fbpx
skip to Main Content
Vovinam Schools
Le Sang Library
Vovinam Home
Vovinam University International

Việt Võ Đạo Với thế hệ thanh niên hiện đại

 

C00- Mục lục

C01- Việt Võ Đạo Với thế hệ thanh niên hiện đại – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C02- Gía trị nhân bản của Việt Võ Đạo – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C03- Triết lý về võ đạo – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C04- Vài nét định hướng thể hiện nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C05- Ba định hướng lập thân của người môn sinh Việt Võ Đạo –Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C06- Quan niệm hành xử của người võ sư Việt Võ Đạo – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C07- Tiêu chuẩn tuyển chọn Chưởng Môn đời thứ III – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C08- Các thời kỳ võ học và đặc tính –Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C09- Tiến trình thí võ và võ học hiện đại – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C10- Đường hướng Việt Võ Đạo – Võ Sư Trần Huy Phong

C11- Vai trò người cán bộ trong các tổ chức và phong trào quần chúng -Võ Sư Trần Huy Phong

C12- Việt Võ Đạo và cuộc đời – Võ Sư Trần Huy Phong

C13- Việt Võ Đạo quảng phát vào cộng đồng nhân loại – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C14- Cuộc trường chinh vĩ đại của chúng ta -–Võ Sư Nguyễn Văn Thư

C15- Những phần vụ đóng góp của VVĐ vào công cuộc tranh thủ độc lập và xây dựng QG – Võ Sư Trịnh Ngọc Minh

C16- Tầm mức quan trọng và cần thiết của người Huấn Luyện Viên Việt Võ Đạo -–Võ Sư Trần Tấn Vũ

C17- Tuổi trẻ trước ngưỡng cửa hòa bình – Võ Sư Ngô Kim Tuyền

C18- Đổi đời, đổi người, đổi tính – Võ Sư Nguyễn Văn Nhàn

C19- Lay lòng gỗ đá – Võ Sư Diệp Khôi

C20- Ngàn năm mây bay – Huy Đạo

C21- Tự tình khúc – Trung Đạo

C22- Lòng nhiệt thành của tuổi trẻ – Võ Sư Nguyễn Văn Chiếu

C23- Ngôi tháp trường sinh – Võ Sư Nguyễn Văn Sen

C24- Suy tư về tuổi trẻ Việt Nam – Võ Sư Trần Văn Trọng

C25- Cách mạng Tâm Thân – Một đạo sống đầy tin yêu xây dựng – Võ Sư Dương Viết Hùng

C26- Mùa xuân trên đỉnh non cao -–Võ Sư Nguyễn Chánh Tứ

C27- Đức độ và tài lãnh đạo – Võ Sư Phạm Văn Vỹ

C28- Đôi mắt – Võ Sư Nguyễn Văn Hóa

C29- Bàn tay và khối óc – Võ Sư Trần Văn Nhiêu

C30- Đôi lời với các bạn mới nhập môn Việt Võ Đạo – Võ Sư Phạm Quang Trung

C31- Một bức tâm thư – Võ Sư Đặng Hữu Hào

C32- Cánh thư cho mẹ – Võ Sư Nguyễn Ngọc Phước

C33- Thư xuân gởi bạn – Võ Sư Lê Hữu Thanh

C34- Tâm sự một ngời khoác áo màu xanh – Võ Sư Lê Đức Phẳng

C35- Hứng khởi – Võ Sư Lê Thanh Liêm

C36- Đường hướng văn nghệ Việt Võ Đạo – Võ Sư Lương Thuận Vui

C37- Màu võ y – Võ Sư Lê Đằng Phương

C38- Tâm sự cái bao cát – Võ Sư Tô Văn Vượng

C39- Tay thép tim từ – Võ Sư Quách Hữu Thạnh

C40- Sống – Võ Sư Giang Quân Thiêm

C41- Thẩm luận để cầu tiến – Võ Sư Nguyễn Đình Nam

C42- Việt Võ Đạo sinh có nên làm chính trị không – Võ Sư Phạm Lương Thịnh

C43- Em yêu màu xanh – Võ Sư Nguyễn Văn Hưng

C44- Lời cho mẹ Việt Nam – Võ Sư Lê Hoài Tông

C45- Lời ca bất diệt – Võ Sư Dương Minh Hải

C46- Tư cách và đạo đức của bật trưởng thượng – Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

C47- Thơ Chưởng Môn

*********************************************

Chương 01- Việt Võ Đạo với thế hệ thanh niên hiện đại – VSCM Lê Sáng

Có hai vấn đề lớn thuộc lảnh vực lãnh đạo quốc gia đã trở thành hai vấn đề muôn đời của những người lo âu tới tiền đồ của quê hương xứ sở: vấn đề kinh tế và vấn đề giáo dục.

Thế hệ thanh niên hiện đại của chúng ta hiện đang bị “kẹt” giữa những xung khắc của một thời hậu chiến đặc biệt được gọi là “Phi hòa Phi chiến”. Chúng ta đều hiểu, một nền giáo dục tốt và đem lại nhiều thành quả thực tế phải có một nền kinh tế thịnh vượng yểm trợ, vì mức sống có cao, học hành mới đầy đủ, rồi sử dụng kiến thức mới vào việc cải tiến sao cho mức sống cao hơn. Nhưng thực tế có quá nhiều mâu thuẫn nội tại khiến thế hệ thanh niên hiện đại phải chịu thiệt thòi rất nhiều. Chúng ta nói hòa bình cùng lúc với ngăn ngừa chiến tranh tái diễn. Chúng ta nói phát triển trong lúc nền kinh tế suy trầm đòi hỏi nhiều biện pháp tiết kiệm. Chúng ta nói ổn định giữa lúc có nhiều bất ổn chưa giải quyết hay đang nảy sinh. Tuổi trẻ của chúng ta – chịu ảnh hưởng trực tiếp của thực trạng này – quả đã chịu đựng nhiều thiệt thòi lớn. Chiến tranh lâu dài tác động trực tiếp vào cuộc sống tuổi trẻ, khiến tuổi trẻ phải nỗ lực phát huy khả năng tự cường của mình để thích ứng với thực trạng đất nước. “Phải làm một cái gì” – tuổi trẻ của chúng ta nghĩ vậy, và chúng ta cũng nghĩ như vậy với thế hệ thanh niên hiện đại. Đúng, phải làm một cái gì để vượt thoát và vươn lên cho mình, cho gia đình và cho dân tộc mình được tốt đẹp hơn và thăng tiến hơn. Phải làm một cái gì, chúng ta đều dễ dàng đồng ý với nhau, nhưng – Phải làm gì đây?

Thói quen lâu đời khiến chúng ta thích lập kế hoạch và ước tính công việc trên những căn bản phương sách và phương tiện sẵn có. Căn bản đó chính là “Gia tài của Mẹ” và sự giúp đỡ của cha anh. Gia tài của mẹ thì đó, rách nát, tả tơi sau bao năm chiến tranh. Sự giúp đỡ của cha anh cũng mơ hồ không ít, vì cha anh cũng chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến quá dai dẳng, đã thiêu đốt cả tuổi trẻ vào chiến tranh, đã chống đối hăng say và đã hưởng mùi vị thành quả đắng cay, để trở thành những “anh hùng thấm mệt”. Sự bất lực được phô diễn trên hầu hết mọi địa hạt, làm tuổi trẻ thất vọng không ít. Đôi khi, thất vọng biến thành nổi loạn, như tuổi trẻ với cuộc Chính biến 1963, với sự biểu dương nguyện vọng chống Hiến Chương Vũng Tàu 1966. Nhưng rồi tuổi trẻ đi về đâu? Sự trống rỗng quá lớn sau khi thắng lợi quá dễ, làm tuổi trẻ càng cô đơn hơn. Vấn đề mơ hồ đã trở thành vấn đề nghiêm chỉnh: phải làm một cái gì và phải làm gì đây?

Hình ảnh gia tài của Mẹ và sự giúp đỡ của Cha Anh đã trở thành huyền thoại, vì những lý do chiến tranh, nghèo đói, chết chóc và hận thù đã làm khô cằn sức sống, mòn mỏi ý chí, úa héo nghị lực của thế hệ đàn anh.

Như vậy, sinh lộ của tuổi trẻ chỉ còn trông vào Cách Mạng Tâm Thân: làm sao cho khoẻ, cho vững, để có thể chịu đựng và đứng nổi được ở đời. Có thế, mới có khả năng suy luận và phán đoán, thích ứng với mọi tình thế, thoát khỏi mọi dối gạt được ngụy trang dưới mọi hình thức. Đó là “lửa” Việt Võ đạo, tức tinh thần và nghị lực Việt Võ Đạo muốn truyền thông tới các thế hệ thanh niên hiện đại.

Vậy, Việt Võ Đạo phải làm gì cho tuổi trẻ? Tuổi trẻ nên nghĩ gì và phải làm gì trước những thực tế không mấy tốt đẹp thường xuyên xảy ra xung quanh?

Điều tiên quyết vẫn là, tuổi trẻ phải có một nghị lực thật vững. Muốn thế, phải tiếp thu kiến thức và nghị lực của cha anh bằng truyền thông và huấn luyện, để:

– TỰ TIN: chỉ tin tưởng ở mình, ở truyền thống dân tộc, tin tưởng ở khả năng và nghị lực làm việc của mình có thể đạt tới, nhưng phải thật dung dị, khiêm nhường, lễ độ và tế nhị.

– THÁO VÁT: lanh lợi thích ứng với mọi hoàn cảnh thuận biến và nghịch biến, với tinh thần hăng say sáng suốt, nhưng cũng thật kỷ luật. Mực thước, biết kính trên nhường dưới, tôn trọng tôn ti trật tự xã hội.

– CÁCH MẠNG TÂM THÂN: phải khỏe, giỏi võ, tâm não huân bình, biết định hướng tương lai, đồng thời trau dồi tinh thần cao thượng, hào hiệp và hòa đồng, ứng dụng chủ thuyết cách mạng tâm thân vào trong đời sống bằng sự khai triển tối đa khả năng giúp tiến và hiểu biết của mình.

– DẤN THÂN NHẬP CUỘC : (nhưng phải thật trầm tĩnh và chính chắn) hãy trồng cây để ăn trái, hãy thao tác để hưởng thụ. Vượt lên trở ngại, chông gai mà đi. Dù phải chịu đựng, cắn răng mà tiến. Không than thân trách phận, hờn oán vu vơ.

Tóm lại, tuổi trẻ cần thích ứng với mọi ngoại cảnh bằng cách trau dồi tinh thần và khả năng tự tu, tự lập, tự chủ và tự thắng của mình. tinh thần và khả năng tự tu, tự lập, tự chủ và tự thắng vươn cao, phát triển, sẽ mặc nhiên giúp tuổi trẻ vượt qua những khó khăn, thử thách nhất thời mà tạo dựng tương lai…

Đó là điều Việt Võ Đạo đem lại cho tuổi trẻ. Lửa Việt Võ Đạo phải thắp sáng trong tâm và thân, thế hệ thanh niên hiện đại nguồn nghị lực, nhiệt thành, tin tưởng, yêu thương vô cùng tận.  

 

Chương 02: Gía trị nhân bản của Việt Võ Đạo – VSCM Lê Sáng

(Bài giảng thuyết dành cho Phái đoàn Việt Võ Đạo Âu Châu hành hương Việt nam và chiêm bái Tổ đường Việt Võ Đạo, ngày 15/08/1974 – VS CHƯỞNG MÔN LÊ SÁNG)

 

TÍNH CHẤT NHÂN ĐẠO CỦA VÕ THUẬT VÀ VÕ ĐẠO

Thời xưa, tại Đông phương, vì đất rộng người nhiều và vì hệ thống giao thông kém, kinh đô xa, con người chỉ có cách tăng cường khả năng tự tồn, chớ không thể chờ pháp luật can thiệp, giải quyết hộ những bất công.

Vì vậy, nảy sinh một công thức :

Hạng người thứ nhất, học võ để tự vệ (để phòng giặc cướp).

Hạng người thứ hai, học võ để tranh chấp (muốn áp bức người, giành lợi, phải giỏi hơn).

Và theo luật thừa trừ, cũng nảy sinh hạng người thứ ba trọng tài, can gián, dùng võ lực can thiệp, để :

(1)- Cứu người bị áp bức ; hoặc

(2)- Đôi khi, lợi dụng tình thế để tranh đoạt quyền lợi về mình.

Tất nhiên, người có thể nắm vai tuồng thứ ba kia phải là một người xuất sắc và có những khả năng đặc biệt, như võ công cao hơn, có nhiều uy tín, hoặc nhiều mưu lược, giỏi tâm lý, biết cách can gián.

Do đó, tự bản thân võ thuật, chúng đã có những giá trị đặc biệt, về cả xấu lẫn tốt. Gạt bỏ những giá trị xấu, giữ lại và phát triển những giá trị tốt, là đã nâng võ thuật lên hàng võ đạo.

Tiếng “Đạo” của người Đông phương – nơi có nhu cầu và tài nghệ của con người được nghệ thuật hoá và triết học hoá tới độ cao – quả thật, chưa có một từ ngữ tương đương nào có thể dịch thoát, vì “Đạo” ngoài ý nghĩa là “con đường”. Là “thông lộ” còn bao hàm cả ý nghĩa về tôn giáo, luân lý và nghệ thuật. Ví dụ : Uống trà là một nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và những ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, là trà đạo. Uống rượu là một thú vui, nhưng biết cách uống rượu với những nghi thức đặc biệt, và một quan niệm cao khiết về nhân tâm thế đạo, là tửu đạo. Thưởng hoa là một thú vui thông thường trong đời sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn là nghệ thuật thưởng hoa, và nâng cao hơn nữa, là hoa đạo.

Võ thuật cũng vậy. Học võ, để trau dồi kỹ thuật tự vệ hay chiến đấu hoặc dùng làm nghề mưu sinh, là võ thuật, võ nghệ. Nhưng học võ với ý thức cao, hướng thiện và cải thiện con người toàn diện, có quan niệm võ tốt, là võ đạo. Do đó, học võ cốt để khoe khoang, thi tài, hiếu thắng và tranh thắng, hoặc để sử dụng, thực hiện những ý đồ riêng tư, không phải võ đạo. Võ đạo đi từ những ý tưởng tốt, sang khuynh hướng tốt, để đạt tới một lý tưởng cao đẹp. Lý tưởng cao đẹp đó chính là do người, vì người và phát triển con người, để con người luôn luôn thăng tiến về mọi mặt, hầu có thể đóng góp khả năng giúp ích và hiến ích cho xã hội nhiều hơn. Ý hướng phục vụ con người, hướng thiện con người để làm cho xã hội tốt đẹp hơn, là ý hướng nhân bản. Khoa học phục vụ con người, là khoa học mang tính nhân bản. Võ thuật phục vụ con người, là võ thuật mang tính nhân bản, thăng tiến thành võ đạo.

VÕ THUẬT PHẢI ĐƯỢC HỆ THỐNG HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA

Trở lại với lối võ xưa của tiền nhân, lối học võ thích dụng cho một trình độ tiến hóa đã qua: hệ thống giao thông kém, phương tiện vận chuyển tồi – đi khoảng trăm cây số, nếu đi ngựa phải mất một ngày, hoặc đi bộ mất ba bốn ngày. Đi thuyền cũng chỉ tương tự như đi bộ hay đi ngựa, tùy theo vận tốc.

Điều này có quan hệ với võ học đương thời? Xin đáp: rất quan hệ. Vì hệ thống giao thông còn yếu kém, việc di chuyển khó khăn, nên sự truyền thông kiến thức – kể cả những kiến thức về kỹ thuật và nghệ thuật – rất giới hạn. Võ thuật cũng vậy, mỗi vùng có những cách thức tập luyện khác nhau, đòn thế khác nhau, kỹ thuật sử dụng khí giới khác nhau. Do vậy, kỹ thuật chiến đấu bằng quyền cước chung của dân tộc thật vô cùng phong phú, nhưng mỗi môn phái chỉ nắm giữ được ít nhiều bí thuật. Bởi đó, tinh thần tự tôn, chia thành môn phái ngày càng lên cao, nghiệt ngã, môn đồ nào sử dụng đòn thế không phải của sư môn sẽ bị khai trừ, liệt vào hạng phản đồ.

Sự trao đổi kiến thức về võ thuật có chăng, là chỉ nhằm vào những ngày hội làng với những môn giải trí đô vật hay giao đấu cá nhân, là những ngày long trọng trong năm quy tụ cả những khán giả trong làng và những khán giả làng bênh. Đời Trần có Giảng Võ Đường và chính sách cưỡng bách học tập võ nghệ, nhưng chú trọng nhiều vào giai cấp quý tộc và thiện dụng vũ khí hơn là căn bản quyền cước, để đáp ứng kịp thời với nhu cầu chống xâm lăng Mông Cổ. Đời Lê có chương trình cưỡng bách học tập võ nghệ cùng với kiến thức văn hóa qua các khoa thi Minh Kinh áp dụng cho các hàng quan võ từ tứ phẩm trở xuống, nhưng chưa phát động sâu rộng được trong quảng đại quần chúng, mặc dầu vẫn khích lệ gián tiếp bằng các khóa thi Minh Kinh Khoa cả văn lẫn võ được mở khắp nơi.

Trong khi đó, võ thuật căn bản là quyền cước vẫn được âm thầm trui rèn mỗi ngày thêm sắc bén bởi những vị võ sư ẩn danh. Song kỹ thuật ngày càng tân tiến, tâm hồn càng đóng khung vào cảnh trầm lắng, tịch mịch vô vi, thoát tục, xa lìa cuộc sống.

Vì giao thông hạn chế, nên việc truyền thông, hội nhập và thái dụng các tinh hoa võ thuật cũng bị hạn chế theo, ta thấy rõ: võ Bình Định khác với võ Sơn Tây, võ Quảng Nam khác với võ Thanh Nghệ, võ Gia Định khác với võ Hà Đông, võ 18 Thôn Vườn Trầu khác với võ Tân Khánh, tuy cùng chung một xuất xứ là võ Việt nam. Đã thế, kiến thức võ học chẳng những không trau giồi thêm, mà còn có thể bị mai một đi vì lối dạy “kén chọn học trò”. Ngày xưa, mỗi lò võ hay võ đường chỉ gồm dăm bảy môn sinh, hoặc nhiều lắm là vài chục môn sinh. Phương pháp huấn luyện lại nghiêng về gia truyền, tâm truyền, bí truyền và môn truyền: võ của họ này không truyền cho họ khác, hoặc chỉ truyền cho môn đệ thật xứng đáng, rồi còn lo xa, giữ lại vài miếng bí hiểm, cốt để phòng xa khi bị học trò phản bội “dùng võ thầy đánh lại thầy”. Môn phái này không bao giờ học hay dạy môn đồ phái khác. Làm trái lại là khi sư phản môn.

Bây giờ khác hơn. Nhờ những phương tiện giao thông tân tiến, chúng ta có thể thâu nạp và thái dụng mọi tinh hoa võ học trong nước, đồng thời chế biến để hóa giải và khắc chế các tinh hoa võ học nước ngoài. Xưa chống lại giáo dài, nay chống lại lưỡi lê. Xưa tay không chống với đoản đao, nay chống với dao găm (nhỏ hơn đoản đao) và các súng colt. Xưa, chú trọng tới đấu sức, nay chú trọng cả tới đấu mưu, đấu trí. Xưa, trọng nhiều về nội công, nay nghiêng về kỹ thuật, với cả những phương pháp té không đau, quăng quật và sự đối phó thông thường khi đối phương bất ngờ sử dụng võ khí hay xe cộ đâm phải, có thể nặng tay đánh chết một kẻ gian ác; nhưng nay chỉ cần khóa tay hay đánh gục, để phần còn lại cho pháp luật liệu lý v.v…

Rõ rệt là mỗi thời đại, có một nhu cầu riêng về võ học. Nên võ thuật cần phải được hệ thống hóa và hiện đại hóa, mới có giá trị thực dụng trong đời sống.

VÕ HỌC TRUYỀN THỐNG PHẢI ĐƯỢC TỔNG HỢP VÀ THÁI DỤNG

Nhìn lại quá khứ tranh đấu của người Việt, người bàng quan thường ngạc nhiên về sự tồn tại đặc biệt của quốc gia Việt nam trước mọi áp lực lịch sử. So với Do Thái, người Việt tưởng như không kiên nhẫn và đoàn kết bằng người Do Thái, tuy cũng bị nhiều áp lực thôn tính còn đẫm máu hơn Do Thái, nhưng hậu quả lại khác hẳn. Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, trong lúc Do Thái đã bị diệt quốc và bị xua đuổi tàn nhẫn. So với Trung Hoa, người Việt tưởng như thiếu sáng kiến, kỷ luật, đoàn kết và óc tổ chức không bằng người Hán, nhưng rốt cuộc vẫn tự giải thoát được mọi cuộc đô hộ, xâm lăng, hiểm họa diệt chủng, bằng những trận đánh thắng cuối cùng. So với người Mông Cổ, người Việt có vẻ như không thiện chiến bằng họ, nhưng rốt cuộc, đã đánh bại người Mông Cổ ba lần xâm lăng đại quy mô, trong lúc các đế quốc lớn đương thời như Trung Hoa (Tống, Kim), Nga La Tư, Ba Tư, v.v… đều bị đánh gục dễ dàng, so với các dân tộc lân bang, người Việt tưởng như không có trình độ văn hóa được biểu dương bằng những công trình kiến trúc lớn như Chiêm Thành, Bồn Man và Chân Lạp, hoặc địa thế hiểm trở như Lão Qua (Ai Lao), nhưng rốt cuộc vẫn đồng hóa được Chiêm Thành, Bồn Man và Thủy Chân Lạp và suýt đồng hóa được Ai Lao về đời Quang Trung đại đế (chiếm gần hết Bắc Lào (Trấn Ninh) – sau người Pháp đô hộ định lại địa giới, trả lại cho Lào).

Như vậy, võ học Việt nam phải có những đặc thù truyền thống để tồn tại, tiềm ẩn dưới hình thức ôn hòa bình thường và sự nhu nhược giả tạo. Những đặc thù ấy được xuất phát từ tính tình, nếp sống, tập quán lâu đời, đã trở thành truyền thống của người Việt trước mọi cảnh huống và tình huống lịch sử.

Triệu Quang Phục, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương, Triệu Chinh Nương, Trưng Nữ Vương, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v… đều hiểu rõ nguyên lý “dĩ nhu chế cương” và “cương nhu phối triển” và nhất là “đà” (élan) của võ học: muốn đánh trúng, đánh mạnh, đánh gục, phải lùi lại để lấy “đà”. Thế nước yếu, muốn đánh ngã đối thủ, trước hết phải lùi lại đã, mới có “đà” tấn công.

Phải đánh vào chỗ địch yếu, tránh chỗ địch mạnh: Lê Lợi 5 năm đầu tiên không nắm vững nguyên lý đó, cứ ngày đêm rèn quân để đánh vào chỗ địch mạnh nên thất bại ; 5 năm sau, nhờ chiến lược Nguyễn Trãi, đánh vào chỗ địch yếu, nên đã thành công. Quang Trung muốn đánh tan địch bằng một trận tổng phản công quyết định, phải cho địch những cơ hội đánh thắng vài trận nhỏ, rồi mới ra quân đánh trận quyết định tối hậu năm Kỷ Dậu 1789.

Chiến pháp của Trần Hưng Đạo : dĩ nhu chế cương, dĩ đoản chế trường. Mông Cổ giỏi đánh ngựa và bắn tên : đánh trên rừng và trên sông, hai ưu điểm trở nên vô dụng.

Chiến pháp của Lý Thường Kiệt : đánh thốc vào nội địa địch, nhưng phải dùng tâm lý chiến yểm trợ (bài xích tân pháp Vương An Thạch làm dân Tàu khổ). Tới khi Tôn Đản vào Khâm Châu giết hết quân địch trong thành, là phải rút ngay vì chánh nghĩa mất. Địch đem quân trả thù, ông chỉ dàn quân đánh những trận nhỏ, vì biết rồi địch bị kẹt về tiếp vận, thủy thổ không hợp nên ốm đau nhiều, phải rút. Rút cũng không đuổi, vì thắng thế là đủ rồi, không thể làm mất mặt địch hoàn toàn để chiến tranh liên miên cho dân khổ, với lý do chiến lược đau xót : nước nhỏ dân ít, không thể đánh gục Trung Hoa.

Lê Lợi gạt nước mắt mà làm lại, làm lại mãi: vợ, con bị giết, bao lần ra quân đều bị tiêu diệt để lại phải tổ chức lại, tổ chức lại mãi. Và cuối cùng, ông đã lật ngược tình thế, chuyển bại thành thắng, nhờ đức tính nhẫn nhục, kinh nghiệm chiến trường và bằng thay đổi chiến pháp.

Quang Trung khác hơn. Ông biết dân chúng Bắc Hà còn hướng về nhà Lê, không phục ông, nên phải thua nhỏ để thắng lớn bằng chiến pháp tốc chiến tốc quyết.

Truyền thống võ học Việt nam là vậy. Chúng ta nên tách rời cương nhu, công thủ ra thành nhiều môn phái hay kết hợp lại? Dĩ nhiên, phải kết hợp theo tinh thần truyền thống Việt nam. Hồ Quí Ly, nhà Hậu Trần thất bại, nhưng Lê Lợi thành công, vì dùng “cương” dùng “công” thì phải dùng “nhu” dùng “thủ tiên công”.

Đó chính là những kinh nghiệm lịch sử quý báu để chúng ta áp dụng định luật “cương nhu phối triển” cho võ đạo Việt nam, bằng sự tổng hợp và thái dụng tinh hoa võ học truyền thống dân tộc: không thể thuần nhu hay thuần cương.

QUAN NIỆM HÀNH VÕ PHẢI THÍCH DỤNG

Thời xưa, dưới các chế độ nhân trị, việc cai trị hoàn toàn trông cậy vào đức độ và tài năng của giới chức cầm quyền, chớ không có hiến pháp và luật pháp như chúng ta ngày nay. Nhà cầm quyền thương dân, liêm khiết, dân được hưởng phúc lợi. Bằng ngược lại, người dân “thấp cổ bé miệng” đành cắn răng chịu đựng bất công, nếu không muốn nổi lên chống lại.

Do đó, càng bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công, người dân càng mơ ước được giải thoát do những phép mầu mang lại. Phép mầu của thần thánh đã đành, nhưng còn những phép mầu khác, thực tế hơn. Đó là những vị hiệp sĩ có bản lảnh võ thuật cao, đột nhiên xuất hiện như những vị thiên thần để giúp đỡ họ chống bất công. Tại Việt nam, những huyền thoại về Đoàn Thượng, chàng Lía… đã trở thành truyện tích. Nguyễn Hữu Cầu, xuất thân cũng là một hiệp sĩ chống bất công được nhân dân ủng hộ và tin theo. Rồi ông mưu loạn lớn để chống triều đình, nên đã đi vào con đường phản tặc. Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cũng xuất thân là những hiệp sĩ diệt trừ tham quan ô lại, tay chân của quyền thần Trương Phúc Loan, nên được dân tin theo mà dựng nên đế nghiệp một thời. Cặp “uyên ương song kiếm” Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân cũng xuất thân từ một sư môn, hành hiệp nổi tiếng một thời rồi trở thành lương tướng của nhà Tây Sơn.

Ngày xưa thì được: anh hùng cá nhân, giang hồ hành hiệp, giúp đỡ người nghèo, thanh trừng bất công – vì đó là xã hội nông nghiệp chơn chất của một thời phong kiến đã qua, xã hội không có luật pháp rõ rệt, nên rất cần những anh hùng đơn độc xuất hiện như những vị phúc thần, giúp dân trừ bạo.

Nhưng ngày nay thì không: xã hội đã có tổ chức, thể chế, pháp luật rõ rệt. Không thể ban ngày nại cớ “vì dân trừ bạo” mà phi thân lên nóc nhà, rở ngói ra “đột nhập gia cư bất hợp pháp”. Đâu đó đã có luật pháp. Có thể tranh chấp, chống đối một người, một nhóm người, một tổ chức, nhưng phải trong vòng hiến định và luật định.

Bởi lẽ đó, người hiệp sĩ thời nay không thể là một hiệp sĩ sống và làm việc đơn độc theo lối sống “người hùng cô độc” hoặc ở ẩn nơi non cao rừng thẳm vài năm mới vãn du hành hiệp một lần. Anh ta phải tôn trọng pháp luật và sống trong vòng pháp luật, chớ không thể tự tách rời ra khỏi cộng đồng dù với bất cứ danh nghĩa nào. muốn chống bất công, giúp ích và hiến ích mọi người chung quanh, anh ta phải hội nhập vào một đoàn thể hay một thế lực có chủ thuyết, đường lối, qui chế, cơ cấu tổ chức, quy mô và phải khép mình trong kỷ luật của đoàn thể hay thế lực ấy cùng trù liệu chương trình làm việc chung. Mục đích vẫn thế, nhưng phương pháp và phương tiện “hành hiệp” phải đổi thay.

VÀ PHẢI VƯỢT LÊN MỌI ĐỊNH KIẾN, THÀNH KIẾN VỀ ĐỊA PHƯƠNG, MÔN PHÁI, QUỐC GIA, TÔN GIÁO…

Và trước khi giúp tiến, hiến ích mọi người, người hiệp sĩ thời đại của chúng ta phải tự tiến trước đã. Phải làm gì để tự tiến? Trước hết, anh ta phải tự kiểm. Tự kiểm để làm gì ? Tự kiểm để thêm tốt bỏ xấu, nói chung là cách mạng tâm thân theo chiều hướng tốt.

Anh hiệp sĩ thời đại kia chính là hình bóng của người môn sinh Việt Võ Đạo chúng ta. Trở lại những nhu cầu tự tiến, trước hết chúng ta phải thay đổi chính mình – từ tâm hồn tới thân chất.

Tại sao phải thay đổi thân chất ? Vì nhu cầu thân chất của người võ đạo là phải mạnh.

Tại sao phải thay đổi tâm hồn ? Vì mỗi chúng ta đều bị ràng buộc, bị che mờ vì một số định kiến về địa phương, môn phái, quốc gia, tôn giáo. Với những định kiến này đã làm mê hoặc chúng ta, ngăn cách chúng ta với lẽ phải, với chân lý. Nếu được khích lệ, chúng sẽ phát triển thành những thành kiến về địa phương, môn phái, quốc gia, tôn giáo. Chúng sẽ làm chúng ta ngộ nhận rằng người địa phương này tốt hơn người địa phương khác, người của môn phái này giỏi hơn người của môn phái khác, người nước này tốt hơn người nước khác, người của tôn giáo này tốt hơn người của tôn giáo khác. Ngộ nhận sẽ đưa đến kỳ thị, là đầu mối của mọi bất công. Trong lúc sự thật khác hẳn : địa phương nào, môn phái nào, quốc gia nào, tôn giáo nào cũng có người giỏi người dở, người tốt người xấu và sự lượng giá chính xác nhất phải là sự lượng giá chính những sự kiện, dữ kiện, chớ không phải trên những định lệ, ước đoán vô căn cứ.

Là người Việt Võ Đạo, chúng ta luôn phải đối diện với lương tâm và sự thật – đó là sứ vụ của người hiệp sĩ hiện đại. Được như vậy, chúng ta sẽ vượt lên được những định kiến, thành kiến để thâu tóm mọi di sản tinh hoa võ thuật của ông cha, hội tụ các phương pháp luyện tập của các vùng lại, sắp xếp, sang định thành từng hệ thống: quyền cước riêng, vật và quăng quật riêng, khí giới riêng cùng những công phu luyện nội, ngoại công, thần công, khí công, nhuyễn công và ngạnh công, v.v… hầu mở rộng Việt Võ Đạo thành Nhân Võ Đạo, khi đã biết cách hóa giải những sai khác bằng tinh thần võ đạo.

GIÁ TRỊ HÀNH VÕ THẬT SỰ CỦA CÁC MÔN PHÁI NỔI DANH

A- Võ đạo Trung Quốc

Võ đạo Trung quốc thường lấy phái Thiếu Lâm làm “võ lâm Bắc Đẩu” và là ngã ba định mạng cho những chuyện thật bất ngờ.

Chuyện bất ngờ thứ nhất là, Đạt Ma sư tổ không phải là người Trung Quốc. Ngài gốc từ Ần Độ, môn đệ của sư tổ Bát Nhã Đa La, vị sư tổ Thiền Tông đời thứ 27, Ngài sang Trung Quốc chỉ̉ với mục đích truyền bá Thiền Tông, bằng cách tìm một địa điểm biệt tịch để thâu nhận và giáo hóa môn đệ.

Chuyện bất ngờ thứ hai, trên đường hành đạo, người gặp một tục gia đệ tử có khí lượng khá là Triệu Khuông Dẫn. Biết Triệu quân có khí độ quân vương, ngài truyền cho bài “Hồng quyền” gồm 32 thế chính, khai triển tứ trụ thành 128 thế biến. Nhờ đó, họ Triệu dương danh thiên hạ và sau khi lên ngôi Tống Thái Tổ, bài “Hồng quyền” chuyển danh thành “Thái Tổ quyền”. Tống Thái Tổ cũng tri ân tình sư đệ, đích thân tới thăm sư phụ sau khi thành công và xuất tiền ra xây lại ngôi chùa theo họa đồ của tổ sư vẽ sẵn.

Điểm bất ngờ thứ ba là, tục gia đệ tử của Đạt Ma sư tổ đông hơn xuất gia đệ tử, nên môn phái Thiếu Lâm thành hình và hành võ theo đủ các nghiệp vụ của tục gia đương thời: dạy võ, bảo tiêu, bán thuốc dạo, đóng tuồng, binh nghiệp .v.v… yểm trợ cho việc quảng bá Thiền Tông tại khắp Trung Quốc và các nước lân bang, kể cả Việt nam.

Điểm bất ngờ thư tư là “Hồng quyền” và “Mai Hoa quyền” nổi tiếng hơn hẳn phương pháp thiền tọa “kiết già phu tọa” (Karma yoga) của Yoga, được gọi là “Dịch Cân Pháp” hay “Dịch Cân Kinh” giúp ích rất nhiều cho việc thiền định, tĩnh tọa và diện bích tư tưởng.

Rõ rệt là học võ Thiếu Lâm chỉ là một phương tiện hoằng dương Thiền đạo, vì đó mới là chủ điểm của Đạt Ma sư tổ, vị sư tổ Thiền đạo tại Trung Quốc. Các thành tích hành võ khác của tục gia đệ tử – kể cả Triệu Khuông Dẫn – chỉ là thứ yếu.

Kế đó, là môn phái Võ Đang của đạo sĩ Trương Quân Bảo, cũng gọi là Trương Tam Phong (Tam phong : ba ngọn núi), một vị xuất đồ của Thiếu Lâm phái. Cũng nặng về tu hành (theo Lão Giáo), vị sáng tổ Võ Đang cũng tổ chức môn phái tương tự như Đạt Ma sư tổ. “Thái Cực quyền” được phổ biến rộng, nhờ sự phổ biến rộng rãi Đạo giáo. Loạn Hồng Tú Toàn – Thái Bình Thiên Quốc – và giặc Cờ Đen v.v… đều xiển dương thành tích này. Hiện nay, “Thái Cực quyền” của môn phái Võ Đang cũng vẫn được dạy trong chương trình giáo dục của Trung Hoa Dân Quốc.

Võ đạo Trung Quốc do đó, thiếu hẳn giá trị võ đạo thuần túy, mà chỉ còn là một ngành sinh hoạt yểm trợ, lệ thuộc vào sự phát huy tôn giáo, hoặc hội nhập vào chính trị để trở thành công cụ đấu tranh chính trị.

B- Võ đạo Nhật Bản

Võ đạo Nhật Bản, gốc từ Nhật Võ Đạo (Bushido), chịu ảnh hưởng mạnh của Thần Giáo – và sau đó, được bồi dưỡng thêm bằng tư tưởng Phật Giáo.

Khác với võ đạo Trung Quốc nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ đạo Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào sinh hoạt chính trị, để trở thành một giai cấp xã hội: giai cấp võ sĩ đạo (Samourai). Đây là một giai cấp đặc biệt, chỉ Nhật Bản mới có. Người võ sĩ đạo Nhật Bản được huấn luyện ngay từ nhỏ những kỹ thuật chiến đấu tay không và võ khí rất lành nghề và tinh thần võ sĩ đạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng trong bộ luật “Nhật Võ Đạo”, trong đó có 5 đức tính chánh và 3 đức tính phụ. 5 đức tính chính là : sự ngay thẳng tức đức công bằng, đức can đảm, đức nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm. 3 đức tính phụ là : đức vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc.

Rõ rệt là người võ sĩ đạo Nhật Bản được huấn luyện để trung thành với chủ: một vị lãnh chúa, một vị tướng quân hay một chủ nhân trọng nghĩa. Bushi – tiếng Nhật có nghĩa là nghĩa hiệp – không giống với nghĩa thông thường, mà chỉ có nghĩa là quên mình để nghĩ tới tha nhân – tức chủ nhân. Truyền thống này đã tạo cho người võ sĩ đạo Nhật Bản có nếp sống thật đặc biệt: vâng lời tuyệt đối minh chủ của mình, suốt đời không đổi chí. Đặc biệt hơn nữa là nước Nhật có những “Tự Sát Viện” (Seppuku, Kappuku hay Hara-kiri) dành cho những người có tội tới đền tội bằng cách mổ bụng ngã sấp xuống.

Ta thấy tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản gần như lệ thuộc hẳn vào chính trị bằng động cơ tôn giáo. Người võ sĩ đạo Nhật do đó, ít có sáng kiến và ý chí tự cường, nhưng ngược lại, giàu can đảm và kỷ luật, rất cần cho sự điều hành tập thể.

C- Võ đạo Đại Hàn

Võ đạo Đại Hàn quen thuộc với chúng ta từ năm 1964 với sự hiện diện của các sư đoàn đồng minh Đại Hàn “Mãnh Hổ”, “Thanh Long”, “Bạch Mã”, v.v…

Võ đạo Đại Hàn nằm giữa thông lộ Trung Hoa – Nhật Bản, nên ảnh hưởng rất nhiều ở cả hai nền võ đạo đặc biệt này. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người Đại Hàn bỏ quên dân tộc tính. họ quen sống trên sa mạc tuyết ít nguồn lợi, luôn luôn phải đối địch với đối nhân và đối vật để dành nhu cầu sống, nên rất thực tế. Đánh trên tuyết cần ra đòn nhanh và mạnh, khai triển tất cả những ưu điểm của thân mình: “Túc Quyền Đạo” (Tae Kwon Do). Túc Quyền Đạo, đúng như tên của nó, không cần nói nhiều, mà chỉ cần “đá” nhanh “đấm” lẹ để sống còn trên đất tuyết.

Do đó, chúng ta không lạ gì khi người Đại Hàn thiện dụng cặp chân dài tối đa trên tuyết. Chúng ta cũng không lạ gì khi thấy người Đại Hàn thường lầm lì ít nói, cũng như Túc Quyền Đạo rất nhẹ về lý thuyết võ đạo. Và chúng ta cũng không lạ khi thấy người Đại Hàn nhìn bên ngoài có vẻ ngây ngô, cũng như khi xử thế có phần kém tế nhị và hay dùng bạo lực. Đó là truyền thống võ đạo đặc biệt của Đại Hàn.

D- Tinh thần hiệp mã thượng Tây phương

Ngoài các môn phái võ thuật, võ đạo Đông phương, chúng ta còn có thể đề cập đến tinh thần hiệp mã thượng (chevalerie) Tây phương, một tinh thần võ đạo đặc biệt phản ảnh nếp sống phong kiến, trưởng giả của giai cấp quí tộc Tây phương thời Trung cổ.

Tinh thần hiệp mã thượng biểu dương tinh thần “chính nhân” chú trọng tới các nghi thức xử thế quí tộc hơn là thực trạng xã hội. Người chính nhân ăn mặc sang trọng, kiểu cách, nói năng mực thước, nhưng không cần thiết lắm tới đức tính tháo vát và lòng nhân đạo. Do đó, ta thấy người quân tử Tàu có thễ chế vì bênh yếu chống mạnh, nhưng ta không thể thấy chính nhân Tây phương làm những công việc tương tự.

Người hiệp sĩ mã thượng (chevalerie) Tây phương chịu ảnh hưởng sâu đậm ở quan niệm này, nên sự hành võ của họ nặng về trình diễn hơn là phần thực dụng : hai lưỡi gươm to bản sáng ngời, bộ áo giáp bóng loáng nặng nề, con ngựa thật đẹp, đóng yên cương quá chắc, cây giáo thật to và thật dài nhọn, cồng kềnh. Tất cả, chỉ để sử dụng trong những trường hợp song đấu, trình diễn ở đấu trường hơn là ở chiến trường. Ngoài ra, người hiệp sĩ mã thượng còn được ưu đãi quá đặc biệt: nhà cao, cửa rộng, xe ngựa, gia nhân v.v… nên không hề biết tới thực trạng của một xã hội nhiều bất công, khổ cực. Cuối cùng, chính trị xen vào nội bộ của họ, để họ giết lẫn nhau và cùng bị tiêu diệt.

GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CỦA VIỆT VÕ ĐẠO

Khác với những môn phái võ đạo nhận chịu nhiều ảnh hưởng của tôn giáo và chính trị, hoặc đôi khi, trở thành chính công cụ hoặc phương tiện hành giáo hay hành chánh, Việt Võ Đạo vẫn giữ vững truyền thống độc lập đặc biệt của mình với truyền thống tổng hợp võ học Việt nam và truyền thống này được tiếp diễn trong các thời đại Tiền Việt Võ Đạo liên tục qua các thời đại lịch sử. Đôi khi, tôn giáo cũng đem lại nhiều ảnh hưởng với võ đạo, nhưng không vì thế mà tôn giáo hóa võ học. Đôi khi, chính trị cũng xen lẫn, nhưng thường hòa hợp với võ đạo để trở thành một sức mạnh chung đối phó với cường xâm ngoại nhập. Do đó, các bậc danh tướng, lương thần thường lui về ở ẩn lúc công thành danh toại, với một cuộc sống vừa tiêu diêu, vừa nhiệm thế bằng cách vẫn can dự vào việc làng xã, khi được hỏi ý kiến.

Trở lại với hiện cảnh của Việt Võ Đạo chúng ta: rõ rệt là nền võ đạo của chúng ta hoàn toàn độc lập với các ảnh hưởng tôn giáo và chính trị, tuy độc lập không có nghĩa là cô lập và không biết liên kết khi hữu sự. Quá trình này được ghi nhận trong những biến cố lịch sử đặc biệt vào những năm 1945 – 1946, 1954, 1963, 1973 tới nay. Mặc dù hợp tác với những thế lực chính trị đương thời trong các nhiệm vụ chống xâm lăng, bảo vệ dân tộc và cứu trợ xã hội, nhưng môn phái vẫn giữ vững tư thế độc lập của mình trong mọi cảnh huống và tình huống lịch sử.

Do đó, chúng ta có thể khẳng định rõ rệt: trong các môn phái võ đạo hiện nay, riêng chỉ có Việt Võ Đạo mới đích thực là võ đạo của võ đạo, tức võ đạo thuần túy, không bị chi phối bởi bất cứ ảnh hưởng tôn giáo hoặc ảnh hưởng chính trị nào. Việt Võ Đạo mới đích thực là võ đạo của nhân loại, vượt thoát mọi giai cấp và tôn giáo, để bao dung, kết hợp, hóa giải mọi chênh lệch của xã hội loài người.

SỨ VỤ VIỆT VÕ ĐẠO TRONG HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

Dạy cho người biết võ rồi hướng dẫn họ phải làm gì lợi ích cho mình và cho người là võ đạo. Còn có Đạo rồi mới học võ để bảo vệ và phát huy Đạo, thì chỉ là dùng võ để làm phương tiện, làm công cụ, chứ không phải “làm võ đạo”.

Việt Võ Đạo đi theo con đường võ đạo độc lập và thuần túy, nhất thiết từ chối mọi chi phối, đồng hóa của tôn giáo và chính trị. Do đó, Việt Võ Đạo đang phát triển để trở thành võ đạo của võ đạo, tức võ đạo thuần nhất của con người.

Các cán bộ Việt Võ Đạo cần ý hội sứ vụ này trong tương lai quảng phát võ đạo vào cộng đồng nhân loại, bằng cách phát huy song song tinh thần võ đạo và kỹ thuật võ học.

Tinh thần võ đạo cần phải được thể hiện bằng nếp sống, tình cảm, cách ăn ở, đối đãi với tha nhân sao cho mọi người hiểu và yêu kính mình trước khi đến thụ giáo. Chúng ta phải truyền thông ấn tượng tốt vào cảm quan của đối tượng về một tinh thần võ đạo thật sự không biên giới quốc gia, giai cấp, tôn giáo. Trường hợp đão ngộ ưu tiên cho những người bằng cấp lớn vào địa vị cao trong Việt Võ Đạo chỉ là sự đáp ứng những tiêu chuẩn tiếp thụ tinh thần võ đạo chớ không phải vì tiêu chuẩn bằng cấp độc tôn hay tiên quyết.

Kỹ thuật cần tinh tiến, đổi mới, võ đạo càng lâu đời, càng cò truyền thống, càng được tôn quý. Việt Võ Đạo là kết tinh của tinh thần và kỹ thuật chiến đấu để giữ nước, dựng nước và mở nước của dân tộc Việt có từ thời lập quốc. Võ sư sáng tổ Nguyễn Lộc là người đầu tiên có công thâu thập kho tàng võ học phong phú của dân tộc ẩn náu ở nhiều vùng với nhiều phương pháp huấn luyện độc đáo, đặc dị, sang định và bổ túc phần phân thế thất truyền, rồi hệ thống hóa và hiện đại hóa thành Vovinam Việt Võ Đạo. Hiện nay, Việt Võ Đạo đã có một Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan độc lập và thuần túy võ đạo và hội nhập vào cuộc sống bằng chủ thuyết cách mạng tâm thân, luôn luôn gần gũi với con người, trọng tha nhân, hiến ích xã hội, bằng biểu tượng bàn tay thép đặt lên trái tim nhân ái.

Giá trị nhân bản ưu việt của Việt Võ Đạo là ở chỗ đó: từ ái, hóa giải, kết hợp, bao dung và bình đẳng với mọi người, không phân biệt và kỳ thị địa phương, quốc gia, giai cấp, tôn giáo hay chính kiến.

Chương 03: Triết lý về võ đạo

1 – Triết lý về võ đạo -VSCM Lê Sáng

I.- KHÁI NIỆM

Khác với người Tây phương với thói quen phân tích sự việc để quy định thành từng bộ môn sinh hoạt rõ rệt, người Đông phương thường áp dụng óc tổng hợp vào mọi ngành sinh hoạt xã hội và quan niệm rằng cái “hồn” của sự vật là tâm điểm đồng quy của mọi sự việc và vật thể.

Quan niệm “Thiên Địa Vạn Nhất Thân Thể” của Nho Giáo và quan niệm “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật” của Lão Giáo chính là nguồn gốc của mọi ngành sinh hoạt xã hội, được biểu hiện bằng Dịch học.

Áp dụng vào thực tế đời sống, chúng ta thấy ngay sự cách biệt giữa một “sự việc không hồn” và một “sự việc có hồn” trong nếp sống của người Việt.

Uống trà là một nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, là trà đạo. Uống rượu là một thú vui, nhưng biết cách uống rượu với những nghi thức đặc biệt và một quan niệm cao khiết về nhân tâm thế đạo, là tửu đạo. Thưởng hoa là một thú vui thông thường trong đời sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn là nghệ thuật thưởng hoa, và nâng cao hơn nữa, là hoa đạo.

Võ học xuất phát từ Đông phương cũng đi theo định lệ ấy, theo tiến trình chung. Mới đầu, chỉ là biểu hiện sức mạnh và tài khéo của cơ thể để tấn công hay tự vệ, được chuyên hóa gọi là võ nghệ. Kế đó là những phát kiến mới về luật thăng bằng và luật quân bình của cơ thể và thân chất, tùy trường hợp mà hình thành các môn phái võ thuật. Sau cùng, quy định những luật tắc rõ rệt về triết lý và đức lý thành võ đạo, để võ học trở thành một ngành học nhân bản phục vụ và hướng thiện hữu hiệu cho xã hội, dân tộc và nhân loại.

Tiến trình của võ học do đó, đi từ “nghệ” tới “thuật” và đi từ “thuật” tới “đạo”, tức đi từ những biện pháp, cách thức và kỹ thuật dùng sức mạnh sang triết lý và đức lý dùng sức mạnh sao cho chính đáng, bênh vực lẽ phải, chánh nghĩa, bảo vệ quyền sống của con người và góp phần xây dựng xã hội – thay vì những ý đồ ngược lại, làm băng hoại con người và xã hội.

Triết lý về võ đạo khởi từ ý thức đó, đã nâng cao võ học lên địa vị một ngành học nhân bản và thực dụng ngay trong môi trường hoạt động thiết yếu của con người.

II.- TRIẾT LÝ VÕ ĐẠO TRONG TRIẾT HỆ ĐÔNG PHƯƠNG

Chúng ta đều biết võ đạo khởi từ một môn thể thao thực dụng. Môn võ đạo đầu tiên được coi như một ngành thể thao thực dụng với nhân loại, có những triết lý và đức lý được hệ thống hóa và phản ảnh tinh thần Bà-la-môn là Yoga.

Trước hết, Yoga, gốc từ tiếng Phạn, có nghĩa là kết hợp : kết hợp con người với vũ trụ, kết hợp cái hữu hình với cái vô hình, kết hợp cái hữu hạn với cái vô hạn.

Về đại cương, chúng ta thấy Yoga không những có tác dụng điều dưỡng cơ thể, kinh mạch cho máu huyết lưu thông, tinh thần sảng khoái, sức khỏe dồi dào, mà còn là một môn tu tâm, để tâm hồn luôn luôn hướng thiện, trau dồi đạo đức, thoát khỏi vòng đau khổ trầm luân. Với nguyên lý căn bản “dĩ tịnh chế động”, Yoga gồm 4 ngành chính :

– (1) Karma Yoga tức Nhân quả kết hợp hoặc Kiết già phu tọạ.

– (2) Hatha Yoga tức Nhật Nguyệt kết hợp hoặc Âm Dương kết hợp.

– (3) Jnana Yoga tức Tâm Tư kết hợp (dùng triết học, suy tư để tìm chân lý).

– (4) Raja Yoga tức Vương Giả kết hợp.

Từ gốc Yoga Ấn Độ, hòa thượng Đạt Ma thiền sư đã du nhập vào Trung Quốc , thái dụng với võ cổ truyền Trung Quốc mà lập ra môn phái Thiếu Lâm, chủ yếu lấy tĩnh chế động, lấy đức chế bạo. Dù sao, triết lý căn bản của môn phái này cũng biểu hiện rõ rệt triết lý và đức lý Phật Giáo. Tới Trương Tam Phong, một đạo sĩ ngoại đồ của Thiếu Lâm Tự, ông đã tách rời ra và phát huy một môn võ học riêng biệt nổi tiếng một thời là môn Võ Đang. Tuy là ngoại đồ Thiếu Lâm, vị sáng tổ Võ Đang có một quan niệm võ học khác hẳn: ông lấy triết lý căn bản võ học của môn phái mình trên tinh thần Khổng Lão truyền thống của Trung Quốc để sáng tạo ra những nguyên lý võ học “thuần nhu” mới, như Thái Cực Quyền và Thái Cực Kiếm, mỗi thứ 64 thế, lấy tinh túy từ Dịch học: Thái Cực (đầu) sinh lưỡng nghi (hai mắt), lưỡng nghi sinh tứ tượng (tay chân), tứ tượng sinh bát quái (8 đoạn xương chân tay) v.v… Hiện nay, môn Thái Cực Quyền vẫn được coi là môn thể thao thông dụng áp dụng tại học đường Trung Quốc.

Phải chờ đến năm 1659, nhà sư Thiếu Lâm có tục danh Trần Nguyên Tán lưu vong qua Nhật sau khi bị Triều đình Mãn Thanh ruồng đuổi, môn võ cổ truyền Atewaza Nhật Bản mới được thái dụng với võ Thiếu Lâm hình thành nhu thuật vào năm 1627, bởi danh y Sirobei Akiyama. Vốn là người thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo và Thần Giáo truyền thống của Nhật Bản, danh y Sirobei Akiyama mới phát kiến ra một triết lý mới về võ học nhân một trận bão tuyết làm các cây lớn đều đổ, ngoại trừ những cây lau sậy bé nhỏ biết uốn mình theo chiều gió. Luật thăng bằng đã lóe sáng trong tâm tưởng ông một ý niệm nghịch đảo : cây sậy còn sống vì nó yếu. Tại sao không áp dụng một triết lý mới về võ học: lấy yếu chống mạnh, lấy mềm chống cứng? Nhu thuật được khai sinh từ đó và tới năm 1889 mới được bác sĩ Jijoro Kano (1860 – 1938) biến chế, lược bỏ những thế võ độc hại và vận dụng tư tưởng Nhật Võ Đạo (Bushido) vào việc huấn võ mà hình thành, phát triển Nhu Đạo (Judo).

Cũng phát xuất từ quan niệm “Thiên Địa Vạn Vật Nhất Thể” của triết học Đông Phương, một môn phái khác được tách ra, với tinh lý võ học nghịch lý hẳn: lấy cứng chống mềm, lấy dài chống ngắn. Đó là môn phái Túc Quyền Đạo Đại Hàn (Tae Kwon Do), xuất phát từ sự lượng giá đặc biệt của cơ thể người Đại Hàn là chân dài hơn tay và đồng thời cũng xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Đại Hàn trong thời Nhật thuộc bị cấm học võ dân tộc, không được dùng dao hay những đồ cứng, nhọn, theo luật lệ của kẻ thống trị đương thời, mỗi đường phố, mỗi thôn xóm Hàn Quốc chỉ được xài chung một con dao một con dao có xích buộc chặt vào thớt, để tránh những trường hợp nổi loạn “có vỏ khí” chống lại người Nhật thống trị. Hậu quả thật trái ngược : Người Đại Hàn tuy không có võ khí để băm chặt, nhưng đã khổ luyện đôi tay thành cứng rắn để có thể thay thế dao kiếm trong một số hoàn cảnh đặc biệt và triệt để sử dụng ưu thế về thân chất của mình là chân dài trong mọi cuộc giao đấu.

Nhìn chung, các triết lý về võ đạo Đông phương tuy bên ngoài tưởng như có vẻ xung khắc nhau, nhưng thực ra là luôn luôn bổ sung, hỗ trợ cho nhau, làm cho kho tàng nhân loại ngày càng phong phú. Tất cả, không khác hai thành tố âm dương, tức cứng mềm, sáng tối, phải quấy, ngắn dài, động tĩnh đùn đẩy nhau trong một hợp thể duy nhất, một kết hợp thể duy nhất là đạo, hay thái cực. Cố Võ Sư Sáng Tổ NGUYỄN LỘC của môn phái VOVINAM Việt Võ Đạo đã phát hiện ra giá trị đặc biệt này sau một thời gian khổ công nghiên cứu các tinh hoa võ học của nhân loại và các ngành võ, vật cổ truyền dân tộc. Ông thừa nhận rằng từ võ đạo, cơ thể con người không thể thuần cương hay thuần nhu, hoặc chỉ chuyên chú vào tĩnh thể, tĩnh chất của lẽ đạo. Cần phải phát huy và phối triển lại. Cần phải có một hợp thể, một kết hợp thể mới, đầy đủ hơn. Nguyên lý võ học “Cương Nhu Phối Triển” được hình thành và chính thức ra mắt vào năm 1938 tại Hà nội với danh xưng : VOVINAM Việt Võ Đạo.

Cùng với nguyên lý “Cương Nhu Phối Triển”, tức công nhận rằng, trong sự sống có hai thành tố cương nhu biểu trưng cho hai trạng thái nghịch đối trong cuộc sống, nhưng cũng đồng thời chủ trương rằng, cần phải biết phối triển chúng để chúng trở nên hữu dụng. Chúng ta có thể so sánh trường hợp này với sự lượng giá về một đồng tiền hai mặt : nếu chúng ta chỉ chú trọng và nhận xét phiến diện về một mặt của đồng tiền, chúng ta sẽ quên mất mặt kia. Chú trọng tới cả hai mặt đồng tiền cũng không phải là sự lượng giá hoàn hảo đầy đủ, vì ngoài giá trị đó còn có những giá trị khác về hình khối, phẩm chất, trọng lượng v.v… kết hợp lại, tạo thành đồng tiền. Chính cái gọi là “đồng tiền” mới là từ ngữ quán hợp, điều hợp cả hai thành tố phải trái và những yếu tố phụ thuộc khác đã tạo ra nó, cũng như chính đạo thể đã tạo ra âm tố và dương tố, và con người là một công trình kết hợp kỳ diệu của tâm và thân, hoặc võ đạo là sự phối triển của cương và nhu.

Đạo thể, con người và võ đạo đã tạo ra và tác thành những thành phần âm dương, tâm thân, cương nhu, tựu chung cũng chỉ là một cách diễn tả có giá trị tương đối, vì chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều từ ngữ hay ví dụ tương tự khác có ý nghĩa tương đương. Quy luật “Thiên Địa Vạn Vật Nhất Thể” của Đông phương lại một lần nữa được vận dụng vào triết lý Việt Võ Đạo trong sinh hoạt xã hội và nhân bản.

Chính sự vận dụng này đã là một công trình suy tư của Cố Võ Sư Sáng tổ NGUYỄN LỘC trong bối cảnh lịch sử vong quốc vào những năm 30, khi Ông chủ xướng chủ thuyết “Cách Mạng Tâm Thân” giữa lúc các chủ trương cách mạng chính trị với mục đích chống Pháp giành độc lập, đã lôi cuốn rất nhiều quần chúng yêu nước đương thời với đủ các thành phần trong xã hội khác nhau gia nhập.

Các phong trào cách mạng chính trị đương thời đều đã thâu hút một số quần chúng đông đảo nhưng thiếu huấn luyện và có thể chất suy nhược vừa vì mức sống quá thấp, vừa vì những chủ trương ngu dân đầu độc thanh niên đương thời bằng rượu tây, thuốc phiện, chính sách văn hóa lãng mạn (hiểu theo nghĩa xấu là trụy lạc). Đương thời, chỉ có Cố Võ Sư NGUYỄN LỘC là có chủ trương khác hẳn với các nhà cách mạng tiền bối hữu công: Ông chủ trương rằng, muốn đánh Pháp đòi độc lập, trước hết phải “Cách Mạng Tâm Thân”, cách mạng từ tâm hồn tới thân chất, mới có thể có một lực lượng quần chúng hùng mạnh và quyết tâm khi đảm đương sứ mạng cao cả của dân tộc.

