơn nữa. Không ai bác bỏ được luận điểm:

– Đạo đức và tri thức là việc làm khó, nhưng hai thứ này càng cho lại càng giàu.

-Tiền bạc và địa vị vẫn dễ kiếm (đàn ông quan tắt thì chầy, đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan) nhưng xài dần thì vẫn hết.

Ngoài ra, mọi người đều công nhận rằng những người sống vì người khác, vì tập thể lúc nào cũng ung dung tự tại và dù đã lìa đời vẫn được coi như bất tử. Những kẻ ích kỷ chỉ biết có mình thì đời sống nghèo nàn, chết ngay từ khi đang sống. Giờ đây chúng ta còn nhắc nhở tới Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tuệ Tĩnh, Hưng Đạo, Quang Trung hay Pasteur, Marie Curie…. là những bằng chứnghùng hồn.

Cho nên dù là tự cảm thụ hay hưởng thụ do người mang đến làm cho tinh thần thư thới hân hoan và là đỉnh cao hạnh phúc của con người. Dùvậy, chúng ta cũng đừng quên rằng lời khen chân thành là một khích lệ tiến tới, còn khen với dụng ý xu nị nị bợ chỉ là một thứ hư ngôn xảo quyệt đẩy người xuống hố diệt vong. Con nhái nghe tán dương muốn to bằng con bò thì chỉ là tự hủy.

Do đó, hưởng thụ tinh thần, đúng nghĩa đích thực là phải nhìn về toàn diện, luôn luôn vui với cuộc sống, hăng say tiến bước, chủ động trong công việc, đối đãi với mọi người bằng thủy chung, tín nghĩa, gia đình hòa thuận, bạn bè tin yêu, xã hội tôn trọng.

II- VỀ CỐNG HIẾN

Cũng được phân ra làm hai mặt: Nhận và cho. Tức là nhận sự cống hiến của xã hội và đền đáp lại ơn nghĩa của xã hội, tức hiến ích cho đời.

  • Nhận sự cống hiến của xã hội: Có thể nói, mỗi người trong chúng ta đều đã nhận quá nhiều sự cống hiến của xã hội. Từ việc ăn, mặc, ở, các cung ứng về văn minh tiến bộ của khoa học tới đời sống tinh thần… Không riêng chỉở xã hội đương thời mà của cả loài người từ xa xưa để lại. Cho nên cái hiểu biết và thực hiện của chúng ta cho xã hội so với khối lượng đã nhận được chỉ là hạt cát đối với sa mạc bao la. Huống chi là chức danh này nọ, cho dù nguyên thủ quốc gia, sự đóng góp đền đáp, trả nợ cho xã hội cũng chỉ được coi là một phần quá bé nhỏ. Do vậy, nhận sự cống hiến của xã hội là nợ đời, có nợ là đương nhiên có nghĩa vụ phải trả nợ. Đó là:
  • Mình hiến ích cho đời: Ý thức liên đới giữa người với người. Chúng t a chỉ là một phần tử trong vô vàn những phần tử khác của mắt xích, nối liền thế hệ trước với thế hệ sau. Nếu mắt xích là một khối kim loại tốt, đồng chất, thì đó là một mắt xíchtốt, bền vững, đủ đảm bảo cho sự liên tục trong toàn bộ khối mắt xích. Ngược lại, nếu có nhiều phần tử xấu, mắt xích sẽ không bền vững đưa đến tình trạng hư hỏng gián đoạn. Đólà sự diệt vong của mộtcộng đồng dân tộc trong đại cộng đồng con người.Cho nên cống hiến cho đời được coi là một bổn phận. Mộtê    danh dự mà mỗi người phải hoàn tất để trước khi nhắm mắt xuôi tay, trao trả cho cuộc đời thế hệ sau đúng với quan điểm: “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”. Lúc đó là lúc con người được thảnh thơi, là tấm gương tốt, một điển hình đáng hãnh diện cho con cháu mai sau. Nền tảng cống hiến cho đời phải đặt trên:

– Lập đức: làm khuôn mẫu về phép tắc, lễ nghi, cung cách cư xử đối với mọi người.

– Lập công: cứu trợ, giúp đỡ ngườivượt thoát khó khăn, nguy biến, làm nên chiến tích vẻ vang cho nhân quần xã hội.

– Lập Ngôn: hướng dẫn người bằng lời nói hay bài viết về đạo lý làm người.

Tóm lại, là con người phải chu toàn trách vụ của mình một cách siêng năng cần mẫn, phải sống thật và làm hết sức mình, gây dựng sự nghiệp chung, để lại công ích muôn đời.

III. VỀ HÀNH VI NGHĨA HIỆP

Có thể nói hành vi nghĩa hiệp là đạo lý ngàn đời của các môn phái từÁ sang Âu. Đương nhiên, nó phải được biến đổi hình thức theo thời gian, không thể khư khư ôm mộng “Cứu khốn phò nguy, diệt trừ tham bạo” như thời xưa nữa.

Tinh thần hành hiệp của môn sinh Voovinam mãi mãi tồn tại với đạo lý của con nhà võ, nhưng phương thức hành xử phải tùy thời mà linh động cho thích hợp. Chúng ta học võ rèn luyện thân thể cường tráng cho dẻo dai, có nghị lực và tâm hồn quả cảm, không chùn bước trước khó khăn, biết yêu điề thiện, việc tốt và ghét cái xấu, cái tàn bạo, độc ác.

Làm sao chúng ta có thể bưng tai bịt mắt trước bất công áp bức của đời? làm sao có thể làm ngơ trước những tộiphạm và oan khuất đang úp chụp lên con người?

Hành vi nghĩa hiệp của con nhà võ chúng ta ngày nay phải thể hiện từ mình đến người. Trước hết, tâm chúng ta phải trong trắng, trừ tận gốc những tham tàn bạo ngược, trực diện tranh đấu hợp pháp để công lý được thực hiện. Chúng ta yêu nước, yêu đồng đạo, chúng ta phải khuyến khích mọi người cùng góp tay chung sức làm việc cho quốc thái dân an. Chúng ta yêu tập thể, yêu đồng môn, chúng ta phải có thái độ rõ rệt trước cái phải và cái trái, trước cái đúng và cái sai. Thái độ hào hùng và đúng lúc sẽ khuyến khích cho người làm việc tốt phấn khởi ra sức làm việc tốt hơn nữa, và răn đe kẻ xấu phải lùi lại không cho việc xấu phát triển.

Bất động trước những sai trái thì có nghĩa là thông đồng và hèn nhát, đều không xứng danh môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo. Điều quan trọng là phải có bản lĩnh trong việc đương đầu với kẻ ác, phải quyết thắng và tồn tại. Hoặc thuyết phục sao cho kẻ phạm lỗi, phải sửa đổi lỗi lầm mà còn nể phục và cảm ơn mình. Đấy chính là công phu hàm dưỡng về tinh thần võ đạo và tài năng bẫm sinh của mỗi con người.

Đời sống ngắn ngủi, nhưng sự đắc ý có là bao? Cứu người khi gấp, giúp người khi nguy, người lâm đau khổ ta đến giải trừ, người gặp cường bạo ta vào bênh vực, như thế là nghĩa hiệp, không là niềm vui đắc ý sao?

Lấy đấy mà suy, phàm làm người trong xã hội biết thiệt mình hơn người, biết thành tâm thủ nghĩa với quốc gia, dân tộc, như thế há không phải vì quan niệm nghĩa hiệp được mở rộng hay sao?

Nghĩa hiệp bởi sự bất bình mà sinh ra, nếu đời sống tốt đẹp, pháp luật nghiêm minh, gia đình trật tự, tổ chức quy củ, quốc thống kỷ cương, bất bình chấm dứt thì hành vi nghĩa hiệp, sẽ không có cơ hội biểu hiện. Và như vậy “Hành vi nghĩa hiệp” bao giờ cũng cần thiết làm tôn quý cao cả đời sống con người trong xã hội nhân quần.

Chương 22: Tài sản tinh thần

Hiện nay, một số trường đại học của Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đưa vào nghiên cứu khái niệm về Tài Sản Vô Hình (invisible assets). Lúc đầu chỉ sử dụng trong doanh nghiệp nhưng về sau nó được chú ý cả trong các lĩnh vực khác, kể cả trong chính trường. Tài Sản Vô Hình là một khái niệm khá mới về thuật ngữ, nhưng không mới về nội dung; bởi vì thực chất đó là Uy Tín, là Niềm Tin, là sự ngưỡng mộ đối với một con người hay một sản phẩm đã được đề cập và phân tích từ lâu đời ở Đông phương nói chung, Việt Nam nói riêng.

Nhận thấy trong giai đoạn chấn chỉnh nội bộ hiện tại, hàng ngũ môn đồ thuần thành chúng ta cần làm sống lại Di Sản Tinh Thần của Tổ tiên để lại trong tim óc, ngõ hầu thực hiện tràn đầy trách vụ đã được giao phó.

Sự nghiệp muôn đời của môn phái Vovinam Việt Võ Đạo do Sáng Tổ Nguyễn Lộc để lại phải được bảo tồn bằng tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam qua bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và mở nước. Tài sản tinh thần đó vô cùng quý giá, không tài sản vật chất nào (như tiền của, vật tư, nhà cửa, thiết bị…) có thể so sánh được. Giá trị của nó vượt không gian và thời gian, nằm trong trái tim và khối óc của lớp người kế tục, không trao đổi mua bán được. Nó là lợi thế trong cạnh tranh thị trường, là vũ khí trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, là bí quyết của mọi thành công. Muốn có nó không thể bỏ tiền ra mua được, mà phải nỗ lực phấn đấu, kiên trì trong một thời gian dài mới tích lũy được.

Như chúng ta đều biết, đã là con người ai ai cũng coi trọng uy tín vì nó luôn gắn liền với nhân cách, với danh dự. Đặc biệt đối với nhân vật lãnh đạo, chỉ huy thì uy tín là cái cần thiết số một, là tiêu chuẩn tổng hợp về năng lực và phẩm chất. Là chìa khóa để đi vào trái tim và khối óc của con người, là cứu cánh để hoàn thành nhiệm vụ.

Đã lãnh đạo, chỉ huy thì phải có uy tín, không có uy tín thì không thể lãnh đạo, chỉ huy được. Bởi uy tín có một sức mạnh ám thị rất mãnh liệt. Khi một người lãnh đạo, chỉ huy có uy tín thì mọi mệnh lệnh, mọi ý kiến của ông ta đều được thuộc cấp tin tưởng, mang hết tinh thần và nghị lực, khả năng và sáng kiến để thực hiện cho bằng được với tinh thần tự giác, phấn khởi. Ngược lại, sẽ bị cấp dưới nghi ngờ, không toàn tâm toàn ý, thậm chí còn tìm cách đối phó, khước từ, gây rối.

Trong một tập thể mà người cầm đầu có uy tín thì sức mạnh của nó được nhân lên gấp nhiều lần so với sức mạnh của từng người cộng lại. Người lãnh đạo, chỉ huy trở thành trung tâm của tất cả những tình cảm tốt đẹp, bầu tâm lý xã hội của đơn vị luôn luôn nhẹ nhàng, vui vẻ, thoải mái.

Một người lãnh đạo chỉ huy thực sự có uy tín chính là niềm hạnh phúc cho mọi thành viên, đồng thời cũng là niềm hạnh phúc lớn lao cho bản thân người lãnh đạo, chỉ huy. Và cũng chẳng có nỗi bất hạnh nào thấm thía bằng nỗi bất hạnh của cả một tập thể khi người lãnh đạo, chỉ huy đã mất uy tín. Lúc đó, đương sự trở thành một cái cớ để phát triển những hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật; là chỗ dựa cho những tình cảm lệch lạc, là một thứ bung xung để mọi người xì xào bàn tán, chống đối. Tâm trạng tập thể trở nên nặng nề, nghi kỵ lẫn nhau.

Vậy Uy Tín là gì?

  • Uy là phần quyền lực do xã hội mặc nhiên thừa nhận hoặc do cơ chế quy định, hoặc được cấp trên bổ nhiệm vào một chức vụ nào đó.
  • Tín là sự tín nhiệm, là lòng tin, là ảnh hưởng đối với những người xung quanh được mọi người tôn trọng, quý mến. Do đó Uy Tín Chân chính và Đích thực chỉ có thể có khi nào Uy luôn luôn đi đôi với Tín. Nếu hai phần tương quan hợp lý, sẽ bổ xung cho nhau và nâng nhau lên, làm cho Uy càng thêm mạnh và Tín càng thêm bền. Nếu có Uy mà không Tín thì sớm muộn Uy cũng bị sụp đổ; nếu có Tín mà không Uy thì tác dụng của Tín cũng bị hạn chế.