Từ chủ thuyết “Cách Mạng Tâm Thân” môn phái VOVINAM Việt Võ Đạo đương thời chủ xướng các sứ vụ phải thực hiện :

1.- Phục hưng hào khí dân tộc (để giáo dục thanh niên từ tâm hồn, ý thức).

2.- Công nhận người là nguyên tố của sống, phải tập trung khả năng vào việc đào tạo “người:, tức thế hệ tương lai sắp đảm đương trọng trách trước lịch sử, đầy đủ cả về “Tâm” và “Thân”.

3.- Tranh thủ độc lập, công bằng xã hội và tình nhân ái.

4.- Vận dụng võ học vào mọi sứ vụ phục vụ dân tộc trên căn bản “Cương Nhu Phối Triển”.

5.- Từ võ thuật, hình thành một nền võ đạo Việt nam.

Toàn bộ chủ thuyết trên, chỉ có thể gọi vắn tắt là triết lý Việt Võ Đạo, đã được áp dụng tuần tự một cách có hệ thống trong mọi ngành sinh hoạt xã hội và nhân bản trưởng triển từ năm 1938 tới nay, đóng góp một nguồn nhân lực lớn lao trên mọi lĩnh vực sinh hoạt xã hội trong mọi cảnh huống và tình huống lịch sử.

III.- KẾT LUẬN

Triết lý võ đạo tự nó không phải là một động lực kinh tế. Nhưng triết lý võ đạo đã đương nhiên trở thành một sức mạnh kỳ diệu của một dân tộc và còn phát triển mạnh vào cộng đồng nhân loại. Trong những năm 1940, chúng ta đã được kiểm kiến về hào khí của tinh thần Nhật Võ Đạo trong mọi sứ vụ phục vụ quốc gia của họ. Trong những năm 1950, chúng ta càng ngạc nhiên khi thấy một quốc gia chiến bại và suy sụp như Nhật Bản, đã sớm phục hồi và phát triển với nhiều triển vọng lớn lao, cũng nhờ tinh thần Nhật Võ Đạo (Bushido) của họ và đồng thời còn được chứng kiến thêm tinh thần cũng như khả năng phục hồi và phát triển của Đại Hàn trước và sau cuộc chiến Nam – Bắc.

Chắc chắn trong tương lai võ đạo Việt nam không những đem lại cho chúng ta những giá trị triết lý về sự sống hào hùng, cao cả, mà còn đem lại những giá trị đức lý đặc biệt trong việc phổ cập ý thức công dân và tinh thần nhân bản trong mọi ngành sinh hoạt xã hội.

Chương 04: Vài nét định hướng thể hiện nếp sống Việt Võ Đạo – VSCM Lê Sáng

I.- TỔNG QUAN

Mỗi người, mỗi lớp người, tùy theo nghề nghiệp, tuổi tác, ảnh hưởng giáo dục, đều có một nếp sống tình cảm riêng biệt. Nếp sống tình cảm đó, một phần do thiên tính, nhưng phần lớn do ảnh hưởng giáo dục và phong tục tập quán tạo nên. Phần còn lại, do ảnh hưởng sức khỏe tạo thành. Sự thể hiện nếp sống tình cảm của mỗi lớp người có thể đi từ nhân vật lý tưởng (personage idéal) tới những hình ảnh kiểu mẫu (maquette) nếu cùng có chung một nếp sống tình cảm, hoặc những người máy (automate) nếu cùng hủy diệt hoàn toàn nếp sống tình cảm, hay những hiện tượng, quái tượng (phénomène) nếu có một nếp sống tình cảm quái dị, thất thường (déséquilibre).

Nhân vật lý tưởng “quân tử” của “Không Tử”, “đại trượng phu” của “Mạnh Tử” và “kẻ sĩ” thời xuân thu chiến quốc kinh qua gần hai ngàn năm du nhập, đã biến thành mẫu hình nhà nho bảo thủ của Việt nam vào thế kỷ 19. Tính tình cố chấp, áo the, khăn đóng, đầu búi tó, móng tay dài, ngại tắm rửa v.v… nhưng mỗi khi cần phát biểu ý kiến, thường ưa đem “kinh sách thánh hiền” (tiếng nho) ra đọc vanh vách. Cụ Trần Tế Xương đã có lần mô tả nếp sống tình cảm của mẫu hình nhà nho bảo thủ của Việt nam hồi thế kỷ thứ 19 là “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo, văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi”…

Nhiều hạng người thuộc một số đẳng cấp xã hội, cũng gợi lên trong tâm trí chúng ta những hình ảnh nhân vật lý tưởng, những mẫu hình hay những hiện tượng. Ví dụ: khi nói đến “nhà sư”, chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh một cao tăng điềm đạm có nếp sống từ bi hĩ xả, khi nói đến “người lính quốc xã”, chúng ta nghĩ ngay đến những con người cuồng tín như những người máy không có trái tim, khi nói đến “hiệp sĩ”, chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh một tay kiếm giang hồ trừ gian diệt bạo, bênh yếu chống mạnh, khi nói đến “thám tử”, chúng ta nghĩ ngay đến những con người lầm lỳ bận pardessus, đội mũ chùm hụp, đôi khi còn mang mặt nạ, khi nói đến “hippy”, chúng ta nghĩ ngay đến những thanh niên tóc dài mặc những y phục lập dị, lố lăng, có nếp sống phóng túng bừa bãi, v.v… Tựu trung mỗi nhân vật lý tưởng, mẫu hình hay hiện tượng, đều có nếp sống riêng, bao gồm cả nếp sống tình cảm.

Nếp sống tình cảm biểu hiện quan niệm tư tưởng con người nhưng đồng quan niệm tư tưởng mà khác nếp sống tình cảm vẫn không hòa hợp sống chung với nhau được. Như trường hợp đứa trẻ xuất ngoại quá sớm, độ mươi, mười lăm năm sau lớn lên tuy tinh thần yêu nước, thương nhà dâng cao độ, có tư tưởng mãnh liệt về phục vụ đất nước, gia đình, nhưng không thể nào về sống nơi quê hương bản quán được, vì nếp sống tình cảm đã Âu Mỹ hóa. Ngay như tôn giáo cũng có những dòng và những pháp môn khác nhau dành cho những người chung tâm đạo, chí hướng nhưng khác nếp sống tình cảm.

Việt Võ Đạo là một đoàn thể võ học, có nếp sống riêng trong cộng đồng dân tộc, do đó, các môn sinh đều thể hiện nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo của mình trong đời sống công cộng (sinh hoạt cộng đồng). Tùy theo mức độ lảnh hội, mỗi môn sinh có thể trở thành nhân vật lý tưởng, mẫu hình – hoặc rất có thể một “hiện tượng” trong đời sống bằng sự thể hiện nếp sống tình cảm của mình.

Việc thể hiện nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo của môn sinh không những biểu dương uy tín của môn phái, mà còn biểu dương chính phẩm cách của môn sinh trong sinh hoạt xã hội.

Nhìn chung, sự thể hiện nếp sống Việt Võ Đạo không nhằm vào việc hủy diệt cá tính (caractères particuliers), nhưng đòi hỏi sự hội nhập của mỗi cá nhân vào việc phát huy thông tính (caractères généraux) Việt Võ Đạo.

II.- NGUYÊN TẮC ĐỊNH HƯỚNG

Nếp sống tình cảm của chúng ta thường biểu hiện ở ba thành tố chính:

1.- Ảnh hưởng xã hội (phong tục, tập quán, hoàn cảnh).

2.- Ảnh hưởng giáo dục (những gì đã hấp thụ được trong gia đình, trường học và trường đời).

3.- Ý hướng cá nhân (nguyện vọng, tu dưỡng…)

Trong 3 thành tố trên, chúng ta thấy trình tự lần lượt tiến lên từ thấp đến cao: đại đa số đều chịu ảnh hưởng xã hội, trong đó chỉ có một số ớ mức cao hơn mới nhận chịu ảnh hưởng giáo dục và một thiểu số ít hơn nữa mới có ý hướng cá nhân.

Thừa nhận ảnh hưởng xã hội, ảnh hưởng giáo dục và ý hướng tiến thủ cá nhân, nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo gồm bốn nguyên tắc định hướng :

– Nguyên tắc 1 : Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo phải là sự biểu hiện quan niệm sống Việt Võ Đạo

Nếp sống tình cảm của Việt Võ Đạo không phải là những tình cảm rời rạc, thất thường, những xúc động nhất thời mà là tập hợp những tình cảm tốt đẹp, cao thượng, biểu hiện quan niệm sống Việt Võ Đạo: sống, để người khác sống và sống cho người khác.

Quan niệm sống của Việt Võ Đạo được quy định rõ rệt trong nhân sinh quan Việt Võ Đạo với hình ảnh điển trưng cho hai đức tính cương quyết và từ ái song hành (bàn tay thép đặt trên trái tim từ ái) trong mọi sứ vụ phục vụ dân tộc và nhân loại.

– Nguyên tắc 2: Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo biểu hiện khuynh hướng hướng thượng đạt tới lý tưởng Việt Võ Đạo

Hội nhập vào đại gia đình Việt Võ Đạo, là chúng ta đã tự nguyện theo đuổi lý tưởng Việt Võ Đạo: cố gắng đạt tới cao độ của nghệ thuật để phục vụ dân tộc và nhân loại, trên những căn bản phục hưng hào khí dân tộc, tôn trọng con người trên những phẩm cách độc lập, công bằng xã hội và tình nhân ái.

Lý tưởng đó được biểu hiện bằng chính nếp sống của chúng ta, trong đó nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo chiếm một phần quan trọng.

– Nguyên tắc 3: Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo biểu hiện khả năng tự chế và tự tu, để phát huy những tình cảm hào hùng, cao thượng và quảng đại

Võ đạo khác với vỏ phu chính là ở nếp sống tình cảm đặc biệt của mình, bằng cách luôn luôn biểu hiện khả năng tự chế và tự tu dưỡng cao độ, trước mọi cám dỗ của tham vọng, dục vọng và ngoại cảnh, để phát huy những tình cảm hào hùng, cao thượng, quảng đại của chính mình ngay trong thực tế sinh hoạt.

Nên nhớ: hiệp sĩ, anh hùng, vĩ nhân, danh tướng… cũng chỉ là người thường như mọi người, nhưng vượt lên khỏi được sự tầm thường vì có khả năng tự chế và tự tu cao, đồng thời biểu hiện những tình cảm hào hùng, cao thượng và quảng đại được mọi người chiêm ngưỡng.

– Nguyên tắc 4: Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo loại trừ những tập quán xấu, tăng cường những tập quán tốt, nhất là những tập quán Việt Võ Đạo

Nếp sống tình cảm của con người tạo ra những tập quán (thói quen) cả tốt lẫn xấu. Ví dụ: có những người lúc bình thường rất quảng giao, hiếu khách, nhưng khi ham vui quá chén, lại hay kể lể, gây gổ với mọi người nên làm mọi người lảng tránh. Tập quán trên là một tập quán tốt (tương đối, vì cần tùy theo phẩm tính người và việc), tập quán dưới là một tập quán xấu, cần được loại trừ.

Cùng với những tập quán tốt cố hữu, môn sinh Việt Võ Đạo còn cần phải tăng cường những tập quán tốt của Việt Võ Đạo như đến đâu làm ổn định, tốt đẹp đó; tự động giúp người; không dành khôn trịch thượng với người; luôn luôn tự lập và chủ động; hội nhập đời tư và đời công; không chống đối, đả phá bất công, bạo ngược một cách ồn ào, hình thức mà bình thản, nhẫn nhịn, cần cù làm việc đem lại công bằng, nhân ái với thái độ ôn hòa, trầm tĩnh, chỉ xây dựng chớ không phá hoại, ươm trồng cây mới, chớ không đốn ngã những cây cỗi mục; tập quán sống hết mình, ở hết lòng, làm hết sức; tương nhượng trên tinh thần đồng nhất; cương nghị mà tế nhị; tin tưởng, yêu đời trong cả thuận cảnh và nghịch cảnh; tập quán cứu trợ tha nhân gặp nạn (cứu trợ nạn đói, cứu trợ đồng bào tị nạn) v.v…

4 nguyên tắc trên đây là những tiêu chuẩn chính cho mỗi môn sinh trong sự biểu hiện nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo.

III.- SỰ THỂ HIỆN NẾP SỐNG TÌNH CẢM VIỆT VÕ ĐẠO

Sự thể hiện nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo được áp dụng trong hai tình huống: tiểu xã hội và đại xã hội.

Mỗi chúng ta đều được nuôi dưỡng và trưởng triển trong hai tình huống đó; mỗi người đều có một xã hội thâu hẹp (tiểu xã hội) của mình để làm điểm tựa và cũng đều có một xã hội mở rộng (đại xã hội) để hoạt động, thi triển tài năng.

Tiểu xã hội của chúng ta gồm có : bản thân, gia đình, tha nhân.

Đại xã hội của chúng ta gồm có : môn phái, xã hội, tổ quốc.

A.- TÌNH HUỐNG TIỂU XÃ HỘI

  1. a) Với bản thân: Con người có thể nhìn xa, trông rộng, nhưng vẫn mang một nhược điểm: không nhìn thấy gáy của chính mình. Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo của chúng ta khởi đầu từ xuất phát điểm của tình huống tiểu xã hội. Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo với bản thân – tức coi bản thân như một khách thể nghĩa vụ và tình cảm gồm 6 tiêu chỉ chính:

1.- Luôn luôn tự kiểm, tự trọng, tự luyện, tự tin và tự chủ nhưng khiêm nhường, lễ độ bằng cách phát huy khả năng tự chế trong mọi trường hợp. Biết vượt lên cái Ta (tiểu ngã) để nghĩ đến tập thể và mọi người trong tập thể (đại ngã).

2.- Luôn luôn sống gương mẫu để hướng dẫn mọi người, nhất là trong những trường hợp khó khăn, nhiều trở ngại.

3.- Sống một nếp sống thanh đạm: giản dị mà phong lưu, hào sảng. Bình nhật sống đạm bạc thanh cao như đạo sĩ, nhưng biết thưởng thức những tinh hoa, nghệ thuật và những thú giải trí lành mạnh như một nghệ sĩ chân chính.

4.- Không bon chen kiếm tiền một cách đam mê quá độ để cung ứng cho những nhu cầu vật chất thế thường, ngõ hầu tập trung được khả năng và thời giờ vào những việc công ích.

5.- Hiểu rõ giá trị tiền bạc, biết cách làm chủ tiền bạc và không bao giờ bị lệ thuộc thái quá với một nghệ thuật chi tiêu hợp lý và xứng đáng.

6.- Phải tạo được nếp sống đặc biệt Việt Võ Đạo với các đức tính: thanh cao, thành tín, hào hiệp, nhã nhặn, cương trực và tế nhị trên những căn bản phát huy sự cao cả của tâm hồn (grandeur de L’âme), sự xứng đáng về nhân cách (dignité personnelle) và giá trị cá nhân (valuer individuelle). Nếp sống đặc biệt này sẽ làm mọi người kính trọng, nể vì, nhưng vẫn gần gũi với mọi người một cách tự nhiên không câu thúc, bằng một lối sống mẫu mực mà khoáng đạt, nghiêm chỉnh mà hòa đồng.

  1. b) Với gia đình:

Khác với các xã hội Tây phương lấy cá nhân làm đơn vị căn bản của xã hội, xã hội Đông Phương lấy gia đình làm căn bản của xã hội và trở thành một truyền thống lâu đời phân biệt hẳn với nhau. Gia đình vì thế, có ảnh hưởng rất lớn với con người và trong nhiều trường hợp, sự lượng giá gia cảnh với sự định giá cá nhân là một.

Cũng theo truyền thống Đông Phương, gia đình Việt nam thường được chia làm: đại gia đình và tiểu gia đình. Đại gia đình bao gồm nhiều thế hệ, bao gồm cả cha mẹ, anh em. Tiểu gia đình thâu hẹp trong khuôn khổ vợ chồng, con cái. Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo đối với gia đình do đó, bao gồm hai phần vụ :

  1. Đại gia đình:

1- Duy trì và biểu dương các quan hệ gia đình theo tinh hoa truyền thống, sau khi lọc bỏ những ràng buộc, câu nệ, lỗi thời và bất ưng như: quan niệm câu nệ về hiếu đại “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại”, “phụ mẫu tại đường bất khả viễn du”, quan niệm tôn Quân, quan niệm trọng nam khinh nữ, quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” v.v…

2- Trong những trường hợp có mâu thuẫn, lộn xộn, can gián, hòa giải, giải quyết với tinh thần hòa ái.

3- Cảm hóa đại gia đình, làm thăng tiến đại gia đình, cả tinh thần và vật chất, để thích ứng với nếp sống Việt Võ Đạo.

  1. Tiểu gia đình :

Tiểu gia đình là gia đình nhỏ, riêng biệt của người môn sinh Việt Võ Đạo, cần được chuẩn bị đầy đủ nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo để hội nhập chung vào sinh hoạt của môn phái.

Tiểu gia đình do đó, được kinh qua 2 giai đoạn : từ chuẩn bị hôn nhân đến nghĩa vợ chồng.

Với Ý Trung Nhân (người yêu trong tâm ý của mình) người mà mình chọn để kết hợp, là người của giai đoạn trung gian giữa tình yêu và tình vợ chồng, cần được cân nhắc kỹ lưỡng để phối hợp đời tư và đời công, với nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo.

Tình yêu Việt Võ Đạo mở đầu cho tình vợ chồng Việt Võ Đạo. Do đó, tình yêu Việt Võ Đạo phải được đặt trên căn bản thông cảm toàn diện về nhau, trong đó hai người nam và nữ yêu nhau, hiểu nhau, tôn trọng nhau, trên tinh thần bình đẳng, chân thành cộng tác để hỗ trợ xây dựng cuộc sống chung. Đời sống lứa đôi có ổn định thăng tiến thì sự nghiệp môn phái mới có những bàn tay đắc lực vun bồi, xây đắp.

Tiêu chí thông cảm chính là lý tưởng Việt Võ Đạo : “Yêu, không chỉ ngồi nhìn nhau, mà là cùng nhìn chung về một hướng”. Sự lựa chọn tình yêu theo những tiêu chuẩn lý tưởng không phải là một trường hợp mới. Trường hợp Thi Sách – Trưng Trắc, Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân là những ví dụ điển hình. Gần chúng ta hơn cả, là tình yêu Nhật Võ Đạo với những trường hợp tự sát từng cặp vợ chồng tướng lãnh khi nước Nhật bại trận vào năm 1945 (đàn ông mổ bụng tự sát, đàn bà thắt cổ tự ải) và tình yêu tôn giáo (đồng giáo) tại Do Thái hoặc những điều kiện ràng buộc tình yêu của người nữ Do Thái đặt ra với người nam ngoại nhân đã chứng tỏ giá trị đặc biệt của tình yêu thông cảm.

Do đó, khi lựa chọn ý trung nhân để thành lập gia đình, người môn sinh Việt Võ Đạo phải tự quyết định trước con đường mình phải đi tức là nghiệp võ của mình.

2 trường hợp lựa chọn là :

1.- Nếu lấy võ nghiệp làm chính :

Những môn sinh lấy võ nghiệp làm chính là những môn sinh gắn liền đời sống của mình vào đời sống môn phái dưới bất cứ hình thức nào, nghiệp vụ nào.

Trong những trường hợp này, ý trung nhân của môn sinh sẽ được môn phái hướng dẫn, xếp đặt. Tuyệt đối tránh mọi tình huống thường tình có thể gây ngộ nhận cho phẩm cách môn sinh Việt Võ Đạo.

2.- Nếu chỉ hoạt động võ đạo bán thời gian :

Những môn sinh chỉ hoạt động võ đạo bán thời gian là những môn sinh chỉ hoạt động với môn phái hoặc dạy võ ngoài thời giờ làm nghề chính (như luật sư, bác sĩ, giáo sư v.v…)

Trong trường hợp này, môn sinh có thể lựa chọn ý trung nhân và sắp xếp lấy việc hôn phối của mình, nhưng phải xin sự chấp thuận và làm hôn lễ theo nghi thức môn phái.

Với tha nhân :

Tha nhân, bao gồm từ bạn đến thù, từ sơ đến thân, từ đồng bào đến ngoại nhân, v.v… Tựu trung, chúng ta có thể sắp xếp theo 3 đẳng loại chính: bạn, thù và mọi trường hợp bình thường.

– Với bạn: giúp đỡ tận tình để cùng tiến bộ. Bạn giỏi, đúng, khuyến khích, cổ võ. Nếu bạn sai lầm, dẫn dụ cảm hóa trong tình yêu thương xây dựng.

– Với thù: (riêng tư cá nhân) xa lánh hoặc thẳng thắn cảnh cáo rồi tha thứ khi khả hữu để cảm hóa, biến thù thành bạn.

– Với trường hợp bình thường: chân thành quảng giao, liên ái và nhiệt tình.

B.- TÌNH HUỐNG ĐẠI XÃ HỘI

  1. Với môn phái:

– (1) Tuyệt đối tuân hành môn quy, tránh mọi trường hợp có thể gây mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ Việt Võ Đạo.

– (2) Ý thức minh bạch mối tương quan giữa cá nhân với tập thể và sự “đồng nhất ý chí, thống nhất hành động”.

Sự giao phó sứ vụ cho môn sinh được áp dụng với các tiêu chuẩn : thành tâm thiện chí, khả năng, đạo đức, tác phong và tinh thần làm việc. Không phe phái, trao việc và làm việc không vì cá nhân tư vị mà vì sự ích dụng cho tập thể.

– (3) Trong mọi trường hợp, người trên luôn luôn hướng dẫn, mở đường tiến cho người dưới với tấm lòng rộng lượng, bao dung. Người dưới chấp hành sứ vụ nghiêm chỉnh, luôn luôn giữ tôn ti trật tự và kỷ luật.

– (4) Mọi trường hợp tự đề cao, kễ công, tranh quyền đoạt vị đều bị loại bỏ. Óc hãnh tiến quá lố và công thần chủ nghĩa đều không xứng hợp với phẩm cách Việt Võ Đạo. Môn sinh càng có đẳng cấp cao, càng phải tự chế để loại trừ mọi mầm mống tranh chấp nhỏ có thể phát sinh tranh chấp lớn.

– (5) Luôn luôn đặt quyền lợi tập thể lên trên tư lợi. Luôn luôn hành xử với tinh thần cởi mở, kỷ luật, nhưng hợp tình hợp lý.

– (6) Bình đẳng trong hành động, xử thế. Bình nhật người dưới có bổn phận chăm sóc người trên để tỏ lòng kính quí, song khi người dưới bận rộn công tác và sứ vụ, người trên luôn luôn hòa đồng tiếp tay chung lo với người dưới.

  1. Với xã hội

– (1) Môn sinh Việt Võ Đạo tuy là một giới, nhưng không phải là một đẳng cấp xã hội, nên đứng ngoài mọi tranh chấp về đẳng cấp xã hội. Tuy nhiên, đứng ngoài những xung đột đẳng cấp xã hội không phải là xa lánh, mà là luôn luôn hội nhập vào sinh hoạt chung để giúp ích, hiến ích và hòa giải khi có những điều kiện khả hữu.

– (2) Trong mọi trường hợp, luôn luôn xiển dương thanh vọng của môn phái để vừa giúp đỡ mọi người hiểu được sinh hoạt và nếp sống Việt Võ Đạo, mà còn làm tăng triển uy tín của môn phái với mọi ngành sinh hoạt xã hội, nhất là các bộ môn thanh niên thể thao.

– (3) Trong mọi dịch vụ giao tế nhân sự, luôn luôn chú trọng tới các yếu tố về tình cảm công việc và tâm lý người đối thoại, để tránh những lầm lỗi giao tế ấu trĩ hay vô tình.

  1. Với cộng đồng dân tộc (Tổ quốc)

– (1) Tận tụy phục vụ làm vinh danh Tổ quốc. Muốn thế phải hội nhập vào sinh hoạt chung với tinh thần chiến sĩ tiền phong (avant gardiste).

– (2) Bảo vệ, triển khai, xây dựng và phát huy Tổ quốc về mọi mặt. Hoàn thành tốt đẹp nghĩa vụ công dân, nhưng phải thường xuyên tự cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn bất xứng.

– (3) Với đồng bào, luôn luôn giúp đỡ. Với ngoại nhân, xiển dương thanh vọng người Việt và nước Việt, để tranh thủ những tình cảm ngưỡng mộ. Hội nhập vào mọi ngành sinh hoạt dân tộc để hòa đồng với hoàn cảnh chung, với tinh thần bất vụ lợi.

IV.- KẾT LUẬN

Nếp sống tình cảm của Việt Võ Đạo Sinh không phải là một nếp sống kỳ bí, lập dị và cách biệt với mọi người, mọi giới mà là nếp sống luôn luôn hòa đồng sinh hoạt chung với tinh thần bất vụ lợi, tuy vẫn luôn luôn biểu hiện những phẩm cách cao quý đặc thù của người Việt Võ Đạo trước mọi tình huống, hoàn cảnh.

Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo cũng không phải là một nếp sống tùy hứng rời rạc, mà là nếp sống nhiệt thành, hồn hậu, dung dị mà linh động theo một cách thể riêng, luôn luôn giúp ích và hiến ích bằng võ đạo.

Nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo được định hướng bởi môn quy và các cấp lãnh đạo môn phái, nhưng cũng không phải là nếp sống khắc khổ với những kỷ luật nghiệt ngã mà được thể hiện bằng cả kỷ luật tinh thần và ý hướng tự nguyện, tự hành.

Tất nhiên, nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo không phải là một môn học thuần túy lý thuyết được thể hiện bằng các luật tắc luân lý, mà là một môn học thực hành được thể hiện bởi chính những người đã lãnh hội, rồi đem áp dụng vào thực tế sinh hoạt xã hội bằng các ngôn ngữ, văn tự, hành động, các đối xử, quan niệm luyến ái, khiếu thẩm mỹ, sự biểu hiện đạo đức, tác phong cá nhân cùng với các điều hướng, quản trị, chuyên môn, v.v…

Thể hiện được đúng mức, tất cả những gì mà chúng ta đang cố gắng hành xử sẽ đương nhiên trở thành nếp sống của ta, một nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo đặc biệt được hình thành bởi các tình cảm đặc thù, hào hùng, cao thượng và tôn quý.

Có như thế, nếp sống tình cảm Việt Võ Đạo, mới trở thành người Việt Võ Đạo, một danh xưng cao trọng tượng trưng cho phẩm cách và cá tính toàn thể Việt Võ Đạo Sinh trong cuộc sống.

Tính việc thận trọng, vào việc quyết tâm, là hai yếu tính quyết định sự thành công của mỗi cá thể.

Tâm ý tương thông, đồng nhất ý chí, thống nhất hành động, là một công thức hữu hiệu nhất kết hợp mọi người trong tập thể gắn bó với nhau, nỗ lực thi đua làm việc.

 

BA ĐỊNH HƯỚNG LẬP THÂN CỦA NGƯỜI MÔN SINH VIỆT VÕ ĐẠO

I.- TỔNG QUAN

Thông thường, chúng ta vẫn được nghe một số lời phàn nàn xung quanh về tình trạng “sinh bất phùng thời” của một số người bất đắc chí, như : sanh dưới một ngôi sao xấu, xã hội tồi tệ nên không có đất đứng. Đời không trọng dụng nhân tài, thiên hạ thiếu người có “thanh nhản” (mắt xanh), người đời dễ lầm lộn vàng thau…

Nhưng nếu chúng ta đặt vấn đề ngược lại với họ “liệu họ đã chuẩn bị gì chưa cho sự lập thân của họ và định hướng lập thân của họ ra sao ? Chắc chắn phần đông đều lúng túng và nêu lên một vài định hướng lập thân thiếu thực tế, thiếu xác thực hay không tưởng. Một số khác, trái lại, đã phối triển khuynh hướng cơ hội và khuynh hướng hiện sinh vào việc trù hoạch một dự tính lập thân mới mà họ cho là “thực tế”, vì thấy trong tình trạng bất ổn của quốc gia Việt nam hiện nay có nhiều “anh hùng cơ hội”, những kẻ tham nhũng, hối mại quyền thế, gian thương rất dễ thành công. Thực ra, điểm cho kỹ “anh hùng cơ hội” đâu có nhiều và chắc chắn thành công hoàn toàn nhờ cơ hội sẽ không được lâu bền vì thiếu căn bản chân chính để duy trì và phát triển. Số độc đắc nào cũng có người trúng, nhưng đâu phải vì thế mà chúng ta chỉ nhắm mua số để cải thiện đời sống.

Người môn sinh Việt Võ Đạo không chấp nhận lối sống thiếu định hướng lập thân hoặc có những định hướng lập thân không tưởng, thiếu thực tế hay thiếu xác thực như vậy.

Thành công trên đường đời không tạo bởi những cảm hứng nhất thời, mà chỉ được tạo ra bằng những công trình làm việc có định hướng. Ngay cả với những văn nghệ sĩ tên tuổi trong văn học sử mà chúng ta tưởng như họ chỉ là người tạo được sự nghiệp nhờ cảm hứng phong phú, cũng là những người có định hướng lập thân rõ rệt, bằng khuynh hướng văn nghệ.

Do đó, thành công trên đường đời chính là thành quả làm việc của mỗi người, nhưng là sự làm việc được chuẩn bị với những tiêu chuẩn rõ rệt. Những gì chúng ta có hôm nay chính là do kết quả làm việc của ngày hôm qua. Như vậy, tương lai, sự nghiệp của chúng ta không phải là những điều ngẫu nhiên sẽ tới trong những ngày sắp tới, mà được quyết định ngay từ sự chuẩn bị trong ngày hôm qua. Tài cầm quân của Phạm Ngũ Lão không xảy ra do ngẫu nhiên trong một xã hội trọng dụng nhân tài, mà chính do sự chuẩn bị của ông từ nhỏ :

– Luyện tập võ nghệ, học binh thư say mê, thậm chí ngồi giữa chợ đan mây, bị lính dẹp đường đâm thủng đùi vẫn không biết. Kissinger, nhân vật thời danh hiện đại, trước khi thành danh như ngày nay, đã có những định hướng lập thân được chuẩn bị kỹ lưỡng, để từ một binh nhì học hành dở dang, giải ngủ học lấy bằng tiến sĩ, rồi giáo sư đại học, nghiên cứu chính trị học và ngoại giao học say mê để tự tiến thân (nhờ có một tác phẩm về nền hòa bình nhân loại có triển vọng lâu dài được Nixon hâm mộ).

– Chính sự chuẩn bị định hướng lập thân đã tạo điều kiện thành công cho mỗi cá nhân. Đặc biệt với môn sinh Việt Võ Đạo, các hướng tiêu chuẩn phải được lý tưởng võ đạo hướng dẫn hoặc được trù liệu trên căn bản tinh thần võ đạo.

II.- GIÁ TRỊ VÕ ĐẠO VÀ SỰ TRÙ HOẠCH ĐỊNH HƯỚNG

Sự trù hoạch định hướng của mỗi cá nhân đều được thực hiện với ý hướng riêng : người có ý hướng tốt không thể nào có những định hướng tiêu chuẩn xấu và ngược lại những người có ý hướng xấu không thể nào có những định hướng tốt. Ý hướng là tiêu điểm của khuynh hướng. Nếu ý hướng đó thiện mỹ sẽ trở thành lý tưởng : lý tưởng là tiêu điểm của khuynh hướng hướng thượng.

Giá trị của võ đạo trong sự trù hoạch khuynh hướng chính là những giá trị tinh thần căn bản cho chí tiến thủ của mỗi người, được trù hoạch thành những định hướng tiêu chuẩn :

1.-Lý tưởng võ đạo cho chúng ta sự hướng dẫn tiêu điểm các định hướng tiến tới.

2.-Tinh thần võ đạo cho chúng ta những đức tính, ý chí, nghị lực và sự minh mẫn để thực hiện các định hướng tiêu chuẩn.

Lấy Nhật Bản làm một ví dụ điển hình : nước Nhật sau 20 năm chiến bại bi thảm, đã phục hồi và phát triển nhanh chóng nhờ tinh thần võ đạo của họ (tinh thần Bushido – Hiệp Nghĩa Đạo – thường được gọi là tinh thần võ sĩ đạo, vì lầm lẫn với tinh thần Samourai). Nói đến tinh thần Nhật Võ Đạo là chúng ta hình dung đến một số đức tính đặc biệt của dân tộc Nhật do tinh thần Võ Đạo giáo hóa : ngay thẳng tức công bằng, can đảm, nhân từ, lễ phép, tự kiểm, vâng lời, trung tín và yêu việc. Đó là những đức tính của người Nhật Võ Đạo và cũng là những đức tính của người Nhật, do tinh thần võ đạo đào tạo, được dùng làm căn bản cho những chương trình phục hồi và phát triển của người Nhật và nước Nhật, tức những định hướng tiêu chuẩn của dân tộc Nhật và quốc gia Nhật.

Trở lại những giá trị võ đạo với Việt nam và những môn sinh Việt Võ Đạo, chúng ta thấy rõ những giá trị căn bản của lý tưởng Việt Võ Đạo và tinh thần Việt Võ Đạo trong việc hình thành và tác thành các định hướng tiêu chuẩn cho cá nhân môn sinh. Nhờ những giá trị võ đạo điểm hóa, mỗi chúng ta đã có một thân thể khỏe mạnh, một sức lực dẻo dai, một trí tuệ minh mẫn, trong một tâm hồn cao thượng, hội đủ những yếu tố về ý chí, nghị lực và đức tính cần thiết cho mọi trường hợp sinh hoạt. Từ những giá trị căn bản đó, chúng ta sẽ trù hoạch những định hướng tiêu chuẩn thực tế trong sứ vụ tiền phong với các công cuộc cứu nước và dựng nước, cải tạo xã hội, phục hồi và tái thiết xứ sở. Do đó, ngay bây giờ, chúng ta phải trù hoạch định hướng lập thân tiêu chuẩn cho chính mình, rồi quyết tâm theo đuổi và thực hiện đến cùng. Mọi thái độ bất nhất, đứng núi này trông núi nọ, chỉ là những yếu tố phá hoại nghị lực và quyết tâm của con người, để dồn đẩy con người xuống hố sâu thất bại hoàn toàn.

Mỗi môn sinh Việt Võ Đạo đều phải tự trù hoạch một định hướng lập thân tiêu chuẩn cho mình. Tương lai và sự nghiệp cá nhân môn sinh chính nằm trong sự quyết định tất yếu này, nên cần vô tư và sáng suốt trong việc trù hoạch, mới có thể tạo điều kiện thành công trong tương lai.

III.- 3 ĐỊNH HƯỚNG LẬP THÂN TIÊU CHUẨN CỦA MÔN SINH VIỆT VÕ ĐẠO

ĐỊNH HƯỚNG 1 : CON ĐƯỜNG THÀNH NGƯỜI HỬU DỤ̣NG

Muốn thành con người hữu dụng, trước hết phải là người công dân tốt, sau đó tích cực trau dồi khả năng để có thể đóng góp hữu hiệu vào mọi sinh hoạt quốc gia.

Trau dồi khả năng bằng cách học tập và kinh nghiệm. Đối với tuổi trẻ, nên dồn mọi nỗ lực học tập vào học đường vì học đường là môi trường thuận lợi nhất cho việc trau dồi khả năng. Đối với những người thiếu hoàn cảnh hoặc lớn tuổi có thể tìm thấy nhu cầu trau giồi khả năng của mình trong các loại sách báo.

Dù bằng phương cách học tập nào, chúng ta cũng chỉ có thể ứng dụng một trong năm ngả đường dưới đây :

1.- Hoặc trở thành trí thức hay chuyên viên

Trí thức là những người có học lực cao hay kiến thức rộng. Chuyên viên là những người chuyên về một bộ môn đặc biệt nào đó về khoa học, nghệ thuật và kỹ thuật.

Nếu đi theo ngả đường này, người môn sinh có thể tự lựa chọn một trong những ngành hoạt động thích hợp với mình như : Bác sĩ, giáo sư, kỹ sư, luật sư, hành chánh gia, quản trị gia v.v… vì đó là những nghề cao đẳng, đòi hỏi người học phải bỏ ra một thời gian khá dài để theo đuổi tới khi tốt nghiệp.

2.- Hoặc trở thành người thợ giỏi

Một người thợ giỏi – tức một chuyên viên “trên thực tế” là một tài nguyên tối cần cho một quốc gia đang phát triển. Do đó, nếu không có điều kiện học tới cấp cao để trở thành chuyên viên, cũng có thể trau dồi khả năng chuyên môn để trở thành người thợ giỏi. Một người thợ giỏi có khi còn cao giá hơn một chuyên viên loại kém. Câu “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” là một hành ngữ khích lệ nhưng rất xác thực.

Muốn trở thành người thợ giỏi phải : 1-Yêu nghề, 2-Tìm người giỏi để học, 3-Cốt giỏi nghề, không nhắm kiếm tiền ngay, 4-Tận tâm làm ngoài cả nhiệm vụ để được thương mến và truyền thụ bí quyết.

3.-Hoặc trở thành người quân nhân xứng đáng

Một quân nhân xứng đáng có nghĩa là một quân nhân ưu tú về nhiều mặt chớ không nhất thiết là ở cấp bậc cao. Có tinh thần phục vụ cao, có tinh thần trách nhiệm và tinh thần kỷ luật cao cũng đã trở thành một quân nhân xứng đáng. Nhưng phải có bằng trung học và gia nhập từ trẻ.

4.-Hoặc trở thành một thương gia, một kỹ nghệ gia, một nông gia, một nghiệp chủ, một trại chủ

Nếu có khiếu hay khả năng hoạt động về các ngành này, người môn sinh Việt Võ Đạo có thể đóng góp rất nhiều vào nền kinh tế quốc gia và những hoạt động phát triển kinh tế quốc gia trong thời hậu chiến và do đó, có thể tạo lập được công nghiệp đáng kể cho mình và môn phái.

5.-Hoặc trở thành các văn gia, học giả, nghệ sĩ có chân tài

Ngả đường này đòi hỏi nhiều tài năng thiên phú, bên cạnh thực học cần thiết cho nhu cầu sáng tác. Do đó, những người đi theo ngả đường này phải là người có óc tưởng tượng phong phú, nhạy cảm và đa năng.

ĐỊNH HƯỚNG 2 : CON ĐƯỜNG THÀNH NHÂN VẬT LÃNH ĐẠO QUỐC GIA

Những nhân vật lãnh đạo quốc gia là những người nắm vận mệnh đất nước, vận mệnh quần chúng, vận mệnh dân tộc. Do đó, công việc này có những nhu cầu riêng và được khởi phát từ lòng yêu nước sâu xa.

Ngoại trừ những người mà chúng ta gọi là “chánh khách xôi thịt” và “chánh trị hoạt đầu”, nguyện vọng trở thành nhân vật lãnh đạo quốc gia đòi hỏi ở mỗi người chúng ta một công trình chuẩn bị to lớn :

– Chuẩn bị khả năng : học tập (học đường, sách báo, đoàn thể xã hội).

– Chuẩn bị tinh thần : lập đức (bằng tu dưỡng).

– Chuẩn bị đường hướng : xây dựng lý tưởng, hoạch định chương trình hoạt động cụ thể với những mục tiêu ngắn hạn, dài hạn và kế sách trị quốc an dân.

– Chuẩn bị nhập cuộc : hoạt động lập thành tích, tổ chức, vận động để thâu thái kinh nghiệm.

Ngoài ra, phải tạo hay qui tụ được những nhóm (équipe) đấu tranh mới, hoặc đỡ tốn công hơn, gia nhập nhóm hay chính đảng đã sẵn có. Ứng cử dân biểu hoặc nghị sĩ.

ĐỊNH HƯỚNG 3 : CON ĐƯỜNG VÕ HỌC VIỆT VÕ ĐẠO

Đây là con đường gần gũi nhất với chúng ta, có những môi trường thuận lợi nhất cho việc phát huy sở năng và thực thi chủ thuyết “Cách Mạng Tâm Thân” để phục vụ hữu hiệu cho lý tưởng Việt Võ Đạo (phát triển người Việt và nước Việt với tinh thần võ đạo).

Muốn hội nhập vào võ đạo, trước hết, người môn sinh phải hiến mình cho võ đạo bằng nỗ lực tu tập để trở thành một võ sư gương mẫu. Muốn trở thành võ sư gương mẫu, người môn sinh phải trải qua những phần vụ học tập và tu dưỡng công phu :

– Tu tập văn võ song hành : song song với việc luyện tập võ thuật, người môn sinh phải trau dồi văn hóa (học đường, sách báo, v.v…) để tăng cường kiến thức.

– Học tập điều hành chỉ đạo : kế đó người môn sinh phải tích cực học tập điều hành, tức bộ môn lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức, quản trị… để phối hợp với khả năng, kỹ thuật của mình.

– Hàm dưỡng tinh thần Việt Võ Đạo : cuối cùng là phần vụ tu đức, tức hàm dưỡng tinh thần Việt Võ Đạo, để hội đủ điều kiện hướng dẫn mọi người sống theo nếp sống và phong cách Việt Võ Đạo, như : tự tin, tự chủ, tự thắng, tự lập, tự trọng, hào hiệp, dũng cảm v.v…

Đồng thời phải tự tạo lấy võ đạo đường để thực thi sứ vụ.

IV.- KẾT LUẬN

Người môn sinh Việt Võ Đạo không thể chỉ bày tỏ nguyện vọng xây dựng môn phái bằng những ý kiến suông mà phải đầu tư kiến thức, khả năng, sự nghiệp của mình vào những hoạt động xây dựng môn phái một cách thực tế.

Cách thực tế nhất với việc phục vụ môn phái là phải chuẩn bị cho mình một sự nghiệp vững vàng. Sự nghiệp vững vàng chỉ có nếu có định hướng lập thân tiêu chuẩn ngay từ lúc còn trẻ, còn dồi dào sinh lực.

Muốn thế, phải tự tin, đừng để bị lệ thuộc vào dư luận, nhất là những dư luận mơ hồ, thành kiến. Đã là môn sinh Việt Võ Đạo, là phải hội nhập công danh, sự nghiệp các nhân của mình vào thanh vọng sự nghiệp môn phái. Một gia đình chỉ thăng tiến khi có những người con lỗi lạc. Môn phái cũng vậy, chỉ phát triển mạnh khi có những môn sinh tài giỏi, lỗi lạc, có danh vọng, địa vị xã hội ổn định.

Một môn sinh trung thành với môn phái, nhưng không có danh vọng, địa vị, uy tín xã hội đáng kể, khả năng phục vụ sẽ chẳng có bao nhiêu. Do đó, người môn sinh đúng danh nghĩa, muốn phục vụ môn phái hữu hiệu và tích cực, phải trù hoạch ngay từ bây giờ bằng một con đường lập thân nhiều triển vọng. Muốn thế, phải trù hoạch từ trẻ một định hướng lập thân rõ rệt và quyết tâm theo đuổi để đạt tới.

Lịch sử không tạo ra bằng những lời hứa nguyện, mà bằng sự việc cụ thể. Võ sử không tạo ra bằng số lượng mà bằng chất lượng. Sự nghiệp môn sinh không tạo ra bằng may rủi, mà bằng định hướng lập thân được thực hiện thành công.

Đó chính là tinh nghĩa của sự nghiệp môn sinh Việt Võ Đạo đóng góp vào sự nghiệp môn phái Việt Võ Đạo.

 

Chương 06: Quan niệm hành xử của người võ sư Việt Võ Đạo – VSCM Lê Sáng

I.- TỔNG QUAN

Thông thường, mỗi cá nhân, mỗi nhân vật trước khi hội nhập vào sinh hoạt xã hội đều được chuẩn bị đầy đủ và triển khai khả năng học tập tới mức tối đa. Người sĩ quan trước khi đảm nhiệm vai tuồng chỉ huy, được huấn luyện kỹ về mọi điều kiện thành người chỉ huy. Người điều khiển hành chánh, trước khi thực thụ hành nghề, được huấn luyện đầy đủ kiến thức tổng quát và kiến thức chuyên môn về quản trị hành chính. Người thợ cả, người kỹ sư, kỹ thuật gia cũng được luyện tương tự để điều hành công việc.

Người võ sự Việt Võ Đạo chúng ta cũng vậy: trước khi thực thụ hành nghề và hội nhập vào sinh hoạt xã hội, cũng phải được huấn luyện, đào tạo như mọi nhân vật xã hội khác. Đặc biệt với nếp sống Việt Võ Đạo, người võ sư Việt Võ Đạo không phải chỉ đơn thuần là một “Ông thầy dạy võ” mà còn là một cán bộ cao cấp của môn phái vừa điển trưng cho uy tín và danh dự của môn phái, vừa có trách nhiệm xiển dương và quảng bá nếp sống Việt Võ Đạo cùng tinh thần Việt Võ Đạo trong đại chúng. Do đó, quan niệm hành xử (làm việc và xử sự) của người võ sư Việt Võ Đạo phải được chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi hội nhập vào sinh hoạt xã hội, cũng như được huấn luyện đầy đủ về tổ chức đời sống và được chỉ đạo theo những định hướng có những mục tiêu rõ rệt và thực tế.

Lời giới thiệu điển hình nhất về sự huấn luyện người điều khiển công việc, có thể là lời của Tổng thống Mỹ Eisenhower khi giới thiệu ứng cử viên Nixon với nhân dân Mỹ: “Ông (Nixon) đã được huấn luyện đầy đủ để lãnh đạo quốc gia”. Câu nói thông lệ của sự giới thiệu những nhân vật mới hội nhập vào sinh hoạt xã hội thường có nội dung tương tự: “đã được hướng dẫn đầy đủ…”, “đã được học tập đầy đủ…”, “đã được chuẩn bị đầy đủ…”. Môi trường hoạt động càng phức tạp, tế nhị bao nhiêu, sự chuẩn bị càng cần đa diện, đa năng, đa hiệu bấy nhiêu.

Môi trường hoạt động võ đạo tại Việt Nam chính ở trường hợp trên: phải huấn luyện đầy đủ, để người võ sư Việt Võ Đạo khi bước vào thực tế hoạt động xã hội có đầy đủ khả năng (đa năng) và hiệu năng (đa hiệu) trên mọi lĩnh vực hoạt động.

II.- CHUẨN BỊ HỘI NHẬP SINH HOẠT XÃ HỘI: LẬP THÂN, LẬP ĐỨC, LẬP CHÍ

Như vậy, trước khi hội nhập vào sinh hoạt xã hội, người võ sư Việt Võ Đạo cần phải được chuẩn bị ra sao?

3 phần vụ cần thiết để hội nhập vào sinh hoạt xã hội của người võ sư Việt Võ Đạo là :

– Lập thân.

– Lập đức.

– Lập chí.

  1. A) PHẦN VỤ 1 : LẬP THÂN

Phần vụ lập thân chính là những căn bản tạo điều kiện xây dựng sự nghiệp cho mỗi cá nhân.

Đa số những anh hùng, vĩ nhân đều xuất thân từ nghịch cảnh. Nhưng họ tự thoát ra khỏi nghịch cảnh của họ, bằng cách tự xây dựng để có được một thế đứng trong xã hội, và rồi từ đó, mới có thể xây dựng được sự nghiệp một cách vững chắc.

Trong lịch sử Việt nam, chúng ta thấy : Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, Mạc Đăng Dung, Phan Đình Trọng v.v… đều là những võ tướng nổi tiếng xuất thân từ chốn hàn vi. Nhưng nhờ quyết tâm học tập cả văn lẫn võ, nên họ đã vượt thoát ra được hoàn cảnh của chính họ để bước sang một môi trường hoạt động mới, khi đã “đứng” được và có “chỗ đứng”, “đất đứng” trong xã hội. Ngược lại, nếu chúng ta đặt giả thuyết rằng đó chỉ là những con người thụ động, không có chí tiến thủ, tức không có tiêu chuẩn lập thân định hướng sinh hoạt cho họ, tất nhiên họ sẽ chỉ là những con người chìm lẫn vào đám đông, không tên tuổi, không sự nghiệp.

Hitler – Churchill – Stalin – Mao Trạch Đông – Hồ Chí Minh là những mẫu người vĩ đại, tiến thân và thành công chỉ bằng cách nỗ lực tự học và dấn thân. Lincoln là con nhà nghèo, nhờ quyết chí lập thân bằng học vấn, nên ông mới có cơ hội ra ứng cử dân biểu, rồi Tổng thống, sau khi tốt nghiệp luật khoa và hành nghề luật sư. Chính nghề luật sư đã tạo điều kiện cho ông tiếp xúc với quần chúng và có thế giá trong xã hội , làm đà tiến trong sự nghiệp vĩ đại của ông sau này. Gần chúng ta hơn cả, con người Henry Kissinger xuất hiện như một huyền thoại trên chính trường. Mới đầu ông chỉ là một thiếu niên nghèo khổ có một quá khứ “bụi đời”. Ông đi quân dịch thành binh nhì. Và mọi chuyện chẳng có gì đáng nói nữa, khi anh binh nhì Kissinger an phận, không có chí tiến thủ và không biết lập thân. Nhưng anh binh nhì này đã thoát ra, biết lập thân, nhờ sự khích lệ của một giáo sư đại học khi thấy anh có óc thông minh. Cuối cùng anh binh nhì Kissinger thất học đã trở thành một nhà ngoại giao thời danh.

Phần vụ lập thân với người võ sư Việt Võ Đạo, do đó, phải được coi là hàng đầu, qua những kinh nghiệm thực tế và những bài học đắt giá về cuộc đời của các danh nhân. Chúng ta có thể đúc kết phần vụ lập thân theo 4 chỉ tiêu dưới đây:

Chỉ tiêu lập thân 1:Tăng triển học lực (capacité) và căn bản văn hóa (culture de base) bằng học đường (học theo chương trình) và tự học. Đó là con đường bình thường và phổ thông nhất để đem lại tiến bộ về tri thức mà nhân loại vẫn áp dụng từ xưa tới nay và đã áp dụng thành công.

Chỉ tiêu lập thân 2: Tăng triển kinh nghiệm sống, từ giao tế nhân sự tới xử thế. Nên nhớ, dù trong trường hợp thù nghịch, vẫn cần biết mình (tri kỷ), biết người (tri bỉ) mới có thể trăm đánh trăm thắng (bách chiến bách thắng) như binh pháp Tôn Tử đã đề xướng.

Chỉ tiêu lập thân 3: Trù hoạch những mục tiêu ngắn hạn bản thân, tức là trau dồi bản lãnh tự lập và tự chủ, bằng cách tự hoạch định những chương trình ngắn hạn phải thực hiện và phải thành công.

Chỉ tiêu lập thân 4: Xác định lý tưởng, ước vọng và sự thực hiện, tức trù hoạch những mục tiêu dài hạn cùng những vấn đề phụ thuộc phải theo đuổi lâu dài hay suốt đời, với quyết tâm thực hiện của chính mình, sau khi đã thành công được ở mục tiêu ngắn hạn.

  1. B) PHẦN VỤ 2 : LẬP ĐỨC

Song song với phần vụ lập thân, người võ sư Việt Võ Đạo phải đồng thời lập đức cho chính mình, mới có thể tồn tại và trưởng triển. Khác với phần vụ lập thân thường thực tế và dễ lượng giá, sự lập đức của mỗi cá nhân thuộc sinh hoạt tinh thần nên có tính cách trừu tượng và chỉ có thể lượng giá trong những trường hợp tự quyết và tự nguyện. Thông thường, khi chúng ta lượng giá tha nhân và bị tha nhận lượng giá không những về tài năng, địa vị, đời tư, mà còn cả về đạo đức cá nhân. tất nhiên, sự lượng giá thường được biểu hiện bằng 3 loại từ ngữ phát biểu: mỹ từ, lờ từ và ẩn từ. “Ông ta là một người tháo vát, lịch duyệt, nhưng dễ bị mua chuộc bằng những tình cảm lặt vặt…”, “Đó là một tay thủ đoạn, thích thành công bằng sự đau khổ của người khác…”, “Ông ta là một người đức độ nhưng cổ hủ và không thực tế…”, v.v… là những lời lượng giá cá nhân điển hình mà chúng ta thường được nghe trong đời sống công cộng.

Đối với người thường đã vậy, đối với người võ sư Việt Võ Đạo sự lập đức còn quan trọng hơn bội phần, vì những đức tính được lượng giá của người võ sư Việt Võ Đạo không phải chỉ biểu hiện phẩm cách cá nhân mà còn biểu hiện cả tinh thần võ đạo và uy tín của môn phái (nhất là về phương diện giáo dục, đào tạo). Do đó, có những công việc liên quan đến phẩm cách cá nhân mà một người thường làm được, người võ sư Việt Võ Đạo không thể làm được, cũng như có những việc mà một người thường chỉ cần làm được ở mức trung bình đã được ca ngợi, nhưng nếu người võ sư Việt Võ Đạo chỉ làm được ở mức trung bình, sẽ bị chê trách.

Tựu trung, phần vụ lập đức của người võ sư Việt Võ Đạo có 3 chỉ tiêu :

Chỉ tiêu 1 : Phát triển những đức tính tự nhiên

Mỗi cá nhân khi vào đời đều có một số đức tính tự nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà có như: ảnh hưởng di truyền, thành quả giáo dục của gia đình, do thiên bẩm, do những yếu tố về tâm, sinh lý v.v…

Tất nhiên, những đức tính tự nhiên là sự biểu hiện tính tình theo chiều hướng thuận để trở thành đức tính, chớ không bao giờ cả những tính tình xấu do sự biểu hiện tính tình theo chiều hướng nghịch. Do đó, chỉ tiêu đầu tiên của sự lập đức của người võ sư Việt Võ Đạo chính là sự phát triển những đức tính tự nhiên, vì chính những đức tính tự nhiên này là những yếu tố đặc biệt để phát huy phẩm cách cá nhân.

Chỉ tiêu 2 : Phát huy những đức tính do tự tập mà có

Những đức tính do tự tập mà có thuộc nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau:

– Do ảnh hưởng quần chúng.

– Do ảnh hưởng bạn bè.

– Do ảnh hưởng học đường.

– Do ảnh hưởng văn hóa.

– Do ảnh hưởng học tập.

Chỉ tiêu 3 : Phát huy những đức tính Việt Võ Đạo

Những đức tính Việt Võ Đạo do ảnh hưởng giáo dục Việt Võ Đạo mà có, tuy thuộc chỉ tiêu thứ 3 theo thứ tự hấp thụ, nhưng chính là những đức tính căn bản của người võ sư Việt Võ Đạo, vì tha nhân bao giờ cũng lượng giá tiên quyết giá trị của người võ sư Việt Võ Đạo bằng những đức tính Việt Võ Đạo.

Những đức tính Việt Võ Đạo bao gồm tất cả những đức tính đã được truyền thụ bởi môn phái, từ môn sinh tới võ sư, được đúc kết đại cương thành 8 đức tính căn bản (đây chỉ là những “xác chữ” phải hiểu theo tinh thần Việt Võ Đạo) :

(1) – Thành : thành thật.

(2) – Tín : tín nghĩa, đã nói là làm.

(3) – Trung : với dân tộc, môn phái.

(4) – Chính : chính trực, quang minh.

(5) – Nhẫn : kiên trì, chịu đựng.

(6) – Từ : từ ái, nhu thuận với tha nhân.

(7) – Hào : hào sảng, quảng đại

(8) – Dũng : can đảm quyết tâm, không lùi bước trước mọi trở ngại.

Ngoài ra, người võ sư Việt Võ Đạo còn phải tự tín, tự trọng, tự chủ, tự lập, tự kiểm, khiêm cung, hòa hiệp, độ lượng và tế nhị trong mọi hành động và xử thế.

  1. PHẦN VỤ 3 : LẬP CHÍ

Lập thân và lập đức phải đồng thời thể hiện ý hướng lập chí của mỗi cá nhân. thiếu ý hướng lập chí, người võ sư Việt Võ Đạo sẽ là một người có nhiều khả năng và đức độ, nhưng chỉ là một người mù có nhiều khả năng và đức độ độc hành trong đêm tối. Chính sự lập chí sẽ giúp chúng ta những định hướng phải đi tới trong đời sống. Sự lập chí sẽ giúp chúng ta biểu lộ hết được khả năng của chúng ta trong thực tế hoạt động xã hội. Thiếu lập chí, con người sẽ không biết sử dụng khả năng và đức độ của mình vào việc gì và dễ dàng bị lạc hướng theo những chiều hướng ngoại cảm.

Tựu trung, sự lập chí của người võ sư Việt Võ Đạo phải quy định rõ rệt chí hướng của mình để tự tạo tương lai sự nghiệp cho mình và là một thành tố quyết định cho giá trị của mỗi người khi hội nhập vào xã hội.

Nếu tự thấy có khả năng tham gia vào sinh hoạt lãnh đạo quốc gia, cần phải lập chí rõ rệt trên những yếu tố thực tế, chứ không phải chỉ bằng sự lượng giá quá cao nhưng không tưởng.

Một trong 5 ngả đường cần phải lựa chọn dứt khoát là :

1- Ngả đường tiến thân bằng cấp lớn

Đây là ngả đường thông dụng nhất cho các thành phần từ trung lưu trở lên, rất thích dụng với các quốc gia đang mở mang tại Á Phi và Nam Mỹ, đặc biệt thích hợp với lối học xuất sĩ từ chương (khoa cử) truyền thống của Việt nam. Lối tiến thân trên đây hoàn toàn ảnh hưởng bởi sự phát triển của từng xã hội. Như tại một số quốc gia chậm tiến Phi Châu, trí thức kỹ thuật (chuyên viên) bị thất nghiệp vì khả năng kỹ nghệ còn quá yếu kém, trong lúc tại Việt nam, thành phần trí thức kỹ thuật là quá ít không đủ dùng. Ngược lại, tỷ lệ trí thức “không chuyên môn” lại quá nhiều, trở thành một mối bận tâm chung. Ví dụ: tại các cơ qaun công quyền sự sắp xếp ngạch trật thường được sắp xếp thành các loại A (đại học), B1 (tốt nghiệp trung học đệ nhị cấp), B2 (trung học đệ nhứt cấp v.v…) không cần chú trọng tới ngành học, tức khả năng chuyên môn, trong lúc các cơ sở tư nhân chỉ chú trọng tới khả năng chuyên môn thay vì các cấp học tổng quát.

Muốn tiến thân bằng ngả đường này, người võ sư Việt Võ Đạo phải có hoàn cảnh, phương tiện và thời giờ để thực hiện trong thời gian theo đuổi. Tùy ngành học, người tốt nghiệp sẽ hội nhập vào thành phần trí thức, thành phần được coi là ưu tú của quốc gia, dù có chuyên môn hay không chuyên môn.

2- Ngả đường binh nghiệp

Đó là ngả đường tương cận với võ học hơn cả, thích dụng với bối cảnh chiến tranh hơn cả, phù hợp với khả năng của một gia đình Việt nam trung lưu hơn cả và chỉ đòi hỏi một trình độ học vấn ở mức trung bình (tốt nghiệp trung học). Khác với những công việc văn phòng, công việc này đòi hỏi những khả năng đặc biệt về quân sự và tổ chức, rất thích hợp với những người hoạt động. Do đó, nếu ai tự xét thấy có khả năng quân sự và tổ chức trong lúc trình độ học vấn chỉ ở mức trung bình trở lên, có thể gia nhập quân đội để tiến thân ngay khi còn trẻ tuổi.

Con đường binh nghiệp luôn luôn đòi hỏi ở người theo đuổi một tinh thần kỷ luật cao độ, cùng những khả năng mau lẹ, tháo vát, can trường và quyết định mau chóng… Thời gian và thành tích phục vụ sẽ giúp người sĩ quan trẻ được thăng cấp tuần tự, để rồi có thể bước lên hàng tướng lãnh, nắm giữ một vai trò đáng kể trong guồng máy lãnh đạo quân đội. Ngoài ra, nếu còn có chí tự học, cũng có thể “vừa làm vừa học” để tô bồi thêm cho sự nghiệp quân đội của mình. Nhìn chung, chúng ta thấy ngả đường binh nghiệp tuy có nhiều gian truân, cực nhọc và nguy hiểm, nhưng chắc chắn cũng có nhiều vinh quang, hiển hách xứng đáng.

3- Ngả đường kinh doanh

Ngả đường này gồm những nghiệp vụ: thương gia, công, kỹ nghệ gia, hoặc nông gia, nghiệp, trại chủ. Có thể nói đây là “phú lộ” tức con đường đi tới giàu sang. Thông thường, những người thành công bằng ngả đường này đều, hoặc được thừa hưởng di sản kinh doanh của ông cha để lại, hoặc gặp được ít nhiều may mắn trời cho, hoặc có những sáng kiến đặc dị, hoặc do tự nỗ lực phát triển bằng nhiều cách khác nhau (đại phú do thiên, tiểu phú do cần…), kể cả những phương cách thiếu lương thiện.

Đây là ngả đường thực tế nhất và dễ phù hợp với tham vọng cá nhân của phần lớn nhân loại (có tiền mua tiên cũng được). Tại các quốc gia tư bản và tôn trọng tư sản nhân quyền, ai cũng mong muốn giàu có, vì giàu có sinh tạo thế lực và danh tiếng, do đó sẽ có ảnh hưởng lớn đến xã hội và chi phối được quần chúng. Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy giá trị đặc biệt của những nhà tài phiệt và tư bản trong guồng máy sinh hoạt quốc gia và quốc tế.

4- Ngả đường chánh khách

Ngả đường chánh khách này sinh tạo quyền lực và tham vọng được coi là ngả đường quyền quí rất hấp dẫn với trí thức trẻ tuổi. Trên nguyên tắc, ngả đường này thường gắn bó mật thiết với nguyện vọng quốc gia và chủ trương đường lối lãnh đạo quốc gia, nên rất hấp dẫn với những người trẻ tuổi, đây là ngả đường hội đủ những yếu tố tham vọng, ước vọng, lý tưởng và đam mê, do đó, rất dễ trở thành ngả đường phiêu lưu cho những con người thiếu khả năng tự chế và tự chủ.

Muốn theo đuổi ngả đường này, không những chỉ sống nhiều, biết rộng, can đảm, kiên nhẫn, mà còn phải có nhiều khả năng (nhất là thiên khiếu) về sinh hoạt quần chúng và chinh phục quần chúng. Có thể nói ngả đường chánh khách tuy dễ đem lại thành công, nhưng cũng dễ hủy diệt thành công đó, và ngay cả sự nghiệp của người theo đuổi. Vì vậy, muốn theo đuổi ngả đường chánh khách phải là người có thực tài, thực trí, thực đức (ngoại trừ trường hợp cơ hội chủ nghĩa).

5- Ngả đường tiến thân bằng cấp lớn

Cuối cùng, ngả đường danh nhân văn hóa là ngả đường đặc biệt chỉ dành cho những người có khả năng thiên bẩm, những thiên tài: tư tưởng gia, thi sĩ, văn gia, nghệ sĩ, kịch tác gia, họa sĩ, các nhà soạn nhạc v.v…

Đây là ngả đường đặc dị không phải ai “muốn” là cũng có thể đạt tới được, do đó, chỉ là những trường hợp đặc biệt do thiên khiếu mà có. Tuy nhiên, cũng vẫn cần sự quyết tâm và nỗ lực mới có được những công trình đáng kể.

III.- TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG : ĐỜI TƯ VÀ ĐỜI CÔNG

Chúng ta đã chấp nhận về xuất phát điểm của quan niệm hành xử của người võ sư Việt Võ Đạo bắt nguồn từ sự chuẩn bị hội nhập vào sinh hoạt xã hội: từ lập thân, lập đức đến lập chí. Như vậy, chúng ta cũng mặc nhiên chấp nhận căn bản của sự chuẩn bị đó là những điều kiện thực tế đã ràng buộc nó. Muốn học cao, nhưng túi tiền ít, muôn sống đạo đức, nhưng đói, muốn làm lớn, nhưng không có điều kiện chứng tỏ khả năng lãnh đạo thì phải làm sao?

Phương pháp giải đáp bài toán trên chỉ là tổ chức lại đời sống, kể cả đời tư và đời công, để có thể theo đuổi những mục tiêu trù hoạch.

A)-TỔ CHỨC ĐỜI TƯ

1)-Phải giữ nếp sống thanh đạm, giản dị để tiết kiệm chi phí.

2)-Phải biết tiết kiệm thời giờ, để có thời giờ lo việc lập thân, lập đức và lập chí.

3)-Phải cân nhắc kỹ lưỡng việc lập gia đình khi muốn “nuôi” sự nghiệp. Nên nhớ: gia đình càng ngày càng phát triển, dịch vụ và nhu cầu lần lần toàn chiếm đại đa số thời giờ của cá nhân.

4)-Phải dè dặt trước tình yêu: tình yêu có thể nuôi sống hay giết chết sự nghiệp.

5)-Phải biết tự chế trước đam mê, vì nếu không, mọi chuyện sẽ chỉ còn là ảo tưởng.

B)-TỔ CHỨC ĐỜI CÔNG

1)-Trù hoạch thời giờ làm việc thật gọn và hợp tình, hợp lý. Tránh phung phí thời giờ vào những việc bất xứng.

2)-Xây dựng một tiểu xã hội lý tưởng cho mình, để cùng hỗ trợ nhau trong mọi trường hợp.

3)-Nắm vững kỹ thuật điều khiển nhân sự.

4)-Phát triển giao tế nhân sự vừa phải, để có thể vừa có nhiều hậu thuẫn, vừa sử dụng được thời giờ còn lại vào những nhu cầu khác.

5)-Phát triển khả năng chuyên môn để có thể kiếm tiền thêm, làm phương tiện xây dựng tương lai và theo đuổi chí hướng.

VI.- KẾT LUẬN

Địa vị, sự nghiệp, lý tưởng, ước vọng, đam mê, hiện tại, tương lai: đó là một mê hồn trận của xã hội đang chờ đón tất cả chúng ta. Nếu có một quan niệm hành xử mơ hồ, chúng ta sẽ bị lôi cuốn vào những sai lầm không thể cứu vãn. Ngược lại, nếu biết bình tĩnh tìm “sinh môn” của mê hồn trận, chúng ta sẽ thoát ra dễ dàng và đắc thắng. Sinh môn của mê hồn trận xã hội chính là quan niệm hành xử chính xác và đúng đắn của mỗi chúng ta. Không thể coi thành công như một dịp may của cuộc chơi xổ số hay đoạn chót của một canh bạc. Thực ra, sự nghiệp của mỗi người đều đã được định đoạt, sắp xếp bởi chính người đó.

Dầu vậy, “sông dài có sông dài hơn, biển rộng có biển rộng hơn, núi cao có núi cao hơn” – câu thành ngữ cổ xưa đáng để cho chúng ta suy nghĩ. Do đó, tất cả những cố gắng vùng vẫy, tung hoành của chúng ta trong xã hội chỉ có giá trị tương đối. Hiểu được cái tương đối đó trong đời sống để hướng nó theo chiều thuận, đó là điều chỉ những người có khả năng tự chế cao mới làm nổi. Đó cũng là điều mà người võ sư Việt Võ Đạo phải hiểu rõ để xác định và phát huy quan niệm hành xử của mình, mới có thể có sự nghiệp trong tương lai.

Đừng “sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật” mà hãy sống thật và sống thực tế, với một quan niệm hành xử thực tế, giúp ích và khiêm nhường: đó là sự thái dụng nguyên lý “cương nhu phối triển” vào thực tế

hành xử của người võ sư Việt Võ Đạo.

 

Chương 07: Tiêu chuẩn tuyển chọn Chưởng Môn đời thứ III – VSCM Lê Sáng

Trong buổi lễ bế giảng khóa Học Hội Tưởng Niệm Sáng Tổ năm 1973, tôi đã bộc lộ tâm nguyện về việc tuyển chọn sứ vụ truyền kế Võ Sư Chưởng Môn trong 10 năm nữa, tức năm 1983.

Hôm nay, tôi muốn xác định lại một lần nữa ý định trên, cùng với những tiêu chuẩn về sự lựa chọn Võ Sư Chưởng Môn và một số vấn đề liên hệ:

HAI SỨ VỤ PHÂN LẬP

– Võ Sư Chưởng Môn.

– Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện.

Hiện nay tôi đang kiêm nhiệm cả hai sứ vụ : Võ Sư Chưởng Môn và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện.

Võ Sư Chưởng Môn trên tinh thần và danh nghĩa có toàn quyền điều hành Môn Phái, cắt cử, chỉ định, thay đổi bất cứ một chức vụ nào trong môn phái, nhưng đó chỉ trong phạm vi lập quy của môn phái, quyền trực tiếp, được chính quyền công nhận, điều hành môn sinh – thuộc phạm vi “hành pháp” hay “hành khiển” (executive) – thuộc trách nhiệm của Tổng Cục huấn Luyện. Đối với Môn Phái VOVINAM Việt Võ Đạo cũng như các tổ chức chú trọng về giáo dục, huấn luyện, công tác huấn luyện bao giờ cũng là công tác hàng đầu và tiên quyết. Mọi công tác khác như: sinh hoạt thanh niên, cứu tế xã hội v.v… chỉ là thứ yếu.

Trong đời thứ hai, sở dĩ tôi phải đảm nhiệm cả hai sứ vụ này, vì các môn sinh lớn tuổi do chính Sáng Tổ đào tạo đều bị phân hóa hoặc bỏ mình trong chiến tranh kháng Pháp 1946 – 1954 và các môn sinh ưu tú lớp sau chưa có nhiều tuổi đời, kinh nghiệm và căn bản võ học chưa đủ chín, để có thể đứng ra đảm nhiệm sứ vụ trong một hoàn cảnh khó khăn.

SẼ LỰA CHỌN RIÊNG BIỆT HAI SỨ VỤ

– Võ Sư Chưởng Môn.

– Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện.

Tới nay, hoàn cảnh khó khăn đã vượt thắng. Nhân sự của chúng ta đã sung mãn và trưởng triển, cùng lúc với công cuộc quảng phát môn phái đòi hỏi một lề lối làm việc và sự sắp xếp qui mô hơn, mới có thể tránh được tình trạng bao biện của Võ Sư Chưởng Môn và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện khi kiêm nhiệm quá nhiều việc.

Sự phân quyền này, bên cạnh những lợi ích về sự giải tỏa trách nhiệm, để ai nấy đều có cơ hội tập trung khả năng và nghị lực vào những công việc rõ rệt, tôi hiểu còn có những mối lo ngại khác về những vấn đề chuyên quyền hay mâu thuẫn nội tại xảy đến cho vị Võ Sư Chưởng Môn tương lai và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện tương lai.

Những lo ngại này chỉ là dự phòng cho được bao quát mọi mặt. Tôi tin rằng với truyền thống tốt đẹp sẵn có, môn phái VOVINAM Việt Võ Đạo trước đây đã không có sự tranh giành một sứ vụ Chưởng Môn, trong tương lai chẳng những không có sự tranh giành một sứ vụ, mà còn không có cả sự tranh chấp quyền hành giữa hai sứ vụ: Chưởng môn và Tổng Cục Trưởng. Tuy nhiên để công việc điều hành Môn Phái được nhịp nhàng, gắn bó, tôi sẽ tạo những điều kiện chuẩn bị đầy đủ cho cả hai chức vụ.

– Với chức vụ Võ Sư Chưởng Môn, tôi dành một thời lượng chuẩn bị là 10 năm, tức sẽ truyền kế sứ vụ Chưởng Môn vào năm 1983.

– Với chức vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện, tôi sẽ lần lượt mời một số võ sư cao cấp đảm nhiệm sứ vụ điều hành Tổng Cục Huấn Luyện từng nhiệm kỳ từ 1 đến 2 năm, để:

1- Toàn thể môn phái thấy rõ tinh thần và khả năng làm việc của từng vị và được thấy sự tuyển chọn Chưởng Môn sau này của tôi rất vô tư, minh chính.

2- Chính các vị đó thấy rõ mức quan trọng của công việc điều hành môn phái trong khi trực tiếp làm việc với tôi, ngõ hầu tránh được mặc cảm, lúc hợp tác điều hành môn phái với vị Chưởng Môn. Đồng thời, tôi cũng tuyển định luôn Tổng Đoàn Trưởng Tổng Đoàn Thanh Niên để chăm sóc phần sinh hoạt văn hóa và cứu tế xã hội của các môn sinh với từ nhiệm kỳ như Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện.

TRỌNG TRÁCH CỦA MÔN PHÁI TRONG THẬP NIÊN 1973 – 1983

Như đã nhiều lần tôi nhấn mạnh về trọng trách với môn phái trong thập niên còn lại của tôi, tôi xin lập lại tâm nguyện này một lần nữa với 3 công tác tối trọng yếu:

1.-Đào tạo và kiện toàn nhân sự cốt cán của môn phái.

2.-Xây dựng cho mỗi Cục Huấn luyện một trụ sở.

3.-Sắp xếp lại những căn bản triết lý và đường hướng môn phái thành một tư tưởng rõ rệt.

ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT TRONG VIỆC TUYỂN CHỌN VÕ SƯ CHƯỞNG MÔN

Có 5 điều kiện tiên quyết trong việc tuyển chọn vị Chưởng Môn tương lai :

(1)-Trước hết, vị Võ Sư Chưởng Môn tương lai phải có trình độ đẳng cấp Việt Võ Đạo tối thiểu từ Võ Sư Hoàng Đai Đệ Lục Cấp (tức Hồng Đai Đệ Tam), nộp được luận án xuất sắc để lên Đệ Thất Cấp và được chân truyền bí pháp.

(2)-Thứ hai, môn sinh được tuyển chọn phải là nội đồ, tức là môn sinh dâng hiến cả cuộc đời cho Võ Đạo, lấy việc phục vụ cho Việt Võ Đạo là chánh, những hoạt động nghề nghiệp khác nếu có chỉ là phụ. Tuy nhiên, việc quy định này cũng rất tế nhị, trong những trường hợp thời trình hành võ và thời trình hành nghề không nghịch nhau (dạy võ buổi chiều và tối, hành nghề ngoại phụ buổi sáng) và có mục đích mưu tìm phương tiện phục vụ môn phái được hữu hiệu hơn.

(3)-Thứ ba, môn sinh được tuyển chọn phải do môn phái hướng dẫn lựa chọn ý trung nhân và tác thành hôn lễ theo những điều kiện chung của môn phái. Vì trên cương vị Võ Sư Chưởng Môn, dầu ở thời nào, cũng phải hội nhập đời tư mình vào đời công của môn phái, mà người bạn đời của Võ Sư Chưởng Môn sẽ có ảnh hưởng trực tiếp vào sự nghiệp của Chưởng Môn và sự nghiệp của môn phái.

Tất nhiên, điều kiện tiên quyết này không áp dụng với những môn sinh có ý nguyện sống độc thân để phục vụ môn phái.

(4)-Thứ tư, môn sinh được tuyển chọn phải là vị Võ Sư đào tạo được nhiều môn đệ ưu tú, có tinh thần môn phái cao, có khả năng cũng như uy tín dung hòa và kết hợp được mọi người trong môn phái.

(5)-Cuối cùng, môn sinh được lựa chọn phải là người có lý lịch hoàn hảo về các phương diện :

– Tư pháp lý lịch (ngoài trừ những trường hợp đặc biệt về chính trị và được xếp vào quá vãng)

– Có uy tín ngoài xã hội ; được gia đình, họ hàng trọng nể yêu thương và bà con lối xóm thân hữu kính mến. Yếu tố này được duyệt xét rất tế nhị: gây được một tiểu xã hội sẵn sàng hỗ trợ mình, nhưng không vì thế mà gây ảnh hưởng cá nhân với những ý đồ kết phe phái, đem thân bằng quyến thuộc vào thao túng, lũng đoạn môn phái.

Ý THỨC HÀNH VÕ CỦA CHƯỞNG MÔN

Sau 5 điều kiện tiên quyết, vị Chưởng Môn phải là người có ý thức hành võ cao, theo chiều hướng thăng tiến của võ sử: Võ Sư Chưởng Môn đời thứ III phải có nhiều ưu điểm hơn Võ Sư Chưởng Môn đời thứ II và cứ thế tiếp tục mãi, mới có thể đáp ứng được nhu cầu quảng phát của môn phái và ý chí vượt tiến của người môn sinh trước tiến trình ngày càng rộng lớn hơn, đòi hỏi một hệ thống lãnh đạo đa năng hơn.

Ý thức hành võ cũng biểu hiện ở tinh thần võ đạo cao, và tinh thần võ đạo cao biểu hiện không riêng cá nhân Võ Sư Chưởng Môn mà còn chung cho cả môn phái.

CÁC TIÊU CHUẨN TUYỂN CHỌN

Sau khi hội đủ 5 điều kiện tiên quyết và ý thức hành võ sẽ có 8 tiêu chuẩn tuyển chọn Võ Sư Chưởng Môn đời thứ III, về các phương diện :

– Nghi diện (protocole).

– Cốt cách.

– Đức độ.

– Ý chí.

– Kiến thức.

– Khả năng.

– Nếp sống.

– Lề lối làm việc.

1.- TIÊU CHUẨN VỀ NGHI DIỆN

– Nghi diện – tức nghi thức và diện mạo – đối với người thường đã quan trọng, càng quan trọng đối với vị Chưởng Môn tương lai của môn phái.

Giá trị của nghi diện không phải chỉ quan trọng cho những vấn đề giao tế nhân sự, mà còn là một hấp lực đặc biệt của người lãnh đạo trước quần chúng.

Nhìn chung, nghi diện của vị Chưởng Môn đời III gồm các đặc điểm :

– Vóc dáng đường bệ (không quá mập hay quá ốm).

– Thần sắc tốt.

– Tướng diện tốt.

– Và nếu có thể : có hấp lực với mọi người xung quanh.

2.- TIÊU CHUẨN VỀ CỐT CÁCH

Tiêu chuẩn về cốt cách là tiêu chuẩn nửa nặng chiều sâu, nửa biểu lộ trước mọi người, với những đặc điểm :

– Bình dị mà cao sang.

– Thanh đạm nhưng tiêu sái.

– Nhàn nhã, ung dung nhưng nhặm lẹ, gọn gàng.

3.- TIÊU CHUẨN VỀ ĐỨC ĐỘ

Ngoài những đức tính về võ đạo và người lãnh đạo thông thường, tiêu chuẩn về đức độ còn biểu hiện :

– Bao dung người dưới với mục đích cảm hóa, cải tạo, hướng thiện.

– Cởi mở nhưng quyết tâm, kiên trì chịu đựng trước mọi thử thách.

– Ứng biến những trung thực, đôn hậu.

– Hòa hợp với mọi người nhưng không lơi lã, mua chuộc, gây phe phái, thanh thế riêng tư.

– Luôn luôn vì người nhưng phải hợp lý và đúng lúc để nêu gương và dẫn đạo mọi người.

4.- TIÊU CHUẨN VỀ Ý CHÍ

– Phải có chí tiến thủ.

– Phải có tinh thần xung phong, quyết tâm nhập cuộc.

– Phải có tư tưởng lớn, hoài bão lớn, ý lực mạnh mẽ nhưng biết giới hạn bằng định lực.

Có định hướng rõ rệt khi điều hướng công việc và biết phân định rõ rệt từng giai đoạn thực hiện, hợp với sức mình.

5.- TIÊU CHUẩN VỀ KIẾN THỨC

– Có tinh thần cầu tiến, học hỏi không ngừng.

– Đọc nhiều, hiểu rộng, kinh nghiệm sống phong phú.

6.- TIÊU CHUẨN VỀ KHẢ NĂNG

Sứ vụ lãnh đạo và điều hướng tổng quát mọi ngành sinh hoạt của môn phái đòi hỏi nơi vị Chưởng Môn những khả năng đa năng, đa hiệu. Do đó, ngoài khả năng võ học, vị Chưởng Môn còn phải có :

– Khả năng lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy.

– Khả năng diễn thuyết và biên tập.

– Khả năng đặc biệt (văn chương, nghệ thuật, khoa học v.v…)

7.- TIÊU CHUẨN VỀ NẾP SỐNG

Nếp sống, phần nhiều biểu hiện của tinh thần, tư tưởng, đem tinh thần, tư tưởng thể hiện vào đời sống. Nhìn vào nếp sống, người ta có thể phán đoán được phẩm cách và chí hướng của một người, một tập thể. Do đó, vị Chưởng Môn tương lai phải có nếp sống biểu dương được phong thái cao nhã, lịch duyệt của con người Việt Võ Đạo.

Đại để, nếp sống của vị Chưởng Môn tương lai phải :

– Thanh cần, gương mẫu, quang minh chính đại.

– Hoàn cảnh nào cũng thích ứng, hòa hợp được với tinh thần tự chủ, tự chế, tự lập.

– Tiết kiệm với mình, hào phóng với người.

– Tin tưởng, lạc quan, nhưng nghiêm chỉnh, trầm lắng.

– Kiên trì chịu đựng, tránh mọi hơn thua vì tự ái, hãnh diện nhất thời.

8.- TIÊU CHUẨN VỀ LỀ LỐI LÀM VIỆC

– Tính toán kỹ, giải quyết ngay, không để “nước đến chân mới nhảy”.

– Mọi việc lớn, nhỏ đều được chuẩn bị trước, tiên đoán sẵn những trở ngại có thể gặp để kịp thời ứng phó.

– Làm hết sức và mau lẹ để có thì giờ nghỉ ngơi, suy tư, nghiên cứu.

– Tin tưởng ở thành quả công việc.

– Ý thức được trách nhiệm và tinh thần tập thể.

– Nhiều sáng kiến nhưng thận trọng, kỷ luật. Trước khi quyết định cần hội ý với những bộ thuộc liên hệ, để :

* Hướng dẫn và tỏ lòng ưu ái, tôn trọng thuộc cấp.

* Tác động tinh thần thuộc cấp trước khi giao phó nhiệm vụ.

TRIỂN VỌNG

Nhu cầu quảng phát của môn phái đòi hỏi ở vị Chưởng Môn đời thứ III nhiều đáp ứng đặc biệt hơn hai đời trước. Trong tương lai, Việt Võ Đạo sẽ quảng phát về khắp các nông thôn và các cơ sở kỹ nghệ, cùng với mọi hoạt động phát triển tại học đường, quân đội, cán bộ hành chánh v.v…

Nhu cầu ngày càng gia tăng, càng đòi hỏi ở hệ thống lãnh đạo và chỉ huy môn phái những đáp ứng tinh tiến, đa năng đa hiệu trong mọi tình huống và cảnh huống. Chuyển sang hòa bình, môn phái còn có nhiệm vụ quảng phát tại quốc ngoại, khiến các cơ cấu điều hướng phải phát triển tương ứng.

Tất cả kỳ vọng ở vị Chưởng Môn đời thứ III và trước mọi sứ vụ đang chờ đợi cùng triển vọng thành công đang đón đợi sự đóng góp của toàn thể chúng ta.

 

Chương 08:CÁC THỜI KỲ VÕ HỌC VÀ ĐẶC TÍNH – VSCM  LÊ SÁNG

I)- DẪN NHẬP

Lịch sử một nước, được phát triển do nhiều động cơ quyết định: địa thế, ý chí, tài nguyên và kinh tế, khả năng và truyền thống lãnh đạo quốc gia, văn hóa, võ học v.v… Trong các động cơ này, động cơ võ học thường được coi như động cơ quyết định cho sự tồn tại của một quốc gia, nhất là đối với những quốc gia phải thường xuyên tranh đấu để tồn tại. Thời trung cổ, Carthage là đô thị phồn thịnh nhờ thương mại, nhưng bị La Mã thanh toán, chỉ vì động cơ võ học yếu kém. Chiêm Thành, Chân Lạp, Bồn Man tuy có những khả năng kinh tế và địa thế tốt không kém Việt Nam, lần hồi bị tiêu diệt cũng trong những trường hợp tương tự.

Do đó, nhìn vào địa thế Việt nam trước các quốc gia lân bang thường xuyên có sự tranh chấp với Việt nam, chúng ta thấy ngay nhu cầu tranh đấu để tồn tại bao giờ cũng được xếp hàng đầu, để hình thành và kiện toàn một nền võ học dân tộc. Đặc biệt nhu cầu tranh đấu để tồn tại của chúng ta không phải chỉ giới hạn võ học trong vị thế tự vệ, mà còn mở rộng ra những lãnh vực Bắc phạt (thời Lý, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đánh 3 châu Khâm, Ung và Liêm), Nam tiến (với Chiêm Thành, Bồn Man, Chân Lạp) và Tây tiến (với Lão Qua).

Xác định giá trị của nhu cầu tranh đấu để tồn tại của dân tộc Việt nam rồi, chúng ta cũng cần xác định thêm định nghĩa về võ học trong phạm trù Lược sử Võ học Việt nam.

Tựu trung, có 3 loại định nghĩa về võ học, tùy theo từng trường hợp:

(1) Trước hết, võ học được hiểu theo nghĩa thuần túy nhất, tức “kỹ thuật đấu tranh bằng sức”.

(2) Kế đó, võ học được hiểu theo nghĩa đấu tranh, tức tất cả những gì không phải là văn đều là võ, như lối diễn ý của cổ nhân trong thành ngữ “văn võ kiêm toàn” để trở thành nhân tài lý tưởng đương thời: phi ngựa giỏi cũng là võ, chạy nhanh cũng là võ v.v…

(3) Cuối cùng, võ học được hiểu theo nghĩa binh gia và có giá trị tương tự như quân sự học. Ví dụ: khi nói “võ tướng” là “tướng quân sự”, “võ nghiệp của một danh tướng” tức sự nghiệp binh gia của một vị võ tướng v.v…

Chúng ta sẽ tìm hiểu lược sử võ học Việt nam với cả 3 định nghĩa trên, tuần tự từ các thời đại võ học và đặc tính, tiến trình thí võ qua các thời đại võ học và võ học Việt nam hiện đại.

II)- CÁC THỜI ĐẠI VÕ HỌC VÀ ĐẶC TÍNH

10 thời kỳ võ học được quy định và phân biệt theo các biến cố lớn của quốc gia:

(1) Thời huyền sử: chế độ thị tộc (2879 – 111 trước công nguyên)

(2) Thời bắc thuộc: 111 trước công nguyên – 906

(3) Thời kỳ thành lập quốc gia: Ngô, Đinh, Tiền Lê (906 – 1009)

(4) Thời kỳ hoàn bị quốc gia: Lý, Trần (1010 – 1341)

(5) Thời kỳ trung suy: Trần, Hồ, Minh thuộc (1341 – 1427)

(6) Thời kỳ phục hưng: Hậu Lê, Mạc (1427 – 1540)

(7) Thời kỳ phân ly: Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn, Tiền-Nguyễn (1540 – 1802)

(8) Thời kỳ thống nhất: Hậu Nguyễn (1802 – 1883)

(9) Thời kỳ Pháp thuộc (1883 – 1945)

(10) Thời hiện kim (1945 tới nay)

  1. A) VÕ HỌC THỜI HUYỀN SỬ : CHẾ ĐỘ THỊ TỘC

(2879 – 111 trước công nguyên)

Võ học thời huyền sử, vì không có sử sách biên niên, nên chỉ có thể căn cứ vào huyền thoại và những hình vẽ trên đá, những cổ vật đào thấy tại Đông Sơn (Thanh Hoá) và Chapa (Lào Cai).

Tựu trung, võ học trong thời kỳ này có những đặc tính nổi bật:

* Đặc tính 1 : Văn, võ song hành

Đặc tính văn võ song hành được biểu lộ ngay từ tổ chức xã hội: Lạc Long Quân, Âu Cơ không những là nhà tổ chức giỏi, còn là những nhà lãnh đạo đấu tranh thiên tài, với cả người, vật và thiên nhiên, khi lập quốc.

Về tổ chức xã hội, ngoài nhà vua là một bậc văn võ song toàn, các chức văn cũng được phân biệt thành hai ngành văn, võ song hành với nhau, là các chức quan Lạc hầu và Lạc tướng.

* Đặc tính 2 : đã biết sử dụng vũ khí và kỹ thuật dụng võ

Qua những sử liệu, chứng tích lịch sử như trống đồng Ngọc Lữ và các vũ khí đào được, chúng ta có thể ước đoán về các loại vũ khí được sử dụng và kỹ thuật dụng võ trong thời huyền sử như sau:

1.- Búa rìu: xuất hiện trên trống đồng Ngọc Lữ với thế nhảy múa và biểu diễn. Ước đoán: có thể đi tới cân pháp, tức phép đánh búa rìu.

2.- Dao ngắn : qua những di tích đào được bằng đá và bằng đồng. Ước đoán: có thể đi tới đoản đao pháp (phép đánh dao ngắn).

3.- Lao, dáo: qua những hình vẽ cổ, mới đầu chỉ là võ khí dài, hoặc bằng tre, hoặc bằng một thứ cây cứng, nhỏ, có đầu nhọn, để dùng vào việc săn bắn và đánh cá. Sau, được lắp thêm một bộ phận đá mài, đồng hay sắt vừa sắc vừa nhọn, có thể phóng đi hay đánh sáp chiến. Ước đoán : có thể đi tới thương pháp (phép đánh dáo, thương) và mâu pháp (phép đánh mâu).

4.- Cung, nỏ, tên: qua các hình vẽ cổ và truyền thuyết “nỏ thần” An Dương Vương, cung, nỏ, tên được điều dụng với cả thế bắn. Ước đoán: người huyền sử đã biết khai dụng lối đánh viễn chiến (đánh xa) và tiễn pháp (phép dùng tên) và viễn xạ pháp (phép bắn xa).

5.- Gươm: qua các truyền thuyết về Lạc Long Quân đánh Ngư tinh bằng “khối sắt đỏ” và dùng “gươm sắt” chém đầu đối thủ, truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương dùng gươm sắt, ngựa sắt đuổi giặc Ấn, truyền thuyết An Dương Vương dùng gươm chém Mỵ̣ Châu ngồi sau lưng ngựa v.v…Gươm được biến chế từ dao ngắn, hoặc do Trung Quốc du nhập, đã nâng cao kỹ thuật cận chiến của người huyền sử. Ước đoán: có thể rút tỉa kinh nghiệm từng đòn, thế, miếng mà lập ra kiếm pháp (phép đánh gươm).

6.- Thuyền: qua các hình vẽ cổ, một phương tiện chuyển vận và tiếp tế bằng đường thủy và hàng hải, rất tiện dụng trong những trường hợp thủy chiến. Ước đoán: người huyền sử đã biết sử dụng thuyền làm một phương tiện khai thác thiên nhiên và thủy chiến, có thể kết hợp thành thủy chiến pháp, ứng dụng trong giai đoạn lịch sử nghiêm trọng.

7.- Ngựa: qua các hình vẽ cổ, một phương tiện chuyển vận bằng đường bộ nhanh chóng và hữu hiệu nhất đương thời. Ước đoán: sự biết sử dụng và khai thác khả năng chuyên chở và tốc hành là động cơ chính cho những hoạt động giang hồ hành hiệp, rồi đi tới thiết kỵ chiến pháp, mã chiến và xa mã chiến pháp, mở đầu cho hàng loạt những kỹ thuật sử dụng võ học và áp dụng binh pháp.

* Đặc tính 3:  biết đưa võ học vào binh pháp

Vì thiếu sử liệu chính xác, nên chúng ta chỉ có thể ước đoán qua những truyền thuyết:

– Cuộc chiến tranh giữa An Dương Vương và Lạc Vương (Hùng Vương): Hùng Vương thắng nhiều nên kiêu, cuối cùng thua về tay An Dương Vương nhờ mưu lược.

– Cuộc xâm lăng của Triệu Đà “giao hão kế”: An Dương Vương tuy có “nỏ thần” và hệ thống kiến trúc tinh vi của thành Cổ Loa, rút cuộc vẫn thua vì mắc mưu “lông ngỗng đưa đường” của Trọng Thủy.

– Những trận chống Tần, giết tướng Tần Đồ Thư: đưa võ học lần lần vào binh pháp.

Tóm lại, võ học trong thời huyền sử, đã đi từ đơn đấu đến quần đấu, rồi thâm nhập hẳn vào binh pháp. Hiện tượng này khởi đầu bằng giao đấu cá nhân (như trường hợp lạc Long Quân đánh Ngư tinh, Sơn Tinh đấu với Thủy Tinh) chuyển sang trường hợp quần đấu “nhất hổ địch quần hồ” theo lối Phù Đổng Thiên Vương phá giặc Ân, rồi mới tới trình độ đưa võ học vào binh pháp như các trận đánh An Dương Vương – Hùng Vương thứ 18 v.v…

  1. B) VÕ HỌC THỜI BẮC THUỘC (111 trước công nguyên – 906)

Sự nô thuộc vào người Tàu là một cơ hội un đúc tinh thần bất khuất và khả năng võ học của người việt đương thời, làm phát triển cả 3 ngành võ học: võ thuật, kỹ thuật đấu tranh, binh pháp và quân sự học.

Trong thời kỳ này hai phát kiến mới được hình thành:

1-Xu hướng hâm mộ anh hùng của quần chúng: quần chúng bị áp bức, thường có xu hướng hâm mộ những vị anh hùng đã giải thoát họ, như những vị hiệp sĩ, nữ kiệt và võ dũng, mở đầu cho những lực lượng kết hợp chống ngoại xâm. Nhân vật điển hình trong thời kỳ này đều là những bậc võ dũng và có tài lãnh đạo quần chúng như : Triệu Quang Phục, Trưng Nữ Vương, Triệu Trinh Nương, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương V.V…

2-Xu hướng phát triển chiến pháp kỳ tập (du kích chiến) và chiến pháp “dĩ nhược thắng cường, dĩ đoản thắng trường” (lấy yếu chống mạnh, lấy ngắn chống dài) do các lực lượng nghĩa binh được học để chống quan quân nhà Hán. Triệu Quang Phục, người rút quân về Bãi Sậy (Hưng Yên) chống quân Hán được coi như vị thủy tổ du kích chiến của Việt nam.

  1. C) THỜI KỲ THÀNH LẬP QUỐC GIA (906 – 1009)

Thời kỳ này bắt đầu từ họ Khúc dấy nghiệp tới chấm dứt nhà Tiền Lê.

Điểm đặc biệt nhất trong thời kỳ này là võ thuật đã thâm nhập hẳn vào binh pháp và trở thành một yếu tố quyết định trong sự thành lập và duy trì sự thành lập của quốc gia.

Tinh thần thành lập quốc gia được phôi thai từ học Khúc, được thử thách quyết định bằng trận Bạch Đằng Giang năm 931 của Ngô Quyền đại phá quân nam Hán và với nguy cơ sụp đổ vì nạn “Thập Nhị Sứ Quân” được Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan và thống nhất lại quốc gia.

Võ học hội nhập vào binh pháp trong thời kỳ này đã được nâng cao và phát triển mạnh về phương diện:

1-Thủy chiến (thời Ngô Quyền).

2-Bộ chiến (thời Đinh Bộ Lĩnh).

3-Lâm chiến (thời Đinh Bộ Lĩnh – Lê Hoàn).

4-Kỹ thuật phối hợp tác chiến thủy bộ (Ngô Quyền – Đinh Bộ Lĩnh).

5-Tổ chức quân đội (thời Đinh: mỗi “đạo” quân gồm 100.000 binh sĩ. Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn chỉ huy 10 “đạo” là 1 triệu quân).

  1. D) VÕ HỌC TRONG THỜI KỲ HOÀN BỊ QUỐC GIA (1010 – 1341)

Thời kỳ hoàn bị quốc gia bao gồm 2 triều đại Lý, Trần, đã phát huy võ học không những vào mọi tầng lớp xã hội, mà còn phát huy cả ý thức dụng võ bằng tinh thần Phật giáo đời Lý và tinh thần Tam giáo đời Trần, vào cả những công cuộc chống xâm lăng, bình định nổi loạn, khẩn hoang lập ấp và mở rộng lãnh thổ.

Ý thức dụng võ nâng cao thành tinh thần thượng võ được khuyến khích triệt để trong mọi tầng lớp xã hội bằng các sự việc :

1-Tại kinh đô, có Giảng Võ Đường thành lập song hành với Quốc Học Viện, để đào tạo những nhân tài “văn võ kiêm toàn”.

2-Công chúa, phi tần, công tử, văn quan, thứ dân đều phải cưỡng bách học võ (múa gươm, cưỡi ngựa).

3-Mỗi vị võ dũng hữu trách đều phải chiêu mộ dân chúng khẩn hoang lập ấp.

4-Binh pháp Lý Thường Kiệt chủ về công, binh pháp Trần Hưng Đạo chủ về tự vệ, được phát huy rộng rãi, làm nền tảng cho binh pháp học Việt nam.

5-Các chiến công lừng lẫy của Lý Thường Kiệt và Trần Hưng Đạo đã làm các nước lân bang kính nể, tạo được một thời kỳ ổn định, kiến thiết và phát triển lâu dài.

6-Tinh thần Tam giáo đã được hội nhập vào võ học, để làm nền tảng khởi thủy cho tinh thần võ đạo Việt Nam (được gọi là tinh thần tiền võ đạo).

7-Việt Nam đã khởi phát những chương trình Tây tiến và Nam tiến để mở rộng lãnh thổ, chinh phục các quốc gia Lão Qua, Chiêm Thành và Bồn Man.

  1. E) VÕ HỌC TRONG THỜI KỲ TRUNG SUY (1341 – 1427)

Thời kỳ này bắt đầu từ thời Trần mạt tới lúc chấm dứt Minh thuộc vào năm 1427.

Trong thời kỳ này, mặc dầu vận nước suy đồi, võ học vẫn tiếp tục phát triển với ý chí phục thù nhà, đền nợ nước, tranh thủ độc lập cho dân tộc.

Điểm đặc biệt cần ghi nhận trong thời kỳ này là, sự phát triển mạnh của võ học và hội nhập võ học vào binh pháp, ý thức dụng võ cao độ phối triển với ý thức quốc gia vững mạnh, đã rút ngắn hẳn thời Minh thuộc, dù luôn luôn bị đàn áp khốc liệt và vô nhân đạo chưa từng thấy trong lịch sử (giết hàng loạt, rút ruột người treo lên cây, tập trung xác chết và xương thành núi để khủng bố và làm tê liệt ý chí đề kháng v.v…). Cụ thể hóa là mặc dầu xảy ra các cuộc khởi nghĩa thất bại của Giản Định Đế và Trần Quý Khoách với những vị liệt sĩ tuấn quốc dũng cảm như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Đặng Dung v.v… tinh thần kháng Minh cứu nước cần tiếp tục trường kỳ tới thành công, bằng những hoạt động huấn võ bí mật tại rừng Lam Sơn (của Lê Lợi) và sự áp dụng binh pháp Việt Nam truyền thống của Nguyễn Trãi, bên cạnh ý chí phục quốc mãnh liệt của toàn quân và toàn dân đương thời.

  1. F) THỜI KỲ PHỤC HƯNG (1427 – 1540)

Thời kỳ này khởi đầu từ nhà Lê, và chấm dứt từ năm 1540 (Nguyễn Kim phù Lê diệt Mạc).

Thời kỳ này có 3 đặc điểm về võ học :

1-Võ học dân dã đã lần đầu thay thế hẳn võ học quý tộc trong mọi trách vụ quốc gia: trong thời Minh thuộc, hệ thống võ học quý tộc tại các vùng thị trấn bị hoàn toàn tiêu diệt và quan quân nhà Minh triệt để cấm dân chúng học võ bằng cách kiểm tra dân số, bắt đeo “hộ thiếp”, nhưng võ học dân dã vẫn phát triển, qua các tổ chức huấn võ tại các địa điểm bí mật. Do đó, khi nắm chánh quyền, Bình Định Vương chú trọng đặc biệt tới việc phát triển võ học tại dân dã, bằng cách tổ chức các khoa thi “Minh Kinh Khoa” cả văn lẫn võ để tuyển dụng nhân tài võ học và văn học.

2-Cưỡng bách học võ: các khoa “Minh Kinh Khoa” cũng đặc biệt áp dụng cho cả các quan văn từ hàng tứ phẩm trở xuống, phải trúng tuyển mới được lưu dụng.

3-Ý thức võ học, tức tinh thần tiền võ đạo giảm sút:

Vì quá chú trọng tới võ học dân dã và coi nhẹ võ học quí tộc, nên Lê triều đặc biệt chỉ chú trọng tới võ học thuần túy, cuối cùng tự chuốc lấy những hậu quả trầm trọng mở đường cho một thời kỳ phân ly lâu dài trong Việt sử: trường hợp Mạc Đăng Dung giỏi võ và thí võ, đậu Đô Lực Sĩ được trọng dụng rồi âm mưu phản loạn, đã khởi đầu từ ngay chính sách “trọng võ khinh văn” đặc biệt của Lê triều.

  1. G) VÕ HỌC TRONG THỜI KỲ PHÂN LY (1540 – 1802)

Thời kỳ này khởi đầu từ năm Nguyễn kim khởi nghĩa mở đầu tình trạng phân ly Lê – Mạc, rồi Trịnh – Tiền Nguyễn, Tiền Nguyễn (Tây Sơn) và chấm dứt vào năm 1802, khi Nguyễn Ánh thống nhất lãnh thổ.

Võ học thời kỳ này có 3 đặc điểm :

1-Võ học quý tộc được phục hồi và phát triển song song với võ học dân dã.

2-Các danh tướng của các trận tuyến đối nghịch đều xuất thân từ cả hai hệ thống võ học trên.

3-Võ học dân dã đã có lúc lấn lướt võ học quý tộc (nhà Tây Sơn đuổi Nguyễn, dẹp Trịnh) với các danh tướng xuất thân từ võ học dân dã, nhưng vì vua Quang Trung đột ngột qua đời, nên võ học quý tộc (Gia Long), với các danh tướng xuất thân từ võ học quý tộc, đã phục thù được và thống nhất lãnh thổ.

  1. H) VÕ HỌC TRONG THỜI KỲ THỐNG NHẤT (1802 – 1883)

Thời kỳ này khởi đầu từ khai nguyên nhà Hậu Nguyễn tới năm chính thức đặc chế độ Pháp thuộc.

Võ học trong thời kỳ này có 5 đặc điểm:

1-Các vua chúa triều Nguyễn vì có tự ti mặc cảm với võ học dân đã qua sự xuất hiện của Tây Sơn, nên không khuyến khích võ học dân dã phát triển.

2-Các chức võ quan bị đặt dưới các chức văn quan, tạo thành một quan niệm đặc biệt “trọng văn khinh võ”.

3-Văn học phát triển độc lập, lần đầu đưa giáo dục vào khuôn khổ hư văn, cử tử.

4-Võ học suy yếu, phải dùng văn quan chỉ huy binh sĩ (Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản v.v…) nên thiếu khả năng đấu tranh chống ngoại xâm, khi quân Pháp tấn công.

5-Quan niệm “trọng văn khinh võ” đã đưa quốc gia tới tình trạng suy sụp, mở đầu thời Pháp thuộc.

  1. I) VÕ HỌC TRONG THỜI KỲ PHÁP THUỘC (1883 – 1945)

Trong thời kỳ này, võ học bị biến thể và chìm đắm trong chính sách ngu dân của người Pháp, đã mang 6 đặc điểm:

1-Võ học bị tách khỏi quân sự học.

2-Võ học không còn được coi là một ngành học quan yếu cho sự sinh tồn của một quốc gia, mà chỉ còn được coi là một ngành thể thao có tính cách giải trí.

3-Chính sách ngu dân (phong trào lãng mạn, rượu ty, thuốc phiện) đã làm suy nhược tinh thần người Việt, để làm tê liệt hay suy giảm tinh thần và khả năng đề kháng.

4-Sự du nhập võ học Nhật Bản (Jiu Jitsu, Judo…) đã kích thích tinh thần thượng võ của người Việt, đem lại cho dân tộc Việt một nguồn hứng khởi mới.

5-Tự ái võ học bùng dậy: người Việt bắt đầu “về nguồn” võ học và hình thành một nền võ đạo Việt Nam vào năm 1938 gọi là Vovinam Việt Võ Đạo.

6-Võ đạo bừng dậy, nâng cao tinh thần ái quốc và cứu quốc của người Việt, để chấm dứt thời Pháp thuộc vào năm 1945.

  1. K) VÕ HỌC TRONG THỜI HIỆN KIM (1945 tới nay)

Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1945 – năm cao trào tranh thủ độc lập dân tộc bừng dậy – tới nay.

Võ học trong thời kỳ này mang 5 đặc điểm :

1-Võ học dân tộc sau khi hình thành từ năm 1938 đã phát triển mạnh trong các ngành sinh hoạt xã hội, nâng cao giá trị võ học từ một bộ môn giải trí lên võ đạo (1963), với danh xưng Việt Võ Đạo.

2-Song song với võ đạo dân tộc (Việt Võ Đạo) các môn phái võ đạo du nhập cũng hoạt động và phát triển mạnh : Nhu đạo, từ 1946, Không Thủ Đạo (Karatédo), từ 1954, Túc Quyền Đạo (Tae Kwon Do) từ 1964, gây một tinh thần hiếu võ sôi nổi trong các tầng lớp xã hội, cùng với các môn võ khác như Yoga, Aikido (Hiệp Khí Đạo) v.v…

3-Võ học lại một lần nữa, hội nhập vào binh pháp và các hoạt động an ninh xã hội : các quân binh chủng và các lực lượng an ninh, cán bộ đều có chương trình huấn luyện võ thuật để thực dụng ngay vào công tác thực tế.

4-Võ học – nhất là Vovinam Việt Võ Đạo – đã hội nhập vào một số chương trình giáo dục học đường và chương trình huấn luyện Cán bộ Phát triển Nông thôn, Cán bộ hành chánh v.v…

5-Tinh thần võ đạo đã được biểu hiện trong nhiều ngành sinh hoạt xã hội như cứu đói, cứu trợ nạn nhân chiến họa, nạn nhân bão lụt, khẩn hoang lập ấp và đặc biệt được sử dụng trong nhiều trường hợp cận chiến trên chiến trường Việt Nam.

III.- KẾT LUẬN

Vai tuồng của võ học trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam là một vai tuồng thực dụng; và trong nhiều triều đại, đã trở thành một bộ môn giáo dục căn bản của người Việt.

Tùy theo từng chính sách giáo dục trong các thời kỳ lịch sử, võ học có khi thăng khi trầm, nhưng vẫn luôn luôn tạo điều kiện phát triển trong mọi hoàn cảnh lịch sử.

Giá trị thực dụng của võ học chính là động cơ quan yếu đã kiến tạo lịch sử : từ giao đấu cá nhân tới vận dụng vào các kỹ thuật tranh đấu chống thiên nhiên, đối nhân và đối vật, cuối cùng hội nhập vào binh pháp để trở thành một phương tiện quan yếu trong mọi trường hợp tự vệ và mở rộng lãnh thổ.

Trong các thời kỳ lịch sử, võ học đã hình thành 2 khuynh hướng rõ rệt là võ học quý tộc và võ học bình dân, và đã có những cơ hội thi triển và đối nghịch mạnh mẽ, nhưng rồi vẫn kết hợp lại, thành bộ môn võ học dân tộc duy nhất. Cùng với đà tiến triển của nền võ học nhân loại, võ học Việt nam đã đi từ thô đến tinh, từ cá nhân tới tập thể, và luôn luôn chứng tỏ giá trị hữu hiệu tự thân trong mọi sứ vụ với xã hội và đất nước, và đạt tới sự hình thành một nền võ đạo Việt Nam.

 

Chương 09: Tiến trình thí võ và võ học hiện đại – VSCM Lê Sáng

I).- DẪN NHẬP

Thông thường, võ học của một quốc gia thường có 5 sứ vụ : (1) trừ gian diệt bạo, (2) phò minh chúa, (3) cứu quốc, (4) kiến quốc, và (5) khai quốc.

Trong 5 loại sứ vụ trên, chỉ có sứ vụ trừ gian diệt bạo (dưới mọi hình thức) là một sứ vụ hành võ tự do, thích hợp với phong độ của những hiệp sĩ “giang hồ hành hiệp” tại những vùng rộng lớn chưa ổn định, các cơ cấu cai trị và luật pháp còn lỏng lẻo, 3 sứ vụ sau đòi hỏi sự dấn thân của người hành võ trong một khuôn khổ kỷ luật, của quốc gia hay của một “minh chúa”.

Việt nam không có đất đai rộng lớn và những vùng bất ổn mênh mông như Trung Quốc và Hoa Kỳ, nên không có nhiều hiện tượng “hiệp sĩ giang hồ” như Trung Quốc hay anh hùng “cowboy” miền viễn tây Hoa Kỳ, mặc dù vẫn có một số hiệp thoại đặc biệt như Lãnh Tạo, Cố Bu, Chàng Lía v.v… xuất hiện trong dân dã. Ngược lại, vị thế “tứ diện thọ địch” của Việt nam với những cuộc chiến tranh chống xâm lăng, trừ nội loạn và mở mang bờ cõi liên tục đã làm xuất hiện bằng hàng ngàn vạn anh hùng chiến sử. Rõ rệt là nhu cầu quốc gia của chúng ta luôn luôn cần tới những anh hùng chiến sử, hơn là những hiệp sĩ giang hồ.

Do đó, võ học của Việt nam là nền võ học mang nặng những sứ vụ đấu tranh phục vụ quyền lợi chung của quốc gia, dân tộc, thay vì chỉ phục vụ cho một gia đình, một xóm ấp, một lớp người giới hạn trong một môi trường nhỏ hẹp. Người học võ mặc nhiên chấp nhận truyền thống hành võ chung, nên luôn luôn mong mỏi được có cơ hội thi thố tài năng phò vua, giúp nước.

Muốn phò vua giúp nước, phải khổ luyện tài năng và tìm cơ hội tiến thân. Cơ hội tiến thân của người võ sĩ, chính là các cuộc thí võ của các triều đại lịch sử. Tới nay, mặc dầu các “cuộc thí võ” để tuyển dụng nhân tài võ học thuần túy không còn giữ những khuôn thước cũ, nhưng cũng vẫn được coi là những tiêu chuẩn thích dụng nhất trong một số nghiệp vụ, như: huấn luyện võ thuật học đường, quân đội, cán bộ, cảnh sát v.v… Tất nhiên, tiến trình thí võ truyền thống đã được cải biến và chuyển hóa trong thời hiện đại, nhưng không phải vì thế mà võ học thời hiện đại bỏ qua những sứ vụ truyền thống với dân tộc.

Trong mọi cảnh huống và tình huống lịch sử, mặc dầu chương trình thí võ có đổi thay, nhưng những tiêu chuẩn chính của thí võ vẫn còn được duy trì, để xếp hạng và tuyển lựa nhân tài võ học phục vụ trong mọi ngành sinh hoạt xã hội và quốc gia.

II).- TIẾN TRÌNH THÍ VÕ QUA CÁC THỜI ĐẠI VÕ HỌC

Vì nước nhỏ, lãnh thổ hẹp, nên Việt Nam không có nhiều huyền thoại về “hiệp sĩ giang hồ” như Trung Quốc và Nhật Bản ; nhưng đổi lại, võ học đã hội nhập nhanh chóng vào các sinh hoạt cộng đồng – đặc biệt trong các lĩnh vực phục vụ quốc gia. Do đó, thay thế vào những hoạt động “hành hiệp giang hồ” của từng cá nhân hay từng nhóm cá nhân rời rạc, chúng ta có rất nhiều võ tướng phục vụ quốc gia đắc lực. Mặt trái của sự ứng dụng những hoạt động võ học vào các sinh hoạt cộng đồng, là tình trạng nội loạn và giặc giã, trong đó những kẻ cầm đầu đều là những người võ dũng.

Tiến trình thí võ qua các thời đại võ học, đi từ biểu dương tài nghệ và thành tích, tới các cuộc thi trắc nghiệm, rồi tới những cuộc thi võ có quy chế rõ rệt.

  1. A) BIỂU DƯƠNG TÀI NGHỆ VÀ THÀNH TÍCH

Trước khi có những quy chế rõ rệt về việc tuyển dụng nhân tài võ học, sự sử dụng nhân tài võ học, được ước đoán là không ngoài sự biểu dương thành tích. Sự biểu dương tài nghệ thường chú trọng tới sức khỏe (vác tạ, cử đình…), thập bát ban võ nghệ (nhất là kiếm pháp và thương pháp), tài khéo đặc biệt (cưỡi ngựa, bơi lặn, nhảy cao, chạy xa…). Sự biểu dương thành tích có thể căn cứ vào những buổi hội làng có đấu võ và đấu vật, và các thành tích võ học đạt được ở địa phương (như : đánh cướp, bẻ sừng trâu v.v…).Trong những trường hợp nhân tài tuyển dụng sẽ được điều dụng vào những chức vụ cao, sẽ có những cuộc đàm thoại trắc nghiệm đặc biệt về binh pháp học.

Lối tuyển dụng nhân tài theo phương pháp trắc nghiệm gián tiếp bằng cách đòi hỏi biểu dương tài nghệ và thành tích cá nhân, được áp dụng cho tới năm 1253, năm thành lập Giảng Võ Đường dưới thời Trần Thái Tông.

  1. B) THI TRẮC NGHIỆM VÕ HỌC

Trước khi có những quy chế thí võ rõ rệt, nước ta đã áp dụng những cuộc thi trắc nghiệm từ đời Trần Thái Tông. Sở dĩ võ học đời Trần tuy phát triển mạnh nhưng không thể có qui chế thí võ rõ rệt, vì các triều đại nhà Trần bị ảnh hưởng mạnh bởi tư tưởng Trần Thủ Độ, người khai sinh ra triều đại. Ở Trần Thủ Độ, nhiều tư tưởng thiện ác đối nghịch nhau và đôi khi pha trộn hỗn độn tới mức khó có thể phân biệt chúng: ông vừa là đại gian thần nhà Lý, vừa là đại trung thần nhà Trần; vừa là một lãnh tụ phi nhân (lập mưu giết hết con cháu nhà Lý để trừ hậu họa), vừa là một lãnh tụ vị tha (quyết liệt chống Mông Cổ để giữ nước, cứu dân: đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!); vừa muốn tập trung quyền lãnh đạo trong tay con cháu nhà Trần, vừa muốn tận dụng nhân lực quốc gia để chống ngoại xâm, mở mang bờ cõi và chiêu dân lập ấp; vừa muốn cưỡng bách học võ cho mọi người không phân biệt đẳng cấp xã hội; vừa muốn tập trung binh quyền trong tay con cháu nhà Trần.

Việc thí võ theo quy chế Giảng Võ Đường để tuyển dụng nhân tài võ học do đó, chỉ áp dụng với thường dân chớ không áp dụng với quý tộc. Mặc dầu quý tộc (vương gia) nhà Trần, từ công chúa, phi tần tới các văn quan đều bị cưỡng bách học võ với các môn chính như múa gươm, cưỡi ngựa và binh pháp, rồi được tự do tổ chức và huấn luyện những đội quân riêng để đi khẩn hoang lập ấp, được gọi là các đội quân “Vương gia hầu đô”. Chắc chắn lối thí võ dành riêng cho quý tộc nhà Trần chỉ là một lối thi biểu diễn tài nghệ, và có tính cách khích lệ nhiều hơn lượng giá phối kiểm.

  1. C) NHỮNG CUỘC THÍ VÕ CÓ QUY CHẾ RÕ RỆT

Những cuộc thí võ có quy chế rõ rệt được áp dụng từ đời Lê Thái Tổ, với chế độ Minh Kinh Khoa, và tùy theo chính sách võ học của từng triều đại mà thay đổi. Những triều đại ấn định quy chế rõ rệt cho những cuộc thí võ có thể lấy 3 triều đại Lê Thái Tổ, Gia Long và Minh Mạng làm điển hình.

1- Quy chế thí võ thời Lê Thái Tổ

Quy chế thí võ thời Lê Thái Tổ được ấn định ngay từ sau khi phục hưng độc lập quốc gia, đánh đuổi được quân Minh khỏi bờ cõi.

Quy chế này mang 3 đặc điểm :

* Song song với việc mở trường tại khắp các lộ, các phủ để dạy cả văn lẫn võ, có tính cách cưỡng bách giáo dục cho cả con quan và con cái thường dân, triều đình mở các khoa thi “Minh Kinh Khoa” để chọn lọc và tuyển lựa nhân tài trong dân dã, gồm cả các môn thi về kinh sử và võ học.

* Các quan văn từ tứ phẩm trở xuống, bị bắt buộc phải học và thi đậu “Minh Kinh Khoa” mới được lưu dụng.

* Các tăng nhân cũng phải khảo hạch “Minh Kinh Khoa”, ai trượt, sẽ phải hoàn tục.

Điểm đặc biệt cần ghi nhận ở đây là, Lê Thái Tổ là một vì vua rất trọng võ, nhất là võ học dân dã. Hơn ai hết, ông hiểu rằng cuộc kháng chiến chống Minh sở dĩ thành công, chính là nhờ ở những tài nguyên võ học dân dã, không phải là nền võ học quý tộc đã bị ngoại xâm khống chế, và nhất là không tùy thuộc ở những văn quan trong thời chiến.