Cuộc sống thực tế đã chứng tỏ rằng, quá trình xây dựng Uy Tín đòi hỏi sự tu dưỡng rất công phu lâu dài, nhưng để mất Uy Tín chỉ trong chốc lát. Bởi vậy, con người nói chung và có sứ vụ lãnh đạo, chỉ huy nói riêng phải thật quan tâm gìn giữ và bảo vệ uy tín của mình.

Muốn giữ gìn và bảo vệ uy tín một cách đứng đắn và có hiệu quả, chúng ta cần nắm vững một số đặc điểm sau đây:

1- Mỗi người chỉ có thể có uy tín trong một vài lĩnh vực nhất định. Nếu muốn tăng uy tín bằng cách lao vào những lĩnh vực khác mà bản thân chưa có kinh nghiệm, chính là đã đặt uy tín của mình trên bờ vực thẳm.

2- Khi có dấu hiệu uy tín bị giảm sút, cách phục hồi tốt nhất là kịp thời tìm ra nguyên nhân và nhanh chóng điều chỉnh. Kinh nghiệm cho thấy rằng khi người lãnh đạo, chỉ huy có khuyết điểm sai lầm nhưng biết sửa chữa một cách tự giác và chân thành thì thuộc cấp không những không oán ghét mà còn được thông cảm, quý mến, trân trọng.

3- Đối với người có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy, mọi sai lầm đều phải trả giá, sai lầm càng nặng thì cái giá phải trả càng cao. Khi trả giá, buộc phải sử dụng tất cả những năng lực còn ẩn giấu để vượt thử thách, đó chính là cơ chế tự điều chỉnh. Nếu sai lầm không trả giá thì con người không bao giờ thức tỉnh, sai lầm cứ lặp đi lặp lại sẽ trở thành mãn tính chai lỳ.

4- Những người thực sự không có uy tín mà vẫn được bố trí vào những chức vụ lãnh đạo, chỉ huy thì tất yếu phải cố gắng bằng các con đường không chính đáng để tạo ra Uy Tín. Trong tâm lý học người ta gọi đó là Uy Tín giả, như uy tín giả công thần, uy tín giả gia trưởng, uy tín giả hình thức… Uy Tín giả không phải là vốn tự có mà chỉ là một thứ ăn theo. Càng ăn theo càng mất uy tín, càng mất uy tín người ta lại càng sính dụng tới chữ Uy: uy danh, uy quyền, uy thế, uy lực… dù là hão huyền để trấn an thuộc cấp.

5- Trong tập thể Vovinam của chúng ta, uy tín của lãnh đạo, chỉ huy không phải là việc riêng của cá nhân mà nó còn ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển môn phái. Xét tiêu chuẩn bổ nhiệm vào chức vụ lãnh đạo, chỉ huy của một võ sư là phải xem vị đó đã làm nâng cao hay giảm sút uy tín của môn phái chúng ta ở mức độ nào.

Nhìn lại quá trình hoạt động của môn phái, chúng ta vô cùng tự hào có được một tài sản tinh thần cực kỳ quý báu, đó là niềm tin của mọi người đối với công cuộc phát huy và quảng bá Vovinam Việt Võ Đạo. Niềm tin ấy không phải tự trên trời rơi xuống mà nó là kết quả của bao kiên trì học tập và xây dựng, từ Sáng Tổ tới các võ sư tiền bối và các thế hệ võ sư kế tiếp đã gắng công tu dưỡng và đào luyện hơn nửa thế kỷ nay. Đó là lòng kiên trung tự nguyện quên mình vì lý tưởng phục vụ dân tộc và nhân loại.

Gương sáng nêu cao và tỏa rộng, chúng ta hãy xóa đi những lầm lỗi cách ngăn , sát cánh khuyến dụ lẫn nhau làm tròn sứ vụ môn phái giao phó. Hãy nhìn nhau bằng ánh mắt thiết tha xây dựng, bằng trái tim đồng cảm từ hòa, bằng khối óc khoáng đạt minh mẫn. Hãy mãi mãi truyền sức sống, củng cố niềm tin cho con người vượt qua hiện tại, hướng về tương lai.

Chương  23: Kiện toàn tâm thân, nuôi chí, định hướng

  1. CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

    Là người có sức khỏe tốt, có trình độ văn hóa cao, có kiến thức sâu rộng, có đạo đức và tác phong gương mẫu, được mọi người yêu thương kính trọng. Đó là mẫu người toàn diện mà môn phái Vovinam Việt Võ Đạo chú trọng gây tạo ý thức cho môn sinh biết luôn sống vươn lên, tự hoàn thiện chính mình về cả ba phương diện Tâm – Trí – Thể.
  • TÂM: Hướng thiện, thanh cao, tính tình khoan hòa từ ái, lấy tín nghĩa làm đuốc soi đường cho suy tư và hành động.
  • TRÍ: Minh mẫn, lanh lợi, biết rộng hiểu nhiều, khôn ngoan, tinh tế, có đầy đủ kiến thức để định hướng cho suy tư và hành động.
  • THỂ: Cường tráng, dẻo dai, chịu đựng được khó khăn cực nhọc, vượt qua mọi thử thách hiểm nguy để sống lạc quan yêu đời, luôn đứng vững trên đôi chân của mình mà thực hiện hoài bão.
  1. ẢNH HƯỞNG HỖ TƯƠNG GIỮA TÂM – TRÍ – THỂ
  • TÂM VÀ TRÍ: Một người khôn ngoan, biết rộng hiểu nhiều, thấu đạo mọi lẽ huyền vi, nhưng tâm hồn u tối, xấu xa sẽ vô cùng nguy hiểm cho đồng loại. Nên cần có Tâm hướng thiện dẫn lối chỉ đường cho Trí trong suy tư và hành động. Trái lại, một người có tâm vô cùng từ thiện, tính tình khoan dung hòa ái, nhưng thiếu hiểu biết, không phân biệt được đúng sai, hay dở cũng dễ rơi vào lầm lạc, tội lỗi. Và dù có làm điều thiện mà không đúng chỗ, hợp thời cũng chẳng ích dụng gì. Do đó, cần có Trí dẫn Tâm đi đúng hướng.
  • TRÍ và THỂ: Một người có sức mạnh, thân thể nở nang cường tráng, sức lực bền bỉ dẻo dai mà trí não đần độn, làm việc mù quáng thì chỉ là kẻ thất phu chí dõng. Cần có Trí dẫn Thể mới không phí sức uổng công. Có Trí mới tận dụng được khả năng của Thể làm việc đắc dụng và có hiệu quả. Trái lại, khi thân thể ốm yếu, bệnh hoạn, trí não cũng không thể sáng suốt. Con người cần phát huy được trí thông minh của mình mới có thể hòa hợp muôn loài, giúp ích xã hội.
  • TÂM và THỂ: Một người sức vóc cường kiện, nhưng Tâm độc, tính ý không thiện lành sẽ làm những việc sai lầm, thất đức; luôn lấy sức mạnh áp chế mọi người, không cần phải trái, sẽ gây ra những bất ổn trong cuộc sống. Trái lại, một người đạo đức vẹn toàn, tâm chính ý thành nhưng thể chất yếu đuối bạc nhược cũng không vận dụng được những ý tưởng tốt vào hành động, không thực hiện được hoài bão giúp ích, hiến ích cho đời. Hơn nữa, thân thể khỏe mạnh sẽ làm cho con người yêu đời, sống lạc quan, sáng suốt trước mọi khó khăn thử thách.

Đó là ba phương diện, ba yếu tố quan trọng hàng đầu phải luôn biết tự kiện toàn để trở thành con người toàn diện.

Nhưng đó chỉ là những phẩm chất CẦN chứ chưa ĐỦ để thành đạt trong đời sống. Con người toàn diện muốn thành đạt phải NUÔI CHÍ và ĐỊNH HƯỚNG, rồi quyết tâm tận lực theo đuổi đến cùng.

C.  NUÔI CHÍ – ĐỊNH HƯỚNG

  • NUÔI CHÍ: Để thực hiện được ý thức tự hoàn thiện tâm-trí-thể của mình, người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo cần có lòng ham muốn mãnh liệt (tức ý lực đạt tới cao vọng) thôi thúc. Thân thể cường tráng, trí óc minh mẫn, tâm hồn cao thượng nhưng bất động không có chí tiến thủ cũng chẳng thành đạt được gì. Ví như có chân vững mạnh mà không có lòng hăng say bước đi thì cũng chẳng tới đâu cả. Trước khó khăn nguy hiểm, trí óc nhận biết khó, lượng sức có thể vượt qua được, nhưng tâm hướng không vững vàng, lòng ngần ngại không quyết định dấn thân thì làm sao tiến tới? Có ý lực chúng ta mới cố gắng, hăng say làm việc, mới quyết tâm triển khai cá tính, mới dốc hết tâm tư vào cuộc sống để mong đạt ước vọng và tiến bộ. Ý lực của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo chúng ta được hình thành tự sự nuôi dưỡng chí tiến thủ, ham muốn những điều tốt đẹp, hợp lý, ngay thẳng, trong sạch và hướng thượng, chứ không là những tham vọng xấu xa, phí lý, ô trọc, hèn hạ. Ý lực là ngọn lửa hun đúc tâm can, là động lực thúc đẩy con người hành động để thâu thái thành quả.
  • ĐỊNH HƯỚNG: Khi đã có cao vọng, quyết tâm, dấn thân, cần có chí hướng soi đường thì sự dấn thân mới được thực hiện vững vàng đạt đích. Chí hướng là kim chỉ nam cho nghị lực và quyết tâm. Ta lấy một thí dụ điển hình: Ước ao biến đổi cục đất thành pho tượng để thỏa mãn lòng say mê nghệ thuật của mình là cao vọng, song muốn đạt được cao vọng này phải nuôi chí học nghề, đó là chí hướng. Định hướng là đích tới giúp chúng ta hiện thực cao vọng. Định hướng đã có, chúng ta cứ thẳng đường mà tiến,cao vọng phải thành đạt.

Điển hình là truyện Tây Du với Đường Huyền Trang tượng trưng cho chí hướng, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho ý lực (cao vọng), việc đi Tây Trúc thỉnh kinh là định hướng. Chí hướng của Đường Huyền Trang mà không được cao vọng của Tôn Ngộ Không trợ lực thực hiện làm sao đạt tới đích. Nếu không có định hướng đi Tây Trúc thỉnh kinh thì Tôn Ngộ Không đâu chịu thỏa hiệp dấn thân cùng Đường Huyền Trang? Cả ba cao vọng, chí hướng và định hướng phải gắn bó kết hợp làm một mới thành công toàn vẹn.

Tóm lại, một người đã biết luôn tự kiện toàn, rèn luyện đầy đủ cả ba phương diện Tâm-Trí-Thể nhưng thiếu ý lực, không có cao vọng, không quyết tâm dấn bước thì cũng chẳng thành đạt gì cả. Nhưng có ý lực, có chí hướng mà thiếu chính nghĩa, thiếu đích sống cao đẹp định hướng thì làm sao tập trung được nhân lực để đạt đích thành công. Do đó, con người toàn diện phải nung nấu ngọn lửa nhiệt thành làm động lực thúc đẩy hành động với một lý tưởng minh chính cao đẹp hướng về đại nghĩa làm đẹp xã hội, tô thắm cuộc đời.

Chương 24: Lẽ sống với Việt Võ Đạo sinh 

Đã là con người, ai cũng cần có hoài bão, có lẽ sống. Lẽ sống, đối với Việt Võ Đạo sinh càng cần thiết, vì được rèn luyện về cả tâm-trí -thể.

Với tâm hồn nhiệt thành quả cảm, trí tuệ minh mẫn, tháo vát, thân thể đanh thép vững chắc, sức lực mạnh mẻ dẻo dai, có đầy đủ khả năng tự vệ và tấn công khi cần tới, nếu không có lẽ sống làm mục tiêu hướng dẫn, Việt Võ Đạo sinh chúng ta sẽ trở thành những con người quá khổ không hòa mình được với mọi người, thích ứng được với hoàn cảnh.