2-Quy chế thí võ dưới thời Gia Long

Gia long phục quốc được chỉ nhờ một phần nhỏ vào tài nguyên võ học trong nước. Phần lớn cơ nghiệp của ông, là do khả năng lãnh đạo, mưu lược, sức chịu đựng, tài ngoại giao và sự yểm trợ của ngoại quốc. Do đó, ông lượng giá rất cao về mưu lược, và đồng thời đánh thấp khả năng võ học được tuyển dụng, nhất là những khả năng võ học xuất phát từ dân dã. Tựu trung, qui chế thí võ dưới thời Gia Long đã phản ảnh khá chính xác quan niệm tuyển dụng nhân tài của ông, với 4 đặc điểm:

* Lập các khoa thi võ tương tự như những khoa thi “văn”, có đủ cả thi Hương, thi Hội, thi Đình, nhưng áp dụng nguyên tắc “võ tôn văn nhất trật”, tức cùng một danh xưng, nhưng đậu về “võ” bao giờ cũng kém đậu về “văn” 1 trật. Ví dụ: đỗ “võ cử nhân” thì hàm tùng lục phẩm, còn đỗ “văn cử nhân” thì được hàm chánh lục phẩm.

* Thi võ tuy rằng cũng có Đình thi, nhưng không lấy Võ Trạng Nguyên, Võ Bảng Nhỡn, Võ Thám Hoa, mà chỉ lấy “Võ Tiến Sĩ”. Điều kiện dự thi Võ Tiến Sĩ là phải tình nguyện thi 1 bài bằng chữ nho, với chủ đề về binh pháp (binh thư đồ trận, địa thế hành binh v.v…). vì võ không được khuyến khích, và những người nếu giỏi về Hán Văn thường ít có khuynh hướng học võ vì bị bạc đãi và phải chịu đựng nhiều cực nhọc, nguy hiểm, nên hầu như không có ai dự thi Đình về võ để hy vọng đậu Võ Tiến Sĩ.

* Thể lệ thi võ về Hương thì phải qua 4 trường : (1) cử trượng (tạ), bắn bia (9 mũi tên, xa 30 trượng, trúng đích cả), (3) quyền thuật (đoản côn) đánh thắng 3 độ và (4) một kỳ chung kết bao gồm cả 3 môn thi trên.

* Thể lệ thi võ về Hội thì có 5 kỳ, được dành cho những thí sinh đã đậu Hương thì được gọi là Võ Cử Nhân. Các thí sinh Võ Cử Nhân được dự thi Hội tại kinh đô, cũng phải qua 3 kỳ đầu như ở Hương thí, nhưng điều kiện thi nặng hơn: xách nặng hơn nửa tạ trên thao trình xa hơn 10 trượng, bắn 12/12 mũi tên trúng đích, đánh thắng 4/4 độ đoản côn. Kỳ thứ 4 được gọi là đánh “lăn khiên” (giám khảo cầm cây giáo quấn miếng vải nhúng mực đánh, biết tránh né không để đầu giáo có chấm mực làm trúng khiên) và kỳ cuối cùng bao gồm cả 4 môn trên.

3- Quy chế thí võ dưới thời Minh Mạng

Từ thời Minh Mạng trở đi, qui chế thí võ được ấn định làm 2 loại, tới triều Triệu Trị, mới trù hoạch thời điểm rõ rệt hơn: võ Hương thí được ấn định vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Tuy nhiên, nội dung các kỳ thi có một số môn được cải đổi hay thay đổi, để thích hợp với trình độ quân sự mỗi ngày một thêm phát triển, với đặc điểm như sau :

  1. a) Môn giao đấu đoản côn được thay đổi bằng màn múa côn, sang độc diễn: múa côn nửa tạ (30kg) cầm vào khoảng 1/3 vừa đi vừa múa, nhảy nhót, đâm đánh, né tránh, đỡ gạt theo bài, miếng thế, đòn đã định sẵn. Đi múa ngoài 60 trượng là ưu hạng, ngoài 50 trượng là bình hạng, ngoài 40 trượng là thứ hạng.
  2. b) Môn múa sang được bổ túc vào môn thứ 2 : sang là một ngọn dáo dài 7 thước 7 tấc ta, phải cầm vào giữa để múa theo bài, nhảy nhót độ 3,4 bước rồi nhắm người bù nhìn ở cách xa 3 trượng thật kỹ, rồi chạy thẳng tới đâm vào giữa rốn. Đâm trúng, xuyên qua là ưu hạng. Đâm trúng, không xuyên qua là bình hạng. Đâm trúng, chỉ trượt qua là thứ hạng.
  3. c) Môn bắn tên được thay thế bằng môn bắn súng hiệp, 6 phát, cách 20 trượng 5 thước ta, nhắm vào bia (có vành tròn và hồng tâm) đặt trước chiếc ụ. Nếu 2 phát trúng hồng tâm, 1 phát trúng vành tròn, 3 phát trúng ụ đất, là ưu hạng. Nếu 1 trúng hồng tâm, 1 trúng vành tròn, 4 trúng ụ đất, là bình hạng. Nếu 2 trúng vành tròn, 4 trúng ụ đất, là thứ hạng.
  4. d) Môn thi thứ tư của Hương thí được thay đổi hẳn bằng phúc hạch về võ kinh, để xếp hạng các tân khoa.
  5. e) Thi Hội cũng có những môn như thi Hương, nhưng tạ nặng hơn (65 cân ta), đi xa hơn (20 trượng), côn và sang nặng hơn, người bù nhìn ở xa hơn, bắn súng hiệp đứng xa hơn.
  6. f) Đậu thi Hội được vào thi Đình lấy Võ Tiến Sĩ, gọi là “Tạo sĩ”, gồm 1 bài hỏi về võ kinh, 1 vài điều yếu lược trong cách dùng binh của các danh tướng triều Nguyễn và 1 vài câu hỏi về thời sự. Không biết chữ có thể xin miễn.
  7. g) Các tân khoa “võ” được đãi ngộ ngang hàng với các tân khoa “văn’, chớ không còn chênh lệch như triều Gia Long.

Võ học Việt Nam, qua quy chế thí võ như vậy, đã trải qua một thời “trọng văn khinh võ” dài suốt 143 năm, qua các chính sách giáo dục của vua chúa triều Nguyễn. Do đó, chúng ta thấy một hiện tượng quái dị phát sinh: các vị võ tướng giỏi, thường là những người chỉ giỏi binh pháp chớ không giỏi (một đôi khi, không hiểu hay không biết) về võ thuật, và những người giỏi về võ thuật lại rất ít hiểu biết về binh pháp, chỉ vì lý do không biết chữ (nên không có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu). Hiện tượng quái dị này để lại những thời tích đặc biệt trong Việt Sử: các văn quan có đức độ tốt, phẩm trật cao, thường được giao phó cho những trách nhiệm điều binh khiển tướng, như cụ Hoàng diệu, xuất thân từ Phó bảng, sau được bổ nhiệm Tổng Đốc và Binh Bộ Thượng Thư, cụ Phan Thanh Giản, xuất thân từ Phó bảng, sau tuẫn quốc với chức vụ Kinh lược sứ, trong khi có những nhân tài võ học xuất sắc như Tôn Thất Hội, nổi tiếng võ dũng suốt vùng Thừa Thiên, và thi đậu cử nhân thời Gia Long, vẫn không được chấp chưởng binh quyền.

Hậu quả của quy chế thí võ thời Hậu Nguyễn, là không những võ học Việt nam bị đẩy lùi lại hàng chục thế kỷ, mà võ học càng ngày càng tách rời khỏi văn học, và cuối cùng lại tách rời ra khỏi văn học, và cuối cùng tách rời ra khỏi binh pháp, để chỉ đào tạo được những nhân tài “võ phu” hay “võ biền”, tức những người giỏi võ, tuy rằng đậu tới võ cử nhân và có công trạng lớn, địa vị cao, nhưng vẫn không biết chữ (vì qui chế thí võ không cần tới điều kiện này), khác hẳn với hệ thống Giảng Võ Đường và Quốc Học Viện song hành thời Trần, đã đào tạo được hàng loạt nhân tài võ học “văn võ song toàn”.

IV.- VÕ HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Thời Pháp thuộc nối tiếp nhà Hậu Nguyễn tuy có cải tổ chính sách giáo dục, nhưng lại hướng võ học Việt Nam sang ngành học thư lại và chính sách văn hóa ngu dân. Võ học suốt trong thời kỳ này (tới năm 1938) chỉ gồm một số hoạt động võ thuật rời rạc, lẻ tẻ, dù có những xu hướng Cần Vương Văn Thân chú trọng tới võ học trong việc chống Pháp. Loại võ học ra khỏi chính sách giáo dục, người Pháp cũng đương nhiên loại bỏ võ học ra khỏi tổ chức quân đội. Chương trình thí võ trong quân đội đương nhiên được thay thế bằng chương trình huấn luyện võ khí, tác xạ và kỹ thuật tác chiến. Võ học Việt nam trong thời kỳ này, gần như chỉ còn được coi là một ngành thể thao có tác dụng giải trí công cộng, rập khuôn quan niệm đơn giản về thể thao của người Pháp.

Mãi tới cuối thập niên 30, võ học Việt nam mới có cơ hội bùng dậy, sau những thất bại của những phong trào kháng Pháp và sự học hỏi tinh thần tự cường của Nhật Bản được biểu hiện bằng tinh thần Nhật Võ Đạo (Bushido) và các chiến tích võ sĩ đạo (Samourai) của họ.

Sau sự ra mắt của môn phái Vovinam vào năm 1938 tại Nhà hát lớn Hà Nội, một phong trào học “Võ Tự Vệ” và “Vovinam của người Việt Nam” được bừng dậy trong giới thanh niên – sinh viên, học sinh, viên chức – tại Bắc Việt, khích lệ thêm cả những dịch vụ du nhập võ học ngoại quốc vào Việt Nam, đặc biệt là Nhu Thuật (Jiu Jitsu) và võ Thiếu Lâm. Sau 1945, Nhu Đạo (Judo) được du nhập Việt Nam, cùng với môn Yoga (Du Già).

Tuy nhiên, trong các môn phái võ học trên, chỉ có môn phái Vovinam là phát triển mạnh nhất, do cao trào đấu tranh chống Nhật-Pháp đương thời. Vụ đụng độ điển hình nhất xảy ra vào năm 1942, giữa 2 lớp sinh viên Việt và Pháp tại Hà Nội, đã gây ảnh hưởng tốt đẹp trong dư luận Hà Nội: những sinh viên Việt thấp bé, gầy yếu đã sử dụng tay không đại thắng các sinh viên Pháp cao to, có vóc dáng bên ngoài rất đường bệ. Từ đó, phong trào học “Võ Tự Vệ” (danh xưng võ trình nhập môn của Vovinam đương thời) và “Vovinam” bừng dậy mãnh liệt tại khắp nơi: sân Septo, các trường trung tiểu học, trường Sư phạm v.v…, mặc dầu tại một vài nơi, người Pháp đã quyết liệt áp dụng những biện pháp chế tài tối đa, như cấm học Vovinam trong khu vực quyền hạn của họ.

Sau 19-8-1945, phong trào học Vovinam trở thành một phong trào bộc phát tại Hà Nội, các tỉnh lỵ Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt. Tại Hà Nội, phong trào Vovinam đôi khi đã mang tính chất nồng nhiệt và quá độ, như sự xuất hiện của các khẩu hiệu: Người Việt Nam học Võ Việt Nam, học Vovinam để đánh Pháp tranh thủ độc lập, không học Vovinam không phải là người yêu nước v.v…

Trong thời gian này, phong trào học Vovinam để chống Pháp đã mở rộng ra các vận động trường và sân Đại Học Xá Hà Nội, với những lớp võ cộng đồng hàng ngàn người tới hàng chục ngàn người. Trận đánh điển hình nhất là trận cận chiến bằng dao găm và lưỡi lê, giữa một bên là Tự Vệ Thành Hà Nội, một bên là lính Phi Châu thuộc Pháp. Tuy nhiên, điểm đặc biệt cần ghi nhận trong thời gian này là: môn phái Vovinam dưới sự lãnh đạo của Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc, đã cương quyết không làm chính trị và không hội nhập vào chánh trị, mặc dầu đã góp công đào tạo rất nhiều cấp chỉ huy kháng chiến qua các lớp huấn luyện các cấp bộ đại đội trưởng và trung đội trưởng dân quân du kích tại Chế Lưu Ầm Thượng, Thanh Hương, Đan La, Đan Phú v.v… ; và các lớp huấn luyện võ thuật cho bộ đội Nhà Chung Phát Diệm vào năm 1948, do ông Trần Thiện làm Tổng Chỉ Huy.

Tới năm 1954, các môn phái võ học du nhập cũng bắt đầu tạo lập được ảnh hưởng mới tại Việt Nam, như Nhu Đạo, Không Thủ Đạo, Yoga và một số lò võ Thiếu Lâm độc lập, nhưng vẫn chưa phát triển được sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng, vì chính quyền đệ nhất Cộng Hòa không có ý hướng khuyến khích phát triển võ học. Mãi tới sau cuộc chính biến 01-11-1963, hào khí học võ mới bùng dậy gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong các tầng lớp xã hội, đặc biệt trong các giới thanh thiếu niên và sinh viên học sinh, bởi các động cơ:

1-Chiến tranh mở rộng làm nổi bật giá trị thực dụng của võ học trong cả hai trường hợp tự vệ và tấn công.

2-Các chính quyền chuyển tiếp đều mặc nhiên khuyến khích các hoạt động võ học (khuyến khích các hoạt động thể thao, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động võ học).

3-Nhu Đạo, nhờ thế tranh đấu của Phật giáo qua các vị thượng tọa võ sư Nhu Đạo, có điều kiện phát triển mạnh mẽ.

4-Túc Quyền Đạo (Tae Kwon Do) hay Võ Đại Hàn (vẫn được gọi là Thái Cực Đạo – vì tương tự với Karate-do của Nhật Bản) được quân đội Nam Hàn phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam, đã chứng tỏ rất hiệu nghiệm trên các chiến trường du kích và cận chiến.

5-Các môn phái võ đạo của Nhật cũng du nhập mạnh mẽ cùng với ưu thế thương mại của Nhật Bản: Atemi, Aikido, Karate-do, v.v… xuất hiện tại Việt Nam với nhiều võ đường do các võ sư Nhật và Việt điều khiển.

6-Môn phái Vovinam bước sang giai đoạn quảng bá mạnh mẽ với danh xưng Vovinam – Việt Võ Đạo, và hội nhập vào các chương trình huấn luyện cộng đồng: quân đội, cảnh sát, cán bộ phát triển nông thôn, cán bộ hành chánh, các trường đại học và trung học v.v… đồng thời khởi sự quảng bá ra nước ngoài.

 

7-Các môn võ Việt Nam cổ truyền cũng bừng sống lại và hoạt động khá mạnh mẽ như : võ Bình Định, Lam Sơn Võ Thuật Đạo v.v…

Hiện nay, giá trị thực dụng của võ học đang được ứng dụng vào cả các lĩnh vực chiến tranh và hòa bình, chắc chắn sẽ đẩy mạnh sự trưởng triển của võ học Việt nam và tinh thần võ đạo Việt Nam.

V.- KẾT LUẬN

Qua các thời kỳ lập võ và hành võ tại Việt Nam, chúng ta thấy rõ ràng, mặc dầu tủy bối cảnh lịch sử mà phát triển mạnh hay yếu, võ học vẫn luôn luôn là một động cơ tranh đấu hữu hiệu nhất trong cả 3 sứ vụ: cứu quốc, kiến quốc và khai quốc.

Trong cả 3 sứ vụ, võ học Việt Nam đã luôn luôn đóng một vai tuồng đặc biệt, vượt ra ngoài khuôn khổ hoạt động thể thao như tại một số quốc gia Tây Phương. Đặc biệt với Việt Nam, võ học không phải chỉ là kỹ thuật vận dụng sức mạnh hay kỹ thuật tranh đấu, mà còn hội nhập cả vào quân sự học qua ngả đường binh pháp, và hội nhập với triết học và văn học, để hình thành một hệ thống tiền võ đạo Việt Nam và võ đạo Việt Nam.

Trong một vài tình huống lịch sử, võ học Việt nam có khi được tạm thời phân lập làm 2 ngành chuyên biệt là võ học quý tộc và võ học dân dã, nhưng cuối cùng cũng kết hợp lại thành một ngành giáo dục chuyên nhất không phân biệt đẳng cấp xã hội.

Trong một vài cảnh huống lịch sử, võ học Việt nam có thể phối kết với văn học và triết học, có khi lại tách rời ra thành một ngành học độc lập và hoàn toàn kỹ thuật, nhưng cuối cùng vẫn trưởng triển trong tinh thần thượng võ và ý thức võ đạo, quán hợp cả những tinh lý triết học và văn học phù hợp.

Đặc biệt với võ học Việt Nam trong hậu bán thời kỳ thống nhất, quy chế thí võ biểu dương đầy đủ cho chính sách võ học của triều đại đương thời. Quy chế này đã đem lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu, một mặt vừa khuyến khích võ học, mặt khác làm suy yếu giá trị võ học với quan niệm trọng văn khinh võ và tách biệt hẳn văn học ra khỏi võ học (võ cử nhân không cần biết chữ). Một đặc điểm khác là quy chế thí võ thời Nguyễn đã tỏ ra có ý hướng nghiêng về kỹ thuật hóa và hoàn toàn lúng túng trong vấn đề này: từ cung tên đổi thành môn bắn súng hiệp, một thứ kỹ thuật quân sự học thuần túy. Từ căn bản muốn hội nhập võ học vào kỹ thuật tác chiến hiện đại, chính sách tuyển dụng nhân tài võ học đã tỏ ra lúng túng trong việc phân biệt ngành học, khi kỹ thuật bắn súng hiệp đòi hỏi những điều kiện về xạ trường và võ khí sử dụng khác hơn sự biểu hiện tài khéo và công phu luyện tập bằng chân tay. Chính sách sử dụng nhân tài võ học yếu kém từ căn bản, lại được áp dụng trái ngược ngay trên thực tế, bằng sự điều dụng các vị quan văn lỗi lạc chỉ huy trực tiếp các võ quan, nên đã để lại những vết thương khá lớn cho lịch sử dân tộc Việt khi phải đụng độ với chiến tranh cơ khí của người Pháp.

Tới nay, sự phục hưng và trưởng triển vị thế của võ học trong cộng đồng quốc gia tuy đem lại cho chúng ta nhiều khích lệ mới và thành tích mới, nhưng còn đòi hỏi chúng ta nhiều công trình kiến tạo lớn lao hơn nữa, để tô bồi nền võ học Việt Nam và tinh thần võ đạo Việt Nam được vinh danh với các cộng đồng nhân loại.

Việt Võ Đạo đòi hỏi thực hiện sự công bằng cho mọi người. Trước hết, hãy thực hiện công bằng ngay trong hàng ngũ môn sinh. Môn sinh nào biết nghe lời bậc trưởng thượng, biết vì môn phái mà làm việc, sẽ được bậc trưởng thượng giải quyết cho những việc riêng tư và toàn thể môn phái tiếp tay góp sức. Trái lại, nếu tự cho là có ý chí mạnh, chỉ làm theo ý mình, thì bậc trưởng thượng sẽ không biết tới nữa và môn phái không thể hỗ trợ. Tóm lại, tất cả mọi việc làm của chúng ta đều phải trả giá, vì môn phái sẽ được môn phái đáp ứng, làm việc cho tha nhân sẽ được tha nhân đền trả, và ngược lại. Không thể vì tình cảm riêng tư hoặc nghĩ rằng, để cảm hóa môn sinh vượt ngoài khuôn phép, ta cần bao dung, nương theo ý họ. Họ sẽ tự cho là quan trọng, không sửa đổi được gì cả. Phải để cho họ trả giá mà tự giác ngộ, đến lúc đó mới cứu vớt và giáo hóa họ được. Tình cảm không đúng chỗ và không hợp lý chỉ là tình phe phái hạn hẹp, không thể vươn lên thành tình môn phái trải rộng ra cùng khắp.

 

Chương 10: Đường hướng Việt Võ Đạo – Võ Sư Trần Huy Phong

A.- LÝ TƯỞNG

Mục tiêu tối hậu của Việt Võ Đạo là xây dựng CON NGƯỜI, đào tạo Thanh niên, sản xuất những thế hệ lành mạnh cho Quốc gia, Dân tộc. Muốn đạt được mục tiêu đó, Việt Võ Đạo cương quyết thực hiện cuộc CÁCH MẠNG TÂM THÂN nhằm giải phóng toàn diện CON NGƯỜI: Giải phóng CON NGƯỜI khỏi sự ngu tối của Óc Não, sự sa đọa của Tâm Hồn và sự hèn yếu của Thân Thể… Khi đã có một thế hệ thực sự ưu tú: Trong sạch, khỏe mạnh, giàu kiến thức, nhiều tự tin, có óc sáng tạo và có một ý thức đúng đắn về Vũ trụ và Nhân sinh thì chắc chắn xã hội sẽ được cải thiện. Có thể nói CÁCH MẠNG TÂM THÂN chính là Đáy Tầng của CÁCH MẠNG XÃ HỘI.

 

B.- ĐƯỜNG HƯỚNG

1)- Việt Võ Đạo không phải là một đoàn thể chính trị nên không tranh đấu chính trị như các đảng phái hay các Lực lượng, Phong trào đấu tranh. Nhưng, một Thanh niên, một môn sinh Việt Võ Đạo cần thiết phải học tập và tìm hiểu các vấn đề chính trị cũng như các vấn đề kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học… nhất là phải nhận định rõ chiều đi của Lịch sử Thế giới và hướng tiến của Lịch sử Dân tộc. Là một đoàn thể trong một chế độ tự do, đôi khi Việt Võ Đạo sinh cũng cần phải có những thái độ chính trị hoặc những hành vi mang “tính cách” chính trị, theo nghĩa rộng rãi của danh từ này. Và tất nhiên, với tư cách công dân, một Môn sinh, một Thanh niên Việt Võ Đạo có quyền hoạt động chính trị tùy theo ý thức và khuynh hướng của mỗi người, nhưng không ai được phép nhân danh Việt Võ Đạo để mưu cầu những mục đích riêng tư.

2)- Việt Võ Đạo chủ trương một nền Giáo dục dựa trên các tiêu hướng : Dân tộc, Nhân bản, Khai phóng và Thực dụng. Do đó, Việt Võ Đạo thể hiện một tinh thần HÒA ĐỒNG và HỢP TÁC cao rộng. Nói cách khác, Việt Võ Đạo triệt để chống lại mọi sự kỳ thị phân ly, áp bức và nô lệ hóa CON NGƯỜI dưới bất cứ hình thức nào. Trong tổ chức Việt Võ Đạo tuyệt đối không phân biệt Đảng phái, Tôn giáo, Chủng tộc, Địa phương và cấp độ xã hội. Tuy được hình thành bằng các kỹ thuật và tinh thần Võ đạo Truyền thống Việt nam, nhưng Việt Võ Đạo không có biên giới,vì Việt Võ Đạo là một công trình sáng tạo của Dân tộc Việt nam để đóng góp vào tiến trình văn minh của nhân loại. Vì vậy trong Việt Võ Đạo chỉ có một thứ tình cao cả, đó là TÌNH VÕ ĐẠO thoát sinh từ sự hiểu biết và ý thức của những CON NGƯỜI đã thực sự được giải phóng toàn diện.

3)- Việt Võ Đạo là một ĐƯỜNG SINH ĐỘNG phải đi thật xa dài và thật sâu rộng vào tậ̀ng đáy của mọi xã hội để làm một chất xúc tác, hòa diệu và thăng hoa thành cái Uyên-Nguyên, cốt tủy của sự sống, lưu hành mãi trong dòng nhân sinh miên trường của nhân loại. Công thức cụ thể của các Môn sinh, các Thanh niên Việt Võ Đạo phải triệt để áp dụng là : Sống – để người khác sống và Sống cho người khác. Vì thế chúng ta phải dang rộng vòng tay để đón nhận mọi người, đón nhận ngay cả những người xa lạ – nhất là những người không mang cùng một màu áo như chúng ta, bằng một thứ tình Võ Đạo cao cả và bằng sự say sưa trìu mến.

4)- Mẫu người lý tưởng của Thanh niên Việt Võ Đạo, dĩ nhiên phải là CON NGƯỜI TOÀN DIỆN. Nhưng trong đời sống thực tế – con người đó, trước hết phải là con người có một khả năng đa dụng, có ý thức và óc sáng tạo, có lòng khoan dung, từ ái, có tinh thần yêu việc và dấn thân. Con người đó phải làm được – tất cả mọi việc bằng chân tay và bằng tim óc mà không nề hà kênh kiệu, không mặc cảm và kiêu sa. Sau chót, CON NGƯỜI đó – phải là một con người dũng cảm và quyết tâm, dám hy sinh cho đại nghĩa và cho lý tưởng của mình.

– Thanh niên Việt Võ Đạo phải là lớp Tiền phong trong công cuộc Cách mạng CON NGƯỜI, xây dựng đất nước.

– Thanh niên Việt Võ Đạo phải là những Cán bộ nòng cốt của xã hội, nguyện dấn thân và hiến mình cho xã hội.

 

Chương 11: Vai trò người cán bộ trong các tổ chức và phong trào quần chúng –  Võ Sư Trần Huy Phong

Bài ngỏ lời khai mạc Khóa Huấn Luyện Cấp Trưởng 1/74 TĐTN/VVĐ

NHẬN XÉT VÀ ĐỊNH NGHĨA

Hai tiếng Cán bộ đã được phổ biến từ lâu, nhưng ít người thấu triệt được ý nghĩa chính xác của danh từ này.

Cán bộ, trước hết không phải là một thứ công chức hay một lớp người làm thuê cho chính phủ. Cán bộ không phải là các chuyên viên, các công nhân của công ty hay xí nghiệp. Cán bộ cũng không phải là các sĩ quan trong quân đội.

Theo ngôn ngữ, cán là cái gốc, cái chuôi, cái tay cầm của mọi vật như: Cán dao, cán cuốc, cán cân, cán chổi… Bộ là một thành phần trong một đoàn thể có tổ chức như Bộ tiêu hóa, Bộ hô hấp con người.

Cán bộ là những thành phần cầm nắm cốt cán một đoàn thể, một phong trào hay một chế độ… đã được huấn luyện kỹ càng và đầy đủ; thông suốt và nắm vững các chủ trương, đường lối và mục tiêu phải đạt tới.

Tùy theo tổ chức và các ngành chuyên trách, ta thấy có nhiều thứ Cán bộ khác nhau, chia thành nhiều cấp bậc khác nhau. Thí dụ: trong tổ chức Việt Võ Đạo, các Võ Sư, các Huấn Luyện Viên, các Huynh Trưởng Thanh Niên, có thể tạm gọi là các cán bộ của phong trào.

Nhưng, dù ở ngành nào, cấp nào, người cán bộ cũng phải hội đủ một số tiêu chuẩn căn bản sau đây :

A.- CÁN BỘ LÀ NGƯỜI VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN

Cán bộ là những người hướng dẫn người khác làm theo đường lối và mục tiêu của mình. Vì thế Cán bộ phải là người có khả năng hô hào, vận động nhân dân cùng làm với mình. Muốn vận động được nhân dân, người Cán bộ phải làm cho dân Mến, dân Tin và dân Theo.

  1. Làm cho người ta Mến :

Muốn làm cho người khác thương mến mình thì mình phải thành thật thương mến người ta trước. Phải hòa với mọi người dù mình không giống họ. Phải đồng với đa số nhưng không chạy theo họ, không bị họ đồng hóa. Ắn nói đúng phép, cử động đàng hoàng, thái độ vui vẻ hòa nhã, cư xử hợp lý và khéo léo… sẽ làm cho người ta mến. Chỉ nên tìm các ưu điểm của người mà ca ngợi, tuyệt không bới những tật xấu của người để chê bai; không tự cao nói phách, không thọc mạch đưa lời, không làm những điều đáng khinh… sẽ làm cho người ta thương. Cán bộ Việt Võ Đạo đối với người trên thì kính, đối với người dưới thì nhường, đối với bạn bè thì thuận, lo gì chẳng được người yêu quý.

  1. Làm cho người ta tin :

Hãy làm những điều mình hứa, lấy sự chân thành và thẳng thắn để cảm hóa lòng người. Hãy tin tưởng những điều mình làm với tất cả sự hăng say, nồng nhiệt để truyền lửa tin yêu cho kẻ khác. Người cán bộ phải có một kiến thức rộng, một lý luận vững để tranh thủ niềm tin của mọi người. Kiến thức rộng không có nghĩa là kiến thức của tất cả các ngành chuyên môn hay sự hiểu biết có tính cách “Thiên cao hoàng đế viễn”. Kiến thức rộng đây là sự hiểu rõ và nắm vững lý tưởng mà chúng ta theo đuổi, mục đích mà chúng ta muốn đạt tới, đường lối, chương trình, kế hoạch, chiến thuật, chiến lược mà chúng ta phải áp dụng để chiếm đoạt được thành quả cuối cùng. Nhờ kiến thức rộng và lý luận vững, người Cán bộ sẽ chiếm được lòng tin tưởng của những người liên hệ, của nhân dân và họ sẽ ủng hộ hoặc tiếp tay với mình cùng làm công việc như mình. Nhưng điều quan trọng nhất để tạo được niềm tin nơi quần chúng là người Cán bộ phải có một đời sống lành mạnh và trong sạch. Nếu không, thì dù ta nói nhiều, nói khỏe đến đâu cũng vẫn chỉ là những lời trống rỗng vô duyên, không thuyết phục được ai hết.

Người cán bộ Việt Võ Đạo mang nặng vai trò Huấn luyện và Giáo dục, muốn đạt được kết quả tốt không phải chỉ dùng tài diễn thuyết mà điều cốt yếu là phải nêu gương. Cán bộ Việt Võ Đạo phải sống sát với thanh niên để tìm hiểu họ, lắng nghe tâm tư của họ và thể hiện nếp sống võ đạo để họ thấy thì mới mong chiếm được niềm tin của họ.

  1. Làm cho người ta theo :

Khi đã được người ta mến và tin, muốn được người ta Theo, người Cán bộ còn cần phải chứng tỏ được hai điều quan trọng nữa : khả năng hành động và tinh thần dấn thân.

Người Cán bộ phải tự mình làm được những điều mà mình muốn người khác làm theo mình. Bất cứ trong công tác nào người Cán bộ phải là người chủ động. Cán bộ phải làm trước nhân dân làm sau. Mọi người không muốn làm hoặc không biết làm thì Cán bộ có nhiệm vụ làm cho họ thích và chỉ dẩn họ̣ cách làm. Cán bộ còn phải biết theo dõi, đôn đốc, kiểm soát, lượng giá mọi công tác. Biết lúc nào nên làm hăng, làm mạnh và lúc nào nên làm chậm và nhường hẳn. Như vậy, Cán bộ cũng là người chỉ huy, nhưng chỉ huy không có nghĩa ăn trên ngồi chốc, chỉ tay năm ngón và ra lệnh, hò hét vì đó là tác phong của bọn quan liêu, thơ lại đã lạc hậu và lỗi thời.

Nhiệm vụ của người Cán bộ là phải làm cho mọi người ý thức được sự lợi ích của công tác, lý luận và thuyết phục để họ tin tưởng, sau đó huấn luyện và chỉ dẫn họ để họ biết cách làm và cuối cùng bằng sự dấn thân tác động tinh thần phục vụ – được tăng cường bởi lòng thương mến và tín phục sẵn có – mọi người sẽ hăng hái làm theo, người nọ thúc đẩy người kia tạo nên một không khí thi đua hào hứng đầy phấn khởi.

Người Cán bộ Việt Võ Đạo phải hội đủ ba điều kiện : Làm cho người ta Mến, Tin, Theo. Bắt đầu từ những người thân trong gia đình, sau đến các thân hữu và võ sinh, môn sinh, trong các Võ đạo đường, các Chi đoàn Thanh niên, cuối cùng, lần đến mọi tầng lớp khác trong xã hội. Khi người ta mến Cán bộ, người ta sẽ có cảm tình với phong trào mà người Cán bộ đang phục vụ. Khi người ta Tin Theo Cán bộ, người ta sẽ Tin Theo phong trào của anh ta. Nếu những ai không làm được một trong những điều kiện trên thì không còn xứng đáng mang danh hiệu người Cán bộ Việt Võ Đạo, nên rút lui để khỏi làm cản bước tiến của phong trào võ đạo dân tộc.

B.- CÁN BỘ LÀ NGƯỜI MANG MỘT LÝ TƯỞNG CAO CẢ

Có khả năng hướng dẫn và vận động, nhưng nếu không mang trong đầu một lý tưởng cao cả, người Cán bộ sẽ có thể bị lạc hướng. Anh ta sẽ làm theo quan niệm riêng của mình và thường thường hay đi đến chỗ ích kỷ và vụ lợi, hoặc làm những việc quái dị không thích hợp với nhu cầu của đại cuộc, dần dần anh ta sẽ trở thành tên phản động nguy hiểm. Vì thế người Cán bộ chân chính là một người có lý tưởng để tôn thờ. Lý tưởng là ánh đuốc soi đường để tiến tới mục tiêu mà người Cán bộ nào cũng phải có. Lý tưởng là những gì đúng nhất, đẹp nhất, hoàn hảo nhất mà lý trí chúng ta có thể phóng phác ra. Lý tưởng có muôn ngàn màu sắc và hình thái khác nhau. Nhưng một lý tưởng xứng đáng cho chúng ta theo đuổi phải là cái gì đúng nhất – cao nhất – xa nhất và đẹp nhất.

Xây dựng Con Người Toàn Diện, kiến tạo một Xã hội Công bằng Hoàn hảo và mưu tìm Hạnh phúc Vinh quang cho Dân tộc, phải chăng là một lý tưởng cao cả?

Lý tưởng của Cán bộ Việt Võ Đạo là thực hiện cuộc Cách Mạng Tâm Thân để giải phóng Con người, đào tạo thanh niên, xây dựng những thế hệ hùng mạnh cho quốc gia dân tộc. Khi đã có những Thế hệ Hùng mạnh, ta sẽ có những chế độ Tốt, và từ đó xã hội sẽ được cải thiện. Có thể nói : CÁCH MẠNG TÂM THÂN là đáy tầng của CÁCH MẠNG XÃ HỘI.

Thanh niên thế giới hiện đại đang trải qua một cơn lốc tinh thần làm băng hoại hết mọi niềm tin. Họ mất niềm tin nơi các nhà Lãnh đạo thối nát, nơi các Phụ huynh bệ rạc, nơi các bậc Thầy tồi bại, nơi các Tu sĩ bất xứng và nơi các bạn bè phản trắc!… Họ chán tất cả, không cần biết tương lai và quá khứ, họ chỉ sống cho hiện tại. Họ là những người hiện sinh cuồng nhiệt. Họ lao đầu vào các lạc thú của đam mê vật chất đến độ chán ngán, kinh tởm. Sau cùng họ giật mình, buồn nôn, không còn nhận diện ra được họ là ai! Họ chối bỏ hết, chối bỏ cả lẽ sống hiện hữu… để rồi bị lạc lõng, cô đơn trong sự tối tăm, ê chề của cuộc đời vô nghĩa này…

Đó là căn bệnh trầm trọng của thanh niên thành thị. Các nước càng văn minh bao nhiêu thì càng sản xuất ra nhiều loại thanh niên bệnh hoạn bấy nhiêu. Phải chăng đó là hậu quả của nền văn minh cơ giới hiện đại. Một khi khoa học và kỹ thuật tiến bộ quá mau mà Tâm hồn con người không kịp thời tu dưỡng và cải thiện thì sẽ gây ra sự mất quân bình giữa Tâm và Vật. Nếu cái đà này không sớm được ngăn chặn thì không biết tương lai nhân loại sẽ đi về đâu ?

Thế nên nhiệm vụ thiêng liêng của người Cán bộ Việt Võ Đạo là phải góp phần tạo nên luồng sinh khí mới; tự nguyện là lớp người tiên phong đốt lên ngọn lửa Tin yêu để thổi vào tận đáy lòng của tuổi trẻ hôm nay. Chúng ta hãy chứng minh cho họ thấy rằng: Nhân loại vẫn còn đó, lịch sử vẫn còn đó, vũ trụ vẫn hiện hữu và tương lai đang chờ đợi họ. Chúng ta cho họ biết rằng họ không được quyền sống cho riêng họ mà phải sống cho người khác. Hàng trăm triệu người đau khổ trên trái đất này đang cần được cứu giúp, họ không thể chỉ biết có hiện tại mà họ phải có bổn phận đối với các thế hệ trong quá khứ và có trách nhiệm với các thế hệ trong tương lai.

Họ phải sống một cuộc đời xứng đáng và hữu ích. Họ hãy bình tĩnh ngồi xuống và làm một cuộc tự kiểm. Họ hãy can đảm thắp một ngọn lửa trong lòng để nung nấu đức Tự tin. Họ hãy dấn thân tham gia một cuộc cách mạng để tự giải phóng chính con người họ. Họ sẽ làm một cuộc phản tỉnh vĩ đại để vượt thoát tất cả và trở về với đời sống cộng đồng của nhân loại… và lửa tin yêu bất tận sẽ rừng rực bốc ra từ chính con tim họ.

C- CÁN BỘ LÀ NGƯỜI PHỤC VỤ NHÂN DÂN

Cán bộ là người vận động và hướng dẫn nhân dân làm theo những mục tiêu, đường hướng và lý tưởng của mình. Vậy Cán bộ là người phục vụ nhân dân. Người lãnh đạo không phải là người trên của quần chúng, cũng không phải là người dưới quần chúng. Người lãnh đạo phát xuất từ quần chúng nhưng không phải là quần chúng. Người lãnh đạo là người phục vụ quần chúng.

Người Phục – Vụ là người Làm Trước và Hưởng Sau. Gặp khó, gặp khổ, gặp nguy thì phải đi đầu. Thấy lợi, thấy vui thì phải lùi lại để nhường bước. Và thường khi chẳng nhận được gì cả! đó là tinh thần cao cả của các nhà Lãnh Đạo Lý Tưởng, của những người Cán – Bộ Chân Chính.

Nhưng người Phục Vụ, người Cán Bộ Chân Chính sau cùng sẽ được một phần thưởng quí giá nhất mà quần chúng tặng cho, đó là vai trò Lãnh đạo, một vai trò thiêng liêng của con người. Vai trò Lãnh Đạo, theo một nghĩa nào đó, nó cũng được ví như tình Mẫu Tử. Một Bà Mẹ hy sinh cho con, lo bồi đắp cho con chỉ vì tình thương và tinh thần trách nhiệm của thiên chức là Mẹ.

Người Cán – Bộ Việt – Võ – Đạo khổ công luyện tập, tu dưỡng, học hỏi để làm việc vất vả, sống một cuộc đời đạm bạc, khắc khổ, chỉ với mục đích xây dựng thanh thiếu niên, xây dựng con người, làm cho con người tốt đẹp hơn, hạnh phúc hợp, còn mình chẳng được gì cả. Nhưng người Cán – Bộ Việt Võ Đạo chân chính có một niềm an ủi duy nhất là đã làm tròn được vai trò của một Người Hướng – Dẫn, một Người Phục – Vụ, một Vị Thầy.

KẾT LUẬN : Trong bất cứ tổ chức nào, phong trào nào, chế độ nào, Cán – Bộ cũng là thành phần chủ yếu để nắm vững, duy trì và phát triển các tổ chức và chế độ ấy. Tổ chức càng lớn thì Cán – Bộ phải càng nhiều. Có Cán – Bộ tốt thì chính sách dở cũng thành hay, và ngược lại. Ta có thể ví Cán – Bộ là xương sống của một phong trào. Nếu phong trào to lớn quá mà cái xương sống kia không tăng trưởng kịp thì ắt nó phải gục xuống. Cho nên các nhà Lãnh Đạo khôn ngoan cần phải đặc biệt lưu tâm đến việc xây dựng và phát triển hàng ngũ Cán – Bộ của mình.

 

Chương 12: Việt Võ Đạo và cuộc đời – Võ Sư Trần Huy Phong

* Bài nói chuyện trong lễ ra mắt các cơ cấu tổ chức của Việt Võ Đạo ngày 07.7.1974 tại Saigon

 

Kính thưa quý vị

Hôm nay Việt Võ Đạo được hân hạnh đón tiếp quý vị trong khung cảnh nhỏ hẹp này để trình diện Tân Ban Chấp Hành các cơ cấu tổ chức – Chúng tôi vô cùng phấn khởi trước sự hiện diện của quí vị và xin bày tỏ lòng tri ân sâu xa. Sau đây chúng tôi xin trình bày một vài cảm nghĩ nhân buổi nhận lãnh chức vụ Tổng Cục Trưởng Việt Võ Đạo của chúng tôi.

Thưa quý vị,

Vũ trụ biến dịch không ngừng nên vạn vật và con người cũng biến dịch không lúc nào thôi. Do đó, các sinh hoạt của con người cũng luôn luôn thay đổi, biến hóa theo thời gian và không gian. Không có gì tuyệt đối vĩnh cửu trên thế gian này, vì thế cũng không có một công trình nào của con người có thể tồn tại mãi mãi. Tất cả sẽ chuyển biến theo một định luật tất hữu. Hợp Tan, Thịnh Suy, Hưng Hủy, Sướng Khổ,..Tất thảy đều chỉ có một giá trị tương đối. Xét về tiến trình của đời sống, ta thấy nó mong manh và hạnh hẹp quá, đến nỗi gần như nó chỉ là một khoảnh – khắc, một chớp nhoáng hay có khi nó chỉ là một “Epsilon” trong cái vô tận của thời gian.

Ta thấy khoảng thời gian là 200 năm làm ví dụ. Với khoảng thời gian đó nó đâu có một ý nghĩa gì so với 6 tỷ năm, là tuổi của trái đất, nhưng đối với chúng ta nó lại có rất nhiều giá trị cụ thể. Một trăm năm trước, toàn khối nhân loại khổng lồ này chưa được khai sinh và một trăm năm sau, tất cả những ai đang sống hôm nay sẽ không còn hiện hữu nữa !

Thì ra cái đơn vị 100 năm của kiếp người lại chỉ là một thoáng chốc trong sự miên trường của vũ trụ. Mỗi chúng ta chỉ được hiện hữu trong một thoáng chốc đó, nên chúng ta chỉ có thể thực hiện được một công trình theo một tỉ lệ tương xứng.

Nhìn vào quá khứ sâu thẳm và hướng về tương lai vô tận, con người nhìn thấy mình bất lực hoàn toàn. Con người đi tìm niềm tin siêu hình nhưng rồi cũng không thấy thỏa mãn. Con người bèn quay về hiện tại để bám chặt lấy thực tại. Nhiều người vì quá mê say thực tại nên đã bị nhận chìm trong thực tại đó. Họ tìm lối thoát bằng cách buông thả, phóng thân để đuổi bắt vật chất và suy tôn vật chất. Cuộc chạy đua mỗi lúc một gia tăng, đưa nhân loại vào vòng bon chen, tham lam, ích kỷ đến độ độc ác, tàn bạo, điên cuồng. Rốt cuộc, con người cứ mãi mê đuổi bắt ảo ảnh, hùng hục chạy theo những cái vô nghĩa, mê lầm. Cuối cùng con người chỉ tìm thấy sự bất mãn và tuyệt vọng !

Việt Võ Đạo tìm được con đường khác. Việt Võ Đạo coi quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một. Cái hiện hữu của mình hôm nay thực ra là cái đã được truyền chuyển từ quá khứ xa xăm và chính nó sẽ được chuyển hoá vào tương lai bất tận kia. Ta trở về với hiện tại, nhưng ta phải sống bằng niềm Tự Tin vững mạnh; bằng lòng quả cảm phi thường và bằng ý chí bất khuất, thoát sinh từ một thân xác bền bỉ hùng tráng. Ta theo đuổi một cuộc cách mạng vĩ đại tự bản thân, tâm hồn và tư tưởng ta. Ta xua đuổi những hèn yếu, bạc nhược ra khỏi tấm thân khô chết để tranh thủ sự an lạc vốn có sẵn trong ta.

Vì thế ta quyết sống, phải để cho người khác sống và ta phải sống cho người khác. Ta sống mạnh sống hùng, sống bằng tư tưởng tự do để vượt thoát tất cả…ta ý thức sự biến dịch trong chính bản thân ta và chấp nhận nó như một Tất Nhiên , không mảy may do dự.

Ta phục vụ công đồng ta đang sống, nghĩa là phục vụ chính ta. Ta trãi rộng lòng yêu thương cho tất cả mọi người, nghĩa là ta được yêu thương nhiều hơn.

Việt Võ Đạo đã được khai sinh và lớn lên trong nghịch cảnh của một dân tộc đau khổ, vốn có truyền thống văn hóa lâu đời. Việt Võ Đạo đã trưởng thành trong lò lửa đấu tranh cam go nhất của lịch sử Dân tộc. Việt Võ Đạo đã sinh hoạt trong môi trường sa đọa và ung thối nhất của một xã hội đổ nát. Nhưng Việt Võ Đạo đã vươn lên trong cái thế chênh vênh, khủng hoảng nhất của các trào lưu tư tưởng nhân loại.

Từ niềm kiêu hãnh đó, Việt Võ Đạo quyết đi trên con đường đã chọn với một thái độ tự tin và lòng quả cảm phi thường, với một ý chí tự do và tình yêu thương chan chứa.

Bằng ý thức thực tiễn đó, Việt Võ Đạo đã xây dựng được một hệ thống kỹ thuật dựa trên một nguyên lý sắc bén và linh hoạt: Luật Cương Nhu Phối Triển. Từ đấy Việt Võ Đạo đã triển khai ra các phương pháp luyện tập, giúp con người vượt thắng chính mình và xây dựng một lý thuyết sống động, giúp con người làm chủ được tâm hồn.

Hiện nay Việt Võ Đạo đang cố gắng tiến bước trên bao nỗi cực nhọc và trở ngại lớn lao. Trong thập niên 54 – 64, Việt Võ Đạo đã âm thầm xây dựng lại lớp Võ sư mới, đào tạo những cán bộ Lãnh đạo và Chỉ huy. Trong thập niên 64 -74 Việt Võ Đạo quảng phát sâu rộng trên toàn quốc và thập niên 74 – 84 này, Việt Võ Đạo sẽ chấn chỉnh hàng ngũ, điều bát nghi môn và lan rộng quốc tế.

Trong sự chuyển mình đó, các cơ cấu tổ chức của Việt Võ Đạo được sắp xếp lại cho phù hợp với các công tác của giai đoạn mới. Nhưng cho dù Việt Võ Đạo có dồn mọi nỗ lực để hoạt động, cũng chỉ có thể đạt được những thành quả hạn hẹp. Sự ủng hộ và tiếp tay của tất cả mọi người, mà khởi đầu là quý vị thân hữu hiện diện hôm nay mới chính là động lực thúc đầy Việt Võ Đạo đi xa hơn trên con đường lý tưởng đã vạch.

Trân trọng cãm ơn và kính chào quý vị.

VS TRẦN HUY PHONG

Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện Việt Võ Đạo

 

Chương 13: Việt Võ Đạo quảng phát vào cộng đồng nhân loại – VSCM Lê Sáng

(Trích huấn dụ của VS Chưởng Môn)

Các môn sinh Pháp thân mến,

Theo tập Việt – Võ – Đạo, các anh đã có dịp tìm hiểu về nước Việt và người Việt. Nhìn lên bản đồ, các anh đã thấy diện tích Việt Nam rất nhỏ bé. Nhìn người Việt, các anh cũng thấy người Việt rất nhỏ bé. Vậy mà Việt Nam vẫn tồn tại được trước mọi áp bức “cá lớn nuốt cá bé” “nước lớn thôn tính nước bé”, qua dòng lịch sử đấu tranh của nhân loại. Đó chính là tinh thần cương nhu phối triển võ đạo truyền thống của người Việt, biểu hiện qua tinh thần “Cây Tre”: cứng mà mềm mại, đổ mà không gẫy, lòng rỗng không, biểu trưng cho tinh thần và khí độ “an nhiên tự tại”. Không mê đắm quyền vị, vật chất, của mẫu người quân tử Á Đông, và đó là tinh thần Việt – Võ – Đạo mà các anh thụ huấn, hàm dưỡng.

Sinh thời, Cố Võ Sư Sáng Tổ của chúng ta luôn luôn chú trọng tới công tác quảng phát tinh thần võ đạo. Người thường nói: “Võ đạo có xuất phát điểm từ dân tộc, nhưng phải đi vào mọi cộng đồng nhân loại và là tài sản chung của nhân loại. Có thế, võ đạo mới biểu hiện được sứ vụ nhân bản của mình với nền văn minh nhân loại”. Mà đề cập tới vấn đề quảng phát Việt – Võ – Đạo vào cộng đồng nhân loại, một trong những môi trường ưu tiên của môn phái ta chính là dân tộc Pháp của các anh, một dân tộc có nhiều quan hệ văn hóa với dân tộc Việt Nam.

Tôi cũng muốn lưu ý các anh: Tinh thần võ đạo luôn luôn bao dung, cởi mở, kết hợp và vượt thoát lên mọi lảnh vực quốc gia, chủng tộc, tôn giáo và chánh trị, nên không chấp nhận mọi ý niệm và hành động kỳ thị quốc gia, chủng tộc, tôn giáo và chánh trị tác động vào các hoạt động võ đạo.

Tâm hồn người võ đạo chúng ta do đó, phải thật đẹp. Đẹp bằng thanh tĩnh và rỗng không, không để cho chia rẽ, đố kỵ và hận thù xâm nhập. Đúng như lúc sinh tiền, Cố Sư Sáng Tổ của chúng ta đã suy tư và tâm niệm:

“Ta đã cạn nước mắt, mất tiếng cười vì cuộc đời, nhưng ta đã được quay về với linh hồn trắng trong, nhân hậu của Người Thực Người, nhưng ta đã vượt lên trên những tăm tối, tội lỗi của Người Chẳng Người. Bao đớn đau tâm hồn, nát xác người đã gieo ở ta, ta đã được gặt hái những bông hoa Cao Đẹp nhất ở sự Thương Yêu và Tha Thứ vô bờ…”

Tôi thân mến chúc các anh sớm gặt hái được những bông hoa Cao Đẹp nhất tìm thấy trong Thương Yêu và Tha Thứ vô bờ do Cố Sư Sáng Tổ đã chỉ dạy cho chúng ta. Đó chính là tiêu điểm lý tưởng của Việt – Võ – Đạo: đạt tới một nền Nhân Võ Đạo cho các cộng đồng nhân loại.

Tôi tha thiết kỳ vọng ở các anh, những người sinh trưởng tại Pháp quốc, quê hương của nền văn hóa Âu Châu hiện đại, và là tâm điểm phát xuất của những tinh hoa văn hóa Tây Phương. Chúng ta sẽ cùng nhau nỗ lực xây dựng

một nền Nhân Võ Đạo khởi từ Việt – Võ – Đạo.

 

Chương 14: Cuộc trường chinh vĩ đại của chúng ta – Võ Sư Nguyễn Văn Thư

Trên bước đường tiến tới của mỗi Việt Võ Đạo Sinh, dưới ngọn đuốc chỉ hướng của 10 điều tâm niệm, sứ mạng cấp thiết phải được liên tục hoàn thành từng bước một: những bước trường chinh của Việt Võ Đạo.

Ở nửa phần đất của quê hương đau khổ này, được nuôi dưỡng và bao dung bởi Việt tộc luôn luôn bị đe dọa vì nghèo đói, bệnh tật và ngoại xâm. Chúng ta Việt Võ Đạo Sinh, phải kiên trì đứng ra góp phần vào công cuộc hồi sinh ý chí bất khuất, sức chiến đấu kiêu dũng bất diệt của Việt tộc.

Sự suy nhược đến hấp hối tinh thần tự cường tự lập truyền từ: Bà Trưng, Triệu, Đinh, Lý, Trần, Lê…trong quảng đại quần chúng Việt, trước sự hủ hóa thanh thiếu niên của các trào lưu đồi trụy ngoại lai đã làm lung lay nền tảng đạo đức cổ truyền. Lợi dụng sức hấp dẫn của các nhu cầu xa sỉ, phù phiếm, hòng đánh lạc hướng tiềm lực trường tồn mãnh liệt của Việt tộc, các ngoại lực đã âm mưu hủy diệt mầm móng ý chí tự chủ trong thâm tâm mỗi người công dân Việt. Nhờ những phương pháp sung mãn, đại quy mô, các ngoại lực manh nha, áp đảo, thao túng, nhằm bóp nghẹt sinh lực đề kháng kiêu hùng của Việt tộc. Các ngoại lực đó được quy tựu nhằm thống trị Việt tộc dưới các danh hiệu thực dân đế quốc và cộng sản. Các ngoại lực đó thì khi xung đột, lúc lại cấu kết với nhau hòng mưu lợi trên đầu trên cổ Việt tộc.

Để vùng lên, Việt tộc đã kiên trì chiến đấu ngoài hai mươi năm. Mặc dầu bọn Cộng sản đã chiếm nửa phần đất yêu quí của chúng ta, Việt tộc vẫn không chịu khuất phục. Mặc dù bọn thực dân đế quốc còn lăm le đặt ách nô lệ lên nửa phần đất này, Việt tộc vẫn không sờn chí đấu tranh. Quyền sống và tiến bộ của Việt tộc nhất định miên trường tồn tại. Mỗi người con dân Việt phải chiến đấu bảo vệ quyền tối thượng, thiêng liêng đó. Đứng chung trong chiến tuyến ấy Việt – Võ – Đạo sinh phải nỗ lực xuất phát một cuộc trường chinh vĩ đại của chúng ta chia ra nhiều thiết diện, trong đó phải qui hướng vào 3 nỗ lực chính:

I- CHINH PHỤC BẢN THÂN – TỰ THẮNG ĐỂ CHIẾN THẮNG

Trong mỗi chúng ta, tồn tại không biết bao nhiêu kẻ nội thù nhưng nguy hại nhất là giặc ngu dốt, giặc hèn yếu và giặc bệnh tật, 3 kẻ nội thù đó làm chúng ta quẫn bách trong sự nghèo đói, suy nhược, khiến chúng ta dễ dàng bán thân, làm nô lệ cho các ngoại lực. Vì lẽ trên, cuộc trường chinh vĩ đại của chúng ta phải khởi đầu bằng nỗ lực chính thứ nhất: Tự thắng để chiến thắng.

  1. A) CHIẾN THẮNG GIẶC NGU DỐT

Dốt là chưa được học biến thành hành động sai lầm tác hại. Ngu là đã biết mà vẫn còn hành động sai lầm, tác hại. Muốn khỏi dốt phải học biết. Muốn khỏi ngu không những phải học biết mà còn luôn luôn tâm niệm kinh qua những kiến thức mình đã lãnh hội được hầu thực dụng để tránh khỏi sai lầm, tác hại. Người chiến sĩ diệt giặc ngu dốt luôn luôn phải ôn điều cũ, học điều mới, cẩn trọng suy đoán trước khi hành động. Người chiến sĩ diệt giặc ngu dốt phải sáng suốt theo sát bước tiến triển của sự việc, luôn luôn kiểm điểm để tránh lỗi lầm, vượt trở ngại, hoàn tất mau lẹ. Sau khi hành động, người chiến sĩ diệt giặc ngu dốt lại phải nhìn suốt lại hết quá trình diễn tiến của sự việc đã hoàn tất để rút kinh nghiệm, tìm những phương sách bổ cứu các khiếm khuyết, cải sửa các lỗi lầm hầu giúp ích cho bản thân trong các hành động kế tiếp. Sau hết, người chiến sĩ diệt giặc ngu dốt lại phải phổ biến cho các chiến hữu công trình suy nghiệm của mình hầu tránh cho bạn những lỗi lầm, tác hại tương tự. Diệt được giặc ngu dốt, con người sẽ hiên ngang, tự tin trong mọi hành động, đó là bước tiến tới giúp cho việc diệt giặc hèn yếu.

  1. B) CHIẾN THẮNG GIẶC HÈN YẾU

Yếu là trạng thái suy kém, bạc nhược về thể chất khiến cho con người không có sức chịu đựng khổ nhọc, thiếu bền bỉ trong gian lao, chẳng thể đương đầu với bất cứ một cường lực ngoại lai nào cả.

Hèn là thái độ suy kém, bạc nhược về tinh thần, dễ dàng hàng phục trước sức mạnh, lùi bước trước trở ngại, do dự, e dè, sợ sệt, không dám quyết đoán, chấp lãnh một việc gì cả.

Yếu sinh ra hèn. Vậy muốn diệt giặc hèn yếu phải trước diệt giặc yếu, sau diệt hèn. Cho được thế, đầu tiên phải khỏe. Muốn khỏe phải chuyên cần, siêng năng luyện tập thân thể, giữ vệ sinh, sống điều độ. Võ thuật chính là phương tiện chiến thắng giặc yếu rất hữu hiệu. Đó chính là chiếc thuyền cho ta vượt sóng, ngọn gió cho ta trương buồm. Đó chính là nguồn gốc của đại hùng, đại lực. Một khi thể xác đã cường kiện, tinh thần cũng nhờ đó mà tinh tiến. Từ đó, chúng ta diệt giặc hèn.

Muốn diệt giặc hèn, chủ yếu là phải hàm dưỡng một ý chí bất khuất – truyền thống kiêu hùng của Việt tộc, nhờ nó mà nước ta trường tồn, dân ta biệt lập trước sức ngoại xâm như vũ bão của đế quốc phương Bắc, âm mưu nô lệ hóa thâm độc của thực dân phương Tây. Hàm dưỡng ý chí bất khuất, đó là điều chủ yếu trong công cuộc diệt giặc hèn, nhưng thế chưa đủ. Muốn diệt giặc hèn phải kiên quyết thắng vượt mọi trở ngại bất cứ từ đâu tới, do đâu mà ra, bằng mọi phương tiện khả hữu.

Để được như vậy, người chiến sĩ diệt giặc hèn yếu còn phải dọn mình sẵn sàng đi tiên phong trong mọi lĩnh vực hoạt động nơi nội bộ Việt – Võ – Đạo cũng như ngoài xã hội. Tinh thần tiên phong đó phải được rèn tập từ khi chấp lãnh những việc nhỏ. Đừng thấy việc nhỏ mà coi thường, không sẵn sàng đảm đương. Chính sự khinh suất ấy đã làm thui chột mầm mống tươi đẹp của tinh thần quyết đoán chấp lãnh một trọng trách. Một bàn tay chuyên luyện có thể bẻ sắt, chặt đá. Một ý chí chuyên luyện có thể xẻ núi, lấp sông. Khi người ta quen chấp lãnh mọi việc đưa đến, người ta không còn do dự, e dè hay sợ sệt khi phải quyết đoán đảm đương một việc lớn. Sự sẵn sàng chấp lãnh, mau mắng quyết đoán ấy sẽ trở nên một quan năng tập thành một phản xạ có giáo dục.

Văn ôn, võ luyện. Người xưa cho rằng 3 ngày không đọc sách mở miệng nói khó nghe. Người chiến sĩ diệt giặc hèn yếu một ngày không luyện tập thễ xác hàm dưỡng chí khí là đã bước một bước dài trong việc hủy thân, hại việc lớn vậy. Nói như thế vì có tận diệt được giặc hèn yếu, chúng ta mới có đủ điều kiện để tiến lên chiến thắng giặc bệnh tật – một trong những thủ phạm gây nên tình trạng chậm tiến của xã hội Việt hiện tại.

  1. C) CHIẾN THẮNG GIẶC BỆNH TẬT

Bệnh tật là trạng thái sinh lý bất thường của cơ thể con người do sự tác hại của ngoại lực như vi trùng, thời khí, ẩm thực v.v… khiến sinh mệnh bị đe dọa và năng lực hoạt động bị giảm thiểu.

Tật là những yếu kém, khiếm khuyết, bất bình thường của cơ thể cũng như tinh thần. Què là một tật. Gian dối cũng là một tật. Nghiện ngập cũng là một tật.

Muốn chiến thắng giặc bệnh tật trước hết phải nhờ sự chuyên luyện thể xác làm gốc, cố gắng giữ vệ sinh, xa lánh mọi cơ hội có thể bị truyền nhiễm, sống hết sức điều độ, tránh hao phí sinh lực vào những cố gắng vô ích hay giải trí quá độ đến thành trác táng, trụy lạc. Muốn diệt giặc bệnh, cơ thể phải cường tráng, sinh cảnh phải phong quang, sinh hoạt phải mực thước, hợp lý. Muốn diệt giặc tật phải kiên quyết cách mạng tâm thân. Tâm phải chính, thành, hòa, cẩn. Chính để xua đuổi tà ngụy nơi mình, nơi người. Thành là hết lòng với mình, với người, với sự việc. Giữ lòng cho trong sáng, đối với lương tâm không hổ thẹn, đối với nghĩa vụ không sơ thất, đối với mọi người liên hệ trọn tình, đạt lý. Hòa để cố gắng xóa bớt những bất đồng về mọi phương diện hầu tiến đến một không khí cảm thông trong một sinh cảnh liên ái. Cẩn để tránh sơ suất, cẩu thả có thể gây mâu thuẫn, tạo thù nghịch. Lại nửa, thân phải thường hằng cải thiện, ngày một tinh tiến. Thân cải thiện để san bằng những dị biệt về thể cách cũng như tâm thức với mọi người chung sống quanh ta trong xã hội. Thân tin tiến để tự thắng bản thân hầu chiến thắng ngoại giới, nỗ lực chính thứ hai phải đạt được trong cuộc trường chinh vĩ đại của chúng ta.

II.- CHINH PHỤC NGOẠI GIỚI : KIÊN DŨNG VÀ TỪ ÁI ĐỂ THẮNG PHỤC CÁC NGOẠI LỰC ĐỐI NGHỊCH

Kiên dũng và từ ái là những đức tính căn bản để trở nên một nhân tố tốt cho cuộc chinh phục ngoại giới. Ngoại giới đây được quy chiếu như một tổng hợp các ngoại lực có tính cách đối nghịch, cản trở, phá hoại bước trường chinh vĩ đại của chúng ta.

Trước hết, ta hãy tìm hiểu đâu là ngoại lực đối nghịch: Sự đối xung và phức hợp giữa các ngoại lực ấy.

Sau đó ta tìm hiểu thế nào là kiên dũng và từ ái: Vận dụng kiên dũng và từ ái để thắng phục các ngoại lực đối nghịch. Đứng trên quan điểm Việt tộc, đấu tranh cho sự trường tồn của nòi giống, sự độc lập của quốc gia, chúng ta coi tất cả các xung lực nào bách hại Việt tộc, ngăn trở, không cho đạt những mục tiêu đó, đều là ngoại lực đối nghịch. Trong chiều hướng đó, chúng ta lần lượt phân tích :

  1. A) ĐÂU LÀ NHỮNG NGOẠI LỰC ĐỐI NGHỊCH

Giữa bối cảnh lịch sử hiện đại, một bên là bọn thực dân trắng và tay sai, bên kia là đế quốc đỏ và bè lũ bán nước, các ngoại lực hiện rõ bộ mặt trâng tráo của chúng trước Việt tộc.

1- Thực dân trắng và tay sai

Đau khổ 80 năm nô lệ đã thấm sâu vào xương tủy Việt tộc. Biết bao chiến sĩ vô danh sinh, lớn lên và chết đi còn mang theo nỗi căm hờn mất nước về bên kia thế giới. Bọn ngoại chủng đã choàng lên đầu, lên cổ Việt tộc gông cùng, bóc lột dân tộc ta từ sưu cao thuế nặng đến nhân lực, tài lực, vật lực. Chúng đã nuôi dưỡng một bầy ưng khuyển tay sai để tiêu diệt các mầm mống ái quốc, đặt ách thống trị lên Việt quốc với thuốc phiện và rượu, với phòng nhì và khám lớn, với Côn Lôn, Lao Bảo và máy chém..Rồi từ Pháp sang tay sai Nhật, dân Việt chết đói hàng triệu ở miền Bắc trong lúc lúa gạo dư thừa đem đốt thay than chạy máy ở miền Nam.

Bọn thực dân đã bị đánh bật ra khỏi giải đất hình chữ S này nhưng chúng vẫn lăm le trở lại vì trông hòng dùng những tay sai cũ của chúng còn đang mai phục trong guồng máy công quyền cũng như mọi cơ cấu của ta. Đó là bọn phong kiến, bọn tài phiệt, bọn hoạt đầu.

a- Bọn phong kiến:

Được nuôi dưỡng, giáo luyện bởi thực dân Pháp, bọn quan lại phong kiến nuối tiếc thời đại vàng son ôm chân quan thầy, bóc lột và nô dịch hóa đám dân đen bần cùng, yếu thế. Chúng sẵn sàng tìm mọi cách tiếp tay với bọn tài phiệt và bọn hoạt đầu nghênh đón bước xâm lược của bọn thực dân – dù chủ cũ hay chủ mới – hầu giật lại ưu quyền đã bị tước đoạt bởi cuộc vùng dậy của Việt tộc.

b- Bọn tài phiệt:

Khi hồi chuông tự chủ gióng lên, Việt tộc giành lại quyền tự quyết đồng thời thâu đoạt những quyền lợi kinh tế, văn hóa v.v…đó cũng là hồi chuông báo nguy giờ cáo chung của bọn mại bản đầu cơ, bóc lột Việt tộc, thường dựa vào bọn thực dân để thế lực tài phiệt cưỡng đạc lợi ích của Việt tộc hiện thực được do sức lao tác khai thác tài nguyên thiên nhiên bản xứ. Để vớt vát những nguồn lợi ngày một bị thu hẹp, bọn tài phiệt tung tiền ra mua chuộc, hủ hóa các công bộc Việt, lăm le tiến tới chổ cung hiến điều kiện thuận lợi – như tạo nội gian – cho bước tái hồi của bọn thực dân trên đất Việt yêu quí của chúng ta.

c- Bọn hoạt đầu:

Với một chút hư danh đạt được bởi thủ đoạn xảo trá, tinh vi, lũ hoạt đầu xôi thịt là những đứa Việt gian đúng nghĩa nhất hiện đang trà trộn, nhảy múa, khua chuông gõ mõ trên chính trường. Chúng nhất định không từ một cơ hội nào để vinh thân phì gia ngay cả việc bán đứng đất nước và dân tộc này cho ngoại bang xâu xé. Dựa vào những tiếng tăm cuối mùa, chúng bịt mắt dân ta, đóng vai trò người hữu tâm với quốc loạn, đứng ra gánh vác non sông trong khi không từ một hành vi nhơ nhuốc nào mà không nhúng tay vơ vét như ăn cắp của công xây nhà riêng, lợi dụng quyền thế để làm điều phi pháp mưu tư lợi v.v…Do bản chất đớn hèn, lưu manh của bọn hoạt đầu, chúng sẵn sàng nhận tiền của ngoại bang để đặt lại cơ sở cho bọn thực dân dễ bề xâm lược xứ này.

Với tất cả thực dân và tay sai, hành động của chúng làm nhiễu loạn và ung thối thêm hiện trạng Việt quốc suy nhược và phân hóa, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho đế quốc đỏ và bè lũ bán nước thôn tính nốt nửa mảnh đất yêu quý còn lại của chúng ta.

2- Đế quốc đỏ và bè lũ bán nước:

Dưới chiêu bài dân tộc đấu tranh, giải phóng đất nước, đế quốc đỏ thâm độc ngụy trang nhãn hiệu cộng sản quốc tế dưới lốt nhân dân tự vùng lên đòi hòa bình, độc lập và cơm áo. Bằng tuyên truyền ve vãn và khủng bố đẫm máu, bọn cộng sản và bè lũ bán nước đã âm mưu dùng kế nồi da xáo thịt, lấy người Việt giết người Việt, khơi sâu căm thù giai cấp, đào thêm hố kỳ thị ngăn cách giữa tôn giáo với tôn giáo, sắc dân với sắc dân, địa phương với địa phương, phe đảng với phe đảng. Dưới chiến lược và chiến thuật cố hữu, bọn cộng sản quốc tế và bè lũ bán nước nhắm vào lòng khát khao hòa bình, độc lập và ấm no của Việt tộc mà đưa dân ta vào cuộc chém giết tuyệt vọng, tiến dần tới họa diệt chủng.

Tất cả nỗ lực của đế quốc đỏ cộng sản dồn vào việc làm phân hóa hàng ngũ quốc gia đến triệt để, mặt khác trung lập hóa sức đề kháng của các xung lực ái quốc hầu bắt chước lối tầm ăn dâu nhuộm đỏ dần miền đất nước yêu quý này của chúng ta.

  1. B) SỰ ĐỐI XUNG VÀ PHỨC HỢP GIỮA CÁC NGOẠI LỰC ĐỐI NGHỊCH

Dù trắng hay đỏ, dù bọn tay sai bên này hay bên kia, mục đích chung của chúng là thôn tính Việt quốc. Vì lẽ đó, lúc thì các ngoại lực ấy đối xứng, lúc thì chúng lại phức hợp với nhau mong nuốt chửng xứ Việt ta.

a- Đối xung:

Cùng mục đích thôn tính Việt quốc tất nhiên các ngoại lực này cùng nhắm vào những quyền lợi tương đồng. Khi cùng nhắm một loại quyền lợi thì tất nhiên chúng phải tranh giành, do đó xung đột, đối đầu với nhau. Chúng càng xung đột với nhau thì lực lượng của chúng càng bị suy yếu. Trong khi đó, dưới sự ảnh hưởng của sự đối lập này, các xung lực ái quốc của Việt tộc cũng bị hao tổn nếu không biết cố gắng vươn lên để vượt ra ngoài cuộc tranh chấp ấy hầu bảo toàn lực lượng chờ giờ tất công quyết định, giành lại chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn.

b- Phức hợp:

Nhưng không phải bất cứ lúc nào cuộc tranh chấp đỏ – trắng cũng diễn ra dưới hình thái đối xung. Đôi khi vì tương quan lực lượng đôi bên khá tương đồng, các ngoại lực đối nghịch với Việt tộc buộc lòng phải bắt tay nhau chia chác quyền lợi thu rút được ở xứ ta. Sự phân chia quyền lợi này dựa trên căn bản tương quan lực lượng đôi bên tính theo tỷ lệ thuận với các ưu thế về chính trị, quân sự v.v…Tuy đây chỉ là một tình trạng cân bằng không bền nhưng lại tối nguy hại cho các xung lực ái quốc của Việt tộc, vì cả hai phe chia chác quyền lợi thâu rút được ở xứ ta. Sự phân chia quyền lợi này dựa trên căn bản tương quan lực lượng đôi bên tính theo tỷ lệ thuận với các ưu thế về chính trị, quân sự v.v…Tuy đây chỉ là một tình trạng cân bằng không bền nhưng lại tối nguy hại cho các xung lực ái quốc của Việt tộc, vì cả hai phe ngoại lực đối nghịch đều rảnh tay mà tiêu diệt sức đề kháng của Việt tộc.

Tóm lại, dù đối xung hay phức hợp, các ngoại lực đối nghịch là mối đe dọa bách hại Việt tộc. Vậy để tự tồn chúng ta phải làm gì ?

KIÊN DŨNG VÀ TỪ ÁI ĐỂ THẰNG PHỤC CÁC NGHỊ LỰC ĐỐI NGHỊCH

Để đối phó với các ngoại lực đối nghịch chúng ta phải được trang bị bằng kiên dũng và từ ái.

Kiên là bền bỉ, dẻo dai, quyết tâm, trì chí.

Dũng là uy mãnh, hùng liệt, tốc chiến, quyết thắng.

Thân kiên thì dai bền. Tâm kiên thì vững chắc. Thân kiên thì thua bại không nản, gian khổ không nề. Tâm kiên thì ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời.

Thân dũng thì không sức mạnh nào đè bẹp được. Tâm dũng thì uy vũ bất năng khuất. Thân tâm thường dũng là sức mạnh tinh thần và thể chất hoàn hảo toàn năng.

Từ là bao dung, khoan độ, thương xót, quảng đại.

Ái là yêu thương rộng rãi bao la, tiến từ bản thân ra muôn loài, vạn vật.

Từ thì dung hóa được vạn ác. Như lòng mẹ hiền dung hóa được đứa con hư, như lòng ông thầy khoan độ dung hóa được đứa học trò lêu lỏng, ngỗ ngược.

Ái tiến được mình, cảm được người, phát huy cao độ thì cảm được muôn loài, vạn vật. Đức liên ái là mối dây liên kết bền chắc giữa người với người, người với muôn loài, vạn vật.

Từ ái đều triển khai từ mình tới người, vật. Trước tận từ, tận ái với mình, sau phát huy đức từ ái đến tột độ để xử đối với mọi người, mọi loài, mọi vật sao được như xử đối với bản thân. Được vậy, những thống khổ sẽ vơi bớt, những thù hận ắt triệt tiêu.

Tóm lại, với các ngoại lực chúng ta vẫn dùng kiên dũng để chiến thắng, từ ái để thu phục. Uyển chuyển tùy hoàn cảnh, trường hợp mà thêm bạn bớt thù trong sự sáng suốt nhận định ta, bạn, địch. Một khi đã nắm vững được diệu quyết vận hành kiên dũng từ ái, chúng ta sẽ chuyển hóa được nguy thành an, địch thành bạn, ngõ hầu tạo dựng được một trạng thái hòa hảo, thanh bình để qui hướng mọi nỗ lực chung của Việt tộc và đồng minh vào việc lao tác khống chế thiên nhiên mưu hạnh phúc riêng cho Việt tộc chúng ta và chung cho cả nhân loại.

III.- CHINH PHỤC THIÊN NHIÊN: LAO TÁC ĐỂ KHỐNG CHẾ THIÊN NHIÊN – MƯU HẠNH PHÚC CHO VIỆT TỘC VÀ NHÂN LOẠI

Một khi đã chinh phục được ngoại giới rồi, nỗ lực sau chót mà chúng ta phải tiến tới là chinh phục thiên nhiên phải vận dụng sức lao tác.

1- Lao tác

Lao là mang sức mạnh thể chất và tinh thần ra làm việc hầu đạt được một kết quả mong muốn theo một khuôn mẫu đã được đặt định trước bởi xã hội.

Tác là mang sức mạnh thể chất và tinh thần ra làm việc hầu đạt được một kết quả mong muốn theo một khuôn mẫu mới do chính mình cố gắng ước định trong dự tưởng.

Lao ví như công việc thủ công của người thợ sắp chữ in sách. Tác ví như công trình sáng tạo của người làm thơ, viết văn đưa in thành sách. Nói khác đi, trong phạm vi võ học, lao là công việc của người võ sư dạy môn sinh các đòn thế bài bản; tác là công trình sáng tạo ra đòn thế bài bản của vị Sáng Tổ và các môn đồ kế nghiệp.

Lao mà không tác thì ngừng đứng không tiến bộ, nhân loại chẳng tiến hóa được mà chỉ quanh quẩn trong những khuôn mẫu cũ kỹ, dễ sinh bảo thủ và sa vào vòng lạc hậu.

Tác mà không lao thì không ích dụng cho nhân sinh ví như phát minh ra điện năng mà không ứng dụng vào việc chuyển hóa thành cơ năng để làm chạy máy, thành quang năng để làm sáng đèn v.v…

Tóm lại, tác không những làm phong phú hóa kho tàng tri thức mà còn hiến ích cho nhân sinh trong khi thực dụng để phục vụ con người. Mặt khác, lao giúp cho con người khai thác hứng cảm từ tác biến thành thức cung thực ích cho các nhu yếu của cuộc sống ngày được nâng cao. Càng cao con người càng tự thỏa ứng được chính nhu cầu của bản thân và đồng loại bằng những thức cung dồi dào sung mãn. Càng tác con người càng tự cung cho mình nhiều phương tiện mới mẻ để phụng sự cho chính đời sống của loài người. Lao tác gắn bó và cần thiết lẫn cho nhau trong nỗ lực sáng tạo để sản xuất của nhân loại.

2- Lao tác để khống chế thiên nhiên

Như trên đã nói, lao tác là nỗ lực sáng tạo để sản xuất. Lao – tác, lao – tác liên tục làm thành một chuỗi mắt xích nỗ lực hiến ích cho nhân sinh. Nhưng muốn lao tác, chỉ nhân lực không chưa đủ, cần phải có chất liệu nửa: chất liệu đó chính là kho tàng thiên nhiên phong phú vô tận mà con người tha hồ mặc sức khai thác.

Thiên nhiên là nguồn chất liệu vô thủy vô chung, ví như nước, đất, gió, lửa của phật lý; ví như vạn vật mà ta cảm thức và không cảm thức được; lại ví như chính bản thân mỗi chúng ta sinh động gồm tâm, thân, thần và thức. Thiên nhiên đó, để yên thì sinh hóa vô thường, ví như con ngựa hoang trong rừng núi hung hăng cuồng động. Nhưng khi thiên nhiên được khống chế bởi sức lao tác của con người thì sẽ sinh hóa hữu ích cho con người, ví như con ngựa được bắt từ rừng về để kéo xe, chở nặng…

Do nguyên lý ấy, thiên nhiên muốn trở nên thích dụng cho con người cần phải được khai thác theo một chiều hướng hiến ích. Nói rõ hơn, công cuộc lao tác khống chế thiên nhiên phải được hiện thực với mục đích mưu hạnh phúc cho con người. Trong chiều hướng ấy, chúng ta phải làm gì?

3- Lao tác khống chế thiên nhiên để mưu hạnh phúc cho Việt tộc và nhân loại

Lao tác khống chế thiên nhiên là điều kiện cần cho cuộc sinh tồn của loài người nói chung và Việt tộc nói riêng. Cần nhưng chưa đủ. Lao tác để khống chế thiên nhiên còn nhằm mưu hạnh phúc cho con người nữa. Nói rõ hơn, tìm ra nguyên tử năng là một công trình lao tác khống chế thiên nhiên; nhưng nếu biết chế thành bom nguyên tử thì tác dụng lại bách hại nhân loại hơn là hiến ích. Trái lại, nếu đem ứng dụng nguyên tử năng vào những công cuộc phụng sự hòa bình như dùng phóng xạ tuyến để trị liệu trong y khoa hay chuyển hóa nguyên tử năng thành điện năng thì giúp cho đời sống con người được lành mạnh, sáng sủa…

Trung thành với ý hướng ấy, Việt – Võ – Đạo sinh trong nỗ lực chung, đóng góp với đồng bào Việt tộc, đồng lao cộng tác để khống chế thiên nhiên nhằm mưu hạnh phúc cho chính Việt tộc chúng ta hầu nâng cao đời sống (chậm tiến) của chúng ta mau chóng vược lên sánh ngang hàng với thế giới tiến bộ. Tuy nhiên trong bước chinh phục thiên nhiên này, chúng ta không đơn độc trong hành trình, chúng ta còn biết bao đồng minh sẵn sàng đồng lao cộng tác với chúng ta. Thiện ý trả cho thiện ý, chúng ta phải từ ái mà hòa đồng với họ để mai đây không những mang lại cho Việt tộc một đời sống văn minh tiến bộ vượt bực cả tinh thần lẫn vật chất mà còn chia sẻ với mọi chủng tộc huynh đệ trên khắp thế giới kết quả công trình lao tác của chúng ta. Nói thu hẹp lại và cụ thể hơn, bước trường chinh vĩ đại của chúng ta thoạt tiên phải đưa Việt – Võ – Đạo tiến tới Nhân Võ Đạo để góp phần của Việt tộc vào công cuộc xây dựng một Nhân Loại Mới – một nhân loại kiên dũng trong lao tác khống chế thiên nhiên để hiến ích cho nhân sinh – một nhân sinh chan hòa tương từ liên ái, cộng hưởng vô biên hạnh phúc.

Đó là sứ vụ cao đẹp và thiêng liêng nhất mà mỗi Việt – Võ – Đạo sinh xứng danh phải dọn mình để hoàn thành viên mãn.

* * *

Mùa xuân tới, thành kính đốt nén tâm hương, hỡi tất cả các người con yêu Việt – Võ – Đạo, hãy hướng về anh linh Cố Võ Sư Nguyễn Lộc mà tự nguyện tận hiến 3 nỗ lực:chinh phục bản thân, chinh phục ngoại giới, chinh phục thiên nhiên hầu mạnh tiến trên bước trường chinh vĩ đại của chúng ta bằng bàn tay thép tượng trưng cho đức kiên dũng và bằng trái tim từ ái.

1967

Thông thường, chúng ta đều đến với môn phái với câu hỏi: Việt Võ Đạo mang lợi ích gì cho tôi? Tôi sẽ được hưởng gì khi đã hết lòng hoạt động cho Việt Võ Đạo? Chúng ta chưa bao giờ tự hỏi: Tôi có thể giúp gì cho Việt Võ Đạo? Tôi có thể đóng góp được phần vụ nào vào việc phát huy và quảng bá Việt Võ Đạo? Rồi chúng ta cứ làm việc cho Việt Võ Đạo, dù hăng say hay mực thước. Vì nhu cầu của tuổi trẻ cần phải hoạt động, vì sinh hoạt của Việt Võ Đạo hấp dẫn chúng ta, làm cho chúng ta vui sống, chúng ta được mọi người khâm phục với danh nghĩa môn sinh Việt Võ Đạo. Và như vậy, chúng ta chỉ mới làm việc cho Việt Võ Đạo vì chúng ta, vì sở thích và ý hướng riêng tư chớ chưa vì Việt Võ Đạo, vì nhu cầu quảng bá của Việt Võ Đạo, vì lý tưởng mà Việt Võ Đạo muốn gieo rắc tới tất cả mọi người.

 

Chương 15: Những phần vụ đóng góp của Việt Võ Đạo vào công cuộc tranh thủ độc lập và xây dựng quốc gia – Võ Sư Trịnh Ngọc Minh

Vì tôn chỉ của môn phái là không làm chánh trị nhưng không ngăn cấm môn sinh làm chính trị với tư cách công dân, nên mọi hoạt động của môn phái chỉ có tính cách thầm lặng, tức không có hồ sơ, không có nhật ký công việc để lại để ghi chép vào võ sử. Chỉ còn hai loại tài liệu có thể khai triển, nhưng giá trị khai thác rất hữu hạn: báo chí và trí nhớ. Báo chí lưu lại trong hàng nhiều chục năm bị thất lạc nhiều, sau những biến cố lớn, cả tới Thư Viện Quốc Gia cũng khó bảo trì, vì lý do phẩm chất giấy báo thường là xấu, dễ bị hư nát, mối mọt, lại kinh qua nhiều biến cố lịch sử lớn nên khó tồn trữ. Trí nhớ còn hữu hạn hơn, vì thường những trung khu trí nhớ trong não bộ mỗi người chỉ ghi nhận một số ký ức có liên hệ trực tiếp tới mình hay do mình trực tiếp phụ trách, nên không thể bao quát cả những ký ức thuộc phạm vi người khác. Tất nhiên, trí nhớ của Cố Võ Sư Sáng Tổ tương đối đầy đủ hơn cả, nhưng người đã viên tịch, nên chỉ còn trí nhớ của Võ Sư Chưởng Môn và một số môn sinh đồng tuế của Ông. Tiếc vì một số đã qua đời vì lớn tuổi, chiến tranh, một số khác phân tán vì nhiều lý do, nên không ghi lại đầy đủ được. Do đó, ta có thể tạm kết luận là, hiện nay không có một môn sinh nào có thể biết hết và nhớ hết những gì mà Việt – Võ – Đạo đã đóng góp cho đất nước từ năm 1938 tới 1946, từ 1946 tới nay, qua biết bao biến cố lịch sử lớn lao, khi mà vị Sáng Tổ Việt Võ Đạo đã đi vào Cõi Vĩnh Cửu từ năm 1960.

Tuy nhiên, chúng ta phải nhận thức rằng trong khoảng thời gian 1938 – 1946, tinh thần làm việc của thanh niên Việt Nam khác hẳn tinh thần làm việc của thanh niên hiện đại, vì hồi đó cao trào tranh thủ độc lập lên cao đã đốt lửa hứng khởi cho toàn dân tộc, thay vì không khí thấm mệt và phân hóa như hiện nay do hàng mấy chục năm chiến tranh để lại. Còn nhớ thời đó, tinh thần trách nhiệm của thế hệ thanh thiếu niên môn sinh đương thời thật cao, trên dưới luôn luôn làm việc thành tín và đồng nhất ý chí với nhau. Người dưới được người trên giao việc là vô cùng sung sướng, thực hiện mau lẹ với tất cả nhiệt tình của tuổi trẻ, không hề thắc mắc “tại sao, làm gì, tới đâu?”. Do đó, người nào được giao phó phần vụ nào, là chỉ biết tích cực thi hành phần vụ đó, không hề tò mò tìm hiểu tới các phần vụ khác.

Bây giờ, kiểm thảo lại những phần vụ đóng góp của môn sinh vào các công cuộc tranh thủ độc lập và xây dựng quốc gia từ năm 1938 tới nay, chúng ta cần lưu ý đến 2 nguyên tắc :

1- Vì chủ trương không làm chánh trị, nên môn phái chỉ âm thầm điều động và hướng dẫn quần chúng, chứ không công khai nêu cao danh nghĩa môn phái một cách ào ạt, rầm rộ, khoa trương thanh thế như một số đoàn thể chánh trị khác.

2- Vì chủ trương không ngăn cấm môn sinh làm chánh trị, tuy những công tác ích quốc lợi dân vẫn có yểm trợ thầm lặng bên trong của môn phái. Do đó, rất nhiều hoạt động cứu nước và dựng nước bên ngoài tuy mang danh nghĩa là sinh viên, viên chức (cả công, tư chức) nhưng nhân tố vẫn là Việt Võ Đạo, và lãnh tụ phong trào thường là môn sinh Việt Võ Đạo.

Nhận thức rõ rệt như vậy, chúng ta mới có thể phối kiểm lại những phần vụ đã đóng góp một cách tương đối đầy đủ hơn cả, khi viết lại những trang võ sử của môn phái.

I- NHỮNG PHẨN VỤ ĐÃ ĐÓNG GÓP

Những phần vụ đã đóng góp của môn phái được ghi nhận tuần tự dưới đây:

A- CÁC CUỘC ĐỤNG ĐỘ VIỆT PHÁP

1- Cuộc đụng độ giữa sinh viên Việt và Pháp tại trường Đại Học Hà Nội năm 1942

Cuộc đụng độ này được nung nấu từ ý chí chống áp bức của thực dân thống trị Pháp tự lâu đời, và được coi là một biểu tượng tranh đấu mở đầu cho hàng loạt những công cuộc chống Pháp quyết liệt khác về sau.

Chúng ta đừng quên rằng trong bối cảnh thời Pháp thuộc. Giới trẻ Pháp thường có thái độ kỳ thị của các nhà cai trị với dân thuộc địa, nên luôn luôn có thái độ coi rẻ và khinh khi người Việt. Đó chính là lý do đã tạo ra các cuộc xung đột của học sinh trường Pháp (Lycée Albert Sarraut) và học sinh trường Việt (Lycée Protectorat -trường Bưởi).

Theo thường lệ, hàng năm vào cuối niên học, sinh viên Việt và Pháp vẫn tổ chức chung một buổi liên hoan có trình diễn ca kịch. Vốn quen tính ” thực dân “, sinh viên Pháp bao giờ cũng đòi trình diễn các màn đầu, để sinh viên Việt trình diễn các màn sau chót, và vẫn được sinh viên Việt khiêm nhượng chấp nhận. Phần trình diễn của sinh viên Pháp được diễn ra tốt đẹp, vì sinh viên Việt rất lịch sự, ôn hòa; nhưng ngược lại, tới phần trình diễn của sinh viên Việt, thì sinh viên Pháp có thái độ ngược lại: la ó, gõ ghế v.v… khiến các màn trình diễn không thực hiện được. Thế là lần này không còn chịu đựng nổi nữa, sinh viên Việt đồng loạt đứng lên tỏ thái độ, và cuộc xung đột bùng nổ. Sau cuộc đụng độ này, trong giới trẻ tại miền Bắc nổi lênh một phong trào “học Vovinam để chống Pháp”, “học Võ Tự Vệ là yêu nước”. Một số các trường Trung Tiểu Học công và tư tại Hà Nội hồi đó có dạy khóa Võ Tự Vệ Vovinam.

2- Cuộc đụng độ giữa viên chức Việt và Pháp tại Sở Canh Nông

Sau cuộc đụng độ thắng lợi tại trường Đại Học Hà Nội, tới cuộc đụng độ thứ hai là cuộc đụng độ giữa hai giới viên chức Việt và Pháp tại Sở Canh Nông Bắc Việt. Chúng ta đều biết rõ các viên chức Pháp thời Pháp thuộc thường hống hách, coi viên chức Việt chẳng ra gì. Ngoài những câu mắng chửi tục tằng, sai phái viên chức Việt như người ở, chúng còn có khi dùng cả ba-toong và cây đánh đập nữa. Các viên chức Việt ấm ức, nhưng thế yếu, đành âm thầm theo đuổi các lớp Võ Tự Vệ Vovinam tại trường Sư Phạm gần đó. Vụ đụng độ thắng lợi tại trường Đại Học Hà Nội được dư luận ủng hộ nhiệt tình đã khiến các viên chức Việt tại Sở Canh Nông quyết định đối phó thẳng tay với các viên chức Pháp khi bị họ đánh mắng. Thế là màn đụng độ quyết liệt xảy ra: các viên chức Pháp đều bị đánh u đầu, thâm tím mình mẩy.

Dư luận lại một lần nữa công khai bài xích người Pháp, ủng hộ người Việt, khiến nhà cầm quyền Pháp vô cùng tức tối. Giận cá chém thớt, người Pháp không biết đối xử ra sao liền thẳng tay ra lệnh đình chỉ các lớp Vovinam tại trường Sư Phạm, rồi sau đó, ra lệnh cấm chỉ Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc không được mở các lớp dạy võ nữa, dù dưới bất cứ hình thức nào. Thế là, Vovinam vừa hoạt động công khai được 4 năm đã phải tạm thời ngưng hoạt động. Tất nhiên Cố Võ Sư Sáng Tổ không nản chí, ông lui về bí mật đào tạo một số môn sinh tâm huyết, để chờ dịp tốt sẽ hoạt động công khai trở lại.

3- Vụ triệt hạ các tượng đồng của Pháp tại các vườn hoa Hà Nội

Quả nhiên, dịp tốt đã tới. Đó là sau cuộc đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, tinh thần ái quốc của dân chúng lên cao: tại khắp nơi, dân chúng biểu tình rầm rộ, gặp người Pháp ở đâu là đánh đó.

Cố Võ Sư Nguyễn Lộc thấy những hành động đánh kẻ ngã ngựa như vậy thiếu nhân đạo, nên Ông khéo léo điều hướng tâm lý quần chúng sang những hoạt động khác: vừa nhân đạo, vừa kích thích được tinh thần dân chúng nhiều hơn. Đó là việc cử các môn sinh tâm huyết hướng dẫn quần chúng đi triệt hạ các tượng đồng thực dân thống trị Pháp tại các vườn hoa Hà Nội, như vườn hoa Paul Bert, vườn hoa Canh Nông v.v…và cùng báo chí Hà Nội hô hào thiết lập các tượng đồng danh nhân Việt, đổi địa danh các vườn hoa và đường phố thành tên Việt v.v…

B- GIỮ AN NINH CHO ĐỒNG BÀO VÀ CỨU ĐÓI

1- Bảo vệ an ninh cho đồng bào tại thủ đô Hà Nội

Sau khi đảo chính Pháp năm 1945, tuy có danh nghĩa độc lập do người Nhật trao lại, nhưng mọi khả năng lãnh đạo và quản trị quốc gia của ta thời đó quá kém, huống hồ luôn luôn bị sự chi phối của các cố vấn quân phiệt người Nhật.

Bối cảnh lịch sử trong thời gian này là nạn đói 1944 – 1945 làm chết 2 triệu đồng bào. Nạn đói lịch sử này đã làm trộm cướp nổi lên như rươi, khi guồng máy bảo vệ an ninh cho đồng bào còn quá yếu kém. Nhu cầu bảo vệ an ninh đồng bào tại nội ngoại thành Hà Nội thời đó là một nhu cầu thiết thực, và gần như rất khó thực hiện. Cố Võ Sư Sáng Tổ đã nhìn thấy rõ điều đó, nên ông đứng ra đảm nhiệm trực tiếp việc bảo vệ an ninh cho đồng bào để yểm trợ cho chính quyền tân lập Trần Trọng Kim thời đó. Ông điều động, phân phối các môn sinh cộng tác với các bót cảnh sát đương thời. Tất cả các bót cảnh sát thời đó đều triệt để tuân lệnh ông, vì một phần là cựu môn sinh, một phần rất tin tưởng ở sự yểm trợ của Vovinam về việc bảo vệ an ninh trong một giai đoạn vô cùng khó khăn của đất nước.

Kết quả là, nạn trộm cứơp giảm dần, đồng bào nội ngoại thành được sống an vui, trong không khí tự do, cởi mở.

2- Cứu đói

Một nhu cầu nữa không kém khẩn cấp là nhu cầu cứu trợ nạn đói thời đó, nạn đói lịch sử làm chết 2 triệu đồng bào. Tại các đường phố, chỗ nào cũng có xác người chết đói. Các cơ quan từ thiện làm việc không xuể. Đường giao thông khó khăn lại làm trở ngại rất nhiều việc tiếp tế gạo từ trong Nam bằng đường xe lửa. Cố Võ Sư Sáng Tổ lập tức thành lập ngay các đoàn “Võ Sĩ Cảm Tử” và “Anh Hùng Ngày Mai” để đi lạc quyên tiền và gạo, nấu cơm và nấu cháo phát chẩn cho đồng bào. Một mặt, ông ra lệnh cho các chủ rạp chiếu bóng tổ chức những buổi chiếu bóng miễn phí cho đồng bào vào coi, rồi tới giờ nghỉ chiếu phim, các môn sinh Vovinam và các quan chức, sinh viên, học sinh đem ống quyên tiền đi quyên góp từng người để gây quỹ cứu trợ. Đến từng nhà quyên tiền gạo, cơm thừa và quần áo cũ để làm công tác phát chẩn. Một mặt, ông cho môn sinh, sinh viên vào các ngõ hẻm cấm đồng bào đánh bạc viện cớ ăn mừng độc lập, và tịch thu tiền bạc nếu có, đem về bỏ vào Quỹ Cứu Trợ.

Chúng ta nên nhớ là uy tín của môn phái thời đó rất lớn, và công tác Cứu Đói là công cuộc hàng đầu, nên mọi biện pháp đặc biệt đều được áp dụng triệt để, và đồng bào cũng như các cơ quan công quyền thời đó đều vui vẻ hợp tác với các đoàn môn sinh Vovinam trong mọi công cuộc ích quốc lợi dân mà không ai thắc mắc gì hết.

C- TỔ CHỨC QUỐC LỄ VÀ HƯỚNG DẪN QUẨN CHÚNG

1- Để đốt nóng lại hào khí dân tộc sau bao nhiêu năm bị Pháp đô hộ, môn phái đứng ra tổ chức các ngày Quốc Lễ đầu tiên của dân tộc, như Giỗ Tổ Hùng Vương, Kỷ Niệm Hai Bà Trưng. Còn thực tế hơn nữa, Ông khéo léo vận động đồng bào nhớ sự tích Bánh Dầy Bánh Chưng của dân tộc mà thi đua nhau dâng bánh lên Quốc Tổ, để dùng bánh đó đem cứu đói. Kết quả : lễ vật bánh dầy bánh chưng được xếp cao như núi tại Việt Nam Học Xá, và các đồng bào đói tự nhiên được ăn Tết thật đặc biệt trong ngày giỗ Quốc Tổ.

2- Đặc biệt là ngày Quốc Lễ Kỷ Niệm 13 liệt sĩ Yên Bái lên đoạn đầu đài được tổ chức tài Vườn Bách Thảo Hà Nội năm 1945, trước cả Việt Nam Quốc dân Đảng thời đó. Trong lễ này, Ông long trọng tuyên bố đặt tên một hòn núi nhỏ ở Vườn Bách Thảo là Núi Nùng, để đối chiếu với Sông Nhĩ (thường gọi chệch là Sông Nhị, hay Sông Hồng), tên đó vần còn được dùng cho tới ngày nay.

3- Tổ chức cuộc biểu tình vĩ đại 19-8-1945 để đòi lại Độc Lập trong tay Nhật, với danh nghĩa là Biểu Tình Viên Chức. Trong thời kỳ này, vì chưa rõ bộ mặt thật của Cộng Sản, và cũng vì quan niệm chính trị đơn giản của người dân vừa thoát ách đô hộ, thấy ai xung phong đảm nhận sứ vụ lãnh đạo đất nước là sẵn lòng hỗ trợ, trao quyền, nên Ông đã hết lòng giúp đỡ Mặt Trận Việt Minh cử môn sinh giới thiệu và bảo vệ đại diện của Mặt Trận này đứng ra nói chuyện với đồng bào tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Còn nhớ khi đó, diễn giả của “Mặt Trận” này được các cán bộ bao quanh che chở, vẫn còn run rẩy nói không nên lời, và người vệ sĩ của diễn giả cũng run không kém, đáng lẽ chúc mũi súng ra ngoài, cứ lẩy bẩy chúc mũi súng vào người diễn giả.

D- BINH YẾU CHỐNG MẠNH, HÒA GIẢI DÂN TỘC

1- Tới lúc Việt Nam Quốc Dân Đảng hoạt động trở lại, vì cảm kích sự tổ chức Lễ Kỷ Niệm 13 liệt sĩ Yên Bái đầu tiên, nên khi về chiếm ngụ khu Ngũ Xã, đảng này lại liên lạc với Môn Phái để nhờ bảo vệ và huấn luyện võ thuật giúp cho một số Thanh Niên Tự Vệ Ngũ Xã. Ông cũng giúp gián tiếp cho đảng này bằng cách cử môn sinh theo bảo vệ ngầm cho một cuộc biểu tình của Thanh Niên Tự Vệ Ngũ Xã tổ chức chống chính quyền Việt Minh. Cuộc biểu tình phô trương lực lượng đi tới phố Hàng Than, mới bị quân đội của tướng Lư Hán giải tán.

2- Tổ chức cuộc họp mặt hòa giải giữa chính phủ Hồ Chí Minh (Mặt Trận Việt Minh) và lãnh tụ Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội) nhưng bất thành, vì tướng Lư Hán – Tiêu Văn khi đó đã ăn hối lộ của Việt Minh để bảo trợ cho mặt trận này, nên phe Hồ Chí Minh thay đổi ý định hòa giải vào phút chót.

E- TÔN TRỌNG CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Riêng tại Miền Nam, vào dịp sụp đổ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, rất nhiều môn đồ Vovinam Việt Võ Đạo đã tham gia với tư cách cá nhân, để tổ chức hướng dẫn các cuộc biểu tình, xuống đường chống đối đi đúng đường, và ngăn chặn kịp thời những hành động quá khích vì tư thù, vô tình gây thiệt hại cho tài sản đồng bào và tài sản chung của quốc gia.

II- NHỮNG PHẨN VỤ ĐANG ĐÓNG GÓP

A- BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC

Trong suốt thời gian 1963 tới nay, Việt Võ Đạo đã tích cực huấn luyện kỹ thuật cận chiến hữu hiệu cho một số quân binh chủng tại Việt Nam Cộng Hòa, vừa tăng cường khả năng tác chiến, vừa nuôi dưỡng tinh thần tự tin khi chiến đấu, trong sứ mạng bảo vệ đất nước.

Ngoài việc hợp tác huấn luyện cho một số đơn vị thuộc các ngành quân đội và cảnh sát từ cấp trung đoàn trở xuống. Việt Võ Đạo đã nhận hợp tác huấn luyện chuyên biệt cho quân đoàn 4 – quân khu 4, liên đoàn 81 Biệt Cách Dù và đặc biệt là sư đoàn 3 Bộ Binh được tổ chức lại sau trận Quảng Trị. Về thành quả tác chiến, chúng ta đều biết những thành tích chiến đấu quả cảm của liên đoàn 81 Biệt Cách Dù trong khắp các trận đánh nổi tiếng trên chiến trường thuộc quân khu 3. Với sư đoàn 3 Bộ Binh, sau khi rút lui khỏi mặt trận Quảng Trị, được bổ sung, tổ chức và huấn luyện lại – đặc biệt tăng cường thêm võ thuật – được giao cho trách nhiệm lịch sử là tái chiếm lại mặt trận Bình Định và một tỉnh miền Trung, đã tạo lập được nhiều chiến thắng vẻ vang.

Trong chương trình huấn luyện võ thuật dân sự. Việt Võ Đạo cũng hợp tác chặt chẽ với bộ Phát Triển Nông Thôn và Phủ Tổng Ủy Công Vụ, trong việc huấn luyện võ thuật cho các cán bộ Phát Triển Nông Thôn toàn quốc và các cán bộ quốc gia (công chức) toàn quốc trong các khóa huấn luyện võ thuật tại Vũng Tàu – rồi từ đó, truyền thụ dây chuyền khắp toàn quốc, đã đem lại nhiều thành quả tốt đẹp cho các cấp quân dân cán chính địa phương trong sứ mạng bảo vệ đất nước.

B- BẢO VỆ AN NINH ĐỒNG BÀO

Cùng với sứ mạng bảo vệ đất nước, các cấp Quân Dân Cán Cảnh còn có trách nhiệm bảo vệ an ninh cho đồng bào với một tinh thần võ đạo được rèn luyện chu đáo, nên đã giúp ích hữu hiệu trong việc bảo vệ an ninh cho đồng bào.

Đặc biệt nhất là nơi nào có võ đạo đường Việt Võ Đạo, là nơi đó giảm thiểu tối đa được những tệ nạn trộm cắp, cướp giật.

C- GIÁO DỤC, VĂN HÓA

Với định hướng giáo dục hướng dẫn thanh thiếu niên noi theo những tấm gương tốt, biết sống vị tha và độ tha, với tinh thần hào hiệp và uy dũng truyền thống của Việt Võ Đạo, nên Việt Võ Đạo đã hội nhập vào sinh hoạt học đường trong các chương trình sinh hoạt thanh niên thể thao.

Tinh thần kỷ luật tự giác Việt Võ Đạo đã điểm hóa thanh thiếu niên về ý thức tôn kính người trên, nhường nhịn và giúp đỡ lẫn nhau, biết quý trọng tài sản chung, bảo vệ trường sở, sát cánh nhau tham gia công tác xã hội do nhà trường đề xướng. Trong chương trình này, một số võ đạo đường Việt Võ Đạo đã được thiết lập lại như: Đại Học Xá Minh Mạng, Đại Học Y Khoa, Đại Học Minh Đức và một số trường trung học công lập và tư thục lớn. Do đó nhiều chương trình giáo dục, Việt Võ Đạo đã được coi là một môn học cưỡng bách trong niên học, có điểm trong các kỳ thi.

Trong niên khóa tới, chương trình giáo dục Trung Học Tổng Hợp được chính thức ghi nhận môn học Việt Võ Đạo, như các môn học về kiến thức phổ thông.

Mặt khác, Việt Võ Đạo cũng kiện toàn một ý thức hệ Việt Võ Đạo và xuất bản một tủ sách võ học, để phổ biến vào nền văn hóa chung của dân tộc. Hàng năm, Việt Võ Đạo là nhân tố của Uỷ Ban Vận Động Dựng Đền Thờ Tổ Quốc và tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương để các hội đoàn nhân dân tới dự lễ. Bài vị Quốc Tổ hiện được đặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Việt Võ Đạo Hoa Lư, 2 bis Đinh Tiên Hoàng, để cứ theo cựu lệ, hàng năm rước ra công viên Tao Đàn để các giới chức lãnh đạo chính phủ và các cơ quan công quyền tới tế lễ.

D- ẢNH HƯỞNG QUỐC TẾ

Dư luận quốc tế thường tỏ ra rất có cảm tình với Việt Võ Đạo. Một số báo chí Nhật, dưới những bài viết của các ký giả võ sư Nhật, cũng đã ngợi khen chương trình và kỹ thuật Việt Võ Đạo cho là hơn cả các môn phái võ đạo khác như Judo, Aikido, Karatédo, Taekwondo v.v…Việt Võ Đạo xin tâm lãnh những lời khen đó nhưng không dám bái lãnh, vì lý do tinh thần khiêm nhượng truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Hiện nay, tại Pháp đã thành lập một liên đoàn Việt Võ Đạo, với danh xưng “Fédération francaise de Viet Vo Đao “. Các võ đạo đường của Việt Võ Đạo đã hội nhập vào các chương trình giáo dục đại học tại Pháp, và nhiều võ đạo đường đã được mở và hoạt động tích cực tại các thành phố lớn như Paris, Mateille, Limoges. Tại đài truyền hình Pháp, chương trình (show) Việt Võ Đạo hàng tuần vẫn được khán thính giả Pháp say mê theo dõi và hâm mộ. Ngoài ra, các Việt Võ Đạo sinh gốc Tây Đức, Hòa Lan, Bỉ, Anh, Thụy Sĩ v.v… cũng đã quảng bá rộng rãi Việt Võ Đạo tại nước họ bằng cách hội nhập vào vào một số chương trình đại học và tổ chức những võ đạo đường độc lập.

Tại Mỹ Châu, Việt Võ Đạo mới quảng bá được tại Hoa Kỳ và Gia Nã Đại do các sinh viên du học vốn là môn Sinh Việt Võ Đạo tổ chức, huấn luyện. Phát triển mạnh nhất tại Hoa Kỳ là các Viện Đại Học tại các tiểu bang Columbia, Iowa, Pennsylvania. Tại đây, các giáo sư Mỹ đều theo học và nghiên cứu tỉ mỉ về kỹ thuật Việt Võ Đạo để phổ biến rộng rãi tại Mỹ Châu.

Tại Nhật, hiện nay nhu cầu huấn luyện Việt Võ Đạo cũng phát triển mạnh. Các sinh Việt du học tại Nhật đang đề nghị xin biệt phái một võ sư qua Nhật để huấn luyện khẩn cấp cho họ, hầu quảng bá tại Nhật.

III- NHỮNG PHẨN VỤ SẼ ĐÓNG GÓP

Những phần vụ sẽ đóng góp của Việt Võ Đạo, hiện nay đang ở giai đoạn nghiên cứu và trù hoạch kế sách. Tuy nhiên, chủ điểm vẫn là :

1- Kiến tạo niềm tin và tinh thần tự lập, tự cường thời hậu chiến.

2- Khai hoang, lập ấp, cấy lúa, trồng cây, để hội nhập vào chương trình phát triển kinh tế hậu chiến chung.

3- Khai thác thổ sản, hải sản và lâm sản.

4- Giành lại quyền lợi kinh tế từ tay ngoại nhân (một cách chính đáng).

5- Phác họa, trù hoạch và hướng dẫn một quan niệm lãnh đạo dân tộc đúng đắn trong thời hậu chiến.

6- Quảng phát Việt Võ Đạo ra quốc ngoại đáp ứng được nhu cầu chung: từ việc huấn luyện cán bộ, trau dồi tài nghệ, văn hóa tới những chương trình hoạt động quy mô.

7- Tái lập và tái tạo một nếp sống mới cho thanh niên Việt: sống tự lập, tự cường, trung kiên, tháo vát nhưng tế nhị, bặt thiệp, quảng giao, hầu biểu hiện được tinh thần văn hóa truyền thống Việt.

8- Phổ biến rộng rãi những soạn phẩm trong tủ sách Việt Võ Đạo.

9- Chuyển ngữ những sách Việt Võ Đạo sang các thứ tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nhật v.v…để truyền bá rộng rãi ra ngoại quốc.

10- Đặc biệt chú trọng tới giáo dục Thanh Thiếu Niên và các khía cạnh xã hội liên hệ như “Bụi Đời” v.v… để giúp ích thiết thực vào việc thanh khiết hóa xã hội.

 

Chương 16: Tầm mức quan trọng và cần thiết của người Huấn Luyện Viên Việt Võ Đạo – Võ Sư Trần Tấn Vũ

DẪN NHẬP
Trong phần vụ điều hướng điều hành môn phái, nguyên tắc điều hành hàng đầu của chúng ta là: võ sư động, huấn luyện viên tĩnh. Môi trường hoạt động của võ sư là môi trường toàn quốc, chớ không thể giới hạn trong một địa phương cố định, trong lúc môi trường hoạt động của huấn luyện viên là địa phương, chớ không phải toàn quốc. Do đó, khi tổ chức một võ đường tại địa phương, võ sư điều hành trong một khoảng thời gian tổ chức đầu tiên. Khi guồng máy chạy đều rồi, võ sư sẽ trao lại quyền điều khiển cho huấn luyện viên và chỉ dẫn chu đáo về điều hành và quản trị.
Do đó, nếu chúng ta coi võ sư là cán bộ trung tầng hành kiểm, chúng ta phải coi huấn luyện viên như cán bộ hạ tầng cơ bản. Một võ đường tân lập tổ chức ồ ạt và có ảnh hưởng lớn tại địa phương, là do khả năng của võ sư, nhưng võ đường ấy có duy trì và phát triển được những ảnh hưởng tốt đẹp đó không, lại là do khả năng điều hành của huấn luyện viên.

 SỨ VỤ CỦA NGƯỜI HUẤN LUYỆN VIÊN VIỆT VÕ ĐẠO
Một hệ thống tổ chức muốn phát triển cả về lượng và phẩm, bao giờ cũng phải phối trí hành động cả 3 cơ cấu :
(1) Cơ cấu lãnh đạo: thượng tầng kiến trúc.
(2) Cơ cấu chấp hành, tổ chức và điều hành toàn thể: trung tầng hành kiểm.
(3) Cơ cấu điều hành địa phương: hạ tầng cơ bản.
Trong ba cơ cấu trên, cơ cấu một có tính chất thâu hẹp và cô động; cơ cấu thứ hai tuy rộng, nhưng lưu động; chỉ có cơ cấu thứ ba mang tính chất địa phương và cố định hơn cả. Quần chúng, võ sinh và môn sinh thường ít tiếp xúc với hai cơ cấu 1 và 2 nên sự khen chê hâm mộ thường mang nhiều tính chủ quan và ngưỡng vọng. Nhưng với cơ cấu 3, cơ cấu điều hành địa phương, tức hạ tầng cơ bản của môn phái thì trái lại: họ được tiếp xúc thường xuyên với các huấn luyện viên cũng như tìm hiểu đời tư các vị này, nên dễ cảm nhận và bình phẩm hơn.
Huấn luyện viên tài giỏi, đức độ, họ sẽ có ấn tượng tốt là môn phái toàn những người tài giỏi, đức độ. Huấn luyện viên kém cỏi, thiếu đức độ, họ sẽ ấn tượng xấu là môn phái toàn những người kém cỏi, thiếu đức độ. Do đó, người huấn luyện viên của môn phái khi hành võ, không phải anh ta chỉ hành nghề với danh dự, tài năng và đức độ cá nhân, mà còn mang theo cả danh dự, tài năng và đức độ của môn phái. Khi thi hành công tác, huấn luyện viên, một mặt, anh ta phải ý thức được đầy đủ sứ vụ của môn phái giao phó để tránh những lầm lỗi đáng tiếc khi hành xử; mặt khác, anh ta phải hiểu rằng mình không phải là một cá nhân hành võ theo sở thích cá nhân, mà là một nhân vật của môn phái hành võ theo đường hướng hoạt động của môn phái.
Sứ vụ của môn phái giao cho người huấn luyện viên mặc nhiên có 3 phần vụ :
1- Huấn luyện võ thuật.
2- Giảng thuyết, huấn luyện tinh thần võ đạo.
3- Phát huy Việt Võ Đạo bằng sống đời sống của mình (cả đời công và đời tư).

 

BẢN LẢNH CỦA NGƯỜI HUẤN LUYỆN VIÊN VIỆT VÕ ĐẠO
Vì phải đảm trách một sứ vụ nặng nề về cả tinh thần, kỹ thuật và đạo đức (nghiệp vụ huấn luyện) trong lúc tuổi còn trẻ, nên người huấn luyện viên phải tự trau dồi cho mình một bản lãnh thích ứng với sứ vụ đã được giao phó.
Bản lãnh của người huấn luyện viên Việt Võ Đạo có thể đúc kết lại thành 3 thành điểm :
A- BỎ HẾT MẶC CẢM, THÀNH KIẾN
Vào công tác huấn luyện, người huấn luyện viên phải rũ bỏ hết mọi mặc cảm, thành kiến trong lòng mình. Có 2 mặc cảm, thành kiến chính cần phải rũ bỏ:
1- Tự tôn mặc cảm: kiêu ngạo, tự đắc là mình giỏi quá, hay quá, coi rẻ võ sinh.
2- Tự ti mặc cảm: e ngại, ngượng nghịu trước những võ sinh lớn tuổi hơn, có kiến thức văn hóa cao hơn hay có địa vị xã hội khá hơn.
B- PHẢI TỰ TIN
Người huấn luyện viên trong một võ đường chính là người chỉ huy một đơn vị, mà các đơn vị viên chính là các võ sinh dưới quyền huấn luyện của mình. Hoặc nói cách khác, họ tới để học võ, và huấn luyện viên để dạy. Họ đặt trọn niềm tin nơi huấn luyện viên, tuy đôi khi vì tự ti mặc cảm, họ có những biểu lộ tự tôn tình cảm không đúng chỗ, với những lý do hết sức bâng quơ: vì thấy huấn luyện viên còn trẻ hơn mình mà đã dạy mình v.v… Do đó, người huấn luyện viên trong mọi trường hợp, phải tự tin ở khả năng võ thuật, võ đạo và kiến thức của mình để hướng dẫn người về cả 3 phương diện võ thuật, võ đạo và kiến thức.
1- Về võ thuật: Ngoại trừ những người chưa hề học võ (thành phần này thường là đại đa số), rất có thể trong các võ sinh, có những người đã theo học lâu năm những môn võ khác, như : Võ Tàu, Nhu Đạo, Quyền Anh v.v…Họ đến với ta, là có thiện chí theo học Việt Võ Đạo của ta, mà về Việt Võ Đạo thì hiển nhiên là ta hơn họ rất nhiều (các huấn luyện viên thường theo học Việt Võ Đạo đã 4, 5 năm, còn họ mới bắt đầu). Chúng ta có dạy họ̣ tiếp các môn Võ Tàu, Nhu Đạo, Quyền Anh đâu mà e ngại? Họ có tâm phục môn phái ta mới theo học. Nếu tự tin vững, ta sẽ thừa khả năng huấn luyện họ, dù trong trường hợp họ đã học các môn võ khác lâu hơn ta.
2- Về võ đạo: Ngoại trừ những võ sinh thế tục, người theo học Việt Võ Đạo có thể các vị linh mục, mục sư, đại đức v.v…Ngoài đời là những vị hiểu nhiều về giáo lý của tôn giáo họ, và có kiến thức sâu rộng về đạo đức học. Nhưng khi theo học Việt Võ Đạo, họ đâu có kiến thức gì về tinh thần võ đạo và tinh thần Việt Võ Đạo, nên làm sao có thể so sánh với kiến thức võ đạo của ta? Khi đã học kỹ các tài liệu giảng huấn của môn phái, chắc chắn các huấn luyện viên có thừa khả năng giảng cho họ về tinh thần võ đạo; cũng như họ có thừa khả năng thuyết giảng cho ta về giáo lý của tôn giáo họ. Ta đâu có giảng về giáo lý của họ đâu mà e ngại?
3- Về kiến thức : Võ sinh của ta có thể là các vị tri thức thời danh thuộc đủ mọi ngành: luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư v.v… Về kiến thức tổng quát và kiến thức chuyên môn của họ, có thể họ hơn ta, nhưng khi họ học Việt Võ Đạo, chắc chắn là họ thua kém ta về kiến thức Việt Võ Đạo, là một ngành học hoàn toàn xa lạ đối với họ. Đừng thấy bằng cấp của võ sinh quá lớn mà e ngại. Họ đến với ta là để học những cái giỏi của ta, chớ đâu phải đến để khoe kiến thức tổng quát và kiến thức chuyên môn của họ. Lý do họ đến với ta chính là nhu cầu học hỏi để tiến bộ, về võ thuật và võ đạo, những bộ môn mà họ thua kém ta xa và công nhận ta là bậc thầy của họ về phương diện này, có gì phải e ngại đâu?
C- YÊU VÀ TRỌNG NGƯỜI
Huấn luyện viên của môn phái là bật thầy đầu tiên đến với các võ sinh, có nhiệm vụ giảng dạy cho võ sinh về những căn bản võ học khi bước chân vào ngôi nhà Việt Võ Đạo. Họ là người, nhưng chưa phải là những con người toàn diện, vì họ có những yếu kém phải học để trau dồi thêm. Họ yêu môn phái chúng ta mà đến, ta cũng vì yêu môn phái ta mà dạy họ. Học phí chỉ là sự đóng góp tượng trưng để cung ứng cho dịch vụ, chớ không phải tất cả. Ta huấn luyện họ để cải biến tâm thân họ trở thành con người đa năng đa hiệu, có khả năng giúp ích và hiến ích nhiều hơn, đó mới là quan hệ đặc biệt và lâu dài giữa ta với họ, trong đại gia đình Việt Võ Đạo. Đương nhiên, họ sẽ trở thành đồng đạo của ta, mà đã là đồng đạo thì phải yêu thương và kính trọng lẫn nhau.
Quan hệ tình cảm được trao đổi tương xứng, sẽ tạo nên một bảng cân số (balance) thăng bằng về tinh thần và tình cảm. Lòng yêu thương tự nó không là gì cả nhưng sẽ là tất cả.
Đừng kinh thường những môn sinh nhỏ tuổi. 10 năm trước, một môn sinh ấu niên còn học ở trình độ tiểu học, và trung học, nhưng 10 năm sau, đã ở trình độ trung học và đại học. 5 năm sau nữa ở trình độ cao học và tiến sĩ. 25 năm rất ngắn, với tuổi người.
Yêu người nhưng không ỷ lại vào tình cảm thái quá. Trọng người, phải tận tâm hướng dẫn người chớ không coi người là phương tiện tạo uy danh cho mình rồi để người muốn sao cũng được. Bậc thầy của Việt Võ Đạo chẳng có gì tự hào hơn một môn sinh, sau 20 năm – 25 năm tận tụy trong công việc đào luyện thế hệ kế tiếp, ngoại trừ khả năng và ý thức võ đạo được xây dựng trên căn bản đạo đức. Chu Văn An trả mũ áo lui về dạy học tại Cung Hoàng Học Hiệu, các môn sinh của ông như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát tuy làm đến thượng thư (tổng trưởng ngày nay) khi về thăm thầy vẫn cung kính mài mực, rửa nghiêng và đứng hầu cung kính ! Đó là phần thưởng của bậc thầy – thầy phải ra thầy, trò mới ra trò.
IV- KẾT LUẬN
Tóm lại, huấn luyện viên là bậc thầy khai tâm cho võ sinh về võ học. Võ học không giới hạn tuổi, không giới hạn trình độ, uy tín, địa vị xã hội, nên càng đòi hỏi chúng ta phải trau dồi bản lãnh nhiều hơn ở các ngành học khác. Mỗi người, đều có sở trường và sở đoản, muốn thành công ta phải biết nhận thức và phân biệt sở trường và sở đoản của mình.
Sở trường của người này có thể là sở đoản dưới con mắt người kia. Vị bác sĩ, vị luật sư rất tài giỏi về y học, luật học, vì đó là sở trường của họ. Nhưng khi họ đến với ta, sở trường kia dưới mắt ta chỉ còn là sở đoản mà thôi. Người dạy võ lấy sở trường là võ học, còn tất cả những thứ khác chỉ là sở đoản. Ta phải biết khai thác sở trường của ta, không kiêu ngạo, tư tôn; nhưng cũng không e ngại, tự ty mà phải tự tin vào khả năng chuyên biệt về võ thuật và võ đạo của mình, về sứ mạng mà môn phái đã giao phó cho ta, về danh dự của dân tộc, với lòng yêu và trọng người là ta đã tới gần đích thành công của môn phái giao phó.