Có lẽ sống, Việt Võ Đạo sinh chúng ta mới có được một nhân sinh quan đứng đắn, rõ rệt. Chúng ta mới có lối sống, nếp sống và cách nhìn mình, nhìn người, nhìn việc. Chúng ta nhận lấy những kinh nghiệm từ xã hội bên ngoài, rồi chúng ta trả lại bằng cách cư xử, đối đãi của chúng ta, rồi cứ thế mãi liên miên bất tận, mà tạo ra định lý trước cuộc sống.

Vì vậy, lẽ sống đòi hỏi chúng ta phải có:

  1. a) Một nhân sinh quan đứng đắn, rõ rệt và nếu gặp thử thách, chúng ta dám đương đầu với mọi trở ngại để thực thi nhân sinh quan của mình.b) Trong trường hợp hoàn toàn bất lợi, thua thiệt về vật chất mà chỉ nhằm mục đích chứng tỏ sự phong phú vững chắc về đời sống tinh thần, Việt Võ Đạo sinh chúng ta phải vượt lên được những hơn-thua-thành-bại trong cuộc sống để chứng tỏ phẩm cách cao quý của mình.

Thực ra, nhận định cho kỹ, sự hơn-thua-thành-bại trong cuộc sống chỉ có giá trị tương đối, trong một khoảng không gian và thời gian hữu hạn nào đó.

Ngay như chuyện hai võ sĩ tranh đấu ở trên võ đài, sự hơn-thua-thành-bại được diễn ra trước sự nhận xét của khán giả, thế mà vẫn chưa phải là tuyệt đối. Vì có võ sĩ vô địch nào không nếm hơn một lần thất bại trong cuộc đời võ sĩ của anh ta? và có một võ sĩ tầm thường nào lại không một lần thắng trận trên võ đài?

Do đó, Việt Võ Đạo sinh chúng ta phải tu luyện và hàm dưỡng để biết vượt lên khỏi những thắc mắc hơn-thua-thành-bại trong một lúc. Chúng ta phải có lẽ sống và tiến tới không ngừng trong tinh thần võ đạo. Và như vậy, chúng ta đều hiểu: Tinh thần võ đạo chỉ là bông lúa của hạt thóc. Nhân Sinh Quan của Việt Võ Đạo sinh được gieo xuống trong những điều kiện không gian và thời gian thích hợp mà thôi.

Ở đây, Nhân sinh quan Việt Võ Đạo sinh được biểu thị bằng bốn danh từ đơn, giản dị: Thần, Thân, Luân, Cần

Thần, tức là giá trị tinh thần.
Thân, tức là giá trị thân thể
Luân, tức là giá trị luân lý
Cần, tức là giá trị cần lao

1/ VỀ GIÁ TRỊ TINH THẦN:

Tinh thần là phần tinh anh của tư tưởng, mang lại cho Việt Võ Đạo sinh chúng ta khí chất siêu nhiên, hào hùng và cao thượng. Do đó, chúng ta phải luôn luôn chứng tỏ được tâm hồn phong phú, khoáng đạt, biết trọng danh dự hơn mạng sống. Không bao giờ để cho tình, tiền, quyền thế lung lạc, khuất phục. Chúng ta phải luôn luôn làm chủ được tình cảm, cảm xúc cùng ước vọng của mình. Chúng ta phải sáng suốt, quán thông, kiên quyết hành động và biết khai thác khả năng tiềm tàng trong con người của mình ứng dụng vào đời sống.

2/ VỀ GIÁ TRỊ THÂN THỂ

Hơn ai hết, Việt Võ Đạo sinh chúng ta đều hiểu rằng: Giá trị sức mạnh của thân thể đối với mình có một ý nghĩa cao hơn hết; đó cũng là điều kiện tiên quyết để thắng lợi trong những cuộc đụng độ và thành công trong đời sống. Trong lịch sử võ thuật, biết bao nhiêu việc đã chứng minh: những bậc anh hùng, danh tướng muốn thành công đều phải biết bảo vệ giá trị sức mạnh của thân thể.

Sức mạnh của thân thể còn có một giá trị đặc biệt nữa là bảo đảm cho tâm hồn thư thái, hàm dưỡng cho chí khí tăng tiến, cho nghị lực dồi dào. Câu nói: Không có một tâm hồn khỏe mạnh trong một thân thể suy nhược thiết tưởng cũng rất đáng để chúng ta suy nghĩ.

Muốn bảo vệ và phát huy giá trị sức mạnh của thân thể, chúng ta phải luôn luôn thực hiện hai châm ngôn.

  • Điều độ (ăn, ngủ)
  • Chuyên cần khổ luyện

3/ VỀ GIÁ TRỊ LUÂN LÝ

Cũng như mọi ngành sinh hoạt khác của xã hội, khi đã nhận mình là một phần tử của cuộc sống, Việt Võ Đạo sinh chúng ta có bổn phận tô bồi thêm cho đời sống xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn, Nhân loại được nhân ái hơn, Quốc gia được hưng thịnh hơn và Con người có tinh thần Võ Đạo hơn.

Từ xưa, các nhà Luân lý học cũng như biết bao vị Tu sĩ, Cao tăng của các tôn giáo, có bao giờ ngưng cầu nguyện và không nghĩ tới những biện pháp cải hóa xã hội và cảm hóa con người? và mặc dầu tội lỗi và những sự xấu, sự ác chưa bị chinh phục hoàn toàn, nhân loại vẫn luôn luôn ghi ơn các vị ấy, trước biết bao công lao hiển nhiên của các vị ấy đã bỏ ra để chinh phục tội lỗi, vun trồng cho những sự tốt, sự thiện trong phần hồn của con người được phát triển hoàn toàn.

Những giềng mối luân lý, đạo đức từ xưa tới nay được đặt ra rất nhiều, nhưng tựu trung, chỉ nhằm giải quyết ba phần vụ của con người:

  • Sống (vivre)
  • Giúp người khác sống (Aider vivre)
  • Sống cho người khác (Vivre, C’est exister pour les autres)

Ba phần vụ trên đối với Việt Võ Đạo sinh chúng ta lại càng quan trọng hơn. Vì chúng ta luôn luôn chiến đấu với bản thân, khổ luyện để có sức chịu đựng và gánh vác trách vụ.

Trên thực tế, Việt Võ Đạo chúng ta cũng chỉ là những người bình thường như mọi người bình thường khác, có một nếp sống riêng, có những giấc mộng ấp ủ, có một gia đình để bao dung thương mến, có Thầy và bạn đồng môn để trau dồi khả năng võ thuật, có một Tổ quốc để phụng sự, có một Xã hội để sinh hoạt.

Là một con người bình thường, nên chúng ta cũng có những bổn phận và trách nhiệm về việc làm của mình đối với mọi người xung quanh. Và tinh hoa của tất cả những sự kiện trên đã kết hợp lại thành một thứ mà chúng ta gọi là giá trị luân lý của Việt Võ Đạo sinh.

4/ VỀ GIÁ TRỊ CẦN LAO

Sau giá trị tinh thần, giá trị thân thể, giá trị luân lý còn có một giá trị nữa rất cần thiết cho con người, là giá trị cần lao. Lịch sử và những điều tai nghe mắt thấy xung quanh chúng ta đã chứng tỏ: Những kẻ không đổ mồ hôi, chỉ nhờ ở thủ đoạn, gian kế mà gặt hái thành công, thì thành công đó cũng không sao tồn tại lâu bền. Triều đại nào không mất nhiều công lao khai sáng, cũng chỉ oanh liệt được trong một thời gian ngắn ngủi.

Chỉ có sự thành công bằng mồ hôi nước mắt, bằng công lao đổ ra, mới có thể bền vững lâu dài. Trong cuộc sống không có sự thành công nào mà không phải trả giá. Ngay trong lạc cảnh “Địa đàng” mà ông Adam và bà Eva – được coi là tổ tiên loài người – sống ở đó mà vẫn phải chứng tỏ giá trị cần lao của mình. Đó là sứ mạng Trồng cây và giữ vườn (Le cultiver et le Garder), trong sáng thế kỷ 2:15 (Genève 2:15)

Có người hỏi nhà bác học Edison (1847-1931) một người đã làm việc suốt 16 giờ mỗi ngày, đều đặn tới khi ông mất, hưởng thọ 84 tuổi về bí quyết thành công của ông. Nhà bác học đã đáp bằng một câu rất đáng để chúng ta suy gẫm: “Sự thành công được hoàn thành bằng 1 phần trăm cảm hứng và 99 phần trăm mồ hôi đỏ ra”.

Giá trị cần lao đối với Việt Võ Đạo sinh chúng ta còn quan trọng hơn nữa, vì nó chứng tỏ mức yêu võ thuật, và sức cố gắng, bền bỉ chịu đựng, khổ luyện không ngừng. Do đó , đã có câu “Văn ôn võ luyện”.

Tóm lại, dầu cuộc sống có muôn ngàn vẻ, nhưng Việt Võ Đạo chúng ta chỉ có thể thành công khi được người đời mến trọng, khi chúng ta biết suy nghĩ, biết nhìn mình, nhìn người, nhìn việc, biết cách đối đãi trước cuộc sống. Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta một nhân sinh quan đứng đắn, rõ rệt và thích hợp; tức chúng ta phải có lẽ sống làm mục tiêu hướng dẫn cho mọi sự suy nghĩ, mọi hành động ở đời.

-1969 –

Chương 25: Sống khoẻ

Đã là người, ai mà không sống. Nhưng sống có nhiều cách. Ở đây trong phạm vi võ thuật và võ đạo, chúng ta tạm phân ra hai cách sống:

  • Sống yêu cuộc sống
  • Sống bám víu lấy cuộc sống

Sống yêu cuộc sống là sống với tất cả lòng nhiệt thành, hăng say, ưa hoạt động của con người muốn sống cho ra sống, muốn hưởng được hương vị và ý nghĩa của cuộc sống, tức những con người muốn sống thỏa hiệp với mọi người, cùng với mọi người làm việc, đấu tranh và xây dựng, luôn luôn hướng về đích sống cao đẹp: phục vụ con người.

Còn sống bám víu lấy cuộc sống là sống với tâm trạng của kẻ “Sinh bất phùng thời”. Bất mãn với cuộc sống mà không làm cách nào vượt thoát ra ngoài cuộc sống được. Do đó, họ tự tạo ra những nhu cầu giả tạo, rồi tự dối mình, chạy theo ảo ảnh, làm nô lệ cho lòng tham dục của họ. Họ lạc lõng, bơ vơ trong cuộc sống. Họ chán sống mà vẫn không dám chết. Họ ngụp lội trong lầy lụa, trong khổ đau mà vẫn bám víu lấy cuộc sống.

Vậy muốn sống yêu cuộc sống, trước hết, chúng ta phải tu tâm, luyện trí, rèn thể, phải làm cho mình trở nên con người hữu dụng, phải luôn luôn quan tâm tới hành vi, tư tưởng hàng ngày của mình, phải tìm hiểu và suy luận về ý nghĩa cuộc sống và cái giá trị đích thực của con người trong cuộc sống.

Muốn thực hiện được mộng ước vá trời lấp biển, điều kiện tiên quyết là phải “sống khỏe” vì “khỏe” là biểu tượng đầu tiên của con người yêu đời sống. Khỏe cả thể xác lẫn tinh thần.

A.  Về thể xác: Chúng ta có ba nguyên tắc tăng cường sức khỏe, đó là:

  • Điều độ
  • Chuyên cần luyện tập võ thuật
  • Bền bỉ chịu đựng mọi thử thách

1/ TẠI SAO CẦN SỐNG ĐIỀU ĐỘ?

Cần phải sống điều độ vì có những thói quen đam mê vật chất xung quanh luôn luôn quyến rũ, quấy phá chúng ta. Tuổi của chúng ta còn trẻ, chúng ta còn nhiều ham muốn, nhiều ước vọng, nhưng muốn xứng đáng là những Việt Võ Đạo sinh, những con người theo đuổi mục đích võ đạo, chúng ta còn phải ước thúc, kiềm toả được chúng để mà sống điều độ. Chúng ta phải giữ gìn sức khỏe ngay từ khi khí huyết còn phương cương, gân cốt còn vững mạnh, sinh lực còn dồi dào. Vì ham muốn thì vô cùng mà sức khỏe chỉ có hạn. Chúng ta làm sao nuông chiều được chúng? Sống không tiết độ, tới khi thân thể suy nhược, bệnh tật nẩy sinh, dầu chúng ta có đau buồn, hối hận cũng đã muộn, không ai có thể giúp đỡ chúng ta được.