Chương 17: Tuổi trẻ trước ngưỡng cửa hòa bình – Võ Sư Ngô Kim Tuyền

I-  TỒ̉NG QUAN : NHU CẨ̀U CHUẨN BỊ CHO TUỒ̉I TRẺ THỜI HẬU CHIẾN

Nhu cầu chiến tranh và nhu cầu hòa bình là hai vấn đề hoàn toàn dị biệt.

Trong thời chiến, ưu tiên số 1 dành cho những nhu cầu quốc phòng. Tuổi trẻ trong thời chiến được huấn luyện để trở thành những chiến sĩ giỏi và các chuyên viên về các ngành kỹ thuật quốc phòng. Trong thời bình, nhu cầu quốc phòng bị đặt xuống hàng thứ yếu, để nhường chỗ cho nhu cầu kiến tạo, khai thác và sản xuất. Do đó, tại nhiều quốc gia thời hậu chiến, sinh hoạt quốc gia đột nhiên bị xáo trộn khi chuyển từ thời chiến sang thời bình. Ví dụ: tại Ý, sau đệ nhị thế chiến, các kỹ sư hóa học đang được trọng dụng bỗng trở thành thất nghiệp, trong lúc những kỹ sư cầu cống và kiến trúc sư đang thất nghiệp bỗng trở thành tối cần thiết. Mặt khác, hàng triệu thanh niên được huấn luyện để tham gia chiến đấu trong thời chiến đã không còn thích ứng với nhu cầu thời bình chỉ cần những khả năng kiến tạo, khai thác và sản xuất. Tất nhiên, nếp sống thời chiến chuyển sang thời bình phải kinh qua một thời gian chuẩn bị, để chuyển hướng toàn bộ sinh hoạt xã hội.

Thời gian chuẩn bị có thể lâu hay mau (tương đối) tùy theo nhu cầu hậu chiến và khả năng đáp ứng nhu cầu hậu chiến của từng quốc gia (bao gồm cả viện trợ hậu chiến của cả các nước bạn và thù nghịch). Nhật Bản và Tây Đức sau Đệ Nhị Thế Chiến nhờ cả hai nguồn tài trợ của bạn và thù, trong lúc Anh và Pháp trái lại, chỉ có thể xây dựng lại trong hòa bình bằng những khả năng tự cường giới hạn của mình, nên nền kinh tế hậu chiến chỉ phát triển ở mức trung bình.

Nhu cầu chuẩn bị cho tuổi trẻ thời hậu chiến chính là sự đáp ứng nhu cầu chuyển hướng từ chiến tranh sang hòa bình, trong đó mọi yếu tố phục vụ đều phải chuyển hướng từ chiến tranh sang hòa bình. Cùng với hệ thống kinh tế quốc phòng được chuyển sang hệ thống kinh tế sáng tạo, khai phá và sản xuất, tất cả các cơ cấu xã hội phải thay đổi lại từ căn bản.

Về sinh hoạt vật chất, một chương trình kinh tế đại quy mô phải được thay thế những chương trình kinh tế tạm bợ và giai đoạn đồng thời nâng cao mức sống của các công dân và làm thăng tiến nó. Về sinh hoạt tinh thần, nền giáo dục chiến tranh được xây dựng trên sức mạnh (mạnh được yếu thua) phải được thay thế bằng một nền giáo dục hòa ái và tiến bộ, trong đó những giá trị luân lý phải được phục hồi sau một thời gian bị chiến tranh làm băng hoại.

Thế hệ chiến tranh được huấn luyện và đào tạo để tham chiến sẽ được thay thế bằng một thế hệ mới, được huấn luyện và đào tạo để phục vụ hòa bình. Sự chuẩn bị cho thế hệ hậu chiến tất nhiên nhằm vào lớp người mới, tuổi trẻ của chúng ta. Sự chuẩn bị càng đầy đủ, tinh thần và thể xác, khả năng xây dựng hòa bình càng phong phú, sung mãn. Tất cả cùng nhắm vào một mục đích chung đạt tới một chu kỳ hòa bình thịnh vượng và tiến bộ, phục vụ mọi giá trị, khả năng và tiềm năng con người Việt trong sứ vụ xây dựng lại đất nước, trên những điêu tàn, đổ vỡ của chiến tranh để lại.

II- CÁC TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH VỀ TUỔI TRẺ THỜI HẬU CHIẾN

Kinh nghiệm về thời hậu chiến tại Việt Nam cũng như các nước khác cho chúng ta thấy rằng, tuổi trẻ thời hậu chiến thường dễ bị khủng hoảng tinh thần và mang tâm trạng bất mãn, bất chấp, chơi bời, trác táng, ngoại trừ những trường hợp tuổi trẻ có một trình độ công dân giáo dục cao, hoặc được hướng dẫn bằng những kế hoạch hậu chiến tốt đẹp hay những biện pháp chế tài quyết liệt đúng mức.

Sau cuộc chiến tranh chống Mông Cổ, nhờ tinh thần thượng võ, nền giáo dục Tam Giáo và những kế hoạch khai thác dinh điền, (chiêu dân lập ấp) tuổi trẻ thời Trần Nhân Tông đã tránh khỏi tình trạng sa sút tinh thần trầm trọng. Hay sau cuộc khởi nghĩa chống Minh, mặc dù Lê Thái Tổ có hậu thuẫn tích cực của toàn dân, ông vẫn áp dụng những biện pháp chế tài khắc nghiệt, mới hướng dẫn nổi tuổi trẻ vào các chương trình kiến quốc.

Cùng với những biện pháp cưỡng bách võ học cho các chức quan cai trị, khuyến khích nhân tài “văn võ kiêm toàn” xuất sĩ và những công cuộc cải cách xã hội rộng lớn (phép quân điền chia lại ruộng đất, giúp đỡ những người già yếu, cô quả, cùng quẫn v.v…) các biện pháp chế tài khắc nghiệt được áp dụng cho mọi người (tất nhiên đa số nhằm vào tuổi trẻ) là :

– Đánh bạc, phải chặt ngón tay tới 3 phân.

– Đánh cờ, phải chặt ngón tay 1 phân.

– Tụ tập rượu chè không có cớ chánh đáng phải đánh 100 trượng.

– Chứa chấp bợm nhậu (hàng quán, tư gia…) cũng liên đới trách nhiệm, nhưng chỉ phải chịu một số trượng nhẹ hơn.

Những biện pháp chế tài trên tuy rằng khắc nghiệt, nhưng đã đem lại sự ổn định cho xã hội đương thời và hoàn toàn thành công trong việc phục hồi các giá trị luân lý bị chiến tranh làm băng hoại, đồng thời hướng dẫn tuổi trẻ hội nhập vào các chương trình dinh điền, tiến thân cả văn lẫn võ, trong thời hậu chiến.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh dòng dã 148 năm (1775 – 1927) với 7 lần đại chiến (1627, 1630, 1635, 1648, 1661, 1672) và hàng trăm lần chiến tranh nhỏ kéo dài một tình trạng “phi chiến phi hòa” qua nhiều thế hệ, hoàn toàn không có ranh giới phân định thời chiến và thời hậu chiến, tạo một tình trạng khủng hoảng liêu tục cho các thế hệ tuổi trẻ luôn luôn sống trong tình trạng tham chiến và chờ đợi tham chiến thường trực. Rút cuộc, tham nhũng, giặc cướp, bất công, tệ đoan xã hội càng ngày càng bành trướng đã làm sụp đổ cả hai xã hội Đàng Trong (Miền Nam) và Đàng Ngoài (Miền Bắc) trước khi có sự xuất hiện của Quang Trung đại đế.

Trở lại hiện tình xã hội của chúng ta, có 3 trường hợp điển hình thời hậu chiến của tuổi trẻ ở Đức, Pháp và Nhật, có thể để chúng ta rút kinh nghiệm vào thực tại tuổi trẻ thời hậu chiến của chúng ta.

A- TRƯỜNG HỢP 1 : TUỔI TRẺ PHẠM TỘI TẠI ĐỨC

Dưới đây là trường hợp tuổi trẻ phạm tội điển hình thời hậu chiến của Đệ Nhị Thế Chiến (1939 – 1945), được mô tả trong phim “Tuổi trẻ hư hỏng” (Jeunesse depravee) :

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, một số trẻ em “bụi đời” vì mồ côi hay thất lạc gia đình, tụ hợp thành những băng du đảng nhỏ, chuyên sống bằng nghề trộm, cướp, cắp vặt. Một số trường hợp cố sát xảy ra như một thiếu niên bụi đời “phạm pháp phải ra tòa với tội danh” cố sát khi cướp đoạt với trường hợp gia trọng. Vấn đề này, chỉ có đóng khuôn có bấy nhiêu, tất cũng chỉ bình thường như một số vụ án khác. Nhưng đây là trường hợp điển hình cho một xã hội hậu chiến chưa giải quyết xong nạn thiếu nhi phạm pháp thời hậu chiến. Vấn đề được đưa ra từ căn bản và đã bùng nổ khi viên Chánh Án lên tiếng hỏi: “Tại sao bị cáo cướp của, giết người?”, phạm nhân trẻ tuổi trả lời rất tự nhiên: “Vì chiến tranh dạy tôi, kẻ mạnh sẽ thắng và được tất cả, kẻ yếu sẽ thua và mất tất cả…”. Và phạm nhân lên án trở lại ông Chánh Án là sống với mức sống giàu sang, đầy đủ tình thương gia đình, nên làm sao có thể hiểu nổi cuộc sống của những kẻ mất hết tình thương gia đình và không nhà, không cơm (bánh mì) áo. Sau phiên tòa, trở về, ông thức tư lự suốt đêm, nhìn ngắm vợ con sống yên vui trong khung cảnh gia đình đầm ấm mà thấy lòng mình quặn lại. Rồi ông cảm thấy con người bỗng trở nên yếu đuối và bất lực trước một vấn đề xã hội to lớn, là chưa giải quyết xong tình trạng tuổi trẻ thời hậu chiến bị khủng hoảng vì những tập quán chiến tranh, chưa tìm được hướng đi và chưa có người hướng dẫn. Ông không thể tiếp tục kết án mãi tuổi trẻ phạm pháp và cũng không thể dung túng tội lỗi. Cuối cùng, ông nạp đơn xin từ chức, để dấn thân vào con đường phục vụ xã hội, trong lúc vấn đề tuổi trẻ thời hậu chiến được đặt ra, vẫn còn nguyên nhân đó…

Trường hợp tuổi trẻ hậu chiến Đức quốc trên cũng là trường hợp điển hình của các quốc gia pháp trị. Tại sao các quốc gia này, luật pháp luôn luôn điều hành mọi sinh hoạt quốc gia, lập thành trật tự xã hội. Tất nhiên, chiến tranh đã làm xáo trộn mọi ổn cố của trật tự xã hội, vì từ căn bản, Lẽ Phải đã bị thay thế bằng Sức Mạnh. Trật tự xã hội bị xáo trộn, lung lay từ căn bản, khi “luật rừng”, “luật của sức mạnh”, của “mạnh được yếu thua” đã thay thế luật chánh thống, đã làm đảo lộn hoàn toàn mọi giá trị. Trường hợp trên đây rõ ràng bộc lộ sự thiếu chuẩn bị hướng dẫn tuổi trẻ chuyển tiếp hội nhập từ thời chiến sang thời bình, và trở thành một trường hợp tất nhiên với những nước chiến bại – tức những nước không thể tiên liệu được bất cứ một kế hoạch hậu chiến nào.

B- TRƯỜNG HỢP 2 : TUỖI TRẺ BẤT MÃN TẠI PHÁP

Cũng sau Đệ Nhị Thế Chiến, trường hợp tuổi trẻ tại Pháp là một trường hợp điển hình thứ hai, để chúng ta rút kinh nghiệm. Trường hợp thắng trận của Pháp trong Đệ Nhị Thế Chiến là một trường hợp quá đặc biệt: sau khi chiến bại nhiều năm, nhờ sự hỗ trợ của Đồng Minh, Pháp quốc đang là một quốc gia chiến bại, bỗng trở thành chiến thắng. Trong khoảng thời gian 1939 – 1944 bị Đức chiếm đóng, tuổi trẻ ở Pháp đã yêu nước nồng nhiệt, tham gia các đội du kích hoạt động bí mật tại quốc nội để đánh Đức. Họ là những người trực tiếp kháng Đức tại nội địa, là những người ái quốc trẻ tuổi bỏ cả gia đình và học đường để phục vụ tổ quốc.

Nhưng chiến tranh chấm dứt, nhu cầu xây dựng hòa bình thời hậu chiến lại đòi hỏi những khả năng khác hơn mà họ không có vì học hành dở dang và không quen với một nếp sống trật tự và trọng pháp. Tuy công trạng nhiều, nhưng họ lại có rất ít khả năng để hội nhập vào các chương trình thời hậu chiến. Thế là, họ mặc nhiên bị xã hội gạt bỏ hay bỏ quên, bên lề cuộc tiến hóa chung, nên đã trở thành những phần tử bất mãn với chính cái xã hội mà họ đã dày công bảo vệ và phục vụ. Nếp sống cũ bị xáo trộn, họ không còn biết làm gì hơn là hàng ngày tụ tập ở xóm Saint-Germain-des-Prés (ngoại ô Ba Lê) với nếp sống phóng đãng như nhảy Beep Bop, đầu tóc bù rối, quần áo sốc sếch, và đôi khi còn làm cả những việc bất lương như những phần tử du đãng chuyên nghiệp. Nhân đà triết thuyết hiện sinh (existentialism) của Jean Paul Sartre được hoan nghênh, họ bám víu lấy triết thuyết này như một quan niệm sống của họ và đã gây ảnh hưởng xấu trong giới thanh thiếu niên Pháp trong nhiều năm.

Trường hợp điển hình trên đây tuy cũng đòi hỏi sự hướng dẫn tuổi trẻ hội nhập vào cuộc sống mới thời hậu chiến, nhưng cũng đồng thời đòi hỏi cả những chương trình huấn nghệ và hướng nghiệp rộng lớn, để vừa ổn định trật tự xã hội, vừa ổn định một trạng thái tâm lý xã hội chung đối với một thành phần dân tộc đáng kể có công trong thời chiến.

C- TRƯỜNG HỢP 3 :TUỔI TRẺ VÕ ĐẠO TẠI NHẬT

Chúng ta thường nghe nói: “chính tinh thần võ đạo (võ sĩ đạo) của Nhật đã phục hưng và làm vinh danh nước này trong thời hậu chiến, và tạo được tinh thần công dân giáo dục rất cao với mọi thành phần công dân Nhật.. Đây là một trường hợp điển hình của một quốc gia chiến bại bị suy sụp nặng nề sau 2 trái bom nguyên tử nổ ở Hiroshima và Nagasaki.

Hình ảnh điển hình là chuyện một em học sinh khoảng 10 tuổi xin cõng Nhật hoàng và Nhật hậu qua chỗ lội, sau khi nước Nhật chiến bại đã mất hết chủ quyền, và nhà vua chỉ còn biết du ngoạn thường xuyên về nông thôn để hiểu dân tình hơn. Trong trường hợp đó, nhà vua từ chối và bảo: “Ta không xứng đáng được cháu cõng, vì ta không giữ được nước”. Chú bé khóc trả lời: “Xin cho cháu cõng, Thiên hoàng không có lỗi, chỉ vì nước ta chưa đủ mạnh…”.

Một loạt hình ảnh khác được coi như điển hình cho tuổi trẻ Nhật Bản, là những biểu tượng bi thảm trong phim “Les enfants d’Hiroshima” với những cô nhi viện khổng lồ hàng trăm ngàn trẻ mồ côi, nhưng tất cả đều có sắc mặt tự trấn tĩnh như người lớn. Từ việc xếp hàng ăn uống, đến giải trí, học tập v.v… đều nhất loạt trong khuôn khổ kỷ luật, trật tự và lễ độ. Nhưng đặc biệt hơn cả là một em nhỏ mồ côi cha mẹ nhưng không ở trong cô nhi viện mà ở với ông nội, một lão già có bộ mặt sần sùi ghê tởm do hậu quả của bom nguyên tử – nguyên là quản gia của một gia đình trí thức trung lưu tại Hiroshima đã bị bom nguyên tử tiêu diệt. Cuộc sống đang bình thản, chợt một “biến cố” xảy ra: cô con gái của gia đình trí thức trung lưu trở về, với hảo ý nuôi giúp đứa cháu nhỏ cho ông già quản gia, để xây dựng nên người. Ông già quản gia bắt đứa cháu nhỏ phải theo cô nữ giáo viên. Đứa cháu không chịu bảo : “Ông bị tàn phế thế này, cháu phải ở bên ông, cháu phải đi hành khất nuôi ông, cháu phải nấu cơm cho ông ăn, giặt giũ quần áo cho ông mặc, cháu không thể bỏ đi…”Ông già nổi giận đánh cháu tàn nhẫn, nó khóc nói : “Ông cứ đánh cháu nữa đi, nhưng cháu không bỏ ông…” và cuối cùng, ông già phải lừa đứa cháu ra ngoài, rồi nổi lửa đốt nhà tự thiêu để đứa cháu không còn vương vấn gì với quá khứ, mới có thể mạnh bạo bước vào tương lai.

Trường hợp tuổi trẻ Nhật Bản trên đây là một trường hợp đáng cho chúng ta học hỏi, và nếu có thể, sẽ ứng dụng một số tinh hoa vào thực tại hậu chiến của xã hội Việt Nam. Bài học mà chúng ta rút tỉa được từ tuổi trẻ Nhật Bản, gồm có những đặc điểm :

(1) Tinh thần Nhật Võ Đạo (Bushido) đã trở thành truyền thống giáo dục đặc biệt của dân tộc Nhật, tạo được ý thức công dân giáo dục cao trong mọi bối cảnh lịch sử, với 5 đức tính chính (ngay thẳng và công bằng, can đảm, nhân từ, lễ phép, tự kiểm) và 3 đức tính phụ (vâng lời, trung tín, yêu việc) được huấn luyện từ tiểu học tới đại học đã hoàn toàn thành công trong việc đào tạo các thế hệ tuổi trẻ Nhật Bản trong mọi sứ vụ giữ nước, cứu nước và dựng nước.

(2) Với những đức tính võ đạo được giáo dục từ nhỏ tới lớn, các thế hệ Nhật Bản không trách cứ lẫn nhau để làm tăng triển các mâu thuẫn xã hội, mà luôn luôn cùng nhau chia sẻ những vinh nhục chung để tự cứu vãn. Họ đã ý thức sâu sắc những giá trị tiêu cực của sự trách cứ lẫn nhau, chẳng những chẳng giải quyết được gì cả, mà còn hủy diệt những nghị lực cuối cùng của tha nhân trước nỗi thống khổ chung của dân tộc.

(3) Mỗi người đều cố gắng tự giải quyết, tự giúp, tự hy sinh, tuy hướng nhìn và tiêu hướng sinh tồn đã nghịch đảo. Người trẻ tuổi luyến tiếc và thương xót quá khứ, người lớn tuổi lo âu và kỳ vọng vào tương lai.

(4) Luôn luôn người nọ nghĩ tới người kia: ý niệm vị tha và thăng hóa đã trở thành ý thức vị tha (ông sống vì cháu, cháu sống vì ông…).

(5) Các đức tính võ đạo luôn luôn được thể hiện trong thực tế. Những đứa trẻ mồ côi rất trật tự và vâng lời. Tới nay, những đức tính Nhật Võ Đạo vẫn còn làm cảm phục du khách ngoại quốc khi thấy người Nhật từ nhỏ tới lớn đều xếp hàng trật tự vào xem việc quảng cáo tại công viên bằng lối nhỏ, chớ không chen lấn, vượt qua hàng rào bằng dây thừng trùng chỉ cao chừng 2, 3 tấc, hoặc dẫm lên cỏ, như tại một số quốc gia khác, kể cả Việt Nam.

III- NHU CẨU QUỐC GIA VÀ SỰ HỘI NHẬP CỦA TUỔI TRẺ TRONG THỜI BÌNH

A.- NHU CẨU QUỐC GIA TRONG THỜI BÌNH

Mỗi quốc gia từ thời chiến chuyển sang thời bình đều có những nhu cầu riêng, tùy theo khả năng và kế hoạch tái thiết, phát triển. Nhưng nhìn chung, chúng ta thấy đại đa số những nhu cầu đều giống nhau, tuy rằng mức độ cần thiết khác nhau. Trên căn bản, những nhu cầu quốc gia trong thời bình gồm có :

1- Tái thiết

2- Phục hồi sinh hoạt (kể cả sinh hoạt luân lý).

3- Chuyển hướng kinh tế (từ thời chiến sang thời bình).

4- Phát triển kinh tế (cả kỹ nghệ, công nghệ, nông nghiệp v.v…).

5- Khẩn hoang, khai phá (dinh điền, lâm sản v.v…).

6- Huấn luyện, hướng nghiệp, điều dụng nhân công.

Đặc biệt với hoàn cảnh Việt Nam, nhu cầu quốc gia trong thời bình của chúng ta còn có :

7- Chuẩn bị đấu tranh chính trị.

8- Các biện pháp đề phòng cuộc chiến tái phát.

B- SỰ HỒI NHẬP CỦA TUỔI TRẺ TRONG THỜI BÌNH

Các nhu cầu trên, kỳ vọng một phần lớn vào tuổi trẻ, lớp người sung sức, giàu khả năng và chưa bị hao tổn nghị lực vì những ứng phó với ngoại cảnh hoặc mòn mỏi vì những dịch vụ chiến tranh.

Nhưng bên cạnh các ưu điểm, tuổi trẻ còn có những nhược điểm lớn cần khắc phục. Đó là sự thiếu kinh nghiệm và những xúc động nhất thời: tình cảm, nếp sống phức biến và chưa ổn định, nên nếu không có hướng dẫn chính xác, có thể tạo những hậu quả nghịch đảo.

1- Chuẩn bị tri thức: tức chuẩn bị về sự hiểu biết tổng quát, bằng các chương trình giáo dục và huấn luyện.

2- Chuẩn bị kiến thức: tức chuẩn bị cái “nhìn” và cái “biết” về thực trạng xã hội thời hậu chiến trong những ngày sắp tới, cùng những dữ kiện, sự kiện nội tại để áp dụng vào thực tế.

3- Chuẩn bị ý thức: để định hướng tinh thần cho chính mình trong việc theo đuổi lý tưởng và công việc, trước những chuyển động có thể mạnh hay yếu, mau hay chậm, của thời cuộc và xã hội.

4- Chuẩn bị “lửa”, khả năng và công việc: để tin tưởng, tự tín và sự hội nhập nhanh chóng khi vào thực tế hoạt động (không còn gặp những bỡ ngỡ và xúc động ấu trĩ).

IV-  KẾT LUẬN

Chúng ta đã sống với 2 cuộc chiến tranh : 1945-1954, và 1963-1973.

Thế hệ chiến tranh 1945-1954 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử là tranh thủ độc lập cho quốc gia, nhưng thất bại vì không thực hiện được sứ mệnh thống nhất lãnh thổ.

Thế hệ hòa bình 1954-1963 chỉ đủ thời gian hàn gắn, xây dựng lại những đổ vỡ, rồi sắp xếp lại, tổ chức lại, đào tạo lại, trên những nền móng mới của một quốc gia độc lập và bị chia cắt trên thực tế, và một chính thể cộng hòa còn xa lạ với mọi người.

Thế hệ chiến tranh 1963-1973 đã đương nhiên thay thế thế hệ hòa bình tạm bợ 1954-63, với giai tầng lãnh đạo mới và sứ mạng mới chống Cộng, chống chiến tranh ý thức hệ, công nhận thực trạng qua phân lãnh thổ và hòa giải dân tộc. Hiện nay, phần lớn sứ mạng đã được hoàn thành nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong việc xây dựng một nền hòa bình lâu dài cho dân tộc.

Hiện nay, chúng ta đang chuyển sang một thời kỳ mới, với một thế hệ chuẩn bị để đón tiếp hòa bình, được cắm mốc từ 1975 tới 1994.

Đó quả thật là một kỳ vọng lớn với tất cả chúng ta. Phải có 20 năm, mới có thể thực hiện được những chương trình, kế hoạch lớn làm hưng thịnh đất nước. 20 năm cũng là một khoảng thời gian vừa phải để thế hệ hòa bình mới có thể vừa làm việc vừa học tập, để có đầy đủ khả năng và kinh nghiệm trong việc phục hưng đất nước.

Do đó, ngay từ bây giờ, chúng ta cần chuẩn bị hướng dẫn tuổi trẻ hội nhập vào một thế hệ hòa bình. Đồng thời, cùng với những chương trình tái thiết, phát triển và khai phá, chúng ta còn cần luôn luôn nuôi “lửa” cho tuổi trẻ, để thế hệ hòa bình mới có đầy đủ cơ hội thực hiện sứ mạng của mình.

Một trong những phần vụ nuôi “lửa” cho tuổi trẻ thời hậu chiến chính là việc đào tạo một thế hệ thanh niên Việt Võ Đạo. Kinh nghiệm phục hưng Nhật Bản thời hậu chiến đã cho chúng ta thấy rõ giá trị siêu việt của một nền giáo dục võ đạo, chính Nhật Võ Đạo đã nuôi “lửa” cho tuổi trẻ thời hậu chiến của họ, để đạt tới những thành quả đáng ngưỡng mộ như ngày nay.

Việt Nam chúng ta cũng có tinh thần đó nhưng chưa có truyền thống đó. Tinh thần võ đạo của chúng ta chưa trở thành truyền thống võ đạo được áp dụng trong các chương trình giáo dục học đường, nhưng đang khắc phục những khó khăn để đảm nhiệm sứ vụ lịch sử của mình, để thế hệ hòa bình sắp tới trở thành một thế hệ thanh niên Việt Võ Đạo, hoặc mở đầu cho nhiều thế hệ thanh niên Việt Võ Đạo trong tương lai.

 

Chương 18: Đổi đời, đổi người, đổi tính – Võ Sư Nguyễn Văn Nhàn

THAY ĐỔI BẢN CHẦT HAY ĐỘNG THỂ CỦA SỰ SỐNG:

Người mới sống đó mà đã chết. Nước mới thịnh đó rồi đã suy. Các siêu cường mới kình chống nhau đó mà đã thân hữu. Hòa bình mới tái lập mà đã có triệu chứng tái phát chiến tranh. Chúng ta gọi đó là những thay đổi. Nếu có sự chuẩn bị đón nhận thay đổi, chúng ta coi đó là thay đổi bình thường. Nếu không hay thiếu chuẩn bị đón nhận thay đổi, chúng ta coi đó là thay đổi bất bình thường. Thay đổi của người này là nhu cầu tất yếu, nhưng đối với người kia là một khổ nạn, tùy theo diễn trình thuận hay nghịch.

Cũng không phải chờ tới thế hệ chúng ta, vấn đề thay đổi mới được coi là quan trọng. Kinh Dịch, cách đây hai ngàn năm, đã coi thay đổi là quan trọng: Trời Đất thay đổi mà thành bốn mùa, vua Thang vua Vũ thay đổi mà thuận ý trời hợp lòng người “Thiên Địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân…”.

Như vậy, thay đổi là bản chất của sự sống hay là động thể của sự sống?

Thực ra, bản chất hay động thể chỉ là những ý niệm, dù là ý niệm cụ thể phản ảnh thực tại. Do đó, bản chất tự nó không thuần tĩnh, cũng như động thể của nó cũng không thuần động. Trong động có tĩnh, trong tĩnh có động, là phản ảnh nguyên lý này. Vài tỉ dụ: Mặt Trời (nhật cầu) được coi là một định tinh, nhưng thật ra đó là một động thể, vì sự cháy sáng cung cấp nhiệt lượng tự làm hao mòn 1/1000 khối lượng trong mỗi 15 tỷ năm. Địa cầu, tuy là một hành tinh, nhưng đã bao lần bị ngộ nhận là một định tinh, từ những quan niệm văn hóa và tôn giáo tối cổ, qua quan niệm của thiên văn học Ptolémée (140), tới Hội của những người chủ trương trái đất vuông và không quay (tại Anh quốc) ngày nay.

Ngọn cây tưởng như là động thể vì tính chất trưởng triển, sinh hóa và gió lay. Gốc tưởng như tĩnh thể, vì im lìm, gần như bất biến. Nhưng thật ra, tất cả đều đang thay đổi. Có thể thay đổi theo chiều hướng thuận hay chiều hướng nghịch.

Nguyên tử trong vật chất cũng tưởng như tĩnh, vì được cấu tạo cố định cho từng loại. Nhưng thực ra, nó vẫn chuyển động tự thân, vì các điện tử, trung hòa tử, và có thể bị xúc tác mạnh vì những năng lực bên ngoài chi phối. Thay đổi do đó có cả trong các tĩnh thể và động thể, là tính chất và động lực của sự sống, rất cần thiết cho chúng ta.

ĐỒI ĐỜI : CHU KỲ CHUYỂN HÓA CỦA ĐẠI THỂ

Nhất thiết, thay đổi có trong mọi nơi, mọi vật. Cái bàn đó, mới đó, tức đang sắp thành cũ. Xuân còn non, nghĩa là xuân chưa già hay Cái bay không đợi cái trôi, từ tôi phút trước sang tôi phút này. Tuổi trẻ, chuộng mới, muốn thay đổi thật nhiều; trong lúc tuổi già ngại thay đổi, vì sợ xáo trộn. Nhưng rồi tuổi trẻ – nói chung – sang trạng thái già, lại ngại thay đổi vì sợ xáo trộn v.v… Một chu kỳ diễn hóa cứ thế xuất hiện trước mắt chúng ta: lớp người hôm qua cấp tiến, nay đã thành bảo thủ, trong lúc thực ra cấp tiến hay bảo thủ là hai ý niệm có giá trị tương đối.

Những thay đổi đó của sự vật không phải chỉ biểu lộ tùy hứng bất nhất, mà được biểu diễn bằng từng chu kỳ diễn hóa. Chu kỳ Saros (nhật nguyệt thực) cho ta thời gian 18 năm 11 ngày trở lại tình trạng cũ y hệt, sau 28 lần nguyệt thực, 43 nhật thực sai khác chút đỉnh. Chu kỳ Méton cho ta 19 năm về xuân phân y hệt 19 năm về trước. Chu kỳ chiến tranh thế giới cho ta 20 năm chiến và 20 năm hòa. Chu kỳ chiến tranh và hòa bình Việt Nam cho ta 9 năm đánh rồi hòa : 1945 – 1954 ; 1954 – 1963; 1963 – 1973 (vì cách biệt 1 tháng) v.v…

Khi ta nói: đời người sống lâu trăm tuổi – là chấp nhận chu kỳ đời người 100 năm tuổi thọ. Khi ta chúc “bách niên giai lão”, là chúc trăm tuổi đời bên nhau, tới già, tới chết.

Thăng và trầm, chỉ là hai mặt âm, dương tố của Vòng Đạo chu kỳ. Chu kỳ đó, bao bọc che chở, cuốn hút. Nước thịnh rồi suy, hoặc suy rồi thịnh : một chu kỳ diễn hóa của đại thể.

ĐỒI NGƯỜI: CHU KỲ CHUYỂN HÓA CỦA TIỂU THỂ

Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Con người muốn làm gì? và phải làm gì? Đó là chu kỳ diễn hóa của tiểu thể. Con người muốn sống lâu …Vừa phải thôi! Vì …chu kỳ tuổi người chỉ tới trăm năm (nói chung) là hết. Trong vòng chu kỳ đó, phải tuân hành mọi sự chế ngự của Nhiên Luật : ốm, đau, già, yếu, sống, chết.

Quang Trung đại đế là một vị anh hùng, từ độ lượng, đởm lược, tới ý chí, và mưu trí. Người tung 100.000 quân đánh thắng 300.000 địch (200.000 quân Thanh và 100.000 quân Lê Chiêu Thống) trong một thời gian kỷ lục. Người lặng lẽ thanh toán 50.000 quân Xiêm nội trong một trận Rạch Gầm. Người cầu hiền đãi sĩ, thật khiêm nhượng trước một La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp chán ngán việc đời. Người dùng tướng đúng chỗ, trù liệu kế hoạch không sai lầm nhưng người về đâu? Lao tâm, lao lực làm Người chết sớm. Quang Trung, Gia Cát Lượng đều mãi say công việc, chỉ nhớ đại thể mà quên tiểu thể “thân phận làm người”, nên đã bỏ lại một sự nghiệp dở dang, vì không nắm vững (hay cố quên) chu kỳ diễn hóa của tiểu thể.

Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc của chúng ta cũng mắc nhược điểm trên: lo nghĩ, buồn phiền và làm việc quá nhiều, nên tuổi thọ suy giảm.

Chúng ta cần “đổi người” là thế. Cách Mạng Tâm Thân đòi hỏi “đổi người”. Phải vững mạnh, kiện toàn cả Tâm và Thân, luôn luôn ở mức “thăng tiến nhưng vừa phải”. Cố Võ Sư Sáng Tổ đã tự hy sinh để cho chúng ta thấy điều ấy. Người đã nghĩ ra, tìm ra, để Người – Khác sống, còn Người, Người không cần. Đổi người là quan trọng và hợp lý, vì con người phải tự hiểu và nắm vững chu kỳ diễn hóa tiểu thể của mình. Chúng ta hãy lãnh hội tâm ý Người để đừng làm theo Người : vì tha nhân, nhưng phải tự bảo trọng để có thể có thời gian (tuổi thọ) giúp ích và hiến ích nhiều hơn.

ĐỒI TÍNH : THAY ĐỔI TỪ BẢN CHẦT SỰ SỐNG

Thay đổi tâm năng, thể chất chưa đủ, chúng ta còn phải thay đổi ngay từ tâm hồn, vì tâm hồn mới là chủ tễ của ý chí và nghị lực. Thay đổi không có nghĩa là bỏ hết những gì về sinh hoạt tinh thần vẫn có, mà chỉ có nghĩa là thay đổi những nhược điểm, khuyết điểm với tiêu điểm hướng thiện và hướng tiến. Muốn thế, chúng ta phải khởi đầu ngay từ phần vụ “Tính” (Le spirituel), phần vụ chủ yếu của tâm hồn mỗi chúng ta.

Điều cần phân biệt là, “Tính” ở đây không phải cá nhân tính (individualité) hay cá tính (caractère particulier), mà có nguồn gốc từ Nho học cổ truyền: “Mệnh Trời phú gọi là Tính, noi theo Tính gọi là Đạo, tu theo Đạo gọi là Giáo”.

Thay đổi Tính chính là thay đổi tâm thức, để trí óc luôn luôn được mẫn tuệ, thông suốt trước mọi hoàn cảnh, mọi sự việc. Muốn thế, phải trau dồi ngay từ Đức Hạnh, Trí Tuệ tới Ý Lực. Trần Hưng Đạo chỉ nghĩ tới nợ nước quên thù nhà, chính vì Ông đã biết thay đổi Tính (không ham ngôi báu) khi nước biến. Quang Trung Nguyễn Huệ nhìn trước được sự thảm bại của quân Thanh, chính vì Ông đã biết thay đổi Tính (biết nhìn xa thấy trước) để thích ứng với hoàn cảnh đặc biệt đương thời. Lê Lợi bị thảm bại suốt 5 năm, vẫn kiên gan trì chí cầu hiền và chấn chỉnh lại quân đội, binh pháp để phản công trong 5 năm sau, chính vì Ông đã biết thay đổi Tính (kiên trì chịu đựng) để không ngã lòng trước nghịch cảnh.

Hiện trạng của đất nước ta thời hậu chiến cũng có những nhu cầu tương tự. Chúng ta sống trong chiến tranh, chịu đựng những bất công của chiến tranh, quen với tự vệ và tấn công hơn là tái thiết, xây dựng. Nếp sống thích ứng với thời chiến nay không còn thích ứng với nhu cầu thời bình, và càng không thích ứng với tình trạng phi hòa phi chiến hiện nay.

Tất cả phải thay đổi lại ngay từ khởi điểm là Con Người, để Con Người có thể thích ứng ngay với hoàn cảnh mới và đáp ứng được với nhu cầu mới. Do đó, Con Người phải thay đổi ngay từ Tính để trau dồi thêm Đức Hạnh, Trí Tuệ và Ý Lực thích ứng với yêu cầu mới của thời hậu chiến. Đó là điều mà Chủ Thuyết Cách Mạng Tâm Thân đã đem lại cho chúng ta, từ Lý Tưởng, Ước Vọng tới Chủ Điểm và Thành Điểm Giáo Dục.

Đổi tính, để vào đời với tinh thần Việt Võ Đạo, thích ứng với hoàn cảnh Đổi Đời và Đổi Người hiện tại – đó là nguyện vọng chung của toàn thể môn phái và những người Việt Võ Đạo chúng ta.

 

Chương 19: Lay lòng gỗ đá – Võ Sư Diệp Khôi

Máu?

Rừng rực Trường Sơn, nhuộm hồng Thạch Hãn.

Xương!

Chất ngất cao nguyên, trắng về cửa Việt.

Khăn sôaiquấn ngang đầu.

Mồ chôn của mẹ chôn sầu thiên thu.

Sông Thạch Hãn chia đôi dòng máu.

Vạch hận thù cản lối anh em.

Cha, Anh chết hồn ai đau đáu.

Xác thân kia, cầu nối hai Miền?

Sao đã 20 năm trời hồng chưa trải nắng.

Chưa mỏi cánh một lần sao, hỡi loài chim trắng?

Anh Em ta vẫn còn là gỗ đá không tim.

Để nước mắt mẹ hiền nhỏ giọt suốt ngày đêm?

Vận hội tới, mặt trời phải lên.

Việt Nam ta ngun ngút khí thiêng.

Tay thép bạt Trường Sơn, hề lấp sông Thạch Hãn.

Tim từ xóa hận thù, hề mở biển Yêu Thương. 

Khăn sô Em: Đóa-Hải-Đường.

Mồ xanh Anh biến thành Nương-Lúa-Mùa.

Hà Nội!

Chờ Anh về bừng khai hội lớn.

Saigon!

Đón Em vào rộng mởân tình.

Bàn tay Việt Võ Đạo sinh.

Nối thương yêu, dựng hòa bình quê hương.

 

 

Chương 20: Ngàn năm mây bay – Huy Đạo

– Hiền muội đừng cúi mặt nhìn xuống đất nữa, mà hãy ngước lên cao nhìn trời. Thế nào trời đẹp chứ? hiền muội.

– Vâng … đẹp lắm … nhưng Phương Đông vẫn có một đám mây đen …

– Thì hãy nổi gió lên phá tan đám mây đen tối đó đi! Hiền muội, em đừng khóc nữa. Tương lai có thể nên bằng những luồng gió, nhưng không bằng những giọt lệ. Đất nước ta cũng vậy. Chúng ta cũng vậy…

Đó là một đoạn đối thoại của hai anh em An Trọng Căn và An Trọng Thạch, trước cái chết u uất của Hồng Chung Vũ, vị anh hùng dân tộc Cao Ly. Họ Hồng là một kiếm khách lỗi lạc, nổi tiếng vị̀ vụ ám sát Mẫn Hậu, sau khi tận sát toàn bộ một đại đội kiếm khách cận vệ Nhật Bản. Trước đó, họ Hồng còn là một tay kiếm trừ gian diệt bạo đặc biệt của dân chúng Đại Hàn ông ám sát hai tay Hàn gian ái quốc giả danh Trần Tài Tử và Trương Thư Chiêu cũng bằng đường kiếm tuyệt diệu đột nhập tư dinh của hai gã. Ông đã thành công về kiếm đạo, nhưng đã thất bại hoàn toàn về nghĩa vụ của người công dân yêu nước chống đối hai đế quốc khổng lồ Nga – Nhật của vùng biển Thái Bình Dương để phục hồi độc lập cho Hàn Quốc.

Và đám mây đen Định Mạng vẫn bay…

Mây ở xa chúng ta mà vẫn quen thuộc như một người thân trong cuộc sống. Mặt trời và mặt trăng ở với chúng ta một nửa chu kỳ hàng ngày, nhưng mây hiện hiện cả ngày đêm. Thói quen ngước mặt lên nhìn trời lại làm chúng ta thêm gần gũi với mây. Hình ảnh của mây càng thêm thân thuộc khi tác động trực tiếp vào thời tiết và sinh hoạt của loài người. Mây là biểu tượng của mưa, của sự sống, của những thử thách mọi khả năng con người. Tất nhiên, mây mịt mù, mưa tầm tã chỉ đem lại cho chúng ta những ảnh hưởng xấu. Ở mức độ vừa phải, mây và mưa đem lại cho chúng ta nhiều thoải mái và ích dụng. Sự biểu hiện theo chiều hướng thuận hay chiều hướng ngịch chỉ là hai yếu tố, hai mặt sống của thực tế.

Chúng ta dù yêu hay ghét Định Mạng, Định Mạng vẫn là Định Mạng. Và Định Mạng vẫn là một sức mạnh siêu nhiên bay trên đầu chúng ta như những đám mây vô tình bay trên đầu nhân loại. Mỗi chúng ta chỉ như một chiếc thuyền trên trên dòng nước Cuộc – Đời, dưới đám mây Định Mạng. Nước chảy thuyền trôi, mây bay gió cuốn…Tất cả đun đẩy nhau trong Vòng Đạo nhiệm màu :

Thuyền qua, mà nước cũng trôi

Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay ;

Tôi đi trên chiếc thuyền nay

Dòng mơ tưởng cũng đổi thay khác rồi.

Cái bay không đợi cái trôi

Từ tôi phút trước, sang tôi phút này…

(Đi Thuyền – Xuân Diệu)

Cứ thế, sự sống tiếp diễn. Con người muốn sống với tận cùng nghĩa sống, phải trải mọi cảnh sống. Ngọt, bùi, chua, cay, chát, đắng, mặn, nồng làm vậy hương đậm vị của món ăn. Sướng, khổ, vui, buồn, yêu, ghét, thích, sợ, tin tưởng, thất vọng là những trạng thái tâm lý đặc biệt của con người, tùy thử thách mà tạo thành con người bản sắc, từng trải :

Văn phi sơn thủy vô kỳ khí

Nhất bất phong sương vị lão tài

Khổng Tử nhìn làn nước chảy, ngậm ngùi than : “Đêm ngày nó cứ chảy như thế mãi”. Lão tử trầm lặng hơn, nhìn Sự Vật như nhìn mây bay, gió thoảng, coi vạn vật chỉ là biểu hiện của dòng sống miên trường đi từ Vô đến Hữu, rồi từ Hữu đến Vô. Điểm khám phá đặc biệt nhất của Lão Tử là ông đã nhìn thấy trong Hữu có Vô, trong Vô có Hữu. Rồi trầm ngâm nhìn mây bay, Lão Tử cũng khám phá thêm một định lý mới : Trung, Gian chỉ là hai thành tố của Lẽ – Loạn, Hiếu hay Bất Hiếu chỉ là hai thành tố của Lẽ-Nghèo. Nước không loạn, làm sao có người trung, kẻ gian ? Nhà không nghèo, biết đứa con nào có hiếu hay bất hiếu ? Tuệ trí không có dịp xuất hiện, làm sao có kẻ đại ngụy ? Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần, là thế. Tuệ trí xuất, hữu đại ngụy – quốc gia loạn hữu trung thần, là vậy. Bởi đó, cách tốt hơn hết là diệt trừ Lẽ-Loạn, là khắc phục Lẽ-Nghèo. Nhưng làm sao diệt trừ ? Làm sao khắc phục ? Hơn nữa, trong Loạn vẫn An Định, trong Nghèo vẫn Cao Sang, đó mới là tinh thần và nếp sống vượt thoát thế thường của Việt Võ Đạo. Ta lại cuối mặt nhìn Cuộc – Đời. Ta lại ngẩng mặt lên nhìn bầu trời. Ngàn năm mây bay …

Cứ thế, trong vòng Trời Đất có Sống có Chết. Trong Lẽ Sống có Phải có Quấy, có Thiện, có Ác. Trong Sự Sống có Sáng có Tối, có Cứng có Mềm, có Yêu có Ghét.

Vòng Đạo cứ thế biểu hiện trước mắt chúng ta :

Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết

Bèo hợp để chia tan

Người gần để ly biệt

(Xuân Diệu – Thơ Thơ)

Tất cả đều có nghĩa và cũng đều vô nghĩa. Ta say thưởng hoa, rồi khi thấy hoa tàn bâng khuâng tự hỏi : cái chết từ đâu tới ? Rồi phân vân phản luận : và cái sống cũng từ đâu tới ? Phải, từ đâu, vì sao chúng ta có mặt trên đời ? Sao ta phải sống, sao ta phải chết ? Chuyện muôn đời của những con người lặng ngắm mây bay…

Thực ra, trong sự sống đã có mầm chết, trong sự chết đã có mầm sống. Chính là mục, hoa rơi bón đất, tạo nên sự sống của lá non hoa nụ. Rồi sau một chu kỳ sống, lại trở về với đất.

Trong cái phôi hồng khoe thắm của hoa đã chứa đựng mầm mống héo tàn khi lả lơi trước gió. Cái đẹp đã chứa sẵn mầm xấu, cái tươi đã có sẵn mầm héo, cái sống đã có sẵn mầm chết. Lại quảng luận thêm, quả thật trong thành có bại, trong hưng có hoại, trong người có trời, trong trời có người, trong thiên đường có địa ngục, và ngược lại. Chân thật đấy mà giả trá cũng đấy. Thiên lý tại nhân tâm, chiến tranh rồi tới hòa bình…

Hữu lý ngày xưa bỗng trở thành phi lý ngày nay. Tưỡng may rủi là đã có sắp xếp ; tưởng sắp xếp cố định là đã đi vào mơ hồ, biến ảo. Phức tạp đấy, nhưng lãng quên sẽ thành giản dị. Giản dị đấy, nhưng quá chú trọng phân tích sẽ thành phức tạp. Rồi chuyện muôn đời nước lửa :nước dập tắt lửa, lửa làm sôi nước thành hơi, để từ hữu thường đi vào vô thường.

Đế quốc La Mã giữa lúc phồn thịnh nhất là lúc sắp đi vào sụp đổ. Rồi đo thị Carthage, đế quốc Hy Lạp, sự phục hưng mau lẹ của Đức Quốc Xã, những chiến công hiển hách của Thành Cát Tư Hãn, Napoleon, Quang Trung Đại Đế, phải chăng là điềm sắp rơi vào vực thẳm quang vinh ?

Biết bao công trình làm hãnh diện, vẻ vang một thời để rồi suy tàn hủy diệt. Những phút hào hùng nhất của tiệc vui là lúc báo hiệu sắp tàn. Trái lại, những phút thất vọng, khó khăn, bi thiết tận cùng lại là khởi điểm một hoán chuyển của tin yêu, hạnh phúc tuyệt vời.

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau…

(Bà Huyện Thanh Quan)

Xử thế đại mộng…Phải chăng Lý Bạch đã biết tìm quên trong chén rượu ? Tất cả chúng ta cũng vậy, sẽ như Đỗ Phủ nhìn mây bay trên Hoàng Hạc Lâu ?

HOÀNG HẠC NHẤT KHỨ BẦT PHỤC PHẢN

BẠCH VÂN THIÊN TÁI KHÔNG DU

Hạc vàng đi mất từ xưa

Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay…

28-7-1974

 

Chương 21: Tự tình khúc – Trung Đạo

Khai thông vận hội giữa giờ linh

Cơ Đạo là đây vẹn nghĩa tình,

Thành tín chói lòa thanh kiếm lệnh

Hùng uy bao tỏa cuộc trường chinh

Đại nghiệp dâng lên từng đợt sóng

Vượt lên thành bại, sáng niềm tin

Tâm tư từ đó vào Sinh Động

Linh thức bừng soi mọi bất bình

Thênh thang đại lộ dựng tương lai

Nhập cuộc : hăng say phấn đấu hoài

Đạo lớn thành toàn cho Nghĩa Sống

Sẽ về vườn trúc ngắm sương mai

Một đời tâm nguyện dẹp sa hoa

Tròn mộng bình sinh với Nước Nhà

Nghĩa nặng, ân sâu tình bát ngát

Sư môn cảnh trí rộng bao la

Sống đã một dâng cho lý tưởng

Đá mềm chân cứng ngại ngùng chi ?

Tâm Thân rèn luyện không ngừng nghỉ

Lên đỉnh cao sơn dựng đại kỳ

Chương 22: Lòng nhiệt thành của tuổi trẻ – Võ Sư Nguyễn Văn Chiếu

Tuổi trẻ, được coi là tinh hoa của đất nước. Tuổi trẻ dám nói dám làm, dám hy sinh vì một cái gì mình cho là phải. Từ xưa, các phong trào cải cách, cách mạng đều có xuất xứ từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ Phạm Ngũ Lão đã đan rổ rá ngoài chợ, vừa làm vừa bán để nuôi mẹ già, say binh thư võ nghiệp đến nỗi lính đi dẹp đường, hét vào tai, vẫn không nhúc nhích vì bị chìm đắm trong tư tưởng của võ học. Tuổi trẻ của Trần Quốc Toản đã tạo được một thế hệ thanh thiếu nhi chống Mông Cổ cứu nước, khởi từ vụ bóp nát trái cam vì uất ức không được dự bàn quốc sự, và biểu dương bằng những trận truy cản Mông Cổ trên đường rút lui về Tàu, với một số bạn cùng lứa tuổi tự ý dấn thân. Tất nhiên, về phương diện lãnh đạo, Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản không thể thay thế được vai tuồng lãnh đạo của Trần Hưng Đạo trong sứ vụ đối địch chiến lược với Hốt Tất Liệt – Thoát Hoan. Ngược lại, ta nêu một trường hợp giả định là nếu Trần Hưng Đạo không có và không tạo nổi được một thế hệ tuổi trẻ dấn thân, chiến lược đúng có đem lại thắng lợi cuối cùng cho dân tộc không? Tất nhiên là không.

Như vậy, bên cạnh những ưu điểm, Tuổi trẻ cũng có những nhược điểm như Tuổi Già và ngược lại Ta thấy: các thế hệ cách mạng lão thành như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh v.v… cố gắng đứng ra gánh vác việc nước, nhưng Tuổi Già bảo thủ khó dung nạp Tuổi Trẻ, nên đã không thể thành công. Ngược lại, ta lại thấy thế hệ Tuổi Trẻ của Nguyễn Thái Học (1930) hăng say đi làm cách mạng, bất cần chủ thuyết sẵn sàng đem thân mình ra “độn lỗ châu mai”, cuối cùng đã đi về đâu? Chỉ còn để lại tiếng thơm trong lịch sử, và tự an ủi rằng “ai đem thành bại luận anh hùng”.

Như vậy, ta đã khẳng định được: ưu điểm và cũng là nhược điểm muôn đời của tuổi trẻ là chưa sống nhiều, ít kinh nghiệm, thiếu từng trải, kiến thức chưa có là bao, nhưng giàu lòng nhiệt thành và chấp nhận những hành động dấn thân. Tuổi Trẻ là vậy, không thể như Tuổi Già. Và mối quan hệ của Tuổi Già và Tuổi Trẻ được đặt ra nghiêm chỉnh ở đây. Tuổi Trẻ phải sống động theo tinh thần “sống, để người khác sống, và sống cho người khác”. Đó là những giá trị hành động của Nhân Sinh Quan Việt Võ Đạo. Nhưng tất cả, cần phải có sự hướng dẫn, tuổi trẻ mới có thể sống đúng nghĩa “để người khác sống và sống cho người khác” một cách cao thượng, thông minh sáng suốt và đầy nghị lực. Phần hướng dẫn đó là Vũ Trụ Quan Việt Võ Đạo, và có thể coi “Vũ Trụ Quan Việt Võ Đạo” như Tuổi Già, và “Nhân Sinh Quan Việt Võ Đạo” như Tuổi Trẻ. Cả hai phải kết hợp lại với nhau, mới có thể thành công.

Tuổi Trẻ phải tự phát huy những ưu điểm của mình, và để lại những nhược điểm cho Tuổi Già bù đắp. Ưu điểm đó là lửa, là lòng nhiệt thành. Thiếu lòng nhiệt thành, thiếu “Lửa”, là Tuổi Trẻ thiếu tất cả, cuộc sống mặc nhiên trở thành vô nghĩa, không còn giúp ích và hiến ích được cho ai nữa.

Lòng Nhiệt Thành – Lửa – sẽ là hấp lực cuốn hút mọi người đến với mình, và do đó, vấn đề lãnh đạo và chỉ huy mới có thể đặt ra một cách nghiêm chỉnh. Đó là một toa thuốc không phải chỉ dành cho tuổi trẻ, mà còn dành cho mọi lứa tuổi – kể cả tuổi già.

Lòng Nhiệt Thành của Tuổi Trẻ không chấp nhận tính đa nghi của Tuổi Già, nên hoàn toàn độc lập do ý hướng và những sự kiện, dữ kiện nắm vững trong tay. Lòng nhiệt thành cho ta tự tin, yêu đời, thích thú và hăng say làm việc. Hai người cùng có khả năng như nhau, nhưng người có lòng nhiệt thành bao giờ cũng thẳng lướt những người đa nghi và quá dè dặt. Do đó, lòng nhiệt thành chính là chìa khóa của sự thành công, là trăng soi giữa màn đêm u tối, là lửa ấm sưởi trong rừng đêm, là linh hồn của công việc. Khả năng của nó thật vô cùng : nó có thể thay đổi tất cả, làm chuyển biến được vận số, đem cao vọng đến với những người an phận thủ thường.

Nhưng lòng nhiệt thành có thể bị hiểu lầm như một động cơ của sự mê lầm? Không, lòng nhiệt thành của người Việt Võ Đạo khác hơn, không phải là tính hiếu thắng của bọn võ phu, võ biền, Lòng nhiệt thành của người Việt Võ Đạo được xây dựng trên 6 căn điểm :

1- Hiểu rõ tầm mức quan trọng của công việc mình đang làm. Ví dụ: Hai người thợ nề cùng làm việc, có người hỏi họ làm gì? Một người nói: “Tôi làm việc xây cất, để có tiền sinh nhai”. Người kia đáp : “Tôi xây cất một cơ sở kỹ nghệ lớn, để giúp phần nào vào việc phát triển kinh tế nước nhà”. Ta thấy rõ : một người làm việc cốt có tiền để sống; còn người kia mới ý thức được sự ích lợi của việc mình đang làm. Chẳng cần phải sử dụng đến những bộ óc điện tử, chúng ta đều thấy ngay là trong hai người thợ trên một người có lòng nhiệt thành và hiểu rõ tầm mức quan trọng của việc mình đang làm, còn người kia thì không.

2- Phải có mục tiêu rõ rệt và kế hoạch thực tiễn để nhắm tới.

3- Nghĩ đến lòng thán phục của tha nhân đối với mình để tự khích lệ và rút tỉa kinh nghiệm (loại bỏ hoàn toàn những lời khen nịnh).

4- Nghĩ tới công ích và những giá trị việc làm của mình đem đến cho người.

5- Kết giao với những người đồng điệu, hăng say làm công ích như mình.

6- Tự thôi thúc khi làm việc, để sự hăng say thành thói quen.

Được như vậy, lòng Nhiệt Thành của Tuổi Trẻ sẽ trở thành sự thành công của Tuổi Trẻ. Thành công của Tuổi Trẻ chỉ có thể có được, nếu có kinh nghiệm và óc tổ chức. Kinh nghiệm và óc tổ chức chỉ có được khi mình lớn tuổi và có thiên khiếu đặc biệt. Nhưng kinh nghiệm và thiên khiếu đặc biệt đều trở thành vô dụng, nếu thiếu lòng nhiệt thành khi làm việc. Lòng nhiệt thành không phải là một động cơ quyết định để tạo thành công, nhưng chính là động cơ căn bản (nguồn gốc) để tạo thành công.

 

Chương 23: NGÔI THÁP TRƯỜNG SINH – Võ Sư Nguyễn Văn Sen

Ngày xưa có một vị hoàng đế uy quyền tột đỉnh, phú quý vô cùng. Xung quanh ngài, có bá quan chầu chực hầu hạ suốt ngày tung hô vạn tuế. Ai nấy đều sống nhờ hồng ân của ngài, nên không bao giờ dám trái ý ngài. Họ luôn luôn túc trực xung quanh ngài để chờ sai bảo và đua nhau đón ý ngài để làm ngài hài lòng.

Một hôm, khi ra triều, đức ngài ngỏ ý muốn được bất tử để hưởng mãi mãi những phước lộc do uy quyền và phú quý mang lại. Cả triều thần đều ngơ ngác nhìn nhau, cuối cùng vị thừa tướng rất trung thành của ngài quỳ rạp xuống tung hô vạn tuế và tâu :

– Xin Thánh thượng anh minh cho xây một ngôi tháp trường sinh chín tầng, rồi mời các vị pháp sư nổi tiếng khắp nước tới cầu nguyện cho thánh thượng trường sanh bất lão…

Đức vua rất đẹp lòng, ra lệnh xuất công khố khởi công liền và phải hoàn thành công tác trong một thời gian ngắn. Lập tức lệnh của ngài được thi hành nghiêm cẩn : bao nhiêu trai tráng trong vùng đều được huy động tới làm việc cả ngày lẫn đêm, để xây dựng một ngôi tháp trường sinh vĩ đại.

Hàng ngàn người ngã gục để xây cất ngôi tháp Trường Sinh vĩ đại, và cuối cùng ngôi tháp đã được hoàn thành. Đức vua, vị thừa tướng và các quan đều hoan hỷ khi thấy ngôi tháp vĩ đại, đẹp rực rỡ và cao chót vót dưới ánh mặt trời. Đức vua ra lệnh làm lễ khánh thành ngôi tháp thật tưng bừng : đèn đuốc thắp sáng trưng, hoa đăng treo khắp hang cùng ngõ hẻm. Những lời tung hô chúc tụng vạn tuế đức vua vang xa hàng mười dặm.

Trong lúc đó, đứa vua rất đẹp lòng, mở đại yến mời tất cả các quan văn võ tới dự. Những lời chúc tụng nồng nhiệt và trung thành nhất đều được tung hô. Ai nấy đều hân hoan vui sướng.

Nhưng giữa lúc đó, những tiếng động kỳ lạ bỗng nổi lên. Tai nạn xảy ra đột ngột làm mọi người trở tay không kịp. Tường gạch bỗng nứt nẻ, nền gạch phủ nhung gấm của các tầng tháp bỗng nhăn nhúm. Ngôi tháp trường sinh quặng mình lảo đảo như một người say. Rồi gạch ngói bỗng vỡ vụn tung tóe, cát bụi tung bay mù mịt. Trong cơn kinh hoàng, các quan lớn giày xéo lên nhau mà chạy, bỉ cả đức vua anh minh ngồi một mình. Cảnh hỗn loạn xảy ra càng làm ngôi tháp sụp đổ rất mau, để cuối cùng chỉ còn lại một đống vôi gạch ngổn ngang với những tiếng rên la thảm khốc. Sở dĩ ngôi tháp bị sụp đổ quá nhanh vì xây cất quá vội vàng, nên không thể nào chịu đựng nổi sức nặng của hàng ngàn người có mặt, ngay trong buổi đại yến khai trương.

* * *

Chúng ta nên nghĩ gì trước bài học bi thảm về câu chuyện “Ngôi Tháp Trường Sinh” của văn hào Ba Kim ? Ta thấy rõ, tham vọng trường sinh bất lão của con người vẫn là một nhu cầu thiết yếu hàng đầu. Bergson (1859 – 1941) than : “Tất cả những gì mà tôi muốn làm là làm tóc trên đầu tôi bạc chậm lại, nhưng không được”. Tham vọng trường sinh bất lão trên, chính là tham vọng của con người muôn thuở. Có người muốn sống lâu để giúp ích, hiến ích. Có người muốn sống lâu để hưởng thụ thật nhiều.

Nhưng muốn sống lâu để hưởng thụ thật nhiều, phải có tiền, phải có quyền, phải có thế. Còn tiền nào dồi dào bằng tiền quốc khố, có “thế” nào hơn cái “thế” của ông vua một nước ?

Ngôi tháp trường sinh, chính là biểu dương cho tham vọng, tiền, quyền, thế. Tiền, quyền, thế là những động cơ quyết định cho việc nuôi tham vọng. Nhưng có tham vọng tốt, tham vọng xấu. Tham vọng tốt là tham vọng nghiệt ngã, vượt lên mình, để lo cho tất cả, trở thành Cao Vọng. Tham vọng xấu là tham vọng vị kỷ, không thể việt ngã, biến thành Ảo Vọng.

Vị vua nào cũng muốn tổ chức một triều đình. Một vị vua tài giỏi còn muốn tc một triều đình đồng nhất ý chí. Nhưng các vị vua xưa nay chỉ có thể tổ chức những triều đình mà không thể tổ chức một triều đình đồng nhất ý chí. Vì sao ? vì học chỉ biết làm cho họ, vì họ không bao giờ biết cho người, vì người, vì lợi ích chung mà xả thân làm việc.

Học không có tinh thần võ đạo, không có lòng yêu người, không có tình thương. Tại sao họ không có mấy thứ đó ? Vì họ ích kỷ, vị kỷ, vị ngã, không việt ngả. Tầm mắt nhìn đời của họ rất thiển cận chỉ biết những cái lợi trước mắt, không trông cao thấy xa, nhìn rộng ra xã hội, nhân quần.

Tóm lại, họ chỉ có thể tổ chức một triều đình của họ, vì họ, làm tất cả cho họ, để củng cố tham vọng của họ. Cuối cùng, tham vọng đi về đâu, lòng ích kỷ, vị kỷ, vị ngã của con người đi về đâu?

Ta thấy thứ triều đình “đồng nhất ý chí” kia chỉ là một thứ hàng hóa, một loại ý kiến già, một màng sơn che đậy cho một âm mưu gì đó. Bỏ màng sơn đi, tham vọng của đức vua chỉ còn là ảo vọng. Bỏ ảo vọng “Nôi Tháp Trường Sinh” đi, tất cả chỉ còn là chết chóc, suy sụp.

Ôi ! Ngôi tháp trường sinh của những kẻ có tham vọng xấu. Tham vọng xấu tất nhiên sẽ sụp đổ như ngôi tháp xây vội. Ôi ngu xuẩn, ngốc nghếch thay !

 

Chương 24: Suy Tư về tuổi trẻ Việt Nam – Võ Sư Trần Văn Trọng

Trong một cuộc phỏng vấn báo chí, cựu Tổng Thư Ký Liên hiệp Quốc U Thant đã khóc thương cho dân tộc Việt nam bằng những giọt nước mắt chân tình : đó là một dân tộc suốt ba chục năm nay chưa được hưởng không khí hòa bình.

Ba mươi năm ? thời gian quá thừa thãi cho Ehrenbourg, thi hào Nga bị thanh trừng, người từng được Stalin khen là “một Ehrenbourg mạnh bằng 5 sư đoàn” than phiền rằng : những đóa hoa đã rụng nhiều mùa, những cây non đã trưởng triển và đã chết già, những người lính thiện chiến năm xưa đã trở thành nông dân già cần mẫn hôm nay ; và trẻ sơ sinh của chúng ta đã biết cầm súng giết người chỉ vì chúng đã trở thành những người lính thiện chiến. Bản văn viết ra sau 8 năm Đệ Nhị Thế Chiến, chớ không chờ ba mươi năm như chúng ta. Với ba mươi năm, chúng ta có gần 4 lần thế hệ thanh niên, nếu tính trẻ tuổi sung sức là 8 năm, hoặc 2 lần thế hệ thanh niên quân dịch, nếu tính tuổi động viên của một người lính trẻ nhất là 17 tuổi.

Điều buồn nhất cho dân tộc ta là những người trẻ tuổi lớn lên, đi lên, hoàn toàn vì lý do nghĩa vụ chớ không phải vì lý do tự nguyện. Ở Đây hay ở Kia, những người thanh niên giết lẫn nhau, chỉ vì họ có nghĩa vụ phải giết nhau. Nếu không có chiến tranh và nạn phân chia lãnh thổ, rất có thể họ sẽ là bạn thân tâm đắc. Nhưng họ đã giết nhau. Và họ đã được hiểu là, đó là nghĩa vụ chiến tranh cần thiết.

Tuổi trẻ Việt nam chúng ta lớn lên trong cảnh lịch sử đau thương đó, với nghĩa vụ chiến tranh và hòa bình mang nặng trên vai, và sự ngơ ngác tràn ngập tâm hồn. Tới nay, dầu đã có hòa bình giả tạo, tức “phi chiến phi hòa”, với những suy trầm, bất ổn cố hữu : kinh tế đi xuống và các chương trình giáo dục thường có tính chất tạm bợ và hay thay đổi. Mức sống “phồn vinh giả tạo” đã qua, khi viện trợ chiến tranh chấm dứt, làm nhiều gia đình khủng hoảng. Nước nghèo, dân đói nảy sinh ra tệ nạn tham nhũng hối lộ, vì ai nấy đều muốn tranh sống nên đòi hỏi ưu quyền. Nhung đau xót nhất vẫn là sự băng hoại cùng cực của niềm tin. Tuổi trẻ ngơ ngác, rồi bất mãn, vì sự nghi ngờ thiện chí của cha anh. Rồi nảy sinh ra một hiện tượng mới : tuổi trẻ không tin nữa, và sẵn sàng nổi loạn. Đã có biết bao trường hợp tuổi trẻ nổi loạn vì bất mãn, khi thấy cha anh bất lực. Để làm chi ? Để lại rơi vào sự bất mãn khác, do những cạm bẫy chính trị bày sẵn. Loạn lạc, tham nhũng vẫn còn nguyên, tuy nhiều xương máu của tuổi trẻ Việt Nam đã đổ ra để mong cứu vãn.

Tuổi trẻ Việt Nam không có chiếc đũa thần để dập tắt chiến tranh, không cần làm chính trị để diệt tham nhũng. Tuổi trẻ Việt Nam hãy cùng Việt Võ Đạo, làm cách mạng tâm thân để cứu vớt xã hội, cải tạo con người. Tuổi trẻ Việt Nam hãy gieo rắc ánh sáng Việt Võ Đạo ở khắp nơi, tận thôn xã hẻo lánh, tận rừng sâu âm u và khá8p mọi nơi trên thế giới.

“Cách Mạng Tâm Thân”. Một cuộc cách mạng chỉ nghĩ tới sự xây dựng, sự nuôi dưỡng, không máu chảy không xương rơi, không phân biệt giai cấp và màu da chủng tộc. Nếu tuổi trẻ Việt Nam cùng với toàn thể nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới cũng làm cách mạng tâm thân, cùng đi trên con đường mà Việt Võ Đạo đã chỉ hướng, thì đâu có chiến tranh, đâu có tham nhũng, bất công, bóc lột, thối nát, và cộng sản cũng hết đất tốt để gieo mầm …

Nào tuổi trẻ Việt Nam chúng ta hãy nhất quyết làm cuộc cách mạng tâm thân bằng bàn tay thép và trái tim từ ái, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, không ngừng nghỉ…

Một viên gạch muốn tốt phải nung lâu, và khi tất cả những viên gạch cùng tốt sẽ xây dựng được tòa nhà vững chắc bất chấp mọi gió mưa, bão tố.

Một thế giới muốn thái bình, văn minh, một quốc gia muốn an lạc, tiến bộ, một con người muốn giải thoát đau khổ, kém hèn, tìm được ý nghĩa cuộc sống và hạnh phúc làm người, phải liên tục thực hiện cách mạng tâm thân. Đó là cuộc cách mạng của nhân loại hòa đồng, của yêu thương, tự cứu để cứu rỗi.

 

Chương 25: Cách Mạng Tâm Thân – một đạo sống đầy tin yêu xây dựng –Võ Sư

Dương Viết Hùng

Con người là một động vật tình cảm, một phần tử trong cộng đồng xã hội, được sanh trưởng và nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh nhất định, nên luôn luôn nhận chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh và xã hội. Sự nhận chịu ảnh hưởng này đã tác động lớn lao tới mỗi cá nhân trong suốt đời người ; và do đó, đã sinh tạo một ảnh hưởng ngược lại với cộng đồng. Sau một thời kỳ suy nhược lớn lao cần phải có một cuộc cách mạng tâm thân lớn lao để trở thành những con người minh mẫn, hùng mạnh và tiến bộ.

Do đó, mới có trường hợp cả một thế hệ suy đồi hay tiến bộ. Thế hệ thanh niên thời Trần Hưng Đạo khác hẳn với thế hệ thanh niên Trần mạt, dù có một thiên tài chánh trị đứng ra lãnh đạo như Hồ Quý Ly, cũng không thể nào cứu vãn nổi. Lối học cử tử thời phong kiến và lối học thực dụng cá nhân (cần câu cơm) gần đây, chắc chắn phải đào tạo ra một thế hệ trí thức trẻ thích tiến thân bằng đường khoa cử.

Khác với cuộc cách mạng khác, cuộc cách mạng tâm thân lấy ngay con người làm khởi điểm và môi trường hoạt động. Phấn đấu với chính mình, để thêm tốt bỏ xấu, thêm hay bỏ dở, thêm thiện bỏ ác : đó là những nguyên tắc căn bản của cuộc cách mạng tâm thân.

Từ trước đến nay, những hình thức cách mạng con người đều được phân biệt làm 2 loại : tâm và thân riêng biệt. Triết gia, học giả và văn gia thì chú trọng tới tâm, được thể hiện qua những chủ trương tự tu và “tu thân”.

Trình tử, với giai thoại tự tu bằng phương pháp kiểm điểm 2 lọ đậu đen và đậu trắng để chỉ ác và thiện, quấy và phải – mỗi ngày làm được một việc phải, tăng thêm một hạt đậu trắng ; nếu làm việc quấy. Tăng thêm một hạt đậu đen, và ngược lại – đã chú trọng đến “tâm” mà quên “thân”.

Chu Văn An, với thuyết “cùng lý, chính tâm, trừ tà, cự bế” cũng chỉ chú trọng đến “tâm” mà quên “thân”.

Ngược lại, các vị tướng giỏi, các bậc võ sư nổi tiếng một thời, luôn luôn rèn luyện thân thể cường tráng và võ thuật tinh thuần, đã chỉ chú trọng đến “thân” mà quên “tâm”.

Nhưng, có rất nhiều trường hợp tu dưỡng cả 2 mặt “tâm” và “thân” đáng để chúng ta suy ngẫm :

– Mahatma Gandhi, cả tuổi trẻ sống trong nô lệ, bất công và tàn bạo của thực dân thống trị, nhờ tu dưỡng tâm và thân theo phương pháp Karma Yoga, mới có đủ hùng lực đề ra thuyết tranh đấu “bất bạo động”, đã được tôn vinh lên bậc Thánh.

– Nhà bác học Thomas Edison, thuở nhỏ học dốt và kém trí nhớ, nhờ thân mẫu của ông chăm sóc giáo dục cho ông rất chu đáo về cả tâm lẫn thân, đã trở thành một nhà bác học lỗi lạc có trí nhớ mẫn tuệ, say mê làm việc, cho tới khi chết (thọ 84 tuổi) có 2.500 bằng phát minh.

– Cương Điền, thủy tổ Thiền đạo (Zendo), thuở nhỏ là một người yếu đuối, ai cũng nghĩ là “sẽ chết yểu”, đã tự trau dồi tâm hồn và thân thể, trở thành người khỏe mạnh và sống lâu.

– Jigoro Kano, vị sáng tổ Nhu đạo, lúc mới học võ quá yếu đuối và luôn luôn bị thảm bại trong các cuộc giao đấu, nhờ sự trau dồi, luyện tập cả tâm hồn và thân thể, đã trở thành một võ sư sáng tổ một võ phái.

– Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc, trải bao phen tủi nhục trước sự thất bại ê chề của các phong trào cách mạng đương thời và chính bản thân đã gặp bao trở ngại, thử thách từ thuở thiếu thời, nhờ cách mạng tâm thân đã trở thành vị Võ Sư Sáng Tổ Môn Phái Vovinam, bậc thầy khả kính của chúng ta.

Tóm lại, cuộc cách mạng của chúng ta có thể thâu gọn vào một nguyên tắc căn bản : luôn luôn tu dưỡng, trau dồi một tâm hồn minh mẫn, cao cả trong một thân thể hùng tráng, dẻo dai và luôn luôn ” đặt bàn tay thép trên trái tim từ ái “.

 

Chương 26: Mùa xuân trên đỉnh non cao – Võ Sư Nguyễn Chánh Tứ

Bố Mẹ ơi ! Mùa xuân lại về … hạnh phúc cùng khắp trong lòng con, trong lòng bao người cùng lứa tuổi với con, cùng chí hướng với con, cùng ” bàn tay thép ” gắn liền “tim từ ái”. Mùa xuân đem yêu thương, đem tinh thần dân tộc đến người, làm sống lại hào khí ngàn xưa trong tranh đấu sử. Mùa xuân đem võ học rèn luyện “tâm thân”, tạo kiên cường, thịnh vượng cho dân tộc, không khuất phục cường quyền bạo lực, làm sống lại giây phút oai hùng của Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và tuổi trẻ tài cao Đinh Bộ Lĩnh, Trần Quốc Toản…

Bố Mẹ ơi ! Ngày nào đó … cái ngày bố mẹ nhìn con trong đôi mắt lo âu, buồn bực với nhận xét về thằng con đầy vẽ dại khờ, bất lực, sẽ chẳng làm nên trò trống gì, hư thân mất nết…

Ngày nào đó, khi bước chân còn hoang dại, khi tâm hồn chưa định hướng, khi trí não còn mê muội, và thân xác còn trong sự ươn hèn, tự hủy hoại ; đó là hiện thân con người của con – con người của chán chường, trụy lạc – cho cuộc sống là phi lý, tạm bợ, không có ngày mai. Cần gì chọn cho mình một tương lai, một tiến bước, một nghệ thuật làm đẹp cuộc đời, và linh hồn cao khiết, con buông xuôi tất cả, phải không Bố Mẹ ?.

Sự hịc có ích chi, quẳng sách đi, hãy đùa cợt tr6n yên xe Honda bóng nhoáng, hãy tạo cho mình một vết son hiện sinh và hippy ứng hợp với thời đại. Vô tư, sung sướng đến cùng tột trong đời sống phóng nhiệm, cuồng động đó, con bê tha cùng chúng bạn lả lướt trong những chiều nắng nhạt, và chìm đắm trong mê hoặc của tiếng nhạc đêm thâu. Những tưởng cuộc sống náo hoạt đó, kéo dài trọn kiếp.

Nhưng đời ai chẳng có một lần “băng rã” và chính “băng rã” đó đã cứu vớt đời con, tạo cho con những nàgy tháng suy tư để ý thức về cuộc đời. Khi chúng bạn lần lượt rũ áo ra đi, đứa tìm về bên kia thế giới bởi những phút đùa rỡn với tử thần, đứa chết lần mòn trong “ma túy, sì ke”, đứa từ bỏ con khi túi con rỗng tuếch. Chính lúc đó là lúc tâm trí con tự xung đột mãnh liệt, con đang tìm hướng đi của cuộc đời, đời con đang có những ngả rẽ trong chiều hướng “suy tư” và “băng rã”.

Xuân nay lại về… con ghi vào đây bao nhiêu thay đổi của cuộc đời rồi nhỉ ” Con cũng không biết nữa, ở trong con chỉ còn lại những lũng sâu không đáy, đó là dấu vết của những đêm dài suy tư. Suy tư, suy tư… Có gì đâu mà phải quy tư, mà phải dày vò óc não ? Sao không tìm lại những phút hồn nhiên vô tư lự ?

Nếu ai hỏi suy tư để được những gì ? Con se trả lời : ai bảo sinh con ra, trời còn ban cho khối óc, để con mòn mỏi đêm ngày với cái điên cuồng vô lý của chính mình.

Phải rồi, con mệt mỏi, chán ngán, cái mệt mỏi chán ngán ở đây là cái mệt mỏi chán ngán của một buổi chiều oi nắng cô đơn. Con muốn tự bóp chết thân xác, muốn đi ngay vào hỏa ngục để tự thiêu đốt ra tro cáihình hài ghê tởm ngày qua, để giải thóa cho cái linh hồn đang cần gột rửa tinh khiết. Ở đây chính cái thể xác ngục tù giam cầm đày đọa linh hồn, đập tan thể xác như đập tan cửa ngục giải thoát cho tù nhân khỏi tội chung thân.

Tư tưởng con theo từng chuỗi góp thành triều lưu bất tận. Con muốn biết con ra từ đâu và tận cùng của tư tưởng là đâu ?

Đừng quá chật hẹp mà cho rằng có tư tưởng khi con người biết khôn và chấm dứt khi con người chết. dòng tư tưởng tạo nên ở mỗi con người, ngay khi còn là trẻ sơ sinh. Tuy vậy, tư tưởng chính ở luồng gió từ ngoài nhập vào phổi con, để con lớn lên nuôi dưỡng có cho đến trưởng thành.

Sự suy tư không bao giờ chấm dứt khi con người biết nhận thức, khi mùa xuân còn trở lại nâng cánh linh hồn lên cao. cùng với mùa xuân, con đi tìm lại quãng đời đã mất bằng sự học, nhưng nhà trường chỉ cho con đôi chút kiến thức nào đó, không thể biến cải sự ngu ngốc, tủi nhục của con thành trưởng triển, vinh quang : Suy thành Thịnh, Nhược thành Cường, Kinh Sợ thành An Tĩnh. Tất cả sự biến cải đó con có được, đều nhờ ở võ đạo.

Từ khi con bắt đầu lại từ khởi điểm – bước vào trong tận cùng sâu thẳm và lột xác trong màu áo “xanh đại dương” – con đã trở thành một con người hoàn toàn lột xác.

Với những lời uy dũng, đanh thép của Trần Bình Trọng : “Thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc” đã dẫn dắt con vượt qua do dự, ngại ngùng của “sàn đá dắn”. Ngày qua ngày trui rèn tâm thân để trở thành người hữu dụng, vượt thắng mọi đam mê trở ngại thế thường. Nhìn vào tâm tưởng, quá khứ, từ thầy Bé, qua thầy Tuyền, đến thầy Vũ… rồi con đưa tâm linh con trở về nguồn cội : “Hùng Vương”, trong đôi mắt hiền từ của Thầy ánh lên rõ từng nét Bao Dung, Từ Hòa, Nhiệt Tín, biểu tượng cho con người “Đạo thể” giữa hai vòng “âm dương”, mà con mãi mãi kính yêu.

Con không biết mình đã tiếp nhận được gì từ trong những khối óc, những tâm hồn ấy ; con không biết mình đã lãnh hội được gì qua những cử động của chân tay, qua những dánh điệu của thân mình, qua ánh mắt, lời hô, giọng nói…

Nhưng bố mẹ ơi ! điều chắc chắn rằng ngày nay Bố Mẹ nhìn con với cái nhìn âu yếm, hãnh diện, đầy tin tưởng, không còn thất vọng, âu lo như những năm trước.

Bố Mẹ ơi ! Con đã tự tạo được cho mình một tư thế vững chắc, một hướng đi cao đẹp, con đã vững tin ở tương lai, một tương lai được tạo dựng bởi hùng tâm và quyết chí. Con yêu đời, tin người, tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và ý thức trách được nhiệm vụ làm người đối với bản thân, gia đình, tập thể và tổ quốc.

Tất cả những đức tính đó đều nhờ ở “VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO”, ở định luật cương nhu phối triển và ở những ngày tháng “Cách Mạng Tâm Thân”. Cùng với mùa xuân mới, con tự tin bước vào đời, dù với đôi bàn tay trắng, dù trời còn nhiều phong ba bão táp. Con vươn lên với lời hiền hòa châu báu : Tự Chủ, Thành Tín, Bất Khuất và Hy Sinh.

Con người con hôm nay, không còn là con người của những mùa xuân bao năm trước, Bố Mẹ nhỉ ? Con sẽ sát cánh cùng tập thể, tiếp tục hành trình cho tới ngày huy hoàng phải tới. Tinh thần Việt phải trải khắp năm châu, hội nhập vào cộng đồng nhân loại, và Việt Võ Đạo phải trở thành Nhân Võ Đạo.

Bố Mẹ ơi ! Mùa xuân đưa con lên đỉnh non cao… Mùa xuân với nắng ấm dần lên, sẽ làm những người còn sống trong đáy sâu thung lũng dần dà tìm ra ánh sáng.n và con sẽ cố gắng hơn nữa trong sự nhận thức về sứ vụ làm người, làm Thầy luôn luôn nở nụ cười, cho Bố Mẹ tràn đầy hạnh phúc, cho giòng giống Hồng Lạc mãi mãi hùng anh. Dù ngày tháng qua nhanh, con vẫn chân thành hướng về Mùa Xuân Lý Tưởng kính yêu.

 

Chương 27: Đức độ và tài lãnh đạo- Võ Sư Phạm Văn Vỹ

1- TÀO THÁO GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TƯ TÌNH

Tào tháo vốn yêu ca vũ. Trong mọi cuộc trường chinh, trong bản doanh của ông bao giờ cũng có một đoàn nữ nhạc trẻ đẹp ca múa để ông thưởng thức những lúc rảnh việc quân. Trong số nữ nhạc này, ông đặc biệt luyến ái một ca nữ trẻ đẹp, nâng lên hàng yêu thiếp. Nhưng thật éo le, nàng lại không yêu ông mà nặng tình thề non hẹn biển với một vệ sĩ trẻ, đẹp trai của ông.

Câu chuyện tư tình thầm kín đó vẫn qua mắt được Tào Tháo trót lọt, tới khi có một quân lệnh đặc biệt của ông : cử gã vệ sĩ đẹp trai vào đất địch do thám, một công tác vô cùng nguy hiểm khó có thể sống sót trở về. Tới thế rồi, nàng ca nữ không còn cách nào hơn là thú thật mối tình thầm kín của mình, mong được ông tha mạng và tác thành.

Tào tháo ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo :

– Được lắm, nhưng nàng có dám chết cho gã hay không? Nếu chịu chết thay, ta sẽ cho nó trở về nguyên quán.

Nàng ca nữ xin vâng. Ông trao một chén nước trà giả bộ pha thuốc độc đưa cho nàng uống. Không ngần ngại nàng uống ngay. Ông khen :

– Nàng thật chung tình. Thôi, ta thử đó. Nước trà chớ không phải thuốc độc đâu. Đã yêu thương nhau đến thế, ta tác thành cho lấy nhau trở về nguyên quán.

Tới lúc đó, gã vệ sĩ mới lộ rõ bộ mặt sở khanh. Gã từ chối :

– Tiểu nhân đã có vợ, đó chỉ là chuyện yêu đương nhất thời nên tiểu nhân không dám nhận lời.

Nàng ca nữ khóc rồi tự vẫn. Gã được tha về, nhưng các tướng sĩ không chịu đuổi theo bắt giết.

(theo dã sử Trung Quốc)

2-LÊ THÁNH TÔNG THƯƠNG DÂN NHƯ CON

Lê Thánh Tông nổi tiếng thương dân như con. Trông thấy công chúa mặc áo ấm và đẹp, ông nghĩ ngay đến những người dân đói lạnh. Thường vi hành ra đường phố, cởi áo ấm đang mặc cho người dân nghèo. Ông luôn luôn quan tâm tới đời sống tù nhân, ngày đêm nghĩ tới những biện pháp cải hóa và ân xá họ, coi họ là những người dân vì lầm lạc nên mắc vòng lao lý, nên cố gắng hối ngộ họ để họ trở về cuộc sống bình thường.

Mỗi lần giá lạnh, ông thường than :

– Ta ở trong này mà còn rét, huống hồ những người dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, còn khổ biết chừng nào !

Suốt triều đại của ông, ông luôn luôn đề xướng những chương trình cải thiện dân sinh để đời sống quốc dân bớt được phần nào cơ cực.

3- TRẦN HƯNG ĐẠO NẶNG NỢ NƯỚC, QUÊN THÙ NHÀ

An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vốn uất hận Trần Thủ Độ bắt ông phải đổi vợ là bà Thuận Thiên công chúa lấy bà Chiêu Thánh công chúa, vợ của Trần Thái Tông vì lý do tuyệt tự. Lúc sắp mất, An Sinh Vương dặn Hưng Đạo Vương phải trả thù cho mình. nhưng trước họa xâm lăng của Mông Cổ, Vương đã khẳng khái dẹp bỏ thù nhà cùng hợp tác với phe Trần Thủ Độ trong sứ vụ chống Mông Cổ bảo vệ đất nước.

4- VUA SỞ MẤT CUNG

Vua Sở mất cung. Tả hữu xin đi tìm. Vua Sở bảo:

– Vua nước Sở mất cung tức là người nước SỞ bắt được. Sao phải đi tìm?

Chuyện đến tai Khổng Tử, người than rằng:

– Hẹp lượng thay, sao không nói: “Vua nước Sở mất cung tất người thiên hạ bắt được. Sao phải phân biệt người nước Sở với người nước khác!”

NHẬN ĐỊNH

Qua câu chuyện 1 chúng ta thấy: Tào Tháo có bản lãnh khôn ngoan của người lãnh đạo, thủ đoạn đãi ngộ rất cao vì những lẽ:

1- Rất có thể ông biết rõ chuyện tư tình, nên ra quân lệnh như vậy để trừ tình địch, rồi trước phản ứng bất ngờ của nàng ca nữ, ông phải lái cách giải quyết sang một chiều hướng tốt đẹp để chinh phục lòng tin của tướng sĩ theo ông.

2- Dù ông không biết có sự tư tình, cách giải quyết tác thành cho đôi kẻ yêu nhau cũng là một thủ đoạn cần thiết của một thủ lãnh giỏi đối với các tướng sĩ dưới quyền ông để chứng tỏ rằng : ông luôn luôn độ lượng khoan thứ cho những người theo ông, không vì dục vọng riêng tư mà trừng phạt tướng sĩ.

3- Ông chỉ giải quyết vụ án trên nguyên tắc để mặc họ tự tử và bị bộ hạ của ông đuổi theo bắt giết. Hành động của ông, do đó, chỉ có thể dối gạt được một thời, nhưng không dối gạt được lịch sử.

Qua câu chuyện thứ 2, chúng ta mới thấy có sự hòa hợp giữa đức độ và tài lãnh đạo của vua Lê Thánh Tông đối với dân chúng, nhất là đối với những người dân phạm tội. Nếp sống này được phản ảnh bằng tình thương – của một ông vua đối với quốc dân.

Với câu chuyện thứ 3, chúng ta mới thấy nếp sống đức độ được đặt trước một thử thách lớn : nợ nước hay tình nhà. Hưng Đại Vương đã hóa giải hận thù trong trường hợp này : ông đã đặt nợ nước lên trên và tự hóa giải hận thù để chung lo cứu nước.

Mãi tới câu chuyện cuối cùng, chúng ta mới thấy nổi bật lên hai quan niệm về đức độ, tuy không hoàn toàn khác nhau, nhưng ở hai trình độ cao thấp khác nhau.

Nếp sống của người Việt Võ Đạo chính là sự chuốt lọc những tinh hoa của cả 4 nếp sống đức độ và tài lãnh đạo trên, chuốt lọc những trả giá, thủ đoạn, gian hùng, lấy tình thương hóa giải hận thù, và đồng thời luôn luôn tu dưỡng lòng nhân ái để áp dụng vào thực tại đời sống giữa người với người, hầu hướng dẫn, điều động người. Đó chính là định hướng của Đức Độ và Tài Lãnh Đạo theo quan niệm Việt Võ Đạo.

 

Chương 28: Đôi mắt – Võ Sư Nguyễn Văn Hóa

Tâm hồn là phần âm của con người, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy một cách trừu tượng. Trái lại với thể xác, chúng ta có thể nhìn thấy trực tiếp. Và hai phần vụ trên đều được nhận thấy bởi một khí cụ quan trọng, đó là Đôi Mắt.

Đúng, đôi mắt là một giác quan, con người dùng để nhận xét cũng như học hỏi. Vậy, bây giờ chúng ta hãy dùng đôi mắt để nói đến một khía cạnh nhỏ của xã hội, vấn đề mà con người thường đề cập – đó là Thanh Niên Hiện Đại.

“Thanh niên” họ là gì ? – Họ là những người trai trẻ được lớn lên trong xã hội và chuẩn bị để thay thế cho thế hệ tiền nhân. Bởi thế, một xã hội tân tiến, văn minh có một sức sống mãnh liệt hay một xã hội suy đồi, đảo lộn, kém mở mang đều được nhìn thấy qua sự học tập và làm việc của họ.

Tuy nhiên, trong một cộng đồng không bao giờ chỉ có một loại người mà chỉ có loại người tốt nhiều hơn người xấu, hoặc ngược lại mà thôi. Do đó, một xã hội văn minh se có nhiều thanh niên tốt, biết học tập và làm việc hơn là những phần tử ăn chơi phá hoại ; và cũng vì vậy mà một xã hội suy đồi sẽ có nhiều thanh niên lêu lỏng trác táng hơn những thanh niên có ý hướng sống.

Tại sao lại có những loại thanh niên đó ? – Có rất nhiều lý do để trả lời ; tuy nhiên, một vấn đề cần yếu nhất để giải đáp là sự giáo dục của xã hội cũng như gia đình.

Ở xã hội, họ có học đường, đoàn thể để giáo dục. Ở gia đình họ có cha mẹ, anh chị là những người đi trước để hướng dẫn. Và học trở thành những thanh niên tốt hay xấu đều do bởi sự giáo dục đúng hay sai, hay hoặc dở, phải hay quấy mà thôi. Việt Võ Đạo là một đoàn thể lấy việc giáo luyện tâm thân con người làm chủ hướng. Vậy, Việt Võ Đạo đã giáo dục như thế nào, đã đào tạo nên những thanh niên có ý hướng sống hay những thanh niên chỉ biết lo cho mình và ăn chơi trụy lạc? Đó là một câu hỏi nếu ta chưa là một Việt Võ Đạo sinh hay ta chỉ là một võ sinh mới nhập môn còn băn khoăn thắc mắc đặt ra.

Để trả lời câu hỏi trên, trước mắt chúng ta hãy đặt trường hợp sự giáo dục của gia đình chưa đúng lắm, chưa được đầy đủ, tinh thần mình còn yếu đuối, hễ thấy việc khó khăn là rụt đầu le lưỡi, thân thể mình ốm yếu, bệnh tật, không làm nên những việc nhỉ chứ đừng nói đến việc lớn… Tất cả những sự hèn yếu, kém cỏi đó sẽ được loại bỏ dần, nếu chúng ta được sự giáo dục đúng mức bởi đường hướng Việt Võ Đạo. Chúng ta có thể xác tín rằng Việt Võ Đạo giúp ích cho con người cả hai phần vụ : tinh thần và vật chất, tâm hồn và thể xác. Việt Võ Đạo đào tạo những thanh niên có một thân thể khỏe mạnh, một trí tuệ minh mẫn, một tâm hồn cao thượng ; nhờ vậy, những loại thanh niên đó mới có ý hướng sống và giúp ích xã hội.

Thanh niên Việt nam với trách vụ kiến tạo hòa bình, xây dựng đất nước, chúng ta hãy tìm hiểu và phán xét những cái hay để học hỏi, những sự tốt để theo, những điều đúng để thực hiện. Muốn được như vậy, chúng ta phải dùng mắt để nhận xét, dùng óc để phân tích, dùng thân xác để thực nghiệm, hầu có thể trở thành những con người toàn diện, những con người có ích cho xã hội, nhân quần.

 

Chương 29: BÀN TAY VÀ KHỐI ÓC – VS TRẦN VĂN NHIÊU

Người ta thường nói “bàn tay khai phá”, bàn tay xây dựng” chính là để biểu hiện cho toàn thể dũng lực của con người khi đảm lảnh trách nhiệm:

“Tôi sẽ ngã như người lính trận

hai bàn tay chết cứng

vẫn ôm cờ”

(Trần Dần)

Bàn tay còn biểu hiện cho sức lao động của con người qua những câu thành ngữ “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “tay có làm, hàm có nhai”… Tại Ai Cập, tục lệ cổ “chặt bàn tay” dành cho những kẻ trộm bị bắt quả tang, cũng mang ý nghĩa “trừng phạt sự lợi dụng khéo léo của bàn tay vào những công việc bất chính”.

Bàn tay cũng đồng thời biểu hiện cả sinh hoạt tình cảm của con người qua những cử chỉ “bắt tay”, “chào kính” v.v…

Sau hết, bàn tay còn biểu hiện một thứ ngôn ngữ đặc biệt trong mọi sinh hoạt văn hóa, xã hội, quân sự v.v… qua những thủ hiệu, tín hiệu v.v… phát ra.

Điều động và khai thác được tất cả hiệu năng của bàn tay chính là khối óc, vì khối óc biểu hiện cho ý thức con người. Có thể dùng một biểu tượng điển hình: võ thuật được ví như bàn tay, võ đạo được ví như khối óc. Do đó, võ thuật cần được điều dụng bởi võ đạo; và nếu được sự điều dụng chính xác sẽ đem lại nhiều giá trị tuyệt vời trong lịch sử. Một vài gương sáng võ thuật, võ đạo trong lịch sử:

Yết Kiêu, Dã Tượng là 2 viên dũng tướng, nhưng yếu về mưu lược, hai ông là người giỏi về võ thuật nhưng thiếu ý thức võ đạo (dụng võ). Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão là những người văn võ kiêm toàn, có ý thức dụng võ rõ rệt, nên đã đem lại cho võ học một sinh khí mới của nếp sống tiền Việt Võ Đạo.

Trần Bình Trọng khẳng khái thà chế không hàng giặc, Trần Quốc Toản đòi dụng võ cứu quốc, Nguyễn Cao mổ bụng moi ruột quấn vào ngón chân cái, căn lưỡi, tự đâm mù mắt không hàng Pháp (thống sứ Bihourd), là những người biểu hiện tinh thần võ đạo trong sự nghiệp cứu quốc.

Tôn Tẫn, Bàng Quyên cùng học qủy Cốc Tử. Bàng Quyên chỉ học được cái “thụât” nên trở thành một viên tướng gian hùng. Tôn Tẫn học được cái “đạo” nên trở thành lương tướng, để lại công nghiệp lớn lao cho hậu thế. Quan niệm dụng võ của Tôn Tẫn là quan niệm võ đạo. Quan niệm dụng võ của Bàng Quyên là võ thuật. Từ thuật đến đạo phải xuyên qua một ý thức căn bản: Ý thức hệ và đạo đức dụng võ.

 

Chương 30-Đôi lời với các bạn mới nhập môn Việt Võ Đạo – VS Phạm Quang Trung

Các bạn mến,

Khi các bạn khoác vào mình bộ võ phục màu xanh đại dương, chắc các bạn đều mong ước : đạt tới cao độ của nghệ thuật.

Điều kiện tiên quyết để đạt được mục đích đó không quá khó khăn mà chỉ đòi hỏi ở bạn một sự thường xuyên luyện tập và luyện tập đúng phương pháp.

Thế nào là thường xuyên luyện tập ?

Thường xuyên luyện tập ở đây không phải là suốt ngày bạn cứ phải luyện phải tập, mà chỉ cần bạn mỗi ngày đều bỏ ra chút ít thời giờ để ôn luyện lại những gì mà bạn đã học hỏi ở võ đường.

Thế nào là luyện tập đúng phương pháp ?

Chắc các bạn đều biết rằng muốn xây một căn nhà có nhiều tầng, điều quan trọng nhất là phải tạo một cái nền cho thật vững chắc để khi xây cất lên cao mới không sợ bị nghiêng, đổ.

Cũng vậy, nếu muốn tiến xa trên con đường võ thuật, chúng ta cũng phải tự tạo một căn bản võ thuật vững chắc ngay lúc ban đầu, nếu không muốn bị “tẩu hỏa, nhập ma”. “Tẩu hỏa, nhập ma” ở đây cũng giống như căn nhà xây cất nửa chừng bị nghiêng, đổ vậy.

Tự tạo một căn bản võ thuật ở đây không phải là chúng ta phải tìm tòi học hỏi những đòn thế trên trình độ chúng ta, mà chúng ta luôn luôn luyện tập lại những lỗi chém sỉa, gạt, né tránh, đấm, đá, lên gối, cùi trõ căn bản của những buổi tập đầu chi thật thuần thục, vì đó chính là đơn vị gốc của mọi đòn thế.

Nhiều bạn có những quan niệm rất sai lầm là thích học nhiều đòn thế mới mà ít chịu ôn luyện lại những đòn thế cũ. Kết quả không đòn nào ra đòn nào, lam nham như gà bới rác, và đến khi hữu sự lãnh lấy thất bại lại đổ lỗi tại đòn thế không hay. Ôi, thật là tai hại!

Tóm lại, để tránh những điều đáng tiếc trên xin bạn hãy cố gắng, một sự cố gắng trung bình để thực hiện hai điều :

– Thường xuyên luyện tập.

– Luyện tập đúng phương pháp.

Và như vậy, các bạn sẽ dễ dàng đạt tới cao độ của nghệ thuật.

Chúc các bạn thành công.

 

Chương 31-Một bức tâm thư – VS Đặng Hữu Hào

Kính Thầy,

Tối nay, con vừa từ võ đường về Tòa án lúc 11 giờ. Nằm mãi không thể nào chợp mắt được, vì con quen thức rồi. Nằm miên man suy tưởng vu vơ, chợt hình ảnh Bao Dung, Khoan Hòa, Hùng Liệt, Uy Nghi của Thầy cứ nhảy múa trong đầu con và rồi hiện ra thật rõ rệt.

Con thấy như ngày nào, Thầy đang đứng trước mặt con mà ân cần, dặn dò, chỉ bảo, thật thiết tha, thật trìu mến. Con thấy miệng Thầy đang rộng mở như cao giọng thốt lời quả quyết, đanh thép, dạy dỗ chúng con “các em, các con phải như thế… nhất định phải thế… Tổ Tiên Việt Nam Anh Dũng Vô Cùng… Người Việt Dẻo Dai Vô Cùng… Võ Việt Biến Hóa Vô Cùng…” “Vô Cùng Dẻo Dai Anh Dũng” là điệp khúc quen thuộc mến yêu mà anh em chúng con thường được nghe mỗi khi Thầy giảng dạy. Cả tiếng gót giày của Thầy cũng như vang vang bên tai con làm con không thể ngủ được. Đôi giày mũi tròn có đế thật to mà chúng con lâu lâu lại được Thầy nhẹ nhàng thương mến “Triệt Chân” một cái để mà nhớ mãi.

Con nhớ mãi những ngày phụ trách lớp Đào Tạo Huấn Luyện Viên / Việt Võ Đạo / Cảnh Sát Quốc Gia tại Trường Trung Cấp Cảnh Sát Quốc Gia năm 1967 – 68. Thời gian ấy là lúc mà con được theo sát bên Thầy nhiều nhất để học hỏi mà tiến bộ, công việc Huấn Luyện, cũng như Tập Tành. Con nhớ hôm Thầy dạy cách nắm tay cho đúng, con đã Ê Quai Hàm cả ngày sau và lần Thầy dạy Đòn Đắm Thẳng: Thầy đưa tay thật chậm chạp nhẹ nhàng như ướm một bông hoa vào bụng con, thế mà không hiểu tại sao con thấy có BOM nổ trong bụng. Ly cà phê sáng vọt lên miệng mũi làm con phải nghiến răng nuốt trở vào và đến một phút sau thấy sự việc xung quanh, con mới biết thì ra mình vẫn còn đứng vững chịu đòn làm mẫu… Thầy đã lao tâm tổn trí rất nhiều, ngày nay chúng con mới được nên người có tâm hồn, ý chí, gắng noi gương tiền nhân để trở thành những người Việt Kiêu Hùng, Khả Ái…

Con nói thật một điều có vẻ khôi hài, Thầy tha thứ đừng cười con: Đêm nay không hiểu sao con nhớ Thầy quá, Nhớ Thầy đến độ tưởng chừng muốn về ngay bên chân Thầy để được nghe Thầy La, Mắng, Rầy, Chê,Khuyên hay chẳng được Thầy nói gì đến cũng được… Tuy nhiên con cũng nghĩ rằng giờ này hay giờ khác, nơi này hay nơi khác chắc chắn có nhiều Môn Đồ vọng hướng về Thầy và Môn Phái với Bao chìu-kính, Khắc Khoải như con và hơn con…

Thưa Thầy, bây giờ có lẽ con sẽ ngủ được dễ dàng sau khi tốc mền dậy ghi thư này kính gửi Thầy. Xin phép Thầy con đi ngủ. Có lẽ con sẽ mơ thấy nụ cười Bao Dung, Từ Ái của Thầy…

1 giờ 30 09-10-1974

 

Chương 32-Cánh thư cho mẹ – VS Nguyễn Ngọc Phước

Kính lên Mẹ

Và ưu ái đến các bạn HLV xa Mẹ…

Mẹ !

Thường ngày con vẫn đi dọc theo con đường trải đá nhỏ, hoa dại rụng từng cánh trong gió mùa thu. Màu hồng nhạt mong manh trong mây chiều buông xuống nhẹ nhàng theo những bước chân con đi.

Thỉnh thoảng con mỉm cười với các võ sinh của con gặp ngoài đường, cùng đi đến võ đường như con. Nụ cười như muốn thể hiện tất cả niềm vui bé bỏng của họ làm con xúc động. Làm sao con quên được những khuôn mặt, những ánh mắt hân hoan đó, chân tình gần như phủ kín hồn con.

Con đến lớp học, mọi người đứng trang nghiêm và chào con trước mỗi giờ học, như những lần con thưa Mẹ để đi học hoặc lúc về.

Con bắt đầu huấn luyện, học trò con ở dưới đó, ồ không thể gọi thế được Mẹ ạ, vì có người lớn gấp đôi tuổi con. Chiều nay con dạy thêm về lối khóa gỡ cơ bản, sang phần võ đạo, con nói cho các võ sinh nghe về vị Sáng tổ của con, một thanh niên Việt nam đầy nhiệt huyết, từ năm 1938 đã vạch một đường hướng cách mạng mới : “Cách Mạng Tâm Thân”, và con giảng rõ hơn về ý nghĩa “bàn tay thép đặt trên trái tim từ ái”.

Họ say mê nghe, con say mê nói…

Nhìn họ hăng hái tập luyện, lưng áo ướt đẫm mồ hôi, hoặc nhỏ từng giọt trên những gương mặt hồng hào. Những bàn tay tuy chưa cứng cáp, thân thể chưa uyển chuyển để ngã (té) đúng mức theo lối “cương nhu phối triển”, họ còn bị đau Mẹ ạ, nhưng học vẫn vui cười khỏa lấp những mệt nhọc…

Vì lớp học Vovinam này là nơi mang cho họ niềm hãnh diện, tạo họ thành những trai hùng tráng, gái anh thư mà Mẹ.

Bằng những giờ này, con còn giữ liên lạc với họ qua các buổi sinh hoạt, họp trong ngày Chúa nhật và ngày lễ.

Hết giờ học, họ như đàn chim vỡ tổ ; thay đồ xong mỗi người đi mỗi ngã. Sau một buổi dạy hàng mấy lớp như vậy con cảm thấy mệt.

Tuy thế, con chỉ vui được trong ngần ấy giờ ở võ đường thôi Mẹ ạ, rồi con lại lang thang bên những hàng cây trở về ngôi nhà nhỏ đủ để trú thân, cách xa mấy cây số.

Con nhớ Mẹ quá, cả anh chị và các em con nữa. Có lúc con buồn thấm thía đó Mẹ.

Mẹ !

Ngày trước con bị ảnh hưởng bởi nếp sống gò bó và nghĩ rằng ngày nào đó con phải xa Mẹ để bước chân lên xe hoa về nhà chồng, rồi con sẽ làm những việc trong gia đình nhà chồng như hồi đó Mẹ 9ã làm đối với ông bà nội con. Đó là bổn phận dâu con trong gia đình.

Nghĩ như vậy, nên con thờ ơ với tương lai, không thèm chuẩn bị cho nó những hành trang gì cần thiết.

Nên từ khi con mới vào đời, cuộc sống vô cùng gian nan gắn liền với con, con đã nếm đủ cay đắng. Nhiều lần đứng lặng yên trước những biến đổi, con cố chịu đựng, thất bại đến với con như những lằn roi Mẹ thường vụt xuống trên người con mỗi khi con lầm lỗi.

Con không còn được khóc như thuở bé, để rồi sau đó được Mẹ an ủi, vỗ về nữ Mẹ ạ.

Giờ con buốt tê trong cuống tim, nhói đau trong lòng ngực, mà nào có ai ở bên con, để con được những lời dịu dàng khuyên nhủ. Trong một thoáng con bùi ngùi nhớ lại cuộc sống xưa bên gối Mẹ :

Nhớ lời Mẹ khuyên làm con gái phải lo công dung ngôn hạnh. Mẹ ghét cái hoạt bát của đứa con gái. Hoạt bát theo Mẹ có nghĩa là nói năng trôi chảy, lý luận vững vàng, thuộc loại “ưa nói, ưa cãi”. Mẹ bảo con gái mà “ưa nói, ưa cãi” là hỏng. Mẹ nghĩ con gái càng nói lắm càng mất đi nhiều cái duyên dáng đáng yêu.

Mẹ muốn con gái phải biết lặng lẽ, kín đáo, e dè. Nhưng Mẹ lại không quá cổ, lúc xin Mẹ cho con học Vovinam, Mẹ không mắng là con gái không nên học võ, còn khuyến khích con nên học võ của người Việt nam và hãy cố gắng rèn luyện phòng thân nữa.

Trong những lần con nản lòng, vì có hôm bị trật tay, sưng chân, Mẹ phải mất thì giờ an ủi, vuốt ve, thoa bóp cho con.

Những kỷ niệm đó thật êm đềm, nhẹ nhàng như chiếc lá chao theo chiều gió, những kỷ niệm mang nhiều nhớ thương và ray rứt.

Nhờ có Mẹ, theo thời gian trôi qua… năm năm trời rồi Mẹ hả, con vẫn còn tiếp tục đến ngày nay tuy có xa cách Mẹ. Con đã trở thành một Huấn Luyện Viên mang tinh thần võ đạo và võ thuật của môn phái ra để huấn luyện thế hệ mầm non của đất nước.

Nước nhà chậm tiến, con sẽ cố gắng rèn luyện tâm hồn cũng như thể xác, để tạo cho họ thành những người hữu ích cho Quốc gia, Xã hội, Mẹ há!

Trong những giờ dạy võ này, con sống lại được bầu không khí thân mật ngày xưa bên mái ấm gia đình. Một cảm giác kỳ lạ dâng cao trong lòng, làm con thoải mái với cái tuổi hồi nhỏ, nhiều mộng ước. Nhưng mỗi khuya, cảnh tượng lặng lẽ, cánh cửa đóng kín như quay lưng bỏ lại con một mình đối diện với đêm đen, con lại nhớ Mẹ, lòng con bỗng dưng bồn chồn thôi thúc con văn ôn võ luyện hơn.

Mẹ !

Con tự nghĩ mình là thiếu nữ của một nước chiến tranh và tang tóc thì phải tự tạo, tự vươn lên để sống. Mang ý nghĩa đó nên con càng công trau dồi cho trọn vẹn ý của Mẹ.

Mẹ ơi, làm người ai cũng có hoài bão và ước vọng riêng, nhưng tìm cho mình một con đường đạt tới lý tưởng tốt đẹp đó thì chắc là khó hả Mẹ, vì sự mơ ước là tuyệt đối, còn thể hiện chỉ là tương đối.

Riêng đối với Việt Võ Đạo đã vạch sẵn một lối đi nhằm đào tạo những con người toàn diện, những con người đầy đủ bản lãnh, đức độ và tháo vát.

Mẹ cứ tin rằng con đã hạnh ngộ chọn đúng con đường làm vinh nhà thịnh nước.

Mong gặp lại Mẹ trong đôi mắt bừng sáng, để Mẹ hãnh diện với đứa con gái của Mẹ không còn gầy ốm, bệnh hoạn, mà là một thiếu nữ khỏe mạnh, lanh lẹ, bặt thiệp sau một thời gian chờ mong Mẹ há !

 

Chương 33-Thư xuân gởi bạn – VS Lê Hữu Thanh

Bạn mến,

Những lúc rảnh rỗi, bạn có bao giờ ngồi trầm ngâm suy nghĩ về tương lai của chính mình không? Bạn hãy thử nhìn lên bầu trời cao rộng và xanh thẳm kia, hãy ngắm những đám mây trắng bồng bềnh kia ; trong những lúc ấy, bạn có cảm thấy một nỗi buồn man mác trôi nhẹ vào tâm hồn của mình không, cũng như những đám mây trắng kia đang trôi lang thang, dật dờ về nơi vô định, trong cái không gian bao la vô tận mà chân trời xa thăm thẳm kia đã vô tình cản lối…

Nhưng không biết nỗi buồn ấy từ đâu đến nhỉ? Có phải bạn buồn vì tiếc cho thời gian trôi qua nhanh chóng, tiếc cho bao mùa xuân đến rồi đi, tiếc cho ngày xanh đã qua không bao giờ trở lại? Hay là bạn buồn cho tương lai của chính mình, một tương lai thiếu nhiên liệu để vươn lên, buồn cho số phận kém may mắn, học thức kém cỏi, tầm thường, lại thiếu hoàn cảnh theo đuổi việc học. Do đó, bạn cảm thấy thua kém mọi người rồi sinh ra nản chí ư? Sao bạn lại lẩn thẩn như vậy ! Bạn phải biết rằng không phải chí có học thức cao mới có tương lai, và học thức cao cũng không phải là yếu tố quyết định sự thành công trong đời bạn đâu. Sự thành công trong đời bạn chính là cái ý chí, nghị lực khắc phục mọi khó khăn của hiện tại, kiên trì nhấm hướng tới tương lai. Và đó mới là yếu tố quan trọng, đưa bạn tới thành công.

Hơn nữa, bạn hãy còn trẻ lắm, đời bạn còn dài, chưa có gì gọi là muộn màng, chưa có gì gọi là thất bại cả. Tương lai của bạn chính là ở trong tay bạn đó, bạn hãy chuẩn bị ngay từ bây giờ đi, hãy cố gắng vươn lên, vượt thắng mọi nghịch cảnh của hiện tại, để tạo dựng tương lai.

Xuân đã về ! Bước sang ngày mới, bạn và tôi, chúng ta hãy phấn đấu để cải tạo nghịch cảnh, hãy nuôi dưỡng ý chí, nghị lực, vì nó là ý sống, là yếu tố giúp ta tiến tới thành công. Hãy đốt lại ngọn lửa tin yêu và nhiệt thành của tuổi trẻ, để nó tinh khiết hóa tâm hồn ta, nung ý chí và rèn tư cách của ta. Hãy cố gắng tự học, hãy sống thật, sống nhiều với tất cả năng lực con người của chính ta, để mở rộng kiến thức, để cảm thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa, và thế nào là một hạnh phúc chân chính, vì sự học ngoài mục đícj vạch hướng đi cho tương lai, còn có mục đích khác là đi tìm hạnh phúc.

Bạn mến,

Xuân đã về ! Trên bầu trời xanh thẳm, những đám mây trắng kia hình như dừng lại, không trôi nữa. Trên cành cây cao, tiếng chim oanh hót líu lo, những cánh mai vàng khẽ rung trước gió ; làn gió thoang thoảng, nhè nhẹ mang theo cái hương vị đặc biệt của mùa Xuân, của ngày Tết, đem lại cho cây cỏ, trời đất một sự thay đổi đáng yêu, lòng người thêm phơi phới, nhẹ nhàng. Vạn vật như đua nhau sống lại trong tiết Xuân đầm ấm. Vậy thì bạn và tôi, chúng ta hãy để cho những nỗi sầu tư, thất vọng trôi theo quá khứ. Hãy thay đổi tâm hồn, thay đổi thân chất cho đẹp hơn, tốt hơn và hy vọng ở tương lai, một tương lai tươi sáng, rực rỡ như cái rực rỡ chan hòa của ánh nắng mùa Xuân và đáng yêu như cái vẻ đẹp tươi tắn của cỏ cây, trời đất vậy.

 

Chương 34-Tâm sự một ngời khoác áo màu xanh – VS Lê Đức Phẳng

Đã hơn bốn năm rồi chư huynh đệ ạ ! Đã hơn bốn năm tôi chọn con đường này ; con đường mà tôi nghĩ là “tốt đẹp”. Giữa một thành phố chật hẹp, ngột ngạt, đầy dẫy cạm bẫy là Sài Gòn. Tôi đã đến với một môn phái, với quý thầy, quý huynh đệ trong sự non nớt, vụng dại của một con người bình thường như biết bao người khác.

Ngày xưa, tôi chỉ là một chú bé mảnh khảnh tôm hồn yếu đuối, sợ sệt trước đám đông, bị bạn bè lấn át, chèn ép, hiếp đáp. Ức cũng lắm, mà hận cũng nhiều, muốn trả thù cho bỏ giận, lại không dám đánh nhau, vì tôi bé hơn họ, cô đơn hơn họ ; bởi lẽ họ đông còn tôi chỉ có một mình trơ trọi. Lại thêm, nếp sống của gia đình không cho phép, bởi bố mẹ tôi luôn luôn xử sự rất tốt với bà con xóm giềng và sẵn sàng chịu thiệt về mình, nên cứ có lộn xộn là không cần biết biết đến phải trái, lôi luôn con mình về đánh trước là xong. Do đó, tôi hay bị đòn oan, để tụi bạn bè quái ác chung xóm được thể chọc phá tôi hơn.

Bố tôi, xuất thân là một ký giả, lương tuy không đủ xài, nhưng ông luôn chứng tỏ là người siêng năng, cần mẫn lúc nào cũng làm việc không ngừng. Với bao nhiêu cố gắng tận tụy, cuối cùng gia đình tôi cũng dành dụm được một số vốn nho nhỏ. Ông mua máy và mở nhà in cỡ nhỏ. Vốn ít, thiếu thốn vật dụng, không tiền mướn thợ, cả gia đình phải làm việc cặm cụi. Chúng tôi sáng học, chiều tối ở nhà làm việc, không ăn quà, ngày lấy hai bữa ăn làm chính. bố tôi thấy cực, không ngớt lời khuyên bảo, khuyến khích với câu tục ngữ :

“Đại phú do thiên, tiểu phú do cần”. Mà quả thật vậy, gia đình tôi dần dần khấm khá ; lúc đó còn bận việc nhà tôi chưa thể xin đi học võ được, tuy trong lòng vẫn luôn ấm ức. Còn nhớ một ngày vào khoảng tháng 9 năm 1970, mức sống của gia đình tôi tạm “đủ bát ăn” và được dư thừa đôi chút, nên tôi mới dám xin bố cho phép “đi học võ”. Thứ nhất, vốn bản tính rất ham chuộng võ thuật lại được châm thêm những lời tán dương của các anh chị em thân thuộc, làm tôi càng thích thú nhiều hơn.