Hơn nữa, nếp sống của chúng ta có điều độ, chúng ta mới hy vọng phát triển được những phần tốt, trừ bỏ được những phần xấu trong con người chúng ta. Làm sao chúng ta làm được việc gì, dù là nhỏ mọn tầm thường, khi chúng ta chỉ là tù binh của những thói hư tật xấu, khi sức khỏe chúng ta quá suy nhược. Thiếu sức khỏe, ngay chính thân thể của chúng ta cũng không bảo vệ nổi, còn nói chi tới lẽ phải với công bằng. Sống không tiết độ, chắc chắn tương lai không nằm trong tay chúng ta nữa. Chúng ta chỉ còn là những kẻ sống bám víu lấy cuộc sống.

2/ TẠI SAO PHẢI CHUYÊN CẦN LUYỆN TẬP VÕ THUẬT?

Vì tuổi trẻ tràn đầy sinh lực, nếu chúng ta không trút nguồn sinh lực đó vào sự chuyên cần luyện tập thì sẽ phung phí vào những cuộc ăn chơi, sa đọa. Tuổi trẻ là tuổi của hoạt động với nhiều nhiệt hứng đam mê, nếu không rèn tập những tính tốt sẽ sa vào những tật xấu. Đó là lẽ tất nhiên. Ngoài ra, võ thuật vốn là tinh hoa cao nhất của việc luyện thể. Đến với võ thuật, chúng ta mới cảm thấy sức khỏe là cần. Sống không tiết độ làm sao chúng ta có thể theo đuổi việc luyện tập võ thuật được. Sự chuyên cần luyện tập võ thuật sẽ đuổi ra khỏi chúng ta mọi ý nghĩ hắc ám, và mang lại cho chúng ta sức khỏe dồi dào, thân thể tráng kiện, đủ sức đương đầu với mọi khó khăn, nguy hiểm.

3/ TẠI SAO CẦN BỀN BỈ CHỊU ĐỰNG MỌI THỬ THÁCH?

Vì sự luyện tập mỗi ngày một đòi hỏi thêm nhiều cố gắng, nhẫn nại. Võ thuật càng cao bao nhiêu càng cần tới võ công bấy nhiêu. Và, do đâu võ công nẩy sinh ra, nếu không là công phu khổ luyện qua nhiều năm tháng. Hơn nữa, chuyên cần luyện tập để trở thành người giỏi võ, đạt tới mức cao đẳng của võ thuật trong một thời gian hạn định chưa phải là một điều thực khó, nhiều người có thể làm nổi. Song liên tục trong đời sống, lúc nào cũng bảo trì được mức cao đẳng của võ thuật, lúc nào cũng bền bỉ chịu đựng được mọi thử thách, không sờn lòng nản chí, đó mới là điều thực khó.
Chúng ta đã từng thấy biết bao nhiêu võ sĩ lừng danh một thời, nhưng sau đó chẳng bao lâu đã mai một. Vì khi đang khỏe, người ta thường không biết quý sức khỏe, chỉ tới lúc sức lực tiêu hao rồi mới quan tâm lo sợ thì đã trễ.

Khi vào đời, chúng ta càng cần tới sức bền bỉ chịu đựng. Không phải lúc nào chúng ta cũng giải quyết sự việc bằng võ thuật. Đức tính của nhà võ đâu phải lúc nào cũng mang võ ra cho mọi người thấy. Do đó, Việt Võ Đạo sinh phải luôn luôn kiên trì, nhẫn nhịn. Biết lúc đáng tiến thì uy dũng tiến lên, biết lúc đáng lùi thì vui vẻ lùi bước. Có thế chúng ta mới đạt được mức độ hàm dưỡng sinh lực đầy đủ để thắng vượt mọi thử thách, hiểm nghèo trong cuộc sống.

  1. Về tinh thần:cũng cần có 3 nguyên tắc gia tăng sức khỏe. Đó là:
  • Biết vui với cảnh ngộ
  • Biết tự lượng sức mình
  • Biết hướng theo lý tưởng

1/ THẾ NÀO LÀ VUI VỚI CẢNH NGỘ?

Gặp cảnh ngộ nào, dầu là trường hợp bắt buộc không lựa chọn chúng ta cũng thản nhiên vui vẻ tiếp nhận. Tuy nhiên, nói như vậy, có nghĩa là chúng ta đã chấp nhận với tinh thần chủ động, quyền biến, tháo vát, biết không sao tránh được thì vui vẻ tiếp nhận, hăng hái làm việc để cải hóa, vượt thắng cảnh ngộ sau này. Chúng ta luôn luôn giữ thái độ không bất mãn và cũng chẳng bao giờ tự mãn.

Thí dụ: là một học sinh nghèo, nhà ở trong hẻm sâu xa trường học, phải đi bộ tới trường, thiếu thốn đủ mọi bề. Trong khi bạn học khác giàu sang quần áo óng chuốt, xe hơi đưa rước, muốn gì được nấy. So sánh sự khác biệt quá xa, chúng ta bất mãn, chán nản, không thiết học nữa, thì có biến cải được cảnh ngộ không? Có làm cho đời sống của mình thảnh thơi không? Họa chăng chỉ có cách xoay học nghề hay đi làm kiếm tiền. Còn vẫn theo học mà không vui với cảnh ngộ thì làm sao học hành tấn tới, hy vọng đậu trong những kỳ thi mà dễ dàng vượt cảnh ngộ.

Trường hợp là một người thợ cũng thế. Làm việc cực nhọc, giá sinh hoạt cao, lương không đủ sống, rồi chúng ta bất mãn với hoàn cảnh thì liệu có vượt thoát được hoàn cảnh không? Chúng ta xoay qua nghề khác sao? Thì vẫn là người thợ. Đổi nghề chứ chưa đổi cảnh ngộ, đổi hoàn cảnh! Vậy tốt hơn hết là cứ vui với cảnh ngộ để tâm hồn thơ thới, lo trau giồi đức hạnh, tinh tiến nghề nghiệp. Khi nghề nghiệp tinh tiến thì lương sẽ cao, đời sống no đủ, được mọi người kính trọng. Và thế là cảnh ngộ đã thay đổi!
Là một người lính bị cưỡng chế tòng quân cũng vậy. Bất mãn mà làm gì khi chưa có cách vượt thoát. Hơn nữa, tất cả những ấm ức, đau khổ của con người không do hoàn cảnh bên ngoài ( hoặc cảnh ngộ nhất thời) tác động, chi phối mà do chính tâm hồn con người không chịu thỏa hiệp, tìm lối thoát ra.

Cũng là tù nhân, một người chỉ biết có nỗi đau khổ bị giam cầm trong bốn bức tường âm u, cô lạnh rồi rên rỉ, than van, một người quên hiện tại cố nhướng mắt nhìn ra ngoài mắt cáo phòng giam, theo dõi máy bay trên khoảng trời nho nhỏ, hướng chút nắng ngọt và không khí trong lành rồi mỉm cười đắc ý. Ai sung sướng và biết sống hơn ai?

2/ THẾ NÀO LÀ BIẾT TỰ LƯỢNG SỨC MÌNH?

Chúng ta nên thẳng thắn nhìn đúng tài năng đích thực của mình, chỉ nhận lãnh những gì mà chúng ta gắng sức có thể làm nổi chớ không nên quá đèo bồng tham muốn những cái hay, đẹp của người làm gì. Ôm đồm những công việc quá sức hiểu biết của mình, chúng ta sẽ phải nương tựa cầu cạnh, thân phục người khác để được họ giúp đỡ. Chính thái độ mở đường cho tinh thần cầu cạnh, ỷ lại. Sao bằng chúng ta hãy chăm lo trau dồi và phát huy những gì chúng ta sẵn có. Như vậy là chúng ta đã biết tự lượng sức mình, biết đặt mình vào chỗ cao sang riêng biệt.

Kinh Kha chỉ vì không tự lượng tài sức, vì hiếu thắng muốn lập công danh, nên đã phụ lòng kỳ vọng của Thái tử Đan, làm chết uổng Hàn Ô Kỳ, Điền Tử Quang, không những không hành thích được Tần Thủy Hoàng mà lại còn làm chết lây thêm bao nhiêu người khác và làm cho bạo chúa đề phòng người sau muốn giết càng khó thêm một tầng nữa.

Cái giá trị đích thực của con người đâu có phải ở chỗ đảm nhận những trọng trách và chiếm được địa vị tôn quý trong xã hội, mà ở chỗ làm tròn được trách vụ khi nhận lãnh, và từ cái địa vị đó, chúng ta đã làm được những gì lợi ích cho quốc gia, xã hội. Đời sống của chúng ta chỉ vinh dự và ung dung tự tại, khi chúng ta biết đặt cái giá trị của chúng ta vào sự thực hiện đến mức toàn thiện những gì chúng ta đang có.

Trong đời sống, không có cái toàn thiện nào là cao trọng hơn cái toàn thiện nào. Đã là toàn thiện đều cùng giá trị như nhau.

3/ THẾ NÀO LÀ BIẾT HƯỚNG THEO LÝ TƯỞNG?

Đã sống là có vui, có buồn, có thành công, có thất bại, có hưởng thụ, có hy sinh. Muốn giữ thăng bằng được tâm hồn khi vui cũng như buồn, khi thành công cũng như thất bại, khi hưởng thụ cũng như hy sinh, chúng ta phải biết hướng theo lý tưởng. Lý tưởng là nguồn lửa thiêng lôi cuốn chúng ta vào cuộc sống tranh đấu và hăng say làm việc. Chúng ta không còn tham vọng và thao thức riêng tư. Chúng ta tiến bộ trong suy tư và hành động của Con Người, vì Con Người và phục vụ Con Người. Chúng ta luôn luôn tìm nguồn Sống Khỏe – cả thể xác lẫn tinh thần – của mình trong nguồn sống chung của đồng loại. Đó là chúng ta đã biết hướng theo lý tưởng, biết tạo cho mình nguồn hứng thú vô biên trong cuộc sống. Chúng ta nhìn rõ con đường sẽ đi, phải đi rồi bình thản liên tục dấn bước.

Tóm lại, có 2 cách sống cần tìm hiểu:

  • Sống yêu cuộc sống
  • Sống bám víu lấy cuộc sống

Muốn sống yêu cuộc sống, trước hết chúng ta phải Sống Khỏe vì Khỏe là biểu tượng đầu tiên của người yêng ta phải

Có 3 nguyên tắc gia tăng sức khỏe thể xác:

  • Điều độ
  • Chuyên cần luyện tập võ thuật
  • Bền bỉ chịu đựng mọi thử thách

Có 3 nguyên tắc gia tăng sức khỏe tinh thần:

  • Biết vui với cảnh ngộ
  • Biết tự lượng sức mình
  • Biết hướng theo lý tưởng

Đến đây, chúng ta tạm mượn lời của một nhà văn nào đó kết luận:

“Một thân thể không đau, một tinh thần không loạn, đó là chân hạnh phúc của con người. Được bấy nhiêu thôi thì được gì nữa cũng là thừa, mà thiếu một trong hai điều ấy, thì có được gì nữa cũng vẫn còn thiếu mãi”.

Chương 26: Hạnh phúc và sự nghiệp

Hạnh phúc và sự nghiệp là ước vọng chung của tất cả chúng ta. Hạnh phúc thường được hiểu là sự mãn nguyện về một quan điểm sống (theo Đông Phương), hoặc đem lại cho con người một đời sống vui thỏa nhất (theo Tây Phương).

Sự nghiệp, là thành quả tổng hợp của những việc bình thường (sự) và những việc lớn lao hiển hách (nghiệp) của con người. Chúng ta thường hiểu theo suy diễn: mỗi người có một sự nghiệp, theo ý hướng lập thân, lập công hay lập danh suốt đời, và sự nghiệp đó được hiểu như một thành qủa tổng hợp tốt.Nhưng cuộc sống mỗi ngày, mỗi thời diễn biến phức tạp hơn. Con người có thể làm nhiều nghề, tham gia nhiều nghành nên có những thành công và thất bại khác nhau. Bởi vậy tốt hơn hết, để theo đuổi sự nghiệp chung chúng ta không quan tâm đến việc hơn thua thành bại, mà nên hướng vào thành quả hiến ích cho con người.