Mới đầu, bố tôi không thuận, lấy cớ sợ tôi đánh lộn tùm lum gây chuyện rắc rối với xóm giềng, mang thêm phiền phức. Sau, nhờ các chị tôi quá thương em với tình máu mủ ruột thịt, thường xót xa thấy em mình bị đánh, mới cố gắng khuyên can xin bố, để cho tôi đi học võ, nhưng với điều kiện là không được xao lãng học hành và chỉ xem đó là một môn học giải trí mà thôi.

Lần đầu bước vào sân tập, thùng thình trong bộ võ phục, tôi thật ngỡ ngàng biết mấy khi không biết thắt sợi đai, rồi còn ngại ngùng thấy người ngoài đứng ngó. Những danh từ võ học thật xa lạ, những động tác gạt, chém khó khó khăn lần lượt tôi được tập làm quen. Phải thấy vất vả của thầy sửa từng cách nắm tay vụng dại , hiền từ và nghiêm nghị giảng dạy từng động tác đòn thế, lo lắng theo dõi từng môn sinh tập luyện mới thấy tình thầy dành cho học trò bao la rộng rãi biết chừng nào.

Có những buổi chiều tập luyện mệt nhọc, chúng tôi xoa bóp và khích lệ lẫn nhau. Đôi khi có một vài bạn lơ đễnh trò chuyện, nhìn sang lớp cạnh bên , không chú ý nghe lời thầy giảng. Từ tia mắt tỏa ra niềm trách móc của thầy, tôi chợt hối hận, muốn xin lỗi thầy, nhưng ngại ngùng làm sao ! Giờ thì vị võ sư ấy đã được môn phái cử đi xa, tôi chỉ biết gỡi đến người qua làn gió thoảng đưa tin.

Thỉnh thoảng, thầy Chưởng Môn lại lên dạy một lần, dáng người mập mạp, quắc thước, uy nghi. Nhìn vào thầy, tôi thấy toát ra một cái gì là lạ, làm cho tôi kính sợ. Lúc đó, không hiểu sao đột nhiên tôi tập hăng say, đánh thật mạnh, té thật mạnh, đôi khi có hơi trầy da sứt chân một ít cũng không thấy đau gì. Phải chăng linh hồn tôi đã bị hấp lực của thầy cuốn hút, nên không còn cảm xúc bình thường ? Thầy giảng, tôi chăm chú nghe như một con chiên ngoan đạo uống từng lời, khắc sâu vào tâm khảm.

Rồi thời gian qua, ngày tháng thêm chất chồng, tôi lớn lên, phải gánh vác phụ việc bố già. Rồi phải học thêm nhiều sách, nhiều ngành chuyên môn, bớt rảnh rỗi đi nhiều. Trong thời gian dài đó, quý thầy, quý vị huấn luyện cũng đã ra công thông suốt và tài bồi cho tôi trở thành một huấn luyện viên, để tiếp nối con đường quý thầy đã ra công vun đắp.

Giờ thì đã trên bốn năm rồi, mải lo luyện tập học hành, ý nghĩ thù hận ngày xưa tiêu tan lúc nào không biết. Tôi thấy thật lạ lùng, và nghĩ rằng những người ngày xưa đó không đáng cho tôi trách cứ. Tôi cũng không hiểu cơ duyên nào đưa đẩy, biến đổi được tánh ý và cả sự thù hận của tôi ? Tôi suy tư,, tôi đặt vấn đề và tôi tự tìm thấy lời giải thích.

Ở học đường : tôi được nghe thầy dạy nhiều về các môn học : Toán, lịch sử, đất đai, địa lý, các khoa học thực nghiệm về tiến triển của con người. Chúng tôi vào lớp là ghi chép, là làm bài, góp bài, trí óc luôn ám ảnh với những con số, những công thức, những phương trình hàm số v.v… Nhưng thực tế, xét cho cùng các môn học này đã giúp gì cho tôi cải tạo tư tưởng chưa? Cho tôi bỏ thù hận chưa ?

Ở gia đình: đành rằng tôi được bố mẹ răn dạy, nhưng mà sự răn dạy ấy chỉ giới hạn trong một phạm vi đó mà thôi. Bố mẹ tôi còn phải bận lo sinh kế, lo tiền cho anh em tôi cắp sách đến trường, lo có gạo thổi cơm ngày hai bữa, và đã tin tưởng phó thác chúng tôi cho học đường…

Ở võ đường thì sao? Ngoài phần võ thuật rèn luyện cho tôi những kỹ thuật tinh vi để tự vệ hiệu quả, còn trau dồi về tinh thần võ đạo, với các phương châm tu dưỡng và hành xử đã giúp tôi có một nhân sinh quan đứng đắn, minh bạch, biết xử thế một cách ý thức và phóng khoáng hơn. Điểm quan trọng là thầy Chưởng Môn, từng chút một người tận tình chỉ bảo, giảng dạy cho chúng tôi từng cách đứng, điệu ngồi, cư xử, giao tế với tất cả mọi người chung quanh, bằng những thí dụ cụ thể của chính cá nhân thầy và các danh nhân trên thế giới, hầu giúp đỡ chúng tôi hiểu được tâm lý quần chúng và thành công trên đường đời. Vẫn chưa yên dạ : người lại tổ chức thêm những khóa đặc huấn kỹ thuật chỉ huy, giảng dạy sâu rộng lý thuyết võ thuật, võ đạo, với chủ thuyết cách mạng tâm thân để mong đào tạo chúng tôi thành những người đa năng, đa dụng, luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh và sẵn sàng đem bầu nhiệt huyết làm sáng đẹp quê hương.

Xem vậy, không riêng tôi chắc quý chư huynh đệ cũng công nhận rằng môn phái đã ảnh hưởng thật sự tới tư tưởng, tánh tình tôi không ít, cải biến tôi từ một người ù lì, sân si, thù hận thành lanh lợi, tháo vát và vị tha, cao thượng hơn.

Thừa hưởng di sản tinh thần ấy, không riêng tôi mà cả các chư huynh đệ, đồng môn, đồng đạo phải có trách nhiệm với môn phái, với thầy. Chúng ta phải xử sự sao cho hợp lý, cho khỏi phụ hảo ý của thầy, khi đào tạo chúng ta. Chúng ta sẽ phải hành động thế nào để nói lên ý hướng ấy ? Theo tôi, không gì hơn là chúng ta hãy tiếp tục con đường mà các thầy đã vạch, hãy đền trả công ơn cho thế hệ đàn em tương lai của dân tộc, hãy giúp họ trang bị đầy đủ hành trang bằng những kinh nghiệm quý báu, và cố gắng học hỏi những kiến thức mới lạ mà chư huynh đệ thu đạt được, hầu làm vinh danh môn phái trong cộng đồng nhân loại. Đó mới là cách thức trả ơn thầy XỨNG ĐÁNG NHẤT.

 

Chương 35: HỨNG KHỞI – Võ Sư LÊ THANH LIÊM

Có sống trong những cảnh ngộ éo le mới biết được bản ngã của mình. Có sống đúng cảnh ngộ kẻ khác mới biết rằng mọi sự phê phán của ta đều trở nên ngu xuẩn, lệch lạc.

Cuộc sống của ta, từ tư tưởng cho đến hành động đã bị mọi ước thúc, mọi thành kiến của xã hội chi phối. Mặc một chiếc áo rách, ta có cảm tưởng bao nhiêu cái tầm thường của ta đều hiện rõ trên chiếc áo ấy. Khoác một chiếc áo đẹp, ta tưởng rằng dưới mắt mọi người, ta là một người đầy đức tính tốt đẹp. Và ta cứ chìm đắm mãi trong những thành kiến ngu xuẩn đó, vẫn xấu hổ những cái không đáng xấu hổ và hãnh diện vì những cái tầm thường, vẫn là những con múa rối cử động theo sự điều khiển của kẻ giật dây. Nghĩ mà buồn cười…

Có sống trong cảnh thiếu thốn cùng tột của vật chất mới biết được mọi giá trị hình thức của tình thương đều trở nên vô nghĩa. Có đi ngoài mưa gió mới biết thương những kẻ đồng cảnh ngộ, nếu không thì chẳng khác nào một người nằm trong chăn êm nệm ấm mà thương hại cho kẻ nằm đường.

Đi dạo Sài Gòn đêm Noel, ngoài mặt đường sao người ta lộng lẫy thế, nhưng cũng con đường đó, ta lại thấy những mái nhà lụp xụp dưới ánh đèn leo lét trong xó hẻm tăm tối, bẩn thỉu. Bên vệ đường, dăm ba đứa trẻ lúi húi nhặt rác, một chiếc xe hơi bóng loáng chợt vút qua, để lại đám khói mịt mù… Về đến nhà, được tin người bạn ở xa nằm xuống, đồng thời nhận được một thiệp mời dự dạ vũ. Mọi người đang nghĩ gì khi trong cùng xã hội lại có những cảnh trái ngược kia ?

Những phong trào, lý thuyết xã hội do những kẻ nghèo khổ ý thức được thân phận của mình vùng dậy khai sinh, hay chỉ là những thủ đoạn muốn đoạt quyền giành lợi của hạng người lanh lợi hoạt đầu, phát động vì lợi danh quyền thế riêng tư.

Xã hội lý tưởng do kẻ trưởng giả vẽ ra chỉ là xã hội được lòng trong khung kính, được đặt trong một biệt thự sang trọng để kẻ nghèo không bao giờ đụng đến được: người nghèo đói, ngu dốt, vẫn bị đạp xuống bùn nhơ, ngay khi chưa ngoi đầu dậy!

Những danh từ công bằng, bác ái, đạo đức được nhắc nhở luôn, nhưng đối với xã hội mạnh được yếu thua này, xã hội mà thế lực đồng tiền chi phối tất cả, thì những danh từ đó phải chăng là những xa xĩ phẩm, những tài sản bất khả xâm phạm của kẻ có thế lực. Và người ta thường chỉ sợ dư luận chứ không mấy ai sợ sự trách móc của lương tâm. Cuộc sống phức tạp quá, muốn sống ta phải dùng mưu mẹo, tạo cho mình một bộ mặt giả dối hay sao?

Nhưng chẳng lẽ ta lại ngồi một chỗ với tâm sự Khuất Nguyên: “cả đời đục chỉ mình ta trong” trong khi ta chưa là gì cả, ta chỉ là một kẻ tầm thường, một hạt bụi nhỏ nhoi trong khoản không gian vô tận này. Tại sao ta lại không cách mạng tâm thân, tạo cho mình một chút ánh sáng, dầu là ánh sáng lập lòe của đom đóm trong xã hội đen tối? nếu mỗi chúng ta đều là những điểm sáng, bóng tối không còn chỗ trong xã hội, tự nó sẽ tiêu tan.

Hôm nay, gió xuân nồng ấm lại về ; thở một làn không khí mới, tinh thần phấn khởi, chúng ta đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống, ta không thu mình trong bóng tối với những tư tưởng bất mãn tiêu cực: “Mục đích tối thượng trong đời người chính là sự hành động”, chúng ta không khoanh tay nhìn hạnh phúc kẻ khác để ao ước rồi thất vọng, đau khổ. Hãy tụ họp các bạn hữu, nâng chung trà, dùng miếng mứt ngọt để thưởng xuân, mắt ngời hào khí và cùng nhau thực hiện cách mạng tâm thân, xua đi bóng tối vây quanh mình. Phải không, thưa các môn hữu?

 

Chương 36: ĐƯỜNG HƯỚNG VĂN NGHỆ VIỆT VÕ ĐẠO – VS LƯƠNG THUẬN VUI

Việt Võ Đạo không phải là một đoàn thể chú trọng tới những hoạt động văn nghệ thuần túy. Nhưng khi đã là một đoàn thể, một tập thể thì đều có những nhu cầu sinh hoạt nội bộ và sinh hoạt với cộng đồng, với đại chúng.

Làm võ đạo, không phải là “làm” một ngành biệt lập với mọi ngành sinh hoạt xã hội. Tự thân võ đạo, nó đã là một ngành sinh hoạt văn hóa, hội nhập vào sinh hoạt văn hóa chung của dân tộc, của nhân loại. Thói quen phân biệt hai ngành sinh hoạt văn và võ là một thói quen kỳ thị của cả hai ngành, thực ra “văn” khởi thủy có nghĩa là “vẽ đẹp”, và “văn hóa – culture” khởi thủy chỉ có nghĩa là làm ruộng, là canh tác, để giải quyết ẩm thực của con người, rồi sau đó mới mở rộng sang các lĩnh vực khác cũng có nghĩa là nhu cầu thiết thân của con người, như ăn xong phải nhảy múa, ca hát bên đống lửa, mới thoải mái được.

Trong nội bộ, chúng ta có sinh hoạt văn nghệ để truyền thông tình cảm và nghệ thuật cho nhau. Chúng ta rất cần thêm vào những khoa biểu diễn võ thuật, còn có tiếng đàn dìu dặt, giọng ca trầm hùng và tiếng ca ngọt ngào, những điệu vũ dân tộc và những vở kịch truyền cảm. Cũng như trên chiến trường vẫn còn hoa nở chim hót, bên cạnh màu đỏ của máu lửa còn có màu xanh mát mắt của những luống mạ và rau non, màu xanh lá của rừng cây, màu vàng của lúa chín và màu hồng của trái ngọt. Cùng với mặt trời còn có mặt trăng để có ngày và đêm. Cùng với dương tố còn có âm tố để phát triển, hòa dịu. Cùng với đạo thuyết, võ thuật, ta còn có văn nghệ Việt Võ Đạo để điều hòa và phối triển mọi sinh hoạt cộng đồng, đồng thời xiển dương và quảng bá nếp sống Việt Võ Đạo với đại chúng, để truyền thông tinh thần và tình cảm Việt Võ Đạo vào đại chúng.

 

ĐƯỜNG HƯỚNG TỔNG QUÁT

Đường hướng văn nghệ Việt Võ Đạo tổng quát được qui định bằng ba nguyên tắc căn bản:

I-Về định hướng văn nghệ: Có 5 định hướng văn nghệ Việt Võ Đạo

(1) Dân tộc: phản ãnh trung thực nếp sống của dân tộc Việt qua các bộ môn văn nghệ.

(2) Thượng võ: đề cao, khích động và phát huy tinh thần thượng võ trong đại chúng.

(3) Nhân bản: phục vụ và hướng thiện con người, không phân biệt quốc tịch, đẳng cấp xã hội v.v…

(4) Khai phóng: tiếp nhận mọi ảnh hưởng và tư trào văn nghệ ngoại nhập, miễn không đối nghịch với văn hóa căn bản Việt Nam.

(5) Đại chúng: chú trọng tới đặc tính truyền cảm với đại chúng, tùy từng đối tượng, để truyền thông hữu hiệu với đại chúng.

II-Về công dụng văn nghệ: Công dụng văn nghệ của hệ thống văn nghệ Việt Võ Đạo không phải là một cứu cánh của một ngành hoạt động văn nghệ thuần túy, mà chỉ là phương tiện của sứ vụ xiển dương và quảng bá Việt Võ Đạo. Do đó, chúng ta chỉ chấp nhận hình thức văn nghệ phục vụ sinh hoạt tập thể và cộng đồng, chớ không chấp nhận những hình thức văn nghệ thuần túy, dù có nghệ thuật cao và nhiều giá trị.

III-Về quan niệm sinh hoạt văn nghệ: Quan niệm sinh hoạt văn nghệ Việt Võ Đạo do đó, có cá tính độc lập, không giống bất cứ quan niệm văn nghệ đương thời nào, dù có một vài đồng điểm. Quan niệm này được đúc kết thành 4 ý niệm:

(1) Người Việt Võ Đạo rất yêu chuộng văn nghệ, nhưng không thể coi văn nghệ như một ngành sinh hoạt độc lập trong môn phái hoặc như một thứ mục tiêu nào đó trong đời sống, mà chỉ chấp nhận văn nghệ là một ngành sinh hoạt nhằm xiển dương và quảng bá Việt Võ Đạo.

(2) Khác với người chính trị muốn tất cả các bộ môn, ngành hoạt động xã hội phải phục vụ mình, người Việt Võ Đạo không có tham vọng chi phối các ngành sinh hoạt xã hội, trong đó có ngành sinh hoạt văn nghệ. Tuy nhiên, văn nghệ Việt Võ Đạo chỉ là một ngành sinh hoạt nội bộ của môn phái, phải nhận chịu sự lãnh đạo của môn phái và thực thi những đường hướng hoạt động của môn phái.

(3) Người Việt Võ Đạo sẵn sàng chấp nhận và hỗ trợ mọi quan niệm thưởng giám và sáng tác văn nghệ độc lập ngoài đời, nhưng không thể chấp nhận những quan niệm văn nghệ biệt lập hoạt động trong môn phái.

(4) Người Việt Võ Đạo xác nhận giá trị ưu việt của văn nghệ phải là phổ biến rộng, bất cứ trong trường hợp nào, nên không thể chấp nhận những quan niệm văn nghệ tự cho là cao nhưng giá trị phổ biến kém (đọc, ngâm, hoặc ca lên ít người hiểu hay không ai hiểu).

NỘI DUNG

Việt Võ Đạo chấp nhận cả 2 ngành sinh hoạt văn nghệ: nghệ thuật thuần túy và sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, nhưng chú trọng tới văn nghệ cộng đồng nhiều hơn. Do đó, các ngành sinh hoạt văn nghệ Việt Võ Đạo gồm có :

(1) Nghiên cứu.

(2) Trước tác.

(3) Sáng tác.

(4) Sách báo (in và phổ biến).

(5) Các điệu dân ca địa phương (cả cổ nhạc, các điệu hò).

(6) Các bản hùng ca và đạo ca.

(7) Các điệu vũ dân tộc và vũ ngoại quốc thích dụng.

(8) Kịch nói và kịch thơ.

(9) Ảo thuật (để trình diễn trong các chương trình sinh hoạt văn nghệ).

Nhìn chung, chúng ta thấy sinh hoạt văn nghệ Việt Võ Đạo hiện nay nặng về phần trình diễn hơn phần trước tác, và chú trọng tới sinh hoạt văn nghệ hơn các chương trình trình diễn nghệ thuật thuần túy như thính phòng, hí trường, truyền thanh và truyền hình, tuy trong tương lai, có thể mở rộng hoạt động ra những môi trường này.

Tuy là một đoàn thể võ đạo chuyên biệt, nhưng không phải vì thế mà môn phái không chú trọng tới đường hướng văn nghệ và sinh hoạt văn nghệ. Nhưng mà đường hướng văn nghệ Việt Võ Đạo có khác hơn, nhằm mục đích xiển dương và quảng bá tinh thần Việt Võ Đạo, thay vì hoạt động văn nghệ thuần túy.

Do đó, đường hướng văn nghệ Việt Võ Đạo có bản chất thực tế, đại chúng và mang nhiều giá trị hành động, thay vì văn nghệ thuần túy và nặng về lý thuyết. Về nội dung, văn nghệ Việt Võ Đạo hiện nay chú trọng đặc biệt về văn nghệ cộng đồng thay vì các ngành văn nghệ trình diễn, để trực tiếp giao cảm và truyền thông với đại chúng trong mọi sứ vụ Việt Võ Đạo.

 

Chương 37- Màu võ y – VS Lê Đằng Phương

Tôi yêu, tôi thích màu xanh, màu võ y, màu thanh bình và hy vọng. Màu xanh chứa đựng cả một sức sống mãnh liệt. Vườn cây xanh, hứa hẹn những quả ngọt, hoa xinh. Bầu trời xanh báo hiệu một ngày quang đãng và cánh đồng xanh là cả một nguồn sống dồi dào của dân tộc.

Tôi sinh ra trong màu xanh thơm của lũy tre làng, đã lớn lên giữa màu xanh thẳm của mạ non. Tất cả những màu xanh thân yêu ấy đã hun đúc nên tôi, đã in sâu vào trí tôi một màu xanh hy vọng và tôi chỉ sống cho màu xanh. Tôi thích ngắm những màu xanh thân yêu ấy, những màu xanh đã tô thắm đời tôi, đượm tình đất nước, và tôi sẽ không đủ can đảm, nếu một ngày nào đó phải xa chúng.

Nhưng có gì tồn tại được dưới sự tàn phá của ngòi lửa chiến tranh đâu ! Tôi đã đau đớn từ giả những màu xanh thân mến vào một chiều Xuân khói lửa, để nhìn những gốc tre xám đen và cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ vàng. Phải rời màu xanh quê hương tôi rất khổ sở, nhất là cánh đồng màu xanh của mạ non không còn nữa, chỉ còn lại màu vàng của gốc giạ. Người ta bảo màu vàng là màu vương giả, rực rỡ, huy hoàng, thú thật tôi rất ghét cái màu bệnh hoạn đó, màu của đau thương, chết chóc !

Tôi mơ ước một ngày nào đó đất nước thanh bình, cho áo tôi luôn xanh, quê hương tôi đầy ắp màu xanh, màu của lũy tre làng, của măng non vươn lên đầy nhựa sống và của cánh đồng bát ngát mạ non. Tất cả màu xanh đó đã kết hợp thành một sức sống, một sức mãnh liệt của giống nòi Hồng Lạc.

Tôi thề quyết chẳng ra rời màu xanh nữa, mặc dù phải đổi bằng xương máu, bằng mồ hôi trộn với nước mắt gian lao. Màu xanh thanh bình, màu xanh hy vọng hãy vươn lên, hãy mở khắp đồng quê và đất nước.

Màu xanh võ y, màu xanh hy vọng sẽ sống mãi với chúng ta.

 

Chương 38- Tâm sự cái bao cát – VS Tô Văn Vượng

Đêm nay trời mưa to, nước ào ào trút xuống mái nhà, những giọt mưa lớn nhảy nhót trên mái hiên. Căn phòng rộng thênh thang lạnh lẽo và có vẻ buồn, co rút trong góc phòng đầy bụi bán, “Cái Bao Cát” năm trơ vơ một mình và tủi cho thân phận bị người vứt bỏ sau những ngày tung hoành.

Nhớ xưa kia, trước khi trở thành “cái bao cát”, tôi chỉ là một tấm da trâu hôi hám, ai lại gần cũng phải bịt mũi. Rồi tôi được đem đi nhồi nấu, phơi khô, được tẩm lên mình những thứ thuốc, thứ màu. Sau những ngày tháng chịu đựng với mưa nắng, tôi được người ta banh xẻ ra và ráp lại thành một ống tròn dài, có bịt một đầu và đặt tên cho tôi là “cái bao cát”. Khi tôi được người mua đem về, nhồi nhét vào bụng tôi đầy những cát, trấu khiến con người tôi trở nên to lớn, khỏe mạnh, cứng rắn. Sau đó tôi được treo lên trần nhà bằng một sợi dây thừng. Chẳng mấy lúc mà tôi thay đổi hình dạng nhiều như vậy. Có điều làm tôi hơi buồn buồn là các võ sinh dù lớn, bé đều không dám đụng tay chân vào mình tôi, phải chăng vì sợ tay chân trở nên thô kệch, chai lỳ ? Họ nhìn tôi với cặp mắt khinh khỉnh xa lạ. Nhưng ngược lại, tôi được an ủi phần nào, bởi các anh em võ sinh dồn vập, chiếu cố tôi hết cỡ. Vừa thấy tôi, như người bạn cũ lâu không gặp, họ chạy ào tới bao vây tôi và phô diễn những cử chỉ thật trìu mến, làm cho tôi cảm động vô cùng. Thế rồi họ hăng say luyện tập, luôn luôn cùng tôi gắn bó trong những buổi tập. Tôi cảm thấy vô cùng phấn khởi và hãnh diện vì được là một vật có ích lợi và gây hứng thú cho mọi người trong khi luyện tập.

Gồng mình đứng nhìn bao nhiêu người luyện tập một cách hăng say, đôi lúc tôi muốn bứt đứt dây nhẩy xuống hòa nhịp luyện tập với họ. Nhưng nghĩ lại thân phận của mình chỉ là cái bao cát, phải để người ta sử dụng. Cùng với ngày tháng trôi qua, thân thể tôi đã mang nhiều vết tích tàn phá, bởi sự âu yếm bằng tay chân quá kỹ càng của họ, khiến da thịt cứng rắn của tôi xưa kia, nay đã như tấm vải mục tả tơi. Và theo nhịp đấm đá của anh em võ sinh, lục phủ ngũ tạng của tôi cũng xôn xao đòi thoát xác.

Rồi… một buổi, khi ánh nắng gay gắt dần dần lùi bước, trả lại cho cái mát rượi buổi chiều, không khí sinh hoạt của võ đường đã bắt đầu nhộn nhịp. Cũng vào giờ đó, như mọi ngày tôi lại gồng mình để chịu đựng cho anh em võ sinh vồ vập yêu thương. Bỗng hai tiếng “Bựt ! Bựt !” phát ra, liền sau đó là một tiếng “Ẩm !” dữ dội, cái thân thể năm mươi ký của tôi từ trên trời rơi xuống nền gạch. Đến lúc đó tôi vẫn chưa tin rằng xác tôi đã gục ngã, tâm não tôi đã kiệt quệ, tôi muốn vùng đứng dậy để chứng tỏ cái khả năng, cái tinh thần vì người giúp ích và hiến ích của tôi. Nhưng đau đớn phũ phàng thay, tôi đã bất lực không trỗi dậy nổi. Người ta cho tôi vào góc phòng để tôi đơn côi an nghỉ. Thực ra, tôi đâu có sợ cô đơn mà chỉ thất vọng vì bỗng dưng mình bất hạnh biến thành vô dụng.

Tôi xót xa, đau khổ vì đời bỏ quên… Nhưng rồi tôi thầm tự an ủi và hãnh diện : trước khi trở thành vật vô dụng tôi đã là vật hữu dụng, giúp ích cho người. Và, tôi cũng tri ân những người đã chế tạo ra tôi để tôi được sống những ngày sinh động, hào hùng theo tiêu hướng nhân sinh Việt nam : Hãy sống với tất cả tâm hồn và năng lực. Tu dưỡng tâm và thân và dấn thân làm việc để đóng góp phần vụ bắt buộc phải có của mỗi phần tử vào tiến trình chung của hòan vũ, để trả ơn những gì mình đã hưởng, trước khi yên vui trở về nguyên thủy, nằm sâu trong lòng đất mẹ. Đời tôi là thế ! vạn vật đều thế…

 

Chương 39- Tay thép tim từ – Võ Sư Quách Hữu Thạnh

Trận gió thoảng qua, làm cát bụi tung lên mờ ảo.

– Mùa Thu đã đến rồi đó, phải không Thúy ?

– Vâng Thu đã đến, để làm lá vàng rơi và làm hoa kết trái…

Đó là những lời đối thoại bâng quơ của một lứa đôi thơ mộng còn trong tuổi mộng mơ, đang đi bên nhau bên bờ sông vắng.

– Ý ! Mỏi chân quá, mình ngồi xuống nghỉ đỡ đi anh…

– Ồ ! đằng kia có một mỏm đá ngồi rất tốt, ta lại đó đi, Thúy.

Đôi trai gái ngồi bên nhau rì rầm, với tình cảm lâng lâng về cuộc đời là giấc mộng thần tiên, êm như tiếng nhạc, nhẹ như thời gian…

– Thôi, về đi anh, chiều rồi.

– Ờ nhỉ ! Chúng ta về thôi…

Họ uể oải đứng dậy, sắp bước chân đi, thì có ba tên lạ mặt từ xa hung hăng tiến về phía họ, trông có vẻ du đãng. Vô tình Thành và Thúy lách mình sang phía khác. Nhưng một trong ba tên đã lên tiếng gằn giọng với chủ ý gây gổ :

– Ê ! đứng lại tụi bay !

Thành và Thúy đứng lại. Bọn chúng cười khả ố, quét những tia mắt sói móc thách đố suốt toàn thân cặp tình nhân trẻ tuổi. Rồi một tên trong bọn nói :

– Ê ! ở đâu tới đùa rỡn đó mậy ? Biết bọn tao là ai không mà dám đến đây?

Thành mở miệng để nói, thì… “Bốp” “Cụp”. Tên du đãng nọ đấm vào mặt và đá xốc vào bụng Thành, làm Thành ngã ra bất tỉnh. Trong khi đó, 2 gã kia sấn sổ hướng tới phía Thúy, muốn giở trò nham nhở với Thúy. Lúc đầu Thúy có vẻ hơi bỡ ngỡ, nhưng bỗng Thúy nói lớn như giọng một người chị quát mắng lũ em lầm lỗi :

– Các cậu đi đi… đừng có trách tôi.

Hai tên lạ mặt vẫn cười nham nhở xồ lại Thúy với ý muốn làm hỗn. Thật kỳ lạ kìa ! Thúy nhẩy tung người lên đạp cả 2 chân vào cổ và ngực tên du đãng đang đứng gần nhất. Gã bị văng ngay xuống đất như một thân cây bị đốn ngã bất ngờ. Hai tên còn lại hơi sửng sốt nhưng chúng vẫn ra vẻ anh hùng nhào tới. Nhưng người của gã vừa chồm tới đã lãnh đủ một ngọn cước phóng “bốp” vào giữa mặt, chóng váng lùi lại ngay. Tên cuối cùng vừa hành hung Thành hồi nãy cũng hăng máu nhào tới, nắm tóc Thúy, nhưng mà Thúy đã gỡ ra được ngay bằng một thế phản khóa… và kết quả là… một tiếng “rắc” nổi lên qua một thế bẻ cổ tay và khóa tay quặt ra phía sau lưng, với một cú đấm múc như trời giáng vào yết hầu, làm gã gục luôn theo hai đồng bọn. Cũng lúc đó, Thành hoảng hốt tỉnh lại, giật mình nhìn thấy 3 tên du đãng nằm im bất động. Thúy dìu Thành đi về như dìu một người tàn phế. Ba hôm sau Thành trở lại tìm gặp Thúy, nhưng mà Thúy cố ý tránh mặt. Thành phải lập tâm kiên nhẫn cố gặp và hết lời năn nỉ, dải bày, nhưng… Thúy chỉ cười dửng dưng, và còn nói một câu xanh dờn:

– Chứng nào anh hạ được bọn đó, thì hãy tìm gặp em !

Thành uất hận vô cùng, vì không có bản lảnh võ thuật để hạ bọn đó. Nhưng mãi về sau, có một người bạn biết chuyện khuyên Thành đi học võ để trả thù. Tia sáng hy vọng lại lóe lên trong đầu Thành, chàng ta quyết tâm đi tìm nơi để học.

Một buổi sáng Thành đi ngang đường Sư Vạn Hạnh và thấy dòng chữ to lớn :

VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO

Thành ngẫm nghĩ VOVINAM là gì? còn VIỆT VÕ ĐẠO là gì? À! là võ của người Việt! Thế là Thành xin nhập học, và say mê luyện tập.

Hai năm sau, Thành trở thành 1 chàng trai cường tráng, mạnh mẽ, có một số vốn võ thuật đủ để tự vệ và can thiệp vào những bất công của mọi người.

Nhớ lại chuyện cũ, Thành bỗng thấy lòng mình dửng dưng và thù hận tan biến. Thành đã ý thức được tinh thần võ đạo rồi chăng ?

“Trước khi dùng võ, ta phải đặt vào đó một tình thương, tức là bàn tay thép phải đi đôi với trái tim từ ái, đức phải đi đôi với lòng nhân, võ thuật phải đi đôi với võ đạo. Người môn sinh VOVINAM chỉ dùng võ để cảnh cáo, cảm hóa người, chớ không phải dùng võ để trừng phạt, trả thù người”.

Và Thành lại nghĩ rằng : “Chúng ta cùng là người việt, cùng mang chung một dòng máu, do đó, chúng ta phải thương yêu nhau, che chở, đùm bọc, giúp đỡ và tha thứ lẫn nhau, cũng như khuyến khích nhau làm những việc ích quốc lợi dân”.

Rồi một buổi sáng đẹp trời kia Thành gặp lại Thúy. Sau khi đả thông mọi sự, hai người lại gắn bó yêu thương, nối lại tình xưa.

Nhưng rồi biến cố cũ lại xảy ra, không buông tha. Một hôm, đôi bạn cùng du ngoạn Đà Lạt, đi chơi trên đồi thông, chợt gặp lại 3 tên du đãng đánh gục Thành và bị Thúy đáng gục từ 2 năm trước.

Gặp chúng, Thành mỉm cười bắt tay để tỏ tình thân thiện, nhưng chúng ỷ đông hơn, gây chuyện. Thành cố giải thích cho chúng hiểu đạo lý làm người, nhưng chúng không nghe đòi thử sức. Thành liệu không xong, nên bảo Thúy tránh ra, và hỏi :

– Bây giờ các anh muốn đánh nhau hả ?

– Phải ! dám không ?

– Các anh chơi cá nhân hay hội đồng ?

Một tên trong bọn chửi thề và nói :

– Mầy là cái gì mà phải chơi hội đồng, tao sẽ thanh toán mầy.

Thành nghĩ phải trừng trị để cảnh cáo bọn này mới được, nhưng để tránh to chuyện, Thành nói:

– Được, tôi với anh sẽ trao đổi võ thuật cùng nhau nhưng với một điều kiện.

– Điều kiện gì? Nói đi.

– Sau cuộc thử tài, dầu được hay thua, chúng ta cũng xử huề chớ không tìm nhau để trả thù nữa, được không?

– Ồ! Dễ ợt! Làm gì không được! Thôi! Chúng ta bắt đầu đi!

Một tên trong bọn nhảy ra diễu võ dương oai rồi bất chợt hắn bay tới đá một cú thật đẹp, nhưng vô cùng hung bạo. Thành liền nghiên đầu né tránh dễ dàng, và không quên gửi lại một cú đấm tóe lửa: “Bốp”.

Quần thảo nhau hơn 3 phút thì hai bên đã thấm mệt, nhưng bỗng tên kia sơ hở bị Thành đá vào trọng huyệt suýt bất tỉnh. Thành nhảy ra nói :

– Thôi đủ rồi, chúng ta phải lấy danh dự ra giữ lời giao ước.

Tên đầu bọn ngẩn người suy nghĩ một lúc rồi chợt hiểu :

– Hôm nay, anh là người đầu tiên làm chúng tôi khâm phục về tài nghệ, lòng can đảm và nhất là một tinh thần cao đẹp, thượng võ của một người đắc thắng. Tụi tôi rất ân hận về những chuyện đã qua. Xin anh chị bỏ qua cho…

Rồi Thành lại cùng Thúy xuống đồi thông lòng lâng lâng cảm thấy vinh hạnh. Và bây giờ, Thành tự thấy tinh thần và tâm hồn mình khác xưa rất nhiều. Có bản lãnh và biết cách xử sự đúng lúc, đúng chỗ, có thể biến được thù thành bạn.Âu cũng là nhờ thấm nhuần được tinh thần võ đạo vậy.

 

Chương 40- Sống – VS Giang Quân Thiêm

Các bạn mến,

Cuộc sống đang mở rộng tầm mắt ta, đầy ánh sáng nhưng cũng lắm chông gai. Đó là sống theo lý tưởng.

Phải ! Sống theo lý tưởng thì đời mới có ý nghĩa.

Nhưng lý tưởng là gì? – Là cả một cái gì man mác khôn cùng. Đêm đêm nằm trong buồng nhìn qua song cửa sổ, bạn có thấy vì sao Bắc Đẩu lấp lánh trên bầu trời đen tối như mỉm cười, như thân thiện với ta. Ngôi sao đã gởi đến một tia sáng vào tâm hồn ta trong bóng tối. Ta tìm đến ngôi “sao bạn ta” đó, thì ngôi sao lui ra đến đỉnh đồi, ta chạy tới chân đồi, sao của ta chạy ra bờ bể. Ta đuổi tới bờ bể, sao ta lơ lửng giữa chốn hư không… Rồi giữa chốn phong ba, mưa ngàn sóng vỗ, thi nhau đập vào mạn thuyền, mắt ta cứ đăm đăm nhìn sao mà đi, đi mãi, đi mãi…

Đó, cuộc đời chúng ta cũng như con thuyền, còn ngôi sao kia là lý tưởng để tôn thờ, theo đuổi.

Lý tưởng dẫn dắt chúng ta theo một khuôn khổ đến những hành động cao đẹp.

Lý tưởng soi rõ cả cuộc đời, như sao Bắc Đẩu cho khách bộ hành lạc hướng, như la bàn cho người đi bể.

Lý tưởng rất quan trọng trong đời ta nhưng không bao giờ ta đạt được, cũng như ngôi sao kia chỉ lối ta đi, nhưng chẳng bao giờ đến được gần.

Lý tưởng là một sự an ủi khi ta thất vọng.

Lý tưởng là lòng hăng hái đối với những việc phải làm.

Lý tưởng càng cao đời càng thêm có giá trị.

Là thanh niên, chúng ta phải bỏ tất cả thành kiến hủ lậu, tẩy trừ trí óc chuộng hư danh, mà phải quan niệm rằng sự nghiệp ở đời không phải qui ở mảnh bằng, ở địa vị cao sang mà chính là ở những việc ích lợi cho nhân quần xã hội.

Mỗi người phải đặt cho mình một lý tưởng, một lý tưởng cao thượng chứ không phải cái lý tưởng của những kẻ “giữ-thế-phù-trầm”.

Tạo lấy một lý tưởng là một việc đã khó mà đuổi theo được hướng của lý tưởng lại là một việc khó hơn. Giữa lúc nền văn hóa đang xuống, bao nhiêu cám dỗ vật chất xung quanh lôi kéo đi vào hố trụy lạc, chúng ta rất có thể trở thành những con thiêu thân lao đầu vào ánh lửa, bao chông gai gây trở ngại cho bọn ta, cũng như tìm đến ngôi sao kia đường dài, đồi núi cản lối ta, bao tuyệt cảnh quyến rũ ta.

Như vậy, giới trẻ phải biết lấy kinh nghiệm làm tài chất, căn cứ vào sự lý để suy lường định liệu, lấy cái tính thỏa đáng lạc quan để cố gắng thực hiện, phải biết chiến thắng dục vọng, sai khiến được bản thân, hăng hái trong hành động, nhanh chóng trong quyết đoán, không su nịnh, không đố kỵ, khinh khi, nghĩa là chúng ta phải có một tính khí hùng mạnh, sáng suốt và vững chắc, mộ tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.

Các bạn mến,

Bọn trẻ chúng ta cần phải khỏe, có khỏe mới có nghị lực để theo đuổi lý tưởng, vì người ta ai cũng hiểu rằng sự suy yếu về thể xác sẽ phát sinh ra sự khiếp nhược về tinh thần.

Sống theo lý tưởng là để làm việc cho xã hội, chúng ta không thể hẹp hòi chỉ biết có cá nhân mình, gia đình mình, phải biết đoàn kết, giúp đỡ những người bị ức hiếp và tự nuôi lấy một tâm hồn nghĩa hiệp.

Chúng ta mỗi người phải kiến tạo một cuộc sống mới với một linh hồn mới, với một tinh thần mới. Đó là cuộc đời các bạn, cuộc đời của bạn trẻ chúng ta.

Gieo vào tâm hồn dân tộc Việt Nam những luồng tư tưởng mới. Chúng ta không bị áp chế, bó buộc, tư tưởng được tự do nảy nở. Chính điều này đã tạo cho chúng ta nỗi băn khoăn. Đứng trước ngã ba đường thanh niên ngơ ngác đi tìm nghĩa sự sống, học không còn nối chí được ông cha, như cụ Phan Bội Châu đa viết :

Sống tủi làm chi đứng chật trời

Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?

Sống làm nô lệ cho người khiến

Sống chịu ngu si để chúng cười

Sống tưởng công danh không tưởng nước

Sống lo phú quý, chẳng lo đời

Sống mà như đừng nên sống

Sống tủi làm chi đứng chật trời.

Thơ Việt còn có những lời ấy, thì bọn ta phải tìm lấy một lối sống, một lối sống hợp với lý tưởng bàn bạc trong tâm hồn ta.

Chúng ta phải sống theo tư tưởng của Ernest Renan:

“Vivre, c’est, c’est espérer, c’est aimer, c’est admirer, c’est bien faire”.

Sống là hiểu biết, là hy vọng, là yêu thương, là biết ngưỡng mộ. Để làm điều hay.

 

Chương 41- Tham luận để cầu tiến – VS Nguyễn Đình Nam

Người Việt chúng ta vốn nặng tinh thần bảo thủ Khổng – Mạnh, và bị ngoại – nhân thống trị quá lâu nên ít có óc cầu tiến, dám xét lại. Cứ người trên nói gì, người dưới nghe theo một cách máy móc, không dám tìm hiểu, để nếu có thể góp ý kiến cho được hoàn bị, hợp thời. Cái gì do người xưa để lại là cố chấp duy trì, ít dám sửa đổi dù đã lỗi thời.

Tuy rằng chúng ta cần đọc, cần nghe, cần học thật nhiều qua sách-vở báo chí, qua những người lớn tuổi hơn ta; tuy rằng chúng ta cần xử-thế theo những kinh-nghiệm khôn-ngoan của người xưa truyền lại, nhưng không vì thế mà chúng ta chỉ biết dập khuôn, nhai lại không dám phán đoán để có sáng kiến. Chúng ta phải thâu-nhận những điều hay, những gì chúng ta chưa biết. Đó là điều rất cần thiết cho chúng ta. Không ai trong chúng ta, dù là những bậc vĩ-nhân, có thể tự hào là mình đã biết tất cả không cần học nữa. Nhưng đừng thâu nhận rồi lặp lại, rồi áp dụng như một con két, như một bộ máy. Chúng ta cần và phải dám xét lại những điều chúng ta đã nghe, đã đọc, đã học được xem có hợp lý không, còn đúng cho hoàn cảnh hiện tại không, còn đúng đến mức nào. Nếu đúng, chúng ta phải chấp nhận, phải theo, phải triệt để áp dụng. Ngược lại, nếu sai hay là chỉ đúng một phần, chúng ta tìm cách sửa đổi hay bổ túc thêm.

Khi xét lại, chúng ta đừng để bị mất tinh thần trước sức học, danh vọng, quyền thế. Dừng thấy họ là ông này, ông nọ ; đừng thấy họ mang bằng cấp đầy mình ; đừng thấy học là vị giáo sư của chúng ta mà cho là tất cả những điều họ nói, họ giảng thuyết đều đúng, đều hợp lý. Đừng thấy họ là những bậc thánh nhân, vĩ nhân mà cho rằng tất cả tư tưởng của họ đều là khuôn vàng thước ngọc. Và dù có là khuôn vàng thước ngọc chúng ta vẫn có bổn phận phải góp phần tìm hiểu để định rõ giá trị. Trước những vấn đề, tư tưởng do bất cứ ai trình bày, chúng ta phải tìm hiểu. Sau khi đã hiểu thấu đáo, chúng ta lấy óc khách quan xét lại xem những điều đó, những tư tưởng đó đúng hay sai, còn đúng cho hoàn cảnh hiện tại không, có đúng đến mực độ nào.

Trong lịch sử triết học, triết gia Aristote đã xét lại và bổ túc cho thầy mình là Platon và Thomas d’Aquin cũng đã xét lại và bổ túc cho Aristote. Về lảnh vực khoa học, Teilhard de Chardin đã xét lại và bổ túc cho Lamark, Darwin về thuyết Tiến – Hóa Vạn Vật.

Nhân loại ngày nay đã và đang hưởng một đời sống tốt đẹp hơlàn xưa cũng là nhờ có những người dám xét lại để sửa sai, để bổ túc hầu tiến bộ.

Thế hệ chúng ta ngày nay phải xét lại, dám xét lại, cần xét lại cho đúng về mọi vấn đề thuộc lảnh vực từ đạo đức đến văn hóa ; từ đời sống xã hội, học đường, gia đình đến đời sống bản thân, đời sống thể xác, tinh thần, tình cảm của chúng ta.

Chúng ta xét lại tất cả như vậy vì chúng ta cần cần động, suy tưởng, phê phán hợp lý để tiến bộ : để làm chủ được tình thế, làm chủ được mình. Chúng ta phải có óc nhận xét, phê phán, phản tỉnh để tránh thành kiến mù quáng, để làm chủ được vận mệnh của mình ; để tránh bị nô lệ, nhất là nô lệ về văn hóa

Chương 42- Việt Võ Đạo sinh có nên làm chính trị không – VS Phạm Lương Thịnh

Nói đến VIỆT VÕ ĐẠO, nhiều người có thể nghĩ đến toàn thể Môn phái VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nói đến cá nhân VOVINAM, có nên làm chính trị hay không?

Trước hết, chúng ta nên bàn qua về hai chữ CHÍNH TRỊ. Chúng ta, ai chẳng đã nghe qua hai chữ này, như thế nào là CHÍNH TRỊ?Nhiều người định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, theo định nghĩa của chúng ta ở đây: CHÍNH TRỊ là chính sách cai trị một quốc gia của cơ quan có thẩm quyền.

Còn thế nào là CHÍNH TRỊ? có nhiều cách, có rất nhiều đường hướng, chúng tôi đơn cử ra đây vài thí dụ : chẳng hạn, một học giả chuyên bàn về các vấn đề thời sự trong nước, đó là một hành vi chính trị, hay một người trực tiếp điều hành guồng máy cai trị trong nước, đó cũng là một hành vi chính trị. Do đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, các chính trị gia nói chung, đều muốn làm một cái gì ích nước lợi dân.

Vậy, Việt Võ Đạo sinh nên có làm chính trị hay không ? Tất nhiên là có và có thể nói là rất nên. Người dân sống trong một quốc gia, dù theo chế độ chính trị nào, đều có quyền làm chính trị. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa cũng đã quy định rằng toàn dân có quyền làm chính trị. Như thế, là Công Dân trong Quốc Gia này, Việt Võ Đạo sinh có quyền làm chính trị. Hơn nữa, với tinh thần võ đạo, Việt Võ Đạo sinh khi gặp việc phải là làm, khi Quốc Gia hữu sự lại làm ngơ hay sao? Cho nên Việt Võ Đạo sinh có bổn phận phải tham gia sinh hoạt chính trị bằng tư cách, phương tiện riêng của mình, dù tích cực hay tiêu cực.

Một Quốc Gia, muốn cho ngày một tiến bộ thì toàn dân phải tham gia vào mọi lảnh vực sinh hoạt của Quốc Gia, trong đó có lảnh vực chính trị. Như thế, một lần nữa, chúng tôi lại xác nhận là Việt Võ Đạo sinh phải làm chính trị.

Tuy nhiên, không phải tất cả các chính trị gia đều là những người muốn đem lại sự ích lợi cho dân, cho nước, mà còn có một số chính trị gia hoạt đầu, lợi dụng, đầu cơ chính trị, để mưu cầu lợi riêng cho cá nhân, hay gia đình mình. Cho nên Việt Võ Đạo sinh phải sáng suốt nhận rõ là mình phải đi theo con đường nào để phục vụ Quốc Gia – Dân Tộc.

Để kết luận, chúng tôi xin tóm lược lại lời VÕ SƯ CHƯỞNG MÔN Môn phái VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO trả lời cho một hãng thông tấn :

” Môn phái VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO không chủ trương làm CHÍNH TRỊ, tuy nhiên các Việt Võ Đạo sinh có quyền làm chính trị với tư cách công dân của họ, hợp với mục đích và tôn chỉ của Môn Phái là phục vụ DÂN TỘC và NHÂN LOẠI “.

 

Chương 43 – Em yêu màu xanh – VS Nguyễn Văn Hưng

Em yêu màu xanh

Những áng mây phiêu bồng

Trên bầu trời mênh mông

Vào những ngày nắng đẹp an lành

Em yêu màu xanh

Màu của cánh đồng bát ngát

Màu của lũy tre rung trong hơi nhạc

Màu của thời gian bàng bạc trôi nhanh

Em yêu màu xanh

Màu võ y của nữ lịch nam thanh

Màu của mái tóc

Của bờ môi

Của ngọt thơm mùi sữa đậu nành

Màu của ước mơ và hy vọng

Mọc lên từ lòng đất Mẹ liệt oanh

Với chúng em

Màu xanh là màu tuổi ngọc

Ôi ! màu xanh

Màu tuyệt vời tinh lọc

 

Chương 44- Lời cho mẹ Việt Nam – VS Lê Hoài Tông

Mùa Xuân hay mùa Thu

Mùa đông hay mùa Hạ

Tình Thương hay Hận Thù

Đôi bàn tay buông thả

Hỏa châu rực trong đêm

Đại bác gầm gừ thét

Thây người gục ngã thêm

Mẹ Việt Nam thảm thiết

Tuổi nào cho chiến cuộc

Tuổi nào cho tương lai

Linh hồn con bé nhỏ

Vừa nhập cuộc hôm nay

Con quỳ bên đất Mẹ

Nước mắt bao giờ nguôi

Gục đầu trong tiếng nấc

Nghe hồn mình đơn côi

Chắp tay con cầu nguyện

Ngày thanh bình quê hương

Đôi bờ thôi ngăn cách

Tha thiết trong tình thương

 

Chương 45- Lời ca bất diệt – VS Dương Minh Hải

Ôi Sông Núi vang lời ca bất diệt

Biển-biết, đồng-xanh, núi-thấm, sông-dài…

Từ bao thuở vẫn khơi nguồn dũng liệt

Nung Hồn Thiêng từng Thế Hệ Tương Lai…

Anh có nghe chăng lời ca bất diệt

Nương thời gian về nhắc lại Ngàn Xưa ?

Thuở lập quốc bốn ngàn năm lẫm liệt

Về Nam phương phá núi dựng cơ đồ…

Anh có nghe chăng lời ca bất diệt

Nhắc bao lần chiến thắng bọn cuồng xâm

Hán, Mông, Minh, Thanh, Chiêm Thành, Chân Lạp

Tả tơi thua trong ngàn trận tung hoành

Anh có nghe chăng lời ca bất diệt

Bất-Khuất, Kiên-Cường, Tự-Chủ, Hy-Sinh

Ôi, nghĩa khí ! lời hào hùng thắm thiết

Sáng ngàn sau từng trang sử uy linh…

PHƯƠNG TRỜI DỰNG

Một sớm mai hồng, tiếng chim ánh ỏi

Trời xanh mắt trong không xa vời vợi

Giọt lệ mẹ già thôi nhỏ vì con

Gương mặt mẹ hiền đã hết héo hon

Trẻ reo hát đón cha về ói ả

Cơm lúa mới thơm lên hương vị lạ

Chim reo vang mừng hoa nở đầy vườn

Tất cả vui lên ! Xóa hết tủi hờn !

Phương trời đó thanh bình, ta đã dựng …

Có phải tám mươi năm, vách xiêu, nhà trống

Lang sói lên ngôi, thịt máu hôi sình ?

Có phải hai mươi năm dòng dã đao binh

Rừng cháy, nhà tan, cỏ khô, hoa héo ?

Gió bão vây quanh, mồ hoang lạnh lẽo

Có phải núi sông xương máu xây thành ?

Bao nhiêu mầm non gãy gục tan tành

Trời bầm tím, ngực đau thương khép cửa ?

Sau bão máu, mây tan, tắt lửa

Có phải Hòa Bình về giữa lúa đơm bông ?

Đã thấy mặt trời hiện với phương Đông

Đã thấy cây xanh mọc trên nền xám

Thấy nhà mới từng hàng, thấy bài ca hùng tráng

Thấy bốn phương rực sáng hội hoa đăng

Có phải phương trời dựng bởi nhân năng ?

Rồi đây đó, phất cao cờ võ đạo

Hào khí tiền nhân bừng lên hoài bão

Đoàn môn sinh Việt Võ Đạo khai hoang

Dậy đi thôi ! Trời dựng sáng phương Nam…

 

Chương 46: – Tư cách và đạo đức của bậc trưởng thượng – VS Chưởng Môn Lê Sáng

Tinh thần Việt Võ Đạo đòi hỏi ở người môn sinh phải luôn luôn làm chủ được mọi hành động của mình, ý thức được bổn phận và chu toàn trách nhiệm. Gặp bậc trưởng thượng gắt gao xét nét vẫn bình tĩnh thi hành công tác, gặp bậc trưởng thượng xuề xòa dễ tính cũng không bê bối, trễ nải. Người khó tính xét nét công việc càng dễ thấy những ưu điểm và việc làm đứng đắn của ta. Người xuề xòa dễ tính, không hẳn đã dễ dàng tha thứ cho những bê trễ, lộng hành. Phải trước sau như một, làm việc đúng mực và tôn trọng kỷ luật chung.

Tư cách, đạo đức của bậc trưởng thượng làm cho thuộc cấp kính yêu, tin tưởng, muốn gần gũi. Nhưng muốn thuộc cấp làm theo sự hướng dẫn, chỉ bảo của mình, thì ngoài tư cách và đạo đức, bậc trưởng thượng phải có thực tài và kiến thức rộng. Nếu chỉ ỷ vào tư cách và đạo đức mà không lo trau dồi bản lảnh (tức luôn luôn cách mạng tâm thân) thì thuộc cấp tuy kính yêu, thân cận mà không tâm phục. Bậc trưởng thượng Việt Võ Đạo đôi khi thấy cần phải tự ẩn mình biệt tịch, để tôn thêm giá trị cho người dưới chiêm ngưỡng, nhưng việc đó phải là tự mình không muốn xuất hiện chớ không phải là bị người dưới nhốt vào tủ kính để dể bề tự tung tự tác.

 

Chương 47: Thơ Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng

Kỷ niệm ngày ra mắt Tân Ban Chấp Hành

Tổng Cục HL và Tổng Đoàn TN Việt Võ Đạo

7-7-1974

Thân tặng TỔNG CỤC HUẤN LUYỆN

Hòa bình sẽ yên vui

Nắng ấm sưởi ngậm ngùi

Tâm Thân cần Cách Mạng

Đất nước phải tô bồi

Cấy Tin Yêu khắp nơi

Việt Võ Đạo vào đời

Tay thép, tim từ ái

Ta làm lại Con Người…

Thân tặng TỒNG ĐOÀN THANH NIÊN

Sức sống là đây, của nước nhà

Gái trai chung ước vọng cao xa

Tim từ, tay thép an nhân loại

Trí mẫn, thân cường thịnh quốc gia

Giận giặc, dám quên gương Quốc Toản

Thương dân, phải nhớ chuyện Hai Bà

Giữ thơm đất mẹ thời ly loạn

Dựng một mùa xuân … thuở gấm hoa

Mến tặng các Võ Sư Trần Tuấn Vũ, Ngô Kim Tuyền,

Nguyễn Văn Nhàn vinh thăng Hồng Đai đệ I cấp (1973)

Vũ Môn là đó, chuyện ngư long

Sự nghiệp ghi thêm một điểm hồng

Võ Việt vinh thăng ba tuấn kiệt

Đạo Nam hưng phấn một tâm đồng

Tâm Thân Cách Mạng hòa nhân loại

Trí Dũng tô bồi mạnh núi sông

Dân tộc soi đường người đạo nghĩa

Tương lai còn mãi đại thành công

MIỀN TRUNG TRIỂN ĐẠO

Bảy năm khải đạo vượt phong trần

Thép luyện đôi tay chặn sóng thần

Binh biến tôi thêm hồn võ đạo

Hòa bình rèn nữa mối nhân luân

Trường Sơn biển lộng cương thương cốt

Nam Hải thanh dương tiết nghĩa thần

Thành Tín, Kiên Trung môn đạo dẫn

Sáng ngời núi biển hội phong vân…

1974

MIỀN TÂY TRIỂN ĐẠO

Miền Tây dựng luyện thép dựng trường thành

Việt võ vươn mình trên lúa xanh

Lòng đất dưỡng sinh vùng quảng phát

Niềm tin dẫn đạo cuộc tung hoành

Khí thiêng sông núi thăng nhân kiệt

Mạch sống quê hương đắc địa linh

Tâm đạo hòa theo dòng đạo vị

Bốn năm dựng nghiệp chí bình sanh

Tháng 11-1973

Tặng Trung Tâm Huấn Luyện Việt Võ Đạo Đà Lạt

(Nhân kỳ thi Hoàng Đai Đặc Biệt dành cho Giáo Hoàng Học Viện)

Đời – Đạo giáo truyền cuộc xiển dương

Áo xanh biển cả hiện đai vàng

Tâm tư lồng lộng niềm tương ái

Phong cách uy nghi nếp tự cường

Núi hiện Kỳ Lân mừng Thánh Chúa

Rừng xanh Bạch Tượng đón Nhân Vương

Hoa đào xứ lạnh đua nhau nở

Hồn nước lên ngôi giữa đạo đường

Noel 1973

Kính tặng Đại Tá Nguyễn Tài Lâm

Chỉ Huy Trưởng TTHL/CBQG/VT

Rèn cán giúp nhân dân

Chí Linh rồi Lam Sơn

Ngày điều hành mẫn tiệp

Đêm hội họp chuyên cần

Đã giỏi về quân chính

Kiêm toàn luôn võ văn

Áo đen thơm đất Mẹ

Cán bộ vững Tâm Thân

MIỀN TRUNG CHIẾN SỬ CẢM TÁC

Kính tặng Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh

Tư lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh

I

Trận mạc tung hoành mấy chục niên

Trường Sơn sừng sững trần bình nguyên

Tam Quan dũng tiến soi quân tử

Phù Cát tranh phong phá bạo quyền

Vững đất Tây Sơn miền bất khuất

Sáng danh Bình Định cuộc trân chuyên

Đất bằng dậy sóng đang lui sóng

Sông núi từ đây mãi vững bền

MẠNH XUÂN QUÝ SỬU

II

Đổi từ biên trấn đến Trường Sơn

Tướng ấn trao tay lửa ngút ngàn

Hóa loạn thành an thơm chiến sử

Chuyển thua thành thắng nổi Sư Đoàn

Tín Nam một cõi yên dân nghiệp

Bình Định bao phen diệt bạo tàn

Trăng đẹp sao nhiều trời biển lặng

Kiếm vàng mấy thuở trấn giang sơn

1-9-1973

TÂN XUÂN, MIỀN TÂY HOÀI CẢM

Lại thấy mùa Xuân giữa chiến trường

Anh hùng kiếm trấn giữ biên cương

Hai sông cuồn cuộn ngăn cuồng khấu

Bảy núi uy nghi chống bạo cường

Giết giặc giữ nhà nêu nghĩa khí

Trừ gian diệt bạo dựng yêu thương

Nước, dân muôn thuở tình dân tộc

Danh tướng Miền Tây, chí bốn phương

1973