Gặp thuận cảnh, hạnh phúc và sự nghiệp gắn bó với nhau, hổ trợ nhau cùng tiến triển. Nhưng gặp nghịch cảnh, hạnh phúc và sự nghiệp có thể xung khắc với nhau,trong tình huống tiến triển cái này, thoái bộ cái kia. Đại đăng khoa (thi đậu) là sự nghiệp mở đầu có thể kéo theo tiểu đăng khoa (lấy được vợ hền đảm đang), hạnh phúc trọn vẹn. Nhưng cũng có khi thi đậu, làm lớn, vợ được nuông chiều, ghen tuông, tranh chấp, đua đòi, đưađến sự can thiệp của luật pháp, dư luận, v.v..

Như vậy, hạnh phúc và sự nghiệp ngày càng đa hình, đa dạng với con người, nên cách định nghĩa và suy diễn cũng muôn hình, muôn vẻ, theotính cách và lội sống của mỗi người, mỗi cộng đồng tập thể. Chúng ta là những môn sinh VOVINAM nên có cách sống, cách nghĩ, cách làm ra sao trong hiện tình và hiện cảnh?

I-Gia đình hòa thuận: Cho tới năm cuối thế kỷ 20, chúng ta vẫn thấy điểm ưu việt nổi bật của truyền thống văn hóa Đông Phương là luôn luôn chú trọng tới căn bản gia đình, coi gia đình là xuất phát điểm, là nguyên động lực, là lực xúc tác mạnh mẽ nhất với con người.

Nền văn minh Tây Phương chú trọng tới khía cạnh khoa học kỹ thuật. Lấy xuất xứ từ con người và chất xám của con người. Nhưng Nhật Bản, một cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, cùng với 4 con rồng kinh tế Á Châu (Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Đại Hàn) đều là những nước tôn sùng Nho Học và tổ chức xã hội trên căn bản gia đình. Như vậy, con người và gia đình đều có chỗ đứng nhất định trong guồng máy tiến hóa chung. Ngày nay, chúng ta hiểu gia đình là một “tổ ấm”, một tập thể nhỏ, trong đó mọi thành viên có thể chia sẻ mọi tình cảm và quyền lợi với nhau để cùng sinh tồn và phát triển. Trên những căn bản đó, nếp sống Việt Võ Đạo của chúng ta có phương hướng rõ rệt là phải đạt được điểm hoà thuận trong gia đình.

Đó là đáp số của bài toán khá phức tạp, có quá nhiều công thức và phương trình lý giải và đôi khi kết quả lại luôn luôn phản đảo. Ví dụ: Một gia đình hòa thuận vợ chồng con cái thương yêu và tin cậy lẫn nhau, nhưng đột nhiên bị suy sụp vì tai nạn hay bệnh tật hiểm nghèo; một gia đình nghèo nhưng yên ấm, đột nhiên trúng số độc đắc (có thể thêm hạnh phúc vì có điều kiện chi tiêu thoải mái) nếu bị những cơn sốt về nhu cầu đột phát, sẽ trở thành một gia đình chia rẽ, xa hoa, hợm hĩnh, v.v..

Vượt lên thuận cảnh và nghịch cảnh, người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo cần phải có một bản lãnh thật vững vàng, gồm có: Nghị lực sung mãn, ý chí kiên cường, tình cảm đôn hậu. Bản lĩnh ấy được tạo thành do các đức tính:

  • Tính trung thực: Với chính mình, với ngườithân, với xã hội, Thà không nói không làm, đã nói là giữ lời hứa, đã làm là quyết tâm. Như thế có thể là hơi khó tính, nhưng khi người hiểu sẽ dễ gần. Tình nghĩa yêu đương thân thiết đều phát triển từ đó.
  • Cương cường, không đổi chí, không đam mê trụy lạc. Tam bất năng: Phú qúybất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.
  • Bão dưỡng, phát huy óc sáng tạo: bằng cách đọc sách báo, học hỏi, suy nghĩ, luận giải.
  • Cầu tiến: không bảo thủ, nhưng cũng không xa rời các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, để nhắm mắt chạy theo những mốt văn minh rởm, không phù hợp.
  • Từ ái: Hiền từ, bác ái với mọi người bằng tình huynh đệ bình đẳng.

Những đức tính nêu trên rất cần cho một con người võ đạo trong mọi tình trạng và cảnh huống, sẽ làm phong phú tâm hồn con người, và hấp dẫn người khác. Mỗi chúng ta trở thành thành viên của một giađình thuận hòa, và mỗi gia đình thuận hòa là một gia đình có hạnh phúc của những con người có hạnh phúc.

II-Được tôn trọng, tin yêu: Gia đình hòa thuận, không khí tin yêu đã có, chúng ta phải phát triển lòng tin yêu từ trong gia đình ra ngoài xã hội, để được mọi người tôn trọng tin yêu.

Muốn được tin yêu, chúng ta không phải chỉ phổ biến quan niệm và đạo đức Việt Võ Đạo của mình một cách trừu tượng mà còn phải cụ thể hóa, thực hiện tính cách sống đó, vào cuộc sống đời thường hànn ngày, mới có hấp lực dẫn dụ tha nhân; hoặc nói cách khác: mới có thể biến lời nói thành việc làm, biến lý thuyết thành hành động, thành sức mạnh, bằng cách:

1- Sẵn sàng hòa nhập vào cuộc sống: Nhưng tránh ý nghĩ lập dị, thường xuyên đối nghịch hoặc mô phỏng thành bắt chước, rởm đời. Tiếp xúc, học hỏi những cái tốt đẹp của người bằng nghiên cứu, chọnlựa chứ không nhắm mắt rập theo y trang lối sống và tính cách sống của họ để tự lố bịch hóa mình. Đối với đồng bào dân tộc, không phải là ta cần cởi trần đóng khố như họ mới được họ qúy mến, mà sự quý mến của họ chỉ dành cho những người có “cái bụng” tốt, lời nói và việc làm đi đôi với nhau, hiển hiện cụ thể trước mắt mọi người.

2- Giúp tiến – hiến ích: Cụ thể hóa bằng hành động, tức giúp ngay vào cuộc sống người khác, làm cho họ cũng tiến được như mình. Cùng với việc giúp người tiến bộ ta còn cống hiến cho họ những cơ hội, những việc làm hữu ích cho xã hội, hoặc khuyến khích họ tham gia vào những công việc tạo ra phúc lợi, của cải để cải thiện sinh hoạt, cải thiện cuộc sống cho nhân quần. Đó cũng là cách tốt nhất tạo điều kiện cho người khác tin yêu mình.

3- Hỉ xả: hoan hỉ xả thân vì nghĩa. Đây là cao điễm của giúp tiến, hiến ích. Trong những trường hợp đặc biệt, người môn sinh Vovinam sẵn sàng chấp nhận hy sinh dù là tiền của, tính mạng cho người, tuỳ theo phẩm tính và mức độ của mỗi sự việc, mỗi cảnh huống.

Hoà nhập, giúp tiến, hiến ích và hỉ xả chính là động cơ gắn bó, tin yêu, dù đôi khi con người ấy, sự việc ấy không còn nữa, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn mãi mãi, sống vĩnh cửu trong lòng mọi người.

III-Phải thành công trong đời sống thường nhật:

Với lý tưởng và sự nghiệp, chúng ta không quan tâm đến sự hơn thua thành bại, vì có cái thành trong quá khứ mà bại ở hiện tại; hơn chổ này mà thua chổ khác. Nhưng trong đời sống nếu không nghĩ tới thành bại thì làm sao có điều kiện hoàn cảnhđể thực hiện lý tưởng, hoàn thành sự nghiệp? Bởi vậy, chúng ta phải luôn cân hắc, tự lượng sức mình, bước từ thấp tới cao. Như một trẻ thơ biết lẫy, biết bò, biết ngồi, biết đi, biết nói trước khi đi học để trở thành người hữu ích. Việc bình thường nhỏ nhặt trong đời sống không hoàn thành, lại luôn thất bại thì làm sao còn lửa để làm việc, còn niềm tin cố gắng chịu đựng, tiếp tục sự nghiệp cho tương lai.

Có thể vắn tắt về phương hướng xây dựng sự nghiệp của người môn sinh Vovinam là:

  • Luôn tự lượng sức mình để thành công trong đời sống hàng ngày.
  • Phải thành công trong kế hoạch và quy hoạch đã đặt ra.
  • Sự nghiệp của môn sinhVovinam không tách rời với gia đình và xã hội. Trái lại nóđược xây dựng trên các nền tảng của một gia đình hạnh phúc, và một xã hội lành mạnh tiến bộ.

Tóm lại: Hạnh phúc và sự nghiệp, đường đi và đích đến, khởi điểm của hạnh phúc là tình yêu, là lòng tin, là tình yêu bản thân, yêu người khác phái, yêu quê hương làng mạc, dân tộc, nhân loại.

Đích đến của người môn sinh Vovinam chúng ta là quảng phát Việt Võ Đạo tới cao điểm là Nhân Võ Đạo. Do đó, hạnh phúc và sự nghiệp của mỗi chúng ta cũng đồng thời gắn bó với nếp sống Vovinam Việt Võ Đạo. Là môn sinh Vovinam trước hết chúng ta phải có tâm đạo để hình thành một lối sống mẫu mực, từ đó xúc tác tới gia đình và xã hội, tạo nên hạnh phúc và sự nghiệp đậm đà tình người và cùng mọi người sống thân cận, gắn bó hơn. Sự nghiệp dù lớn hay nhỏ đều là sự nghiệp, nhưng nó chỉ tồn tại lâu dài và được mọi người quý báu nâng niu khi nó thực sự được xây dựng trên những căn bản gía trị tinh thần sung mãn, mang lại an vui tốt lành cho cả người lẫn ta.

Chương 27: Quan niệm về niềm tin Việt Võ Đạo

I-Thực chất của niềm tin:

Có quan niệm cho rằng, niềm tin có trước ý thức, mở đầu cho ý thức, sau đó mới thành ý thức hệ, tín ngưỡng, tôn giáo. Có quan niệm khác ngược lại, cho rằng niềm tin là sản phẩm của ý thức. Ví dụ: trong các cuộc thánh chiến tôn giáo, niềm tin bao giờ cũng là võ khí quyết định nhất với đối phương. Cụ thể hơn là, trong các cuộc chiến tranh thế giới và địa phương, mỗi bên đều xác lập cho phía chiến sĩ của mình trước đối thủ: Ai có lý tưởng tốt đẹp hơn, được quần chúng ủng hộ hơn sẽ có nhiều triển vọng thắng lợi hơn.

Niềm tin đó, có thể hoặc không thể là tiền cảm của ý thức hoặc là là sản phẩm của ý thức. Nó có một gía trị độc lập nhất định. Niềm tin giúp con người vượt qua được giới hạn của ý thức để hình thành những khả năng bất ngờ và siêu phàm.

II-Ba niềm tin trong ba quan niệm sống thường gặp:

Có nhiều niềm tin xuất phát từ quan niệm sống khác nhau, ví dụ: Có người tin ở bùa hộ mệnh (sẽ thành bất tử), tin ở tiền “có tiền mua tiên cũng được”, có nhiều tiền sẽ gặt hái được nhiều hạnh phúc…

Nhưng tựu trung có ba loại niềm tin của ba quan niệm sống điển hình:

  • Tin ở trời: Từ khai thiên lập địa, con người luôn thấy mình cô đơn, nhỏ bé trước cái bao la vĩ đại, trước hiện tượng kỳ bí của vũ trụ xuất hiện xung quanh họ, một khái niệm ông trời được phát sinh. Ngay trong thời đại chúng ta, khi có những kiến thức khoa học được truyền thông rộng rãi, cuộc sống đã có nhiều tiện nghi hiện đại, con người vẫn chưa thoát ra khỏi những mặc cảm hữu hạn, cô đơn của chính mình. Do đó, người ta vẫn phải dựa đức tin vào một đấng tối thượng vô hnh là ông Trời. Tin ở trời là tin vào số mạng tiền định: mỗi con người khi đầu thai được giao phó một số mạng nào đó, một chức năng nào đó, với những khó khăn và thuận lợi đã được tính toán, sắp đặt sẵn. Số giàu tiền đến dửng dưng, số nghèo hèn vật lộn lắm cũng chẳng đi tới đâu. Do đó, tin ở trời là tin vào guồng máy huyền vi an bài của tạo hóa. Về một khía cạnh nào đó, chúng ta có thể trân trọng và đón nhận quan niệm này, vì sự hữu hạn, sự may rủi, sự sống chết có ai biết đâu mà lườngcho được? Nhất là niềm tin vào trời đôi lúc lại có một sức khuyến dụ con người làm lành, lánh ác, xoa dịu hay an ủi con người trong một hoàn cảnh bất hạnh, một thời điểm bất như ý, v.v.. Người xưa đặt niềm tin vào ông Trời hẳn để giải đáp cho các câu hỏi không sao trả lời được: “Cái đó chỉ có Trời mới biết. Tại ông Trời. Trời làm ra như vậy”, v.v.. Ngày nay khoa học đã dần dà thu hồi bớt quyền năng của ông Trời, sấm sét không do thiên lôi mà chỉ là một hiện tượng va chạm giữa hai cực điện âm dương trong thiên nhiên. Mặt trời, mặt trăng chẳng còn là ôngTrời, bà Trăng nữa mà chỉ là hai tinh tú trong hằng hà sa số các tinh tú có trong vũ trụ. Bệnh ôn dịch không phải là tai ương của các vị thần gieo xuống mà là do các loại vi trùng gây nên, v.v.. Tuy vậy, vũ trụ vẫn còn là một khoảng bao la huyền bí, khoa học chưa chứng minh được đầy đủ thì ông trời vẫn được trân trọng gởi gấm niềm tin. Nhưng phải tin ra sao để không trở thành mê tín dị đoan, mơ mộng hão huyền, để bị vong thân màquên mất rằng: Người là một linh vậtduy nhất có óc suy tư. Các dân tộc văn minh, tiến bộ, những người có đầu óc phán đoán khoa học và thực tế tin vào trời là tìm hiểu thiên nhiên để xây dựng một nhân cách, là một lối sống phù hợp chứ không mê muội, lạc hậu, viễn vong. Nhất là không buôn thần, bán thánh lừa đảo người nhẹ dạ cả tin trong việc cúng tế, cầu đảo, bùa ngải, bói toán, v.v. hoặc biếng lười, lấy số trời ra ngụy biện cho thói hư tật xấu buông tuồng ỷ lại.
  • Tin ở đất: Là tin vào phúc ấm tổ tiên, giồng họ. Do đó, từ xu hướng tìm thầy địa lý chọn đất tốt, săn sóc mộ phần, chăm lo hương khói, cúng kiến, v.v., đến ý hướng chọn hướng nhà, hướng bếp, hướng cửa, v.v.. Niềm tin này ở thuở ban đầu hoàn toàn có nhận thức và ý hướng tốt. “Uống nước nhớ nguồn” là cái gốc cho mọi chi nhánh đạo lý khác phát sinh. Những người có lòng thành kính nhớ tới tổ tiên, cha mẹ, gắn bó với anh chị em họ hàng, khuyên bảo, nhắc nhở nhau làm điều tốt lành để vinh danh tổ tiên, giòng họ, để hãnh diện cho con cháu mai hậu thì cuộc sống hiện tại thật là thiên đường, mọi người đều nở mặt nở mày. “có phúc thì có phận”, chọn được đất tốt, nhưng ăn ở thiếu nhân nghĩa cũng không sao hưởng lộc được. (xem chuyện Tả Ao thì rõ). Vê hướng nhà, hướng bếp, hướng giường, hướng cửa cũng vậy. Đối với người Việt làm nhà về hướng Đông Nam thì mát và có ánh sáng, vừa lợi cho sức khoẻ, vừa sát hại được vi trùng. Bếp gần cầu tiêu thì dễ bị ô nhiễm,mất vệ sinh, giường gần bếp thì khói hun đau mắt, viêm họng, đau phổi. Cửa phải tránh gió lùa dể bị cảm, có thể bất đắc kỳ tử. Cửa chính không thông thẳng ra đường dễ bị trộm cắp dòm ngó. Những kinh nghiệm đó thật vô cùng quý báu và khoa học. nhưng tiếc thay trước đây vì thiếu kiến thức, thiếu lời giải thích, chỉ dẫn cho mọi người cùng biết nên đã nẩy sinh ra thói mê tín dị đoan, kiêng kỵ đủ thứ, làm phương tiện cho kẻ xấu lợi dụng lừa đảo.
  • Tin ở người: Từ thượng cổ, các triết gia Đông, Tây đều đặt nặng vấn đề quan hệ giữa người với người. Yếu tố con người, phần tử của cộng đồng, của xã hội, là một yếu tố cơ bản của mọi hưng vong, thành bại. Quan niệm này có gía trị hiện thực ưu việt, vì người là một thực thể sinh động, xã hội loài người luôn luôn xung động, đấu tranh, phát triển. Cao điểm của quan niệm này là: tìm hiểu ở chính mình để tự tin và tạo niềm tin cho mọi người. Ngay các tôn giáo lớn như Phật Giáo cũng đã nói “Phật tại tâm. mỗi chúng sinh đều có Phật tính”. Công Giáo cũng nói “Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Mọi thành quả ở đời đều do con người làm ra, chứ không là định mạng, số phận gì cả. Việc của Trời làm sao con người biết được? Tốt không làm cũng chẳng có. Khó mà quyết tâm vẫn vượt qua. Vậy muốn đến được Niết Bàn hay Thiên Đường, chỉ có cách duy nhất là con người phải tu dưỡng và rèn luyện chính bản thân mình để có tài năng, ý chí, nghị lực đảm đương và hoàn tất trách nhiệm trong đời sống làm người. Danh vọng, sang giàu chỉ thực sự được trân trọng, ngưỡng mộ và tồn tại khi nó trải qua một quá trình phấn đấu lao động nhiệt tình của những khối óc biết suy tư, những trái tim biết yêu thương, và những bàn tay biết làm việc hữu ích cho cộng đồng xã hội. Thành quả tốt đẹp không thể chỉ van xin hay nguyện cầu. Trời, Phật, Chúa, Thánh, Thần… đâu có ban phát ân sủng cho những kẻ ỷ lại, biếng nhác, hèn hạ.

III-Niềm tin Việt Võ Đạo:

Như vậy, với ba quan niệm trên, người môn sinhVovinam Việt Võ Đạo nên sống theo qan niệm nào? Phải tổng hợp theo tinh thần cách mạng tâm thân và cương nhu phối triển.

Tin ở trời: là tin vào một biểu tượng Chân – Thiện – Mỹ, là tìm hiểu thiên nhiên, rút từthiên nhiên ra những bài học sinh động, những ý niệm cao đẹp, những giá trị thực tiễn, chứ không ỷ lại vào Trời, Phật, Chúa, Thánh, Thần… để đắm chìm vào mê tín dị đoan, định mạng và chủ nghĩa. Tin ở trời là tin vào ở cao điểm linh thức con người, ở cao điểm lương tâm và ý thức nhân loại được thể hiện bằng những việc làm hợp thời, đúng lúc, đúng chổ. Nắng thì phơi phóng, mưa thì cấy trồng. Nên tiến thì tiến, đáng lùi phải lùi. Phải cócái nhìn sâu rộng mà thích ứng với mọi tình huống.

Tin ở đất: là tin ở công đức, phúc ấm tổ tiên để lại, là tìm không gian thích hợp để tu tập, bảo quản. Lễ cúng tổ tiên là dịp họ hàng thân quyến xum họp tìm hiểu nhau, khích lệ, khuyên nhũ lẫn nhau sống theo thuần phong mỹ tục, trọng lễ nghĩa liêm sĩ. Đối xử chân tình, hào hiệp, cởi mở, phóng khoáng với tất cả mọi người. Gặp khó khăn hết lòng hỗ trợ lẫn nhau mới tác tạo được không khí tin yêu, hoà thuận với mọi người hầu thành công trong đời sống.

Tin ở người: là tự tin (tin ở mình), tin ở phẩm cách mìnhđã trau giồi, và dùng ảnh hưởng đó trồng cấy niềm tin nơi người khác, dùng khả năng ưu việt của mình tâm phục mọi người. Biết nương theo thời – tức hoàn cảnh khách quan – mà hành xử, biết hòa hợp với mọi người để cùng tiến bộ. Luôn tôn trọng mọi tư tưởng, mọi hình tượng cao đẹp. Luôn thích ứng được với mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, kiểm soát được mọi việc làm, kiềm chế được mọi ước vọng, ham muốn. Nhất là phải tránh kiêu căng, tự phụ, khinh người, ngạo mạn, coi Trời bằng vung, anh hùng cá nhân chủ nghĩa.

Tóm lại, để được tự tin và thành công trong đời sống, được mọi người tôn trọng, ngưỡng mộ tin theo, người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo phải thường xuyên cách mạng tâm thântrong tu dưỡng rèn luyện có thực đức, thực tài, thực chí và áp dụng tinh thần cương nhu phối triển trong hành động xử thế để được mọi người tâm phục tiếp tay hỗ trợ.

Người thực đức không chỉ hiền lành không làm hại ai là đủ, mà phải tạo được ảnh hưởng, có sức dẫn dụ thúc đẩy mọi người cùng làm tốt, kẻ ác phải chùn tay, kẻ xấu bớt xấu, cảm hóa họ dần dần.

Người thực tài không dành chỗ tốt, việc dễ. Trái lại, phải gánh vác khó khăn, biến chưa tốt thành tốt. Khi thành công được hưởng không ai dám kèn cựa ghen tỵ.

Vấp ngã chính là thử thách tốt nhất nhận ra người có ý chí hay không? Nếu việcnào cũng trôi chảy êm xuôi thì đâu cần chí khí.

Có thực đức, thực tài, thực chí rồi còn phải biết lựa thời mà ứng dụng, chọn nơi mà thi thố tài năng, hòa thuận với mọi người, tạo thế đứng trong ôn hòa nhu nhã, chia vui sẻ buồn, làm việc và hưởng thụ chung với tất cả mọi người.

Đó chính là cách thể hiện đúng đắn nhất niềm tin của người môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo.

Chương 28: Vovinam phải tiến theo thời đại

Toàn thể căn bản võ thuật và võ đạo của môn phái Vovinam đều do Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc, một thiên tài võ học Việt Nam sáng tạo và liên tục hoàn chỉnh từ những năm cuối thập niên 1930 đến ngày Người từ bỏ cõi đời (1960).

Như một viên ngọc vô gía thuần khiết, ngay khi xuất hiện Vovinam đã có một chỗ đứng riêng biệt, làm sáng danh dân tộc, phục vụ đắc lực cho con người muốn sống hiên ngang, độc lập, tự cường. Dầu vậy, không một gía trị nào vĩnh cửu với thời gian, nếu không trau chuốt, cải tiến, canh tân.

Chính vì lẽ đó, Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc đã di huấn cho các đệ tử thừa kế phải hoàn chỉnh lại tất cả những sáng tạo của Người cho thích hợp với thời đại, với sự tiến triển của nền võ học nhân loại thành những hệ thống về kỹ thuật võ, triết võ, đạo võ. Và suốt từ năm 1960 đến nay, qua bao thăng trầm, suy thịnh, con đường Vovinam hiện đã thênh thang với một hệ thống giản dị, khoa học và hữu hiệu xứng đáng sánh vai cùng năm châu cả về Thuật lẫn Đạo trong sứ vụ phục vụ và giúp ích con người.

Hệ thống võ học Vovinam được nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm giúp tất cả mọi môn sinh không phân biệt tuổi tác, màu da đều thấu hiểu tường tận và chính xác những kỹ thuật và tư tưởng nhằm thăng hóa con người cả về Thuật lẫn Đạo.

Do vậy, võ thuật và võ đạo Vovinam được hoàn chỉnh qua hai thời kỳ:

– Thời kỳ sinh tiền Sáng Tổ Nguyễn Lộc.

– Thời kỳ kế nghiệp của Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng.

1- Thời Sáng Tổ Nguyễn Lộc: (từ 938 đến 1960) Hoàn tất công trình sáng tạo Vovinam vào năm 1938, sáng Tổ đưa ra biểu diển lần đầu tiên tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội vào mùa thu 1939. Sau đó, công khai mở lớp dạy Vovinam tại trường sư phạm (Ecole Normale) ởphố cửa Bắc, Hà Nội vào đầu năm 1940.

ở thập niên 1940, không khí chống thực dân, giành độc lập rất sôi nổi. Ý thức được bổn phận và trách nhiệm của người thanh niên đối với lịch sử dân tộc, Sáng Tổ Vovinam nấu nung một tinh thần phục vụ dân tộc và nhân loại trong việc xây dựng tư tưởng võ đạo cho các môn sinh. Muốn đất nước độc lập, muốn dân tộc tự cường, phải có được một hàng ngũ thanh niên khoẻ mạnh về thân chất, có khả năng dụng võ, có tâm hồn yêu nước, giúp ích xã hội, hiến ích cho đời. Và phải hướng dẫn họ tự hình thành nơi mình một ý chí dũng mãnh, một nhận thức sáng suốt, một tấm lòng bao dung, một quyết tâm trong hành động… Trong tinh thần hào hiệp, dấn thân nhập cuộc vì quê hương, vì dân tộc với nếp sống kiện toàn tâm thân, giúp người tiến bộ và sống cho đại nghĩa. Nhưng suy nghĩ này đã hình thành ý niệm Cách Mạng Tâm Thân, và là ý niệm khơi nguồn tưtưởng chủ đạo của toàn bộ hệ thống lý thuyết võ đạo của môn phái Vovinam Việt Võ Đạo.

Ở thời kỳ này, việc đấu tranh giành độc lập là nhu cầu bức thiết của đất mước. Do đó, kỹ thuật võ xuất phát từ nghiên cứu sáng tạo của Sáng Tổ Nguyễn Lộc rất đơn giản, hữu hiệu mà dễ tập, dễ áp dụng nhưng rất cương mãnh, dữ dội, đặt nặng tính tốc chiến tốc thắng với phương pháp huấn luyện chú trọng nhiều về ngoại công thân thép, tốc lực, sức chịu đựng và sức bền bỉ. Chương trình tuy có phần sơ, trung, cao đẳng, nhưng không mấy ai học quá ba năm (một phần vì thời cuộc), vì nhu cầu ứng phó cấp thiết; một phần đôi lúc do nhà cầm quyền Pháp cấm cản, hàng ngũ cốt cán phải tập luyện bí mật.

Các lớp võ công khai lúc bấy giờ thường chỉ kéo dài ba tháng với những đòn cận chiến đơn giản. Chương trình huấn luyện cấp tốc thời đó gồm:

Võ lực:

  • 10 thế thể dục
  • Luyện tấn, mép tay, bắp tay cho rắn chắc
  • Bay người, rạp xuống, trườn mìnhbằng khuỷu tay và đầu gối.
  • Các lối nhào lộn, tậpngã không đau.

Võ thuật:

  • Các đòn phản thế cơ bản.
  • Các thế khóa gở.
  • 4 bài song luyện (đòn thế được ghép theo nhu cầu biểu diễn, nên khóa sau có thể khác khóa trước để thử nghiệm, chứ không theo thứ tự trình độ 1, 2, 3, 4 như hiện nay)
  • 21đòn chân cũng đã dạy, song ít người được tập đầy đủ và chỉ ghép vào các bài song luyện chứ không biểu diễn riêng lẽ, đa dạng như bây giờ. Khi tập cũng như biểu diễn đều mặc quần đùi, mình trần.
  • Đã dạy những thế kiếm, gậy (côn) và mã tấu cơ bản cho các lớp võ đại chúng hàng vạn người tại sân bãi cỏ Việt Nam học xá (lúc bấy giờ gọi là Đông dương học xá).

Năm 1960, ngày 04 tháng tư âm lịch, Sáng Tổ tạ thế. Đến thời điểm này, Vovinam đã tạo được tiếng vang, môn sinh đã đông hơn. Các môn đệ theo tập Sáng Tổ vẫn tiếp tục theo võ sư Lê Sáng tập lên cao, võ sư Lê Sáng là con chim đầu đàn, là một thành viên sống trong gia đình Sáng Tổ, kề cận Sáng Tổ qua cả ba thời kỳ Sáng Tổ trực tiếp hướng dẫn:

  • 1940 – 1945: Hà Nội
  • 1946 – 1948: Các tỉnh BắcViệt
  • 1954 – 1960: Miền Nam

II-Thời kế nghiệp của Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng: (Từ 1960-đến nay)

Theo di huấn của Sáng Tổ, căn cứ vào các ý niệm tiên khởi về Cách Mạng Tâm Thân do Sáng Tổ giảng dạy, Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng đã hình thành:

  • Hệ thống hóa kỹ thuật võ học.
  • Hệ thống lý thuyết võ đạo.
  • Đường hướng, tôn chỉ và mục đích Môn Phái.
  • Đồng thời, Võ Sư Lê Sáng quy tụ lớp môn đệ đã theo tập với Sáng Tổ từ năm 1955, bồi dưỡng thành lớp võ sư cốt cán chung tay phát triển môn phái. Ngoài ra,Võ Sư Lê Sáng còn liên tục đảm nhận chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Quyền Thuật Việt Nam (là Tổng Cuộc duy nhất lúc bấy giờ) trong 5 nhiệm kỳ (1958-1968) cùng chức vụ Tổng Thủ Quỷ Ủy Hội Olympic Việt Nam (1960-1972).
  • Giữa năm 1957, Sáng Tổ Nguyễn Lộc nằm bệnh phải nghỉ dạy, Võ Sư Lê Sáng tạm thời thay thế mở tiếp 3 võ đường tại ba điểm tại Sài Gòn: 1- Đường Sư Vạn Hạnh, gần chùa ấn Quang, 2-Đường Trần Khánh Dư, Tân Định, 3- Đường Trần Hưng Đạo.
  • Năm 1960, Sáng Tổ tạ thế và sau chính biến 11-11-1960, chế độ Ngô Đình Diệm cấm tất cả các hoạt động võ thuật. Do đó, Võ Sư Lê Sáng tạm nghỉ dạy võ, lên Ban Mê Thuộc và Quảng Đức làm đồn điền.
  • Năm 1964, Võ Sư Lê Sáng trở về mở Trung Tâm Huấn Luyện Vovinam tại số 61 đường Vĩnh Viễn, Sài Gòn, quy tụ một số võ sư trẻ tập lớp 1955 cùng một số thân hữu của các võ sư đó thành lập Ban Chấp Hành Môn Phái với hai cơ cấu: – Tổng Cục Huấn Luyện, – Tổng Đoàn Thanh Niên. Và từ đó danh xưng Vovinam được nối thêm là Vovinam Việt Võ Đạo. Tổng Cục Huấn Luyện chuyên trách đào tạo Võ Sư, Huấn Luyện Viên cốt cán, và Võ Sư Lê Sáng là ChưởngMôn kiêm Tổng Cục Trưởng, Tổng Đoàn Thanh Niên đảm trách phần tổ chức sinh hoạt thanh niên, văn nghệ, và cứu tế xã hội do Võ Sư Trần Huy Phong đảm nhiệm.
  • Điềulệ, nội quy được soạn thảo ấn định mọi giềng mối, kỷ cương, luật lệ thi cử, phân công phân nhiệm rõ ràng với kỳ hiệu, phù hiệu như hiện nay. Từ đó, môn sinh được mang võ phục mu xanh với hệ thống đai đẳng: – Xanh (Sơ đẳng: ba cấp) – Vàng (Trung đẳng: ba cấp) – Đỏ (Cao đẳng: bảy cấp) – Trắng (Thượng đẳng: dành riêng cho Chưởng Môn).
  • Trong thời kỳ đảm nhận chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Quyền Thuật Việt Nam, Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng phải khảo sát võ thuật để cấp giấy chứng nhận cho các võ sư. Trong nghiên cứu, tìm hiểu về các môn võ cổ truyền, ông đã rút ra được những tinh túy và tìm cách bổ túc, cùng chỉnh lại phần phân thế thất truyền của những bài võ xưa mà lập ra một hệ thống mới “Một phát triển thành ba” cho Vovinam Việt Võ Đạo sau này. Các kỹ thuật và các bài bản mới:
    • 30 thế chiến lược (với nguyên tắc lấy công làm thủ)
    • 28 Thế vật căn bản với 3 bài song đấu vật.
    • Song luyện dao găm
    • Các bài quyền và khí giới: Thập Tự Quyền, Long Hổ Quyền, Việt Võ ĐạoQuyền, Xà Quyền, Hạc Quyền, Tinh Hoa Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, Tứ Tượng Côn Pháp,, Nhật Nguyệt Đại Đao Pháp, Bài Mộc Bản, Bài Súng Gắn Lưỡi Lê, Song Đấu Búa Rìu, Song Đấu Mã Tấu.
    • Phân thế hai bài vp cổ truyền Lão Mai và Ngọc Trản.
  • Thực hiện di huấn của Sáng Tổ, Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng đã hệ thống hóa kỹ thuật võ học và lý thuyết Võ Đạo để Vovinam tiến kịp thời đại. Thành quả đó có sự phụ giúp đáng kể của hai môn đệ xuất sắc: Cố Võ Sư Trần Huy Phong (1938-1997) và Võ Sư Nguyễn Văn Thư. Cố Võ Sư Trần Huy Phong phụ trách ngoại vụ, kế hoạch phát triển. Võ sư Nguyễn Văn Thư phụ trách nội vụ, củng cốnội bộ, khởi thảo bản quy lệ Môn Phái, bút pháp mạch lạc, chặt chẽ. Khi viết đến điều 96: “Tôn chỉ và mục đích minh định nơi chương hai không được thay đổi”. Mọi người đều đã đồng ý nhưng võ sư Nguyễn Văn Thư xin ghi thêm: “và các điều khoản qui định nơi chương này cũng không được thay đổi”. Thời đó, Tổng Cục Huấn Luyện thường xuyên tổ chức các lớp đặc huấn trau dồi kiến thức tổng quát cho các Huấn Luyện Viên cao cấp và Võ Sư Chuản Hồng Đai có đủ khả năng quản trị điều hành võ đường đều do Võ Sư Nguyễn Văn Thư phụ trách. Nhưng phải đến năm 1996, khi Vovinam Việt Võ Đạo được đưa vào giảng dạy ở học đường (công đầu là của cố Võ Sư Phùng Mạnh Chữ tự Mạnh Hoàng 1938-1967), chương trình huấn luyện mới được bổ túc hoàn chỉnh với hệ thống lý thuyết võ đạo được giảng dạy kèm theo chương trình huấn luyện ở các cấp đai.
  • Thời đó, Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng ngày dạy võ 10 tiếng, đêm về viết nhanh các bài giảng về 10 điều tâm niệm, ý nghĩa màu đai, v.v., để các Võ Sư và Huấn Luyện Viên đồng bộ giảng huấn giống nhau. Sau đó, mới in thành tác phẩm, các tác phẩm của Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng:
    • Ý nghĩa màu đai
    • 10 điều tâm niệmmới
    • Tìm hiểu Võ Thuật – Võ Đạo
    • 12 Phương châm tu dưỡng hành xử
    • Tác phong của Việt Võ Đạo sinh
    • Ý thức hệ Võ Đạo về nếp sống và tình cảm Việt Võ Đạo
    • Chủ thuyết Cách Mạng Tâm Thân
    • Vũ trụ quan, Nhân sinh quan, v.v.
  • Từ tháng 5 năm 1975 cho tới 1988, Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng bị đi xa, hoạt động Vovinam Việt Võ Đạo có tính tự phát, Khi người trở về lãnh đạo Môn Phái vẫn giữ đúng Tôn CHỉ và Mục Đích đã được xác lập trong quy lệ môn phái năm 1964. Ý niệm Cách Mạng Tâm Thân của Sáng Tổ được Võ SƯ Chưởng Môn viết thành sách , cùng toàn bộ tư tưởng võ đạo Vovinam được san định lại cho phù hợp với thời đại, được tiếp tục dùng làm tài liệu giảng huấn, thi lý thuyết võ đạo ở kỳ thi thăng đai các cấp. Ý chí sáng tổ để lại: “Vovinam phải tiến theo thời đại” có phù hợp với thời đại mới có thể phát triển. Thời bình phải đề cao xây dựng kiện toàn con người, nhẹ bớt tính chiến đấu chế phục người. Để cập nhật hóa kỹ thuật của Vovinam Việt Võ Đạo phải nhu nhuyễn, uyển chuyển, thiên về dưỡng sinh. Hiện nay, Vovinam Việt Võ Đạo có thêm một số bài quyền và binh khí được sắp xếp gắn bó chặt chẽ với nhau theo trình tự: một phát triển thành ba, nghĩa là từ đòn cơ bản (1), ghép lại thành bài đơn luyện (2) và bài song luyện (3). Với hệ thống này, người tập sẽ dễ luyện, dễ nhớ, ôn đi, ôn lại nhuần nhuyễn.
  • Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng đã hướng dẫn các Võ Sư viết luận án theo phương thức này. Các bài quyền theo hệ thống này gồm có:
    • Nhập Môn Quyền (ghép 4 lối đấm đá, chém cạnh tay và cùi trỏ).
    • Tứ Trụ Quyền (ghép những đòn phản thế cơ bản trình độ 1).
    • Ngũ Môn Quyền (ghép 10 thế chiến lược 11 tới 20).
    • Viên Phương Quyền (ghép những đòn phản thế cơ bản trình độ 2).
    • ThậpThế Bát Thức (ghép 10 thế chiến lược 21 tới 30).
    • 4 bài Nhu Khí Công Quyền (những bài quyền dưỡng sinh).
    • 4 bài Liên Hoàn Đối Luyện (song luyện không té dành cho người lớn tuổi).
    • Bài Song Đấu Côn (phân thế 12 thế côn trong bài Tứ Tượng Côn Pháp).
    • Bài Trấn Môn Quyền
    • Bài Việt Điểu Kiếm Pháp
    • Bài Tiên Long Song Gươm Pháp
    • Bài Mã Tấu Pháp
    • Các bài tự vệ Nữ, Nam. Tứ đấu tay không và khí giới đã có từ thời Sáng Tổ, đến nay được tiếp nối kế thừa rất đa dạng và phong phú.
  • Mọi cơ cấu tổ chức, phân công phân nhiệm, võ phục, kỳ hiệu, phù hiệu, danh xưng vẫn được áp dụng theo bản qui lệ Môn Phái viết năm 1964. Riêng có thêm phù hiệu Tổ Đường: mũi tên chỉ lên trời với 4 vòng xanh, vàng, đỏ, trắng, bọc giữa vòng âm dương và bản đồ Việt Nam. Ngoài ra, do nhu cầu phát triển quốc tế, khi gía trị đai vàng chưa phổ biến tại các địa phương mới phát triển, các Võ Sư có thể dùng đai đen thay thế việc giảng dạy được thuận lợi. Khi mọi người đã biết gía trị đai vàng thì các môn sinh trung đẳng sẽ mang lại đai vàng theo hệ thống môn phái.

Vovinam Việt Võ Đạo đã có mặt tại các nước trên thế giới từ năm 1974do giáo sư Phan Hoàng, người đã thành danh với mấy bằng tiến sĩ hạng ưu ở hải ngoại, có công phổ biến đầu tiên. Khi giáo sư về Việt Nam, đến thăm và yết kiến Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng được Võ Sư giao trọng trách thành lập Liên Đoàn Vovinam Việt Võ Đạo tại Pháp với một ban điều hành gồm có 5 võ sư nổi tiếng là: Lão Võ Sư Nguyễn Dân Phú, Võ Sư Hoàng Nam, Võ Sư Bùi Văn Thịnh, Võ Sư Nguyễn Trung Hòa, Võ Sư Phạm Xuân Tòng và do Giáo Sư Phan Hoàng làm chủ tịch.

Thêm vào đó, những du học sinh là môn sinh Vovinam Việt Võ Đạo đi du học trước và sau 1975, sau khi tốt nghiệp cũng mở phòng dạy Vovinam nhưng chỉ là phong trào tự phát, chứ không do Môn Phái cắt cử. Do vậy, sự giảng dạy không thống nhất và đồng nhất. Khảnăng võ thuật của các đương sự cũng bị hạn chế. Khi các lớp tập lên cao, tất nhiên các vị đó sẽ phải về Tổ Đường rèn luyện bồi dưỡng thêm, lúc đó mới được Võ Sư Chưởng Môn giao phó trách nhiệm chính thức.

Tháng 3 năm 1999

Ban Nghiên Cứu Việt Võ Đạo

Chương 29: Hệ thống Võ Sư Đồng Hóa (Một nhu cầu bức thiết cho sự phát triển môn phái)

Trình độ nhận thức, sinh hoạt của con người ngày càng được mở rộng nâng cao, mọi lãnh vực đều đòi hỏi phải được phân tích bằng nhãn quan khoa học để có cơ sở lý luận hợp lý. Do đó, người phụ trách phải có kiến thức chuyên sâu và bất kỳ một tập thể nào muốn tiến triển ngang tầm thời đại đều cần có sự đầu tư nghiên cứu của các nhà chuyên môn.

Để quảng phát vào cộng đồng quốc tế, môn phái cần phải giải quyết rất nhiều nhu cầu từ việc thuần tuý huấn luyện, soạn thảo các bài giảng huấn võ đạo, sư phạm hóa phương pháp huấn luyện, diễn giảng, nghiên cứu để kiện toàn, phổ cập đại chúng, nâng cao cả kỹ thuật võ học lẫn lý thuyết võ đạo, từ tổ chức điều hành đến thông tin ra báo, quảng cáo, phiên dịch, giao tế, xã hội… Và sau này để thuận lợi cho việc hoàn thành các kế hoạch lớn, cũng phải có bộ phận chuyên làm kinh tế… Ngoài ra, tuy là dạy võ nhưng mục đích của chúng ta là thể hiện tính ĐẠO trong đời sống hằng ngày. Nói cách khác, võ của Vovinam không chỉ thuần tuý là kỹ thuật, mà còn là phương tiện để kiện toàn con người nhằm góp phần xây dựng một thế giới hào hiệp, lành mạnh. Thế giới sẽ an bình tốt đẹp khi mọi người, ngoài nổ lực thăng tiến trong xã hội, còn chuyên chú vào việc tự hoàn chỉnh tâm trí thể. Muốn vậy, phải trang bị cho mọi người một nhận định đúng, một cảm quan hướng thượng song song với một phương pháp tu tâm, luyện tính, trui rèn thân thể.

Phương pháp tu luyện chúng ta đã có, cùng với một hệ thống lý thuyết võ đạo làm kim chỉ nam cho mọi hành xử ở đời. Nhưng để đáp ứng kịp thời đại bùng nổ về thông tin toàn cầu, phong phú, đa dạng và phức tạp như hiện nay, chúng ta cần khai triển lý thuyết võ đạo thành văn hóa của Vovinam với cách nhận định, lượng gía đặt trên nền tảng nhân bản, đề cao bản sắc dân tộc trong sự thâu hóa sáng tạo để hình thành một khuynh hướng về giáo dục đào tạo, một mỹ cảm thưởng ngoạn về văn thơ nhạc họa, về các bộ môn nghệ thuật thời trang… Một quan điểm về tình yêu đối với nhân loại, tổ quốc, đồng bào, gia tộc, nam nữ, thiên nhiên…một sắc thái trong sinh hoạt xã hội, sinh hoạt môn phái, sinh hoạt gia đình, v.v..

Chúng ta lấy con người làm tâm điểm cho sự thâu hóa sáng tạo để thích ứng mà vẫn bảo tồn được bản sắc cố hữu. Muốn phát triển theo hướng đã vạch, ngoài việc không ngừng tự phấn đấu nâng cao bản thân, chúng ta phải luôn mở rộng cánh cửa môn phái đón nhận và chắt lọc mọi đóng góp hữu ích từ nhiều nguồn. Do vậy, ngoài hệ thống võ sư, huấn luyện viên luyện tập chương trình , chính quy làm nền tảng, chúng ta cần hình thành một hệ thống võ sư đồng hóa với những tiêu chuẩn xét chọn rõ ràng, quy định lãnh vực chuyên môn, quyền hạn, trách nhiệm, tiêu chuẩn thăng tiến… Các võ sư đồng hóa phải là người có uy tín, có địa vị xã hội, hoặc có khả năng chuyên biệt cao, yêu thích lý tưởng Vovinam, muốn góp sức thực thi chủ thuyết Cách Mạng Tâm Thân và phải có những đóng góp cụ thể qua uy tín và địa vị xã hội hoặc bằng những thành quả nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên môn và bắt buộc phải dành thời gian tập võ thuật bản phái theo một chương trình đặc biệt.

Với nhiệt tâm rèn luyện để hoàn chỉnh tâm thân, không dẫm chân sang lãnh vực mà mình không chuyên, với đóng góp cụ thể qua quyền hạn trách nhiệm trong phạm vi chuyên môn, sẽ tạo được gía trị thực sự cho đai đẳng đồng hoá. Từ đó được ngăn cách giữa đồng hóa và chính quy.

Ngày nay, muốn hòa nhập vào sinh hoạt xã hội, vào cộng đồng quốc tế và thu hút được mọi tầng lớp quần chúng, trong võ phải có văn hóa. Đạo ở Tâm thể hiện nơi đời sống thường ngày bằng văn hóa, bao gồm cách sống, phương thức cư xử và các tác phẩm văn hóa đích thực. Có mỹ cảm văn hóa, biết thưởng ngoạn văn hóa: nghe nhạc, xem phim, đọc sách, ăn mặc… Đó chính là nếp sống văn hóa đã thể nhập với Đạo trong đời sống bình thường. Kết hợp gắn bó võ thuật với văn hóa là hiện thực võ đạo trong đời sống con người.

Bằng một hướng lãnh đạo thoáng, linh động thích ứng, công bằng hợp lý trong điều hành, phân nhiệm minh bạch, có ranh giới quyền hạn và trách nhiệm chúng ta sẽ thâu nạp để có được một hệ thống võ sư đồng hóa đầy tâm huyết, có khả năng chuyên môn cao, biết hòa hợp khi làm việc để cùng nhau đẩy mạnh Vovinam Việt Võ Đạo vào cộng đồng nhân loại.

Chương 30: Vài dòng giới thiệu Vovinam 

Vovinam là một môn phái võ đạo do Cố Võ Sư Nguyễn Lộc sáng tạo vào năm 1938 tại Hà Nội, miền Bắc Việt Nam.

Với tinh thần cống hiến này, ngay từ đầu sáng tạo, Cố Võ Sư Nguyễn Lộc đã nghĩ rằng: Đây sẽ là tài sản chung của nhân loại, nên Người đặt tên cho môn phái là Vovinam, một danh xưng Việt Nam được quốc tế hóa, để mọi dân tộc trên thế giới dễ đọc, dễ nhớ như nhau. Sau đó, từ Việt Võ Đạo được nối thêm vào để chỉ nơi xuất phát của môn võ. Từ đó, môn phái có tên là Vovinam Việt Võ Đạo.

  1. Về Võ Thuật: Vovinam đặt nền tảng trên kỹ thuật võ và vật cổ truyền của dân tộc Việt Nam có từ thời lập quốc. Đồng thời, nghiên cứu các môn võ đã có trên thế giới, rút tỉa ra những ưu điểm, gạn lọc lấy tinh hoa, rồi hệ thống hóa và hiện đại hóa theo phương thức riêng: “Một phát triển thành ba”. Phương thức này giúp người tập luyện thật kỹ, nắm vững những gì đã học để sử dụng có hiệu quả trong thực tế. Do vậy, mỗi đòn thế được tập gắn bó với nhau qua ba giai đoạn:

1- Khởi đầu, tập những đòn thế cơ bản, giản dị mà sắc bén, hữu hiệu khi tự vệ.

2- Sau đó, những đòn thế cơ bản này được ghép thành bài múa để tập đơn luyện một mình cho thật nhuần nhuyễn.

3- Cuối cùng, cũng chính những đòn thế cơ bản đó được ghép thành bài song luyện, đa luyện để tập giao đấu thực sự với nhau.

Phương thức “một phát triển thành ba” được áp dụng xuyên suốt cho tất cả đòn thế và bài bản của Vovinam để chúng gắn bó, liên kết với nhau hầu tạo phản ứng tự nhiên, bén nhạy khi cần tự vệ.

B-Về Võ Đạo: Mang tinh thần truyền thống dùng võ để chống xâm lăng, bảo vệ đất nước, dùng võ để tự giải quyết lấy những khó khăn, trở ngại để được sống xứng đáng và làm cho mọi người đều được sống xứng đáng.

Vovinam xây dựng tinh thần võ đạo qua những gương phấn đấu của các danh nhân thế giới, dung hợp mọi triết thuyết, mọi tôn giáo thành tư tưởng, quan điểm có thể ứng dụng vào đời sống thực tế.

Vovinam dạy cho người biết võ, rồi hướng dẫn họ phải làm gì lợi ích cho mình và cho người. Tinh thần đó được thực hiện cụ thể bằng nếp sống tình cảm, cách ăn ở, đối đãi với tha nhân.

Vovinam quan niệm: tinh thần thượng võ không phân biệt biên giới quốc gia, không kỳ thị giai cấp hay tôn giáo. Vì cuộc sống và nền hòa bình nhân loại, mọi người phải cùng chung sức hiến ích để xã hội và nhân loại mỗi ngày một tốt đẹp, gắn bó với nhau hơn.